intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

14
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay" đưa ra một số định hướng giáo dục cả về nhận thức, nội dung, phương pháp, điều kiện để nâng cao đạo đức sinh thái cho sinh viên góp phần xây dựng, phát triển con người Việt Nam mới, toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

  1. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC SINH THÁI CHO SINH VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Lê Thị Hồng Thuận Tóm tắt: Phát triển bền vững đã và đang trở thành mục tiêu, nguyên tắc chủ đạo của đời sống xã hội cho mọi quốc gia trong đó có Việt Nam. Để có thể phát triển bền vững, con người cần phải quan tâm đến sự bền vững cả về mặt sinh thái lẫn về mặt xã hội. Đối với sinh viên Việt Nam - chủ thể của quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong tương lai gần, đạo đức sinh thái càng cần được chú trọng, là yêu cầu phẩm chất không thể thiếu trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Bài viết đưa ra một số định hướng giáo dục cả về nhận thức, nội dung, phương pháp, điều kiện để nâng cao đạo đức sinh thái cho sinh viên góp phần xây dựng, phát triển con người Việt Nam mới, toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Từ khóa: Giáo dục đạo đức sinh thái, phát triển bền vững, sinh viên Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Phát triển bền vững là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Đã đến lúc con người cần phải thay đổi quan niệm trong ứng xử với tự nhiên, từ khai thác theo kiểu thống trị tự nhiên sang khai thác vì mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo sự phát triển hài hòa của con người, xã hội và giới tự nhiên. Ở Việt Nam, vấn đề này đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX củaĐảng cộng sản Việt Nam đã nêu lên thành một quan điểm hàng đầu là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”1. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) và Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016) thì phát triển bền vững đã trở thành một trong những mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước 2011 - 2020. Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng to lớn trên cơ sở hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Có thể nói, phát triển bền vững dưới quan điểm sinh thái học đó là sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cần phải hướng vào việc khai thác có hiệu quả đối với môi trường tự nhiên, trong khi vẫn tránh được sự hủy hoại và tăng khả năng tái tạo lâu dài của giới tự nhiên. Ở Việt Nam hiện nay, đạo đức sinh thái của sinh viên chưa được chú trọng giáo dục một cách độc lập trong các trường cao đẳng và đại học, mà chủ yếu thông qua các kiến thức về môi trường và bảo vệ môi trường lồng ghép trong các môn học khác nhau, nhằm hình thành ở sinh viên nhận thức, thái độ và hành vi có tính chuẩn mực đối với môi trường. Giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên là một trong những nội dung cơ bản của mục tiêu phát triển kinh tế và nâng cao dân trí. Xét đến cùng, sự phát triển kinh tế phải đi đôi với việc sử dụng  ThS. Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.89. 253
  2. Trường Đại học Mỏ - Địa chất hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống và coi đó là một trong những mục tiêu căn bản, quan trọng như mục tiêu tăng trưởng kinh tế. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái niệm đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức sinh thái Trước tiên, cần phải khẳng định rằng, đạo đức sinh thái là một dạng thức đặc biệt của đạo đức xã hội, là thứ đạo đức được thể hiện trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên (với môi trường sống chung quanh). Là một dạng đặc biệt của đạo đức xã hội, đạo đức sinh thái bao gồm những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, tình cảm, những nguyên tắc, chuẩn mực quy định, điều chỉnh hành vi của con người trong quá trình biến đổi và cải tạo tự nhiên nhằm phục vụ cho sự sống của con người, cho sự tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội trong những điều kiện tự nhiên - xã hội nhất định. Trong đời sống xã hội, hoạt động giáo dục là một hoạt động quan trọng. Giáo dục là “Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”1. Về bản chất, giáo dục là một quá trình hình thành nhận thức, tình cảm thái độ đúng đắn, hình thành những thói quen, hành vi văn minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội ở đối tượng giáo dục. Giáo dục đạo đức sinh thái là một nội dung trong hoạt động giáo dục đạo đức nói chung. Giáo dục đạo đức sinh thái là một hoạt động có mục đích, trong đó chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục, nhằm hình thành ở họ ý thức, chuẩn mực đạo đức sinh thái, để từ đó họ có thái độ, hành vi đúng đắn trong ứng xử với tự nhiên. Thực chất, giáo dục đạo đức sinh thái là để điều chỉnh một cách tự giác hành vi của con người đối với tự nhiên; cung cấp cho đối tượng giáo dục những chuẩn mực, nguyên tắc trong ứng xử với môi trường tự nhiên, làm cho họ biết quan tâm đến lợi ích của tự nhiên, của cộng đồng xã hội. 2.2. Nội dung giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên Nội dung giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên rất phong phú, có liên quan đến cấu trúc đạo đức sinh thái. Khi phân tích cấu trúc của đạo đức sinh thái, người ta xem xét nó dưới nhiều góc độ. Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Vì vậy, trong khuôn khổ nghiên cứu, chúng tôi chỉ đề cập tới một số nội dung chủ yếu sau: Giáo dục ý thức đạo đức sinh thái Giáo dục ý thức đạo đức sinh thái là “sự nhận thức một cách tự giác của con người về mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên và các phương thức điều khiển một cách có ý thức các mối quan hệ đó nhằm tạo ra sự hài hòa thật sự giữa xã hội và tự nhiên, tạo những điều kiện phát triển lâu bền cho xã hội”2. Thứ nhất, giáo dục ý thức đạo đức sinh thái là giáo dục tri thức đạo đức sinh thái. Tri thức đạo đức sinh thái là sự hiểu biết về cái thiện, cái ác; cái đẹp, cái xấu; cái đúng, cái sai trong cách ứng xử của con người đối với tự nhiên. Giáo dục tri thức đạo đức sinh thái nhằm giúp sinh viên hiểu biết về các yếu tố của môi trường tự nhiên, mối quan hệ giữa các yếu tố đó với nhau và với con người, xã hội. Sinh viên cần phải ý thức đúng đắn được vị trí, vai trò của mình trong mối quan hệ với tự nhiên. Cần 1 Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng - Hà Nội, tr.394. 2 Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái: Vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.121. 254
  3. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững phải thay đổi thái độ của mình với giới tự nhiên, nêu cao trách nhiệm đạo đức của mình trong việc bảo vệ giới tự nhiên, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, kết hợp sử dụng cùng với xây dựng, bảo vệ, tái tạo và tôn trọng giới tự nhiên. Thứ hai, giáo dục đạo đức sinh thái là giáo dục tình cảm đạo đức sinh thái. Đây là một trong những những nội dung quan trọng của giáo dục đạo đức sinh thái. Tình cảm đạo đức sinh thái là thái độ rung cảm của sinh viên đối với hành vi của chính bản thân mình và hành vi của người khác trong mối quan hệ đối với tự nhiên, thể hiện sự cảm nhận, rung động của họ trước vẻ đẹp, trước giá trị của tự nhiên. Đứng trước tự nhiên, sinh viên hướng đến việc quan tâm bảo vệ tự nhiên, hay thờ ơ, lạnh nhạt trước tự nhiên điều này phụ thuộc rất lớn vào thái độ, hành động của từng cá nhân sinh viên, nói cách khác, nó phụ thuộc vào nếp sống văn hóa sinh thái của sinh viên. Vì vậy, tình cảm đạo đức sinh thái không chỉ là trạng thái cảm nhận của sinh viên trước tự nhiên, mà còn là năng lực của ý thức, của lý trí trong khai thác, sử dụng, bảo vệ giới tự nhiên vì cuộc sống của con người. Thứ ba, giáo dục niềm tin đạo đức sinh thái cho sinh viên. Niềm tin đạo đức sinh thái là một trong những yếu tố quyết định hành vi đạo đức sinh thái của sinh viên, là cơ sở để bộc lộ những phẩm chất đạo đức sinh thái như: hành động kiên quyết đấu tranh chống lại những thói hư, tật xấu trong quan hệ ứng xử với tự nhiên của họ, của người khác. Sinh viên có niềm tin yêu đúng đắn đối với tự nhiên, khi và chỉ khi nào họ đã ý thức được vai trò quan trọng của môi trường sinh thái đối với cuộc sống của mình, đồng thời họ có tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên. “Niềm tin và tri thức chỉ coi là có thật khi nó đã đi vào trong con người, đã hòa lẫn với tình cảm và ý chí của con người”1. Bởi vậy, giáo dục niềm tin đạo đức sinh thái cho sinh viên là góp phần tạo nên động lực học tập, nghiên cứu, phát minh ra những công nghệ sạch áp dụng vào khai thác và bảo vệ môi trường tự nhiên. Thứ tư, giáo dục ý chí đạo đức sinh thái. Tình cảm đạo đức sinh thái và ý chí đạo đức sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu ý chí đạo đức sinh thái đúng sẽ soi đường cho tình cảm đạo đức sinh thái đúng, tình cảm đạo đức sinh thái sâu đậm là biểu hiện ý chí đạo đức sinh thái sắc bén. Khi có ý chí đạo đức sinh thái, sinh viên sẽ quyết tâm không thực hiện những hành vi làm tổn hại đến môi trường tự nhiên, đồng thời sẽ kiên quyết đấu tranh để ngăn chặn những hoạt động khai thác rừng, khoáng sản, đất đai, động, thực vật gây khủng hoảng và ô nhiễm môi trường. Giáo dục chuẩn mực đạo đức sinh thái Chuẩn mực đạo đức sinh thái là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức sinh thái phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, tạo nên những tính cách tốt đẹp của con người và nhân loại. Vì vậy, nó đã được con người đánh giá, thừa nhận và khái quát thành những khuôn mẫu để con người căn cứ vào đó tự xem xét, tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi của mình nhằm đáp ứng yêu cầu chung của đạo đức sinh thái xã hội. Cũng như chuẩn mực đạo đức nói chung, chuẩn mực đạo đức sinh thái có những hình thức biểu hiện và cấp độ biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Có thể rút ra một số chuẩn mực đạo đức sinh thái cơ bản đối với sinh viên như sau: 1 Lê Văn Hồng, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2007), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm (Dùng cho các trường Đại học Sư phạm và Cao đẳng Sư phạm), Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, tr.149. 255
  4. Trường Đại học Mỏ - Địa chất Thứ nhất, tiết kiệm trong tiêu dùng, tự nguyện, tự giác tuân thủ các yêu cầu về bảo vệ môi trường trong các hoạt động tiêu dùng. Đây là một chuẩn mực đạo đức sinh thái quan trọng. Bởi lẽ, quan hệ giữa sinh viên với môi trường được biểu hiện rõ nét thông qua cách thức tiêu dùng, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên của họ. Thông qua giáo dục đạo đức sinh thái giúp sinh viên hiểu được rằng, các tài nguyên thiên nhiên trên trái đất không phải là vô hạn, mỗi sinh viên cần tuân theo các phương thức bảo vệ tự nhiên, thông qua chính thói quen tiêu dùng để thực hiện việc bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo khả năng tái tạo và tự phục hồi của môi trường tự nhiên. Thứ hai, tôn trọng, bảo vệ sự sống và tính đa dạng sinh học. Đây là một chuẩn mực đạo đức sinh thái cần thiết đối với sinh viên. Bởi lẽ, đa dạng sinh học có vai trò to lớn mà không gì có thể thay thế được đối với sự tồn tại, phát triển của sinh vật và con người. Đa dạng sinh học không những cung cấp trực tiếp các phúc lợi cho xã hội như lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, thuốc chữa bệnh mà còn có giá trị đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học, trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, y tế, du lịch… Thứ ba, thực hành nếp sống văn hóa sinh thái trong ứng xử với thiên nhiên. Đây là một chuẩn mực đạo đức sinh thái cơ bản đối với sinh viên. Nếp sống văn hóa sinh thái được hiểu là “tình yêu đối với thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, luôn tôn tạo và bảo vệ vẻ đẹp và sự trong sạch của thiên nhiên được thể hiện từ nhận thức, lối tư duy đến hành vi ứng xử của con người”1. Vì vậy, khi sinh viên thực hiện nếp sống văn hóa sinh thái, họ sẽ có thái độ tôn trọng và yêu quý thiên nhiên, tự nguyện, tự giác bảo vệ môi trường tự nhiên. Giáo dục giá trị đạo đức sinh thái Xét theo thời gian, giá trị đạo đức sinh thái có thể phân thành giá trị đạo đức sinh thái truyền thống và giá trị đạo đức sinh thái hiện đại. Mỗi dân tộc đều có giá trị đạo đức sinh thái truyền thống của mình do lịch sử để lại. Đạo đức sinh thái truyền thống Việt Nam được hình thành trên cơ sở những quan niệm, triết lý dân gian và chịu ảnh hưởng của những tư tưởng đạo đức Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Những giá trị đạo đức sinh thái truyền thống Việt Nam được biểu hiện cụ thể như sau: quan niệm “Thiên - Địa - Nhân hợp nhất”, quan niệm “Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên”, quan niệm “Nhân định thắng Thiên”… Những giá trị tốt đẹp trong đạo đức sinh thái truyền thống nói trên, đã góp phần tạo nên những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, cần phải kế thừa, phát triển những giá trị đạo đức truyền thống cho phù hợp với thực tiễn đất nước. Ngày nay, sống hài hòa với thiên nhiên phải tuân theo nguyên tắc phát triển bền vững - một nguyên tắc của lối sống hiện đại được toàn nhân loại quan tâm. Giáo dục hành vi đạo đức sinh thái Ý thức, chuẩn mực và giá trị đạo đức sinh thái phải được thể hiện bằng hành động (hành vi) cụ thể thì mới đem lại những lợi ích cho xã hội và ngăn ngừa được điều ác. Hành vi đạo đức sinh thái của con người được nảy sinh trên cơ sở của ý thức đạo đức. Hành vi đạo đức sinh thái của sinh viên được điều chỉnh, quy định bởi những chuẩn mực, quy tắc đạo đức sinh thái nhất định, thể hiện ở những hoạt động tự giác, tích cực của sinh viên về tiêu dùng, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái. 1 Lê Trần Bảo (2005), Văn hóa sinh thái - nhân văn (Giáo dục môi trường), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.166. 256
  5. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững Hành vi đạo đức sinh thái đòi hỏi chủ thể đạo đức phải tự giác, tự nguyện điều chỉnh hành vi của mình trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức sinh thái của xã hội. Khi xem xét một hành vi để xem đó có phải là hành vi đạo đức sinh thái hay không, điều quan trọng nhất là phải tính đến tính tự giác của chủ thể hành vi. Để đánh giá một hành vi đạo đức sinh thái, người ta thường căn cứ vào các tiêu chuẩn: tính tự giác, tính có ích, tính không vụ lợi của hành vi đạo đức sinh thái. Hành động tự giác của sinh viên chỉ diễn ra khi họ đã ý thức được đầy đủ mục đích, ý nghĩa hành vi đạo đức sinh thái của mình. Giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên theo bản chất nhân văn cần phải quan tâm tới việc thực hành đạo đức sinh thái trong hoạt động hàng ngày của sinh viên. Những hành vi, cử chỉ đạo đức sinh thái bao giờ cũng được bắt nguồn từ những tình cảm, cảm xúc trong sáng, không vì sự tính toán ích kỷ, vụ lợi, nhỏ nhen, tầm thường nào của cá nhân sinh viên. 2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên Việt Nam hiện nay Một là, tiếp tục xây dựng và bổ sung, hoàn thiện pháp luật về môi trường và bảo vệ môi trường sinh thái. Luật pháp là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành, thực hiện và nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội và phát triển bền vững đất nước. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng và bổ sung, hoàn thiện pháp luật về môi trường và bảo vệ môi trường. Để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường, việc giáo dục đạo đức sinh thái có một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, để thực hiện được điều đó cần tiếp tục xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, gắn giáo dục đạo đức sinh thái với giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường. Bởi lẽ, đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội để điều chỉnh hành vi của con người. Vì vậy, nếu giáo dục đạo đức tốt sẽ tạo tiền đề cho việc giáo dục pháp luật tốt. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được các văn bản pháp luật riêng nhằm bảo vệ các yếu tố môi trường cụ thể. Việc cụ thể hóa điều luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các cá nhân, đơn vị, doanh nghiệp khi gây ra những tổn thất cho môi trường và quy định trách nhiệm đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường… vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Hơn nữa, vấn đề trách nhiệm hình sự, dân sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường chưa được quy định cụ thể, đầy đủ trong các văn bản pháp luật hiện hành. Hai là, xây dựng nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên lồng ghép vào các môn học khác cho phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay. Về nội dung, chương trình giáo dục đạo đức sinh thái. Thực tế Việt Nam hiện nay, môn học đạo đức sinh thái trong các trường Cao đẳng và Đại học chưa có. Giáo dục đạo đức sinh thái được tích hợp vào các môn học khác. Tuy nhiên, để giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên thông qua các môn học đó có hiệu quả, cũng như đáp ứng chiến lược phát triển giáo dục một các có hệ thống, cần phải xây dựng được nội dung, chương trình giáo dục đạo đức sinh thái phù hợp cho sinh viên. Nội dung, chương trình giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên cần phải đáp ứng được một số yêu cầu sau: Thứ nhất, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên phù hợp với mục tiêu giáo dục, có tính khoa học và đảm bảo tính giáo dục toàn diện. Thứ hai, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục đạo đức sinh thái phải phù hợp với đối tượng giáo dục. Đây là một đòi hỏi quan trọng trong công tác giáo dục. Với mỗi một đối tượng giáo dục yêu cầu phải có một nội dung, chương trình giáo dục phù hợp. Thứ ba, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục đạo đức sinh thái phải có tính 257
  6. Trường Đại học Mỏ - Địa chất khả thi, gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, phải tạo được sự chuyển biến nhận thức, tư duy, tăng sự hiểu biết và thay đổi hành vi của người học. Về phương pháp giáo dục đạo đức sinh thái. Yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giáo dục là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của sinh viên, giúp cho sinh viên khả năng thích ứng cao với sự biến đổi của thực tiễn, từ đó hình thành động lực tự học của sinh viên, để họ tự hoàn thiện bản thân. Hiện nay, ở Việt Nam, đạo đức sinh thái chưa phải là một môn học riêng biệt, giáo dục đạo đức sinh thái được thực hiện thông qua các bộ môn khoa học khác. Vì vậy, giáo dục đạo đức sinh thái sử dụng nhiều phương pháp dạy học của các bộ môn. Do đó, ngoài các phương pháp chung như thuyết trình, thảo luận, trò chơi… giáo dục đạo đức sinh thái còn có thể sử dụng các phương pháp khác như: tham quan thực tế, phương pháp hoạt động thực tiễn, tiếp cận kỹ năng sống… Ba là, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên giảng dạy về đạo đức sinh thái từ các môn học khác nhau. Để giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên, cần tiến hành bồi dưỡng giảng viên của các môn học có lồng ghép nội dung giáo dục môi trường, bổ túc thêm cho họ kiến thức về đạo đức sinh thái. Tạo sự chuyển biến trong nhận thức của đội ngũ giảng viên về đạo đức sinh thái, về giáo dục giáo đức sinh thái cho sinh viên được xem là khâu quyết định đầu tiên. Việc đào tạo và bồi dưỡng cần chú trọng tập trung vào những nội dung cơ bản: “nâng cao tri thức, đổi mới phương pháp giảng dạy, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp và nâng cao trách nhiệm xã hội”1, cần coi trọng việc truyền thụ cho sinh viên cách tiếp cận những tri thức mới, phương pháp đề xuất và giải quyết những vấn đề thực tiễn, đồng thời truyền thụ cho sinh viên khát vọng sáng tạo và vươn lên trong học tập. Bốn là, đa dạng hóa hình thức giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên. Đạo đức sinh thái của sinh viên thể hiện thông qua nếp sống, hành động và phải dựa trên sự tự giác của từng sinh viên. Sự tự giác này được bắt đầu, không ngừng phát triển và củng cố qua các hình thức giáo dục đạo đức sinh thái, từ giáo dục ở gia đình đến giáo dục trong nhà trường và ngoài xã hội. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên cần phải chú ý tới một số hình thức giáo dục cơ bản sau: Thứ nhất, giáo dục đạo đức sinh thái thông qua các môn học khác nhau trong nhà trường. Qua các môn học như: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Mỹ học, Toán học, Vật lý, Hóa học, Văn học, Địa lý… giúp cho sinh viên nhận thức rõ được đặc điểm của môi trường tự nhiên, vai trò của nó đối với đời sống xã hội loài người, những tác động của con người làm cho môi trường tự nhiên biến đổi, hậu quả của nó. Thứ hai, giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên thông qua các hình thức nghiên cứu khoa học thực hiện các bài tập, tiểu luận, đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến các lĩnh vực môi trường. Thứ ba, giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên thông qua hoạt động ngoại khóa, tham quan. Hình thức hoạt động ngoại khóa có vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động tự giáo dục của sinh viên. Thứ tư, kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên; giáo dục đạo đức sinh thái thông qua các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên; giáo dục đạo đức sinh thái thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là hình thức có khả năng phổ biến sâu rộng, kịp thời thông tin về tình trạng môi trường, hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra. Năm là, phát huy vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của sinh viên trong học tập, nhằm nâng cao ý thức và hành vi đạo đức sinh thái. Để có sự chuyển hóa từ tri thức đạo đức sinh thái, tình cảm đạo đức sinh thái, ý chí đạo đức sinh thái thành hành vi đạo đức sinh thái, đòi hỏi phải thông qua 1 Đặng Thái Giáp (2000), “Đạo đức và pháp luật với an ninh trật tự trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Cộng sản, số 2/2000, tr.27. 258
  7. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững quá trình chủ động tự học của sinh viên. Để phát huy được tính chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo trong hoạt động tự giáo dục, rèn luyện đạo đức sinh thái của sinh viên, cần tập trung và một số vấn đề sau: Một là, nâng cao nhận thức về vai trò tất yếu của tự học, tự rèn luyện đạo đức sinh thái của sinh viên. Hai là, xây dựng kế hoạch học tập và nghiêm túc thực hiện kế hoạch tự học, tự rèn luyện đạo đức sinh thái. Ba là, gắn việc tự học, tự rèn luyện đạo đức sinh thái với việc thực hiện và giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. 3. KẾT LUẬN Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên được coi là một trong những biện pháp lâu dài, cơ bản vì mục tiêu phát triển bền vững. Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên cần thực hiện đồng bộ những giải pháp giáo dục đạo đức sinh thái, đòi hỏi sự phối hợp của tất cả các lực lượng giáo dục trong nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Trần Bảo (2005), Văn hóa sinh thái - nhân văn (Giáo dục môi trường), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Đặng Thái Giáp (2000), “Đạo đức và pháp luật với an ninh trật tự trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Cộng sản, số 2/2000. 4. Lê Văn Hồng, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2007), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm (Dùng cho các trường Đại học Sư phạm và Cao đẳng Sư phạm), Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội. 5. Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái: Vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng - Hà Nội. 259
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2