intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Công tác xã hội với người khuyết tật (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình

Chia sẻ: Calliope09 Calliope09 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:48

50
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Công tác xã hội với người khuyết tật cung cấp các kiến thức cho người đọc như: Kiến thức chung về tàn tật và người khuyết tật; công tác hỗ trợ người khuyết tật; kỹ năng công tác xã hội với người khuyết tật; các hoạt động hoà nhập cộng đồng cho người khuyết tật; các tổ chức của người khuyết tật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Công tác xã hội với người khuyết tật (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN: CÔNG TÁC XàHỘI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT NGHỀ: CÔNG TÁC XàHỘI TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG NGHỀ Ban hành kèm theo Quyết định số:    /QĐ­TCDCGNB ngày…….tháng….năm   2017 của Hiệu trưởng Trường cao đẳng Cơ giới Ninh Bình 1
  2. Ninh Bình, năm 2017 2
  3. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể  được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và  tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh  doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 3
  4. LỜI GIỚI THIỆU Nước ta trong những năm qua vào thời kỳ  công cuộc đổi mới đã đạt   được nhiều thành tựu to lớn. Trong đó, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến   các vấn đề xã hội với mục tiêu xuyên suốt từ chủ trương, chính sách đối với   hoạt động xã hội mà cụ  thể là chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố  con   người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam.  Trong đó vấn đề  trợ  giúp cho người khuyết tật là một trong những vấn đề  hết sức quan trọng và cần thiết cả  trong hiện tại và tương lai sau này. Với   những đặc thù riêng của mình , người khuyết tật là nhóm người bị thiệt thòi,  yếu thế trong xã hội, khả năng tiếp cận với các dịch vụ phúc lợi công cộng và  nhất là cơ  hội tìm kiếm việc làm còn hạn chế, đời sống luôn luôn bị  mặc  cảm về mặt tâm lý, trạng thái cũng như tinh thần. Môn học Công tác xã hội đối với người khuyết tật được biên soạn theo  chương trình dạy nghề trình độ  Cao đẳng nghề Công tác xã hội của Trường  Cao đẳng nghề  Cơ  Giới Ninh Bình, gồm  5  bài  do nhóm giáo viên  khoa sư  phạm kỹ thuật biên soạn. Bài 1: kiến thức chung về tàn tật và người khuyết tật Bài 2: công tác hỗ trợ người khuyết tật    Bài 3: kỹ năng công tác xã hội với người khuyết tật Bài 4: các hoạt động hoà nhập cộng đồng cho người khuyết tật Bài 5: các tổ chức của người khuyết tật Giáo trình Công tác xã hội đối với người khuyết tật đã được Hội đồng  thẩm định Trường Cao đẳng nghề Cơ Giới Ninh Bình xét duyệt. Tuy nhiên trong quá trình biên soạn không tránh khỏi những sai sót, rất  mong được sự đóng góp quý báu chân thành của bạn đọc. …............, ngày…..........tháng…........... năm…… Tham gia biên soạn: 1. Chủ biên Vũ Ánh Dương 2. Lê Hùng Cường 4
  5. MỤC LỤC Trang 5
  6. GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN Tên mô đun: Công tác xã hội với người khuyết tật Mã mô đun: MĐ29 Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của mô đun: ­ Vị  trí: Công tác xã hội với người khuyết tật là mô đun chuyên môn  nghề quan trọng của chương trình đạo tạo nghề công tác xã hội, liên quan tới  các hoạt động cung cấp dịch vụ cho đối tượng. ­ Tính chất: Là mô đun lý thuyết chuyên môn nghề bắt buộc. Mục tiêu của mô đun:  ­ Về kiến thức: + Trình bày được khái niệm, phân dạng các loại khuyết tật; + Trình bày được đặc điểm tâm lý, nguyên nhân và hậu quả của tàn tật,  các biện pháp hỗ trợ người khuyết tật. ­ Về kỹ năng: + Giao tiếp được với người khuyết tật theo dạng tật; + Tổ chức, hỗ trợ được người khuyết tật về việc làm, về giáo dục và y   tế; ­ Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Tôn trọng, chia sẻ, cảm thông với  người  khuyết  tật,  tích  cực  ủng  hộ,  tổ   chức  các   hoạt   động  hỗ   trợ   người   khuyết tật. Nội dung của mô đun:  Bài 1: Kiến thức chung về tàn tật và người khuyết tật Mã bài: MĐ29_B01 Giới thiệu: Giới thiệu các kiến thức chung về tàn tật, người khuyết tật, các  khái niệm, phân dạng và đặc điểm tâm lý. Mục tiêu: ­ Về kiến thức: Trình bày được khái niệm, phân dạng tàn tật, nguyên  nhân và hậu quả của tàn tật ­ Về kỹ năng: Truyền thông vận động cộng đồng phòng ngừa tàn tật 6
  7. ­ Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Cảm thông, chia sẻ với những  khó khăn của người khuyết tật trong hòa nhập cộng đồng. Nội dung chính: 1. Khái niệm, phân dạng tàn tật Vấn đề  đưa ra khái niệm như  thế  nào là người khuyết tật nó quyết  định đến số lượng, đặc điểm và các giải pháp đề ra. Tuy nhiên ở  nước ta tại   thời điểm hiện nay do cách tiếp cận khác nhau nên cũng nhiều khái niệm khác  nhau. * Bộ Y tế: Người khuyết  tật là người có khuyết tật thể hiện những dối  loạn tâm sinh lý hoặc một chức năng nào đó của con người như  nghe, nhìn,   vận động, thần kinh…   * Bộ  Lao động Thương binh và Xã hội: Người khuyết tật là người có  khuyết tật, không có khả  năng tự  nuôi sống bản thân phải dựa vào cộng   đồng, người thân và trợ giúp của Nhà nước.       * Pháp lệnh Người tàn tật: Người khuyết tật là ngươì không phân biệt  nguồn gốc sinh ra khuyết tật, là người bị  khiếm khuyết một hay nhiều bộ  phận của cơ thể hay chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau làm   suy giảm khả  năng lao động, khiến cho sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó  khăn. * Tàn tật: là sự mất mát, thiệt thòi phải chịu đựng do khuyết tật hay do  mất khả  năng khiến họ  không thực hiện được một phần hay toàn bộ  công  việc như người bình thường (có xét tới tuổi tác, giới tính, các yếu tố văn hoá  và hoàn cảnh xã hội).       * Thông qua các khái niệm trên rút ra đặc điểm chung:  ­ Người khuyết tật là người thiếu, hỏng hoặc không bình thường về  thể lực, trí lực, hoặc thẩm mỹ cơ thể. ­ Người khuyết tật là người giảm hoặc mất khả năng thực hiện những   chức năng bình thường của cơ thể trong cuộc sống, trong lao động, trong học   tập hoặc do những mặc cảm tâm lý gây ra. Sự khuyết tật có thể được phân loại theo các loại hình sau:  ­ Vật lý  ­ Các giác quan ( nghe/nhìn) ­ Trí tuệ 7
  8. ­ Tâm lý  * Có nhiều cấp độ của khuyết tật  ­ Nhẹ: Cá nhân có thể yêu cầu ít hoặc không cần yêu cầu giúp đỡ để thực   hiện một hành vi cụ thể nào đó. ­ Trung bình: Người đó cần một sự giúp đỡ nhỏ để thực hiện các hành  vi thông thường. ­ Cao: Cá nhân đó cần sự giúp đỡ đáng kể trong mọi hoạt động thường nhật.  Đại đa số  người trong xã hội thường cảm thấy không có thái độ  hợp   tác với người khuyết tật đặc biệt là trong lĩnh vực tạo việc làm vì họ  cho  rằng người khuyết tật không thể  làm việc bình thường và hiệu quả  như  những người bình thường khác. Vì vậy việc giúp đỡ  người khuyết tật còn  gặp nhiều rào cản, khó khăn, cần tìm ra các giải pháp hỗ trợ hiệu quả để giúp  người khuyết tật tìm được việc làm, cảm thấy có ích cho gia đình, xã hội và   tìm được niềm vui trong cuộc sống, tạo cho họ  một việc làm phù hợp với   khả năng để họ có thể tự nuôi sống bản thân và gia đình. 2. Nguyên nhân Khuyết tật không đơn thuần do chính con người gây ra mà còn chịu sự  tác động trực tiếp hay gián tiếp của nhiều yếu tố  tiêu cực khác nhau thuộc  các nguyên nhân về tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội. * Do bẩm sinh: Trong này có những bệnh bẩm sinh như bệnh tim, tâm  thần, thiểu năng trí tuệ, sứt môi, hở hàm ếch… Hay là quái thai do cha mẹ  bị  nhiễm độc trong chiến tranh, hậu quả  chiến  tranh để lại. * Do bệnh tật: Trong cuộc sống chúng ta không thể  tránh khỏi được  những bất trắc sảy ra như bệnh tật, nghèo đói, thất nghiệp… Người khuyết  tật cũng là hậu quả của một trong những bất trắc đó là bệnh tật. Cũng chính  bệnh tật đã cướp đi một số  bộ  phận, chức năng, cơ  quan hoạt động của cơ  thể  con người, làm cho con người gặp không ít khó khăn về  hoạt động lao  động, học tập, vui chơi và giai trí… như bệnh bại liệt, các bệnh do quái thai,  sứt môi, hở hàm ếch, điếc, câm, mù… Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, ở nước ta có khoảng 1%trẻ sơ sinh  bị  dị  tật bẩm sinh. Nhưng theo khảo sát  ở  7 tỉnh đồng bằng Sông Hồng thì  36,25% nguyên nhân dẫn đến khuyết tật là do bẩm sinh; 31,86% do bệnh tật. 8
  9. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước còn nghèo, khả năng cung cấp các dịch   vụ  chăm sóc y tế  còn gặp nhiều khó khăn thì xu hướng gia tăng số  người   khuyết tật là không thể tránh khỏi. * Do hậu quả chiến tranh: Chiến tranh đã để lại nhiều di chứng nặng   nề ở Việt Nam. Hàng triệu người dân đã hy sinh tính mạng, hy sinh một phần  thân thể, để lại những căn bệnh nguy hiểm trên cơ thể. Mặc dù chiến tranh đã qua đi nhưng bom đạn vẫ  còn sót lai trên đất  nước ta rất nhiều. Hàng ngày, hàng giờ người dân vẫn bị chết hoặc bị tàn phế  suốt đời do bom đạn gây ra. Trên các cánh đồng, cánh rừng và các khu đân cư  hiện còn hàng vạn tấn bom đạn chưa nổ…Chỉ một làng nhỏ ven bờ sông Bến  Hải thời gian qua đã có hàng chục người bị chết hoặc bị thương do bom đạn  còn sót lại của chiến tranh. Ngoài ra, do ảnh hưởng của chất độc, đặc biệt là chất độc màu da cam   đã dẫn dến những đứa trẻ bị dị tật suốt đời. Ví dụ:  Ở  tỉnh Quảng Trị  và nhiều địa phương khác có những cặp vợ  chồng sinh ra con đều bị dị tật. * Do tác nhân môi trường: Môi trường luôn luôn có sự tác động lên đời  sống của chúng ta. Bên cạnh những tác động tích cực còn có những tác động  tiêu cực như  lũ lụt, bão, động đất, hạn hán…Chính những tác động tiêu cực   này đã làm cho không ít người lâm vào hoàn cảnh đói khổ, mất nhà, mất cửa,   đói ăn, rách mặc…là điều kiện phát sinh ra các dịch bệnh về  đường ruột,   đường hô hấp… Cùng với những tác động tiêu cực của tự  nhiên thì hàng năm có hàng  triệu tấn rác thải, khí độc do con người thải ra đã làm cho môi trường nước,  không khí bị  ô nhiễm một cách nặng nề. Có những chỗ  nguồn nước không  thể  sử  dụng được hoặc sử  dụng được thì cũng bị  ô nhiễm. Đây là nguyên   nhân làm cho nhiều gia đình, nhiều vùng gặp phải các bệnh nguy hiểmvà dẫn   đến khuyết tật. * Do tai nạn:  Tai nạn lao động và bệnh nghề  nghiệp: chúng ta đang  bước vào thời kỳ  mới, thời kỳ  công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.  Thế  nhưng trang thiết bị  an toàn vệ  sinh lao động còn thiếu và vi phạm các   nguyên tắc trong lao động còn nhiều dẫn đến số người bị tai nạn lao động và  bệnh nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao, có nơi, có nghề lên tới hàng chục % tổng  9
  10. số  lao động bị  bệnh nghề  nghiệp như  bệnh điếc, bệnh rung chuyển, bệnh   lao, bệnh viêm gan. Tai nạn giao thông: Nhu cầu đi lại học tập, vui chơi, giải trí, du lịchcủa  người dân ngày càng tăng. Do vậy phương tiện giao thông trong nước đang  tăng nhanh. Tuy nhiên, do đường xá chưa được cải tạo và nâng cấp nhiều,   người tham gia giao thông chấp hành luật giao thông chưa cao là nguyên nhân  dãn dến tình trạng tai nạn giao thông còn ở mức cao. Hàng năm có khoảng 1,7  – 2 vạn người bị  tai nạn giao thông,trong đó có người thì bị  tử  vong và có  người thì bị khuyết tật suốt đời. * Do kinh tế  và một số  nguyên nhân khác: Kinh tế kém phát triển, đời  sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Các bà mẹ, đặc biệt là các bà mẹ ở vùng  nông thôn, vùng sâu, vùng xa  không  được chăm sóc  đầy  đủ  về  mặt dinh   dưỡng trong thời kỳ mang thai dẫn đến đẻ con nhẹ cân, thiếu thánglà nguyên  nhân của bệnh còi xương, thiểu năng trí tuệ… Cũng do kinh tế kém phát triển  cho nên các điều kiện chăm sóc, phục hối chức năng cho người khuyết tật   không được quan tâm, bảo đảm. Làm cho số  lượng người khuyết tật không  những không giảm mà còn có chiều hướng gia tăng. Cuộc chạy đua kịch liệt trong nền kinh tế thị trường ngày càng sâu sắc.  Nhiều người không có cơ  hội nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí sau những giờ  làm  việc căng thẳng dẫn đến các bệnh đứt mạch máu não, nhồi máu cơ tim, bệnh  thần kinh. Một số  địa phương, gia đình có trình độ  nhận thức thấp cho nên vẫn   còn tin vào những lời nói nhảm nhí của những ông cô, bà đồng chữa bệnh   bằng cách uống những thứ mất vệ sinh mà theo các thày bói đó là thuốc như:   nước hài cốt, nước  ở trong các hang động…để  rồi không những không chữa  được bệnh mà còn làm cho căn bệnh trở nên trầm trọng hơn, thậm trí còn phát  sinh ra nhiều căn bệnh khác. 3. Hậu quả của tàn tật Vấn đề khuyết tật đang là một vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Để lại   những hậu quả  không những về  vật chất mà còn về  tinh thần do chính bản  thân người khuyết tật, cho gia đình và cho xã hội. Cụ thể: * Đối với chính bản thân người khuyết tật: Khuyết tật dẫn đến sức  khoẻ giảm sút, khả năng thích nghi chống chọi lại bệnh tật của người khuyết   10
  11. tật là khó khăn. Hơn nữa, cơ hội tham gia vào các chương trình phúc lợi công  cộng như: chăm sóc y tế, giáo dục…rất hiếm đối với người khuyết tật. Do  vậy tỷ  lệ  tử  vong, đặc biệt là tỷ  lệ  tử  vong dưới 20 tuổi thường cao chiếm   khoảng 90%. Khuyết tật cũng dẫn đến khả năng tham gia các hoạt động học tập, vui   chơi, giải trí của người khuyết tật bị  hạn chế. Nhiều người không thể  đến  trường được, hoặc đến trường phải nhờ sự giúp đỡ của người khác. Đặc biệt  là cơ   hội   tìm  kiếm   việc  làm  khó khăn.  Những yếu  tố   đó  đã buộc  người  khuyết tật phải sống lệ thuộc vào gia đình, người thân hoặc cộng đồng. Họ  không có điều kiện học tập, nâng cao trình độ  văn hoá. Do đó khả  năng hoà  nhập vào vào cộng đồng là rất khó. Do  ảnh hưởng về  thẩm mỹ, do đó nó   cũng làm ảnh hưởng tới giao tiếp. Bất kể người khuyết tật nào ở đâu cũng bị  thiệt thòi và mang tính tự ti. *  Đối với  gia  đình: Những gia  đình có người khuyết tật phải dành  nhiều thời gian, chi phí không ít tiền của để  giúp đỡ  chăm sóc người khuyết   tật như: đưa đi khám bệnh, đưa đi học…Do đó, họ  không có thời gian tham  gia lao động sản xuất dẫn đến thu nhập kém. Mặt khác, do lo lắng về  kinh  tế, ám ảnh về bệnh tật của con mình làm cho không khí gia đình trở nên căng   thẳng. Đặc biệt là sự  dằn vặt về  tâm lý, sự  ám  ảnh về  sự  trừng phạt của  đấng tối cao đã dẫn đến nhiều gia đình không muốn giao tiếp với người  ngoài. Họ sống co lại trong không gian hẹp, luôn sợ người khác chê bai. * Đối với xã hội: Khuyết tật đã làm cho xã hội mất di một lực lượng   lao động lớn làm ra của cải cho xã hội. Đồng thời, xã hội phải tiêu tốn một  lượng tiền lớn để xây dựng cơ sở vật chất để  nuôi dưỡng, chữa chạy những  người khuyết tật nặng bao gồm: Kinh phí quản lý trung tâm, đào tạo chuyên   môn, trợ cấp, chữa bệnh cho người khuyết tật. Đặc biệt là xã hội phải dành  một khoản kinh phí để  thành lập các trung tâm phục hồi chức năng, mua  thuốc men chữa trị cho người khuyết tật, hướng nghiệp dạy nghề cho h ọ để  họ sớm hoà nhập vào cộng đồng và ngoài ra còn để nghiên cứu các biện pháp  để phòng ngừa khuyết tật. 4. Những khó khăn của người khuyết tật trong hòa nhập cộng đồng 11
  12. Đa số  người khuyết tật chủ  yếu sống  ở  nông thôn nơi mà điều kiện   kinh tế – xã hội còn gặp khó khăn, đặc biệt là khả năng tiếp cận với các dịch  vụ phúc lợi công cộng bị hạn chế. * Tình trạng hôn nhân gia đình: Trong số những người khuyết tật  ở nước ta hiện nay thì chỉ  có 40% là  đã có vợ  chồng. Còn lại là những người chưa kết hôn lần nào hoặc đã kết  hôn nhưng lại gặp trắc trở trong tình duyên vì những trở  ngại do khuyết tật  của họ  gây ra. Cụ  thể:  số  người  ở  độ  tuổi từ  31­ 50 chưa kết hôn lần nào   chiếm 40,34% số người ở độ tuổi đó. Trong khi số  người  ở lứa tuổi 20 – 30   và từ 51 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ lần lượt trong những lứa tuổi đó là 38% và  13,56%   chưa   kết   hôn.   Trong   nhóm   người   khuyết   tật   trên   60   tuổi   có   tới  53,06% chưa từng lập gia đình lần nào và nhiều người đã phải sống cô đơn  suốt đời hoặc phải dựa vào người thân, dựa vào cộng đồng, Nhà nước. * Tình trạng văn hoá: Đa số người khuyết tật có trình độ văn hoá thấp, thậm trí có người còn  mù chữ. Tập trung chủ  yếu là những người mang tật bẩm sinh và mức độ  khuyết tật nặng. Trong   những   năm   qua   Đảng   và   Nhà   nước   rất   quan   tâm   đến   người  khuyết tật nhưng số  người biết chữ  cũng chỉ  chiếm tỷ  lệ35,8%, trong đó  5,8% học hết cấp THPT, 22,08% học hết THCS, và 26,09 học hết tiểu học.  Trong khi số người không biết chữ chiếm 35,58%, số người không biết đọc,  biết viết chiếm 10,45%. Trình độ  văn hoá của người khuyết tật  ở  nông thôn và thành thị  có sự  chênh lệch lớn. Số người đi học ở các bậc học, đặc biệt là bậc học THPT và  các bậc học cao hơn thì ở thành thị cao hơn nông thôn. Theo kết quả điều tra   về  người khuyết tật cho thấy trong số  5,8% học hết THPT, thì  ở  thành thị  chiếm15,89%, trong hki ở nông thôn chỉ chiếm 4,31%. * Hoàn cảnh sống: Khuyết tật đã dẫn đến khả năng lập gia đình của họ bị hạn chế. Đại đa  số sống chung và phụ thuộc vào gia đình, người thân, con số này chiếm từ 80­   84%. Một số  ít người khuyết tật phải sống  độc thân, thậm chí một số  ít  không có nhà cửa, người thân thích phải sống lang thang, kiếm sống nay đây   mai đó. 12
  13. Chính vì phải sống phụ thuộc vào gia đình và người thân nên đời sống   của người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn. Họ  không tự  lo được cuộc  sống của mình. Một số ít có thể lao động, tăng thu nhập cho gia đình như nấu  ăn, dọn dẹp nhà cửa… nhiều lúc họ  là trung tâm của sự không tôn trọng của   người thân. * Thu nhập: Người khuyết tật có thu nhập rất thấp bởi vì đa số  họ  không có nghề  mà chỉ  có một số  có thể  làm phụ  giúp gia đình, kinh tế  phụ  thuộc gia đình.  Nhiều người khuyết tật sống lang thang kiếm sống trên hè phố. * Việc làm của người khuyết tật: Mặc dù quyền được làm việc của người khuyết tật đã được tôn trọng  thể  hiện trong Bộ  luật lao động, pháp lệnh về  người tàn tật và một số  văn  bản khác. Nhưng do trình độ học vấn thấp, sức khoẻ yếu,thị trường lao động  thay đổi nhanh chóng, trong khi thái độ  của người sử  dụng lao động đối với  người khuyết tật còn chưa rõ ràng nên nhiều người khuyết tật chưa có việc  làm, nếu có thì chỉ được bố chí làm những công việc thủ công, nặng nhọc, lao  động chân tay vất vả, hiệu quả  lao  động thấp, thu nhập không đủ  sống.  Trong số  người có việc làm thì có 4,35% người có nghề  không phù hợp với  tay nghề;  52% không phù hợp với bệnh tật; 32,78%  không  được  đào tạo  nghề. * Đặc điểm tâm lý của người khuyết tật: ­ Quy luật bù trừ về các giác quan: Vì người ta mất cái này thì được bù  trừ nhạy cảm của giác quan khác. Và từ đó để dựa trên các đặc điểm khuyết   tật của bố trí nghề nghiệp và đào tạo nhgề. ­ Do bị khuyết tật nên tâm lý mặc cảm, tự ti. Tuy vậy, nhưng cũng rất   nhiều người khuyết tật có ý chí vươn lên rất tốt. Ví dụ: Tấm gương anh Nguyễn Ngọc Ký mặc dù anh bị  tật nguyền   như vậy nhưng với ý chí vươn lên anh đã vượt lên tất cả. ­ Người khuyết tật có một sức bền bỉ trong một số công việc tốt. * Nhu cầu:  Người khuyết tật cũng là một con người nên cũng có tất cả các nhu cầu  như những người bình thường khác như: 13
  14. ­ Hoà nhập xã hội vì họ bị khép kín trong bốn bức tường nên họ  mong   muốn được hoà nhập xã hội; nhu cầu rất lớn để  được giao tiếp với mọi  người, được học hỏi, được người khác tôn trọng. ­ Nhu cầu chữa bệnh: vì họ hay ốm đau rất cần được chăm sóc. ­ Nhu cầu học văn hoá. ­ Nhu cầu việc làm và có thu nhập để giải phóng sự ràng buộc. ­ Nhu cầu phục hồi thẩm mỹ: Hiện nay mới có một trung tâm của quốc   tế về phục hồi thân thể: những người hở hàm ếch. ­ Nhu cầu thể  thao – văn nghệ: Năm 1997 đã có tổ  chức cuộc thi thể  thao văn nghệ toàn quốc dành cho người khuyết tật. * Đời sống của người khuyết tật: Nhìn chung đời sống của người khuyết tật hiện nay còn gặp rất nhiều  khó khăn, do sức khoẻ bị giảm sút họ không tự phục vụ được bản thân mình.   Nhiều người mặc dù còn sức lao động nhưng chỉ  làm những việc đơn giản  dẫn đến thu nhập thấp. Đa số  người khuyết tật phải sống dựa vào gia đình,  người thân, một số  ít do không còn người thân hoặc có nhu cầu được sống   tập trung tại các trung tâm của Nhà nước. 14
  15. Bài 2: Công tác hỗ trợ người khuyết tật Mã bài: MĐ29_B02 Giới thiệu: Giới thiệu các chính sách hỗ trợ người khuyết tật như: chính  sách giáo dục, chính sách việc làm, chính sách chăm sóc sức khỏe, y tế và các  chính sách tham gia hoạt động xã hội. Mục tiêu: ­ Về kiến thức: + Trình bày được các chính sách hỗ trợ người khuyết tật; + Mô tả được đầy đủ các mô hình, dịch vụ trợ giúp người khuyết tật. ­ Về  kỹ  năng: Thực hiện được thành thạo và hiệu quả  các chính sách,  dịch vụ trợ giúp người khuyết tật. ­ Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Tạo cơ hội cho người khuyết tật   tham gia và tôn trọng quyền được hưởng chính sách, dịch vụ  trợ  giúp của  người khuyết tật. Nội dung chính: 1. Chính sách hỗ trợ giáo dục Ðể  cải thiện tình trạng trên, nâng cao cơ  hội cho người khuyết tật   được học nghề, có việc làm cần sự  phối hợp đồng bộ, có hiệu quả  của các  ngành hữu quan và sự quan tâm của cả cộng đồng. Phải phổ cập và nâng cao  trình độ  văn hóa cho người khuyết tật, tạo điều kiện cho họ  học tập và học  lên càng cao càng tốt. Cần đào tạo nghề cho người khuyết tật ở mọi trình độ  văn hóa. Ðào tạo nghề phải gắn với tạo việc làm, có thu nhập.  Quan tâm vấn đề  can thiệp sớm, phục hồi chức năng ngay từ  khi còn  nhỏ  để  tránh khuyết tật nặng, gây khó khăn trong học nghề  và tìm việc làm   sau này. Ðể tạo điều kiện cho người khuyết tật  đi lại thuận lợi, các cơ quan,   doanh nghiệp, cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề cần sửa chữa, cải tạo cơ sở  vật chất để người khuyết tật tiếp cận và sử  dụng. Nếu như cùng chung một  ngành nghề, một môi trường làm việc, thì hãy quan tâm chia sẻ và ưu tiên hơn  cho người khuyết tật.  Thay đổi nhận thức của chủ sử  dụng lao động về  khả  năng làm việc   của người khuyết tật. Bên cạnh những lợi ích của việc sử  dụng lao động  người khuyết tật, cần nhận thức đây cũng là trách nhiệm đối với xã hội. Vì  15
  16. nếu không được làm việc thì ngêi người khuyết tật sẽ phải sống phụ thuộc,   trở  thành gánh nặng của gia đình và cộng đồng. Có chính sách khuyến khích  dạy nghề cho người khuyết tật tại cộng đồng. Vì phần lớn người khuyết tật  sống  ở  gia đình, gắn với cộng đồng dân cư  nên hướng dạy nghề, tạo việc   làm cho người khuyết tật ở cộng đồng là thích hợp và thuận tiện nhất.  Ðầu tư  nâng cao năng lực, trang bị  kiến thức, kỹ  năng, tay nghề, phát  huy tài năng của lao động người khuyết tật. Với người khuyết tật ở vùng sâu,  vùng xa, khu vực nông thôn, nên quan tâm và nâng thành tầm chiến lược cấp  quốc gia thực hiện "Chương trình tạo việc làm tại chỗ", tạo điều kiện cho   người khuyết tật và gia đình của họ tự tạo việc làm. Nhà nước, các tổ chức, hiệp hội, đoàn thể đã tổ chức các trờng lớp giáo   dục chuyên biệt cho trẻ em câm, điếc, thiểu năng trí tuệ  và các lớp giáo dục  hòa nhập cho các trẻ  em có mức độ  tật vừa và nhẹ. Trong vấn đề  này, Bộ  Giáo dục ­ Đào tạo đã được Chính phủ  giao cho xây dựng các mô hình giáo   dục trẻ khuyết tật.  Giáo dục tập trung (các trường chuyên biệt): Với mô hình này đã đợc triển khai rộng rãi ở hơn 50% tỉnh thành trong   cả nước, với 69 trờng trong đó có 43 trường dạy trẻ điếc, 14 trường dạy trẻ  mù và 12 trường dạy trẻ  chậm phát triển tinh thần. Tổng số  lớp là 366 lớp,  trong đó có 272 lớp trẻ  điếc, 52 lớp trẻ  mù, và 43 lớp trẻ  chậm phát triển.   Ngoài việc chú ý dạy văn hóa ra, các trung tâm (trường) còn chú ý dạy nghề  cho các em, với 56 lớp dạy nghề  đã thu hút 3.714 em, trong đó có 2.743 em  điếc, 406 em mù và 406 em chậm phát triển. Tổng số giáo viên dạy trong các   trường là 554 giáo viên. Tuy nhiên, trong điều kiện của nền kinh tế  đất nước hiện nay thì mô  hình này còn gặp nhiều khó khăn do cơ  sở  sở  vật chất còn thiếu, giáo viên  không đợc đào tạo chuyên sâu về  dạy trẻ  em khuyết tật, chỉ  có 17 trong số  554 giáo viên là có bằng cử nhân sư phạm chuyên biệt. 2. Chính sách hỗ trợ việc làm Nhà nước có nhiều chính sách và biện pháp hỗ trợ sản xuất cho người  khuyết tật và cơ  sở  sản xuất của họ. Từ  việc cho vay vốn, cấp ruộng đất  thuận lợi canh tác, miễn giảm thuế, giúp đỡ ph]ơng tiện, công cụ, mặt bằng   sản xuất, sau đó thì giúp tiêu thụ sản phẩm. 16
  17. Kết quả   điều tra năm 1995, cả  nước có 177 cơ  sở  sản xuất, ng]ời  khuyết tật thu hút 7.821 lao động, ngân sách nhà nước hỗ trợ 7.821 triệu đồng   (chưa tính vốn vay ngân hàng, các tổ  chức tín dụng). Năm 1996 tăng lên 340  cơ  sở, thu hút 12.500 lao động. Ngân sách hỗ  trợ  12 tỷ  năm trăm triệu đồng.  Trong số 340 cơ sở hiện nay có 27 cơ sở có trên 100 lao động là ngời khuyết  tật. Đó là những cơ sở doanh nghiệp nhà nước, còn lại 313 cơ sở là tổ hợp và  các hợp tác xã. Về  cơ  chế  hoạt động, trong số  340 cơ  sở, có 125 cơ  sở  sản  xuất tập trung, 90 cơ sở kết hợp sản xuất tập trung dựa vào cộng đồng, 125   cơ sở hòan tòan dựa vào cộng động, không có cơ sở tập trung.  Qua thực tế  họat động mô hình sản xuất phi tập trung dựa vào cộng  đồng tỏ ra có hiệu quả. Song, đòi hỏi có sự hỗ trợ đầu ra, tiêu thụ sản phẩm   của các cấp hội và chính quyền địa phương, các doanh nghiệp trên cùng địa  bàn. Riêng Hội Người mù Việt Nam, trong khoảng thời gian 1993­1996, có  12.385 ngời mù được các cấp hội can thiệp và chính quyền địa phơng hỗ trợ,  cấp ruộng đất thuận lợi cho canh tác, miễn giảm thuế  21.980 lượt người,  được vay vốn tạo việc làm, bình quân mức vay 1 triệu đồng/người. Hầu hết  các cơ  sở  sản xuất của người khuyết tật đều đợc miễn giảm thuế  lợi tức  giảm 50% thuế doanh thu (đối với cơ sở trên 10 lao động). Nếu doanh nghiệp  nào không sử dụng lao động là nggười khuyết tật thì phải có trách nhiệm trích  một phần lợi nhuận để đóng góp vào Quỹ hỗ trợ việc làm cho nggười khuyết  tật. Nhà nớc, các cơ  sở  dạy nghề, các tổ  chức kinh tế  tạo điều kiện cho   người khuyết tật được lựa chọn nghề, học nghề tự tạo việc làm tại nhà phù  hợp với sức khỏe và khả  năng lao động của mình. Trong quá trình học nghề,  học viên  là người khuyết tật được giảm hoặc miễn học phí, cấp học bổng   và đợc hưởng trợ cấp xã hội theo quy định của nhà nước… Trong vấn đề  hiện nay, có hai trường dạy nghề  cho ngời khuyết tật  thuộc Bộ lao động thương binh và xã hội quản lý, hàng năm thu hút hàng ngàn  người khuyết tật học nghề. Hệ  thống Trung tâm dịch vụ  việc làm trên tòan  quốc cũng thu hút hàng ngàn người khuyết tật vào học nghề, sản xuất. Đáng   chú ý là một số  tổ  chức, Hiệp hội tư  nhân cũng tích cực tham gia vào dạy   nghề  cho người khuyết tật. Đặc biệt là Hội Người mù Việt Nam trong gian   17
  18. đoạn 1993­1996, Hội đã mở  ra đợc 306 lớp dạy nghề, truyền nghề  khuyến   nông cho 8.475 người mù với tổng kinh phí trên 810 triệu đồng. Trong đó ngân  sách nhà nớc cấp khoảng 55%, còn  lại là vận động quyên góp và nhờ vào sự  trợ  giúp quốc tế. Kết quả   điều tra chọn mẫu năm 1995 cho thấy 55,18%  người khuyết tật còn khả  năng lao động đang  làm việc trong một số  ngành   nghề  kinh tế  quốc dân. Chỉ  có 30,43% là thiếu và không có việc làm. Khi  được hỏi về nguyện vọng thì 48,5% người khuyết tật trả lời có nguyện vọng   hỗ  trợ  vốn để  tạo việc làm, 13,56% đề  nghị  bố  trí việc làm thích hợp, 4,1%   đề nghị được học nghề.  3. Chính sách ưu đãi về y tế Chính sách  ưu đãi về  y tế  là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết  đối với người  khuyết tật. Đại đa số (67%) người khuyết tật vận động mong   muốn được hỗ  trợ  chỉnh hình, phục hồi chức năng (được cung cấp phương  tiện: chân, tay giả, xe chuyên dùng). Điều này cũng phù hợp với khả năng sản  xuất các dụng cụ chỉnh hình của Việt Nam. Hiện nay, với số lượng dụng cụ  hơn 20.000 dụng cụ các loại/năm mới đáp ứng đợc khoảng 15% nhu cầu của   đối   tượng.   Trong   6   năm   từ   năm   (1991­1996)   đã   phục   hồi   chức   năng   cho   175.000 đồng trẻ  em khuyết tật, điều trị  chỉnh hình 55.000 em đắp được và  15.000 nẹp và ấn chỉnh hình, cấp 550 xe lăn các loại cho đối tượng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn 68% người khuyết tật cần nhưng chưa có  dụng cụ chỉnh hình. Trong đó có 12% là có khả năng kinh tế để mua dụng cụ,  còn lại 56% dù muốn có dụng cụ nhng không có tiền để mua. Về  khám chữa bệnh cho người khuyết tật thì những người được nuôi  dưỡng tại trung tâm thì đã được nhà nước cấp miễn phí hoàn toàn các khoản   chữa bệnh, còn những người được nuôi dưỡng  tại cộng đồng được nhà nước  cấp thẻ bảo hiểm y tế để khám chữa bệnh. Nếu trường hợp phải phẫu thuật   thì Nhà nước giảm một phần kinh phí. 4. Hỗ trợ người khuyết tật trong hoạt động thể thao và văn nghệ Đây là những hoạt động có ý nghĩa rất lớnvề  mặt tinh thần cho người   khuyết tật vươn lên và hoà nhập cộng đồng. chính vì vậy mà nhà nước cần   hỗ  trợ  cho những trang thiết bị  dụng cụ  cho những trung tâm thể  thao cho  người khuyết tật. Phối hợp với hội bảo trợ người khuyết tật và các cơ  quan  khác tạo mọi điều kiện về vật chất, phương tiện cho người khuyết tật tham   18
  19. gia các hoạt động văn hoá thể  thao. Hàng năm đã tổ  chức ngày hội văn hoá  thể thao văn nghệ cho người khuyết tật như hai hội thi năm 1997 ở Quảng Trị  và năm 1999  ở  Đà Nẵng đã động viên khuyến khích người khuyết tật vươn   lên hoà nhập cộng đồng. 19
  20. Bài 3: Kỹ năng công tác xã hội với người khuyết tật Mã bài: MĐ29_B03 Giới thiệu: Giới thiệu các kỹ năng công tác xã hội với người khuyết tật: kỹ  năng giao tiếp, kỹ năng chăm sóc sức khỏe... Mục tiêu: ­ Về kiến thức: + Trình bày được đặc điểm tâm lý, nhu cầu người khuyết tật; + Trình bày được các kỹ năng công tác xã hội với người khuyết tật. ­ Về kỹ năng: + Vận dụng được các kỹ năng phù hợp với tình huống và dạng tật; + Lập được kế hoạch và kết nối dịch vụ trợ giúp người khuyết tật. ­ Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Tự tin trong giao tiếp với người khuyết tật; + Có   ý   thức  khích  lệ  sự   vươn  lên hòa  nhập cộng  đồng  của  người  khuyết tật. Nội dung chính: 1. Kỹ năng giao tiếp ­ Đặc điểm tâm lý người khuyết tật + Mặc cảm ngoại hình: là sự chú trọng quá mức đến khiếm khuyết cơ  thể đến nỗi gây đau đớn. + Ám ảnh sợ xã hội: là một kiểu trốn tránh và sợ hãi khi thực hiện các  hoạt   động  mang  tính  cộng  đồng  như  giao  lưu,  gặp  gỡ   ở  chỗ   đông  người. ­ Kỹ năng giao tiếp với người khuyết tật + “Hãy nhìn vào con người họ hơn là nhìn vào tình trạng khuyết tật của  họ.” +  Tránh tò mò hỏ  những câu hỏi về  tình trạng khuyết tật của họ  khi   mới gặp. + Không nên có thái độ  khó chịu vì những khoảng thời gian chết trong  khi đang giao tiếp với NKT + Hỏi ý kiến của NKT trước khi có ý định hỗ trợ họ. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
17=>2