intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Kinh tế vĩ mô (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

108
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của giáo trình là cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản trong quá trình học tập và nghiên cứu kinh tế vĩ mô, làm cơ sở cho sinh viên hiểu các nguyên lý và các mô hình kinh tế vĩ mô và có thể lý giải được một số vấn đề kinh tế trong thực tế. Giáo trình gồm 2 phần, sau đây là phần 1.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Kinh tế vĩ mô (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA - QUAN HỆ DOANH NGHIỆP THS.NGUYỄN HOÀI NAM, THS.NGUYỄN THỊ MINH PHƯỢNG THS. TRỊNH THỊ HUYỀN THƯƠNG ===  === GIÁO TRÌNH KINH TẾ VĨ MÔ VINH, NĂM 2011 =  = 1
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA - QUAN HỆ DOANH NGHIỆP THS.NGUYỄN HOÀI NAM, THS.NGUYỄN THỊ MINH PHƯỢNG THS. TRỊNH THỊ HUYỀN THƯƠNG ===  === GIÁO TRÌNH KINH TẾ VĨ MÔ (Giáo trình đào tạo từ xa) VINH, NĂM 2011 =  = 2
  3. Phân công biên soạn: - Các tác giả: 1. Ths. Nguyễn Hoài Nam- Biên soạn chương II, III 2. Ths. Nguyễn Thị Minh Phượng- Biên soạn chương I, IV,V 3. Ths. Trịnh Thị Huyền Thương- Biên soạn chương VI,VII,VIII 3
  4. LỜI NÓI ĐẦU Tài liệu giảng dạy môn học Kinh tế vĩ mô được biên soạn phục vụ việc giảng dạy cho sinh viên đại học thuộc các chuyên ngành kinh tế. Mục tiêu của tài liệu là cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản trong quá trình học tập và nghiên cứu kinh tế vĩ mô, làm cơ sở cho sinh viên hiểu các nguyên lý và các mô hình kinh tế vĩ mô và có thể lý giải được một số vấn đề kinh tế trong thực tế. Sau khi kết thúc môn học, sinh viên có thể: - Nắm được các khái niệm, kiến thức cơ bản và công cụ phân tích làm cơ sở cho các môn học sau; - Nắm được những nguyên lý cơ bản về sự vận hành của nền kinh tế tổng thể liên quan đến các vấn đề như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái; - Hiểu được tác động của các chính sách vĩ mô đến nền kinh tế; Kết cấu nội dung tài liệu bao gồm 7 chương được sắp xếp theo trình tự như sau: Chương I. Tổng quan về kinh tế vĩ mô: chương này giới thiệu cho sinh viên những vấn đề mà kinh tế vĩ mô quan tâm, các chính sách, cũng như các công cụ chủ yếu để phân tích vĩ mô – mô hình tổng cung và tổng cầu. Phân tích sự luân chuyển của hàng hóa và tiền tệ trong nền kinh tế, giới thiệu định nghĩa và cách tính tổng sản phẩm quốc nội. Chương II. Tăng trưởng kinh tế: chương này giới thiệu cho sinh viên khái quát được thế nào là tăng trưởng kinh tế, phân biệt sự giống và khác nhau giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đưa ra được bản đồ tăng trưởng kinh tế trên thế giới và ở Việt Nam thời gian qua cũng như nêu ra các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chương III. Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính; Chương này giúp người học khái quát được hệ thống tài chính bao gồm những bộ phận nào, phương thức hoạt động của hệ thống tài chính nhằm chuyển tiết kiệm của người này cho đầu tư của người khác. Mô hình thị trường vốn vay cho một nền kinh tế đóng trong dài hạn sẽ được phát triển. Đồng thời thông qua mô hình này chúng ta có thể phân tích tác động của chính sách của chính phủ đến lãi suất, tiết kiệm và đầu tư. Chương IV. Tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế; tổng cầu và xác định sản lượng quốc gia: phân tích các nguyên nhân gây ra biến động kinh tế từ tổng cầu trong ngắn hạn và chính sách công cộng có thể làm gì để ngăn chặn các thời kỳ thu nhập giảm sút và thất nghiệp tăng cao. Chương V. Tiền tệ và thị trường tiền tệ: chương này tập trung vào các vấn đề liên quan đến tiền: tiền, các hình thái của tiền, hệ thống ngân hàng tạo tiền như thế nào và cách thức ngân hàng trung ương kiểm soát lượng tiền trong nền kinh tế. Mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ;. Chương VI. Lạm phát và thất nghiệp; đây là chương tập trung vào lạm phát: nội dung chương giới thiệu khái niệm, cách thức đo lường lạm phát, các nguyên nhân gây ra lạm phát và tác hại của nó. Bàn về sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp và tìm hiểu thất nghiệp, các nguyên nhân gây ra thất nghiệp và cách tính thất nghiệp. Chương VII. Kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở: chương này tập trung vào những khái niệm cơ bản liên quan đến tỷ giá hối đoái, phân tích cung cầu về vốn vay 4
  5. và thị trường ngoại tệ. Tìm hiểu sự ảnh hưởng của các chính sách và sự kiện đến nền kinh tế mở. Tài liệu này được biên soạn dựa trên các tài liệu, giáo trình, sách kinh tế vĩ mô của các trường đại học trong nước và các sách dịch. Nội dung cơ bản của tài liệu được biên soạn chủ yếu dựa vào các tài liệu: (1) Sách “ Nguyên lý kinh tế học tập 2” của giáo sư N. Gregory Mankiw (giáo sư kinh tế học trường Đại học tổng hợp Harvard). Sách này được dịch sang tiếng việt bởi khoa Kinh tế học - Trường Đại học quốc dân Hà Nội, nhà xuất bản Thống kê, 2003. (2) Sách “ Kinh tế học” tái bản lần 1 của tác giả Paul A Samuelson và Wiliam D. Nordhaus. Nhà xuất bản thống kê, 2002. (3) Sách "Kinh tế học vĩ mô" của David Begg, Stanley Fischer và Rudiger Dornbusch, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2008. (4) Sách "Bài tập Kinh tế học" của Damian Ward và Daivd Begg, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2007. (5) Các thông tin thực tế cùng kinh nghiệm tích lũy từ đọc các sách, báo khác của tác giả và những ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp trong tổ bộ môn Kinh tế - khoa Kinh tế Trường đại học Vinh. Cuối cùng tác giả chân thành cảm ơn các đồng nghiệp và cộng sự đã có những đóng góp quý báu cho tác giả trong quá trình thực hiện công trình nghiên cứu này. Chủ biên cuốn sách này là ThS Nguyễn Thị Minh Phượng Tham gia biên soạn gồm có: - ThS Nguyễn Thị Minh Phượng, chủ biên và biên soạn chương I, IV và V; - ThS Nguyễn Hoài Nam, biên soạn chương II & III; - ThS Trịnh Thị Huyền Thương, biên soạn chương VI & VII; Đây là tài liệu được biên soạn lần đầu của nhóm tác giả thuộc bộ môn Kinh tế, khoa Kinh tế do đó sẽ không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các độc giả để chúng tôi hoàn thiện tài liệu giảng dạy này hơn. Nhóm tác giả bộ môn Kinh tế Khoa Kinh tế - Đại học Vinh 5
  6. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG - Nắm được các khái niệm, nguyên lý và phương pháp phân tích chung về hoạt động của nền kinh tế tổng thể; - Nắm được những nguyên lý cơ bản về sự vận hành của nền kinh tế tổng thể liên quan đến các phương diện như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất. - Hiểu được tác động của các chính sách của chính phủ đến nền kinh tế; NỘI DUNG Lịch sử của nhiều nước trên thế giới từ trước đến nay cho thấy chỗ đứng của một quốc gia phụ thuộc phần nhiều vào sức mạnh quân sự của họ. Ngày nay, đã có sự thay đổi, tiềm lực kinh tế mới là cái thành công hay thất bại. Một nước như Nhật Bản, với thế lực quân sự nhỏ bé, thế mà nhân dân Nhật đã nhiều thập kỷ qua được hưởng một mức hữu nghiệp cao, lạm phát thấp, mức sống không ngừng tăng lên. Quả thực, các vấn đề kinh tế vĩ mô đã chiếm vị trí trung tâm trong các chương trình nghị sự về kinh tế chính trị trong gần như toàn bộ thế kỷ 20. Qua kinh nghiệm thực tế điều hành, các nhà kinh tế đã có sự hiểu biết thấu đáo hơn về việc làm gì để chố chọi với khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ, làm thế nào để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Trước John Maynard Keynes, hầu hết các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đều chấp nhận những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh như một thực tế không thể tránh khỏi và là một quy luật. Quan điểm này đã ăn sâu vào tư tưởng từ lâu khiến cho họ hoàn toàn bất lực khi gặp phải cuộc Đại suy thoái kinh tế trong những năm 1930. Keynes đã tạo ra một bước nhảy vọt vĩ đại về mặt trí tuệ bằng việc xuất bản cuốn sách: "Lý thuyết chung về việc làm, tiền lãi và tiền tệ" năm 1936. Ông đã đưa ra lập luận gồm hai điểm: thứ nhất, ông cho rằng thất nghiệp cao và thiểu dụng năng lực sản xuất có thể cùng tồn tại dai dẳng trong nền kinh tế thị trường. Thứ hai, ông còn lập luận xa hơn rằng, việc sử dụng đúng đắn các chính sách tài khoá và tiền tệ của Chính phủ có thể ảnh hưởng đến mức sản lượng, việc làm, thất nghiệp và cũng có thể rút ngắn được thời kỳ định trệ kinh tế. Sau khi công bố công trình của mình, những tuyên bố của ông đã có ảnh hưởng chấn động, gây nhiều tranh luận và bàn cãi. Trong thời hậu chiến, kinh tế học Keynes đã thống trị trong kinh tế học vĩ mô và chính sách của Chính phủ. Những năm 60 mọi phân tích các lý thuyết của trường phái Keynes. Từ đó đến nay, đã có nhiều sự phát triển mới như đã đưa thêm nhân tố về phía cung, kỳ vọng về tương lai, những quan điểm khác nhau về tiền lương và sự năng động của giá cả, đã làm yếu dần sự nhất trí trong trường phái Keynes ban đầu. Và ngày nay, ít có nhà kinh tế tin rằng hành động của Chính phủ có thể loại bỏ được chu kỳ kinh doanh như kinh tế học của Keynes, và cũng không có kinh tế học này chính sách kinh tế nào giống hoàn toàn như phát hiện vĩ đại của Keynes. 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG CỦA KINH TẾ HỌC 1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế học 1.1.1.1. Khái niệm 6
  7. Có nhiều khái niệm về kinh tế học , song phổ biến nhất là khái niệm: kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối cho các thành viên của xã hội. Như vậy, trong khái niệm này có một số vấn đề được đặt ra: Thứ nhất: Nội dung cốt yếu của kinh tế học là nghiên cứu "cách lựa chọn" của nền kinh tế trong quá trình sản xuất sản phẩm. Do sự khan hiếm của các nguồn lực, đứng tại một thời điểm nào đó mà xét thì nguồn lực luôn có giới hạn không thể đủ đề sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của con người. Vì vậy, xã hội phải lựa chọn xem việc sử dụng nguồn lực này vào việc gì, sử dụng như thế nào và cho ai. Nguồn lực được hiểu bao gồm ba yếu tố cơ bản là tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, nguồn vốn và thời gian gần đây các nhà kinh tế thường đề cập đến trình độ quản lý và công nghệ là yếu tố thứ tư của nguồn lực. Thứ hai: Kinh tế học là một môn khoa học có tính độc lập nhất định đối với các môn khoa học khác. 1.1.1.2. Đặc trưng + Là một môn khoa học nghiên cứu về mặt lượng: Kinh tế học thường phản ánh các kết quả nghiên cứu bằng những con số. Khi nghiên cứu và phân tích các hoạt động nghiên cứu kinh tế học không chỉ đánh giá xu hướng biến động mà còn đo lường mức độ biến động của chúng do các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu. + Tính hợp lý: Khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế nào đó, cần phải dựa trên những giả thiết hợp lý. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về tổng cầu chúng ta giả định là giá không đổi để xem xét ảnh hưởng của các nhân tố cấu thành tới tổng cầu và sản lượng. + Tính toàn diện và tính tổng hợp: Khi xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối quan hệ với các hoạt động và sự kiện kinh tế khác trên phương diện một nước, thậm chí trên phương diện nền kinh tế thế giới. + Đặc trưng cuối cùng của kinh tế học là các kết quả nghiên cứu kinh tế chỉ xác dịnh được ở mức độ trung bình. Do kết quả kinh tế phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau, và chúng ta không thể xác định được chính xác các yếu tố đó. Kinh tế học là môn học nghiên cứu hoạt động của con người trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Kinh tế học có quan hệ chặt chẽ với nhiều môn khoa học khác: Triết học, Chính trị học, Xã hội học; Thống kê học. * Theo phạm vi nghiên cứu kinh tế học thường chia thành hai phân ngành lớn: - Kinh tế học vi mô (Microeconomics): Nghiên cứu hành vi ứng xử sự lựa chọn của từng cá nhân, từng cấu phần của nền kinh tế. Kinh tế học vi mô đề cập đến hành vi ứng xử và mục đích của các bên tham gia vào thị trường riêng biệt. - Kinh tế học vĩ mô (Macroeconomics): Nghiên cứu sự hoạt động của toàn bộ tổng thể của nền kinh tế như tăng trưởng kinh tế, sự biến động của giá cả, việc làm của cả nước, cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái... Kinh tế học vĩ mô cố ý và cố gắng làm đơn giản nền kinh tế bằng cách bỏ qua các tác động riêng biệt của từng cá thể hay từng loại thị trường, nó chú ý đến những tác động tổng quát giữa các tác nhân kinh tế trong việc quyết định các vấn đề cái gì, như thế nào và cho ai. Kinh tế học vĩ mô chủ yếu giải quyết các cấu khối lớn, đề cập đến việc phân bổ nguồn lực của nền kinh tế nhằm đạt 7
  8. được các mục tiêu kinh tế tổng quát. Tất nhiên trong quá trình giải quyết không tránh khỏi phải sử dụng cách phương pháp phân tích vi mô. * Theo cách thức sử dụng kinh tế học được chia thành 2 dạng: - Kinh tế học thực chứng : Mô tả và phân tích các sự kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế. Kinh tế học thực chứng trả lời cho câu hỏi "Là bao nhiêu, là gì? Như thế nào?" Mục đích của kinh tế học thực chứng là muốn biết lý do vì sao nền kinh tế lại hoạt động như vậy. Trên cơ sở đó dự đoán phản ứng của nó khi có sự thay đổi của hoàn cảnh, đồng thời chúng ta có thể sử dụng các công cụ tác động để hạn chế tác động tiêu cực và khuyến khích mặt tích cực nhằm đạt được những kết quả mong muốn. - Kinh tế học chuẩn tắc : Đề cập đến mặt đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn, nghĩa là nó đưa ra quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề kinh tế. Có rất nhiều vấn đề đặt ra mà câu trả lời tuỳ thuộc vào quan điểm của cá nhân và cũng có nhiều phương pháp giải quyết khác nhau về một hiện tượng kinh tế tuỳ theo cách đánh giá của mỗi người. Ví dụ: có nên dùng thuế để lấy bớt thu nhập của người giầu bù cho kẻ nghèo không? có nên trợ giá bằng nông sản cho nông dân hay không?... Nhưng vấn đề này thường được tranh luận nhưng không bao giờ được giải quyết bằng khoa học hoặc bằng thực tiễn kinh tế. Kinh tế học chuẩn tắc trả lời cho câu hỏi "Nên làm cái gì? Nghiên cứu kinh tế thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học chuẩn tắc. 1.1.2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế thường áp dụng phương pháp quan sát thực tế, xây dựng lý thuyết rồi tiếp tục quan sát, điều chỉnh lý thuyết. Một phương pháp vô cùng quan trọng trong phân tích là phương pháp trừu tượng hoá. Nội dung cơ bản của phương pháp này là bóc tách các nhân tố không định nghiên cứu để xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa những biến số cơ bản. Phương pháp thống kê cũng có ý nghĩa rất lớn trong phân tích. 1.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ HỌC 1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế vĩ mô Kinh tế vĩ mô - Một phân ngành của kinh tế học, nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thanh toán, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập cho các thành viên trong xã hội. Như vậy đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô được thể hiện cụ thể như sau: - Nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp... - Kinh tế học vĩ mô cung cấp những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế một cách khách quan tạo cơ hội để Chính phủ của mỗi nước có sự lựa chọn đúng đắn trong hoạch định các chính sách kinh tế. Những kiến thức và công cụ phân tích này được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu và tư tưởng của nhiều nhà khoa học kinh tế thuộc 8
  9. nhiều thế hệ khác nhau. Ngày nay chúng càng được hoàn thiện và có thể mô tả chính xác hơn đời sống kinh tế vô cùng phức tạp của chúng ta. - Giải thích nguyên nhân nền kinh tế đạt được những thành công hay thất bại và những chính sách có thể nâng cao sự thành công của nền kinh tế. 1.2.2. Những quan tâm cơ bản của chính sách kinh tế vĩ mô Một là: Tại sao sản lượng và việc làm đôi khi giảm và làm thế nào có thể giảm bớt thất nghiệp? Không nền kinh tế nào là không chứng kiến những quá trình thu hẹp hay mở rộng của chu kỳ kinh doanh. Thời kỳ đình trệ kinh tế, sản xuất hàng hoá bị giảm sút, việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Chính phủ đã sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ để giảm bớt mức khốc liệt của chu kỳ kinh doanh. Kinh tế học vĩ mô ngoài việc xem xét nguồn gốc gây ra nạn thất nghiệp dai dẳng và cao, còn quan tâm đến chuẩn đoán và để xuất những giải pháp có thể được nhằm làm dịu mâu thuẫn của thị trường lao động. Hai là: Nguyên nhân phần nào gây ra lạm phát và tại sao lại có thể kiểm soát được lạm phát? Nền kinh tế thị trường dùng giá cả như một tiêu chuẩn so sánh để đo lường các giá trị kinh tế và hướng dẫn hoạt động kinh doanh. Trong thời kỳ giá cả tăng nhanh, tiêu chuẩn so sánh này mất hết giá trị, quá trình phân phối lại của cải do lạm phát nhiều khi đã cướp đi những thu nhập chân chính của người lao động. Sự thay đổi đột ngột của giá cả sẽ gây ra tính phi hiệu quả kinh tế. Kinh tế học vĩ mô đề cập đến vai trò đích thực của các chính sách tài khoá và tiền tệ, hệ thống tỷ giá hối đoái trong việc ổn định giả cả và kiềm chế lạm phát. Bà là: Một quốc gia có thể đẩy mạnh được tốc độ tăng trưởng của mình như thế nào? Kinh tế học vĩ mô cũng quan tâm đến sự tăng trưởng bền vững của một quốc gia. Tăng nhanh tiềm lực sản xuất của một đất nước luôn luôn là yếu tố trọng tâm quyết định sự tăng lên của tiền lương thực tế và mức sống của nhân dân nước đó. Trong số các tình thế khó xử của kinh tế vĩ mô, khó khăn nhất là phải lựa chọn giữa lạm phát thấp và thất nghiệp thấp. Các nhà kinh tế học vĩ mô thường có bất đồng lớn khi đề xuất một giải pháp thích hợp trong lúc đối mặt với lạm phát, thất nghiệp tăng. Song với những hiểu biết cơ bản về kinh tế học vĩ mô, ít nhất cũng có thể giảm thiểu được những thiệt hại khi mà phải lựa chọn một con đường tốt nhất. 1.2.3. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu Một nước có thể có nhiều cách lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng buộc của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị – xã hội. Song sự lựa chọn đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động mang tính khách quan của hệ thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế đó. Trong khi phân tích các hiện tượng kinh tế và mối quan hệ kinh tế quốc dân, kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng thể (general equibrium) do L.Walras (1834-1910) phát triển từ năm 1874 với tác phẩm "Elements d'coonomic Politque Pure (1874-1877)". Theo phương pháp này, kinh tế học vĩ mô khác với kinh tế học vi mô là xem xét cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường của các hàng hoá và các nhân tố, xem xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng. Ngoài ra, kinh tế học vĩ mô còn sử dụng các phương pháp phổ biến như: Tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình hoá kinh tế,... Đặc biệt những năm gần 9
  10. đây và tương lai các mô hình kinh tế trong vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện đại. 1.3. MỤC TIÊU CỦA NỀN KINH TẾ Thành tựu kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế được đánh giá theo nhiều chỉ tiêu khác nhau nhưng nhiều nhà kinh tế thường sử dụng ba chỉ tiêu cơ bản: việc làm, ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. 1.3.1. Việc làm Việc làm (mức nhân dụng) càng cao càng tốt, mức nhân dụng có thể hiểu là tỷ lệ số người lao động có việc làm trong tổng số lực lượng lao động của một quốc gia. Lực lượng lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc đang đi làm hoặc đang tìm việc làm nhưng chưa có việc làm (những người thất nghiệp). Mục tiêu của nền kinh tế là làm sao đạt được mức toàn dụng nhân công, điều này có thể hiểu là khả năng của nền kinh tế trong việc tạo ra việc làm cho những ai có khả năng và có nguyện vọng làm việc. Cần phải lưu ý rằng nền kinh tế bao giờ cũng tồn tại một tỷ lệ thất nghiệp nhất định. Khi nền kinh tế đạt đến tỷ lệ thất nghiệp này ta nói rằng nền kinh tế đang ở tình trạng toàn dụng nhân công hay đạt tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Thất nghiệp tự nhiên là những người thất nghiệp một cách tự nguyện vì lý do nào đó mà họ không đi làm hoặc họ không chấp nhận mức lương hiện tại trên thị trường lao động. Việc xác định một tỷ lệ thất nghiệp là bao nhiêu để có thể được xem là toàn dụng nhân công là một công việc khá khó khăn và phụ thuộc vào một số nhân tố như thực tiễn phát triển của nền kinh tế và phương pháp tính tỷ lệ thất nghiệp. Ví dụ đối với Nhật bản, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 2% - 3% có thể được xem là toàn dụng nhân công. Còn đối với Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng 5%-6% có thể được xem là toàn dụng nhân công. Thất nghiệp không nhất thiết là điều mà người ta không mong muốn. Chúng ta hãy nghiên cứu các hình thức thất nghiệp khác nhau sau đây: - Thất nghiệp cơ cấu: thất nghiệp cơ cấu xẩy ra khi có sự biến động hay thay đổi trong cơ cấu sản xuất, không có sự đồng bộ giữa yếu tố con người và công việc. Ví dụ: quá trình đô thị hoá ở Tp Hồ Chí Minh đã biến nhiều nông dân ngoại thành mất đất và trở nên thất nghiệp do họ không phù hợp với công việc trong các xí nghiệp công nghiệp. - Thất nghiệp tạm thời: người lao động tạm thời thất nghiệp khi họ từ bỏ công việc cũ để tìm việc mới phù hợp hơn hay có mức lương cao hơn. Hình thức thất nghiệp này có thể xem là tích cực vì nó cho thấy người lao động trong nền kinh tế đang có nhiều cơ hội để tìm việc mới. - Thất nghiệp chu kỳ: hình thức thất nghiệp hay xuất phát từ tình trạng suy giảm trong sản xuất do nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái hay do chu kỳ sản xuất. Thường nền kinh tế vận động một cách có chu kỳ, trong giai đoạn suy thoái một số người có thể bị mất việc làm. Chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ có thể làm giảm thiểu hay rút ngắn chu kỳ kinh tế. - Bán thất nghiệp: những người đang làm việc nhưng đang làm những việc không phù hợp với chuyên môn của họ hoặc họ không tận dụng hết thời gian và khả năng làm việc của mình. Ví dụ: một sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng phải hành nghề xe ôm do không có cơ hội việc làm hay một số người làm việc dưới khả năng của mình đặc biệt là trong một số doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 10
  11. Không tính vào số lượng người thất nghiệp những người đã từ bỏ việc tiếp tục tìm kiếm việc làm do thiếu các cơ hội việc do những người này không tiếp tục tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên, cũng có lập luận cho rằng họ phải được tính vào con số thất nghiệp vì họ đã cố gắng tìm việc nhưng không tìm được việc làm. * Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp: Số người thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp (%) = Tổng lực lượng lao động x 100 1.3.2. Ổn định giá cả Mục tiêu này nói đến tình huống không có lạm phát hoặc thiểu phát. Tuy nhiên, ổn định mức giá ở đây chỉ mang tính tương đối. Giá cả của từng loại hàng hoá dịch vụ có thể tăng giảm linh hoạt theo tác động của quan hệ cung cầu. Nhưng sự ổn định mức giá chung hay mức giá trung bình là mục tiêu cần đạt. Bởi vì sự ổn định giá cả tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, nếu giá cả biến động mạnh mẽ gây bất ổn cho nền kinh tế và gây khó khăn cho đời sống nhân dân chính vì thế mục tiêu ổn định giá cả là một mục tiêu quan trọng của nền kinh tế. Lạm phát ổn định ở mức trên dưới 10% có thể có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Để đánh giá mức độ ổn định của giá cả người ta sử dụng chỉ số giá. Cùng với thời gian, giá cả của hàng hoá có thể tăng lên hay giảm xuống. Hiện tượng chủ yếu trong biến động của giá là lạm phát. Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng về mức giá trung bình. Tuy nhiên, cũng có những giai đoạn mà mức giá của hàng hoá đã giảm xuống. Hiện tượng này được gọi là thiểu phát. Ví dụ như nước ta trong thời gian gần đây (1999-2001) có những tháng chỉ số giá giảm. Để có thể xác định được chính xác tỷ lệ lạm phát hay thiểu phát chúng ta cần có một năm gốc để so sánh. Khi chúng ta đã xác định được năm gốc, những thay đổi về giá trong tương lai (hay giá trong quá khứ) có thể được so sánh với năm gốc này. Cách thức để xác định tỷ lệ lạm phát là xác định chỉ số giá tiêu dùng (CPI- consumption price index) hay còn gọi là chỉ số Laspeyres. * Công thức xác định CPI như sau: n  p1i Q i0 CPI  i n1  p i0 Qi0 i 1 Trong đó: P0 là giá của hàng hoá tại thời điểm 0 (năm gốc) Q0 là khối lượng hàng hoá tại thời điểm 0 (năm gốc) P1 là giá của hàng hoá tại thời điểm 1 (năm nghiên cứu) i là loại hàng hoá thứ i Để tính CPI người ta phải xác định được danh mục các hàng tiêu dùng (hàng tiêu dùng cuối cùng) đại diện với một cơ cấu thích hợp (giỏ hàng hoá) và mức giá của từng hàng hoá ở thời điểm gốc và thời điểm nghiên cứu. Mặc dù giá hàng hoá tăng giảm khác nhau nhưng tính bình quân giá hàng hoá tiêu dùng sẽ tăng hay giảm so với năm gốc. Nói cách khác chỉ số giá quan tâm đến mức giá bình quân của một giỏ hàng hoá chứ không phải mức giá của từng mặt hàng đơn lẻ. 11
  12. Một công cụ quan trọng khác để tính các giá trị thực như thu nhập thực, GDP thực, được gọi là chỉ số giảm giá GDP hay chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator). Chỉ số giảm phải GDP được tính theo công thức tương tự có khác đi một ít so với cách tính CPI (chỉ số này lấy giỏ hàng hoá bao gồm cả hàng tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Chỉ số giảm phát còn được gọi là chỉ số Paasche. * Chỉ số giảm phát được xác định theo công thức sau: n Chỉ số giảm phát GDP:  p1i Q1i CPI  in1  pi0 Q1i i 1 Dùng chỉ số điều chỉnh GDP chúng ta có thể tính GDP thực của một năm cụ thể nào đó như sau: GDP N GDP r = Chỉ số giảm phát GDP Ví dụ: Dưới đây sẽ minh hoạ cách tính GDP thực năm 2010 lấy năm 1995 làm năm gốc (năm 0) Năm GDP danh nghĩa Chỉ số giảm phát GDP GDP thực (Tỷ USD) (tỷ USD) 1995 1000 100 1000 2010 1200 110 1901 GDP thực của năm 2010 (lấy năm 1995 làm gốc) được tính như sau: GDP danh nghĩa 2010 1200 GDPthực2010 = = = 1091 Giảm phát GDP 110% Giá trị GDP thực năm 2010 là 1091 tỷ USD. Mặc dù giá trị GDP danh nghĩa đã tăng 20% trong giai đoạn 1995-2010. Tuy nhiên trong cùng thời gian đó. Mặt bằng giá đã tăng lên 10%. Do vậy giá trị GDP thực chỉ tăng trên 9,1% Lưu ý: GDP thực của một năm bất kỳ bao giờ cũng gắn với một năm gốc. Nếu ta nói GDP năm 2010 là 109 tỷ USD sẽ là vô nghĩa mà phải nói rõ năm gốc là 1995. 1.3.3. Tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu hàng đầu của bất kỳ nền kinh tế nào. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản lượng quốc dân (GDP thực hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực sự tăng trưởng được thể hiện bằng tốc độ tăng trưởng hàng năm. Công thức tính tốc độ tăng trưởng kinh tế cho năm (so với năm trước đó) GDPt  GDPt -1 g (%)  GDPt -1 12
  13. Công thức tính tốc độ tăng trưởng bình quân (trong n năm) GDP  GDP1 g (%)  n  1 x 100 GDP1 Trong đó: GDPt là GDP thực năm thứ t GDPt-1 là GDP thực năm t-1 (năm trước) GDPn là thực năm thứ n GDP1 là GDP thực năm đầu tiên của giai đoạn từ năm 1 đến năm n Tăng trưởng kinh tế luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia vì nó là nền tảng cho việc nâng cao mức sống của nhân dân. Tuy nhiên, việc nâng cao mức sống còn phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nữa. Ví dụ: tốc độ tăng dân số, tính bình đẳng trong phân phối thu nhập, các chính sách xã hội. Người ta sử dụng chỉ tiêu GNP bình quân đầu người hoặc GDP bình quân đầu người như thước đo quan trọng mức sống của một quốc gia. Một quốc gia có GNP bình quân đầu người hoặc GDP bình quân đầu người cao hơn được xem là quốc gia có mức sống cao hơn. Tuy nhiên, khi sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá và so sánh mức sống của các quốc gia cần lưu ý một số vấn đề sau: - GDP đo lường giá trị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ theo giá thị trường, vì vậy có thể không phản ánh đúng giá trị xã hội thực của sản phẩm. Chẳng hạn, nhiều loại sản phẩm dịch vụ không được tính đến trong quá trình hạch toán thu nhập quốc dân như các công việc nội trợ tự làm, các hoạt động trao đổi hàng trực tiếp,v.v... Mặt khác trong một số trường hợp giá thị trường thấp hơn nhiều so với giá trị xã hội của nó. - Mức sống xã hội còn phụ thuộc vào mức giá thị trường ở từng quốc gia. Một số nước có thu nhập quốc dân bình quân đầu người thấp nhưng giá tiêu dùng ở các nước này lại thấp hơn rất nhiều nhiều so với các nước có thu nhập cao. Ví dụ: nếu so sánh mức bình quân đầu người thì Ấn Độ có mức sống thấp hơn ở Mỹ là gần 50 lần nhưng nếu điều chỉnh theo mức giá ở hai nước này thì khoảng cách chỉ cần là gần 20 lần. - Mức sống xã hội còn phụ thuộc vào mức độ công bằng trong phân phối. Amartya Sen, một nhà kinh tế và chuyên gia trong lĩnh vực phát triển của Đại học Harvard đã chỉ ra nhiều trường hợp trong đó nếu một nước nghèo hơn nhưng có sự phân phối thu nhập công bằng hơn thì sẽ đã đạt được các chỉ số cao về mức sống xã hội như tuổi thọ trung bình, tỷ lệ người biết chữ , calo cung cấp bình quân đầu người. Mặc dù có những hạn chế như vậy nhưng GNP bình quân đầu người hoặc GDP bình quân đầu người vẫn được xem là một chỉ tiêu quan trọng trong các mục tiêu phát triển kinh tế của một quốc gia. 1.3.4. Những tư tưởng chủ yếu của kinh tế học vĩ mô Adam Smith đã đặt nền tảng cho kinh tế học vĩ mô khi ông xuất bản tác phẩm "Sự giàu có của quốc gia" năm 1976, ông đã ca ngợi sự tự do tuyệt đối về kinh tế và phủ nhận vai trò can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Khái niệm "bàn tay vô hình" được ông sử dụng để minh hoạ cho nền kinh tế thị trường tự do, ông nói: "Để nền kinh tế tự do điều tiết theo quan hệ cung cầu nó sẽ tự đạt tới điểm cân bằng theo sự sắp xếp của bàn tay vô hình". Adam Smith cũng là người đặt nền tảng cho lý thuyết thương mại quốc tế và phân công lao động quốc tế qua lý thuyết "lợi thế tuyệt đối". Sau này không 13
  14. lâu, David Ricardo đã phát triển và hoàn thiện thành lý thuyết lợi thế tương đối hay lợi thế so sánh. là cơ sở cho thương mại quốc tế ngày nay. Lý thuyết kinh tế của ông tồn tại hơn một thế kỷ, và góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh tế trong thời kỳ đó. Chính vì thế mà người ta coi ông là cha đẻ của kinh tế học vĩ mô. Nhưng chính nền kinh tế thị trường tự do đã nảy sinh ra khủng hoảng, và thực tế nền kinh tế khó mà tự điều tiết để đạt đến điểm cân bằng như Adam Smith nói. J.Mkeynes nói "cân bằng có thể xây ra trong dài hạn nhưng trong dài hạn chắc chúng ta chết cả", Keynes quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề kinh tế trong ngắn hạn. Cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 đã làm xuất hiện một bước ngoặt mới trong kinh tế học vĩ mô, trong đó J.M Keynes là nguời tiên phong. Ông đã xuất bản tắc phẩm: "Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" năm 1936, ông là người đầu tiên đưa ra vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ thông qua các công cụ tài chính và tiền tệ. Đến này tư tưởng của ông được nhiều nhà kinh tế học hiện đại phát triển thành nhiều trào lưu nhưng cơ bản vẫn chấp nhận vai trò của điều tiết chính phủ trong nền kinh tế thị trường. 1.4. CÁC MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN 1.4.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp Chúng ta đã biết rằng nâng cao mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất bao gồm cả lao động là một nhân tố quan trọng dẫn đến việc tăng trưởng kinh tế. Như vậy khi GDP tăng lên với tốc độ cao chúng ta có thể kỳ vọng rằng tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống. Các số liệu thực tế ở các nước đã chứng tỏ mối quan hệ này là xác thực. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp được một nhà kinh tế học người Mỹ Arthur Okun khái quát và phát biểu thành quy luật Okun. Quy luật Okun có thể phát biểu thành hai cách: - Cách 1: Khi giá trị sản lượng thực tế tăng trưởng với tốc độ cao hơn tốc độ trung bình (tốc độ tăng giá trị sản lượng tiềm năng) 2,5% sẽ dẫn đến giảm tỷ lệ thất nghiệp đi 1%. Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp thực tế (U1) như sau: U1 = Ut-1 - 0,4 (gt - gp) Trong đó: - Ut-1 là tỷ lệ thất nghiệp năm trước. - gt và gp tương ứng là tốc độ giá trị sản lượng thực tế và tốc độ tăng giá trị sản lượng tiềm năng. - Cách 2: Khi giá trị sản lượng thực tế thấp hơn giá trị sản lượng tiềm năng 2% thì thất nghiệp sẽ tăng thêm 1%. Công chức xác định tỷ lệ thất nghiệp thực tế (Ut) như sau: Yp _ Yt Ut = Un + x 50 Yp Trong đó:Un là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên - Ypvà Yt tương ứng là giá trị sản lượng tiềm năng và giá trị sản lượng thực tế. Ví dụ: Một quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp là 8% và có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5%. Muốn giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống mức 5% thì phải làm sao cho tỷ lệ tăng trưởng GDP cao hơn mức 5%. Chẳng hạn, cần phấn đấu đạt tỷ lệ tăng trưởng 7,5% để mỗi năm giảm 1% thất nghiệp và như vậy sau 3 năm sẽ đạt được mục tiêu giảm thất nghiệp xuống 14
  15. còn 5% (lập luận theo cách 1 của quy luật Okun). Nếu tốc độ tăng GDP chỉ là 6,25% chẳng hạn thì chúng ta sẽ cần 6 năm mới đạt được mục tiêu 5% thất nghiệp. Thật ra mối quan hệ này cũng chỉ mang tương đối chứ không có quan hệ lượng hoá chính xác như đã nêu. Tuy nhiên, nó cũng cho chúng ta một định hướng khá rõ rệt trong việc hoạch định chính sách. 1.4.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp Khi quan sát các nền kinh tế chúng ta thấy rằng dường như khi lạm phát tăng thì chúng ta dễ kiếm việc làm hơn. Ngược lại, trong giai đoạn chỉ số giá giảm (thiểu phát) nền kinh tế rơi vào trì trệ do đó khó kiếm được việc làm. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp được mô tả bởi đường cong Phillips, dựa vào số liệu thực tế ở nước Anh trong giai đoạn 1861-1957 nhà kinh tế học người Anh A.W. Phillips đã khái quát hoá sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp dưới dạng một đường cong. Đường cong Phillips nói lên rằng khi tỷ lệ thất nghiệp càng cao thì tỷ lệ lạm phát càng thấp và ngược lại. Điều đó gợi cho chúng ta rằng muốn giảm tỷ lệ thất nghiệp chúng ta phải chấp nhận tăng lạm phát và ngược lại đấu tranh chống lạm phát sẽ phải chấp nhận cái giá là thất nghiệp tăng. Mối quan hệ này tỏ ra phù hợp với nhiều quốc gia trong nhiều giai đoạn và có thể được lý giải khá thuyết phục. Tuy nhiên, những năm gấn đây tỷ lệ làm phát cao song hành với thất nghiệp cao ở một số quốc gia đã làm nhiêù người nghi ngờ về tính xác thực của mối quan hệ này. Mắc dù vậy, mối quan hệ này vẫn cho chúng ta một định hướng nhất định trong quá trình thực hiện chính sách. Trong giai đoạn cuối những năm 80 chúng ta đã tuyên chiến và đã điều chỉnh lãi suất lên mức rất cao nhưng tiếp sau đó là thời kỳ trì trệ và thất nghiệp tăng lên rõ rệt. Lạm Đường cong phát Phillips Thất nghiệp Đến đây bạn đọc có thể đã nắm được một số vấn đề cơ bản của kinh tế học vĩ mô và mục tiêu mà kinh tế học vĩ mô phải giải quyết. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường chủ yếu thông qua các chính sách tài khoá, tiền tệ, tỷ giá để tác động đến sản lượng quốc gia nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế đề ra. Như vậy biến số sản lượng (thực ra nói cho đầy đủ là tổng giá trị sản lượng) là một biến số kinh tế rất quan trọng trong kinh tế học vĩ mô. Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét biến số này và cách đo lường nó. 1.5. ĐO LƯỜNG SẢN LƯỢNG QUỐC GIA Khi nghiên cứu các mục tiêu kinh tế vĩ mô chúng ta gọi sản lượng là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thành tựu của một nền kinh tế. Mức sản lượng cao hay thấp sẽ ảnh hưởng tới việc làm, lãi suất, giá cả và những biến số kinh tế khác. 15
  16. Vì thế phần này chúng ta sẽ nghiên cứu đến các vấn đề liên quan đến sản lượng quốc gia, cách xác định và mối liên hệ giữa các chỉ tiêu thu nhập quốc dân, tổng sản phẩm và các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô. 1.5.1. Khái niệm về tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc dân 1.5.1.1. Khái niệm về tổng sản phẩm quốc nội GDP GDP (Gross Domestic Product) đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá, dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định không quan tâm đến yếu tố sản xuất ra sản phẩm đó thuộc sở hữu của người trong nước hay người nước ngoài. GDP là kết quả của mọi hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, các hộ gia đình của công dân nước sở tại và công dân nước ngoài tại nước sở tại. Nhưng GDP không bao gồm kết quả sản xuất của công dân nước sở tại ở nước ngoài. Kết quả sản xuất của công dân nước sở tại ở nước ngoài bao gồm tiền lương, thu nhập từ lãi cho vay, lãi cổ phần, lợi nhuận hay các nhân tố sản xuất khác. Lưu ý: Khi xem xét chỉ tiêu này cần chú ý một số vấn đề sau: - Chỉ tính vào GDP các sản phẩm và dịch vụ cuối cùng nghĩa là không tính giá trị các sản phẩm trung gian được sử dụng làm đầu vào cho các quá trình sản xuất. - Chỉ định kết quả sản xuất của giai đoạn hiện hành nghĩa là không tính giá trị của các hàng hoá đã được tạo ra trong các kỳ trước nhưng được trao đổi trong kỳ này. Ví dụ: Giá trị ngôi nhà cũ được bán lại không được tính vào GDP. Tuy nhiên nếu việc mua bán được thực hiện qua trung gian thì giá trị dịch vụ của người trung gian sẽ được tính vào GDP với tư cách là giá trị dịch vụ được tạo ra trong kỳ. - Hàng hoá và dịch vụ được đánh giá qua giá thị trường. Tuy nhiên có nhiều hàng hoá dịch vụ không được trao đổi trên thị trường, ví dụ các hàng hoá và dịch vụ công cộng. Trong trường hợp này người ta đo lường giá trị các dịch vụ này thông qua chi phí để tạo ra sản phẩm dịch vụ đó. Ví dụ giá trị dịch vụ quốc phòng mà quân đội cung cấp được đo bằng tổng chi phí cho quốc phòng mà nhà nước thực hiện trong kỳ. - Tính giá cả hàng hoá sản xuất ra trong nền kinh tế bất kể nó được sản xuất bằng nguồn lực trong nước hay nước ngoài. Ví dụ: Người nước ngoài đem công nghệ, vốn và nguồn lực vào Việt Nam để sản xuất ô tô thì giá trị ô tô được sản xuất ra được tính vào GDP mặc dù một phần thu nhập về hoạt động này thuộc về những người nước ngoài. Tóm lại, GDP đo lường các khoản thu nhập từ yếu tố sản xuất trong phạm vi nền kinh tế bất kể ai là chủ sở hữu các yếu tố này (công dân trong nước hay người nước ngoài). 1.5.1.2. Khái niệm về tổng sản phẩm quốc dân GNP GNP (Gross National Product) đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá, dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất ra trong một thời kỳ (thường là một năm) bằng các yếu tố sản xuất cả chính mình. Dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị của sản phẩm là thuận lợi vì thông qua giá cả thị trường chúng ta có thể công lại giá trị của tất cả các loại giá trị hàng hoá dịch vụ có hình thức vật chất khác nhau như chuối, xe hơi... Nhờ vậy có thể đo lường kết quả sản xuất bằng con số, một tổng lượng duy nhất. Nhưng nhược điểm là giá cả thường biến động do đó GNP và GDP có thể tăng lên nhanh trong khi giá trị thực có 16
  17. thể không tăng hoặc tăng ít. Do đó các nhà kinh tế thường phân biệt hai chỉ tiêu GDP, GNP danh nghĩa và GDP, GNP thực. - GNP danh nghĩa (GNPn) đo lường sản phẩm quốc dân sản xuất ra theo giá hiện hành. - GDP danh nghĩa (GDPn) đo lường sản phẩm quốc nội sản xuất ra theo giá hiện hành. - GNP thực (GNPt) đo lường sản phẩm quốc nội sản xuất ra theo giá cố định ở một thời điểm được chọn làm gốc. Mối quan hệ giữa GDP danh nghĩa và GDP thực được xác định như sau: GDPDanh nghĩa ở năm cụ thể GDPthực = GDPdeflatir Một cách xác định tương tự, chúng ta có thể tính được chỉ tiêu GNP thực. Khi tính tốc độ tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế khuyên rằng nên dùng các chỉ tiêu thực để loại bỏ yếu tố giá trị sản lượng tăng do giá tăng. Bởi vì nếu không loại bỏ yếu tố giá trị có thể sự gia tăng trong GDPn có thể đơn thuần do giá tăng chứ sản lượng chưa hẳn đã tăng. 1.5.1.3. Mối quan hệ giữa GDP và GNP Giữa hai chi tiêu GDP và GNP có mối quan hệ với nhau qua công thức sau đây: GNP = GDP + NIA (2.1) Trong đó: NIA (Netfactor incomes ffrom abrroad) là thu nhập nhân tố ròng từ nước ngoài = thu nhập từ yếu tố sản xuất của công dân trong nước ở nước ngoài trừ đi phần thu nhập từ yếu tố sản xuất của công dân nước ngoài ở trong nước. Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng đối với những nước nghèo thì GNP thường nhỏ hơn GDP vì thu nhập ròng từ nước ngoài (NIA) là số âm. 1.5.1.4. Ý nghĩa của các chỉ tiêu GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô - GNP và GDP là các chỉ tiêu quan trọng phản ánh thành tựu kinh tế của một quốc gia. Các nhà kinh tế thường sử dụng các chỉ tiêu này để so sánh quy mô sản xuát của các quốc gia trên thế giới sau khi đã chuyển số liệu bằng tiền các nước khác nhau sang đồng dollar Mỹ thông qua tỷ giá hối đoái. - GNP và GDP đước sử dụng để phân tích những biến đổi về sản lượng của một quốc gia trong thời gian khác nhau, trong trường hợp này người ta thường sử dụng chỉ tiêu GDP, GNP thực nhằm loại bỏ nhân tố tăng giá. - GNP, GDP còn được sử dụng để phân tích những biến đổi của mức sống dân cư qua chỉ tiêu GNP bình quân đầu người hoặc GDP bình quân đầu người. GNP GNPP = (1.1) Pop GDP (1.2) GDPP = Pop Trong đó: GNPP (per capita GNP) là GNP bình quân đầu người GDPP (per capita GDP) là GDP bình quân đầu người 17
  18. Pop (population) là tổng dân số của một quốc gia Như vậy sự thay đổi GNP, GDP bình quân đầu người phụ thuộc rất nhiều vào năng suất lao động và tốc độ tăng dân số. Chính vì thế nên bên cạnh nổ lực phát triển nền kinh tế thì nhà nước (các nước đang phát triển) cần phải hạn chế sinh đẻ qua chương trình kế hoạch hoá gia đình, có vậy thì mức tiêu nâng cao mức sống dân cư mới có thể đạt được. - GNP là thước đo tốt hơn xét theo khía cạnh số lượng hàng hoá và dịch vụ mà mỗi người dân của mỗi quốc gia có thể mua được. Vì GNP có cả phần thu nhập từ nước ngoài của công dân nước sở tại và đã trừ đi phần thu nhập của công dân nước ngoài nằm trong GDP. - Từ các chỉ tiêu GNP và GDP các nhà làm chính sách thực hiện các phân tích về tiêu dùng, đầu tư, ngân sách, tiền lương, xuất nhập khẩu, giá cả, tỷ giá... Qua trình bày ở phần trên đây, chúng ta thấy phần quan trọng của các chỉ tiêu GDP và GNP, bây giờ chúng ta xem xét các phương pháp xác định GDP. Từ kết quả của phương thức xác định GDP, chúng ta có thể tính các chỉ tiêu khác nhau GNP, GDP. 1.6. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GDP Trước đây khi chúng ta theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung việc tính toán các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp dựa trên cơ sở bảng cân đối quốc dân (MPS-Material Product System) do Liên Xô soạn thảo. Ngày nay chúng ta theo mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, đòi hỏi ngành thống kê phải áp dụng hệ thống thống kê phổ biến của các nước trên thế giới cũng như của tổ chức thống kê của Liên hiệp quốc. Đặc biệt là việc tính chỉ tiêu GDP và việc lập hệ thống tài khoản quốc gia (SNA – System of National Accounts). Việc tính toán chỉ tiêu GDP dựa trên cơ sở theo hệ thống SNA. Để tính được chỉ tiêu GDP, trước hết chúng ta phải xem xét sự luân chuyển của các khoản thu nhập trong nền kinh tế như thế nào. 1.6.1. Sơ đồ luân chuyển kinh tế học vĩ mô Để hiểu rõ phương pháp hạch toán thu nhập quốc dân và các bộ phận cấu thành của nó chúng ta hãy xem xét sơ đồ luân chuyển của một nền kinh tế giản đơn (nền kinh tế đóng) Các doanh nghiệp mua các yếu tố sản xuất của các hộ gia đình bao gồm dịch vụ lao động, Vốn, Tiền chi trả của các hãng cho các yếu tố này trở thành thu nhập (Y) của các hộ gia đình. Mặt khác các hội gia đình sử dụng thu nhập của mình để mua hàng hoá tiêu dùng (C) của các doanh nghiệp và một phần thu nhập được tiết kiệm (S) để rồi thông qua các trung gian tài chính trở thành nguồn vốn đầu tư (1) cung cấp cho khu vực kinh doanh (các doanh nghiệp). Chính phủ thu thuế (TA) của các hộ dân cư và các hãng và sử dụng tiền thu được cho việc mua sắm các dịch vụ các hộ gia đình (lao động, vốn), mua hàng hoá của các hãng (G), đồng thời chính phủ cũng thực hiện các khoản thanh toán chuyển giao (TR) cho các hộ dân cư dưới hình thức các khoản nợ cấp xã hội, bọc bổng, cứu trợ... 18
  19. HH&DV Thị trường hàng hoá HH&DV Và dịch vụ C C Hộ TR Chính phủ G Doanh gia đình nghiệp TA HH&DV Y Thị trường yếu tố Y ytsx sản xuất ytsx S Trung gian I tài chính Sơ đồ 1.1. Dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô (nền kinh tế đóng) Chúng ta bắt đầu trường hợp đơn giản nhất, bỏ qua khu vực nhà nước và khu vực giao dịch với nước ngoài, tức nền kinh tế khép kín, tự cấp, tự túc, chỉ bao gồm các hộ gia đình và các doanh nghiệp. Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô được minh hoạ như sơ đồ 1.1. Sơ đồ này gợi ý chung ta hai cách tính khối lượng sản phẩm trong một nền kinh tế. - Theo cung trên chúng ta có thể tính tổng sản lượng hàng hoá, dịch vụ sản xuất ra trong nền kinh tế. - Theo cung dưới chúng ta có thể tính tổng mức thu nhập từ các yếu tố sản xuất. Nếu toàn bộ thu nhập của hộ gia đình được đem mua hết hàng hoá và dịch vụ (không có tiết kiệm), các doanh nghiệp bán hết hàng hoá và dịch vụ để lấy tiền tiếp tục sản xuất và lợi nhuận của các hãng rốt cuộc cũng chỉ là thu nhập của các hộ gia đình. Con số từ hai cách trên là như nhau. Sơ đồ này cho chúng ta thấy tầm quan trọng của hành vi tiêu dùng của gia đình tác động đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Đồng thời nó cũng tác động của việc gia tăng của các yếu tố sản xuất đối với sự tăng trưởng kinh tế. Bằng cách sản xuất nhiều hãng hoá và dịch vụ sẽ dẫn đến thu nhập và tiêu dùng nhiều hơn cho các hộ gia đình, nâng cao mức sống dân cư trong xã hội. Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô đặt cơ sở cho các phương pháp tính toán tổng sản phẩm quốc nội, phương pháp tính sẽ trình bày trong phần tiếp theo. 1.6.2. Phương pháp xác định GDP 1.6.2.1. Phương pháp chỉ tiêu Sơ đồ 1.1. chúng ta sẽ mở rộng ra cho nền kinh tế sát với thực tế hơn, đó là nền kinh tế có cả khu vực chính phủ và có hoạt động xuất nhập khẩu. 19
  20. Theo phương pháp chỉ tiêu, GDP bao gồm toàn bộ giá trị thị trường của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và chính phủ mua và khoản xuất khẩu ròng (NX) được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định (thường tính cho một năm). Ta có công thức xác định như sau: GDP = C + I + G + NX (1.3) Trong đó: C (consumption expenditure) là khoản chỉ tiêu của hộ gia đình I (investment) là khoản đầu tư của doanh nghiệp G (government expenditure ) là khoản chi tiêu của chính phủ NX = X – M (net export) là khoản xuất khẩu ròng. Sau đây chúng ta sẽ làm rõ hơn các yếu tố cấu thành GDP theo phương pháp chi tiêu. a. Tiêu dùng của hộ gia đình: Tiêu dùng của hộ gia đình bao gồm tổng giá trị chi tiêu cho hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của hộ gia đình mua trên thi trường để chi dùng hàng ngày như thịt, gạo, cá, bánh kẹo, áo quần, phương tiện đi lại, chăm sóc sức khoẻ, hớt tóc... Như vậy GDP chỉ bao gồm sản phẩm được bán trên thị trường, nó bỏ sót các hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình tư sản xuất để tiêu dùng như nông sản mà các hộ nông dân tự sản xuất tự tiêu dùng, công việc nội trợ... Giá trị của chi tiêu của hộ gia đình chiếm khoảng 60 – 70% trong GDP của một quốc gia. b. Đầu tư: Đầu tư là các khoản chi tiêu của doanh nghiệp để mua sắm tư liệu sản xuất cho mục đích tái sản xuất mở rộng. Đầu tư bao gồm các trang thiết bị mới là các tài sản cố định, máy móc thiết bị của doanh nghiệp, nhà ở, văn phòng, nhà xưởng và chênh lệch hàng tồn kho của doanh nghiệp (nếu chênh lệch giàm thì phần chênh lệch mang dấu âm). Như vậy, khái niệm đầu tư ở đây khác với khái niệm đầu tư thông thường. Đầu tư ở đây là việc mua sắm các tư liệu sản xuất mới, tạo ra bản mới dưới dạng hiện vật như nhà máy mới, công cụ mới... Không nên nhầm lẫn khái niệm đầu tư ở đây với việc sử dụng vốn để mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu hay gửi tiết kiệm. Vì hành động này chỉ làm thay đổi thành phần tích sản xuất của cá nhân hay doanh nghiệp mà không làm cho tổng tài sản cố định của đất nước tăng lên. Khi tính GDP, chúng ta đưa vào GDP khoản đầu tư gộp hay tổng đầu tư chứ không phải đầu tư ròng. Đầu tư gộp = đầu tư ròng (In) + khấu hao (De) Ở trên chúng ta đã đề cập đến chênh lệch hàng tốn kho. Hàng tồn kho là những hàng hoá được giữ lại để sản xuất hay tiêu thụ sau này. Thực chất hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động, hàng tồn kho bao gồm vật liệu hay các yếu tố sản xuất đầu vào hoặc thành phẩm chờ bán. Đầu tư có tác dụng tái sản xuất mở rộng, đầu tư làm giảm tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng trong tương lai. Đầu tư là kết quả của quá trình tích luỹ của các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ. c. Chi tiêu hàng hoá và dịch vụ của chính phủ (G) Chính phủ cũng là một tác nhân kinh tế và là một người tiêu dùng lớn nhất. Hàng năm chính phủ các nước đều phải chi tiêu một khoản rất lớn cho các nhu cầu về xây dựng hạ tầng cơ sở hạ tầng, quốc phòng, giáo dục, an ninh và trả lương cho bộ máy hành chính nhà nước. Những khoản chi tiêu này được tính vào GDP. Tuy nhiên, một 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2