intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Chăm sóc sức khoẻ tâm thần (Nghề: Công tác xã hội - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:130

11
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Chăm sóc sức khoẻ tâm thần (Nghề: Công tác xã hội - CĐ/TC) được biên soạn gồm các nội dung chính sau: những vấn đề chung; các triệu chứng tâm thần; các hội chứng tâm thần; các bệnh tâm thần; chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Chăm sóc sức khoẻ tâm thần (Nghề: Công tác xã hội - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH GIÁO TRÌNH MÔN HỌC: CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN NGHỀ: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG/TRUNG CẤP Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ-TCGNB ngày…….tháng….năm 2021 của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình Ninh Bình, năm 2021 1
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được pháp dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Giáo trình Chăm sóc sức khỏe tâm thần được biên soạn trên cơ sở tuân thủ các nội dung chính trong chương trình khung của Nhà nước, có tham khảo các tài liệu của các tác giả có uy tín và đặc biệt được cập nhật các chủ trương, chính sách, các văn bản pháp luật mới nhất của Đảng và Nhà nước. Giáo trình là tài liệu học tập, tham khảo chính trong đào tạo nghề Công tác xã hội. Giáo trình được biên soạn làm 5 chương. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CHƯƠNG II: CÁC TRIỆU CHỨNG TÂM THẦN CHƯƠNG III: CÁC HỘI CHỨNG TÂM THẦN CHƯƠNG IV: CÁC BỆNH TÂM THẦN CHƯƠNG V: CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN TẠI CỘNG ĐỒNG Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm, thời gian còn hạn chế nên giáo trình không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các em học sinh, sinh viên. Ninh Bình, ngày…....tháng…...năm 2021 Tham gia biên soạn: 1. Nguyễn Thị Lành 2. Phạm Thu Phương 3. Nguyễn Thị Ngọc Lan 3
  4. MỤC LỤC GIÁO TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Chăm sóc sức khỏe tâm thần Mã số môn học: MH 32 4
  5. Vị trí, tính chất, vai trò và ý nghĩa của môn học: - Vị trí môn học: Môn học Chăm sóc sức khỏe tâm thần là môn học chuyên ngành quan trọng của chương trình đào tạo nghề Công tác xã hội liên quan tới hoạt động bảo vệ và cung cấp dịch vụ xã hội cho đối tượng bị tâm thần. - Tính chất của môn học: Là môn học chuyên môn nghề tự chọn. Mục tiêu môn học: - Kiến thức: + Trình bày được khái niệm, thuật ngữ, lịch sử phát triển, phân loại bệnh theo hệ thống phân loại; + Nhận biết được tổng quan về các triệu chứng, hội chứng và các loại bệnh tâm thần; + Trình bày được nguyên nhân, tác hại, các quan điểm nhận thức về các loại bệnh tâm thần và các dịch vụ, chính sách, pháp luật trong chăm sóc người bị tâm thần. - Kỹ năng: + Áp dụng kiến thức đã học trong tham vấn, biện hộ, thương thuyết, làm việc nhóm, huy động cộng đồng trong trợ giúp người bị bệnh tâm thần; + Hỗ trợ, giúp đỡ người bị bệnh tâm thần và rối loạn tư duy để học có cách ứng xử tốt hơn. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Nhìn nhận đúng đắn hơn về các trường hợp bị bệnh tâm thần; + Tích cực tuyên truyền, vận động, phối hợp với gia đình và xã hội trong can thiệp và giúp đỡ người bị bệnh tâm thần. Nội dung môn học: CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Mã chương: MH32-CH01 Mục tiêu: - Kiến thức: 5
  6. + Trình bày được những hiểu biết về các thuật ngữ: tâm thần học, tâm bệnh học, sức khoẻ tâm thần, triệu chứng, hội chứng, chẩn đoán lâm sang, rối loạn tâm thần. - Kỹ năng: Vận dụng kiến thức đã học trong hoạt động chăm sóc và trợ giúp các đối tượng xã hội có hiệu quả. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Cảm thông và tích cực tuyên truyền, vận động, phối hợp với gia đình và xã hội trong can thiệp và giúp đỡ người bị bệnh tâm thần. Nội dung chính: 1. Các khái niệm cơ bản. Điên loạn tâm thần luôn là chủ đề được mọi người quan tâm. Nhìn thấy một người điên người ta vừa cảm thấy sợ lại vừa cảm thấy tò mò muốn quan tâm. Có nhiều người cảm thấy thương hại người điên đó. Chức năng tâm lý cơ bản của con người là định hướng, điều khiển, kiểm tra và điều chỉnh các hoạt động chủ thể. Nhờ có tâm lý con người mới có thể nhận biết được thế giới khách quan tác động vào đối tượng, tạo ra những sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của bản thân, xã hội. Nhờ có tâm lý – ý thức con người không chỉ hoạt động để thoả mãn nhu cầu tức thì mà còn cải tạo hiện thực, xây dựng thế giới theo cách của mình. Theo tâm lý học các hiện tượng tâm lý con người là sự phản ảnh hiện thực khách quan vào não. Nếu ví các hiện tượng tâm lý như là những hình ảnh được sao chụp, phản chiếu thì não như là tấm gương , là bộ máy sao chụp để cho ra những hình ảnh đó. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là các hiện tượng tâm lý, các quy luật của những hiện tượng này và cơ chế tạo nên chúng. Bộ não con người có cấu trúc phức tạp và hoạt động rất tinh vi. Do vậy khi não bị tổn thương thì các hiện tượng khách quan cũng bị phản ánh một cách méo mó, sai lệch. Tổn thương não có thể xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau, từ những tổn thương có thể nhìn thấy như trường hợp chấn thương sọ não, u não cho đến những trường hợp chưa nhìn thấy được như tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc…Rối loạn tâm thần cũng có thể xuất hiện khi những hoạt động phức tạp của não bộ bị mất đồng bộ, mất nhịp nhàng, hậu quả của một tác động từ bên ngoài cơ thể . 6
  7. Một nhân viên công tác xã hội không chỉ cần nắm vững những kiến thức về trợ giúp cá nhân, trợ giúp nhóm, phát triên cộng đồng…còn cần phải có những kiến thức liên quan đến tâm bệnh của thân chủ nhìn từ góc độ Y học. Tâm thần học là khoa học chuyên nghiên cứu các bệnh tâm thần riêng biệt và phương pháp điều trị chúng. Theo chúng tôi cụm từ tâm bệnh/tâm bệnh học tương đương với cụm từ tâm thần/tâm thần học. Như phần trên chúng tôi đã nói cụm từ tâm thần học /tâm thần có hàm nghĩa tương đương với cụm từ tâm bệnh học. Do đó trong giáo trình này chúng tôi muốn nghiêng về tìm hiểu tâm thần học theo hướng của tâm bệnh học. Sức khoẻ tâm thần: theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới: sức khoẻ bao gồm sự khoẻ mạnh về thể chất, tâm lý, xã hội. Có thể hiểu sức khoẻ tâm thần vừa là một bộ phần cấu thành vừa là một lĩnh vực mang tính độc lập tương đối. Trong trường hợp này chúng tôi hiểu cụm từ sức khoẻ tâm thần tương đương với cụm từ sức khoẻ tâm lý. Sức khoẻ tâm thần ở cộng đồng được hiểu là: 1. Một cuộc sống thật sự thoải mái. 2. Đạt được niềm tin vào giá trị bản thân, vào phẩm chất và giá trị của người khác. 3. Có khả năng ứng xử bằng cảm xúc, hành vi hợp lý trước mọi tình huống. 4. Có khả năng tạo dựng, duy trì và phát triển thoả đáng các mối quan hệ. 5. Có khả năng tự hàn gắn để duy trì cân bằng khi có các sự cố gây mất thăng bằng, căng thẳng (stress). Lâm sàng: tại giường. Ý muốn nói đến công việc thăm khám ngay tại giường bệnh. Triệu chứng: Dấu hiệu của trạng thái bệnh lý hoặc của một bệnh được thể hiện ra bên ngoài. Hội chứng: là sự kết hợp nhất định của một số triệu chứng. Từng triệu chứng không tồn tại độc lập mà trong sự kết hợp với các triệu chứng khác. Những đặc điểm lâm sàng của hội chứng, sự thay đổi hội chứng là cơ sở cho việc chẩn đoán bệnh. 7
  8. Chẩn đoán lâm sàng: nhận định mang tính kết luận của thầy thuốc về bệnh.Chẩn đoán có nhiều loại: chẩn đoán triệu chứng, chẩn đoán hội chứng, chẩn đoán bệnh, chẩn đoán sơ bộ, chẩn đoán xác định… Rối loạn phản ánh thực tại do những biến đổi hoạt động của não. 2. Lịch sử phát triển ngành tâm thần học và chăm sóc sức khỏe tâm thần 2.1. Sự phát triển của tâm thần học trên thế giới 2.1.1. Thời thượng cổ Bệnh tâm thần cũng như mọi loại bệnh tật khác có lẽ xuất hiện ngay từ khi bắt đầu có loài người, quan niệm sơ khai cho rằng đây là loại bệnh bị ma ám hoặc do sự giận dữ của thần thánh. Trong kinh Ayur veda của người Hindu vào thế kỷ 14 TCN có mô tả một người đàn ông háu ăn, bẩn thỉu, trần truồng, không có trí nhớ, đi lại một cách khó khăn. Trong kinh Cựu ước viết khoảng năm 700 TCN cũng đề cập đến một người có tên là Nebuchadnezzar đã bị tước quyền làm người, ăn như bò, tóc mọc như lông vũ đại bàng, bàn tay, bàn chân có móng như chim. Trong các tư liệu trên người ta miêu tả người điên như một người mất phẩm giá, không tự chăm sóc bản thân, bị khinh bỉ… Hypocrat một thầy thuốc Hy Lạp được tôn vinh là người cha của nền Y học hiện đại cho rằng hiện tượng điên là do mất cân bằng thể dịch. 2.1.2. Thời trung cổ Dưới sự thống trị của thiên chúa giáo và chế độ phong kiến, những bệnh nhân tâm thần được coi như là hiện thân của quỷ dữ hoặc alf nhưng tên phù thuỷ chống lại ý chúa. Vì vậy những người bị bệnh tâm thần bị truy nã khắp nơi bị trừng phát hết sức dã man, bị trói buộc bằng gong cùm, xiềng xích bị tra tấn vô cùng dã man. Nhiều người tâm thần bị thiêu sống, bị dìm xuống nước, treo cổ, hành hình… Vào thế kỷ XII những cơ sở đầu tiên dành cho những bệnh nhan tâm thần được xây dựng. Đó là những trại tập trung kín trong các tu viện. Một số nơi khác xây dựng các trại tập trung dành riêng cho những người điên với chế độ quản lý hà khắc và tàn bạo, man rợ. 2.1.3. Thời kỳ cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX 8
  9. Số phận bi thảm của người tâm thần kéo dài suốt thời kỳ thượng cổ và trung cổ cho đến cuối thể kỷ XVIII mới được cải thiện. Năm 1793, Philippe Pinel ( 1745 -1826) là người đầu tiên đã xoá bỏ xiềng xích trói buộc cho những người bệnh tâm thần tại 2 trại người “điên” Bicretre và Salpetriere ở Pháp. Ông đã cải tiến chế độ săn sóc cứu trợ cải thiện hoàn cảnh sinh hoạt, phân loại sắp xếp người bệnh theo mức độ bệnh nặng hay nhẹ, chống những hành vi ngược đãi, tàn bạo, khinh thường người bệnh. Ông yêu cầu đổi tên những trại người điên thành các bệnh viên tâm thần. Những tưởng và hành độngc cải cách tiến bộ của ông đã lan sang các nước khác trên thế giới. Thời kỳ này có nhiều thầy thuốc tâm thần nổi tiếng như: K Kkahlbaum ( 1828 -1899), Emil Kraepelin (1856 -1926) đã dày công quan sát và đúc kết những quy luật tiến triển và kết thúc của bệnh tâm thần, quy luật đó vạch ra ranh giới của từng bệnh riêng biệt, đặc biệt là các nghiên cứu của X.X Korxakov về rối loạn tâm thần do rượu năm 1887, mở đường cho những nghiên cứu khác về rối loạn tâm thần thực tổn. 2.1.4. Nửa đầu thế kỷ XX Ở hầu hết các nước trên thế giới tâm thần học ngày càng phát triển mạnh mẽ, có những tiến bộ trong lĩnh vực tổ chức cứu chữa bệnh nhân tâm thần. Những nghiên cứu về phản xạ có điều kiện của Paplop, các nghiên cứu về bệnh mất trí nhớ tuổi già Alzheimer (1907) đã mở đường cho những hiểu biết quan trọng về cơ chế hoạt động tâm thần, có cơ sở sinh lý hoạt động thần kinh cao cấp, cùng với nghiên cứu chụp não bơm khí của Dandy, nghiên cứu điện não của H. Berger là những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của tâm thần học. Năm 1911, E Bleuler – Nhà tâm thần học nổi tiếng Thuỵ Sĩ đã đặt lại tên cho hội chứng sa sút sớm thành tâm thần phân liệt. Cũng như E. Kraepelin, E Beuler tin rằng bệnh nhân tâm thần phân liệt không bao giờ hồi phục được. Có lẽ một phần là do những bệnh nhân của ông ta bị giam giữ hàng chục năm trong các nhà thương điên Thuỵ Sĩ mà không được điều trị gì. Đối với công chúng, cho đến ngày nay tâm thần phân liệt vẫn mang ấn tượng là một bệnh không hồi phục, không chữa khỏi và tâm thần phân liệt đồng nghĩa với một bản án hơn là một bệnh. 9
  10. Để xây dựng nhà thương điên để điều trị người bệnh tâm thần, đặc biệt là những trường hợp loạn thần, đã làm cho ngành tâm thần tách biệt khỏi ngành y. Vào cuối thế kỷ 19 một nhánh Tâm thần học đã trỗi dậy và phát triển mạnh mẽ, tách khỏi các nhà thương điên để chuyên tâm chăm sóc người bệnh tâm căn. Nhánh này chịu ảnh hưởng rất mạnh của những nghiên cứu, quan niệm về thôi miên ( vấn đề thời sự lúc bấy giờ). Nổi bật nhất là những nghiên cứu và sử dụng thôi miên của Trường phái Pari do giáo sư J.Charcot (Bệnh viện Salpeetriere) dẫn đầu. Cũng trong trường phái Pari còn phải kể đến P.Janet. Ông đã phát triển lý thuyết phân li – nghĩa là sự chia cắt tư duy ra khỏi các hoạt động khác. Lý thuyết này nhằm lí giải bệnh hysteria và quên tâm căn. Trong nửa đầu thế kỷ 20 nhân vật nổi bật trong Tâm thần học chính là Freud. Ông cũng là người đầu tiên nghiên cứu chứng rối loạn ngôn ngữ và bại não ở trẻ em, tiếp đó là những rối loạn tâm căn. Tuy nhiên những đóng góp lớn của ông là những nghiên cứu về vô thức: cơ chế kìm nén những xung động vô thức, cơ chế phòng vệ, cơ chế hình thành nhân cách…Cũng không ngạc nhiên khi tình dục hình thành yếu tố trung tâm trong học thuyết của Freud khi nó mới được khai sinh và nó cũng mở ra một thời kỳ phóng khoáng về tình dục trong văn học nghệ thuật, khoa học. 2.1.5. Nửa cuối thế kỷ XX đến nay Cả hai cuộc chiến tranh thế giới nhất là cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng rất nhiều đến ngành tâm thần học: - Tỷ lệ cao những bệnh nhân bị “sốc đạn pháo” trong chiến tranh thế giới thứ nhất cho thấy rối loạn tâm thần có thể xuất hiện trên một tập thể, không chỉ đối với những người có yếu tố di truyền . - Bất cứ ai bị tác động bới các sang chấn đều có thể xuất hiện rối loạn tâm thần kéo dài. - W Rivers, một thầy thuốc tâm thần, một nhà nhân chủng học người Anh đã khởi xướng một loạt nghiên cứu lâm sàng, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu rối loạn stress sau sang chấn. Một khía cạnh tích cực do chiến tranh thế giới hai mang lại là sự phát triển các kỹ thuật đánh giá tâm lý đối với các tân binh. Kết quả các nghiên cứu về số liệu tâm thần trong thanh niên đã kích thích sự phát triển dịch tễ học tâm thần. 10
  11. Cũng do trong chiến tranh thế giới hai số lượng bệnh binh tâm thần tăng đột ngột. Do nhu cầu điều trị số lượng lớn như vậy các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần quân đội đã sáng tạo ra liệu pháp tâm lý nhóm. Chỉ cần một thầy thuốc có thể quản lí, chăm sóc cả nhóm bệnh nhân. Mặt khác trong liệu pháp tâm lý nhóm bệnh nhân học hỏi lẫn nhau cách kiểm soát và chiến thắng bệnh tật. Liệu pháp này cũng có tác dụng phá vỡ sự độc đoán cứng nhắc của các bệnh viện tâm thần. Các liệu pháp tâm lý cá nhân cũng phát triển mạnh trong thời gian này. Từ đầu thế kỷ này một loạt các liệu pháp tâm lý thực sự nở hoa trong giai đoạn này như: liệu pháp hành vi, liệu pháp phân tích tâm lý, liệu pháp khách hàng là trung tâm, liệu pháp hiện sinh…Bản thân mỗi trường phái lại phát triển một cách hết sức linh hoạt. Thời gian này cũng là sự phát triển của các liệu pháp sinh học, đặc biệt là liệu pháp hoá dược phẩm. Năm 1938, Celeti và Bini đã phát minh ra liệu pháp gây co giật bằng điện. Đây là liệu pháp đơn giản, hiệu quả nhanh đối với hội chứng trầm cảm nặng. Liệu pháp sốc điện đã được chấp nhận trên toàn thế giới và vẫn đang được sử dụng cho đến ngày nay với nhiều cải tiến hiệu quả điều trị và độ an toàn vẫn còn có những hiểu lầm từ phía công chúng. Năm 1949, J Cade đã phát hiện tác dụng điều trị và phòng ngừ của lithium đối với rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Năm 1952, Jean delay và Pierre Denniker ở Pari đã phát hiện ra thuốc an thần, kể từ đó danh mục các thuốc này ngày càng kéo dài hơn. Những phát hiện quan trọng về dược lí trong thời gian gần đây như sự ra đời của thuốc chống trầm cảm thế hệ mới, các thuốc ức chế tài hấp thu serotonin có ít tác dụng phụ và giảm thiểu nguy cơ tử vong khi dùng quá liều…đã cải thiện rất nhiều về điều trị tâm thần. Các dịch vụ tâm thần đã có những thay đổi đáng kể. Các bệnh viện tâm thần xuất hiện đã phá vỡ hệ thống nhà thương điên. Những bệnh viện này đã đạt dến đỉnh cao vào những năm 50 của thế kỷ 20. Đây là những bệnh viện được xây dựng với quy mô lớn, có sức chứa khoảng hơn một ngàn bệnh nhân được xây dựng xa khu dân cư đô thị. 11
  12. Từ năm 1960, tâm thần học có một bước chuyển quan trọng về xây dựng mô hình tổ chức cứu chữa bệnh tâm thần và chăm sóc sức khoẻ tâm thần trên cơ sở lồng ghép với y tế cộng đồng như: - Không xây dựng bệnh viện tâm thần lớn và tập trung nữ mà xây dựng các bệnh viện tâm thần cỡ nhỏ, trung bình 100 - 500 giường bệnh ở gần khu vực dân cư. - Giải toả các cơ sở nội trú gò bó, đưa tối đa bệnh nhân tâm thần trở về với gia đình, giảm giường bệnh nội trú. - Với các chính sách trên đã xuất hiện hai loại mô hình tổ chức chăm sóc sức khoẻ tâm thần. - Khu vực tâm thần học ở Pháp. - Khu vực dịch tễ học ở Mỹ. - Khu vực tâm thần hoc được xác định bởi 4 tiêu chuẩn: + Về địa lý: là khu vực quản lý một số dân cư nhất định + Về bệnh: các bệnh tâm thần, nghiện rượu, nghiện matuý + Về chính sách y tế: phát hiện sớm, phòng bệnh và chăm sóc sau khi ra viện. + Thực hiện chăm sóc SKTT: có nhiều bộ môn tham gia như bác sĩ tâm thần, cán bộ tâm lý lâm sàng, cán sự xã hội, y tá tâm thần. Mỗi khu vực có một khoa nội trú 50 giường tại một bệnh viện tâm thần gần nhất. Xây dựng các khu tâm thần nhằm 3 mục đích: - Làm cho mọi công dân có thể được chăm sóc có chất lượng ở gần nơi mình ở nhất. - Tránh việc nằm viện hoặc tái nằm viện bằng cách hướng các cố gắng vào việc phòng bệnh và điều trị sau đợt nằm viện. - Cải thiện các điều kiện nằm viện và nhất là chuyển các nhân viên gác bệnh thành y tá. Trong các khu tâm thần chúng có khu tâm thần trẻ em. Khu vực dịch tễ học: Khu vực dịch tễ học được thành lập ở Mỹ năm 1963, quản lý một khu vực địa lý với 200.000 dân. Nhiệm vụ cũng tương tự như khu vực tâm thần của Pháp. Đây là mô hình chăm sóc sức khoẻ tâm thần tiên tiến. 12
  13. - Tỷ lệ giường bệnh tâm thần 1/1.000 dân - Về nhân lực: có ê kíp tâm thần hoàn chỉnh gồm bác sĩ tâm thần chuyên khoa sâu các loại, cử nhân tâm lý lâm sàng, cán sự xã hội và y tá tâm thần. - Kinh phí cho chăm sóc sức khoẻ tâm thần là rất lớn, theo nghiên cứu gần đây ở Mỹ năm 1990 kinh phí cho bệnh nhân tâm thần là 148 tỷ đô la, cho lạm dụng rượu là 99 tỷ đô la, cho nghiện ma tuý là 67 tỷ đô la. - Kinh phí dành cho bệnh trầm cảm bằng kinh phí cấp cho các bệnh nhân tim mạch. Trong khu vực Asean, mạng lưới chăm sóc sức khoẻ tâm thần cũng có nhiều bước phát triển nhất định. Như ở Thái Lan ngoài hệ thống các cơ sở điều trị tâm thần họ còn có hình thức chăm sóc sức khoẻ tâm thần học đường, bao gồm thành phần: giáo viên, nhà tâm thần học và cha mẹ học sinh. 2.2. Lịch sử phát triển tâm thần học ở Việt Nam Cũng như trong lịch sử loài người, ở nước ta bệnh tâm thần xuất hiện từ khi con người ở trong bộ lạc, thị tộc đầu tiên. Khi có bệnh nhân tâm thần là có thầy thuốc và có phương pháp chữa bệnh. Tuy nhiên do việc biên soạn, ấn loát của ông cha ta chưa phát triển, việc lưu trữ gặp nhiều khó khăn, qua nhiều thời kỳ chiến tranh dựng nước và giữ nước đến nay các tài liệu sưu tầm được quá ít. Danh y Tuệ Tĩnh đã nghiên cứu các bệnh thuộc tâm, các chứng mất ngủ, điên cuồng, kém trí nhớ. Ông đã có những khái niệm phân biệt điên và cuồng. Điên là cười và nói năng rối loạn, do tâm huyết không đủ mà phát ra nên điều trị bằng an thần dưỡng huyết. Cuồng là nói sai, làm sai, không còn lí trí, chạy nhảy, làm càn do đàm hoả thịnh mà phát ra, nên điều trị bằng thanh hoả hạ đàm, lợi đại tiện không ăn no. Ông đã dùng thuốc nam, cây cỏ để trị bệnh lo sợ, bực tức, cuồng nhiệt, cười nói vô cớ, nói về ma quỷ… Hải Thượng Lãn Ông đã bàn luận nhiều về y lý, tâm và thần, phương pháp tiết dục, phương pháp an thần bổ tâm, an thần dưỡng tâm. Ông đã sử dụng cách chữa bằng tính chí để chữa cho các bệnh nhân rối loạn thất tình mà sinh ra. Do ảnh hưởng của tôn giáo và phong kiến nên tổ tiên ta không thoát khỏi những quan điểm duy tâm thần bí về bệnh tâm thần. Quan niệm bệnh nhân tâm thần là do ma quỷ, do âm khí, do tà thuật, nên chữa bệnh bằng cúng tế, lên đồng, 13
  14. đuổi ma quỷ bằng uống tàn hương nước thải, đánh bằng roi dâu, tạt nước tiểu vào mặt… vẫn còn tồn tại ở một số địa phương. Thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị , việc điều trị bệnh tâm thần chưa được quan tâm. Môn tâm thần học chưa có trong chương trình giảng dạy ở trường đại học Y, không có bác sĩ tâm thần nào. Những nhà thương điên thực chất chỉ là nơi trông nhốt bệnh nhân, với những căn buồng chật hẹp hôi thối, bẩn thỉu. Nhiều bệnh nhân chết mà không có tên tuổi chỉ được gọi bằng những con số. Dưới thời Pháp thuộc ở nước ta có hai cơ sở tâm thần xây dựng theo kiểu tập trung. Ở miền Nam, có bệnh viện Tâm thần Biên Hoà xây dựng từ năm 1915 với nhiều đợt tu bổ thêm, nơi này là nơi thu dung các bệnh nhân tâm thần khu vực miền nam. Ngoài bắc có trại tâm thần Vôi (Lạng Giang, Bắc Giang) xây dựng năm 1939, thời kỳ phát xít Nhật chiếm đóng đã phá huỷ hoàn toàn. Tháng 12 năm 1956 thành lập khoa Tâm – thần kinh ở bệnh viện Bạch Mai này là Bệnh viện tâm thần trung ương 1. Từ năm 1954 đến năm 1975, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, Đảng và chính phủ đã quan tâm xây dựng cải tạo nhiều cơ sở tâm thần trở thành bệnh viện tâm thần từ địa phương đến trung ương. Các trường đại học y đều có chương trình giảng dạy môn Tâm thần, nhiều trường có bộ môn tâm thần học. Do nhu cầu chữa bệnh cấp thiết của nhân dân, trong thời gian chiến tranh các cơ sở bệnh viện tâm thần và trạm tâm thần đã phát triển ở nhiều tỉnh và thành phố. Sau ngày đất nước thống nhất các cơ sở tâm thần ở miền Bắc được củng cố và phát triển thêm ở nhiều tỉnh thành. Ở các tỉnh miền Nam mới giải phóng các cơ sở tâm thần dần dần theo mô hình như ở miền Bắc. Hệ thống củng tổ chức cứu chữa bệnh tâm thần ngày càng được củng cố và phát triển. Được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ của nhiều tổ chức quốc tế nên ngành tâm thần nước ta đã trưởng thành vượt bậc cả về đội ngũ cán bộ giảng dạy và đội ngũ cán bộ chuyên khoa, cả về cơ sở vật chất kỹ thuật. Hiện nay hệ thống nội trú trong cả nước có 22 bệnh viện tâm thần (phần lớn phía bắc, ở phía nam có 5 bệnh viện) và 20 khoa tâm thần năm trong các bệnh viện đa khoa. Tổng số giường bệnh là 5000, ngoài ra còn có 1.800 giường cho bệnh nhân tâm thần mạn tính, sa sút nặng thuộc quản lý của Bộ Lao động Thương binh 14
  15. và Xã hội.Cả nước cũng có 42 trạm tâm thần. Số quận huyện có tổ chức khám bệnh tâm thần là 20%. Nhiều tỉnh đã có 80%số huyện có phòng khám tâm thần với 1- 2 thầy thuốc hoạt động. 3. Nguyên nhân và phân loại các dạng bệnh tâm thần 3.1. Nguyên nhân. Các nguyên nhân chủ yếu thường được nêu ra bao gồm: 3.1.1. Các nguyên nhân thực tổn. - Chấn thương sọ não. - Nhiễm khuẩn thần kinh (Viêm não, giang mai thần kinh, ...) - Nhiễm độc thần kinh (Nghiện các chất, nhiễm độc nghề nghiệp...). - Các bệnh mạch máu não. - Các tổn thương não khác (U não, teo não, xơ rải rác, ...) - Các bệnh cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động của não. 3.1.2. Các nguyên nhân tâm lý. Chủ yếu các stress tâm lý – xã hội tác động vào các nhân cách có đặc điểm riêng, gây ra: - Các rối loạn tâm căn. - Các rối loạn liên quan đến stress. - Các rối loạn dạng cơ thể. 3.1.3. Các nguyên nhân cấu tạo thể chất bất thường và phát triển tâm thần bệnh lý - Chậm phát triển tâm thần. - Nhân cách bệnh. 3.1.4. Các nguyên nhân chưa rõ ràng (Hay các nguyên nhân nội sinh). Do có sự kết hợp phức tạp của nhiều nguyên nhân khác nhau (Di truyền, chuyển hoá, miễn dịch, cấu tạo thể chất, ...) nên khó xác định nguyên nhân chủ yếu. Các rối loạn tâm thần thường gọi là nội sinh như: - Bệnh tâm thần phân liệt. - Rối loạn cảm xúc lưỡng cực. - Động kinh nguyên phát. 3.2. Phân loại Cách chia thứ nhất: Rối loạn tâm thần được chia thành 3 nhóm chính: - Rối loạn tâm căn (rối loạn lo âu, rối loạn trầm cảm, rối loạn phân li…) 15
  16. - Rối loạn ranh giới (rối loạn nhân cách, chậm phát triên trí tuệ…) - Loạn thần (tâm thần phân liệt, động kinh tâm thần…) Cách chia thứ hai: Rối loạn tâm thần bao gồm: - Rối loạn tâm thần không loạn thần - Rối loạn tâm thần có loạn thần Loạn thần được hiểu là nhóm các triệu chứng thể hiện ở hầu hết các rối loạn tâm bệnh nặng dạng như tâm thần phần liệt, hưng cảm, rối loạn giảm/mất khả năng thích ứng, không phân biệt được hiện tượng thực và không thực. Ở cấp độ thao tác, loạn thần là nhóm các triệu chứng chung thường thấy ở những rối loạn nặng. Nghĩa hẹp loạn thần là có hoang tưởng, ảo giác, cảm xúc không phù hợp. Phân loại các rối loạn tâm bệnh luôn luôn là một vấn đề thời sự trong tâm thần học. Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong phân loại các rối loạn tâm thần. Ngay cả đến định nghĩa thế nào là bệnh tâm thần, thế nào là rối loạn tâm thần, thế nào là không bình thường về mặt tâm thần cũng vẫn là cuộc thảo luận trong tâm thần học. Có nhiều cách diễn đạt khác nhau trong vấn đề này. Các triệu chứng và hội chứng rối loạn tâm thần còn nhiều bất đồng, đặc biệt là những ý kiến về đơn vị bệnh lý và danh pháp các bệnh đó. Cho đến nay thay vì dùng tràn lan bệnh tâm thần người ta đã thay bằng cụm từ rối loạn tâm thần. Năm 1882, Kandinxki là người đầu tiên đã khởi thảo bảng phân loại các bệnh tâm thần. Tuy bảng phân loại còn rất sơ khai, song đã khẳng định rằng các rối loạn tâm thần là một nhóm các đơn thể bệnh. Đến năm 1898 nhà tâm thần học người Đức là E.Kraepelin mới thống nhất các triệu chứng rối loạn tâm thần riêng lẻ vào một thể bệnh nhất định. Căn cứ vảo bảng tiêu chuẩn lâm sàng giống nhau mà Ông đưa ra một bảng phân loại các bệnh tâm thần dựa trên nguyên tắc phân chia theo các đơn thể bệnh riêng biệt. Người ta coi đây là bảng phân loại các bệnh tâm thần đầu tiên trên thế giới. Cho đến những năm gần đây, một số quốc gia vẫn sử dụng bảng phân loại bệnh và làm nền tảng bổ sung mới. Tuy vậy ở một số nước khác, các nhà tâm thần học nhận thấy cách phân chia đơn lẻ thể bệnh có tính chất gượng ép, vì các triệu chứng rối loạn tâm thần rất đa dạng và có những đơn thể bệnh có quá nhiều nguyên nhân, quá nhiều dạng cảnh. Họ chủ trương chỉ phân loại các triệu chứng, hội chứng bệnh là đủ và cho rằng không có những đơn thể bệnh tâm thần mà chỉ có những hội chứng tâm thần. Cho 16
  17. đến gần đây vẫn có nhà tâm thần học cho rằng bệnh tâm thần chỉ có một với nhiều cách biểu hiện lâm sàng khác nhau. Do đó hiện nay vẫn tồn tại hai trường phái khác nhau về phân loại bệnh tâm thần. Một phái chủ trương hội chứng luận, một phái chủ trương phân bệnh luận. Tuy nhiên trong từng trường phái cũng không thống nhất với nhau cách phân chia các nhóm thể. Tình trạng hỗn độn đó đưa đến những hậu quả bất lợi cho sự phát triển tâm thần học như: không có nội dung cụ thể, không có quy định giới hạn rõ ràng, không có sự hiểu biết lẫn nhau nói chung giữa các nước. Hiện nay chúng ta đã và đang sử dụng bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 vào trong chẩn đoán và phân loại bệnh (ICD10 - Intemational statistical clasissfication of diseases and related health problems tanh revision) Các rối loạn tâm thần được ghi mã trong chương F. F00 - F09 Các rối loạn tâm thần thực tổn bao gồm cả rối loạn tâm thần triệu chứng: F00 Mất trí trong bệnh Altheimer F01 Mất trí trong bệnh mạch máu F02 Mất trí trong các bệnh lý khác được xếp loại ở chỗ khác F03 Mất trí không biệt định F04 Hội chứng quên thực tổn, không do rượu và các chất tác động tâm thần khác F05 Sảng không do rượu và các chất tác động tâm thần khác F06 Các rối loạn tâm thần khác do tổn thương não và các rối loạn chức năng não và bệnh cơ thể F07 Các rối loạn hành vi và nhân cách do bệnh lý não, tổn thương não và rối loạn chức năng não F09 Rối loạn tâm thần triệu chứng hoặc thực tổn không biệt định F10 – F19 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất tác động tâm thần: F10 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu F11 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất có thuốc phiện F12 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng cần sa 17
  18. F13 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các thuốc an dịu hoặc các thuốc ngủ F14 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng cocain F15 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất kích thích khác bao gồm cafein F16 Cácrối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất gây ảo giác. F17 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng thuốc lá F18 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các dung môi dễ bay hơi F19 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy và sửdụng các chất tác động tâm thần khác F20 - F29 Bệnh tâm thần phân liệt, các rối loạn loại phân liệt và các rối loạn hoang tưởng F20 Bệnh tâm thần phân liệt F21 Các rối loạn loại phân liệt F22 Các rối loạn hoang tưởng dai dẳng F23 Các rối loạn loạn thần cấp và nhất thời F24 Các rối loạn hoang tưởng cảm ứng F25 Các rối loạn phân liệt cảm xúc F28 Các rối loạn loạn thần không thực tổn khác F29 Bệnh loạn thần không thực tổn không biệt định. F30 - F39 Rối loạn khí sắc (cảm xúc) F30 Giai đoạn hưng cảm F31 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực F32 Giai đoạn trầm cảm F33 Rối loạn trầm cảm tái diễn F34 Các trạng thái rối loạn khí sắc (cảm xúc) dai dẳng F38 Các rối loạn khí sắc (cảm xúc) khác F39 Rối loạn khí sắc (cảm xúc) không biệt định F40 - F48 Các rối loạn bệnh tâm căm có liên quan đến Stress và dạng cơ thể F40 Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ F41 Các rối loạn lo âu khác 18
  19. F42 Rối loạn ám ảnh nghi thức F43 Phản ứng Stress trầm trọng và rối loạn sự thích ứng F44 Các rối loạn phân ly (di chuyển) F45 Các rối loạn dạng cơ thể F48 Các rối loạn tâm căn khác F50 - F59 Các hội chứng hành vi kết hợp với các rối loạn sinh lý và các nhân tố cơ thể F50 Các rối loạn ăn uống F51 Các rối loạn giấc ngủ không thực tổn F52 Loạn chức năng tình dục không do rối loạn hoặc bệnh thực tổn F53 Các rối loạn hành vi và tâm thần kết hơp với thời kỳ sinh đẻ, không phân loại ở nơi khác F54 Các nhân tố tâm lý và hành vi kết hợp với rối loạn hoặc phân loại ở nơi khác F55 Lạm dụng các chất không gây nghiện F59 Các hội chứng hành vi không biệt định kết hợp với các rối loạn sinh lý và các nhân tố cơ thể F60 - F69 Các rối loạn nhân cách và hành vi ở người thành niên F60 Các rối loạn nhân cách đặc hiệu F61 Các rối loạn nhân cách hỗn hợp và các rối loạn nhân cách khác F62 Các biến đổi nhân cách lâu dài mà không thể gán cho một tổn thương não hoặc một bệnh não F63 Các rối loạn thói quen và xung đột F64 Các rối loạn về ưa chuộng giới tính F66 Các rối loạn hành vi và tâm lý kết hơp với sự phát triển và định hướng giới tính F68 Các rối loạn khác về hành vi và nhân cách ở người thành mên F69 Rối loạn không biệt định về hành vi và nhân cách ở người thành niên F70 - F79 chậm phát triển tâm thần F70 Chậm phát triển tâm thần nhẹ F71 Chậm phát triển tâm thần vừa F72 Chậm phát triển tâm thần nặng 19
  20. F73 Chậm phát triển tâm thần trầm trọng F78 Chậm phát triển tâm thần khác F79 Chậm phát triển tâm thần không biệt định F80 -F89 Các rối loạn về phát triển tâm lý F80 Các rối loạn đặc hiệu về phát triển lời nói và ngôn ngữ F81 Các rối loạn đặc hiệu về phát triển các kỹ năng ở nhà trường F82 Các rối loạn đặc hiệu về phát triển chức năng vận động F83 Các rối loạn hỗn hợp và đặc hiệu về phát triển F84 Các rối loạn phát triển lan tỏa F88 Các rối loạn khác của phát triển tâm lý F89 Các rối loạn không đặc hiệu của phát triển tâm lý F90 - F99 Các rối loạn hành vi và cảm xúc thường khởi phát ở tuổi trẻ em và thanh thiếu niên F90 Các rối loạn tăng động F91 Các rối loạn hành vi F92 Các rối loạn hỗn hơp của hành vi và cảm xúc F93 Các rối loạn cảm xúc với sự khởi phát đặc biệt ở tuổi trẻ em F94 Rối loạn hoạt động xã hội với sự khởi phát đặc biệt ở tuổi trẻ em và thanh thiếu niên F95 Các rối loạn tic F98 Những rối loạn hành vi và cảm xúc thường khởi phát ở trẻ em và thanh thiếu niên F99 Rối loạn tâm thần, không biệt định cách khác 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2