intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Chủ nghĩa vô thần học: Phần 1

Chia sẻ: Lăng Mộng Như | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:58

28
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 1 của giáo trình "Chủ nghĩa vô thần học" cung cấp cho học viên những nội dung về: đối tượng và nhiệm vụ của chủ nghĩa vô thần khoa học; khái lược lịch sử phát triển từ chủ nghĩa vô thần đến chủ nghĩa vô thần khoa học; nguồn gốc, bản chất, chức năng của tôn giáo; những hình thức tôn giáo trong lịch sử và xu thế hiện nay;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Chủ nghĩa vô thần học: Phần 1

  1. QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ ----- GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA VÔ THẦN HỌC NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN – 2007
  2. Chủ đề 1 ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA CHỦ NGHĨA VÔ THẦN KHOA HỌC 1. Đối tượng của chủ nghĩa vô thần khoa học 1.1. Khái niệm và đối tượng của chủ nghĩa vô thần khoa học Chủ nghĩa “vô thần”, gốc từ Hy Lạp, là athéos, có nghĩa là phủ định thần thánh. Là một bộ phận của triết học, thuộc về ý thức xã hội, chủ nghĩa vô thần là một hệ thống quan điểm lý luận phủ định thần thánh, phủ định các lực lượng siêu nhiên, chỉ ra bản chất xã hội của nó và xác định con đường, cách thức khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội. Chủ nghĩa vô thần là thế giới quan của các giai cấp và các tập đoàn xã hội tiến bộ, đối lập với thế giới quan duy tâm của các giai cấp, các lực lượng phản khoa học, phản động trong giải thích về thế giới và vị trí con người trong thế giới. Chủ nghĩa vô thần khoa học nghiên cứu nguồn gốc, bản chất tôn giáo, lịch sử của các học thuyết vô thần, chỉ ra con đường khắc phục thế giới quan duy tâm tôn giáo và hình thành thế giới quan duy vật khoa học. Chủ nghĩa vô thần khoa học là một bộ phận không tách rời triết học Mác- Lênin, góp phần làm cho thế giới quan duy vật hoàn chỉnh, là cơ sở phương pháp luận của nhận thức và cải tạo hiện thực. Chủ nghĩa vô thần khoa học là một bộ phận của thế giới quan duy vật khoa học của giai cấp công nhân và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo xã hội. Tuy nhiªn, chủ nghĩa vô thần khoa học là một lĩnh vực tri thức có tính độc lập tương đối, có phạm vi riêng, có đối tượng nghiên cứu riêng. Đối tượng của chủ nghĩa vô thần khoa học là nghiên cứu những vấn đề có tính quiy luật của sự phát sinh, tiến triển, sự khắc phục ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm tôn giáo và tính quy luật của sự hình thành, phát triển thế giới quan duy vật khoa học. Chủ nghĩa vô thần khoa học nghiên cứu bản chất xã hội của tôn giáo. Tôn giáo là sự phản ánh hư ảo thế giới hiện thực vào đầu óc con người. Chỉ trên cơ sở phân tích khoa học về tôn giáo, phân tích bản chất và vai trò xã hội
  3. 3 của nó thì mới có được một lý luận vô thần khoa học. Chủ nghĩa vô thần khoa học phân tích, phê phán những quan điểm duy tâm thần bí, phản khoa học, phản văn hoá trong các quan niệm và khái niệm của tôn giáo. Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, chủ nghĩa vô thần khoa học phê phán tính chất sai lầm, phản khoa học của các quan niệm như niềm tin vào thần thánh; sự bất tử của linh hồn; sự cứu vớt cá nhân; sự trừng phạt khủng khiếp; sự đền bù ở thế giới bên kia. C.Mác cho rằng, việc phê phán tôn giáo làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người tư duy, hành động, xây dựng tính hiện thực của mình, với tư cách là một con người đã thoát khỏi ảo tưởng và đạt đến tuổi có lý trí . Chủ nghĩa vô thần khoa học nghiên cứu lịch sử các học thuyết vô thần; sử dụng các tư tưởng có giá trị mà các học thuyết vô thần trước đó tích luỹ được. Chủ nghĩa vô thần khoa học phản ánh thế giới quan của các giai cấp, tÇng lớp xã hội có khuynh hướng tiến bộ, đấu tranh chống tôn giáo, nhà thờ gắn liền với đấu tranh chống các lực lượng xã hội bảo thủ, phản động. Tư tưởng vô thần xuất hiện từ thời cổ đại. Các nhà triết học Hylạp cổ đại theo đường lối triết học duy vật từ Đêmôcrít (460-370 TCN) đến Êpiquya (341-270 TCN) đều cho rằng, không có Thượng đế, không có thần linh, chỉ có hình ảnh của chúng là những thứ có được do trí tưởng tượng của con người tạo ra. Linh hồn của con người cũng do nguyên tử cấu tạo nên. Vào thế kỷ XVIII, các nhà tư tưởng Pháp phê phán tôn giáo, nhà thờ, đồng thời phê phán trật tự xã hội phong kiến. Tư tưởng vô thần luôn luôn mang đặc điểm tiến bộ, khẳng định thế giới quan mới, tiên tiến. Nội dung các quan điểm vô thần thường gắn với đặc điểm đấu tranh tư tưởng, với sự phát triển của khoa học tự nhiên và của triết học. Chủ nghĩa vô thần trước Mác đã gắn liền vấn đề phê phán tôn giáo với việc giải phóng con người khỏi xiềng xích của sự dốt nát và thành kiến, sự sợ hãi và nhẫn nhục. Trong các tác phẩm của Mác, Ăngghen và Lênin đã chỉ ra những mặt tích cực của chủ nghĩa vô thần trước Mác, thông qua việc phủ định Thượng đế và khẳng định sự tồn tại của con người. Theo Mác, việc phê phán tôn giáo dẫn đến học thuyết cho rằng con người là tồn tại tối cao đối với con người. Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử và lập trường giai cấp mµ chủ nghĩa vô thần trước Mác có những hạn chế về khoa học, không hiểu bản chất xã hội
  4. 4 của tôn giáo, không làm rõ nguyên nhân xã hội của tôn giáo. Chủ nghĩa vô thần khoa học thay thế chủ nghĩa vô thần trước Mác là tất yếu. Chủ nghĩa vô thần khoa học coi tôn giáo trong xã hội có đối kháng giai cấp là sản phẩm tất yếu của chế độ người bóc lột người, của sự áp bức về xã hội, về kinh tế và tinh thần. Chủ nghĩa vô thần khoa học nhấn mạnh nhiệm vụ phê phán tôn giáo một cách khoa học và chỉ ra sự đòi hỏi phải thay đổi các quan hệ xã hội đã sản sinh ra tôn giáo. Mác cho rằng, phê phán thượng giới biến thành phê phán cõi trần, phê phán tôn giáo biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành sự phê phán chính trị. Chủ nghĩa vô thần khoa học tiếp thu các giá trị chủ nghĩa vô thần trước Mác trong phê phán tôn giáo, chỉ ra nguồn gốc tôn giáo trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, gắn liền nhiệm vụ đấu tranh chống quan điểm duy tâm, phản khoa học, phản văn hóa của tôn giáo với giải phóng quần chúng lao động, chỉ ra con đường để khắc phục tôn giáo. Như vậy, chủ nghĩa vô thần khoa học vạch rõ tính chất ảo tưởng hoang đường trong quan niệm của tôn giáo (về thế giới, con người, ý niệm Thượng đế, đấng sáng thế, sự bất tử của linh hồn .v.v.). Chủ nghĩa vô thần khoa học chỉ rõ về mặt lý luận tính chất sai lầm của các quan điểm duy tâm tôn giáo, làm sáng tỏ bản chất xã hội của tôn giáo điều kiện, nguyên nhân, nguồn gốc phát sinh và tồn tại của tôn giáo, chỉ ra những con đường khắc phục tôn giáo. Chủ nghĩa vô thần khoa học nghiên cứu quy luật của sự khắc phục thế giới quan duy tâm tôn giáo và hình thành, phát triển thế giới quan vô thần khoa học. Nghiên cứu tôn giáo không phải mục đích tự thân của chủ nghĩa vô thần khoa học. Sự phân tích bản chất, chức năng xã hội của tôn giáo gắn liền với nghiên cứu tính quy luật khắc phục thế giới quan duy tâm tôn giáo, tính quy luật hình thành, phát triển thế giới quan vô thần khoa học. 1.2. Tôn giáo, tín ngưỡng – khách thể nghiên cứu của chủ nghĩa vô thần khoa học * Tôn giáo Quan niệm về tôn giáo được thịnh hành trong tư tưởng của các nhà thần học thời trung cổ. Ôguytxtanh (354-430) cho r»ng chỉ có Thượng đế sáng tạo ra thế giới và nhận thức được thế giới. Thượng đế là cái huyền bí, hư ảo. Tômát Đacanh (1225-1274) cho Thượng đế sáng tạo ra thế giới, là nguyên nhân đầu tiên và nguyên nhân cuối cùng của thế giới. Thượng đế là nguồn gốc của mọi chân lý, là mục đích tối cao, là “quy luật”vĩnh viễn thống
  5. 5 trị mọi cái. Ông cho, những chân lý thần học là “siêu lý trí”, triết học phải phụ thuộc vào thần học. Ngược lại với quan điểm duy tâm, trong lịch sử đã hình thành các quan điểm duy vật về tôn giáo. Côpécních (1473-1543) bác bỏ Chúa sáng tạo thế giới. Hium (1711-1776) cho rằng, nguồn gốc tôn giáo là sự tưởng tượng của con người, nó khuyến khích cảm giác sợ hãi và hy vọng. Điđrô (1713-1784) cho không phải tôn giáo sáng tạo ra con người, mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo. Phủ nhận sự thống trị của Thượng đế. Với Hônbách (1723-1789), nguồn gốc tôn giáo là sự ngu dốt và yếu ớt của con người trước mọi hiện tượng tự nhiên. Ông cho rằng, ngu dốt lo sợ, đau khổ bao giờ cũng là nguồn gốc của những quan niệm đầu tiên của con người về thần linh. Chính giai cấp thống trị lợi dụng sự ngu dốt của nhân dân mà sử dụng tôn giáo như một thứ vũ khí để nô dịch họ. Hônbách đã định nghĩa thần học là khoa học mang mầu sắc thần linh do chúng ta suy nghĩ về những cái mà chúng ta không hiểu, và làm cho chúng ta mất quan niệm rõ ràng về những điều mà chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được. Phơbách (1804-1872) là người có công lớn trong phê phán tôn giáo. Ông coi tôn giáo thực chất chỉ là sự thể hiện bản chất con người dưới hình thức thần bí. Tôn giáo là bản chất con người đã bị tha hoá. Trong lịch sử đã có rất nhiều định nghĩa về tôn giáo. Taylor (1833- 1917): cho tôn giáo là sự tin tưởng vào các thực thể tâm linh. Định nghĩa này bước đầu đã chỉ ra bản chất tôn giáo là quan hệ giữa con người và thực thể tâm linh. Sau Taylor có các định nghĩa khác về tôn giáo nhằm làm rõ những mặt, khía cạnh khác nhau của tôn giáo. Durkhein định nghĩa từ góc độ bản thể: Tôn giáo là hệ thống cố kết những tín ngưỡng và thực hành có liên quan đến các sự vật thiêng liêng, gắn với một cộng đồng tinh thần gọi là giáo hội. Lúckman định nghĩa từ chức năng: Tôn giáo là thế giới quan. Schmidt định nghĩa: Tôn giáo là con đường cho tất cả. Từ điển “thuật ngữ tôn giáo” định nghĩa: Tôn giáo là lĩnh vực cần thiết cho những người muốn đối thoại và thực hành với cái thiêng liêng và thần thánh. Một số học giả từ các góc độ tiếp cận khác nhau coi tôn giáo là một bộ phận văn hóa tinh thần mà con người cảm nhận những điều của thế giới vô
  6. 6 hình rút ra từ xã hội và tự nhiện mà họ đương sống theo cách nghĩ của nền văn hóa đang chi phối họ. Từ góc độ triết học, Ăngghen cho rằng: “Bất cứ tôn giáo nào cũng đều là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc người ta những sức mạnh từ bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh của thế gian đã mang hình thức sức mạnh siêu thế gian”1. Luận điểm trên đã khẳng định bản chất tôn giáo, chỉ ra được tôn giáo là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Tôn giáo xuất hiện do con người bất lực trước những lực lượng, những sức mạnh thống trị họ, đồng thời mong muốn khắc phục sự bất lực đó bằng các biện pháp hoang tưởng. Đó là sự bù đắp hư ảo. Tuy nhiên, từ góc độ bộ môn chủ nghĩa vô thần khoa học, cần định nghĩa tôn giáo với tính cách là một hiện tượng xã hội, bao gồm cả ý thức tôn giáo, tổ chức tôn giáo và hoạt động tôn giáo. * Các yếu tố cấu thành tôn giáo: Theo Plêkhanốp, tôn giáo là hệ thống các quan niệm, tình cảm và hành động ít nhiều ổn định. Quan niệm tôn giáo là niềm tin vào tính hiện thực của cái siêu nhiên được biểu hiện dưới hình thức huyền thoại, những giáo lý, giáo luật. Tình cảm tôn giáo là tình cảm giữa con người và các lực lượng siêu nhiên do họ hình dung ra. Tình cảm tôn giáo là yếu tố quan trọng của bất kỳ tôn giáo nào. Từ niềm tin và tình cảm của con người với cái siêu nhiên, dẫn đến các hành vi tôn giáo của con người, thông qua việc thờ cúng, thực hiện các nghi thức, các quy định của giáo luật. Song, như vậy chưa đủ. Trong xã hội có giai cấp, các quan hệ xã hội và cơ cấu xã hội rất phức tạp, có sự tách biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc, hình thành tầng lớp hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp. Các tổ chức tôn giáo được hình thành và thực hiện nhiều chức năng nhằm duy trì và phát triển tôn giáo. Yếu tố tổ chức trở thành một yếu tố cấu thành tôn giáo. Các yếu tố hợp thành tôn giáo có quan hệ chặt chẽ, trong đó quan niệm tôn giáo là yếu tố đầu tiên quyết định. Các yếu tố cấu thành tôn giáo còn được các nhà nghiên cứu tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau. Theo Y. Lambevt, có 3 yếu tố cấu thành tôn giáo: Đó là sự tồn tại giả 1 C.Mác – Anggen Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội CTQG, 1994, tr.544.
  7. 7 định của các vật thể, lực lượng hay thực thể nằm ngoài con người; các phương tiện, biểu trưng để giao lưu với những sức mạnh đó; sự tồn tại của những hình thức quản lý chung cả cộng đồng. Theo Byrne, có 4 yếu tố (phương diện) cấu thành tôn giáo: Đó là lý thuyết (tín điều, giáo lý...); thực hành (nghi lễ, cầu nguyện, chuẩn mực đạo đức); tính xã hội (giáo hội, người lãnh đạo, các chức việc); tính thực nghiệm (cảm xúc, viễn cảnh tương lai, các loại tình cảm). Như vậy, các quan niệm tuy khác nhau nhưng có điểm chung là đều tiếp cận tôn giáo với tư cách là một hiện tượng xã hội vµ có ý thức, có hành vi, có tư tưởng và có tổ chức. * Tín ngưỡng: Tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng mộ vào cái huyền bí, thiêng liêng, siêu việt. Tín ngưỡng là nền tảng để hình thành tôn giáo. Khi tín ngưỡng được một cộng đồng người thể chế, quy phạm hoá cao độ thì trở thành tôn giáo. Khái niệm tôn giáo và khái niệm tín ngưỡng có quan hệ với nhau nhưng ở hai cấp độ khác nhau, trong đó tín ngưỡng cấp độ thấp hơn so với tôn giáo. Tín ngưỡng tôn giáo là khái niệm chỉ niềm tin vào cái “siêu nhiên”, thần thánh, không có thật (hẹp hơn tôn giáo, hẹp hơn tín ngưỡng). * Mê tín: Mê tín là niềm tin mê muội. Gốc từ Hán mê tín có nghĩa là không nhận ra thị phi mà mắt nhắm tin mù (mê tín và tín ngưỡng là khó phân biệt). Niềm tin mê muội, thường gắn với những hủ tục gây hậu quả xấu cho con người và xã hội. Niềm tin mơ hồ gắn với hành vi phản văn hoá, gây tác hại cho cá nhân, gia đình và xã hội. Mê tín là một hiện tượng xã hội mang tính toàn cầu, tồn tại dưới các hình thức khác nhau, “ sống ký sinh” vào các hiện tượng thế giới, các sinh hoạt văn hóa … ranh giới có khi khó xác định và rất dễ chuyển hoá … 2. Nhiệm vụ, nội dung của chủ nghĩa vô thần khoa học 2.1. Nhiệm vụ của chủ nghĩa vô thần khoa học Chủ nghĩa vô thần khoa học có các nhiệm vụ cơ bản sau đây: Vạch rõ bản chất phản khoa học, duy tâm của thế giới quan tôn giáo, bản chất phản động của hệ tư tưởng tôn giáo, khẳng định bức tranh chân thực về thế giới, giải phóng con người khỏi những nô lệ về tinh thần.
  8. 8 Chủ nghĩa Mác khẳng định xoá bỏ tôn giáo, coi là hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thực sự của nhân dân. Chủ nghĩa vô thần khoa học có nhiệm vụ góp phần xây dựng thế giới quan vô thần khoa học cho quần chúng nhân dân, là điều kiện quan trọng để hình thành niềm tin cộng sản. Chủ nghĩa vô thần khoa học làm rõ vấn đề giáo dục vô thần cho quần chúng lao động . Giải phóng nhân dân lao động về mặt tinh thần là vai trò quan trọng chủ yếu và tích cực nhất của chủ nghĩa vô thần khoa học. Chủ nghĩa vô thần khoa học được Lênin coi là chủ nghĩa vô thần chiến đấu, là học thuyết mang tính đảng triệt để, tiến hành đấu tranh khoa học với tất cả các loại tôn giáo và mọi hiện tượng thần bí, đề ra và giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn giáo dục vô thần cho quần chúng lao động, hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Chủ nghĩa vô thần khoa học có nhiệm vụ góp phần khẳng định những nguyên tắc đạo đức cộng sản, nâng cao phẩm giá con người, thúc đấy sự phát triển năng lực sáng tạo của con người. Chủ nghĩa vô thần khoa học mang bản chất nhân đạo cao cả. Trong khi phê phán tôn giáo, chủ nghĩa vô thần khoa học khẳng định niềm tin của con người vào sức mạnh của chính mình, khả năng hoàn thiện tri thức của con người, phủ nhận sự lệ thuộc của con người vào các lực lượng siêu nhiên. 2.2. Nội dung của chủ nghĩa vô thần khoa học Nội dung của chủ nghĩa vô thần khoa học bao gồm một loạt vấn đề như lịch sử chủ nghĩa vô thần, lý luận của chủ nghĩa vô thần khoa học và vấn đề giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học. Lịch sử chủ nghĩa vô thần nghiên cứu sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa vô thần trước Mác; sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa vô thần mácxít. Từ đó chỉ ra tính quy luật hình thành, phát triển tư tưởng vô thần khoa học. Lý luận của chủ nghĩa vô thần khoa học bao gồm nhiều vấn đề như nguồn gốc, bản chất, chức năng tôn giáo; những hình thức tôn giáo trong lịch sử, những tôn giáo lớn trên thế giới và ở Việt Nam. Trên cơ sở những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo, chủ nghĩa vô thần khoa học nghiên cứu vấn đề giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống tinh thần của nhân dân nói chung và
  9. 9 quân nhân nói riêng. Như vậy, nội dung của chủ nghĩa vô thần khoa học rất rộng lớn và phong phú. Nó đã và đang phát triển cùng với sự phát triển của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. 3. Chức năng của chủ nghĩa vô thần khoa học Là một bộ môn không tách rời triết học Mác -Lênin nhưng có tính độc lập tương đối, chủ nghĩa vô thần khoa học có nhiều chức năng. Chủ nghĩa vô thần khoa học có chức năng thế giới quan. Trên cơ sở hình thành các quan điểm vô thần khoa học, góp phần hình thành và củng cố thế giới quan duy vật biện chứng cho con người. Chủ nghĩa vô thần khoa học có chức năng phương pháp luận. Từ quan điểm vô thần khoa học, giúp con người có phương pháp luận đúng đắn trong nhận thức và thực tiễn. Chủ nghĩa vô thần khoa học định hướng cho con người hành động đúng đắn, thoát khỏi phương pháp duy tâm, thần bí, siêu hình, phiến diện trong nhận thức và thực tiễn. Từ đó góp phần hình thành và củng cố phương pháp luận biện chứng duy vật khoa học và cách mạng cho quần chúng nhân dân. Chủ nghĩa vô thần có chức năng nhận thức – giáo dục. Chủ nghĩa vô thần khoa học trang bị những tri thức đúng đắn về tôn giáo với tính cách là một hiện tượng xã hội. Chủ nghĩa vô thần khoa học mang bản chất nhân đạo cao cả, chỉ ra con đường, phương thức khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo, hình thành phát triển quan điểm vô thần khoa học, làm cơ sở cho giáo dục tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ trong quần chúng nhân dân. Chủ nghĩa vô thần khoa học có chức năng đánh giá - phê phán. Chủ nghĩa vô thần khoa học hình thành, phát triển, một mặt đấu tranh với các quan điểm duy tâm, thần bí, sai lầm, phản động của tôn giáo; mặt khác, là sự phủ định biện chứng chủ nghĩa vô thần trước Mác, do vậy mang trong lòng tính chất “chủ nghĩa vô thần chiến đấu”. Các quan điểm của chủ nghĩa vô thần khoa học trở thành các chuẩn mực để đánh giá - phê phán các quan điểm duy tâm, siêu hình, phản động, phản khoa học của thế giới quan tôn giáo. Nó đấu tranh không khoan nhượng với các thế lực lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ xã hội. 4. Cơ sở khoa học của chủ nghĩa vô thần khoa học Chủ nghĩa vô thần khoa học không chỉ dựa trên cơ sở quan điểm triết
  10. 10 học mácxít mà còn dựa vào thành tựu của các khoa học khác. Chủ nghĩa vô thần khoa học dựa trên cơ sở quan điểm triết học mácxít, phê phán bản chất của ảo tưởng tôn giáo, chỉ ra nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, của tôn giáo, tính phi lý trong đạo đức và thẩm mỹ, tính chất ảo tưởng của các học thuyết tôn giáo. Chủ nghĩa vô thần khoa học dựa vào thành tự của khoa học tự nhiên. Đó là quan niệm sai lầm của tôn giáo về thế giới, về vũ trụ và nguồn gốc, bản chất con người. Chủ nghĩa vô thần khoa học dựa vào thành tựu của khoa học lich sử để phê phán vai trò phản động của tôn giáo trong lịch sử hình thành, phát triển của đời sống xã hội và sự cần thiết phải khắc phục nó. Chủ nghĩa vô thần khoa học dựa vào kết quả nghiên cứu của tâm lý học về tác động của tôn giáo đến thế giới nội tâm con người, cơ chế hình thành các quan niệm hoang tưởng và động cơ, hành vi của giáo dân, làm rõ phương pháp tác động có hiệu quả nhất đến quá trình hình thành, phát triển thế giới quan vô thần đối với con người. Như vậy, sự hình thành, phát triển quan điểm của chủ nghĩa vô thần khoa học không tách rời trình độ nhận thức khoa học chung của nhân loại. Chủ nghĩa vô thần khoa học có quan hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhưng không thay thế các khoa học đó trong nghiên cứu tôn giáo. Các ngành khoa học cụ thể làm phong phú lý luận vô thần (đạo đức học, sử học, dân tộc học, khảo cổ học, thiên văn học, sinh lý học, y học…). Các khoa học cụ thể là cơ sở khoa học của chủ nghĩa vô thần, khẳng định sức sống của chủ nghĩa vô thần khoa học. Tuy nhiên, chủ nghĩa vô thần khoa học không thay thế các khoa học cụ thể trong nghiên cứu tôn giáo. Chủ nghĩa vô thần khoa học trang bị cho con người phương pháp luận để nhận thức quy luật hình thành và phát triển các quan điểm tôn giáo, nguyên tắc chung khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo khẳng định thế giới quan vô thần khoa học. 5. Mối quan hệ giữa chủ nghĩa vô thần khoa học và tôn giáo học 5.1. Tôn giáo học Tôn giáo học nghiên cứu về tôn giáo nhưng khác với thần học (môn học về tôn giáo của các tôn giáo). Đây là một khoa học nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng trên cơ sở lập trường thế giới quan duy vật khoa học. Tôn giáo học là khoa học nghiên cứu làm rõ nguồn gốc, bản chất, vai trò xã hội của tôn giáo; chỉ rõ về mặt lý luận tính chất sai lầm của các quan niệm
  11. 11 duy tâm, tôn giá. Trên cơ sở đó, nhận thức được xu thế tồn tại và phát triển của tôn giáo, con đường và thái độ khoa học trong ứng xử với tôn giáo. Tôn giáo học nghiên cứu sự phát sinh, phát triển của tôn giáo trong lịch sử, xu thế cơ bản, những nội dung cơ bản của ý thức và hành vi tôn giáo. Tõ đó, phê phán bản chất phản khoa học của tôn giáo và chỉ ra phương hướng ứng xử, con đường khắc phục sự ảnh hưởng của tôn giáo. Trên cơ sở thể giới quan duy vật khoa học, tôn giáo học nghiên cứu hệ thống giáo lý, giáo luật của một số tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ ra xu hướng phát triển của các tôn giáo lớn hiện nay một cách khoa học. Tôn giáo học nghiên cứu sự ra đời, tồn tại và phát triển, tình hình hoạt động của một số tôn giáo ở Việt Nam, một số quan điểm cơ bản của Đảng và chính sách của nhà nước về vấn đề tôn giáo. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo bao gồm: Tôn giáo ngoại nhập: Phật, Tin lành, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo; tôn giáo nội sinh: Cao đài, Phật giáo Hoà hảo, tín ngưỡng bản địa. Đồng thời, ở Việt Nam có sự kết hợp, đan xen các hình thức tôn giáo trong lịch sử. Tôn giáo học làm rõ cơ sở lịch sử xã hội của sự ra đời phát triển của các tôn giáo ở Việt Nam, vai trò xã hội của nó (cả tích cực và tiêu cực) trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Luận chứng khoa học cho các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng, góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa học cho các tầng lớp nhân dân và vấn đề giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học. Nhiệm vụ của tôn giáo học Luận chứng những vấn đề lý luận về cơ sở của sự ra đời, bản chất, vai trò xã hội của tôn giáo, xu thế phát triển cña tôn giáo hiện nay. Góp phần hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, để có thái độ xem xét đúng đắn tình hình tôn giáo, có địng hướng đúng đắn trong hoạt động thực tiễn. 5.2. Quan hệ giữa tôn giáo học với chủ nghĩa vô thần khoa học. Đây là hai bộ môn khoa học có cùng một khách thể nghiên cứu là hiện tượng tôn giáo. Nhưng chúng khác nhau ở chỗ tôn giáo học nghiên cứu tôn giáo với tính cách là một hiện tượng xã hội (cả vật chất và tinh thần). Chủ nghĩa vô thần khoa học tập trung nghiên cứu tôn giáo với tính cách là một
  12. 12 hình thái ý thức xã hội là chủ yếu. Chủ nghĩa vô thần khoa học là lý luận phê phán tính chất duy tâm, phản khoa học của tôn giáo, làm cơ sở khoa học cho nhận thức tôn giáo. Tôn giáo học cung cấp tư liệu, làm cơ sở cho việc nghiêm cứu chủ nghĩa vô thần khoa học. Muốn phê phán tôn giáo phải có chủ nghĩa vô thần khoa học, nhưng muốn phê phán đúng đắn thì phải hiểu được tôn giáo (phải có tôn giáo học). Vì theo Mác tôn giáo phải được khắc phục một cách khoa học, nghĩa là phải được giải thích một cách lịch sử. 6. Phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa vô thần khoa học Nghiên cứu chủ nghĩa vô thần khoa học phải dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận cơ bản và quan trọng nhất. Nghiên cứu chủ nghĩa vô thần khoa học đòi hỏi phải sử dụng phương pháp quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp lôgíc – lịch sử và phương pháp tổng kết thực tiễn. Ngoài ra cần tận dụng các phương pháp nghiên cứu của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội có liên quan để tiếp cận, phân tích tôn giáo một cách khoa học. Từ đó bổ sung, phát triển chủ nghĩa vô thần khoa học phù hợp với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Nghiên cứu chủ nghĩa vô thần khoa học giúp con người phát triển thế giới quan duy vật biện chứng, khắc phục nh÷ng tàn dư tiªu cùc trong ý thức và hành vi, tõ ®ã góp phần quan träng vào công tác chính trị, tư tưởng, trong tình hình mới. Trong cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay, các thế lực phản động thường lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng. Lênin nói, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, có mối liên hệ gắn chặt những lợi ích giai cấp vì những tổ chức giai cấp của giai cấp tư sản hiện nay với các tổ chức tôn giáo và các cơ quan tuyên truyền tôn giáo. Như vậy, nghiên cứu chủ nghĩa vô thần khoa học góp phần đấu tranh khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, đồng thời gắn chặt với cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay. Nghiên cứu chủ nghĩa vô thần khoa học giúp cán bộ, chiến sĩ quân đội ta có cơ sở khoa học để làm tốt công tác vận động quần chúng ở vùng có đạo, giúp quần chúng nâng cao tính tích cực trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ nghĩa vô thần khoa học chỉ ra con đường, phương hướng chủ yếu để
  13. 13 giáo dục chủ nghĩa vô thần trong quần chúng. Bằng sự hiểu biết đúng đắn bản chất, chức năng xã hội của tôn giáo, đặc thù ý thức tôn giáo, tín ngưỡng, đặc điểm của các tôn giáo hiện đại, cho phép lựa chọn những con đường, phương thức thích hợp để ứng xử và giáo dục chủ nghĩa vô thần cho quần chúng nhân dân có hiệu quả.
  14. 14 Chương 2 KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỪ CHỦ NGHĨA VÔ THẦN ĐÊN CHỦ NGHĨA VÔ THẦN KHOA HỌC 1. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa vô thần trước M¸c Lịch sử của chủ nghĩa vô thần nói chung, của chủ nghĩa vô thần khoa học nói riêng, theo quan điểm mácxít, là lịch sử phát sinh, hình thành và phát triển của các quan điểm, tư tưởng vô thần khác nhau, trong sự phụ thuộc, suy đến cùng, vào sự phát triển của tồn tại xã hội. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử phát triển của chủ nghĩa vô thần là cuộc đấu tranh của nó với tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm. Qua đó thấy rõ sự biến đổi của những hình thái khác nhau của chủ nghĩa vô thần. Cùng với nó là sự biến đổi của tôn giáo dưới các hình thức khác nhau, các khuynh hướng khác nhau. Chỉ có thể tìm hiểu sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa vô thần khoa học một cách đầy đủ khi nghiên cứu kỹ cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa vô thần và tôn giáo trong lịch sử. Chủ nghĩa vô thần khoa học cho rằng, tương ứng với mỗi hình thái kinh tế- xã hội là một thời kỳ lịch sử tư tưởng vô thần: chủ nghĩa vô thần của xã hội chiếm hữu nô lệ, chủ nghĩa vô thần của xã héi phong kiến, chủ nghĩa vô thần của thời kỳ hình thành, phát triển chủ nghĩa tư bản. Đó là sự phát triển của chủ nghĩa vô thần trước khi xuất hiện chủ nghĩa vô thần khoa học- chủ nghĩa vô thần Mác- Lênin. Tư tưởng vô thần được phát triển không chỉ trong triết học mà còn trong các lĩnh vực khác như văn học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền... Nhìn chung, chủ nghĩa vô thần trước Mác hình thành và phát triển trong điều kiện chế độ bóc lột, ngoài những điểm tích cực, ưu điểm là cơ bản, nó cũng có những hạn chế nhất định. Chỉ đến khi chủ nghĩa vô thần khoa học ra đời mới thật sự tạo nên bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng vô thần. 1.1. Tư tưởng vô thần thời kỳ cổ đại Chủ nghĩa vô thần xuất hiện đồng thời ở Hy Lạp, Babilon, Ên §ộ, Trung Quốc. Sự xuất hiện tư tưởng vô thần đánh dấu một bước sự phát triển của tư tưởng nhân loại; là sự giải thích khác về thế giới, đối lập với quan điểm tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm. Tuy chưa trực tiếp phủ định tôn giáo, nhưng tư tưởng vô thần của thời kỳ này đã góp phần lên án việc sử dụng tôn giáo để mê
  15. 15 hoặc nhân dân, trái với đạo đức con người, phản nhân đạo... Tuy nhiên, thái độ phủ định tôn giáo còn dè dặt, mới biểu hiện ở những tư tưởng tự do. Tư tưởng vô thần thể hiện khá rõ nét trong các hệ thống tư tưởng chính thống và tà giáo của triết học Ân Độ. Những người theo phái Mimansa không thừa nhận sự tồn tại của thần. Lập luận để gạt bỏ thần của họ thật đơn giản: thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần; cảm giác không nhận ra thần; còn các nguồn khác của tri thức suy cho cùng là dựa trên cảm giác. Phái Mimansa không những chống lại chủ nghĩa hữu thần mà còn chống cả chủ nghĩa duy tâm triết học. Là một trong những trường phái triết học chính thống thừa nhận tính đúng đắn tuyệt đối của Vêđa, những người thuộc phái SàmKhya lại cương quyết gạt bỏ Brahman - tinh thần vũ trụ và phủ nhận sự tồn tại của thần. Họ đưa ra học thuyết tồn tại của kết quả trong nguyên nhân, thừa nhận sự chuyển hoá nhân quả. Từ tính chất nhân quả, họ giải thích thế giới theo lập trường duy vật và vô thần. Họ cho rằng, nếu thế giới là vật chất thì nguyên nhân của nó phải là vật chất. Tuy nhiên, SàmKhya hậu kỳ đã thừa nhận có thần bên cạnh thế giới vật chất. Tư tưởng vô thần thể hiện rõ nét hơn trong các hệ thống tà giáo: Jaina, Lokµyata và Phật giáo. Nếu những người theo các phái chính thống cố gắng biện minh, bảo vệ thần, luận giải sự đúng đắn của Vêđa, thì ngược lại, những người theo phái tà giáo kiên quyết chống lại Vêđa, bác bỏ thần. Tiêu biểu hơn cả là tư tưởng vô thần Phật giáo. Phật giáo bác bỏ thần Brahman và thần Atman, cho rằng, thế giới được cấu tạo do nhóm hợp của các yếu tố vật chất (sắc), gồm có địa (đất, các chất khoáng); thuỷ (nước, các chất lỏng); hoả (lửa, nhiệt); phong (gió, không khí, thở); không (không khí) và tinh thần (danh) ; ý thức, tư duy. Danh và sắc chỉ hội tụ lại với nhau trong một thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác. Do vậy, không có cái tôi (vô ngã). Bản chất sự tồn tại thế giới là một dòng chuyển biến liên tục (vô thường), không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên. Do vậy, không có ai tạo ra thế giới và cũng không có cái gì là vĩnh hằng. Tóm lại, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng thế tối cao (vô ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng (vô thường, thuyết duyên khởi). Tư tưởng vô thần xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc trong các trường phái tiêu biểu như Âm dương - Ngũ hành, Nho gia, Đạo gia, Pháp gia. Trâu Diễn - đại biểu tiêu biểu của phái Âm dương - Ngũ hành đã dựa trên lập trường chất
  16. 16 phác về tự nhiên để phủ nhận thần. Ông cho rằng, nguån gèc của vạn vật, của mọi sinh thành, biến hoá là âm và dương. Âm và dương là hai thế lực đối chọi nhau nhưng lại thống nhất với nhau trong vạn vật, là điều kiện tồn tại của nhau, động lực của mọi vận động, phát triển. Cũng như thuyết "bốn yếu tố" của người Hy Lạp cổ đại hay thuyết" năm yếu tố" của người Ấn Độ, những người theo thuyết Ngũ hành cho rằng, vạn vật là do năm yếu tố: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ tạo nên. Các yếu tố này không ở trạng thái tĩnh mà là luôn vận động, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, cái này chuyển hoá thành cái kia... Như vậy, thuyết Âm Dương, Ngũ hành đã thừa nhận tính vật chất của thế giới, giải thích thế giới từ quy luật phát triển của chính nó. Tuy còn chất phác, máy móc nhưng nó có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm và mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên. Khổng Tử - Người sáng lập trường phái Nho gia, tuy chưa bác bỏ dứt khoát sự tồn tại của thần, nhưng ông không hoàn toàn tin có thần nên rất ít bàn chuyện quỷ thần. Ông ít bàn đến chuyện quỷ thần, nên khi ông có nói đến Trời, Mệnh trời chỉ là để bày tỏ ý kiến của mình. Trời đối với Khổng Tử có chỗ như là một quy luật, là trật tự của vạn vật (Trời có nói gì đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, trăm vật vẫn sinh trưởng); có chỗ Khổng Tử khẳng định: Trời có ý chí (than ôi! trời làm mất đạo ta). ý của Trời là Thiên mệnh... nhưng Khổng Tử lại chủ trương: ở mỗi cá nhân, sự sống, cái chết, phú quý hay nghèo hèn đều là do sự nỗ lực chủ quan. Phú quý không cầu mà có. Do vậy, không cần phải cầu, phải xin thần. Rõ ràng, Khổng Tử hoài nghi sự tồn tại của thần, cho nên một mặt, ông chủ trương tôn kính thần, mặt khác, lánh xa và cảnh giác thần. Ông nói: kẻ mê tín thần là kẻ ngu! Tin thần xem như là có thần. Có thần hay không là do mình. Quỷ thần không đáng tế mà tế là nịnh... Điều đó cho thấy, quan niệm của Khổng Tử về Trời, Mệnh trời đã có một bước tiến bộ, đã có sự đổi mới về nội dung, quyền uy của Trời đã bị hạn chế một phần. Những người theo Đạo gia, Pháp gia cũng có tư tưởng vô thần. Họ đều xuất phát từ lập trường duy vật để khẳng định nguồn gốc vật chất của thế giới; từ đó bác bỏ quan điểm duy tâm thừa nhận quyền uy của thần. Tuy nhiên, quan điểm vô thần ở Ân Độ và Trung Quốc mới chỉ là sơ khai, mộc mạc, chất phác. Tư tưởng vô thần theo khuynh hướng tự do đạt đến đỉnh cao ở Hy Lạp và La Mã cổ đại, phản ánh ở chừng mực nhất định ý thức phản kháng của một bộ phận nhân dân chống lại quan niệm sai lầm bản chất ảo tưởng, tính phi lý, hoang đường của tôn giáo, giúp con người thoát ra khỏi sự mê hoặc của thánh thần.
  17. 17 Cùng với sự xuất hiện quan điểm triết học duy vật tự phát, quan điểm vô thần ra đời từ nhu cầu phản kháng sự hoang tưởng của tôn giáo, sự giải thích đời sống hiện thực, đề cao sức mạnh của con người. Mặc dù còn thể hiện dưới hình thức ngây thơ, phù hợp với nhận thức của con người thời cổ, nhưng quan niệm vô thần đã đề cập một khía cạnh rất sâu sắc là đặt ra cách nhìn duy vật về thế giới, bác bỏ vai trò sáng tạo thế giới của thánh thần; bước đầu khẳng định sức mạnh nhận thức và cải tạo thế giới của con người; ủng hộ triết học duy vật và khoa học tự nhiên. Những khám phá của khoa học tự nhiên thời đó đã cho thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ quan và nhân sinh quan của các tôn giáo và thần thoại, đòi hỏi con người đứng vững trên lập trường, quan điểm vô thần để lý giải các hiện tượng của thế giới xung quanh và vai trò của mình trong thế giới đó. Giá trị của tư tưởng vô thần cổ đại thể hiện ở chỗ: lần đầu tiên nó lên tiếng phản đối thần thánh, sự phi lý, hoang đường của tôn giáo, đem lại cho con người cách lý giải đúng đắn những vấn đề do chính cuộc sống của con người đặt ra, giúp con người có niềm tin ở sức mạnh của chính mình, đứng vững trong cuộc sống. Các nhà vô thần cổ đại đã có cái nhìn về tự nhiên trong sáng, rõ ràng. Tuy có lúc còn thừa nhận thần thánh, nhưng họ đã loại bỏ được mọi cái siêu nhiên của thần thánh. Hêracơlít (khoảng 540-480 tr.CN), cho rằng thế giới không phải do thánh thần tạo ra mà do ngọn lửa “nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bùng cháy và tàn lụi”. Chính ngọn lửa là cơ sở của mọi vật, là khởi nguyên sinh ra thế giới. Linh hồn con người, theo Hêracơlít, cũng chỉ là một biểu hiện của ngọn lửa. Người nào càng nhiều lửa bao nhiêu thì người đó càng tốt bấy nhiêu vì tâm hồn khô ráo. Lênin đã đánh giá cao quan điểm vô thần của Hêracơlít. Đêmôcơrít (460-370 tr.CN) đã xây dựng học thuyết nguyên tử luËn về thế giới. Theo ông, khởi nguyên của thế giới không phải là thần thánh như tôn giáo quan niệm, mà là các nguyên tử. Nguyên tử là các hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, chúng tồn tại vĩnh viễn. Mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và khoảng không. Sự xuất hiện hay mất đi của vật này hay vật khác là kết quả của sự kết hợp hay phân tán của các nguyên tử. Phê phán quan điểm duy tâm, tôn giáo thừa nhận thánh thần, lực lượng siêu nhiên thống trị, điều khiển thế giới, Đêmôcơrít khẳng định tính quy luật
  18. 18 trong sự hình thành, phát triển của thế giới vật chất. Theo ông, các sự vật, con người và kể cả linh hồn anh ta đều được cấu tạo từ nguyên tử và khoảng không. Linh hồn con người về thực chất chỉ là tổng thể các nguyên tử. Tuy quan niệm của ông còn ngây thơ, thiên về cảm tính song ông đã đúng khi phủ nhận sự bất tử của linh hồn. Ông cho rằng, linh hồn con người cũng chết cùng thể xác. Vì thế, mọi quan niệm về thế giới bên kia, về thiên đường... của con người chỉ là bịa đặt. Đêmôcơrít cho rằng, trên thực tế chẳng có Thượng đế, cũng không có vị thần linh nào cả mà chỉ có các hình ảnh của chúng ta là những thứ có được do trí tưởng tượng của con người tạo ra. Êpiquya (341-270 tr.CN) là một trong những nhà triết học lớn, có tư tưởng vô thần của thời kỳ Hy Lạp hoá. Người mà Mác, Ăngghen coi là nhà khai sáng cấp tiến chân chính của thời kỳ cổ đại, là người công khai tấn công vào tôn giáo cổ đại và là người đặt cơ sở đầu tiên cho sự tồn tại của chủ nghĩa vô thần của những người La Mã. Dựa vào thuyết nguyên tử luận của Đêmôcơrít, Êpiqua phát triển quan điểm vô thần của mình. Ông khẳng định dứt khoát rằng, Thượng đế, thánh thần không phải là gì khác mà chính là do sự trừu tượng hoá hình tượng con người. Do vậy, con người không việc gì phải sợ thánh thần, thậm chí không nên sợ chết, cũng không nên tin vào những điều huyền hoặc của tôn giáo một cách ngây thơ. Hiểu biết giới tự nhiên, nắm vững quy luật vận động, phát triển của nó là vũ khí giúp con người thoát khỏi lo âu, phiền muộn. Tư tưởng vô thần ở Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp và La Mã cổ đại đã tồn tại cách hiÖn nay hơn hai ngàn năm. Từ đó đến nay, sự phát triển của xã hội, cũng như nhận thức của con người đã trải qua những bước nhảy vọt và đạt được những bước tiến khổng lồ, ngày nay, các di sản quý báu của các nhà vô thần Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp và La Mã cổ đại vẫn có những ảnh hưởng lớn đối với tiến trình phát triển tư tưởng và văn hoá nhân loại nói chung, ở phương Tây và ở Việt Nam nói riêng. 1.2. Chủ nghĩa vô thần trong thời kỳ trung cổ và thời kỳ Phục hưng Thời trung cổ, chế độ phong kiến đã thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ. Đó là sự thay thế hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác đối với người lao động. Tôn giáo và nhà thờ đã đóng vai trò thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Những thành tựu của người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã bị nhà thờ đạo Kitô loại bỏ và thủ tiêu. Sự thống trị của các thế lực phản động tôn giáo trong hệ tư tưởng đã bóp nghẹt tư tưởng vô thần. Tuy nhiên, từ thế
  19. 19 kỷ XIII trở đi, chủ nghĩa vô thần và tư tưởng tự do xuất hiện trong cuộc đấu tranh của những người duy danh và duy thực. Giăng Đơn Xcốt (1265-1308) là nhà duy danh đã lên tiếng phản đối tôn giáo, chống lại nhà thờ, đòi nhà nước tách khỏi nhà thờ, đồng thời yêu cầu triết học không được phụ thuộc vào giáo lý, kinh thánh. Uyliam Ôccam (1300-1350) phê phán gay gắt nhà thờ, đòi cải cách tôn giáo, hạn chế quyền lực của giáo hoàng. Còn Rôgiê Bêcơn (1214-1294) đã phê phán triết học kinh viện, bác bỏ thuyết “hai chân lý”, tuyên truyền tri thức khoa học tự nhiên, kêu gọi lấy kinh nghiệm để xác nhận chân lý. Ông đã bị giáo hội cầm tù 14 năm. Tư tưởng vô thần của Đơnxcốt, Ôccam và Bêcơn đã có tác dụng to lớn là lên án tội ác của nhà thờ, tôn giáo, thức tỉnh con người, mở đường cho quan điểm: “tự do, bình đẳng, bác ái” của giai cấp tư sản phát triển; đồng thời chống lại hệ tư tưởng phong kiến, tuyên truyền chủ nghĩa nhân đạo. Chủ nghĩa vô thần tư sản đã ra đời bắt đầu từ tinh thần ấy, in đậm dấu ấn thời Phục hưng. Điểm nổi bật của chủ nghĩa vô thần trong thời kỳ Phục hưng là liên hệ chặt chẽ với tư tưởng nhân văn, nhân đạo và gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên nhằm mục đích bác bỏ tôn giáo. Cùng với sự phục hồi tư tưởng triết học duy vật, tư tưởng vô thần được củng cố và phát triển; trở thành ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản đang lên, đấu tranh chống thần học và giáo hội nhằm thiết lập sự thống trị của mình. Bằng những cơ sở và luận chứng khoa học, triết học duy vật và chủ nghĩa vô thần đã giúp cho giai cấp tư sản nhận thấy rõ bộ mặt thật của chế độ phong kiến đang thối nát, xoá bỏ vòng hào quang thần thánh mà giáo hội khoác cho chế độ nông nô. Tuy nhiên, để phục vụ cho lợi ích của mình giai cấp tư sản vẫn cần đến tôn giáo. Do vậy, những cải cách của Luthơ, Canvanh... chỉ là sự cải biến lại tôn giáo cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Chủ nghĩa vô thần thời kỳ này gắn liền với vấn đề con người và giải phóng con người. Thời trung cổ, do ảnh hưởng nặng nề của thế giới quan tôn giáo và trình độ sản xuất thấp, người ta coi con người là một vật thụ động, do Chúa sinh ra, chỉ biết thờ phụng Chúa cầu mong được rửa tội... Vào thời Phục hưng, khoa học và sản xuất phát triển đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của con người. Giờ đây, không phải quan hệ giữa Chúa và thế giới mà chính là
  20. 20 mối quan hệ giữa con người với thế giới trở thành vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh tư tưởng. Tuy nhiên, việc đề cao con ngưòi mới được đề cập ở khía cạnh cá thể, bản chất xã hội của con người chưa được quan tâm. Nicôlai Kuzan 1401-1464) là người đầu tiên dám phê phán mạnh mẽ các giáo lý trung cổ. Ông không coi Thượng đế như một vật hay cá nhân cụ thể nào mà là bản chất vô hạn của thế giới. Ông cho r»ng, Thượng đế là tất cả trong mọi cái, nhưng đồng thời cũng không là gì cả (hư vô) trong mọi cái. Ông coi con người là sản phẩm tối cao và tinh tuý nhất trong sự sáng tạo của Thượng đế, vì con người như Thượng đế- con người đang cải tạo giới tự nhiên. Nhìn chung, quan điểm vô thần của Kuzan còn nặng tính thần luận. Song, lần đầu tiên ông đã hạ thần thánh, Thượng đế xuống ngang hàng con người. Tại đây, ông đặt mốc giới cho chủ nghĩa vô thần tư sản phát triển. Nicôlai Côpécních (1473-1543) là người đưa ra thuyết nhật tâm, coi mặt trời là trung tâm của vũ trụ để bác bỏ thuyết địa tâm của Ptôlêmê - chỗ dựa của thần học và giáo hội. Thuyết Nhật tân của Côpécních đã giáng một đòn chí tử vào tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, Ăngghen cho rằng, hành vi cách mạng của Côpécních đã thách thức quyền uy của giáo hội. Từ đó trở đi, khoa học tự nhiên từng bước được giải phóng khỏi thần học. Lêôna Đờ Vanhxi (1452-1519) phê phán gay gắt thần học và giáo hội, ông đã xây dựng hệ thống thế giới quan khoa học của mình dựa trên cơ sở kinh nghiệm và thực nghiệm. Với luận điểm: “sự thông thái là con gái của kinh nghiệm”, ông đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức, bác bỏ các tín điều tôn giáo, coi chúng là bịa đặt, hoang đường, không đáng tin cậy. Là nhà danh hoạ nổi tiếng, ông coi trọng hoạt động của con người, đưa Thượng đế vào nghệ thuật và coi nghệ thuật là phương thức biểu hiện của Thượng đế, ông kêu gọi mọi người sống lạc quan, chống lại chủ nghĩa bi quan tôn giáo. G.Brunô (1548-1600) là người bảo vệ thuyết nhật tâm của Côpécních, quan điểm vô thần của ông thiên về tự nhiên thần luận. Ông coi Thượng đế chính là giới tự nhiên, tồn tại độc lập, không do ai sáng tạo ra. Mặc dù đồng nhất Thượng đế với tự nhiên, nhưng trên thực tế, Brunô chỉ thừa nhận Thượng đế trên danh nghĩa, ông chống lại quyền uy của giáo hội. Quan niệm cách mạng, tiến bộ của ông đã làm giáo hội căm tức. Giáo hội đã bắt và thiêu sống ông trên giàn hoả thiêu.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2