intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y: Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:210

96
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong giai đoạn mới - giai đoạn chuyển từ đào tạo theo học chế niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ, chúng tôi đã biên soạn cuốn giáo trình Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y. Giáo trình gồm 4 nội dung chính, cập nhập được những kiến thức mới, các kết quả nghiên cứu về ký sinh trùng học thú y, vừa là tài liệu học tập, vừa là tài liệu để sinh viên, đồng nghiệp và bạn đọc tham khảo. Phần 1 của giáo trình sau đây trình bày 2 nội dung chính, đó là: Đại cương về ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y; giun sán ký sinh và bệnh giun sán ở gia súc, gia cầm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y: Phần 1

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM GS. TS. NGUYỄN THỊ KIM LAN KÝ SINH TRÙNG VÀ BỆNH KÝ SINH TRÙNG THÚ Y (Giáo trình dùng cho đào tạo bậc Đại học) NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP - 2012 0
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM GS. TS. NGUYỄN THỊ KIM LAN KÝ SINH TRÙNG VÀ BỆNH KÝ SINH TRÙNG THÚ Y (Giáo trình dùng cho đào tạo bậc Đại học) NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP Hà Nội - 2012 1
  3. LỜI NÓI ĐẦU Ký sinh trùng thú y là môn học cung cấp những kiến thức về ký sinh trùng học và bệnh do ký sinh trùng gây ra ở gia súc, gia cầm. Những kiến thức này rất cần thiết cho sinh viên ngành Thú y và ngành Chăn nuôi thú y của các trường Đại học Nông Nghiệp, đồng thời rất cần cho cán bộ thú y đang làm việc ở các cơ quan thú y và địa phươ ng. Hiện nay, nhu cầu về tài liệu học tập của sinh viên ở trường Đại học nói chung và trường Đại học Nông Lâm nói riêng ngày càng trở nên cấp thiết. Phương pháp giảng dạy mới - phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm - chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi Nhà trường đáp ứng đủ nhu cầu về tài liệu học tập cho sinh viên. Giáo trình Ký sinh trùng thú y của tác giả Nguyễn Thị Kim Lan và cs biên soạn, được in ở Nxb Nông nghiệp, Hà Nội (1999) đã đáp ứng được nhu cầu học tập cho sinh viên từ năm 1999 đến nay. Song, sau 12 năm sử dụng, chúng tôi nhận thấy cuốn giáo trình này hiện nay không còn phù hợp ở mức độ tốt đối với hoạt động dạy và học của Th ầy và Trò nữa. Để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong giai đoạn mới - giai đoạn chuyển từ đào tạo theo học chế niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ, chúng tôi đã biên soạn cuốn giáo trình Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y . Nội dung của cuốn giáo trình phong phú, cập nhập được những kiến thức mới, các kết quả nghiên cứu về ký sinh trùng học th ú y, vừa là tài liệu học tập, vừa là tài liệu để sinh viên, đồng nghiệp và bạn đọc tham khảo. Mặc dù tác giả đã rất cố gắng, đồng thời nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp ở trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, trường Đại học Y - Dược và trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên, song cuốn giáo trình có thể còn nhiều thiếu sót. Tác giả mong nhận được ý kiến đóng góp của các em sinh viên, đồng nghiệp và bạn đọc để cuốn giáo trình được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau. Xin trân trọng cảm ơn ! Tác giả GS. TS. Nguyễn Thị Kim Lan 2
  4. MỞ ĐẦU 1. ĐỊNH NGHĨA VÀ NỘI DUNG MÔN HỌC 1.1. Định nghĩa hiện tượng ký sinh Hiện tượng ký sinh là một trong những hình thức sinh tồn của sinh vật, đặc điểm của hình thức tồn tại đó là: một cơ thể số ng này sống trên hoặc trong một cơ thể sống khác, sử dụng cơ thể sống ấy để có lợi cho mình. Thuật ngữ "hiện tượng ký sinh" lần đầu tiên được viết bằng tiếng Hy Lạp: "Parasitos" (Para có nghĩa là: cùng nhau, sitos có nghĩa là dinh dưỡng), thuật ngữ này dùn g để chỉ những sinh vật sống nhờ vào sinh vật khác. Leukart là người đầu tiên đưa ra khái niệm "vật ký sinh": "vật ký sinh là tất cả những sinh vật nào tìm thức ăn và chỗ ở trên sinh vật khác" . Về bản chất của hiện tượng ký sinh, trong một thời kỳ khá dài, người ta chỉ đề cập được đến tính chất phức tạp của hiện tượng này, mà không đưa ra được một định nghĩa rõ ràng: hiện tượng ký sinh là gì? Ngày nay, hiện tượng ký sinh được Erchov V. R. định nghĩa như sau : "Hiện tượng ký sinh là mối quan hệ phức tạp giữa hai sinh vật, trong đó, một sinh vật (ký sinh trùng) tạm thời hay thường xuyên cư trú trong cơ thể sinh vật kia (ký chủ) để lấy dịch thể, tổ chức của ký chủ làm thức ăn, đồng thời làm cho ký chủ bị tổn hại đến một mức độ nào đó về mặt sinh vật học" . Trong định nghĩa này, Erchov V. R. đã nêu rõ mối quan hệ qua lại, đối kháng giữa hai sinh vật (ký sinh trùng và ký chủ), mối quan hệ về không gian (cư trú thường xuyên hay tạm thời), quan hệ về dinh dưỡng (ký sinh trùng lấy dịch thể, tổ chức của ký chủ), về tác hại của ký sinh trùng. Đây là định nghĩa cơ bản, hiểu được định nghĩa này là cơ sở để phân biệt hiện tượng ký sinh với các hiện tượng khác như: hiện tượng cộng sinh, hiện tượng hoại sinh. 1.2. Định nghĩa và nội dung của ký sinh trùng học, ký sinh trùng thú y học * Ký sinh trùng học là gì? Ký sinh trùng học là khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa vật ký sinh và vật chủ (ký sinh trùng và ký chủ), rút ra các quy luật cơ bản trong quá trình thích nghi của cơ thể vật ký sinh và vật chủ, tạo cơ sở để đề xu ất các biện pháp đấu tranh với các bệnh ký sinh trùng, nhằm nâng cao sức khoẻ con người và phát triển vật nuôi, cây trồng (Dẫn theo Nguyễn Thị Lê và cs, 1996; Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2008). Nội dung của ký sinh trùng học gồm: ký sinh trùng học động vật v à ký sinh trùng học thực vật. - Ký sinh trùng học thực vật ( Phytoparasite): là khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở thực vật và các bệnh do chúng gây ra ở thực vật. - Ký sinh trùng học động vật (Zooparasite): là khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở động vật và các bệnh do chúng gây ra ở động vật. Ký sinh trùng học động vật bao gồm: ký sinh trùng y học và ký sinh trùng thú y học. 3
  5. * Ký sinh trùng thú y học chuyên nghiên cứu về ký sinh trùng có nguồn gốc động vật, ký sinh ở gia súc, gia cầm và các vật nuôi khác, nghiên cứu về bệnh do chúng gây nên và biện pháp phòng trị. Phạm vi nghiên cứu của ký sinh trùng thú y gồm: nghiên cứu về vị trí của ký sinh trùng trong hệ thống phân loại động vật học, nghiên cứu về đặc điểm sinh học (hình thái, cấu tạo, chu kỳ phát triể n), nghiên cứu về sự phân bố địa lý của ký sinh trùng. Phạm vi nghiên cứu của bệnh ký sinh trùng gồm: nghiên cứu về đặc điểm dịch của bệnh, cơ chế sinh bệnh, bệnh lý và lâm sàng của bệnh, về biện pháp tễ chẩn đoán và phòng trị bệnh có hiệu quả cao. 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔN KÝ SINH TRÙNG THÚ Y VỚI CÁC MÔN HỌC KHÁC Ký sinh trùng thú y là môn học chuyên môn của ngành đào tạo Bác sỹ thú y và Kỹ sư chăn nuôi thú y. Xét trong mối quan hệ tiên quyết và logic, môn ký sinh trùng thú y có quan hệ mật thiết với nhiều môn học, trong đó có những môn sau: 2.1. Môn Động vật học: là môn học cơ sở của ký sinh trùng học thú y. Môn ký sinh trùng thú y phải dựa trên những kiến thức của môn Động vật học để nghiên cứu về hình thái, cấu tạo, về phân loại, về chu kỳ phát triển của c ác ký sinh trùng. Ngược lại, môn Ký sinh trùng thú y làm sáng rõ hơn, cụ thể và phong phú hơn những kiến thức mà sinh viên được học ở môn Động vật học. 2.2. Môn Giải phẫu, Sinh lý bệnh và Giải phẫu bệnh động vật: để xác định vị trí ký sinh của các loài ký sinh trùng, xác định bệnh tích và tìm ký sinh trùng ký sinh, môn Ký sinh trùng thú y cần những kiến thức về giải phẫu, Sinh lý bệnh và Giải phẫu bệnh động vật. Môn Ký sinh trùng thú y phải dựa vào những kiến thức của các môn học này để mổ khám, để nghiên c ứu cơ chế sinh bệnh và những biến đổi đại thể, vi thể do ký sinh trùng gây ra ở gia súc, gia cầm. 2.3. Môn Dịch tễ học: bệnh ký sinh trùng có nội dung nghiên cứu về dịch tễ học (lưu hành bệnh học). Vì vậy, những kiến thức về dịch tễ học rất cần thiết, là cơ sở để nghiên cứu những yếu tố liên quan đến sự phát sinh, phát triển bệnh ký sinh trùng, từ đó có biện pháp phòng trừ có hiệu quả. 2.4. Môn Miễn dịch học: ký sinh trùng ký sinh kích thích cơ thể vật chủ và ở cơ thể vật chủ thường xuất hiện khả năng miễn dịch. Những kiến thức về miễn dịch giúp hiểu sâu sắc hơn về miễn dịch chống ký sinh trùng, đồng thời miễn dịch chống ký sinh trùng lại làm rõ hơn những kiến thức chung về miễn dịch học. 2.5. Môn chẩn đoán bệnh: để có biện pháp điều trị và phòng bệnh hiệu quả, cần phải chẩn đoán đúng bệnh. Các kiến thức của môn chẩn đoán bệnh giúp sinh viên biết phương pháp chẩn đoán lâm sàng, phi lâm sàng, đồng thời biết tiên lượng bệnh trên vật nuôi. 4
  6. 2.6. Môn Dược lý học thú y: bệnh ký sinh trùng cần dùng các loại hoá dư để phòng trị, vì vậy những kiến thức của môn Dược lý là cơ sở cho việc sử ợc dụng thuốc đúng, an toàn và hiệu quả. 3. GIỚI THIỆU NỘI DUNG GIÁO TRÌNH KÝ SINH TRÙNG THÚ Y Giáo trình Ký sinh trùng thú y dùng cho bậc đào tạo đại học gồm hai phần: - Phần thứ nhất. Đại cương về ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y - Phần thứ hai. Giun sán ký sinh và bệnh giun sán ở gia súc, gia cầm. - Phần thứ ba. Động vật chân đốt ký sinh và bệnh do động vật chân đốt. - Phần thứ tư. Đơn bào ký sinh và bệnh do đơn bào gây ra 3.1. Phần thứ nhất . Đại cương về ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y Phần này gồm 2 chương: Chương 1. Đại cương về ký sinh trùng thú y Nội dung chương 1 trình bày về ký sinh trùng và ký chủ; đặc điểm đời sống ký sinh của ký sinh trùng; ả nh hưởng qua lại giữa ký sinh trùng và ký chủ . Chương 2. Đại cương về bệnh ký sinh trùng thú y Nội dung chương 2 trình bày về: khái niệm bệnh ký sinh trùng thú y, quy định cách gọi tên bệnh ký sinh trùng; miễn dịch trong bệnh ký sinh trùng; tác hại của b ệnh ký sinh trùng đối với sức khoẻ động vật và năng suất chăn nuôi; đồng thời trình bày về biện pháp phòng trị bệnh ký sinh trùng; dịch tễ học bệnh ký sinh trùng và học thuyết diệt trừ bệnh giun sán của Skrjabin. 3.2. Phần thứ hai. Giun sán ký sinh và bệnh giun sán ở gia súc, gia cầm. Phần này gồm 4 chương: Chương 3. Đại cương về giun sán và bệnh giun sán ở gia súc, gia cầm. Nội dung chương 3 trình bày về: khái niệm và phân loại giun sán, khái niệm và phân loại bệnh giun sán, các phương pháp chẩn đoán bệnh giun sán ở gia súc và gia cầm. Chương 4. Sán lá và một số bệnh sán lá Nội dung chương 4 trình bày: đặc điểm hình thái, cấu tạo và vòng đời của sán lá; một số bệnh sán lá thường gặp ở gia súc, gia cầm như: bệnh sán lá gan ở súc vật nhai lại, bệnh sán lá ruột lợn, bệnh sán lá dạ cỏ, bệnh sán lá tuyến tụy, bệnh sán lá ở cơ quan sinh sản gia cầm, bệnh sán lá ruột gia cầm. Đây là những bệnh sán lá phổ biến và gây tác hại lớn đối với gia súc và gia cầm ở Việt Nam. Chương 5. Sán dây và một số bệnh sán dây Nội dung chương 5 trình bày: đặc điểm hình thái, cấu tạo, vòng đời, phân loại sán dây và một số bệnh sán dây thường gặp ở gia súc, gia cầm. Các bệnh được trình bày gồm: bệnh sán dây Moniezia ở gia súc nhai lại, bệnh sán dây ở gà, bệnh sán dây ở c hó và mèo, bệnh gạo lợn, bệnh gạo bò, bệnh 5
  7. ấu sán cổ nhỏ, bệnh ấu sán nhiều đầu, bệnh kén nước. Đây là những bệnh do sán dây trưởng thành hoặc do ấu trùng sán dây gây ra, thường gặp nhiều ở vật nuôi. Chương 6. Giun tròn và một số bệnh giun tròn Nội dung c hương 6 trình bày: đại cương về giun tròn ký sinh; các bệnh giun đũa (như: bệnh giun đũa lợn, bệnh giun đũa bê, nghé, bệnh giun đũa ngựa, bệnh giun đũa gà, bệnh giun đũa chó); các bệnh giun kim (bệnh giun kim gà, bệnh giun kim ngưa); bệnh giun lươn, các bệnh giun xoăn ở gia súc một móng (một số bệnh giun xoăn như: bệnh do Strongylus equinus, bệnh do Alfortia edentatus, bệnh do Delafondia vulgaris, bệnh do Trichonema); bệnh giun xoăn ở gia súc nhai lại (bệnh giun xoăn do Haemonchus và Mecistocirrus); bệnh giun kết hạt; bệnh giun tóc; bệnh giun tròn thuộc phân bộ Trichocephalata (bệnh giun tóc, bệnh giun xoắn); các bệnh giun phổi (bệnh giun phổi lợn, bệnh giun phổi ở gia súc nhai lại); bệnh giun thận lợn; bệnh giun dạ dày lợn, bệnh giun dạ dày gia cầm. 3.3. Phần thứ ba. Động vật chân đốt ký sinh. Gồm 2 chương: Chương 7. Đại cương về động vật chân đốt ký sinh Nội dung chương 7 trình bày: đặc điểm hình thái, cấu tạo và phân loại động vật chân đốt; đặc điểm sinh học, vai trò gây bệnh, biện pháp phòng t rừ động vật chân đốt ký sinh. Chương 8. Ve, ghẻ và côn trùng ký sinh Nội dung chương 8 trình bày: phân loại ve, ghẻ và côn trùng ký sinh; bệnh ghẻ ngầm do loài Sarcoptes scabiei gây ra ở nhiều loài gia súc và gia cầm. 3.4. Phần thứ tư. Đơn bào ký sinh và bệnh do đơn bào gây ra Gồm 3 chương: Chương 9. Đại cương về đơn bào ký sinh và bệnh do đơn bào gây ra Nội dung chương 9 trình bày: đặc điểm hình thái, cấu tạo của đơn bào; phân loại đơn bào ký sinh; đại cương về bệnh do đơn bào gây ra ở gia súc và gia cầm. Chương 10. Một số bệnh trùng roi ở gia súc Nội dung chương 10 trình bày: đặc điểm của trùng roi Trypanosomidae; một số bệnh trùng roi ở gia súc (bệnh tiên mao trùng, bệnh sảy thai do Trichomonas ở bò, bệnh dịch giao cấu ở ngựa - bệnh tiêm la ngựa). Chương 11. Một số bệnh bào tử trùng ở gia súc Nội dung chương 11 trình bày: các bệnh huyết bào tử trùng ( gồm: bệnh lê dạng trùng ở bò, bệnh Theileria ở bò, bệnh biên trùng ở bò); các bệnh cầu trùng (giới thiệu đại cương về cầu trùng ký sinh, bệnh cầu trùng gà , bệnh cầu trùng thỏ, bệnh cầu trùng lợn). 6
  8. Phần thứ nhất ĐẠI CƯƠNG VỀ KÝ SINH TRÙNG VÀ BỆNH KÝ SINH TRÙNG THÚ Y Chương 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ KÝ SINH TRÙNG THÚ Y 1. KÝ SINH TRÙNG VÀ KÝ CHỦ Ký sinh trùng và ký chủ là hai đối tượng có mối quan hệ qua lại đối khá ng. Hiểu về ký sinh trùng và ký chủ của nó là cơ sở cho những nghiên cứu về bệnh ký sinh trùng và biện pháp phòng trị, nhằm bảo vệ sức khoẻ và nâng cao sức sản xuất của vật nuôi. 1.1. Khái niệm và phân loại ký sinh trùng 1.1.1. Khái niệm ký sinh trùng Ký sinh trùng là những sinh vật sống nhờ vào sinh vật khác đang sống, chiếm đoạt các chất dinh dưỡng của sinh vật đó để sống và phát triển. Ví dụ: giun đũa lợn (Ascaris suum), sán lá gan (F. hepatica), tiên mao trùng (Trypanosoma evansi)... là các ký sinh trùng. Trong hiện tượng ký sinh, con vật ký sinh (ký sinh trùng) nhỏ bé và yếu hơn rất nhiều so với con vật mà nó ký sinh. Vật ký sinh cần vật chủ phải sống để chiếm đoạt dinh dưỡng liên tục hoặc nhiều lần, đồng thời vật chủ là nơi cư trú thường xuyên hoặc tạm thời của vật ký sinh. 1.1.2. Phân loại ký sinh trùng Ký sinh trùng có nhiều chỗ cư trú và nhiều cách sống khác nhau. Vì vậy, có thể phân loại ký sinh trùng theo một số căn cứ sau: * Theo nguồn gốc: chia thành 2 loại: - Ký sinh trùng động vật. - Ký sinh trùng thực vật. * Theo chỗ cư trú của ký sinh trùng: chia thành 2 loại: - Ngoại ký sinh trùng (Epizoa): là những ký sinh trùng ký sinh ở mặt ngoài cơ thể. Ví dụ: ve, ghẻ, rận.... - Nội ký sinh trùng (Entozoa): là những ký sinh trùng ký sinh ở trong cơ thể Ví dụ: các ký sinh trùng ở đường tiêu hoá, đường hô hấp.... * Theo cách sống của ký sinh trùng: chia thành 3 loại: - Ký sinh trùng bắt buộc (Obligatus): là những ký sinh trùng bắt buộc phải sống ký sinh vào một cá thể khác, chúng không thể sống đư ợc nếu rời khỏi ký chủ. Ví dụ: giun, sán, ghẻ, rận.... - Ký sinh trùng tuỳ nghi (Facultas): là những ký sinh trùng có thể sống tự do ở ngoại cảnh, chỉ ký sinh ở vật chủ khi đói. 7
  9. Ví dụ: các côn trùng hút máu có cánh. - Ký sinh trùng ngẫu nhiên ( Facultas): loại này thường sống tự do, nhưng cũng có thể sống nhờ một ký chủ nếu bất ngờ xâm tập ký chủ đó. Ví dụ: đỉa, vắt.... Nếu ký sinh trùng ngẫu nhiên vào một ký chủ khác ký chủ bình thường của nó thì gọi là ký sinh trùng lạc chủ. * Theo đời sống ký sinh: chia thành 2 loại: - Ký sinh trùng vĩnh viễn ( Obligatus): là những ký sinh trùng cả đời ở ký chủ, không lúc nào rời ký chủ. Skrjabin K. I. và Schutz R. S. (1940) đã chia các ký sinh trùng này thành hai nhóm cơ bản theo đặc điểm quan hệ với môi trường bên ngo ài. + Ký sinh trùng cố định: tất cả các giai đoạn phát triển của ký sinh trùng đều hoàn thành trong cơ thể ký chủ ( ví dụ: giun tròn Trichinella spiralis không bao giờ gặp nó ở ngoài cơ thể và chỉ truyền trực tiếp khi có con vật khác ăn thịt con vật mang ký sinh trùng). + Ký sinh trùng định kỳ: một số giai đoạn phát triển nhất định phải hoàn thành ở môi trường bên ngoài ( ví dụ: giun đũa, sán lá...). - Ký sinh trùng tạm thời: những ký sinh trùng này phát triển từ trứng đến giai đoạn trưởng thành đều ở ngoại c ảnh, chúng xâm nhập vào ký chủ cốt là để lấy thức ăn, sau khi ăn nó lại rời ký chủ và chỉ tìm đến ký chủ khi đói ( ví dụ: muỗi, đỉa...). * Theo bản chất của ký sinh trùng: chia thành 2 loại: - Ký sinh trùng chuyên loại: là những ký sinh trùng chỉ có thể ký sinh ở một loài vật hay một vài loài gần giống nhau về phương diện động vật học. Ví dụ: giun tròn Parascaris equorum chỉ ký sinh ở ngựa, lừa, la. - Ký sinh trùng phiếm loại: là những ký sinh trùng có thể ký sinh ở nhiều loài vật rất khác nhau (ví dụ: ve, ghẻ, tiên mao trùng...). 1.2. Khái niệm và phân loại ký chủ (vật chủ) 1.2.1. Khái niệm ký chủ Ký chủ là những sinh vật đang sống bị ký sinh trùng sống nhờ tạm thời hay lâu dài và bị chiếm đoạt chất dinh dưỡng. Ví dụ: lợn là ký chủ của giun đũa lợn ( Ascaris suum); trâu, bò là ký chủ của sán lá gan (Fasciola spp.). Ký chủ là môi trường ngoại cảnh quan trọng nhất của ký sinh trùng. Những yếu tố tự nhiên chỉ tác động được vào ký sinh trùng thông qua ký chủ. 1.2.2. Phân loại ký chủ Căn cứ vào đ ặc tính phát dục và thích ứng của ký sinh trùng đối với đời sống ký sinh mà có thể phân ký chủ thành những loại sau: - Ký chủ cuối cùng: là những sinh vật để ký sinh trùng sống nhờ và phát dục đến lúc thành thục về giới tính, có khả năng sinh sản được. 8
  10. Ví dụ: trâu, bò là ký chủ cuối cùng của sán lá gan ( Fasciola spp.). - Ký chủ trung gian Ký chủ trung gian là những sinh vật để ký sinh trùng sống nhờ và phát dục trong giai đoạn ấu trùng. Ví dụ: lợn là ký chủ trung gian của sán dây Taenia solium; ốc Limnaea là ký chủ trung gian của sán lá gan (Fasciola spp.). - Ký chủ trung gian bổ sung (ký chủ trung gian 2) Trong quá trình phát dục, ấu trùng đã qua giai đoạn ở ký chủ trung gian thứ nhất nhưng vẫn cần một ký chủ trung gian thứ hai để hoàn thành sự phát dục của ấu trùng. Ký chủ trung gian thứ hai này gọi là ký chủ trung gian bổ sung. Ví dụ: sán dây Diphyllobothrium latum có các ký chủ sau: + Ký chủ cuối cùng: người, chó, mèo. + Ký chủ trung gian: bọ nước. + Ký chủ trung gian bổ sung: cá. - Ký chủ chuyên tính Ký chủ chuyên tính là ký chủ được ký sinh trùng chọn lọc chặt chẽ để ký sinh. Ví dụ: người là ký chủ chuyên tính của sán dây Taeniarhynchus saginatus; bê, nghé là ký chủ chuyên tính của giun đũa Neoascaris vitulorum. - Ký chủ dự trữ Ấu trùng của ký sinh trùng trước khi vào cơ thể ký chủ cuối cùng lại vào một sinh vật khác và không tiếp tục phát triển được nữa. Sinh vật khác này được gọi là ký chủ dự trữ. Ký chủ cuối cùng nuốt ký chủ dự trữ sẽ bị nhiễm ký sinh trùng. Ví dụ: giun Syngamus trachea ký sinh ở khí quản gà. Nếu trứng có sức gây bệnh của giun này bị động vật chân đốt hoặc giun đất nuốt thì ấu trùng nở ra, qua đường tiêu hoá vào tổ chức cơ của ký chủ dự trữ và không tiếp tục phát triển được nữa. Nếu gà nuốt ký chủ dự trữ sẽ bị bệnh. - Ký chủ đường cùng Ấu trùng của ký sinh trùng có thể vào cơ thể sinh vật không phải là vật chủ thích hợp của nó để phát dục thời kỳ đầu, nhưng sau một thời gian thì bị chết vì không thích nghi được với sinh vật này. Sinh vật này gọi là ký chủ đường cùng. Ví dụ: giun tròn Strongyloidea ký sinh ở đường tiêu hoá ngựa, ấu trùng giun chui vào da người thì sau một thời gian ngắn sẽ bị chết vì không thích nghi được. 2. ĐẶC ĐIỂM ĐỜI SỐNG KÝ SINH CỦA KÝ SINH TRÙNG Ký sinh trùng là những sinh vật nên có những đặc điểm chung của sinh vật, đồng thời cũng có những đặc điểm riêng của ký sinh trùng. Để tồn tại và phát triển, ký sinh trùng phải có những đặc điểm sống thích nghi với phương thức sống ký sinh của chúng. Các đặc điểm của đời sống ký sinh trình bày dưới đ ây thể hiện rõ nét sự thích nghi của ký sinh trùng. 2.1. Đặc điểm về hình thái và kích thước 2.1.1. Đặc điểm hình thái Hình thái của ký sinh trùng rất đa dạng. Tuỳ từng loài mà ký sinh trùng có hình thái riêng. Những ký sinh trùng đơn bào thì hình thể như một tế bào nhưng 9
  11. không thuần nhất: có loài hình dạng tương đối tròn như cầu trùng, có loài hình thoi như trùng roi đường máu, giun tròn có hình ống, sán lá có hình lá, côn trùng có chân và cánh.... Ký sinh trùng có những giai đoạn phát triển khác nhau. Ở các giai đoạn phát triển khác nhau, ký sinh trùng có hình thái khác nhau. Sự khác nhau về hình thái ở các giai đoạn phát triển có thể đến mức khó nhận định. Ví dụ: ruồi, muỗi trưởng thành có chân và cánh, nhưng khi là ấu trùng ( dòi ruồi, bọ gậy muỗi) thì không có chân và cánh. 2.1.2. Đặc điểm về kích thước Ký sinh trùng có kích thước rất khác nhau, có loài có kích thước rất nhỏ ( ví dụ: Piroplasma spp. trưởng thành có kích thước 2 - 4 x 2 µm), trong khi có những loài có kích thước rất lớn (sán dây Moniezia spp. dài tới 4 - 5 m). Có những loài ký sinh trùng trong quá trình sống có sự thay đổi rất nhiều về kích thước (Ví dụ: sán lá, sán dây, giun tròn khi trưởng thành có kích thước lớn nhưng khi là ấu trùng thì rất nhỏ, phải dùng kính hiển vi mới quan sá t được). Có loài ký sinh trùng trong một thời gian rất ngắn của đời sống ký sinh cũng có thể thay đổi lớn về kích thước ( ví dụ: ve sau khi hút no máu, kích thước cơ thể có thể gấp 50 lần so với lúc đói). Đặc điểm kích thước của ký sinh trùng khác vi khuẩn ở chỗ: về kích thước, vi khuẩn tương đối thuần nhất (đều phải dùng kính hiển vi mới quan sát được), còn ký sinh trùng thì tuỳ loài, tuỳ từng giai đoạn mà có thể thấy được bằng mắt thường hoặc kính hiển vi. 2.2. Đặc điểm về cấu tạo cơ thể của ký sinh trùng 2.2.1. Đặc điểm thoái hoá khí quan không cần thiết Là những sinh vật sống ký sinh, ký sinh trùng có cấu tạo cơ thể thích hợp cho đời sống của chúng. Do đời sống ký sinh, những khí quan của cơ thể không cần thiết đã bị thoái hoá hoặc mất đi hoàn toàn. Ví dụ: sán lá có ống tiêu hoá rất đơn giản; sán dây không có ống tiêu hoá; giun sán không có cơ quan vận động, không có thị giác, thính giác, khứu giác, không có hệ tuần hoàn và hô hấp. Nhìn chung, những khí quan không cần thiết cho đời sống ký sinh đều chịu những biến đổi thoái hoá hoặc bị loại trừ hoàn toàn. Nội ký sinh trùng có những biến đổi rõ nét và sâu sắc hơn nhiều so với ngoại ký sinh trùng. Ký sinh trùng tạm thời bị biến đổi ít, ký sinh trùng vĩnh viễn bị biến đổi nhiều hơn. 2.2.2. Đặc điểm tiến hoá, tạo ra những khí quan mới cần thiết Cũng do đời sống ký sinh, do nhu cầu tồn tại mà qua nhiều thế hệ, ký sinh trùng đã tạo ra và hoàn chỉnh những khí quan đặc biệt, giúp cho đời sống ăn bám của chúng được thuận lợi. Những khí quan này giúp ký sinh trùng dễ dàng tìm 10
  12. đến ký chủ, bám vào ký chủ, chiếm dinh dưỡng của ký chủ, sinh sản dễ dàng trên ký chủ hoặc ở ngoại cảnh. Trước kia người ta cho rằng, ký sinh trùng tìm được ký chủ là nhờ hướng tính đặc biệt. Trên cơ sở thuyết hướng tính, người ta đã phân biệt các loại hướng tính khác nhau: hoá hướng tính, lý hướng tính, nhiệt hướng tính, điện hướng tính, quang hướng tính. Với những nghiên cứu sâu hơn, Skrjabin K. I. và Frosmann (1963) cho biết, ký sinh trùng và những sinh vật hạ đẳng có những khí quan riêng gọi là phân tích quan. Chính phân tích quan đã giúp ký sinh trùng tìm được ký chủ cần thiết và tạo cho ký sinh trùng có kiểu sống riêng thích hợp trên ký chủ. Ví dụ: có ấu trùng ký sinh trùng chui sâu vào đất (trước kia gọi là địa hướng tính) hoặc di chuyển xa những chất độc hại đối với chúng (trước kia gọi là hoá hướng tính âm) thì cũng chỉ là do ký sinh trùng nhờ vào phân tích quan mà đã có cảm giác đặc biệt, dẫn tới những phản xạ thích hợp. Cũng nhờ có phân tích quan mà ký sinh trùng đực và cái có thể dễ dàng tìm gặp nhau để giao phối. Hiện nay, nhờ có những nghiên cứu về phân tích quan của ký sinh trùng mà người ta có thể xua đuổi ký sinh trùng bằng cách đánh lạc hướng và làm mất tác dụng của phân tích quan. Ví dụ: dùng các loại tinh dầu có mùi thơm đặc biệt để xua đuổi muỗi tránh xa người. Sau khi đã tìm được ký chủ, ký sinh trùng cần bám chắc vào ký chủ để lấy thức ăn, vì vậy các khí quan bám (các giác bám, móc bám) (còn gọi là các cơ quan cố định) phát triển mạnh và . Giác bám là những chỗ lõm hì nh hơi tròn hoặc bầu dục, hoặc hình bán nguyệt, được cấu tạo bằng hệ thống cơ vòng và cơ t ỏa. Khi những thớ cơ này co lại , giác bám của ký sinh trùng mút vào hõm của một nụ thịt (mô thắt đáy), nhờ vậy ký sinh trùng bám chắc được vào ký chủ. Ví dụ: sán lá Fasciola spp. có 2 giác bám, sán dây Moniezia spp. có 4 giác bám. Móc bám phát triển ở nhiều loài ký sinh trùng (ví dụ: sán dây Taenia solium có 2 hàng móc gồm 22 - 44 móc). Móc được cấu tạo bằng chất kitin hoặc sừng, phân bố ở trên mõm hoặc đỉnh đầu. Móc l à khí quan đặc biệt của ký sinh trùng để có thể đâm và cắm sâu vào tổ chức của ký chủ như một lưỡi câu vì móc thường cong về phía sau. Ví dụ: chân muỗi nhờ có những móng bám nên có thể bám chắc vào ký chủ để hút máu, mặc dù ký chủ cố gắng di động và co rút cơ để xua đuổi chúng. Giun sán ở trong ruột ký chủ tuy thường xuyên bị nhu động ruột đe dọa tống ra ngoài, nhưng nhờ có những khí quan đặc biệt nên vẫn có thể bám chắc vào vị trí ký sinh. Khi đã bám được vào ký chủ, do ký sinh trùng cần chiếm đoạt dinh dư ỡng của ký chủ nên các khí quan đặc biệt được hoàn thiện. Ví dụ: vòi muỗi có cấu tạo rất tinh vi để có thể thọc vào da ký chủ (mặc dù da nhiều loài ký chủ rất dày và cứng). Muỗi còn tiết ra chất chống đông máu để tránh máu đông lại làm tắc vòi 11
  13. hút. Giun móc cũng có tuyến tiết chất chống đông máu (thuộc nhóm heparin) làm cho máu không đông và hút được dễ dàng. Để duy trì nòi giống trong điều kiện con người luôn tìm cách chống lại chúng, ký sinh trùng đã tạo ra và hoàn thiện các khí quan giúp cho việc sinh sả n được dễ dàng trong những hoàn cảnh khó khăn. Ví dụ: muỗi phải giao phối trong khi bay, nên muỗi đực ngoài bộ phận dương vật còn có càng bám để giữ chắc muỗi cái. Muỗi cái vì số lần gặp muỗi đực rất ít nên nó có túi chứa và dưỡng tinh để thụ tinh cho những lứa trứng tiếp theo. 2.3. Đặc điểm sinh sản của ký sinh trùng Ký sinh trùng có những đặc điểm sinh sản sau: - Sinh sản vô tính: Là hình thức sinh sản đơn giản nhất. Ví dụ: các ký sinh trùng đường máu sinh sản theo hình thức này (tiên mao trùng, lê dạng trùng...). - Sinh sản hữu tính: Đối với những ký sinh trùng lưỡng tính (sán lá, sán dây): có thể tự giao phối giữa bộ phận sinh dục đực và bộ phận sinh dục cái trên cùng một cá thể, hoặc có thể giao phối chéo giữa hai cá thể. Tuy nhiên, khi có từ 2 cá thể trở lên, ký sinh trùng lưỡng tính thường giao phối chéo giữa cá thể này với cá thể khác. Đối với những ký sinh trùng đơn tính (nhiều loài giun tròn, động vật chân đốt): sinh sản theo hình thức con đực và con cái giao phối với nhau. Tuỳ loài ký sinh trùng mà bằng hình thức sinh sản hữu tính sẽ đẻ ra trứng (ví dụ: giun đũa), hoặc đẻ ra ấu trùng (ví dụ: giun bao), có khi rất khó nhận định là trứng hay ấu trùng (ví dụ: giun chỉ đẻ ra trứng, trong có ấu trùng, khi ấu trùng cử động, do vỏ trứng rất mỏng nên vỏ trứng giãn ra theo hình thể ấu trùng). - Phôi tự sinh: Đây là hình thức sinh sản đặc biệt của ký sinh trùng. Có những loài ký sinh trùng chỉ sinh sản ở giai đoạn trưởng thành, nhưng có những loài ký sinh trùng còn có khả năng sinh sản ở giai đoạn ấu trù ng. Đó là hình thức phôi tự sinh. Ví dụ: ấu trùng sán lá có dạng bọc, bên trong bọc sinh ra nhiều tế bào phôi. Từ một ấu trùng sán lá ở giai đoạn tiền ấu trùng có thể sinh sản ra nhiều ấu trùng (khi sống trong ký chủ trung gian). Do hình thức sinh sản phon g phú mà ký sinh trùng sinh sản nhanh, nhiều và dễ dàng. Ví dụ: một con sán dây Taenia saginata có thể đẻ 150 triệu trứng một năm, giun đũa lợn đẻ 200.000 trứng mỗi ngày (Cram, 1925). 2.4. Đặc điểm sống của ký sinh trùng 2.4.1. Đặc điểm môi trường sống Môi trường sống của ký sinh trùng là cơ thể vật chủ mà nó ký sinh và ngoại cảnh mà nó chịu tác động gián tiếp thông qua vật chủ. Ngoại cảnh cũng là môi trường tác động trực tiếp đến ký sinh trùng khi nó ở giai đoạn là trứng hoặc ấu trùng. 12
  14. Để sống và phát triển, ký sinh trùng cần có môi trường sống thích hợp về nhiệt độ, độ ẩm, đất đai, độ cao cách mặt biển.... Mức độ thích hợp có thể co giãn, có những biên độ nhất định. * Các loại môi trường sống của ký sinh trùng Có thể phân ra 2 loại môi trường sống của ký sinh trùng: - Môi trường sống tối thuận: là môi trường mà ở đó ký sinh trùng có những điều kiện thuận lợi nhất, tốt nhất để sống và phát triển. - Môi trường sống tối thiểu: là môi trường mà ở đó ký sinh trùng có những điều kiện thấp nhất để duy trì sự s ống, nếu điều kiện sống thấp hơn thì ký sinh trùng không thể sống nổi. Ví dụ: ấu trùng Miracidium của sán lá Fasciola spp. sống ở môi trường tự nhiên có nhiệt độ thích hợp nhất là 22 - 230C, nhiệt độ để nó tồn tại biến động từ 150C đến 30 0C. Nếu nhiệt độ thấp hơn 15 0C hoặc cao hơn 30 0C thì ấu trùng này không thể sống được. Ấu trùng này đòi hỏi pH của nước mà nó đang sống là 5 - 7,7; pH thích hợp nhất cho ấu trùng phát triển là 6 - 7. Nếu pH thấp hơn 5 và cao hơn 7,7 thì ấu trùng bị chết. * Ảnh hưởng của mô i trường ngoại cảnh đến ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng Môi trường tự nhiên bao gồm nhiều yếu tố: khí hậu, thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng), đất đai, sông hồ, độ cao cách mặt biển. Môi tr ường tự nhiên không thể không có những biến động: thời tiết luôn thay đổi, các chất luôn chuyển hoá. Ngoài những thay đổi tự nhiên còn có những thay đổi do con người tác động ( ví dụ: con người phát quang cây cỏ, khơi thông cống rãnh...). Những thay đổi này tác động rõ rệt đến ký sinh trùng và tạo nên sự biến động c ủa ký sinh trùng theo môi trường. Cũng vì vậy mà có sự biến động của ký sinh trùng theo mùa. Ví dụ: ở Việt Nam ruồi, muỗi phát triển chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 9 là những tháng nóng ẩm thích hợp với ruồi muỗi; bọ chét lại phát triển chủ yếu từ tháng 10 đến tháng 4 là những tháng mát, lạnh và khô ráo , thích hợp với bọ chét. Điều kiện khí hậu, nhất là nhiệt độ và độ ẩm có ảnh hưởng đến khu hệ ký sinh trùng. Sự thay đổi nhiệt độ và độ ẩm của môi trường làm cho khu hệ ký sinh trùng thay đổi. Điều này dễ hiểu bởi ký sinh trùng và ký chủ trung gian của chúng yêu cầu điều kiện nhiệt độ và độ ẩm nhất định để sống và phát triển. Nếu môi trường không có những thay đổi đáng kể thì sự biến động của ký sinh trùng không rõ rệt. Nói chung, yếu tố môi trường ngoại cảnh k hông những có thể quyết định sự có mặt của một ký sinh trùng nào đó mà còn quyết định mức độ, khả năng hoạt động và phát tán của ký sinh trùng. 13
  15. Ví dụ: sán lá trong nhiều giai đoạn sống (khi là trứng, ấu trùng) cần phải có môi trường nước để sống. Vì vậy, n hững vùng hoàn toàn khô cạn thì không có sán lá và bệnh sán lá. Những vùng ít nước có ít bệnh, những vùng nước nhiều thì bệnh sán lá phát triển. * Ảnh hưởng của môi trường trực tiếp (ký chủ) đến ký sinh trùng Mọi cơ quan, mọi nơi trong cơ thể động vật đều có ký sinh trùng ký sinh. Giun sán thường tập trung sống ký sinh ở đường tiêu hoá, ký sinh trùng đơn bào thường sống trong máu hoặc trong đường tiêu hoá của động vật. Mỗi loài ký sinh trùng có một nơi ký sinh thích hợp, nhưng cũng có những loài ký sinh ở n hiều nơi khác nhau (ví dụ: ấu trùng sán dây Echinococcus). Về môi trường ký chủ, trong cùng loài ký chủ thì con non nhiễm ký sinh trùng thường nhiều hơn con trưởng thành. Những con vật ốm yếu, suy dinh dưỡng nhiễm nặng hơn những con đủ dinh dưỡng và khoẻ m ạnh. Trong các cơ quan của vật chủ, cơ quan tiêu hoá (ruột, dạ dày, gan), máu, da là những nơi ký sinh trùng thường ký sinh nhiều hơn. Cơ quan sinh dục thường ít có ký sinh trùng ký sinh hơn. * Tính thích nghi của ký sinh trùng với môi trường sống Yếu tố môi trường tuy có tác động lớn đến toàn bộ sự sống, sự hoạt động của ký sinh trùng, nhưng cũng cần phải xét đến sự thích nghi của ký sinh trùng đối với môi trường. Là những sinh vật, qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau, ký sinh trùng dần dần hình thành sự thích nghi với môi trường sống không hoàn toàn thích hợp. Sự thích nghi này dựa vào đặc tính biến dị và di truyền của sinh vật, có thể tạo thành những kiểu sống mới cho ký sinh trùng. Ví dụ: muỗi sống hoang dại trở thành bán thuần dưỡng rồi vào hẳn nhà ở với con người và trở thành thuần dưỡng. Nếu bị con người xua đuổi thì muỗi lại ra ngoài sống bán thuần dưỡng hoặc hoang dại... tạo thành một vòng thích nghi luẩn quẩn (thấy rất rõ ở các vùng diệt muỗi chống bệnh sốt rét). Nhìn chung, ký sinh trùng có thể thích nghi với hoàn cảnh môi trường. Nếu sự thích nghi đó được tiến hành qua nhiều thế hệ thì có thể trở thành bản chất sinh thái của ký sinh trùng. Những yếu tố phụ thuộc của ký sinh trùng đối với môi trường cần quan niệm là những yếu tố tác động đến hiện tượng s ống. Yếu tố này luôn thay đổi chứ không phải là bất di bất dịch. Do đó, việc cải tạo môi trường là hết sức cần thiết để khống chế ký sinh trùng. Nhưng mặt khác, vì quá trình khống chế là một quá trình kéo dài song song với quá trình cải tạo môi trường, nên cũng phải tính đến ký sinh trùng có thể thích nghi và từ đó cần có những đối phó kịp thời với sự thích nghi mới của ký sinh trùng. Nói cách khác, sự đối phó với ký sinh trùng bằng biện pháp cải tạo môi trường phải thường xuyên, kịp thời và lâu dài để phá vỡ tính thích nghi của ký sinh trùng với môi trường sống. Yếu tố môi trường tuy là yếu tố quyết định, nhưng không phải là duy nhất, vì đặc điểm sống của ký sinh trùng còn phụ thuộc vào chu kỳ của bản thân nó, phụ thuộc vào yếu tố ký chủ. 14
  16. 2.4.2. Yếu tố chu kỳ phát triển (vòng đời) của ký sinh trùng * Chu kỳ phát triển của ký sinh trùng là gì? Toàn bộ quá trình phát triển, thay đổi qua những giai đoạn khác nhau của đời sống ký sinh trùng, kể từ khi là mầm sinh vật đầu tiên, cho đến khi lại sản sinh ra mầm sinh vật mới, tạo ra một thế hệ mới được gọi là chu kỳ. Ví dụ: Chu kỳ phát triển của ruồi: Ruồi Trứng Dòi Nhộng Quan niệm về chu kỳ phải là không gián đoạn, hình dung như là một đường tròn không có điểm mở đầu và không có điểm kết thúc. D o quan niệm này nên mới có danh từ chu kỳ (chu nghĩa là vòng tròn) hoặc vòng đời. Khi nói đến chu kỳ của một ký sinh trùng nào đó, ta có thể mô tả từ giai đoạn nào cũng được. Nhưng do thói quen theo một trình tự nhất định mà người ta thường mô tả chu kỳ bắ t đầu từ mầm sinh vật đầu tiê n (ký sinh trùng trưởng thành). * Các kiểu chu kỳ Chu kỳ của ký sinh trùng hoặc thực hiện trên cơ thể ký chủ, hoặc thực hiện ở môi trường tự nhiên. Nếu lấy môi trường ký chủ làm trung tâm thì môi trường tự nhiên thường được gọi là ngoại cảnh hoặc ngoại giới. Chu kỳ phát triển của ký sinh trùng gồm những kiểu sau: - Có những ký sinh trùng mà chu kỳ của chúng hoàn toàn thực hiện ở ngoại cảnh, không cần tới ký chủ. Đó là chu kỳ của những ngoại ký sinh trùng như ruồi, muỗi (tuy có lúc sống ký sinh vào ký chủ, nhưng không cần sống bám vào ký chủ mới thực hiện được chu kỳ toàn vẹn). - Một số ký sinh trùng khác có chu kỳ thực hiện lúc ở ngoại cảnh, lúc ở ký chủ. Ví dụ: chu kỳ của các sán lá. - Một số ký sinh trùng có chu kỳ thực hiện ho àn toàn trên ký chủ mà không cần đến ngoại cảnh mới thực hiện được chu kỳ. Ví dụ: chu kỳ của giun bao, của các huyết bào tử trùng. Như vậy, có ký sinh trùng có kiểu chu kỳ đơn giản, có ký sinh trùng có kiểu chu kỳ phức tạp. Tính đơn giản hoặc phức tạp của chu kỳ ảnh hưởng tới mức độ phát triển ký sinh trùng và liên quan đến mức độ phổ biến của bệnh do ký sinh trùng đó gây ra. Những ký sinh trùng có chu kỳ phức tạp thường khó tồn tại và phát triển, vì chu kỳ có nhiều khâu, và chỉ cần một khâu không thực hiện được hoặc bị phá vỡ là chu kỳ không thực hiện được. Những ký sinh trùng có chu kỳ đơn giản sẽ dễ thực hiện được chu kỳ toàn vẹn, chúng không những dễ tồn tại mà cũng dễ phát triển và nhiễm vào ký chủ để gây bệnh. Vì ký sinh trùng có nhiều kiểu chu kỳ nên biện pháp phá vỡ chu kỳ của ký sinh trùng cũng có nhiều hình thức khác nhau: hoặc cắt đứt khâu ký sinh trùng từ 15
  17. ký chủ ra ngoại cảnh, hoặc từ ngoại cảnh vào ký chủ, hoặc diệt ký sinh trùng ở ký chủ bằng cách dùng hoá dược điều trị. Chu kỳ có những quy luật nhất định, các giai đoạn phải tuần tự kế tiếp nhau, nhưng vì còn phụ thuộc vào yếu tố môi trường nên thời gian hoàn thành một chu kỳ không thể cố định được. Ở điều kiện thuận lợi, tốc độ hoàn thành chu kỳ sẽ nhanh hơn so với ở môi trường không thuận lợi. Ví dụ: ve Boophilus cần 1 - 1,5 tháng vào mùa nóng, ẩm để hoàn thành chu kỳ, còn vào mùa lạnh thì phải trên 3 tháng. 2.4.3. Yếu tố ký chủ Ký chủ là yếu tố không thể tách rời ký sinh trùng. Có 3 kiểu quan hệ giữa ký sinh trùng và ký chủ: - Ký sinh trùng chỉ ở ký chủ và do tiếp xúc mà sang một ký chủ khác. Ví dụ: ghẻ, rận chỉ sống ký sinh trên ký chủ, ký chủ khác nhiễm ghẻ, rận do ti ếp xúc với con vật bị bệnh. - Ký sinh trùng sống ở ký chủ cuối cùng, thải mầm bệnh ra ngoại cảnh, nhưng sau đó phải qua giai đoạn ở một hoặc hai ký chủ trung gian rồi mới trở lại ký chủ cuối cùng. Ví dụ: sán lá gan, giun phổi lợn. - Ký sinh trùng ở ký chủ và từ ký chủ được đưa vào vật môi giới truyền bệnh, sau đó vật môi giới này lại truyền ký sinh trùng vào một ký chủ khác . Ví dụ: ký sinh trùng đường máu, giun chỉ. Như v ký sinh trùng gây bệnh không thể thiếu được yếu tố ký chủ (gồm ậy, có ký chủ cuối cùng, ký chủ trung gian). Từ sự quan hệ khăng khít của ký sinh trùng với ký chủ, có thể rút ra những nhận xét sau: + Nếu thiếu ký chủ thì ký sinh trùng không hoàn thành được chu kỳ phát triển. + Nếu không có ký chủ thích hợp thì ký sinh trùng chết hoặc có trường hợp có thể sống được một thời gian ngắn và gây một số tác hại, sau đó chết. Ví dụ: ấu trùng của sán dây Diphyllobothrium mansoni ký sinh ở nhái. Nếu rắn ăn nhái sẽ bị bệnh sán dây trưởng thành. Nhưng khi người là ký chủ không thích hợp ăn thịt ếch nhái có ấu trùng chưa được nấu chín hoặc đắp thịt ếch nhái vào mắt (chữa đau mắt theo tập quán sai lầm cũ) thì ấu trùng sẽ không thành sán dây trưởng thành mà vẫn tiếp tục sống dưới dạng ấu trùng, tạo nên những u sán ở dạ dày hoặc ở mắt của người (trong u sán có ấu trùng sán dây) . Khi ký sinh trùng sống trong ký chủ không thích hợp có thể gây nên những trường hợp bệnh đặc biệt , thường gọi là những bệnh do ký sinh trùng lạc chủ. + Ký sinh trùng sau khi vào ký chủ phải tìm đến vị trí ký sinh thích hợp để ký sinh. Mỗi ký sinh trùng có vị trí ký sinh nhất định trong cơ thể. Những trường hợp ký sinh trùng ký sinh ở các vị trí khác đ ược gọi là ký sinh trùng lạc chỗ (hoặc ký sinh trùng di cư). Hiện tượng di cư xảy ra do nhiều yếu tố khác nhau. Những yếu tố chủ yếu là do ký sinh trùng thay đổi sinh thái, hoặc do cơ thể ký 16
  18. chủ có những thay đổi lý hoá tại chỗ ký sinh trùng ký sinh. Sự di cư của ký sinh trùng có thể gây ra những triệu chứng rất bất thường. Ví dụ: trường hợp giun chui ống mật gây nên triệu chứng đau bụng dữ dội ở người và gia súc . + Trước khi ký sinh trùng ký sinh cố định tại một vị trí, có nhiều loài ký sinh trùng có hiện tượng đi qua một số nơi trong cơ thể. Ví dụ: giun đũa lợn, giun lươn, giun phổi.... Sự chủ động đi quan các cơ quan, các mô để đến được nơi cư trú lâu dài, được Skrjabin K. I. và Petrov A. M. (1963) gọi là sự di chuyển (migration). . Đường di chuyển mà tro ng đó giun sán đi qua hệ thống nội tạng vào gan, qua tĩnh mạch chủ và tim vào vòng tiểu tuần hoàn, phổi rồi về ruột, Skrjabin K. I. và Petrov A. M. (1963) gọi là vòng di chuyển gan - phổi - ruột. . Đường di chuyển mà trong đó giun sán đi từ ruột qua hệ bạc h huyết, tuyến bạch huyết, rồi qua tĩnh mạch chủ, qua tim vào vòng tiểu tuần hoàn phổi và lại vào đường tiêu hoá, Skrjabin K. I. và Petrov A. M. (1963) gọi là vòng di chuyển limphô - phổi - ruột. . Một trong số những kiểu di chuyển thường gặp là giun sán d ừng lại ở phổi, sống trong nhu mô hay trong đường hô hấp (khí quản, phế quản) , được gọi là vòng di chuyển limphô - phổi . . Sự di chuyển theo đường limphô - phổi nhưng dừng lại ở tim hay động mạch chủ gọi là vòng di chuyển limphô - tim. . Đôi khi giun sán không những di chuyển qua vòng tiểu tuần hoàn, mà còn qua cả vòng đại tuần hoàn. Sự di chuyển qua tiểu và đại tuần hoàn được gọi là di chuyển đại tuần hoàn, căn cứ vào giai đoạn đầu chúng qua đường limphô hay qua gan mà được gọi là vòng di chuyển gan - đại tuần hoàn , hay limphô - đại tuần hoàn . . Sự di chuyển tự do trong cơ thể ký chủ được gọi là vòng di chuyển nội tạng - toàn thân. + Đường xâm nhập của ký sinh trùng vào cơ thể ký chủ thay đổi tuỳ loài ký sinh trùng. Đa số giun sán xâm nhập qua đường tiêu ho á. Một số xâm nhập qua da (giun chỉ, sán máng, giun lươn...). Một số ký sinh trùng có thể có nhiều đường xâm nhập. Ví dụ: ấu trùng giun lươn, giun móc có thể xâm nhập qua da hoặc qua đường tiêu hoá của ký chủ. + Ký sinh trùng có một hoặc nhiều ký chủ thích hợp. Ví dụ: muỗi, ghẻ, tiên mao trùng có thể ký sinh ở nhiều loài ký chủ khác nhau. Những ký sinh trùng có thể lấy dinh dưỡng ở nhiều loài ký chủ khác nhau được gọi là những ký sinh trùng tạp thực. Tính "tạp thực" của một số ký sinh trùng làm cho bệnh ký sinh trùng có thể truyền từ súc vật sang người hoặc ngược lại từ người sang súc vật. Ví dụ: giun bao (Trichinella spiralis) ký sinh ở lợn có thể truyền sang người do người ăn thịt lợn sống có ấu trùng giun này. 17
  19. 3. ẢNH HƯỞNG QUA LẠI GIỮA KÝ SINH TRÙNG VÀ KÝ CHỦ Từ khái niệm "hiện tượng ký sinh" , chúng ta thấy rằng, rõ ràng quan hệ giữa ký sinh trùng và ký chủ là mối quan hệ rất phức tạp giữa hai sinh vật sống. Tính phức tạp thể hiện ở những tác động có hại của ký sinh trùng gây ra cho ký chủ, đồng thời ký ch ủ cũng có những phản ứng trở lại, nhằm ngăn chặn tác động của ký sinh trùng. 3.1. Tác động của ký sinh trùng đến ký chủ Tác động này phụ thuộc vào số lượng và độc lực của ký sinh trùng, sức chống đỡ của cơ thể ký chủ, giai đoạn phát dục của ký sinh tr ùng. Tác động của ký sinh trùng đối với ký chủ gồm nhiều mặt: - Tác động cơ giới: Hầu hết các ký sinh trùng đều gây nên những biến loạn cơ giới, ngăn trở ít nhiều chức năng của các khí quan mà nó xâm nhập; hoặc làm tắc; hoặc chèn ép và phá hoại các tổ chứ c; hoặc làm thủng, làm rách; hoặc do các khí quan bám hút của ký sinh trùng làm tróc niêm mạc, gây xuất huyết. Thường thấy hậu quả của tác động này là gây viêm cấp tính, thứ cấp tính, mạn tính. Viêm dẫn tới sản sinh một cái vỏ bằng tổ chức liên kết bọc lấy ký sinh trùng, cái vỏ và ký sinh trùng bọc bên trong khi chết đi biến thành một cái hạt, trong hạt có hiện tượng vôi hoá. - Tác động chiếm đoạt chất dinh dưỡng: Ký sinh trùng tự nuôi dưỡng bằng ăn tổ chức của ký chủ, chiếm đoạt một phần thức ăn của ký chủ đã tiêu hoá, hoặc hút máu ký chủ. Tác động này tiếp diễn liên tục bởi rất nhiều ký sinh trùng, gây nên tổn hại rất to lớn cho ký chủ (thiếu máu, gầy rạc ...). - Tác động đầu độc Độc tố của ký sinh trùng gồm tất cả những sản phẩm cuối cùng của quá trình trao đổi chất của ký sinh trùng, nội và ngoại độc tố do ký sinh trùng tiết ra. Ký sinh trùng bài tiết các chất độc hàng ngày, ký chủ hấp thụ chất độc, sinh ra những biến loạn khác nhau, nhưng thường thấy nhất là biến loạn thần kinh (co giật, bại liệt...) , và tuần hoàn (gây dung huyết, bần huyết). Độc tố còn làm tê liệt các tế bào thực bào của ký chủ. Nói chung, chất độc do ấu trùng sinh ra mạnh hơn chất độc do ký sinh trùng trưởng thành sinh ra. - Tác động truyền bệnh Một số loài chân đốt đốt súc vật , làm con vật khó chịu, có thể bị viêm da, nhưng điều này không nguy hiểm. Điều nguy hiểm là khi hút máu ký chủ, chúng truyền những bệnh có thể thành dịch lưu hành giết hại nhiều súc vật. Ví dụ: muỗi truyền bệnh sốt rét và bệnh sốt vàng ở người, ve truyền bệnh lê dạng trùng, bọ chét truyền bệnh dịch hạch, ruồi Glossina truyền bệnh trùng roi, côn trùng hút máu truyền bệnh nhiệt thán ... Ngoài ra, giun sán bám vào niêm mạc gây thương tích cũng phá vỡ phòng tuyến thượng bì, mở đường cho các vi khuẩn trong môi trường chún g sống (ruột) xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn sẽ gây nên một bệnh ghép với bệnh ký sinh trùng. Ký sinh trùng và vi trùng thường kết hợp 18
  20. làm tổn hại thêm cho ký chủ, tạo thành vòng xoắn bệnh lý với diễn biến phức tạp, làm cho biểu hiện lâm sàng thêm trầm trọn g. 3.2. Phản ứng của ký chủ đối với ký sinh trùng Loài ký chủ có thể gây ảnh hưởng đến sự sinh trư ởng và phát dục của ký sinh trùng. Ví dụ: sán dây Bothriocephalus latus có thể dài hàng mấy mét ở người, trong khi chỉ dài 20 - 40 cm ở ruột mèo, tuy hìn h thái không thay đổi. Khi bị ký sinh trùng ký sinh, ký chủ luôn có phản ứng để làm giảm bớt tác hại do ký sinh trùng gây ra cho bản thân mình. Nói chung, cơ thể ký chủ phản ứng lại ký sinh trùng bằng ba loại phản ứng: phản ứng thực bào, phản ứng tế bào và phản ứng thể dịch. - Phản ứng thực bào: những tế bào di động của ký chủ tấn công ký sinh trùng và có thể tiêu diệt chúng bằng cơ năng thực bào. Nếu hiệu quả thực bào không đầy đủ thì sinh ra những phản ứng tế bào. - Phản ứng tế bào: phản ứng thường thấy n hất là viêm và tăng sinh bạch cầu Eosin. Những phản ứng khác là: tổ chức biến đổi, các tế bào nhiễm ký sinh trùng to lên hoặc phát triển quá mức, gây thành những ung; hoặc tế bào biến thành tế bào tổ chức liên kết, bao lấy ký sinh trùng, tạo thành nang (ké n). - Phản ứng thể dịch: xuất hiện kháng thể trong máu ký chủ, có thể gây cho ký chủ tính miễn dịch, hoặc trạng thái quá mẫn. Trạng thái quá mẫn do cơ thể, một khi đã chứa những độc tố quá mẫn (anaphylatoxin) do ký sinh trùng sinh ra thì trở nên nhạy cảm hơn với cùng ký sinh trùng ấy, do đó cơ thể có phản ứng rất mạnh với lần cảm nhiễm thứ hai. Ví dụ: trạng thái quá mẫn ở những con vật đã bị nhiễm giun đũa. 3.3. Tính cảm thụ của súc vật đối với bệnh ký sinh trùng Những yếu tố sau đây ảnh hưởng đến tín h cảm thụ đối với bệnh ký sinh trùng - Giống (dòng, nòi): có những giống cảm thụ ít hay nhiều với những ký sinh trùng nhất định. Trong một vùng thường có ký sinh trùng tồn tại và ký sinh thì ký sinh trùng gây tác hại ít hơn so với những vùng từ trước chưa có, những giống súc vật nhập nội cảm thụ hơn với bệnh đã có ở địa phương so với các giống súc vật địa phương ( ví dụ: bệnh lê dạng trùng thể hiện rất nặng ở đàn bò nhập nội, trong khi thể hiện nhẹ hơn nhiều ở đàn bò địa phương). - Tuổi và tính biệt: súc vật non bị ký sinh trùng đường ruột nhiều hơn súc vật trưởng thành (giun đũa, cầu trùng). Nói chung, sức đề kháng của súc vật non kém hơn súc vật trưởng thành. Tính biệt hình như không ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ và cường độ nhiễm ký sinh trùng. - Chế độ dinh dưỡng và chăm sóc nuôi dưỡng: dinh dưỡng thiếu, nhất là thiếu vitamin (A, C) và protein, chuồng chật chội, kém vệ sinh... là điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh bệnh ký sinh trùng. Thói quen ăn uốn g của súc vật (ăn phân, ăn sống) đã giúp cho sự xâm nh ập của một số ký sinh trùng vào vật chủ. Mùa chăn thả ngoài đồng cỏ dài hay ngắn cũng ảnh hưởng đến cường độ nhiễm ký sinh trùng. Trái lại, dinh dưỡng đầy đủ có thể làm cho bệnh ký sinh trùng phát nhẹ hay không phát ra, có thể làm cho tuổi thọ của ký sinh trùng giảm, thậm chí 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2