intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Bào chế đông dược (Ngành: Y sĩ y học cổ truyền - Trình độ: Trung cấp) - Trường Cao đẳng Y tế Thanh Hoá

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:54

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Bào chế đông dược (Ngành: Y sĩ y học cổ truyền - Trình độ: Trung cấp) được các giảng viên Bộ môn Phục hồi chức năng – Y học cổ truyền biên soạn dùng cho hệ Trung cấp y sĩ Y học cổ truyền dựa trên chương trình đào tạo của Trường ban hành năm 2021. Môn học giúp cho người học nắm được những kiến thức về cách bào chế các dạng thuốc phiến (rửa, thái, sao, tẩm), nêu được cách bào chế và công thức của các dạng thuốc: chè, bột, viên, hoàn, cao. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Bào chế đông dược (Ngành: Y sĩ y học cổ truyền - Trình độ: Trung cấp) - Trường Cao đẳng Y tế Thanh Hoá

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA TRUỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ GIÁO TRÌNH MÔN HỌC: BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC NGÀNH/NGHỀ: Y SĨ Y HỌC CỔ TRUYỀN TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP (Ban hành theo Quyết định số:549/QĐ-CĐYT, ngày 09 tháng 08 năm 2021 của Hiệu trưởng trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa) Thanh Hóa, 2021
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
  3. 1 LỜI GIỚI THIỆU Trường Cao đẳng Y tế Thanh Hoá có bề dày lịch sử đào tạo các thế hệ cán bộ Y - Dược, xây dựng và phát triển hơn 60 năm. Hiện nay, Nhà trường đã và đang đổi mới về nội dung, phương pháp và lượng giá học tập của học sinh, sinh viên nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Để có tài liệu giảng dạy thống nhất cho giảng viên và tài liệu học tập cho học sinh, sinh viên; Đảng uỷ - Ban Giám hiệu Nhà trường chủ trương biên soạn tập bài giảng của các chuyên ngành mà Nhà trường đã được cấp phép đào tạo. Tập bài giảng Bào chế đông dược được các giảng viên Bộ môn Phục hồi chức năng – Y học cổ truyền biên soạn dùng cho hệ Trung cấp y sĩ Y học cổ truyền dựa trên chương trình đào tạo của Trường ban hành năm 2021, Thông tư 03/2017/BLĐTBXH ngày 01 tháng 3 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Lao động thương binh xã hội. Môn học giúp cho người học nắm được những kiến thức về cách bào chế các dạng thuốc phiến (rửa, thái, sao, tẩm), nêu được cách bào chế và công thức của các dạng thuốc: chè, bột, viên, hoàn, cao. Môn học Bào chế đông dược giúp học viên sau khi ra trường có khả năng bào chế được các dạng thuốc: chè, bột, viên. Biết cách chế: Hà thủ ô, Thục địa, Hương phụ, Bán hạ. Tuy nhiên trong qua trình biên soạn tập bài giảng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tập thể biên soạn xin ghi nhận các ý kiến đóng góp xây dựng của các nhà quản lý, đồng nghiệp, độc giả và học sinh, những người sử dụng cuốn sách này để nghiên cứu bổ sung cho tập bài giảng ngày càng hoàn thiện hơn. Thanh Hóa, năm 2021
  4. 2 Tham gia biên soạn 1. Chủ biên ThS.BS MAI VĂN BẢY 2. Những người biên soạn Ths. BS TÔ ÁNH NGUYỆT ThS. Doãn Hồng Hà Vân BS. Lê An Giang
  5. 3 MỤC LỤC ĐẦU MỤC TRANG Lời Giới Thiệu .................................................................................................... 1 Mục Lục ............................................................................................................. 3 Giáo Trình Môn Học .......................................................................................... 4 Bài 1: Ðại Cương Về Bào Chế ...................................................................... 5 Bài 2: Các Phương Pháp Bào Chế Thuốc Đông Dược ............................... 12 Bài 3: Thuốc Phiến ........................................................................................ 22 Bài 4: Thuốc Thang ..................................................................................... 27 Bài 5: Thuốc Bột ............................................................................................ 32 Bài 6: Rượu Thuốc ........................................................................................ 36 Bài 7: Cao Thuốc (Cao Thực Vật) ................................................................. 39 Bài 8: Viên Hoàn .......................................................................................... 43 Bài 9: Thuốc Tễ ........................................................................................... 47 Tài Liệu Tham Khảo ........................................................................................ 52
  6. 4 GIÁO TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC Mã môn học: MH 21 I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA MÔN HỌC: - Vị trí: Môn học được bố trí sau khi học sinh đã học xong môn Lý luận cơ bản Y học cổ truyền và môn Đông dược thừa kế. - Tính chất: môn học chuyên ngành bắt buộc của học sinh Trung cấp Y học cổ truyền chính quy. II. MỤC TIÊU MÔN HỌC: - Về kiến thức: + Trình bày được những kiến thức cơ bản về cách bào chế các dạng thuốc phiến (rửa, thái, sao, tẩm); + Nêu được cách bào chế và công thức của các dạng thuốc: chè, bột, viên, hoàn, cao. - Kỹ năng: + Có khả năng bào chế được các dạng thuốc: chè, bột, viên. Biết cách chế: Hà thủ ô, Thục địa, Hương phụ, Bán hạ. - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Hình thành và rèn luyện tác phong nghiêm túc, thận trọng, chính xác, khoa học trong thực tập. + Có thái độ đúng trong việc điều trị một số bệnh, chứng thông thường bằng phương pháp Y học cổ truyền. III. NỘI DUNG MÔN HỌC:
  7. 5 BÀI 1: ÐẠI CƯƠNG VỀ BÀO CHẾ Giới thiệu Bào chế là dùng sức nóng, hoặc tác động cơ học, để thay đổi hình dạng, tính chất của dược liệu, nhằm phục vụ nhiều mục đích khác nhau: loại bỏ tạp chất, bảo quản thuốc, giảm bớt độc tính của thuốc, thay đổi tính năng dược vật của thuốc, … Mục tiêu - Nêu được định nghĩa, mục đích các phương pháp chế biến thuốc đông dược - Trình bày được các yêu cầu chế biến thuốc theo Y học cổ truyền. Nội dung 1. Ðịnh nghĩa: 1.1. Bào Là dùng sức nóng để thay đổi lý tính và dược tính của thuốc, tiện cho việc chế biến và điều trị. 1.2. Chế Là dùng công phu thay đổi hình dạng, tính chất của dược liệu. 2. Mục đích bào chế – Bỏ các tạp chất lộn trong dược liệu: mốc, sâu mọt. – Để dễ thái miếng, dễ bảo quản, dễ tán ra bột hoặc dễ nấu cao để chế thành thuốc. – Bỏ bớt vài bộ phận không cần thiết của dược liệu và làm cho vị đó tinh khiết thêm lên (Mạch môn bỏ lõi, Ngưu tất bỏ đầu). – Giảm bớt độc tính của dược liệu (Mã tiền, Bán hạ, Hoàng nàn…) – Thay đổi tính năng của vị thuốc bằng cách tẩm sao cho dễ tan vào nước, để dễ đồng hoá, dễ thấm hút (Quy, Hoàng bá, Bạch thược, tẩm rượu). 2.1. Làm thuốc tinh khiết Các tạp chất vô cơ và hữu cơ lẫn lộn trong dược liệu cần phải loại bỏ bao gồm: nấm mốc, mối mọt, cát, sỏi, đất, xác thực vật chết… Bỏ bớt các bộ phận không cần thiết của dược liệu để vị thuốc tinh khiết hơn, lựa chọn được đúng bộ phận dùng: Mạch môn bỏ lõi; Ve sầu bỏ đầu, chân; Ngưu tất bỏ đầu, Kim anh bỏ hạt, Bỏ vỏ tang bạch bì, bỏ rễ phụ tử…… 2.2. Tạo ra tác dụng trị bệnh mới Bào chế, chế biến một số vị thuốc có thể thay đổi tác dụng tạo ra các tác dụng mới ngoài tác dụng vốn có của nó. Ngoài ra còn một số thuốc khi ở dạng nguyên liệu thì không có tác dụng trị bệnh, chỉ có tác dụng trị bệnh và đưa làm thuốc sau khi đã bào chế theo phương pháp riêng. Đó chính là biện pháp làm tăng hoặc giảm tính âm, tính dương của thuốc.
  8. 6 Ví dụ: Táo nhân, Tâm sen để sống gây mất ngủ; sao đen có tác dụng an thần gây ngủ. Sinh địa (sống) vị đắng, ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lương huyết; sau khi chế biến thành Thục địa. Thục địa này có vị ngọt, tính ôn, có tác dụng bổ âm, bổ huyết (thay đổi cả khí và vị). 2.3. Tăng hiệu lực trị bệnh Đây là mục đích trọng tâm của bào chế. Theo lý luận chung, các chứng bệnh sinh ra đều xuất phát từ yếu tố nội thương hoặc ngoại thương hoặc bất nội ngoại thương có liên quan đến các tạng phủ, vinh vệ, khí huyết, đường kinh lạc, vùng bị bệnh….. không vượt quá qui nạp của âm dương ngũ hành. Nhiều phương pháp chế biến thuốc khác nhau, phụ liệu khác nhau để tăng tác dụng (hiệu lực) của thuốc và tạo cho thuốc có màu sắc, mùi vị tương ứng với hành trong thuyết ngũ hành. Đây là giải pháp nhằm tăng tính quy kinh của vị thuốc. Tăng tác dụng của thuốc ở tỳ, vị thì chế biến để vị thuốc có màu vàng, vị ngọt, mùi thơm. Để tăng tác dụng kiện tỳ: Chế biến thuốc sao vàng, sao với Cám gạo, sao với Hoàng thổ, Bích thổ, nước vo gạo, chích Mật ong, chích đường, chích nước Cam thảo…Ví như tăng tác dụng kiện tỳ của Bạch truật thì chế với cám, hoàng thổ hoặc sao vàng. Hoài sơn sao vàng; Hoàng kỳ trích mật…. Tăng tác dụng của thuốc ở thận, bàng quang thì chế biến để vị thuốc có màu đen, vị mặn. Qui kinh Thận: Chế biến thuốc với nước Muối, nước Đậu đen. Ví dụ : Tăng tác dụng bổ thận của Hà thủ ô thì chế biến với nước đậu đen, Đỗ trọng và Cẩu tích với muối.; Thục địa chưng; Hoa hoè thán và Trắc bách diệp thán sao để cầm máu với ý nghĩa “đen chỉ huyết”…. Tăng tác dụng của thuốc ở phế thì chế để vị thuốc có vị cay, màu trắng. Qui kinh Phế: Chế biến thuốc với nước Gừng, nước Phèn chua, nước Cam thảo… Ví dụ: Bán hạ, đẳng sâm chế dịch nước gừng. Rễ dâu bóc lấy vỏ, bỏ vỏ ngoài tạo Tang bạch bì… Tăng tác dụng của thuốc ở tâm thì chế biến để vị thuôc có vị đắng, màu đỏ. Qui kinh Tâm: Chế biến thuốc với nước Đồng tiện. Tăng tác dụng của thuốc ở can, đởm thì chế biến để vị thuốc có vị chua, màu xanh. Qui kinh Can: Chế biến thuốc với Dấm. Ví dụ Hương phụ, Sài hồ, Huyền hồ chế dấm…. Trên đây chính là phương pháp tăng tính qui kinh của vị thuốc, làm cho tác dụng và chỉ định chữa bệnh của vị thuốc được mở rộng. Để dẫn thuốc phía trên để thăng đề, cần chế biến thuốc với rượu (như chế Xuyên khung, Đại hoàng, Thăng ma… 3. Yêu cầu của chế biến thuốc YHCT 3.1. Ứng dụng học thuyết Âm dương vào chế biến Để thay đổi tính của các vị thuốc thì người ta ứng dụng học thuyết âm dương theo nguyên tắc đối lập, hỗ căn, tiêu trưởng, bình hành . Muốn âm dược thành dương dược thì phối hợp bào chế với dược liệu có tính đối lập. 3.2. Ứng dụng học thuyết Ngũ hành vào chế biến
  9. 7 a) Người ta tìm kiếm và xét tác dụng của thuốc đối với bệnh tật các tạng phủ trên cơ sở liên quan giữa vị, sắc với tạng phủ. – Vị chua, mầu xanh vào can – Vị đắng, mầu đỏ vào tâm – Vị ngọt, mầu vàng vào tỳ – Vị cay, mầu trắng vào phế – Vị mặn, mầu đen vào thận b) Người ta còn vận dụng ngũ vị để bào chế làm vị thuốc thay đổi tính năng và tác dụng cho đi vào các tạng phủ theo yêu cầu chữa bệnh: sao với giấm cho vị thuốc vào can; sao với muối cho vị thuốc vào thận; sao với đường cho vị thuốc vào tỳ; sao với gừng cho vị thuốc vào phế; v.v… 3.2.1 Hiệp đồng tác dụng giữa các vị thuốc với phụ liệu Một số phụ liệu bản thân là các vị thuốc có cùng tác dụng với vị thuốc, khi chế biến có thể tăng hiệu lực của thuốc thông qua tác dụng hiệp đồng giữa thuốc và phụ liệu (Theo tương tu và tương sử trong thất tình hoà hợp). Thông thường ở đó có sự giao thoa kinh tác dụng như hoàng liên (tâm) và nhục quế (thận) hoặc tác dụng trên cùng một kinh như bán hạ chế với cam thảo, phèn chua, bồ kết... có thể tăng tác dụng long đờm, giảm ho; chế với gừng thì tăng tác dụng chống nôn... Bạch truật chế sữa tăng tác dụng bổ dưỡng; viễn trí, xương bồ, bá tử nhân tẩm chu sa làm tăng tác dụng dưỡng tâm an thần. Theo y học hiện đại: sở dĩ chúng hiệp đồng tác dụng là do mỗi thuốc đều có chứa thành phần đều cùng tác dụng hoặc cộng hưởng tác dụng hoặc tạo ra một hoạt chất mới có tác dụng tương tự như ở mức độ cao hơn để điều trị một bệnh hay một triệu chứng bệnh. 3.2.2 Chuyển hóa tác dụng Dưới tác dụng của nhiệt độ, độ ẩm, độ pH của dung dịch phụ liệu... có thể tạo ra các phản ứng làm thay đổi thành phần hoá học của vị thuốc, dẫn đến thay đổi về tác dụng mà phần lớn thông qua kinh nghiệm chế biến là theo chiều hướng mong muốn. Đây cũng là phương pháp làm thay đổi tính vị, tác dụng của thuốc. Đặc biệt, yêu cầu của bào chế phải làm tăng tác dụng cho vị thuốc, làm phong phú tính đa dạng của nguồn thuốc. Các yếu tố về nhiệt độ, độ ẩm, độ pH... có thể làm thay đổi thành phần hoá học cũng làm tăng hiệu suất chiết xuất hoặc làm giảm chất phụ cản sự hoà tan của hoạt chất. 3.2.4. Giảm độc tính của dược liệu Thuỷ chế: Là phương pháp dùng nước rửa hoặc rượu để tẩy, mục đích làm sạch, mềm dược liệu, tiện cho việc thái mỏng, giảm độc tính hoặc thay đổi tính năng. Ngoài ra, còn dùng rượu, giấm, muối, gừng.. tẩm vào để thay đổi tính chất của dược liệu. Hoả chế: Là cách để dược liệu tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với lửa, làm cho thuốc khô ráo, xám vàng, hoặc thành than với mục đích bảo quản hoặc để thay đổi tính chất và tăng hiệu lực của thuốc. Trước khi sao, dược liệu cần được phân loại to, nhỏ để khi sao vàng già và đều. Có 2 cách sao: Sao không thêm chất khác và sao có thêm chất khác.
  10. 8 Dùng cả lửa và nước (Thuỷ hoả hợp chế): Tức kết hợp lửa và nước để thay đổi tính chất của dược liệu. 3.2.5. Phương pháp hỏa chế Dùng nhiệt độ để giảm độc tính của vị thuốc Ví dụ: Sử dụng nhiệt độ cao từ 200˚C 250˚C để phân huỷ chất độc trong dược liệu như đối với Mã tiền…, sấy ở nhiệt độ trên 190˚C Bán hạ sẽ mất vị ngứa. Chất độc bị phân huỷ theo 3 cơ chế sau: Nhiệt phân: Do độ cao phân huỷ một số thành phần hoá học cấu tạo nên vị thuốc; các chất khác nhau sẽ bị phân huỷ ở mức độ khác nhau; men sinh học bị giảm hoặc mất hoặt tính khi nhiệt độ tăng cao tới 100°C. Bay hơi: Một số chất dễ bay hơi như tinh dầu, một số chất có cấu tạo ester Thăng hoa: Antranoid, một số chất trong nhóm alcaloid (cafein…) 3.2.6. Phương pháp thủy chế Dùng nước hoặc phụ liệu ngâm, tẩm…. vị thuốc sẽ hạn chế được tác dụng bất lợi theo cơ chế loại trừ hoặc thuỷ phân. Loại trừ: Sử dụng nước hoặc dịch phụ liệu hoà tan hoạt chất độc và một số thành phần khác. Độ tan của thành phần hoá học phụ thuộc vào độ pH của dịch ngâm. Alcaloid dạng muối tan trong dịch có pH acid, coumarin tan tốt trong dịch có pH kiềm. Ví dụ: Dịch ngâm nước vo gạo làm giảm hàm lượng alcaloid độc trong Hoàng nàn, giảm ngứa của Ráy, giảm tanin và antranoid trong Hà thủ ô đỏ. Thuỷ phân: Nhiều thành phần có cấu trúc dễ bị thuỷ phân bởi nước (khi ngâm hoặc ủ) thành chất khác. Ví dụ: Thông qua các phương pháp bào chế, chất Aconitin trong Ô đầu (độc bảng A) bị thuỷ phân thành Benzoylaconin có độ độc giảm 400 500 lần so với Aconin, riêng Aconin có hàm lượng giảm 1000 2000 lần. Sau khi bào chế sẽ tạo thêm hai vị thuốc mới là Phụ tử gồm Bạch phụ tử và Hắc phụ tử (độc bảng B). 3.2.7. Phương pháp thủy hỏa hợp chế Ở nhiệt độ cao có dịch phụ liệu (chưng, cất, nấu…. để giảm nhanh độc tính) dễ chuyển hoá thành phần chất độc trong dược liệu như đối với Phụ tử, Bán hạ. Các phụ liệu được sử dụng bào chế với các vị thuốc độc để giảm độc như Cam thảo, Đậu đen, Đậu xanh, Magie clorid ( MgCl2), nước đảm ba…; Các phụ liệu dùng bào chế để giảm vị ngứa trong thuốc như nước vôi, nước Tro bếp, Gừng tươi , nước vo gạo, nước phèn chua..; Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây nê trệ, đầy bụng như Sa nhân, Sinh khương, rượu; Các phụ liệu dùng bào chế để làm giảm tác dụng gây táo bón như nước vo gạo, Mật ong. 3.2.8. Giảm tác dụng phụ Một số vị thuốc có thành phần hoá học gây tác dụng không có lợi cho người bệnh như antranoid, saponin triterpenic, chất nhầy … Các chất này thường gây ỉa chảy ở người đang rối loạn tiêu hoá, một số tinh dầu gây kích ứng dạ dày. Thậm chí một
  11. 9 số chất gây tác dụng ngược lại với tác dụng của hoạt chất. Việc chế biến có thể làm giảm hoặc mất tác dụng này là cần thiết để tăng hiệu lực trị bệnh, tăng độ an toàn cho người bệnh. Ví dụ: Quyết minh tử dùng sống sẽ gây ỉa chảy, liều cao có thể tả hạ, sau khi sao vàng thì thuốc có tác dụng nhuận hạ và giáng áp, sao cháy có tác dụng an thần. Đó là do quá trình sao thuốc, một số hoạt chất mang tính dương, dạng ô xy hoá, tồn tạo tự do. Dạng này, các hoạt chất có tác dụng kích thích thành ruột. Sau khi sao, chúng chuyển sang dạng khử, dạng liên kết và mang tính âm nên giảm hoặc mất tác dụng kích thích thành ruột. 3.2.9. Ổn định tác dụng của dược liệu Phương pháp sao, sấy khô (nhiệt độ khoảng 50 70°C) làm giảm độ ẩm tránh phân huỷ thành phần hoạt chất của thuốc và tiêu diệt được men, nấm mốc gây hại cho thuốc. Ví dụ: Hoa hoè sao qua, có thể hạn chế sự phân huỷ Rutin trong hoa, duy trì tốt tác dụng lương huyết, hạ huyết áp. 3.2.10. Giảm tính bền vững cơ học, tăng khả năng giải phóng hoạt chất Điều đó có nghĩa là tăng hiệu lực của thuốc, thuận lợi cho việc sử dụng. Ví dụ: Cửu khổng, mẫu lệ nung ở nhiệt độ cao (vô cơ hoá) để tán bột. Nhiệt độ có thể làm giảm độ bền cơ học. 3.2.11. Bảo quản dược liệu Do qua chế biến, thuốc có thể tránh được mối mọt, men mốc. Cụ thể: Làm khô hoặc giảm độ ẩm của vị thuốc. Làm thay đổi tính chất của một số thành phần hoá học dễ gây nấm mốc như pectin, chấy nhầy, tinh bột, chất đường, chất béo… và diệt nấm mốc Diệt men (làm mất hoạt tính của men ở nhiệt độ cao) có trong thuốc để ổn định thuốc. Ví dụ: Nhiệt độ cao làm mất hoạt tính của men glycosidase, bảo vệ thành phần glycosid Tạo thành lớp bảo vệ (Hoàng kỳ chích mật ta được ra lớp màng caramen hoá ở bên ngoài tạo thành lớp bảo vệ ngăn hạn chế vi khuẩn, ký sinh, côn trùng xâm nhập). 3.2.12. Thuận tiện cho việc sử dụng Thuốc là hàng hoá đặc biệt. Việc bào chế, chế biến thuốc giúp đạt những tiêu chuẩn qui định. Tạo ra vị thuốc có hình dáng, màu sắc đẹp, mùi vị thơm ngon hơn; Tạo tính hấp dẫn của vị thuốc, tính tiện lợi, tính hiệu quả trong việc sử dụng và lưu chuyển. Xây dựng vị thế cho thuốc cao hơn trong lòng ngưòi tiêu dùng, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, biến nó trở thành một hàng hoá đặc biệt trên thương trường, có tính cạnh tranh cao, được y học hiện đại công nhận. Ví dụ: Nhân sâm đóng hộp, Tam thất - Linh chi tán, … Có thể phân chia vị thuốc đến kích thước, hình dáng hợp lý, tiện lợi, phù hợp với thói quen người tiêu dùng. Ví dụ: Thuốc dạng phiến, dạng khúc, dạng bột… 3. Yêu cầu của việc bào chế
  12. 10 Trần Gia Mô (1562) đời Minh có nói: Bào chế cốt ở chỗ vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị. Câu này là một cách ngôn mấu chốt cho tất cả mọi người làm công tác bào chế Đông dược. Nhưng bào chế nào gọi là vừa chừng. Đạt được danh từ này thật là khó: Cắt, thái nên dày hay mỏng, sao nên già hay non… Kỹ thuật bào chế đông dược trông qua thật là đơn sơ, nhưng nó đòi hỏi ở người bào chế nhiều kinh nghiệm, đã làm lâu năm trong nghề. Có 2 yêu cầu chính sau đây: – Bảo đảm chất thuốc (phẩm chất), kỹ thuật đúng. – Người bào chế giỏi, ngoài sự hiểu biết về dược tính, còn phải tuỳ trạng thái phẩm chất của vị thuốc, tuỳ từng yêu cầu của bài thuốc mà định việc bào chế cho được vừa chừng. 4. Các dụng cụ bào chế thông thường. Bàn chải: (lông, tre, đồng) để chải cho sạch đất, cát, nấm bám lên dược liệu. Giần, sàng: Để phân chia, chọn lọc dược liệu theo nặng nhẹ cho được thêm tinh khiết. Dao thái: (sắt, đồng, tre, nứa) thái cắt dược liệu cho nhỏ. Thường dược liệu có chất chát thì không dùng dao sắt, mà dùng dao tre (nay ít áp dụng). Dao cầu: Để thái dược liệu to cứng. Dao bào: Để bào những dược liệu đã được ủ mềm. Cối, chày: Để giã dập hoặc nghiền tán bột, luyện thuốc hoàn thường là cối bằng đồng, đá, sứ, gang... Thuyền tán: Bằng gang để tán dược liệu đã sấy khô thành bột nhỏ, khi tán nên giấy sạch ở dưới và xung quanh thuyền tán để hứng lấy bột vương vãi ra, tán bằng chân phải rửa sạch chân hãy vào tán. Rây: Thường dùng rây mua ở ngoài chợ, rây này tương ứng với rây số 26 - 24 của tây y, bột rây này khó làm viên nén được. Siêu: (đất, men) để sắc thuốc. Chảo: Thường dùng bằng gang để sao, nấu thuốc. Dược liệu có chất chát thì không nấu bằng chảo gang hay thùng gang, sắt, mà dùng siêu đất, thùng nhôm hay tôn hoặc thiếc, đồng,... Cóng: Nối nhôm hay đất để chưng thuốc. Chõ: Bằng đất hay gỗ, nhôm, đồng để đồ dược liệu cho mềm hoặc cho chín. Các dụng cụ trên đây còn thô sơ, khi dùng phải rửa thật sạch, tiệt trùng bằng cách đốt cồn, nếu cần chúng ta phải nghiên cứu cải tiến để cơ giới cách bào chế đông dược, tránh luộm thuộm và thủ công. Ghi nhớ - Các phương pháp chế biến thuốc đông dược - Các yêu cầu chế biến thuốc theo Y học cổ truyền LƯỢNG GIÁ Câu 1: Bào là dùng …..để thay đổi lý tính và dược tính của thuốc, tiện cho việc chế biến và điều trị. A. Dao B. Sức nóng
  13. 11 C. Sấy lạnh D. Máy nghiền Câu 2: Mục đích của bào chế: A. Bỏ các tạp chất lộn trong dược liệu: mốc, sâu mọt. B. Để dễ thái miếng, dễ bảo quản, dễ tán ra bột hoặc dễ nấu cao để chế thành thuốc, giảm bớt độc tính của dược liệu. C. Thay đổi tính năng của vị thuốc bằng cách tẩm sao cho dễ tan vào nước, để dễ đồng hoá, dễ thấm hút (Quy, Hoàng bá, Bạch thược, tẩm rượu). D. Cả 3 đáp án trên đúng Câu 3: Có những phương pháp bào chế nào A. Hỏa chế B. Thủy chế C. Thủy hỏa hợp chế D. Cả 3 đáp án A,B,C đúng Câu 4: Yêu cầu chế biến thuốc theo Y học cổ truyền: Bào chế cốt ở chỗ vừa chừng, non quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị. Là câu cách ngôn của ai? A. Hải Thượng Lãn Ông B. Trần Gia Mô C. Tuệ Tĩnh D. Lê Quý Ngưu
  14. 12 BÀI 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP BÀO CHẾ THUỐC ĐÔNG DƯỢC Giới thiệu Bào chế là quy trình có vai trò quan trọng khẳng định hiệu quả trị liệu của các loại Đông dược. Để một vị thuốc dễ dàng được người tiêu dùng chấp nhận, phải chú ý rất nhiều từ khâu sơ chế đến bào chế. Mục tiêu - Nêu được các mục đích của các phương pháp bào chế thuốc đông dược - Trình bày được kỹ thuật bào chế: hỏa chế, thủy chế, thủy hỏa hợp chế Nội dung 1. Các phương pháp bào chế thuốc đông dược 1.1.Phương pháp làm bằng tay Làm sạch dược liệu - Rửa: Các dược liệu trước khi đưa ra bào chế đêu phải rửa sạch, thường là các loại củ, rễ, hột (huyền sâm, bạch vi, vừng đen…) Các rễ, củ phức tạp thì phải tách nhỏ ra rồi mới rửa. Có những vị khi rửa không nên ngâm lẫn vì mất chất (cam thảo, sinh địa) hoặc không rửa được (Bối mẫu, đương quy…). Dược liệu có muối cũng phải rửa cho sạch bớt muối (Côn bố, Hải tảo, Diêm phụ…). Các loại hoa, cành nhỏ (Cúc hoa, Hồng hoa) không nên rửa chỉ chọn lọc hoặc sàng sẩy bỏ tạp chất. - Sàng, sẩy: Dùng giần sàng để bỏ rác, tạp chất lẫn trong dược liệu (Tử tô, Mạn kinh tử, Liên kiều, Cúc hoa). - Chải, lau: Dùng bàn chải lông, tre mềm để chải các dược liệu bị mốc (Hoài sơn, các loại Sâm…). Khai chải, lau có thể dùng nước, dùng rượu rồi đem sấy lại cho khô. Cách dùng này còn dùng để làm sạch những lông gây ngứa ở thân. Lá (Bồng Bồng). Chọn lựa bộ phận dùng Bộ phận dùng của dược liệu phải chọn lựa để dùng cho thích hợp, đáp ứng với yêu cầu tác dụng của vị thuốc. - Bỏ gốc, mắt: Ma hoàng dùng phát hãn thì dùng thân, bỏ rễ, bỏ đốt nhưng thường dùng cả đốt. - Bỏ rễ con, lông: Vì ít tác dụng, lại gây tác hại, làm nặng thang thuốc (Hoàng liên, Hương phụ, Xương bồ, Tri mẫu). - Bỏ hạch: Hạch là hột cứng trong dược liệu, không có tác dụng thì bỏ đi, ô mai (nhưng ít khi bỏ), Sơn tra. - Bỏ chân, đầu: Thuyền thoái, Toàn yết có móng chân, răng nhọn dùng trong thuốc tán thì bỏ đi, đầu cóc có mủ độc, phải bỏ đầu từ dưới hai u mủ.
  15. 13 - Bỏ vỏ, màng: Đào nhân, Hạnh nhân, Sử quân tử có màng không cần đến thì gội nước sôi, để một lúc màng bong ra, tước bỏ đi, có thứ phải rang cho vàng rồi cho tước vỏ (Bạch biển đậu) có thức đập nhẹ cho tróc và lấy nhân (Qua lâu nhân). - Bỏ lõi, ruột: Bách hộ, Mạch môn đông thì ủ hay đồ mềm rối rút bỏ lõi vì gây “phiền”. Kim anh tử thì nạo bỏ lông. 1.2. Hỏa chế Định nghĩa: Là phương pháp dùng sự tác động của nhiệt độ khô, trực tiếp hay gián tiếp qua những phụ liệu trung gian nhằm thay đổi tác dụng, tính chất, độc tính của vị thuốc và bảo quản cho vị thuốc. Mục đích - Làm tăng tính ấm, giảm tính hàn do đưa nhiệt, phần dương vào vị thuốc; - Giảm độc tính, giảm tác dụng không mong muốn của vị thuốc; - Giảm độ bền cơ học của vị thuốc do các chất hữu cơ bị phân huỷ và các liên kết hữu cơ bị phá vỡ; tăng thời gian bảo quản chất lượng thuốc và có thể thay đổi tính chất, làm tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc. - Ổn định hoạt chất trong vị thuốc Các phương pháp hỏa chế 1.2.1. Sao (rang) Là phương pháp dùng sự tác động của nhiệt độ khô không quá 250˚C, trực tiếp hay gián tiếp qua những phụ liệu trung gian nhằm thay đổi tác dụng, tính chất, độc tính của vị thuốc và bảo quản cho vị thuốc. 1.2.2. Sao trực tiếp (sao không thêm chất khác): Định Nghĩa: Là phương pháp sao mà thuốc được truyền nhiệt trực tiếp qua dụng cụ sao. 1.2.3 Sao qua (vi sao): Nhiệt độ sao không quá 80 °C. Mục đích: Nhằm làm khô thuốc, thơm thuốc, tránh mối mọt và ổn định thành phần hoạt chất. Ví dụ: Hoa hoè sao qua; Độc hoạt, Cam thảo, Bách bộ, Hoàng đằng phiến, Hoàng liên phiến, Kim ngân hoa, Mạch môn, Phá cố chỉ, Trần bì phiến, Tam thất phiến, Tử tô, Tỳ giải phiến, Xích thược phiến, Cóc mẳn, Côn bố.. 1.2.4. Sao vàng Nhiệt độ sao khoảng 100 - 150 °C, thời gian sao lâu, nhỏ lửa. Để tăng sức nóng thấm sâu vào ruột mà không cháy cạnh cần làm ẩm thuốc trước khi đem sao ( Ý dĩ, Đậu đen...) . Thuốc mặt ngoài có màu vàng, trong ruột có màu nguyên liệu; khô giòn, mùi thơm. Mục đích: Sao vàng nhằm vỏ ngoài thuốc có màu vàng, tăng tác dụng quy tỳ, tăng mùi thơm và tăng tính ấm, mà giảm tính hàn của thuốc . Thực chất, sao vàng sẽ giúp phần nào một số hợp chất có phân tử lớn bị bẻ gãy thành những phân tử nhỏ hơn, dễ hấp thu hơn và có tác dụng hiệp đồng mạnh hơn. Hơn nữa những chất nhầy, pectin sẽ bị biến tính dễ hoà tan trong môi trường có nước. Vì vậy, đa số dược liệu có tác dụng mạnh hơn sau khi được sao vàng. Ví dụ: Bá tử nhân, Hoài sơn, Ý dĩ, Bạch giới tử, Bạch truật phiến; Bạch biển đậu, Cốc nha, Cát cánh, Đảng sâm phiến, Đào nhân, Hạnh nhân, Hoè hoa, Khiếm thực,
  16. 14 Mạch nha, Mẫu đơn bì phiến, Ô dược phiến, Sa sâm phiến, Sơn tra phiến, Thương truật phiến, Tri mẫu phiến, Cóc mẳn, Cúc hoa, Trữ ma căn, Sài hồ, Cúc tần. 1.2.5.Sao vàng hạ thổ Sao vàng rồi đổ thuốc xuống hố đất đã chuẩn bị trước lót vải hoặc giấy bản rồi đậy vung lại từ 10 - 30 phút. Đây thực chất là phương pháp hạ nhanh nhiệt độ, tránh ảnh hưởng tiếp theo của nhiệt độ. Mục đích: Nhằm cân bằng âm - dương cho vị thuốc (hạ bớt tính dương, tăng thêm tính âm ); thuốc khô dễ bảo quản; vị thuốc có mùi thơm để nhập tỳ và không buồn nôn. Theo y học hiện đại: Quá trình sao vàng làm gia tăng sức căng bề mặt của dược liệu. Khi sức căng lớn, hạ thổ sẽ gặp hơi lạnh gây ran nứt bề mặt dược liệu. Nhờ đó, hoạt chất dễ thoát ra ngoài hơn trong quá trình sắc thuốc. Ví dụ: Lá Tường vi, lá Vọng cách, Đậu đen,… 1.2.6.Sao vàng sém cạnh Sao lửa to, chảo nóng mới bỏ thuốc vào, đảo không cần nhanh. Thuốc chỉ cần vỏ ngoài màu vàng, mép phiến sém cạnh đen cháy; mùi thơm cháy nhẹ. Áp dụng cho vị thuốc chua, chát, tanh và các vị thuốc Trữ ma căn, Cúc hoa.. Mục đích: Nhằm giảm mùi vị khó chịu, tăng mùi thơm mà vẫn đảm bảo chất lượng thuốc. Ví dụ: Thường sao Thần khúc, Chỉ thực, Chỉ xác, Thăng ma, ... 1.2.7. Sao đen (hắc sao, sao tồn tính): Nhiệt độ sao khoảng 190 - 220°C. Lửa to già mới cho thuốc vào chảo, đảo đều. Sản phẩm bề mặt ngoài có màu đen, bên trong có màu vàng. Chênh lệch nhiệt độ giữa bên trong và bên ngoài khoảng 50 - 60 °C. Mục đích: Tăng tác dụng tiêu thực, cầm tả, chỉ huyết, giảm tính mãnh liệt của vị thuốc. (Hương phụ, Toan táo nhân, địa du, ba đậu, Bạch thược, Hoàng kỳ phiến, Hồng hoa, Thương nhĩ tử, Mẫu đơn bì phiến, Bạch giới tử...). Sơn tra sao đen có tác dụng tiêu thực tích; Ví dụ: Ba đậu sao đen mảnh hạt màu đen, khi bóp mạnh thấy còn dầu. Bạch thược sao đen: Có màu đen lẫn vài phiến màu vàng đậm, mùi thơm cháy, khô giòn. Hoàng cầm phiến sao đen: Phiến màu đen, bên trong màu nâu - Binh lang sao tồn tính tăng cường tác dụng tiêu tích 1.2.8. Sao cháy ( thán sao): Nhiệt độ sao khoảng 200 - 240 °C. Lửa to già mới cho thuốc vào chảo, đảo đều đến khi khói lên nhiều, mang ra và úp vung lại để nguội. Sản phẩm mặt ngoài có màu đen, bên trong màu nâu đen. Chênh lệch nhiệt độ giữa bên trong và bên ngoài khoảng 20 - 30 °C. Ví dụ: Chi tử, Đan sâm phiến, Hoè hoa, Kinh giới tuệ, Sơn tra phiến... Mục đích: Để vị thuốc có vị đắng, nhằm tăng tác dụng chỉ huyết (Trắc bách diệp, Sinh khương, Hoa hoè...) và dẫn thuốc vào tâm. Sơn tra thán sao tăng cường thu liễm, chỉ huyết lỵ. Binh lang thán sao trị bệnh tả, lỵ huyết; Cốc nha sao cháy tiêu thực hóa tích; Chỉ thực sao cháy để chỉ huyết nhất là xuất huyết đường tiêu hóa; Đan sâm thán sao vừa chỉ huyết vừa hoạt huyết; Chú ý khi sao cháy: Dược liệu phải to đều, phải thực hiện mục tiêu là sao thuốc chứ không phải đốt thuốc. 1.2.9. Sao gián tiếp (sao có thêm chất khác )
  17. 15 Định nghĩa: Là phương pháp sao mà vị thuốc được truyền nhiệt đều và sâu qua phụ liệu trung gian như Cám gạo, bột Hoạt thạch, bột Văn cáp, Cát... . Các phụ liệu này đều có khả năng giữ nhiệt cao: Cát (300°C), bột Văn cáp (250°C), bột Hoạt thạch (200 - 220°C). 1.2.10. Sao cách cám Với mục đích để tăng tác dụng kiện tỳ, hoà vị của vị thuốc; để sản phẩm có màu vàng và vị thơm của cám ( Bạch truật, Bạch biển đậu, Cốc nha, Đào nhân, Địa cốt bì, Hoài sơn phiến, Ô dược phiến, Mạch nha, Tri mẫu phiến ) giảm độ bay của tinh dầu (Chỉ thực, Trần bì,...). Phương pháp này hầu hết áp dụng cho những vị có tác dụng kịên tỳ vị như Bạch truật, Thương truật, Cốc nha, Hoài sơn, Cam thảo, Cát căn.... Chỉ xác chế cám có tác dụng hòa vị, tiêu tích trướng.; Chỉ thực sao cám để tiêu tích bĩ báng; Cốc nha sao cám kiện tỳ, tiêu thực. 1.2.11. Sao cách gạo Tăng tác dụng kiện tỳ và giảm tính khô táo của thuốc. 1.2.12. Sao cách cát Sao dược liệu với cát mịn,sạch và nóng với ngọn lửa to dần, đảo đều tay đến khi được thuốc thì đổ ra sàng để sàng lấy thuốc. Mục đích làm cho dược liệu có bề mặt lồi lõm khô cứng sẽ có màu vàng, phồng đều, không cháy (Xuyên sơn giáp..), giảm độc tính (Mã tiền...) 1.2.13. Sao cách hoạt thạch hoặc văn cáp (bột vỏ hến, sò): Nhiệt độ sao khoảng 200 - 250°C . Áp dụng cho các dược liệu dẻo dính như A giao, Nhũ hương, Một dược, một số loại cao ... khỏi dính vào nhau hoặc bớt mùi tanh khét (lông nhím). Ngoài ra còn một số phụ liệu trung gian khác như: Câu kỷ tử sao, Thỏ ty tử; Bạch thược sao đất; Cát căn sao muối... 1.2.14. Nung Định nghĩa: Nung là phương pháp sử dụng nhiệt độ cao (có thể trên 1000°C), nhiệt lượng lớn, thời gian dài nhằm phá vỡ cấu trúc của thuốc, vô cơ hoá thuốc tạo ra CaCO3; Ca3(PO4)2 hoặc loại bỏ nước (Thạch cao) - Dược liệu áp dụng: Khoáng vật, xương động vận rắn như: Đá kẽm, Phèn chua, Thạch tín, Gạc hươu nai, vỏ Hà, vỏ Hầu., Than hoạt.. - Mục đích: Làm cho dược liệu bở, tơi, xốp dễ tán mịn, hoặc làm tinh khiết dược liệu. 1.2.15. Nung trực tiếp: Mẫu lệ, Thạch quyết minh, Thạch cao 1.2.16. Nung gián tiếp: đá Kẽm, Phèn chua... 1.2.17. Chế sương: Thăng hoa, tinh khiết dược liệu: Thạch tín, Mai hoa băng phiến, Long não... 1.2.18. Lùi Định nghĩa: Là phương pháp đưa thuốc trực tiếp hoặc gián tiếp (qua bọc giấy, cám...) vào tro nóng không bén lửa đến khi chín dược liệu hoặc khô vật liệu trung gian. (Ổi khương, Cam thảo...). Mục đích: Rút bớt một phần dầu để giảm bớt tính kích ứng của vị thuốc 1.2.19. Đốt rượu, cồn:
  18. 16 Áp dụng cho những dược liệu không chịu được sức nóng cao như Nhung hươu, Nhung nai... Mục đích: làm sạch lông, không cháy xém, tạo mùi thơm, giảm mùi tanh và tăng thời gian bảo quản. 1.2.20. Phơi, sấy - Dùng lửa nhỏ để sấy dược liệu cho khô ráo, hơi vàng giòn là được (Thuỷ điệt, Manh trùng...) - Đặc biệt: Đan sâm trộn miết huyết, sấy; đan sâm trộn tiết lợn; phơi hoặc sấy 1.3. Thủy chế Định nghĩa: Thuỷ chế là phương pháp chế biến mà sử dụng sự tác động của nước hoặc dung dịch phụ liệu ở những mức độ khác nhau (ẩm, ngâm...) trong điều kiện nhiệt độ tự nhiên tác động đến dược liệu tạo ra quá trình hoà tan, thuỷ phân hoặc lên men nhằm đáp ứng những mục đích khác nhau. Dịch phụ liệu: Nước Cam thảo, nước Đậu đen, nước Vo gạo, nước Phèn chua, nước Muối ăn... Mục đích - Giảm độc tính, giảm tác dụng có hại của thuốc tới người bệnh; - Tăng tác dụng chữa bệnh của vị thuốc (nước Gừng dẫn thuốc vào phế, tỳ, vị; nước cam thảo dẫn thuốc vào 12 đường kinh). - Giảm tính bền cơ học của vị thuốc, tăng khả năng giải phóng hoạt chất do các tế bào dược liệu bị hút nước và trương nở. - Làm mềm dược liệu, giúp cho việc phân chia ( thái, bào..) được dễ dàng - Định hình và bảo quản thuốc, tránh gây vụn nát thuốc (nước Phèn chua, nước Vôi...làm cứng vị thuốc lên giữ định hình ban đầu ). - Hạn chế sự phát triển của nấm mốc (nước Muối, nước Phèn chua) Các phương pháp thủy chế 1.3.1.Phương pháp ngâm Định nghĩa: Ngâm là phương pháp dùng nước hoặc dung môi thích hợp đổ ngập vào dược liệu trong một thời gian thích hợp (trên 1 giờ ) ở nhiệt độ thích hợp, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, thu lấy thuốc, loại bỏ dịch ngâm nhằm đạt được mục đích chế biến và điều trị. Khi áp dụng cần cẩn thận tránh làm giảm hoạt chất. Mục đích ngâm Làm mềm dược liệu để dễ thái, bào ... (Hà thủ ô...), định hình dược liệu, tẩy chất nhựa gây bẩn vị thuốc (Bạch thược...) hoặc làm giảm độc tính và tác dụng không mong muốn của thuốc (Hoàng nàn, Phụ tử, Bán hạ...), tăng tác dụng chữa bệnh của thuốc và để chiết lấy các hoạt chất có tác dụng chữa bệnh trong các dược liệu. Dịch ngâm Dung môi: Nước, nước có độ PH cao thấp khác nhau (nước vo gạo, rượu, dấm,...), nước hành.. Nhóm có pH trung tính: Nước Cam thảo, Đậu đen, Đậu xanh, Sinh khương Nhóm có pH acid: Dấm, nước Phèn chua Nhóm có pH kiềm: Dịch nước vôi, nước tro bếp
  19. 17 Nhóm có pH thay đổi: Dịch nước vo gạo, đồng tiện. pH thay đổi là do sau vài giờ lên men hoặc bị phân huỷ. Độ pH khác nhau sẽ làm thay đổi độ tan khác nhau của các thành phần khác nhau (alcaloid, coumarin...). Vì vậy, cần chọn dung dịch ngâm thích hợp... Thường ngày thay dịch ngâm một lần; cần bổ xung chất tan để duy trì nồng Thời gian ngâm Phụ thuộc vào vị thuốc, kích thước hình dáng vị thuốc cho ngấm đều; tính chất của từng vị thuốc như Phụ tử ngâm đến khi hết vị tê, cay; Bán hạ ngâm đến khi hết nhân trắng đục. 1.3.2. Phương pháp ủ Định nghĩa: Dùng nước hay dung dịch phụ liệu tẩm vào vị thuốc trong thời gian thích hợp (từ vài giờ đến vài ngày) cho đến khi đạt yêu cầu. Mục đích: - Tăng tác dụng trị bệnh nhờ tác dụng hiệp đồng giữa thuốc và phụ liệu Ví dụ: Bán hạ chế với nước Cam thảo, nước gừng để tăng tác dụng chỉ ho, hoá đờm, chống nôn. - Ủ để lên men: Áp dụng chế Địa hoàng thành Sinh địa, chế Thần khúc, chế Bán hạ khúc. - Ủ để làm mềm vị thuốc để tiện bào, thái... như Tam thất, Bạch thược... - Ủ để làm sạch vỏ củ dễ gây kích ứng như Bán hạ sống. - Ủ cho thơm (gạc nai ủ Sinh khương) để tẩy mùi. 1.3.3. Tẩy rửa - Rửa: Đã trình bày ở phần trên (A - Làm bằng tay) - Tẩy: Dùng rượu để tẩm hoặc dầm vào vị thuốc từ 5 - 10 phút rồi đưa ra sắc (Đương qui, Ngưu tất...) 1.3.4. Thủy phi Định nghĩa: Thuỷ phi là phương pháp tán thuốc ở trong nước hoặc dung môi thích hợp (rượu chẳng hạn) trong một điều kiện về nhiệt độ, áp suất thích hợp thành dạng bột min. Mục đích Thu được bột nhỏ mịn tinh khiết; tránh được bay bụi thuốc và ảnh hưởng tới người bào chế; Chống sự tăng nhiệt độ dễ phân huỷ thuốc thành chất độc trong khi tán do ma sát sinh ra (như Thần sa, Chu sa, Thanh đại, Hoạt thạch, ô long vĩ ...); tránh hao thuốc; hạn chế kích ứng của dược liệu độc mạnh. Phương pháp Cho dược liệu vào cối sành, sứ, cho nước vào, nghiền kỹ. Khuấy đều, bớt bỏ tạp chất, gạn lấy dịch nước đục có chứa các hạt thuốc nhỏ mịn. Cho thêm nước, tiếp tục nghiền cắn lắng ở dưới, rồi lại gạn. Làm nhiều lần đến khi thu được toàn bộ thuốc. Bột thu được mang phơi chỗ thích hợp tới khô. Riêng tẩm Chu sa rồi phơi âm can thì không sao hoặc nướng để tránh độc (thuỷ chế). Ví dụ: Bá tử nhân; Viễn chí, Trúc nhự, Táo nhân, thông thảo, Thiên môn, Thạch xương bồ, Đan bì, Long cốt... để tăng tác dụng trân kinh, trấn tĩnh, an thần.. 1.4 Thủy hỏa hợp chế
  20. 18 Định nghĩa: Thuỷ hoả hợp chế là phương pháp sử dụng sự tác động của nước hoặc dung môi thích hợp với lửa (trực tiếp hay gián tiếp) ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ tự nhiên (nhiệt ẩm) nhằm thay đổi tính chất của dược liệu. Mục đích: Để bảo quản, giảm độc tính hoặc để thay đổi tính chất và tăng hiệu lực của thuốc. 1.4.1Chưng Định nghĩa: Chưng là phương pháp chế biến dược liệu bằng cách đung thuốc với nước hoặc dịch phụ liệu bằng cách đun cách thuỷ . Mục đích - Chuyển hoá thuốc trong điều kiện nước ở nhiệt độ cao khoảng 100°C. - Làm chín vị thuốc để tiện việc bào mỏng, chế thuốc tễ. - Thuốc sau khi chưng với Rượu thường thấy ngọt hơn và thơm hơn, thêm sức ôn bổ, giảm tính đắng chát, là mất mùi tanh lợm, giảm bớt tính khí lạnh (Thục địa, Đại hoàng...), giảm tác dụng không mong muốn của thuốc (ví dụ: Hoàng tinh hết ngứa sau khi chưng). - Thuốc sau khi chưng với Rượu vào tỳ vị dễ bị đồng hoá và dễ được hấp thu hơn, nên chúng có tác dụng bồi dưỡng cơ thể. - Một số vị thuốc chưng với Rượu bảo quản được lâu hơn. Phương pháp Thuốc cùng dung dịch phụ liệu (nước, rượu) vừa đủ cho vào nồi, đậy kín. Đặt nồi vào trong một thùng hay chảo to có ngập nước nửa nồi, dới đay nồi có lót một miếng gỗ để cóng không sát vào thùng. Lúc đầu đun to lửa để nước trong thùng hoặc chảo sôi, sau đó đun nhỏ lửa cho đến khi đạt tiêu chuẩn. Cần bổ xung dịch phụ liệu vào thuốc và nước ở thùng, chảo bên ngoài. Thời gian - Cổ truyền: Chưng theo phương pháp "Cửu chưng, cửu sái" tức chín lần chưng vào ban đêm đan xen chín lần phơi ban ngày. - Thông thường hiện nay: Chưng liên tục 3 ngày đêm, phơi (hoặc sấy). Tẩm đến khi hết dịch chưng thì phơi sấy (có màn che chắn ruồi, bụi) đến khô. Chú ý: Chưng không đủ thời gian thì vị thuốc dễ bị mốc. Nếu chưng đủ thời gian, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật thì vị thuốc thơm, bảo quản được lâu, ít bị mốc mọt. và ngọt hơn do lượng đường tăng lên. 1.4.2. Đồ Dùng hơi nóng của nước làm cho vị thuốc mềm ra, dễ thái. Thường dùng đối với các vị thuốc mà nếu ngâm sẽ làm mất hoạt chất của thuốc đi như Hoài sơn, Phục linh… 1.4.3. Nấu (Đun, chử) Định nghĩa: Nấu là phương pháp đun dược liệu sôi trong một lượng lớn chất lỏng thích hợp (nước, dầu, dung dịch phụ liệu) với thời gian nhất định. Thời gian nấu phụ thuộc vào số lượng của từng loại dược liệu cụ thể. Mục đích - Làm cho dược liệu mềm, dừ, dễ bào chế.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0