Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
lượt xem 6
download
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em được biên soạn theo chương trình dạy nghề Công tác xã hội gồm 4 bài, cụ thể: Những vấn đề chung về sự phát triển và quyền trẻ em. Bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại và sao nhãng. Vận dụng các nguyên tắc làm việc với trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt. Tiến trình công tác xã hội với trẻ em.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
- BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN: CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM NGHỀ: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG/TRUNG CẤP Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ… ngày…….tháng….năm ......... ………… của………………………………. Ninh Bình, năm 2018 TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
- Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. LỜI GIỚI THIỆU
- Trẻ em là đối tượng đặc biệt, là thuật ngữ để chỉ một nhóm xã hội thuộc độ tuổi trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Đó là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về cả thể chất lẫn trí tuệ, dễ bị tổn thương .Về vị thế xã hội, trẻ em là một nhóm xã hội ngày càng có khả năng hội nhập với tư cách là những chủ thể tích cực, có ý thức, nhưng cũng là đối tượng cần được gia đình và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục. Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em được biên soạn theo chương trình dạy nghề Công tác xã hội gồm 4 bài: Bài 1. Những vấn đề chung về sự phát triển và quyền trẻ em Bài 2. Bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại và sao nhãng Bài 3.Vận dụng các nguyên tắc làm việc với trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt Bài 4. Tiến trình công tác xã hội với trẻ em Giáo trình được biên soạn trên cơ sở tham khảo và sử dụng tài liệu của một số giảng viên, nhà nghiên cứu về công tác xã hội với trẻ em ở Việt Nam và trên thế giới. Giáo trình này đã được Hội đồng thẩm định xét duyệt. Là giáo trình được biên soạn lần đầu tại Trường, do đó không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp và bạn đọc để giáo trình ngày càng hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn! Nhóm biên soạn Đỗ Thị Thu Hằng Phạm Thu Phương MỤC LỤC Bài 1. Những vấn đề chung về sự phát triển và quyền trẻ em 1.Sự phát triển tâm lý trẻ 2. Quyền tham gia của trẻ em và hệ thống chính sách liên quan đến trẻ em Bài 2. Bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại và sao nhãng 1. Tiến hành các hoạt động bảo vệ và chăm sóc trẻ em 2. .Tiến hành các phương thức can thiệp cộng đồng giúp đỡ toàn diện với trẻ em trong
- hoàn cảnh đặc biệt khó khăn – trẻ em làm trái pháp luật Bài 3. Vận dụng các nguyên tắc làm việc với trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt 1. Chấp nhận trẻ 2. Để trẻ tham gia giải quyết vấn đề 3. Thực hiện quyền tự quyết của thân chủ 4. Cá biệt hóa 5. Giữ bí mật 6.Ý thức về bản thân 7. Tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân viên xã hội và thân chủ Thực hiện tiến trình công tác xã hội với trẻ em 1.Nhận thức 2. Đánh giá 3.Đặt câu hỏi 4.Lập luận 5. Lên kế hoạch 6. Can thiếp 7. Lượng giá TÀI LIỆU THAM KHẢO GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN Tên mô đun: CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM Mã mô đun: MĐ 25 Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của mô đun: Công tác xã hội với trẻ em là mô đun chuyên môn nghề quan trọng của chương trình đào tạo nghề công tác xã hội liên quan tới hoạt động cung cấp dịch vụ cho trẻ em. Là mô đun chuyên môn nghề bắt buộc Mục tiêu của mô đun: Kiến thức + Nêu được khái niệm, đặc điểm tâm lý và nhu cầu của trẻ em. + Trình bày được quyền trẻ em trong pháp luật quốc tế và quốc gia. + Chăm sóc bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
- Kỹ năng: + Phỏng vấn và đánh giá được những trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt + Thực hiện được kỹ năng giao tiếp với trẻ Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Rèn luyện tính kiên trì, tỉ mỉ khi làm việc với trẻ em, quan tâm chăm sóc và giành những gì tốt nhất cho trẻ em trên nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử. Nội dung của mô đun: BÀI 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ QUYỀN TRẺ EM Mã bài: MĐ19 B01 Mục tiêu: + Nêu được sự phát triển tâm lý của trẻ em và những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. + Nêu được đầy đủ các giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em và những tổn thương tâm lý khi không được đáp ứng nhu cầu +Mô tả được về quyền trẻ em trong pháp luật quốc tế và Việt Nam + Nêu được trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc thực hiện quyền trẻ em. + Trình bày được hệ thống chính sách, dịch vụ dành cho trẻ em. Kỹ năng: + Vận dụng được sự hiểu biết tâm lý về trẻ để có cách ứng xử phù hợp, linh hoạt + Xây dựng được kế hoạch chăm sóc bảo vệ trẻ em + Lập được kế hoach, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền trẻ em Năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Rèn luyện tính chính xác khi tuyên truyền các quyền trẻ em, dành những gì tốt đẹp nhất mà mình có cho trẻ em + Thực hiện sự tôn trọng và khích lệ sự tham gia của trẻ em Nội dung chính: 1. 1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách của trẻ em 1.1.1. Yếu tố sinh học:Vai trò của bẩm sinh – di truyền * Thế nào là bẩm sinh di truyền? Di truyền là sự tái tạo ở trẻ những thuộc tính sinh học có ở cha mẹ, là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm và những phẩm chất nhất định đã ghi lại trong hệ thống gien.
- Ví dụ: Người châu Âu da trắng, mắt xanh, người châu Phi da đen tóc xoăn thì con cái của họ ngay khi sinh ra cũng giống bố mẹ… Di truyền là những đặc trưng sinh học của cha mẹ truyền cho con cái không chỉ biểu hiện một cách hiện hữu khi đứa bé sinh ra có thể có những mầm mống, tư chất sau một thời gian mới bộc lộ: như hội hoạ, thơ ca, táon học… Bẩm sinh là những thuộc tính những đặc điểm sinh học có ngay khi đứa trẻ mới sinh như màu tóc, da, thể trạng, hệ thần kinh… *Vai trò của di truyền, bẩm sinh BSDT tạo ra sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, tạo khả năng cho người đó hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực hoạt động nhất định. Các nhà giáo dục cần phải quan tâm đúng mức để phát huy hết các bản chất tự nhiên của học sinh. Ví dụ như người có thanh quản tốt có thể trở thành ca sỹ; bàn tay khéo có thể trở thành nhà điêu khắc… BSDT tạo nên tiền đề vật chất (mầm mống) cho sự phát triển nhân cách, ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành tài năng, xúc cảm. Ví dụ những đứa trẻ có gien di truyền về một lĩnh vực hoạt động nào đó sẽ sớm bộc lộ thiên hướng về lĩnh vực hoạt động đó. Những tư chất có sẵn trong cấu tạo của não, trong các cơ quan cảm giác, các cơ quan vận động… là điều kiện để thực hiện có kết quả một hoạt động cụ thể Nhà giáo dục cần phải quan tâm đúng mức để phát huy hết các bản chất tự nhiên của con người. Sớm phát hiện, xác định rõ những tư chất của học sinh để có kể hoạch chăm sóc bồi dưỡng kịp thời . Lưu ý: Di truyền không thể quyết định những giới hạn tiến bộ của xã hội con người. Vì vậy những đặc điểm sinh học có ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành tài năng, xúc cảm, sức khoẻ của con người nhưng nó chỉ tạo tiền đề cho sự phát triển nhân cách. 1.1.2. Vai trò của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách *Khái niệm môi trường Môi trường là hệ thống phức tạp những hoàn cảnh bên ngoài, kể cả điều kiện tự nhiên và xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến cuộc sống, hoạt động và phát triển nhân cách. *Phân loại môi trường Có 2 loại môi trường: tự nhiên và xã hội + Môi trường tự nhiên: là điều kiện tự nhiên( khí hậu, đất, nước...), hệ sinh thái phục vụ cho hoạt động học tập, lao động sản xuất, rèn luyện thể chất, vui chơi giải trí của con người. + Môi trường xã hội: là điều kiện sống trong xã hội với các mối quan hệ giữa cá nhân với nhau, giữa cá nhân với tập thể, xã hội.
- Gia đình là môi trường đầu tiên của đứa trẻ, là nơi sinh ra và cũng là nơi giáo dục đứa trẻ. Mức sống, trình độ học vấn, thói quen nếp sống của gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến đứa trẻ. Tập thể học sinh cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nhân cách. *Vai trò của môi trường Tục ngữ Việt Nam có câu: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Mạnh Tử nhà giáo dục nổi tiếng của trung Hoa cổ đại đã khẳng định: “Nơi ở làm thay đổi tính nết, việc ăn uống làm thay đổi cơ thể”. “Nơi” ở hiểu theo nghĩa rộng là môi trường quyết định đến việc hình thành nhân cách của con người. Mỗi một con người từ khi sinh ra đã phải sống trong một môi trường nhất định có thể gặp thuận lợi hoặc khó khăn đối với quá trình phát triển. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, thông qua đó cá nhân chiếm lĩnh được kinh nghiệm xã hội loài người để hình thành và hoàn thiện nhân cách của mình. Ngay cả khi con người cùng sống chung trong môi trường nhưng nhân cách của họ lại phát triển khác nhau. Mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách còn tuỳ thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân, tuỳ vào xu hướng, năng lực của cá nhân tham gia cải biến môi trường. Như vậy, tác động của môi trường đối với sự phát triển cá nhân có thể tốt, có thể xấu, có thể tích cực hoặc tiêu cực còn tuỳ thuộc vào rất nhiều các yếu tố. Có khi con người sống trong một môi trường thấp kém nhưng phẩm chất năng lực không bị hoen ố “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. C. Mác đã khẳng định rằng: hoàn cảnh đã sáng tạo ra con người, trong một mức độ con người lại sáng tạo ra hoàn cảnh. Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cần đánh giá đúng mức vai trò của môi trường, không nên tuyệt đối hoá vai trò của môi trường. Trong quá trình giáo dục con người, cần gắn chặt từng bước giáo dục và học tập với thực tiễn cải tạo xã hội, phải hướng học sinh vào việc hình thành định hướng giá trị, tạo điều kiện để các em tích cực tham gia vào việc cải tạo và xây dựng môi trường. Đồng thời, trong giáo dục cần hình thành ở học sinh những định hướng giá trị đúng đắn, xây dựng cho các em một bản lĩnh vững vàng, tạo cho các em tham gia vào việc cải tạo và xây dựng môi trường 1.1.3. Vai trò chủ đạo của của nhân tố giáo dục *. Khái niệm giáo dục Giáo dục là quá trình tác động của nhân cách này đến nhân cách khác, là hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo
- những yêu cầu của xã hội. Đây là quá trình tác động có mục đích, có nội dung, phương pháp, phương tiện, có tổ chức có kế hoạch giúp cho cá nhân chiếm lĩnh được những kinh nghiệm, những giá trị của nhân loại. Giáo dục bao gồm có giáo dục trong gia đình, giáo dục xã hội, giáo dục nhà trường và tự giáo dục. Các loại giáo dục này có mối quan hệ với nhau. *. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách Ngay từ thời kỳ Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (551 479 TCN) cũng có quan niệm đánh giá về giáo dục “Viên ngọc không được mài dũa thì không thành đồ ngọc dùng được. Con người không học thì không biết gì về đạo lý”, hoặc “Ăn no mặc ấm, ngồi dưng không được giáo dục thì gần như cầm thú”. Bác Hồ cũng đã nói: “Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên” Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách thể hiện: Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, mà còn tổ chức, dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó. Điều này được thể hiện thông qua mục tiêu đào tạo của nhà trường. Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố di truyền, môi trường không thể có được. Cho nên giáo dục không những thích ứng với các yếu tố BSDT, môi trường mà còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố đó theo một gia tốc phù hợp. Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật. Nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người, phục hồi những chức năng đã mất, giúp họ hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng (ví dụ như nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký...) Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Đồng thời, sự phát triển tâm lý của trẻ chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của sự dạy học và giáo dục. Như vậy, giáo dục vạch ra đường hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và thúc đẩy quá trình này theo đường hướng đó. Nhưng giáo dục không chỉ tác động một chiều mà bao gồm cả hoạt động tích cực, đa dạng của người được giáo dục. Do đó, để giáo dục giữ vai trò chủ đạo thì cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục. 1.1 4. Vai trò quyết định trực tiếp của hoạt động cá nhân a. Khái niệm hoạt động
- Hoạt động là quá trình con người thực hiện mối quan hệ tác động qua lại với tự nhiên, với xã hội, với người khác và với bản thân. Từ đó tạo ra sản phẩm cả về tự nhiên, xã hội và về phí con người. b. Vai trò của hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách Thông qua hoạt động, con người chuyển hoá năng lực, phẩm chất tâm lý của bản thân thành sản phẩm thực tế, tiếp thu nền văn hoá biến nền văn hoá của loài người thành vốn riêng của mình Thông qua hoạt động con người tiếp thu nền văn hoá xã hội và biến nền văn hoá của loài ngưòi thành vốn riêng của mình, vận dụng chúng vảo cuốc sống, làm cho nhân cách ngày càng phát triển. Hoạt động giúp cho cá nhân hiện thực hoá những khả năng về tố chất thành hiện thực, đồng thời là nguồn quan trọng cung cấp cho cá nhân những kinh nghiệm xã hội. Thông qua hoạt động con ngưòi có thể cải tạo những nét tâm lý và những nhân cách đang bị suy thoái hoàn thiện chúng theo chuẩn mực đạo đức của xã hội. Quá trình giáo dục phải đi đến tự giáo dục tức là cá nhân phải có ý thức nỗ lực, có ý chí quyết tâm khắc phục, vượt qua những khó khăn chủ quan và khách quan để thực hiện việc rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách theo một chương trình, kế hoạch Hoạt động của cá nhân quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Muốn phát huy được vai trò của hoạt động cá nhân thì phải: +Đưa học sinh vào những hoạt động đa dạng, coi hoạt động là phưong tiện giáo dục cơ bản. + Tổ chức các hoạt động tích cực, sáng tạo của học sinh, thay đổi tính chất của hoạt động làm phong phú nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động để lôi cuốn học sinh vào hoạt động. + Nhà giáo dục phải nắm được hoạt động chủ đạo ở từng thời ký nhất định để tổ chức các hoạt động cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi 1.2. Các giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em 1.2.1.CÁC LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN: 1.2.1.1.Quan điểm Tâm lý động học: Thuyết Phân tâm học của Sigmund Freud (1856 – 1939): Sigmund Freud là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho quan điểm Tâm lý động học. Ông cho rằng con người trưởng thành về mặt tâm lý theo các nguyên tắc áp dụng phổ biến nhưng mỗi nhân cách của cá nhân được định hình bằng kinh nghiệm trong một bối cảnh xã hội. Theo ông, kinh nghiệm đầu đời hình thành các mẫu nhân cách kéo dài trong suốt cả cuộc đời. Thuyết Phân tâm học của Freud về nhân cách tập trung vào 3 thành phần: xung động bản năng, bản ngã và siêu ngã. Xung động bản năng là nguồn cung cấp các xu thế nguyên thủy, có từ lúc mới sinh, nó là tác động ép buộc phải thỏa mãn các nhu cầu của cơ thể. Bản ngã là
- thành phần nhân cách thực tế, duy lý, bắt đầu xuất hiện trong năm đầu tiên của cuộc đời, để đáp lại thực tế của trẻ tuổi ẵm ngửa không có được những gì mình muốn. Siêu ngã xuất hiện trong nhân cách phát triển khi trẻ bắt đầu kết hợp nhu cầu của mình với tiêu chuẩn đúng sai của người lớn, khoảng từ năm 3 – 4 tuổi. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TÌNH DỤC Giai đoạn Độ tuổi Mô tả Nhu cầu tâm lý tình dục bằng miệng (bú), hình Miệng 01 thành sự quyến luyến với mẹ. Trẻ được hối thúc phải kiểm soát bàng quang và Hậu môn 13 ruột, tạo ra sự xung đột giữa thôi thúc sinh học và yêu cầu kiểm soát của xã hội. Năng lực tâm lý tình dục tập trung về cơ quan Tượng dương vật 36 sinh dục, thúc giục sự ham muốn bố mẹ khác giới. “Thời gian yên tĩnh” mà năng lượng tình dục Tiềm ẩn 612 được định hướng thành các hoạt động được xã hội chấp nhận (ví dụ học tập). Giai đoạn trưởng thành giới tính, nhu cầu tâm lý Cơ quan sinh dục 12 trở lên tình dục được định hướng sang mối quan hệ tình dục khác giới. Freud cũng cho rằng sự phát triển của con người diễn ra trong các giai đoạn không thay đổi về chuỗi, những giai đoạn này được gọi là giai đoạn phát triển tâm lý tình dục. Mỗi giai đoạn đều mang tính độc đáo bằng sự phát triển khả năng nhận cảm của một bộ phận hoặc một vùng nhạy cảm tình dục. Theo ông, sự phát triển tiếp diễn tốt nhất khi nhu cầu tâm lý tình dục của trẻ trong từng giai đoạn (trong bảng trên) được đáp ứng nhưng không thái quá. Thuyết Tâm lý xã hội của Erik Erikson (1902 – 1994): Trên nền tảng là thuyết Phân tâm học của Freud, Erikson đã phát triển nó và nghiên cứu sự trưởng thành của con người trong suốt tuổi trưởng thành và tuổi già. Trong thuyết của mình, Erikson cho rằng sự phát triển nhân cách được quyết định bằng sự tương tác giữa kế hoạch trưởng thành bên trong và nhu cầu xã hội bên ngoài. Ông cho rằng chu kỳ đời sống con người gồm 8 giai đoạn mà thứ tự cố định về mặt sinh học CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ XÃ HỘI
- Giai đoạn tâm lý Độ tuổi Thử thách xã hội Tin cậy cơ bản so Phát triển ý thức cho rằng thế giới là nơi an 01 với hoài nghi toàn Tự quản so với hổ Thừa nhận rằng con người là một người độc 13 thẹn và hoài nghi lập có thể ra quyết định Sáng kiến so với tội Phát triển khả năng tự làm việc mới và giải 36 lỗi quyết Chuyên cần so với 6 đến tuổi Học hỏi kỹ năng làm việc với người khác tự ti thanh niên Nhận dạng so với Tuổi thanh nhầm lẫn nhận Phát triển ý thức lâu bền, kết hợp với cái tôi niên dạng Thân mật so với cô Đầu tuổi Ràng buộc với người khác trong mối quan hệ lập trưởng thành yêu đương Góp phần với người nhỏ tuổi hơn, thông qua Khả năng sinh sản Giữa tuổi việc nuôi con, chăm sóc con cái hoặc công so với ngưng trệ trưởng thành việc sản xuất khác Kết hợp so với thất Về già Xem cuộc sống đáng giá và hài lòng vọng Chuỗi giai đoạn trong lý thuyết của Erikson dựa trên nguyên tắc biểu sinh nghĩa là mỗi sức mạnh tâm lý xã hội đều có thời gian uy lực của chính mình hoặc giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì các giai đoạn kéo dài trong suốt quãng đời nên cần cả đời mới có được tất cả sức mạnh tâm lý xã hội. Ngoài ra, Erikson cũng nhận thấy rằng hành vi hiện tại và tương lai đều có nguồn gốc từ quá khứ vì các giai đoạn sau đều được hình thành trên nền tảng trước đó. Quan điểm Tâm lý động học nhấn mạnh rằng sự chuyển qua tuổi trưởng thành là hết sức khó khăn vì con đường đầy rẫy vật cản. Kết quả phát triển phản ánh thái độ và sự dễ chịu mà trẻ dùng để vượt qua thử thách trong đời sống. Khi trẻ vượt qua rào cản ban đầu dễ dàng thì trẻ có khả năng giải quyết các rào cản sau này tốt hơn. 2.Quan điểm tập quen: Thuyết Hành vi (John Waston và Skinner): John Waston (1878 – 1958) là một trong những nhà tâm lý học đầu tiên ủng hộ quan điểm cho rằng đầu óc của trẻ con là trang giấy trắng để viết kinh nghiệm vào. Ông lập luận rằng tập quen sẽ quyết định đứa trẻ sau này sẽ ra sao, và nếu áp dụng đúng kỹ thuật, ai cũng có thể
- học được mọi thứ. Nói cách khác, trong lý thuyết của mình, Waston đã phát biểu rằng kinh nghiệm rất quan trọng trong việc quyết định quá trình phát triển. Sau Waston, Skinner (1904 – 1990) đã tiếp tục phát triển Thuyết Hành vi. Ông nghiên cứu biến đổi điều kiện ngoại cảnh thực nghiệm, trong đó kết quả của một hành vi quyết định liệu một hành vi có lặp lại trong tương lai hay không. Điều này liên quan đến sự củng cố hoặc hình phạt mà người lớn áp dụng sau khi trẻ thực hiện hành vi. Củng cố là việc ban thưởng cho trẻ nhằm tăng khả năng lặp lại những hành vi (ví dụ khen, cho kẹo, cho tiền,…). Củng cố tích cực là khi đáp lại hành vi tốt của trẻ bằng một sự dễ chịu, tuy nhiên sự củng cố trở nên tiêu cực khi phần thưởng là việc loại bỏ cho người khác những điều khó chịu (ví dụ nếu đứa trẻ đạt điểm cao thì trẻ không phải rửa chén). Hình phạt là kết quả làm giảm khả năng lặp lại hành vi của trẻ. Hình phạt kiềm chế hành vi bằng cách tăng điều khó chịu hoặc giảm điều thích thú (ví dụ la mắng nếu trẻ không dọn dẹp phòng hoặc không cho trẻ đi chơi nếu trẻ được điểm kém). Thuyết tập quen xã hội của Albert Bandura (1918) Biến đổi điều kiện ngoại cảnh là một trong những cách để con người tập quen, tuy nhiên đó không phải là cách duy nhất. Con người đôi lúc tập quen không cần phần thưởng hay hình phạt, mà chỉ đơn thuần bằng cách quan sát người khác quanh mình, hay con gọi là bắt chước hoặc tập quen quan sát. Hình thức bắt chước đơn giản nhất là con người quan sát và làm theo những gì mà người khác làm, tuy nhiên không phải lúc nào cũng như vậy. Con người còn bắt chước khi thấy hành vi của người nào đó được người khác tán thưởng thay vì bị phạt – nghĩa là bắt chước một cách có chọn lọc, không mô phỏng một cách máy móc mà thay vào đó họ nhìn người khác để tìm thông tin về hành vi thích hợp. Albert Bandura đặt thuyết nhận thức xã hội của mình trên quan điểm thưởng phạt và bắt chước phức tạp hơn này. Thuyết của Bandura mang tính “nhận thức” vì ông nghĩ con người luôn tích cực cố gắng tìm hiểu những gì đang diễn ra trên thế giới, và nó mang tính “xã hội” vì, cùng với việc củng cố và hình phạt, những gì người khác đang làm là một nguồn thông tin quan trọng về thế giới. Ông cũng lập luận rằng kinh nghiệm giúp con người ý thức cái tôi hiệu quả, ám chỉ niềm tin của con người vào năng lực và tài năng của mình. Niềm tin cái tôi hiệu quả giúp xác định khi nào người ta sẽ bắt chước người khác. Ví dụ một đứa trẻ không có khiếu âm nhạc sẽ không bắt chước một ca sĩ nổi tiếng, dù nó rất hâm mộ ca sĩ đó. Vì vậy, việc người ấy là ai và suy nghĩ của người ấy về tài năng của mình sẽ quyết định liệu người ấy có bắt chước hay không (bên cạnh thưởng và phạt).
- Mặc dù có một số sự khác nhau giữa các nhà lý thuyết gia, nhưng tất cả đều tin rằng kinh nghiệm thúc đẩy con người trong hành trình phát triển của mình 1.2.1.3.Quan điểm nhận thức: Thuyết của Jean Piaget (1896 – 1980): Piaget cho rằng trẻ con luôn cố tìm hiểu thế giới của mình một cách tự nhiên. Trong suốt tuổi ẳm ngữa, thơ ấu và thanh niên trẻ con muốn tìm hiểu hoạt động của cả thế giới tự nhiên và xã hội. Ông lập luận rằng trong nỗ lực tìm hiểu thế giới của mình, trẻ liên kết các hiểu biết của mình về sự vật và con người thành một lý thuyết hoàn chỉnh. Sau đó, kinh nghiệm sống của trẻ sẽ kiểm chứng các lý thuyết, dẫn đến niềm tin của trẻ vào lý thuyết trở nên mạnh mẽ hơn (nếu các sự kiện dự đoán xảy ra) hoặc trẻ xem xét lại lý thuyết của mình (nếu sự kiện dự đoán không xảy ra). Khi đến một vài thời điểm tới hạn trong sự phát triển, trẻ bắt đầu hình thành kiến thức theo cách mới, xây dựng nên những lý thuyết mới về cơ bản. Và theo Piaget sự thay đổi này diễn ra 3 lần trong đời (một lần lúc 2 tuổi, lần thứ hai khi 7 tuổi và lần thứ ba ngay trong tuổi thanh niên), đồng nghĩa với việc trẻ trải qua bốn giai đoạn phát triển. Mỗi giai đoạn tượng trưng cho một thay đổi cơ bản trong cách con người tìm hiểu và sắp xếp môi trường của mình, và giai đoạn sau lại mang nhiều quan điểm, lập luận tinh vi hơn giai đoạn trước (thể hiện trong bảng dưới). BỐN GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC GIAI ĐOẠN ĐỔ TUỔI KHOẢNG ĐẶC ĐIỂM Hiểu biết thế giới dựa trên giác quan và Vận động Mới sinh đến 2 tuổi kỹ năng vận động. Cuối giai đoạn sử nhận cảm dụng miêu tả suy nghĩ Trẻ học cách sử dụng biểu tượng để mô Suy nghĩ tiền tả các khía cạnh của thế giới nhưng liên 2 – 6 tuổi hoạt động kết thế giới chỉ bằng quan điểm của mình Trẻ hiểu và áp dụng hoạt động lohic vào Suy nghĩ hoạt 7 đến đầu tuổi thanh kinh nghiệm miễn là chúng được tập động cụ thể niên trung vào đúng thời điểm Thanh niên hoặc người lớn suy nghĩ trừu Suy nghĩ hoạt Từ tuổi thanh niên trở tượng giải quyết tình huống giả thuyết động hình thức lên và suy đoán về những gì có thể
- Thuyết của Lawrence Kohlberg: Thuyết Lập luận đạo đức của Kohlberg phát triển trên nền tảng thuyết của Piaget. Ông phân tích phản ứng của trẻ con, trẻ vị thành niên và người lớn đối với nhiều tình huống, không quan tâm đến quyết định của cá nhân mà quan tâm đến lập luận mà cá nhân dùng để biện minh cho quyến định của mình. Lập luận đạo đức bao gồm nguyên tắc hạnh kiểm đạo đức mà con người thường ghi nhớ để biện minh cho cách giải quyết vấn đề của mình. Ông tin rằng lập luận đạo đức phát triển trong suốt cuộc đời theo một chuỗi các giai đoạn cụ thể. Dùng thuyết của Piaget làm xuất phát điểm, ông mô tả một chuỗi các giai đoạn phổ biến, cố định thể hiện sự thay đổi về chất trong lập luận. Ông chia lập luận đạo đức thành 3 cấp: Cấp tiền quy ước: Trừng phạt và tưởng thưởng Giai đoạn 1: Vâng lời người có uy tín Giai đoạn 2: Hành vi tử tế để sau này được trẻ ơn Cấp quy ước: Chuẩn mực xã hội Giai đoạn 3: Sống theo kỳ vọng của người khác Áp dụng nguyên tắc để duy trì trật tự xã hội Cấp hậu quy ước: Chuẩn mực đạo đức Giai đoạn 5: Trung thành với giao kèo xã hội khi giao kèo có giá trị Giai đoạn 6: Hệ thống đạo đức cá nhân dựa trên nguyên tắc trừu tượng Thuyết xử lý thông tin: Không phải tất cả các lý thuyết gia phát triển đều xem sự phát triển của con người là một chuỗi các giai đoạn. Các nhà lý thuyết Xử lý thông tin dựa vào hoạt động của máy tính để giải thích tư duy và sự phát triển tư duy con người. Các nhà lý thuyết Xử lý thông tin cho rằng cũng như máy tính, nhận thức của con người bao gồm phần cứu trí tuệ và phầm mềm trí tuệ. Phần cứng là cấu trúc nhận thức bao gồm các bộ nhớ khác nhau, nơi lưu trữ nơi lưu trữ thông tin. Phần mềm bao gồm tập hợp các quá trình nhận thức giúp trẻ thực hiện một nhiệm vụ cụ thể. Ví dụ, để làm tốt bài thi, trẻ phải mã hóa thông tin lúc học, lưu trữ thông tin trong bộ nhớ (phần cứng) và truy cập thông tin cần thiết khi thi (phần mềm). Theo các nhà Tâm lý học xử lý thông tin, sự phát triển tư duy của trẻ con diễn ra cùng lúc với quá trình phát triển cơ bản, nghĩa là khi trẻ lớn lên, phần cứng và phần mềm được cải tiến theo độ tuổi, trẻ lớn và thanh niên có phần cứng và phần mềm tốt hơn trẻ nhỏ.
- Đồng thời, khi con người về già, cùng với sự trì trệ các chức năng sinh học của cơ thể, phần cứng và phần mềm cũng trở nên lão hóa và “lỗi thời”. 1.2.1.4. Quan điểm sinh thái học và các hệ thống: Thuyết của Urie Bonfenbrenner: Urie Bonfenbrenner là người đề xuất tiếp cận Sinh thái học nổi tiếng nhất. Ông cho rằng sự phát triển của trẻ con được gắn kết với một loạt hệ thống phức tạp và tương tác. Ông chia môi trường ra thành 4 cấp: hệ thống vi mô, hệ thống giữa, hệ thống ngoại và hệ thống vĩ mô. Các cáp này không tách biệt mà tác động qua lại lẫn nhau. Thuyết cạnh tranh – áp lực môi trường của Lawton và Nahemow:: Thuyết này ban đầu được đề ra để giải thích cách hoạt động chức năng của người cao tuổi trong môi trường của mình. Về cơ bản thuyết cho rằng con người thích nghi tốt như thế nào phụ thuộc vào sự kết hợp giữa năng lực cạnh tranh và áp lực môi trường hoặc môi trường áp đặt yêu cầu lên họ. Năng lực ở đây có thể hiểu là khả năng hoạt động chức năng của cá nhân trong 5 lĩnh vực: sức khỏe cơ thể, kỹ năng nhận thức nhận cảm, kỹ năng vận động, kỹ năng nhận thức và sức mạnh bản ngã. Áp lực môi trường ám chỉ yêu cầu tự nhiên, yêu cầu giữa cá nhân với nhau hoặc yêu cầu xã hội, mà môi trường áp đặt cho một người. Những khía cạnh này trong thuyết phản ánh tác động sinh học, tâm lý và xã hội. Cả năng lực lẫn áp lực môi trường thay đổi khi con người trải qua các quãng đời khác nhau, vì thế khuôn khổ năng lực – áp lực môi trường cũng phản ánh các yếu tố chu kỳ đời sống. Sự phát triển của trẻ em: Sự phát triển của trẻ em là quá trình biến đổi tổng thể, toàn vẹn về thể chất, tinh thần và xã hội cũng như các năng lực của trẻ em theo lứa tuổi. Phát triển về thể chất biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, cân nặng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợp các vận động. Phát triển về tâm lý là những biến đổi cơ bản trong quá trình nhận thức, xúc cảm, ý chí, sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách. Sự phát triển về mặt xã hội biểu hiện ở những biến đổi trong cách cư xử với những người xung quanh, trong việc tích cực tham gia vào đời sống xã hội hay nâng cao trách nhiệm bản thân trước các sự kiện, vấn đề xã hội. Như vậy, nói đến sự phát triển của trẻ em cũng là nói đến sự phát triển toàn diện, hài hòa nhân cách của trẻ em, quá trình này bắt đầu từ trong bụng mẹ, khi bộ não hình thành và tiếp tục phát triển một cách nhanh chóng sau khi sinh. Các nhà khoa học thống nhất chia sự phát triển của trẻ em thành 5 giai đoạn chính: Giai đoạn 1: Dưới 18 tháng tuổi Giai đoạn 2: Từ 18 đến 36 tháng tuổi Giai đoạn 3: Từ 3 đến 6 tuổi
- Giai đoạn 4: Từ 6 đến 12 tuổi Giai đoạn 5 từ 12 đến 18 tuổi Từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 3 thường được gọi là tuổi thơ, giai đoạn 4 được gọi là tuổi nhi đồng, giai đoạn 5 được gọi là tuổi vị thành niên. Tuổi thơ: Đây là giai đoạn tạo ra những cơ sở, tiền đề quyết định quá trình phát triển về sau của trẻ nên nó có vai trò hết sức quan trọng. Trong giai đoạn này, trẻ lớn lên và học được nhiều hơn bất kỳ giai đoạn nào khác trong cuộc đời. Sau khi sinh vài phút, bé nhận ra giọng nói của mẹ và tỏ vẻ thích thú với giọng nói đó, bé cũng bắt đầu thích khuôn mặt của người khác và các hình dạng khác. Nếu đo thị lực, mắt của em bé chỉ đạt 20/600 và sẽ phát triển trong 6 tháng tiếp theo. Ba ngày tuổi bé có thể bắt chước nét mặt của người lớn. Một tuần tuổi, bé sẽ rụng rốn trong vòng 7 đến 14 ngày. Sáu tuần tuổi, 81% các bé ngủ chung với cha mẹ (ở VN, con số này sẽ cao hơn). Bé biết cười được người khác nói chuyện. Khoảng bốn tháng, hầu hết các bé đều đã cười không thành tiếng. Bảy tuần tuổi, trẻ bắt đầu ngủ vào ban đêm nhiều hơn ban ngày. Khoảng 2 tháng, em bé bắt đầu hơi ngóc đầu khi bé nằm sấp. Khoảng 3 tháng, bé có thể tự với lấy được một món đồ chơi. Bốn tháng tuổi, bé biết lật qua lật lại, khi đặt một thứ gì đó vào tay bé biết đưa vào miệng. Lúc này, cân nặng của bé thường gấp đôi khi mới sinh. Trong khoảng 5 – 6 tháng tuổi, bé bắt đầu phân biệt người lạ, người quen, khoảng 54% bé vẫn còn bú sữa mẹ. Bé có thể mút các ngón chân, di chuyển một món đồ chơi từ tay này sang tay kia. Trong khoảng thời gian này em bé mọc chiếc răng đầu tiên. Tám tháng tuổi bé bắt đầu bập bẹ, phát ra các âm thanh như mama, baba. Bé bắt đầu tự ngồi và có thể tự đứng lên khi bé 10 tháng. Bé có thể biết bò, đầu tiên bé bò lùi và khoảng 3 tháng sau, biết dùng tay và đầu gối để bò. Lúc này bé có thể vẫy tay tạm biệt và vỗ tay. Mười một tháng tuổi, bé có thể nhặt những đồ vật nhỏ xíu bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ. Mười hai tháng tuổi bé biết bắt chước tiếng các con vật. Cho tới thời điểm này khoảng 50% các em bé mút ngón tay. Khoảng 1 tuổi, bé có thể đi được khi có người dắt bé. Cân nặng của bé gấp 3 lần khi mới sinh. Lúc này, chúng ta nên bắt đầu có các biện pháp giữ an toàn cho bé như lắp khóa cầu thang, sử dụng ổ điện an toàn, không để thuốc và các đồ vật có thể gây tai nạn trong tầm với của trẻ. Từ 1 đến 3 tuổi, bé bắt đầu tập đi và thích khám phá thế giới xung quanh. Lúc này bé đã ngủ rất ít vào buổi ngày. Các hoạt động yêu thích của trẻ lúc này là chạy nhảy, leo trèo. Các hoạt động này giúp bé phát triển cơ bắp, tập giữ thăng bằng và hình thành khả năng phối hợp tay, chân và mắt. Về ngôn ngữ, trẻ bắt đầu nói rõ một số từ, biết ý nghĩa của các giới từ chỉ vị trí
- như "trong", "trên", "dưới", có thể ghép từ và dần dần nói trọn vẹn câu, tuy nhiên thời gian đầu vị trí các từ có thể bị đảo lộn. Ở độ tuổi này bé rất thích ôm ấp để bày tỏ sự yêu mến người khác và các vật nuôi, khi chúng ta gọi tên đồ vật, bé biết chỉ vào đồ vật tương ứng, những "trận chiến" với cha mẹ cũng xảy ra thường xuyên hơn nhằm đạt được sự độc lập. Bé cũng bắt đầu có bạn tuy nhiên thích chơi song song, không thích chia sẻ đồ chơi với bạn. Bé sợ nhiều thứ, đặc biệt là bé sợ tiếng động mạnh. Bé thích sự việc tái diễn bé có thể chỉ đọc một quyển sách mỗi tối trước khi đi ngủ, và không bỏ sót một trang nào cả. Bé giữ quần khô lâu hơn, bé nhận thức được về tiểu tiện, đại tiện, và bé thích quan sát người khác dùng bệ xí. Chúng ta cần chú ý là 91% bé hai tháng có ít nhất một lần nhiễm trùng tai. Cũng trong giai đoạn 13 tuổi, trẻ bắt đầu nhận biết về mình, hình thành tính cách riêng và thể hiện tính độc lập. Trẻ hay quan sát, hay bắt chước, thích được khen thưởng và muốn giải quyết mọi việc theo ý mình. Do đó trẻ cần được hướng dẫn về những gì nên – không nên làm, những gì chấp nhận được và không chấp nhận được một cách rõ ràng và chu đáo. Ngoài ra trẻ cũng bắt đầu thích chơi với người lớn và việc này giúp trẻ bước đầu hình thành quan hệ giữa trẻ và người khác. Trong khoảng từ 3 – 6 tuổi trẻ phát triển nhanh chóng về chiều cao và trọng lượng cơ thể. Trẻ tò mò và luôn hỏi tại sao, đặc biệt trẻ quan tâm đến sự khác biệt giữa trẻ trai và trẻ gái, quan tâm đến việc “bằng cách nào mình chui từ trong người mẹ ra?”. Trẻ hình thành khả năng so sánh, nhận biết sự khác và giống nhau giữa các màu sắc, hình dáng, kích thước của các đồ vật. Độ tuổi này trẻ cũng bắt đầu biết hợp tác với người khác, hình thành và phát triển quan hệ xã hội, hoàn thiện hơn về ngôn ngữ, nói được các câu không quá nhiều từ và trả lời các câu hỏi đơn giản, tuy nhiên vào khoảng 4 tuổi hầu hết các bé đều nói lắp. Giai đoạn từ 3 – 6 tuổi cũng là giai đoạn trẻ phát triển các cảm xúc. Trẻ biết phân biệt và biểu lộ các cảm xúc khác nhau như vui, buồn, thích thú, giận giữ,…tuy nhiên trẻ không biết kiềm chế cảm xúc của mình. Trẻ cũng bắt đầu hình thành năng lực tự chủ và phát triển tính cách trong giai đoạn này. Vì thế trẻ cần có sự khuyến khích, động viên, hướng dẫn và hỗ trợ của người lớn khi trẻ làm việc gì thất bại, đặc biệt không được phê phán hay chê bai, giễu cợt trẻ. Tuổi nhi đồng: Trong giai đoạn này trẻ tiếp tục phát triển chiều cao và trọng lượng cơ thể. Bên cạnh đó, cơ thể phát triển một cách kiện toàn đáng kể như khung xương, hệ tim mạch, não bộ và hệ thần kinh. Chính những phát triển này sẽ tạo điều kiện cho trẻ chuyển từ hoạt động vui chơi ở tuổi thơ sang các hoạt động học tập ở tuổi nhi đồng. Đặc biệt, do quá trình dậy thì diễn ra
- sớm hơn ở các em nữ nên trong giai đoạn này chiều cao của trẻ nữ vượt hơn hẳn trẻ nam, thậm chí, một số em bắt đầu dậy thì. Trong độ tuổi này, trẻ ham học hỏi và sẵn sàng học nhiều điều mới và đây là thời gian thích hợp cho trẻ bắt đầu đến trường. Để chuẩn bị cho các hoạt động học tập trong giai đoạn này, ở trẻ sẽ diễn ra sự phát triển toàn diện về các quá trình nhận thức. Trẻ phát triển về tri giác, trí nhớ, trí tưởng tượng, khả năng tập trung, năng lực tư duy. Tuy thế, chúng ta cần chú ý đến các khó khăn của trẻ khi chuyển tiếp từ giáo dục mầm non sang giáo dục tiểu học, đặc biệt trẻ sẽ khó khăn trong việc thích nghi với môi trường mới, cường độ học tập,… Đời sống cảm xúc của trẻ trong độ tuổi này phong phú, đa dạng và mang tính tích cực. Những trạng thái cảm xúc của trẻ tương đối ổn định. Trẻ bắt đầu học và biết cách kiềm chế, điều khiển cảm xúc, thậm chí một số trẻ còn biết che dấu tâm trạng của mình khi cần thiết. Về mặt nhân cách, sự hình thành nhân cách của trẻ trong giai đoạn này diễn ra và bị chi phối bởi các hoạt động học tập ở trường lớp, bởi các quan hệ giữa trẻ và thầy cô, giữa trẻ và bạn bè. Khả năng tự đánh giá của trẻ bắt đầu được hình thành. Thông qua môi trường giáo dục trẻ cũng dần dần nắm được những chuẩn mực đạo đức, quy tắc hành vi và ứng xử. Trẻ hiểu được làm cái gì là đúng, làm cái gì là sai, như thế nào là xấu – tốt. Cụ thể hơn, trẻ bắt đầu thực sự hiểu quan điểm của người khác và đánh giá cao sự tin cậy, trung thực và tôn trọng người khác, biết thông cảm thực sự với người khác, có thể xem xét quan điểm của người khác và muốn giúp đỡ mọi người nếu họ cần. Trong độ tuổi này, hầu hết trẻ đều chơi trong các nhóm bạn cùng nhóm và để chuẩn bị cho giai đoạn dậy thì, các em quan tâm tới các kiến thức giáo dục tuổi vị thanh niên, muốn xem các băng đĩa ca nhạc, trang điểm, và tránh bất cứ thứ gì có vẻ như "trẻ con". Tuổi vị thành niên: Đây là một giai đoạn phát triển hết sức quan trọng, là giai đoạn chuyển tiếp của quá trình phát triển từ trẻ em thành người lớn, được đánh dấu bằng sự kiện dậy thì, ở trẻ nam quá trình này muộn hơn 2 năm so với trẻ nữ. Về mặt thể chất, trong giai đoạn này chiều cao và đặc biệt là trọng lượng cơ thể của trẻ tăng lên, đồng thời các cơ bắp và sức lực cũng phát triển mạnh. Quá trình dậy thì tạo nên những biến đổi mạnh mẽ trên cơ thể và trong tâm lý của các em, có thể gây sợ hãi và căng thẳng khiến cho trẻ có lúc hăng hái, đôi lúc bi quan, chán nán và có nguy cơ dẫn đến trầm lặng. Giai đoạn này trẻ phát triển về mặt trí tuệ nhiều hơn các giai đoạn trước đó. Trẻ rất tò mò, ham hiểu biết và thích những gì mới lạ. Khả năng tư duy trừu tượng, ghi nhớ và tập trung có mục đích của trẻ được nâng cao. Các hứng thú học tập và hứng thú nghề nghiệp tương lai ở trẻ được hình thành ngày càng rõ nét.
- Ngoài ra, đây là giai đoạn chuẩn bị để trẻ bước vào cuộc sống của người trưởng thành nên trẻ có nhu cầu được tự khẳng định, sống độc lập và muốn người khác đối xử với mình như người trưởng thành, tuy nhiên do những bốc đồng trong suy nghĩ và hành động của trẻ nên người lớn lại xem trẻ là trẻ con và vẫn có xu hướng áp đặt, kiểm soát chặt trẻ (Có khi còn chặt chẽ hơn trước đây). Chính vì thế, giai đoạn dậy thì còn được gọi là giai đoạn nổi loạn. Sự rắc rối trong diễn biến tâm lý của trẻ giai đoạn này thường gây lung túng cho người lớn, làm xuất hiện những mâu thuẫn giữa trẻ và người lớn. Để củng cố lòng tự trọng cho các em, người lớn cần tôn trọng ước muốn không phụ thuộc của trẻ, đồng thời cho các em biết giới hạn của mọi hành vi nhằm giữ an toàn cho chúng. Sự trung thực và bao dung của cha mẹ ở giai đoạn này là vô cùng cần thiết để giúp trẻ độc lập trong suy nghĩ, có quan hệ tốt với người khác, hình thành trong con người trẻ một con người có cá tính, một người lao động thực thụ hay một người bố người mẹ trong tương lai. Nếu không được dạy dỗ đúng mức, thiếu tự chủ, trẻ dễ có những hành vi lệch lạc, nguy hại tới quá trình phát triển của trẻ. Về quan hệ xã hội, ngoài những quan hệ sẵn có, trẻ có xu hướng tìm kiếm, thiết lập các mối quan hệ với những người khác trong xã hội và với bạn khác giới. Cũng ở giai đoạn này thường xuất hiện tình bạn khác giới, cao hơn là tình yêu học trò, tình yêu đầu đời, nó không chỉ giúp hoàn thiện đời sống tâm lý, tình cảm của trẻ mà còn nâng cao nhận thức và trách nhiệm của trẻ với bản thân và xã hội. Đây là giai đoạn khó khăn trong tâm lý trẻ, những em có giai đoạn đầu đời thuận lợi (tuổi thơ và tuổi nhi đồng), có niềm tin vào các mối quan hệ xã hội thường giải quyết khó khăn của mình bằng những cách tích cực như tìm đến thơ ca, văn nghệ, thể thao, thậm chí cả chính trị và thường tìm thấy những người bạn cùng sở thích để chia sẻ. Ngược lại, các em có khó khăn trong quan hệ xã hội thường khó khăn trong tìm bạn để thay thế các mối quan hệ gia đình và thường giải quyết khó khăn của mình theo cách tiêu cực như tách mình ra khỏi mọi người, chống đối và đa nghi, tự ti và khép mình,… Nhu cầu chăm sóc của trẻ em: Chăm sóc trẻ em là các hoạt động nhằm nhận biết và đáp ứng các nhu cầu của trẻ về vật chất và tinh thần để đảm bảo sự phát triển hài hòa nhân cách của trẻ. Để thực hiện việc chăm sóc cần thường xuyên quan tâm tìm hiểu nhu cầu của trẻ, đưa trẻ vào những hoạt động xã hội phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển theo từng lứa tuổi. Để đảm bảo trẻ phát triển một cách toàn diện và hài hòa, chúng ta không chỉ cần cho trẻ ăn no, mặc ấm mà thực tế các nhu cầu của trẻ hết sức đa dạng. Một cách tổng quát, nhu cầu chăm sóc chính của trẻ em gồm: Nhu cầu chăm sóc thể chất:
- Đây là nhu cầu cơ bản nhất mà người chăm sóc trẻ phải đáp ứng. Tất cả trẻ em đều cần đến sự chăm sóc thể chất ở mức độ tối thiểu để có thể tồn tại và ở mức độ thích hợp để có thể phát triển tối đa các tiềm năng có nơi trẻ. Trong nhu cầu chăm sóc thể chất người ta chia ra làm ba nhu cầu chính là ăn uống, chỗ nghỉ ngơi, chơi đùa và quần áo phù hợp. Sự chăm sóc về thể chất là hết sức quan trọng vì trước tiên nó ảnh hưởng đến sự tồn tại của trẻ, sau nữa nó tạo nền tảng về thể lực để trẻ có thể phát triển các mặt khác về tâm lý và xã hội. Trẻ có sức khỏe yếu thường thụ động và kém tự tin hơn những trẻ khác. Sự chăm sóc này không chỉ là sau khi trẻ ra đời mà phải bắt đầu từ chế độ dinh dưỡng của người mẹ lúc mang thai. Sau đó mới đến chế độ dinh dưỡng, nghỉ ngơi và quần áo phù hợp cho chính bản thân đứa trẻ. Sự chăm sóc về thể chất cũng bao gồm của việc không được sao nhãng để tránh gây tai nạn thương tích cho trẻ trong quá trình chơi đùa, nghĩa là phải tạo không gian đủ rộng rãi, đủ an toàn cho trẻ vui chơi. Nhu cầu chăm sóc tình cảm: Tình cảm ở đây được hiểu là những cảm xúc mà trẻ thể hiện nhằm đáp ứng hoặc phản ứng lại những gỉ trẻ nhận được trong đời sống. Chẳng hạn trẻ buồn, vui, hân hoan, giận giữ hoặc lo âu. Việc chăm sóc tình cảm cho trẻ được xem là tốt nếu như giúp được trẻ phân biệt, phát triển và biểu lộ các cảm xúc một cách phù hợp. Để giúp trẻ phát triển tình cảm, người chăm sóc trẻ (gia đình, cán bộ xã hội, người giữ trẻ…) cần giành thời gian để trò chuyện và lắng nghe trẻ, đặc biệt không cười chê cảm xúc của trẻ, không áp đặt cảm xúc cho trẻ hoặc cấm đoán trẻ thể hiện cảm xúc. Tốt nhất, chúng ta nên khuyến khích trẻ thể hiện cảm xúc, rồi từ đó hướng cho trẻ biết cảm xúc nào là tích cực tiêu cực, làm thế nào để phát triển các cảm xúc tích cực và hạn chế các cảm xúc tiêu cực, biểu hiện cảm xúc thế nào là phù hợp,…Bằng cách đó, trẻ sẽ có một đời sống tình cảm phong phú và lành mạnh. Nhu cầu chăm sóc tâm lý Là nhu cầu xây dựng được ý thức về bản thân trong vai trò là một cá thể duy nhất (cái Tôi) với những giá trị (giá trị bản thân) và năng lực để hành động một cách hiễu quả, phù hợp với chuẩn mực xã hội (năng lực bản thân). Nhu cầu chăm sóc về nhận thức: Là nhu cầu cần được khích lệ về mặt nhận thức và trí lực thông qua giáo dục chính thức và không chính thức để con người phát triển khả năng và kỹ năng học hỏi và tư duy. Nhu cầu chăm sóc về mặt xã hội: Là nhu cầu cần giao tiếp và có mối quan hệ với người khác trong một cộng đồng người.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Công tác xã hội nhóm: Phần 1
129 p | 125 | 23
-
Giáo trình Công tác xã hội cá nhân (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
90 p | 93 | 9
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Trung cấp) - CĐ GTVT Trung ương I
96 p | 45 | 8
-
Giáo trình Công tác xã hội trong trường học (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
102 p | 19 | 8
-
Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
114 p | 52 | 7
-
Giáo trình Công tác xã hội với người khuyết tật (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Trung cấp) - CĐ GTVT Trung ương I
132 p | 30 | 7
-
Giáo trình Công tác xã hội trong bệnh viện (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
113 p | 23 | 7
-
Giáo trình Công tác xã hội cá nhân (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
98 p | 23 | 7
-
Giáo trình Công tác xã hội cá nhân (Nghề: Công tác xã hội - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)
88 p | 11 | 6
-
Giáo trình Công tác xã hội với nhóm dân tộc ít người – ĐH Sư phạm Hà Nội
151 p | 14 | 6
-
Giáo trình Công tác xã hội với người có HIV: Phần 2
90 p | 27 | 6
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Cao đẳng): Phần 1 - CĐ GTVT Trung ương I
53 p | 55 | 6
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Cao đẳng): Phần 2 - CĐ GTVT Trung ương I
41 p | 24 | 5
-
Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo (Nghề: Công tác xã hội - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)
106 p | 10 | 4
-
Giáo trình Công tác xã hội cá nhân (Ngành: Công tác xã hội - Trình độ: Trung cấp) - Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Bình Thuận
129 p | 1 | 0
-
Giáo trình Công tác xã hội với nhóm (Ngành: Công tác xã hội - Trình độ: Trung cấp) - Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Bình Thuận
98 p | 0 | 0
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Ngành: Công tác xã hội - Trình độ: Trung cấp) - Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Bình Thuận
136 p | 3 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn