Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
<br />
<br />
PGS.TS. Nguyễn công lý<br />
<br />
người mở hướng nghiên cứu<br />
về văn học phật giáo việt nam<br />
_________<br />
<br />
Suốt 35 năm lao động thầm<br />
lặng, không mệt mỏi trong công tác<br />
giảng dạy và nghiên cứu khoa học,<br />
PGS.TS. Nguyễn Công Lý đã vượt qua<br />
những khó khăn, vất vả của những<br />
năm tháng chiến tranh thời chống Mỹ<br />
và những khó khăn trong sự nghiệp<br />
giáo dục thời bao cấp sau ngày đất<br />
PGS.TS. nước thống nhất. Dẫu biết con đường<br />
Nguyễn Công Lý đi đến thành công bao giờ cũng gập<br />
ghềnh, chông gai và đầy thử thách<br />
nhưng ông đã khắc phục, để cuối cùng đạt được một vài những<br />
thành tựu nho nhỏ trong nghiên cứu khoa học, nhận được bốn<br />
giải thưởng về Văn học Nghệ thuật và Khoa học Công nghệ.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
258<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
Hiện tại PGS.TS. Nguyễn Công Lý đang giảng dạy tại<br />
khoa Văn học và Ngôn ngữ, đồng thời giảng dạy một số môn<br />
thuộc chuyên ngành Tôn giáo học của khoa Triết học, khoa<br />
Văn hoá học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn –<br />
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, kiêm Phó Giám<br />
đốc Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo của trường. Ông còn được<br />
mời thỉnh giảng tại vài trường Đại học khác ở thành phố và ở<br />
khu vực phía Nam. Nhiều năm nay, ông còn tham gia giảng<br />
dạy tại Học viện Phật giáo Việt Nam và là Cố vấn Trung tâm<br />
Nghiên cứu Văn học Phật giáo Việt Nam thuộc Viện Nghiên<br />
cứu Phật học Việt Nam.<br />
Nói ông là người mở hướng nghiên cứu về Văn học Phật<br />
giáo Việt Nam là bởi nhìn vào danh mục những công trình<br />
nghiên cứu trong lý lịch khoa học của ông với những chuyên<br />
khảo in thành sách và những tiểu luận đăng trên các tạp chí,<br />
chúng tôi thấy ông đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu,<br />
giảng dạy và viết nhiều về Văn học Phật giáo Việt Nam. Đặc<br />
biệt, năm 1980, lúc còn bao cấp, thời điểm đất nước chưa có<br />
chủ trương đổi mới, khi còn là học viên Cao học chuyên ngành<br />
Văn học Cổ Việt Nam tại khoa Ngữ văn trường Đại học Sư<br />
phạm Hà Nội I, ông đã tiến hành nghiên cứu về Văn học Thiền<br />
tông thời Lý - Trần, và đã bảo vệ thành công Luận văn trước<br />
Hội đồng khoa học với kết quả xuất sắc vào tháng 11 năm 1982.<br />
Đây là thời điểm mà giới nghiên cứu ở nước ta (trên đất Bắc)<br />
còn rất ít quan tâm, có khi còn bỡ ngỡ hoặc xa lạ đối với Văn<br />
học Phật giáo, và bấy giờ thành tựu nghiên cứu về bộ phận văn<br />
học này có thể nói chưa có là bao và cũng không có gì đáng kể.<br />
<br />
259<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
<br />
<br />
Con đường sự nghiệp nảy mầm từ trong chiến tranh<br />
PGS.TS. Nguyễn Công Lý sinh ngày 19/12/1954 tại làng<br />
Thạnh Mỹ, xã Ninh Quang, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa,<br />
một vùng quê thuần nông tương đối trù phú, có truyền thống<br />
hiếu học ở cực Nam Trung bộ.<br />
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình làm nông nên tuổi<br />
thơ của Nguyễn Công Lý gặp không ít vất vả, nhọc nhằn. Từ<br />
nhỏ cậu đã phải phụ giúp gia đình làm ruộng, trồng trọt. Nhìn<br />
lại tuổi thơ của cậu có thể thấy đây là động lực để thúc đẩy cậu<br />
cố gắng trong học tập, vươn lên trong cuộc sống nhằm thoát<br />
khỏi cảnh khó khăn, khổ cực. Trong hoàn cảnh miền Nam bị<br />
tạm chiếm, vùng quê cậu sống lại là vùng xôi đậu – cài răng<br />
lược, bom đạn chiến tranh thường xảy ra, gia đình cậu lại là<br />
cơ sở nuôi dưỡng cán bộ cách mạng nằm vùng, nên đã gặp<br />
không ít hiểm nguy, phiền phức bởi chính quyền Mỹ Nguỵ lúc<br />
bấy giờ. Nhưng cậu đã không ngừng phấn đấu, theo đuổi việc<br />
học suốt những năm tháng dài ở nhà trường phổ thông từ Tiểu<br />
học đến Trung học đệ nhất cấp rồi Trung học đệ nhị cấp tại<br />
quê nhà, để nhận được cái bằng tốt nghiệp Tú tài phổ thông.<br />
Chúng tôi được biết kết quả học tập hàng năm ở nhà trường<br />
phổ thông các cấp, cậu thường đứng đầu lớp. Cậu học đều tất<br />
cả các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và ngoại ngữ,<br />
nhưng đặc biệt yêu thích Triết học và Văn học. Những năm<br />
cuối bậc Trung học đệ nhị cấp, cậu đã có vài bài nghiên cứu về<br />
triết học, về văn học được chọn đăng trên Tập san Văn nghệ<br />
của nhà trường.<br />
<br />
260<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
HT.TS. Thích Trí Quảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo<br />
Việt Nam trao Bằng tuyên dương Công đức của Giáo hội cho PGS.TS.<br />
Nguyễn Công Lý<br />
<br />
<br />
Đại thắng mùa Xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải<br />
phóng, đất nước thống nhất, cậu về quê tham gia công tác tại<br />
Uỷ ban Nhân dân Cách mạng của xã nhà, phụ trách công tác ở<br />
Ban Văn hoá - Giáo dục, ban ngày làm việc, ban đêm theo dõi<br />
và trực tiếp giảng dạy các lớp Bình dân học vụ của xã. Đến cuối<br />
năm 1975, các trường Đại học ở miền Nam mở cửa hoạt động<br />
trở lại, cậu được hai trường đại học: Đại học Văn khoa (nay<br />
là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia<br />
Thành phố Hồ Chí Minh) và Đại học Sư phạm Sài Gòn (nay<br />
là Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh) gởi giấy báo<br />
nhập học. Cậu quyết định vào trường Đại học Sư phạm, chọn<br />
<br />
261<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
PGS.TS. Nguyễn Công Lý đang báo cáo tổng kết<br />
tại Hội thảo Phật giáo Nguyên thuỷ trong kỷ nguyên toàn cầu hoá<br />
<br />
<br />
ngành Ngữ văn với hy vọng sẽ trở thành giáo viên Ngữ văn<br />
trong tương lai. Cần lưu ý là cùng với Đại học Sư phạm Hà Nội,<br />
thì Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh là một trong<br />
hai ngôi trường Sư phạm có bề dày truyền thống lịch sử và lớn<br />
nhất ở nước ta, đã đào tạo nhiều thế hệ giáo viên có trình độ<br />
chuyên môn giỏi, có đạo đức nghề nghiệp tốt.<br />
Những năm học tập ở Thành phố Hồ Chí Minh sau ngày<br />
giải phóng là những năm đất nước gặp rất nhiều khó khăn<br />
về kinh tế. Với số tiền học bổng Nhà nước trợ cấp theo chế<br />
độ làm sao mà đủ để sinh hoạt, nhà lại nghèo, nên cậu sinh<br />
viên trẻ Nguyễn Công Lý vừa học, vừa tham gia vào đội bảo vệ<br />
trực đêm của nhà trường để có thêm phụ cấp, vừa làm gia sư<br />
<br />
262<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
(dạy kèm học sinh tại nhà) để kiếm thêm thu nhập. Tốt nghiệp<br />
Đại học Sư phạm với loại khá tốt, cậu sinh viên trẻ được Bộ<br />
Giáo dục bổ nhiệm làm giảng viên công tác tại khoa Văn - Sử -<br />
Chính trị trường Cao đẳng Sư phạm Buôn Ma Thuột vào tháng<br />
9 năm 1979 (lúc này cả nước ta chỉ có sáu trường Cao đẳng Sư<br />
phạm, và tất cả đều do Bộ Giáo dục trực tiếp quản lý). Từ đây,<br />
ông mới chính thức trở thành nhà giáo.<br />
<br />
<br />
<br />
Một hành trình vượt khó để đi đến thành công<br />
Giảng dạy và công tác tại trường Cao đẳng Sư phạm<br />
Buôn Ma Thuột được một niên khoá, đến tháng 7 năm 1980,<br />
ông được nhà trường cử đi thi Cao học tại Hà Nội, và may mắn<br />
được trúng tuyển. Tháng 10 năm đó, ông khăn gói ra Thủ đô<br />
theo học lớp Cao học Văn học Việt Nam, chuyên ngành Văn<br />
học Cổ tại khoa Ngữ văn tại trường Đại học Sư phạm I Hà<br />
Nội. Sau hơn 2 năm theo học tại ngôi trường lớn nhất nước,<br />
có truyền thống lịch sử lâu đời này, tháng 11 năm 1982, bảo vệ<br />
Luận văn Cao học (nay là Thạc sĩ) xong, ông trở lại ngôi trường<br />
cũ ở Tây Nguyên tiếp tục giảng dạy, công tác. Nhờ năng nổ,<br />
nhiệt tình trong các hoạt động công tác, ông được đồng nghiệp<br />
tín nhiệm bầu vào Ban Chấp hành với nhiệm vụ Phó Bí thư<br />
Đoàn khoa; được nhà trường cử làm Phó ban Văn học. Đây có<br />
lẽ là bước đầu để ông có thể cống hiến sức trẻ trong phong trào<br />
Đoàn, trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.<br />
Sau 7 năm công tác tại Tây Nguyên, năm 1986, vì hoàn<br />
cảnh gia đình, ông xin về công tác tại quê nhà: Trường Cao<br />
<br />
263<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
đẳng Sư phạm Nha Trang, phụ trách bộ phận Dạy và Học -<br />
Nghiệp vụ Sư phạm tại Phòng Đào tạo - Nghiên cứu khoa học<br />
- Quản lý sinh viên của trường. Lúc tách tỉnh Phú Khánh thành<br />
hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà như cũ (1989), ông được cử<br />
phụ trách phòng ĐT - NCKH - QLSV. Bốn năm sau, ông xin<br />
về khoa Xã hội trực tiếp giảng dạy. Những năm tháng về giảng<br />
dạy tại khoa, thật sự là giai đoạn đem lại nhiều thành tựu bước<br />
đầu trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ông.<br />
Trong suốt thời gian gắn bó với ngôi trường Sư phạm<br />
Nha Trang ông đã không ngừng học tập, nghiên cứu để viết rồi<br />
cho xuất bản vài giáo trình Cao đẳng Sư phạm như: Kỹ năng<br />
sử dụng tiếng Việt (1992, tái bản 1993); Tập làm văn (1997);<br />
Mở rộng vốn từ Hán Việt (giáo trình, 2002, tái bản 2004); vài<br />
chuyên khảo được xuất bản như: Bản sắc dân tộc trong văn học<br />
Thiền tông thời Lý - Trần (1997); Lược khảo và tra cứu về Học<br />
chế và Quan chế ở Việt Nam từ 1945 trở về trước (1997). Tại nơi<br />
đây, ông viết bài cho Tạp chí Nha Trang, cơ quan ngôn luận của<br />
Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Khánh Hoà và ông đã trở thành<br />
Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật của tỉnh.<br />
Với tinh thần ham học hỏi, cầu tiến vươn lên, dù đã đủ<br />
chuẩn yêu cầu để giảng dạy hệ Đại học và Cao đẳng, nhưng<br />
ông vẫn khắc phục hoàn cảnh khó khăn để tiếp tục học tập<br />
nâng cao trình độ. Đầu tháng 6 năm 1994, ông trở lại trường<br />
Đại học Sư phạm Hà Nội thi vào lớp Nghiên cứu sinh chuyên<br />
ngành Văn học Việt Nam với đề tài Luận án nghiên cứu về<br />
Văn học Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần. Và may mắn được<br />
trúng tuyển. Từ đó, ông vừa phải hoàn thành nhiệm vụ giảng<br />
<br />
264<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
PGS.TS. Nguyễn Công Lý đang Chủ toạ một Tiểu ban<br />
trong Hội thảo khoa học<br />
dạy chuyên môn và công tác Công đoàn tại trường Cao đẳng<br />
Sư phạm Nha Trang, vừa phải nghiên cứu để hoàn thành các<br />
chuyên đề và Luận án Tiến sĩ. Năm 1998, Luận án hoàn thành,<br />
được Giáo sư hướng dẫn phê duyệt, ông được bảo vệ Luận án<br />
cấp bộ môn (1998), cấp cơ sở (1999), rồi cấp Nhà nước. Tất cả<br />
những lần bảo vệ đều được Hội đồng chấm Luận án các cấp<br />
đánh giá cao, đạt điểm tối đa, xếp loại xuất sắc, được nhận văn<br />
bằng năm 2000. Vài năm sau, ông biên tập lại Luận án, xuất<br />
bản thành chuyên khảo mang tên Văn học Phật giáo thời Lý<br />
– Trần: diện mạo và đặc điểm (2002, tái bản 2004), sau đó dự<br />
thi theo tiêu chuẩn là Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật, công<br />
trình này may mắn đã nhận được 2 giải thưởng cao về Văn<br />
học Nghệ thuật của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Khánh Hoà và của<br />
<br />
265<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt<br />
Nam năm 2003. Cũng tại quê hương Khánh Hoà, ông cùng<br />
với vài nhà nghiên cứu khác trong Hội Văn học Nghệ thuật<br />
của tỉnh thực hiện công trình biên khảo Khánh Hoà: diện mạo<br />
văn hoá một vùng đất (2001). Công trình này được nhận giải<br />
thưởng của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam năm 2001. Điều<br />
này cho thấy ông - một người con của vùng đất Khánh Hòa - là<br />
một người chịu khó, ham học hỏi, đúng với truyền thống hiếu<br />
học của quê hương, đất nước.<br />
Trong 17 năm công tác tại trường CĐSP Nha Trang ở<br />
quê nhà, ngoài công việc giảng dạy, ông còn tham gia một vài<br />
công tác khác của nhà trường, của đoàn thể với các nhiệm vụ<br />
như: phụ trách Phòng ĐT- NCKH - QLSV, Thư ký Hội đồng<br />
Khoa học trường (1988-1991); Trưởng tiểu ban KHXH&NV<br />
của Hội đồng khoa học trường (1991-2004); Chủ tịch Công<br />
đoàn Khoa Xã hội (1991-2004).<br />
Nhìn lại quãng thời gian gắn bó với trường CĐSP Nha<br />
Trang, giúp ta hiểu hơn về con người ông. Một người thầy giáo<br />
tận tụy, tận tâm, vượt qua những khó khăn của cuộc sống để<br />
giảng dạy, học tập và thực hiện các công trình nghiên cứu khoa<br />
học, với những cống hiến thầm lặng vì sự nghiệp giáo dục của<br />
quê hương, đất nước.<br />
Tháng 4 năm 2004, do nhu cầu công tác, ông được<br />
chuyển về giảng dạy tại khoa Văn học và Ngôn ngữ, trường<br />
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia<br />
Thành phố Hồ Chí Minh. Được công tác và giảng dạy tại một<br />
trong hai ngôi trường lớn nhất nước, là trung tâm đào tạo và<br />
<br />
266<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
nghiên cứu các ngành khoa học Xã hội và Nhân văn lớn nhất<br />
ở phía Nam, ông chẳng khác nào như con sóng đã tìm được<br />
đại dương mênh mông, như con chim đã tìm về bầu trời cao<br />
rộng để bay lượn. Chính môi trường mới này đã chắp cánh cho<br />
ông thực hiện những đam mê trong nghiên cứu khoa học. Tại<br />
đây, nhiều công trình khoa học được xuất bản, nhiều tiểu luận<br />
nghiên cứu được đăng trên các tạp chí lớn nhỏ. Và cũng chính<br />
tại ngôi trường nổi tiếng này, ông mới có dịp trình bày những<br />
nghiên cứu chuyên sâu tâm đắc của mình về văn học trung đại<br />
Việt Nam, Văn học Phật giáo Việt Nam, Văn hoá Phật giáo, tư<br />
tưởng Phật học nói chung, Phật học Việt Nam nói riêng, cho<br />
các thế hệ sinh viên Đại học, học viên Cao học và Nghiên cứu<br />
sinh.<br />
Thời gian này, ông đã cho xuất bản một số công trình<br />
nghiên cứu của riêng ông hoặc là đồng tác giả như: Văn nghệ<br />
Dân gian Khánh Hòa: Tác giả - Tác phẩm (đồng tác giả, 2006);<br />
Văn học - Phật giáo với 1000 năm Thăng Long (đồng tác giả,<br />
2010); Giải thích từ ngữ Hán Việt trong sách Ngữ văn Trung học<br />
cơ sở, tập 1, tập 2 (2011); Nguyễn Đình Chú tuyển tập (tuyển<br />
chọn, biên tập, giới thiệu, 2012); Tuyển tập thơ Giang Nam<br />
(tuyển chọn, biên tập, giới thiệu, 2013); Nhìn lại Thơ Mới và<br />
văn xuôi Tự Lực văn đoàn (đồng tác giả, 2013); Nhìn lại phong<br />
trào Phật giáo Miền Nam 1963 (chủ biên, đồng tác giả, 2013);<br />
Văn học Việt Nam và Nhật Bản trong bối cảnh Đông Á (đồng<br />
tác giả, 2013); Phật giáo Nguyên thủy: hội nhập và phát triển<br />
(biên tập và tổ chức bản thảo, đồng tác giả, 2014); Chủ nghĩa<br />
Hậu hiện đại và phong trào tôn giáo mới ở Việt Nam và thế giới<br />
<br />
267<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
(biên tập và tổ chức bản thảo, đồng tác giả, 2014); Nguyễn Du:<br />
tiếp cận từ góc độ văn hoá (đồng tác giả, 2014) v.v.. Và đặc biệt<br />
năm 2011 ông được nhận giải thưởng Khoa học Công nghệ<br />
của Đại học Quốc gia TP. HCM với công trình Giáo dục - Khoa<br />
cử và Quan chế ở Việt Nam thời phong kiến, thời Pháp thuộc.<br />
Bên cạnh, ông còn là chủ nhiệm các đề tài nghiên cứu<br />
khoa học các cấp: cấp Trường (2 đề tài), cấp Đại học Quốc gia<br />
(3 đề tài) và tham gia thực hiện các đề tài do đồng nghiệp làm<br />
chủ nhiệm: cấp Bộ (2 đề tài), cấp tỉnh (2 đề tài), đề tài trọng<br />
điểm cấp Đại học Quốc gia (4 đề tài).<br />
Song song với công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa<br />
học, một trong vài nhiệm vụ mà người thầy giáo ở trường Đại<br />
học còn phải đảm nhiệm, đó là hướng dẫn sinh viên thực hiện<br />
các đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có nhiều đề tài do<br />
ông hướng dẫn được nhận giải thưởng khoa học cấp Trường và<br />
một đề tài được giải thưởng khoa học cấp Bộ, đồng thời hướng<br />
dẫn sinh viên, học viên Cao học, Nghiên cứu sinh thực hiện<br />
Khoá luận tốt nghiệp, Luận văn, Luận án. Tính đến nay, chỉ<br />
tính riêng tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn<br />
– ĐHQG TP. HCM, ông đã hướng dẫn thành công 12 Khoá<br />
luận; 29 Luận văn Cao học thuộc ba chuyên ngành: Văn học<br />
Việt Nam, Ngôn ngữ học, Văn hoá học; và 05 Luận án Tiến sĩ,<br />
trong đó đã có 02 Luận án bảo vệ thành công trước Hội đồng<br />
chấm Luận án cấp Nhà nước. Trong những Khoá luận, Luận<br />
văn, Luận án đã được ông hướng dẫn và bảo vệ thành công đó,<br />
có đến 15 đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực Văn học Phật giáo.<br />
<br />
<br />
268<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
Kết quả của một quá trình<br />
Nhìn lại 35 năm miệt mài cống hiến vì sự nghiệp giảng<br />
dạy và nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Công Lý, chúng ta có<br />
dịp thấy rõ hơn về một tấm gương vượt khó, vượt khổ để đi<br />
đến thành công như hôm nay. Tính đến tháng 4/2014, ông đã<br />
là tác giả và chủ biên của 17 đầu sách; đồng tác giả (in chung)<br />
của 22 đầu sách; và đã công bố 135 bài nghiên cứu trên các Tạp<br />
chí của các Viện nghiên cứu, các trường Đại học, các Hội Văn<br />
học Nghệ thuật và in trong Kỷ yếu các Hội thảo khoa học trong<br />
nước; Hội thảo khoa học Quốc tế.<br />
Tất cả những thành quả nêu trên cho thấy ông là một<br />
người không quản ngại gian khó, tham gia đóng góp sức lực<br />
nhỏ bé của mình vào công tác giảng dạy, nghiên cứu, quản lý.<br />
Bên cạnh đó, với cái tâm trong sáng và sự nhiệt tình, cần mẫn<br />
của người thầy giáo đã giúp ông gặt hái được nhiều thành công,<br />
ít nhiều có đóng góp cho sự nghiệp trồng người và nghiên cứu<br />
khoa học của nước nhà.<br />
Năm nay ông bước sang tuổi lục thập, cái tuổi đang tràn<br />
đầy sinh lực và đủ độ chín đối với những người nghiên cứu<br />
thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Để có được những<br />
thành tựu như trên, chắc là ông đã phải vượt qua bao biết bao<br />
nhọc nhằn, gian khó của cuộc sống, để rồi ông đúc kết cho<br />
mình kinh nghiệm làm việc: “Chịu khó đọc sách để tích lũy và<br />
nghiền ngẫm, kiên trì và âm thầm làm việc, cứ viết và viết, tìm<br />
cách công bố sản phẩm, đến lúc nào đó nhìn lại sẽ thấy dày dặn<br />
và nghĩ mình cũng không đến nỗi nào”. Ông còn nói thêm: “Ở<br />
trường đại học, giảng dạy phải biết gắn liền với nghiên cứu khoa<br />
<br />
269<br />
Tấm gương người làm khoa học<br />
<br />
học. Hai nhiệm vụ này không thể tách rời nhau. Người thầy giáo<br />
dạy đại học muốn dạy tốt trước hết phải nghiên cứu khoa học<br />
tốt”.<br />
Như dân gian đã nói “kiến tha lâu thì đầy tổ”. Quả đúng<br />
như vậy. Có lẽ xuất phát từ suy nghĩ trên mà danh mục các<br />
công trình của ông có thể nói là ngày càng dày dặn. Con đường<br />
dẫn đến thành công của ông là vậy. Cố gắng học tập, kiên trì,<br />
bền bỉ vượt qua những khó khăn để rồi nhận ra những đúng<br />
sai, thiếu sót của bản thân và tích lũy kinh nghiệm để đi đến<br />
thành công. Có thể thấy đây là một bài học kinh nghiệm quý<br />
báu cho học viên, sinh viên trong quá trình học tập, làm việc,<br />
nghiên cứu khoa học.<br />
“Con ong được ca tụng vì nó làm việc không phải cho chính<br />
mình mà cho tất cả”. Cũng giống như PGS.TS. Nguyễn Công Lý,<br />
ông là người thầm lặng cống hiến hết mình cho sự nghiệp giảng<br />
dạy và nghiên cứu về Văn học Việt Nam và Văn học Phật giáo Việt<br />
Nam. Với sự cẩn trọng, nghiêm khắc và đam mê trong nghiên<br />
cứu, ông đã đạt được nhiều thành tựu như trên, ít nhiều có đóng<br />
góp cho sự nghiệp trồng người và nghiên cứu khoa học.<br />
Và chắc chắn ông không dừng lại ở những công trình vừa<br />
nêu, mà ông sẽ còn tiếp tục miệt mài nghiên cứu, viết lách để làm<br />
dày thêm danh mục những công trình khoa học của riêng mình.<br />
Chúng tôi cầu mong ông luôn luôn vui khoẻ để cống hiến<br />
cho sự nghiệp giáo dục và có thêm nhiều thành tựu khoa học mới.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
270<br />