Giáo trình Luật thương mại (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
lượt xem 76
download
Phần 1 Giáo trình Luật thương mại gồm các chương: Chương 5 - Hoạt động thương mại, chương 6 - Pháp luật về phá sản, chương 7 - Giải quyết tranh chấp thương mại. Tham khảo nội dung giáo trình để nắm bắt nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Luật thương mại (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
- CHƯƠNG 5 HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI 1. MUA BÁN HÀNG HÓA 1.1. Khái niệm Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận. 1.2. Các quy định chung Về hình thức thì hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Theo Luật thương mại năm 2005, mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Tạm nhập, tái xuất hàng hóa là việc hàng hoá được đưa từ nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam. Tạm xuất, tái nhập hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam. Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu vào 81
- Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam. Chuyển khẩu hàng hóa được thực hiện theo các hình thức sau đây: (1) hàng hóa được vận chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu không qua cửa khẩu Việt Nam; (2) hàng hóa được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu có qua cửa khẩu Việt Nam nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam; (3) hàng hóa được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu có qua cửa khẩu Việt Nam và đưa vào kho ngoại quan, khu vực trung chuyển hàng hoá tại các cảng Việt Nam, không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam. 1.3. Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hoá theo những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng hoá với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai. Hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hoá bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn. Hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng. 3. Hợp đồng về quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là thỏa thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hóa xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua hoặc bán hàng hóa đó. Sở giao dịch hàng hoá có các chức năng sau đây: (1) cung cấp các điều kiện vật chất - kỹ thuật cần thiết để giao dịch mua bán hàng hoá; (2) điều hành các hoạt động giao dịch; (3) niêm yết các mức giá cụ thể hình thành trên thị trường giao dịch tại từng thời điểm. Các hành vi bị cấm trong hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa: - Nhân viên của Sở giao dịch hàng hoá không được phép môi giới, mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá. - Các bên liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá không được thực hiện các hành vi sau đây: 82
- Gian lận, lừa dối về khối lượng hàng hóa trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn được giao dịch hoặc có thể được giao dịch và gian lận, lừa dối về giá thực tế của loại hàng hoá trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn. Đưa tin sai lệch về các giao dịch, thị trường hoặc giá hàng hoá mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa. Dùng các biện pháp bất hợp pháp để gây rối loạn thị trường hàng hóa tại Sở giao dịch hàng hoá. Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật. 2. CUNG ỨNG DỊCH VỤ 2.1. Khái niệm Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. 2.2. Các quy định về cung ứng dịch vụ Hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Trừ trường hợp pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác, thương nhân có các quyền cung ứng dịch vụ sau đây: - Cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam. - Cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam. - Cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ nước ngoài. - Cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ nước ngoài. 83
- Thương nhân có các quyền sử dụng dịch vụ sau đây: - Sử dụng dịch vụ do người cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ Việt Nam. - Sử dụng dịch vụ do người không cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ Việt Nam. - Sử dụng dịch vụ do người cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ nước ngoài. - Sử dụng dịch vụ do người không cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ nước ngoài. 3. XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI 3.1. Khái niệm Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại. 3.2. Các hoạt động xúc tiến thương mại cụ thể 3.2.1. Khuyến mại Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Thương nhân thực hiện khuyến mại là thương nhân thuộc một trong các trường hợp sau: (1) thương nhân trực tiếp khuyến mại hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh; (2) thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác theo thỏa thuận với thương nhân đó. Kinh doanh dịch vụ khuyến mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác trên cơ sở hợp đồng. Các hình thức khuyến mại gồm có: - Đưa hàng hoá mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền. - Tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền. 84
- - Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông báo. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quản lý giá thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực hiện theo quy định của Chính phủ. - Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định. - Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố. - Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố. - Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, theo đó việc tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thể hiện dưới hình thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hoá, dịch vụ hoặc các hình thức khác. - Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại. - Các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận. Hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại là hàng hóa, dịch vụ được thương nhân sử dụng các hình thức khuyến mại để xúc tiến việc bán, cung ứng hàng hóa, dịch vụ đó. Hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp. Hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hoá, dịch vụ được thương nhân dùng để tặng, thưởng, cung ứng không thu tiền cho khách hàng. Hàng hoá, dịch vụ đó có thể là hàng hoá, dịch vụ mà thương nhân đó đang kinh doanh hoặc hàng hoá, dịch vụ khác. Và hàng hóa, dịch vụ được dùng để khuyến mại phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp. 85
- Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại: - Khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng. - Sử dụng hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng. - Khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18 tuổi. - Khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức. - Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng. - Khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức khoẻ con người và lợi ích công cộng khác. - Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân. - Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng. - Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. - Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại quá mức tối đa theo quy định tại khoản 4 Điều 94 của Luật thương mại năm 2005. 3.2.2. Quảng cáo thương mại Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình. Về quyền quảng cáo thương mại: Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài được phép hoạt động thương mại tại Việt Nam có quyền quảng cáo về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc quảng cáo thương mại cho mình. Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp thực hiện hoạt 86
- động quảng cáo thương mại. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, Văn phòng đại diện có quyền ký hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại để thực hiện quảng cáo cho thương nhân mà mình đại diện. Thương nhân nước ngoài muốn quảng cáo thương mại về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình tại Việt Nam phải thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại Việt Nam thực hiện. Kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại là hoạt động thương mại của thương nhân để thực hiện việc quảng cáo thương mại cho thương nhân khác. Sản phẩm quảng cáo thương mại gồm những thông tin bằng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa đựng nội dung quảng cáo thương mại. Phương tiện quảng cáo thương mại là công cụ được sử dụng để giới thiệu các sản phẩm quảng cáo thương mại. Phương tiện quảng cáo thương mại bao gồm: a) Các phương tiện thông tin đại chúng; b) Các phương tiện truyền tin; c) Các loại xuất bản phẩm; d) Các loại bảng, biển, băng, pa-nô, áp-phích, vật thể cố định, các phương tiện giao thông hoặc các vật thể di động khác; đ) Các phương tiện quảng cáo thương mại khác. Thương nhân có quyền đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quảng cáo thương mại theo quy định của pháp luật. Những quảng cáo thương mại sau bị cấm: - Quảng cáo làm tiết lộ bí mật nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. - Quảng cáo có sử dụng sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo trái với truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và trái với quy định của pháp luật. - Quảng cáo hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc cấm quảng cáo. - Quảng cáo thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên và các sản phẩm, hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng trên thị trường Việt Nam tại thời điểm quảng cáo. 87
- - Lợi dụng quảng cáo thương mại gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. - Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cùng loại của thương nhân khác. - Quảng cáo sai sự thật về một trong các nội dung số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, xuất xứ hàng hóa, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng hoá, dịch vụ. - Quảng cáo cho hoạt động kinh doanh của mình bằng cách sử dụng sản phẩm quảng cáo vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; sử dụng hình ảnh của tổ chức, cá nhân khác để quảng cáo khi chưa được tổ chức, cá nhân đó đồng ý. - Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của bên thuê và bên cung ứng dịch vụ quảng cáo thương mại quy định từ điều 111 đến điều 114 Luật thương mại năm 2005. 3.2.3. Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân dùng hàng hoá, dịch vụ và tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng hoá, dịch vụ đó. Về quyền trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ: Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ; lựa chọn các hình thức trưng bày, giới thiệu phù hợp; tự mình tổ chức hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ để trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ của mình. Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ của thương nhân do mình đại diện, trừ việc trưng bày, giới thiệu tại trụ sở của Văn phòng đại diện đó. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, Văn phòng đại diện có quyền ký hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ để thực hiện trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cho thương nhân mà mình đại diện. Thương nhân nước ngoài chưa được phép hoạt động thương mại tại Việt nam muốn trưng 88
- bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ của mình tại Việt Nam phải thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ Việt Nam thực hiện. Kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân thực hiện cung ứng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ cho thương nhân khác. Các hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ bao gồm: 1, Mở phòng trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ. 2, Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ tại các trung tâm thương mại hoặc trong các hoạt động giải trí, thể thao, văn hoá, nghệ thuật. 3, Tổ chức hội nghị, hội thảo có trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ. 4, Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ trên Internet và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Điều kiện đối với hàng hoá, dịch vụ trưng bày, giới thiệu: - Hàng hoá, dịch vụ trưng bày, giới thiệu phải là những hàng hoá, dịch vụ kinh doanh hợp pháp trên thị trường. - Hàng hoá, dịch vụ trưng bày, giới thiệu phải tuân thủ các quy định của pháp luật về chất lượng hàng hóa và ghi nhãn hàng hoá. Điều kiện đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam để trưng bày, giới thiệu: ngoài việc đáp ứng các điều kiện đối với hàng hóa Việt Nam thì còn phải đáp ứng các điều kiện sau đây: - Là hàng hoá được phép nhập khẩu vào Việt Nam; - Hàng hoá tạm nhập khẩu để trưng bày, giới thiệu phải tái xuất khẩu sau khi kết thúc việc trưng bày, giới thiệu nhưng không quá sáu tháng, kể từ ngày tạm nhập khẩu; nếu quá thời hạn trên thì phải làm thủ tục gia hạn tại hải quan nơi tạm nhập khẩu; - Hàng hóa tạm nhập khẩu để trưng bày, giới thiệu nếu tiêu thụ tại Việt Nam thì phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hàng hóa nhập khẩu. Các trường hợp cấm trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ: (1) Tổ chức trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ hoặc sử dụng hình thức, phương tiện trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, cảnh quan, môi trường, sức khoẻ con người. (2) Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ hoặc sử dụng hình thức, phương tiện trưng bày, giới thiệu trái với truyền thống lịch sử, văn 89
- hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam. (3) Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ làm lộ bí mật nhà nước. (4) Trưng bày, giới thiệu hàng hoá của thương nhân khác để so sánh với hàng hoá của mình, trừ trường hợp hàng hoá đem so sánh là hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật. (5) Trưng bày, giới thiệu mẫu hàng hoá không đúng với hàng hoá đang kinh doanh về chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, thời hạn bảo hành và các chỉ tiêu chất lượng khác nhằm lừa dối khách hàng. 3.2.4. Hội chợ, triển lãm thương mại Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại được thực hiện tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ. Kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân kinh doanh dịch vụ này cung ứng dịch vụ tổ chức hoặc tham gia hội chợ, triển lãm thương mại cho thương nhân khác để nhận thù lao dịch vụ tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại. Quyền tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại được quy định như sau: Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền trực tiếp tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại về hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại thực hiện. Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, Văn phòng đại diện có quyền ký hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại để tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại cho thương nhân mà mình đại diện. Thương nhân nước ngoài có quyền trực tiếp tham gia hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại Việt Nam thay mặt mình tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam. Trong trường hợp muốn tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam thì thương nhân nước ngoài phải thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại Việt Nam thực hiện. 90
- Hội chợ, triển lãm thương mại tổ chức tại Việt Nam phải được đăng ký và phải được xác nhận bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về thương mại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại. Thương nhân không kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại khi trực tiếp tổ chức hoặc tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài về hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh phải tuân theo các quy định về xuất khẩu hàng hoá. Thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại khi tổ chức cho thương nhân khác tham gia hội chợ, triển lãm thương mại phải đăng ký với Bộ Thương mại. Thương nhân không đăng ký kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại không được tổ chức cho thương nhân khác tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài. Các quy định đối với hàng hoá, dịch vụ trưng bày, giới thiệu tại hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam bao gồm: - Hàng hoá, dịch vụ không được phép tham gia hội chợ, triển lãm thương mại, gồm: a) Hàng hóa, dịch vụ thuộc diện cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, chưa được phép lưu thông theo quy định của pháp luật; b) Hàng hóa, dịch vụ do thương nhân ở nước ngoài cung ứng thuộc diện cấm nhập khẩu theo quy định của pháp luật; c) Hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, trừ trường hợp trưng bày, giới thiệu để so sánh với hàng thật. - Ngoài việc tuân thủ các quy định về hội chợ, triển lãm thương mại của Luật này, hàng hóa, dịch vụ thuộc diện quản lý chuyên ngành phải tuân thủ các quy định về quản lý chuyên ngành đối với hàng hoá, dịch vụ đó. - Hàng hóa tạm nhập khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam phải được tái xuất khẩu trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày kết thúc hội chợ, triển lãm thương mại. - Việc tạm nhập, tái xuất hàng hóa tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam phải tuân theo các quy định của pháp luật về hải quan và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Đối với hàng hóa, dịch vụ tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài thì phải tuân theo các quy định sau: 91
- - Tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ đều được tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc diện cấm xuất khẩu theo quy định của pháp luật. - Hàng hóa, dịch vụ thuộc diện cấm xuất khẩu chỉ được tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài khi được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. - Thời hạn tạm xuất khẩu hàng hóa để tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài là một năm kể từ ngày hàng hóa được tạm xuất khẩu; nếu quá thời hạn nói trên mà chưa được tái nhập khẩu thì hàng hóa đó phải chịu thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. - Việc tạm xuất, tái nhập hàng hóa tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hải quan và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 4. CÁC HOẠT ĐỘNG TRUNG GIAN THƯƠNG MẠI 4.1. Khái niệm Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại. 4.2. Các hoạt động trung gian thương mại cụ thể Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện. Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới. Uỷ thác mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác. 92
- Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao. Câu hỏi ôn tập 1. Phân tích hoạt động mua bán hàng hóa? 1. Phân tích hoạt động cung ứng dịch vụ? 1. Phân tích hoạt động xúc tiến thương mại? 1. Phân tích hoạt động trung gian thương mại? 93
- CHƯƠNG 6 PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁ SẢN 1.1. Phá sản – hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, con người làm ra sản phẩm để tự phục vụ, tự đáp ứng cho nhu cầu của mình nên hoạt động thương mại chưa tồn tại và do đó không thể có hiện tượng phá sản. Còn trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chủ thể kinh tế chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh được nhà nước thành lập và tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh nghiệp này không có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh, mà mọi hoạt động trong quá trình kinh doanh đều theo kế hoạch của nhà nước, từ sản xuất cho đến tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước, còn nếu thua lỗ thì được nhà nước bù lỗ. Các doanh nghiệp này vì thế không thể bị mất khả năng thanh toán và hiện tượng phá sản vì thế cũng không xảy ra. Trong nền kinh tế thị trường, phá sản doanh nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại khách quan bởi các lý do sau: - Doanh nghiệp là một thực thể xã hội như các thực thể xã hội khác, có nghĩa là cũng có quá trình sinh ra, phát triển và diệt vong hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của các sự vật, hiện tượng. - Nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, đa thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp cùng song song tồn tại. Các loại hình doanh nghiệp đều tự chủ về tài chính, bình đẳng và tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Cạnh tranh là một quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường bởi các doanh nghiệp đều hướng tới mục tiêu tối thượng là lợi nhuận. Dưới tác động của quy luật này, một số doanh nghiệp mạnh dần lên chiếm lĩnh thị trường, ngược lại, một số doanh nghiệp dần yếu đi, nợ nần chồng chất, đi tới chỗ mất khả năng chi trả các nghĩa vụ tài chính của mình và thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản. - Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bên cạnh lợi nhuận thu được thì doanh nghiệp cũng phải chịu rất nhiều rủi ro. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, tỉ lệ rủi ro là ¼. Nguyên nhân dẫn đến phá sản thì hết sức đa dạng và phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả kinh tế - xã hội nhất định. Ngoài những tác động tiêu cực như sự xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động, thì phá sản bản thân nó là một giải pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu lại” nền kinh tế, góp phần duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày khốc liệt. 94
- 1.2. Khái niệm phá sản doanh nghiệp Hiện tượng phá sản xuất hiện từ rất sớm, và Italia là nước đầu tiên khai sinh ra đạo luật phá sản đầu tiên từ thời kỳ La Mã. Đến thời kỳ Trung cổ, các quốc gia Châu Âu cũng lần lượt ban hành luật phá sản, lúc đầu chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương nghiệp, sau này được mở rộng ra nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, phá sản trở thành hiện tượng phổ biến và là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế, hình thành nên các tập đoàn kinh tế tư bản độc quyền. Phá sản là một quá trình gồm hai thủ tục chính: tái cơ cấu doanh nghiệp mắc nợ (hay còn gọi là phục hồi hoạt động kinh doanh) và thanh lý tài sản. Chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ có thể lựa chọn một trong hai thủ tục theo điều kiện cụ thể. Ở các nước phương Tây, thủ tục phục hồi kinh doanh được nhấn mạnh. Phục hồi kinh doanh về bản chất là quá trình thỏa thuận giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ nhằm xây dựng một kế hoạch tái cơ cấu lại doanh nghiệp và lập một kế hoạch trả nợ phù hơp. Thủ tục phục hồi cho phép doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục hoạt động kinh doanh nhằm bảo đảm cho con nợ có cơ hội thoát ra khỏi khó khăn về tài chính và do đó thoát khỏi tuyên bố phá sản. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, phá sản được xem xét dưới hai bình diện: (a) doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, và (b) phá sản là thủ tục phục hồi hoặc xử lý nợ đặc biệt. 1.2.1. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Điều 3 Luật phá sản năm 2004 xác định, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Như vậy, tương tự như pháp luật phá sản của các nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam cũng coi việc mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi các chủ nợ có yêu cầu là căn cứ cơ bản và duy nhất để xem xét mở thủ tục phá sản doanh nghiệp mà không cần xem xét đến các dấu hiệu khác. Tuy nhiên, cần lưu ý những vấn đề liên quan đến dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Trước hết, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn không có nghĩa là doanh nghiệp hoàn toàn cạn kiệt tài sản. Doanh nghiệp có thể vẫn còn rất nhiều tài sản mà vẫn mất khả năng thanh toán vì các tài sản đó không thể bán được nên doanh nghiệp không có tiền để thanh toán các khoản nợ. Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng tài chính tuyệt vọng, có nghĩa là không thể trả được nợ, không có lối thoát trừ khi có sự can thiệp của tòa án hoặc sự giúp đỡ của các chủ nợ. Thứ ba, pháp luật không nhất thiết quy định cụ thể mất khả năng thanh toán một khoản nợ bao nhiêu thì coi 95
- là lâm vào tình trạng phá sản, bởi vì tình hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau. Thứ tư, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng với biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không. Bởi vì nhiều doanh nghiệp không trả được nợ nhưng đó chỉ mang tính nhất thời trong khi mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình thường. Ngược lại, có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là trá hình, che đậy tình trạng tài chính tuyệt vọng của mình, họ phải sử dụng nhiều phương tiện gian trá để bù đắp ngân quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản nhiều lần để vay tiền ngân hàng,… Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn là đã bị phá sản. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ được coi là bị phá sản khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản. 1.2.2. Phá sản là thủ tục phục hồi hoặc xử lý nợ đặc biệt a. Tính chất đặc thù của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Để thấy được tính đặc thù của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, chúng ta so sánh nó với quá trình tự phục hồi của doanh nghiệp khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong kinh doanh nhưng chưa bị yêu cầu mở thủ tục phá sản. Thủ tục phục hồi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục tư pháp, chứ không phải là giải pháp tổ chức sản xuất kinh doanh được doanh nghiệp chủ động thực hiện như quá trình tự phục hồi. Đây là một giai đoạn trong thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, được tiến hành sau khi tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp và do chính tòa án quyết định thủ tục này. Mặc dù công việc chính trong quá trình phục hồi do doanh nghiệp thực hiện nhưng việc phục hồi chỉ có thể được thực hiện khi có đủ điều kiện pháp luật quy định; nội dung, thủ tục xem xét thông qua và thời hạn thực hiện phương án phục hồi phải tuân thủ quy dịnh của pháp luật. Hoạt động phục hồi này nằm dưới sự giám sát nghiêm ngặt của tòa án cũng như các chủ nợ; và doanh nghiệp phải chịu những hậu quả pháp lý tồi tế nếu phục hồi không thành công. b. Tính đặc thù của thủ tục thanh toán nợ Tính đặc thù của thủ tục thanh toán nợ thông qua phá sản được nhận định thông qua sự so sánh với thủ tục thanh toán nợ dân sự thông thường. Và tính đặc thù này được thể hiện như sau: Thứ nhất, việc đòi nợ và thanh toán nợ mang tính tập thể. Đó là tất cả các chủ nợ đều có cơ hội tham gia vào quá trình đòi nợ và thanh toán nợ. Nhưng họ không thể tiến hành đòi doanh nghiệp mắc nợ phải thanh toán các khoản nợ 96
- cho mình một cách tùy tiện mà phải tuân theo một thủ tục tư pháp đặc biệt do pháp luật phá sản ban hành, nhằm đảm bảo sự đồng đều về quyền lợi cho các chủ nợ, tránh để họ hành động vô tổ chức, mạnh ai nấy làm dẫn tới sự đổ vỡ của hàng loạt doanh nghiệp khác có liên quan, gây xáo trộn hoạt động kinh tế - xã hội. Các chủ nợ được phân chia thành các nhóm khác nhau và yêu cầu của họ sẽ được xem xét công bằng, tại cùng một địa điểm, thời điểm và theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Khi có đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp của những người có thẩm quyền, tòa án có thẩm quyền xem xét nếu đủ căn cứ thì ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Từ thời điểm này, doanh nghiệp ngừng thanh toán nợ. Các chủ nợ muốn được thanh toán nợ thì phải gửi giấy đòi nợ Giấy đòi nợ là thủ tục đặc biệt mà bất cứ chủ nợ nào cũng phải tiến hành để được tham gia vào quá trình phân chia tài sản của doanh nghiệp sau này. Chỉ những chủ nợ gửi giấy đòi nợ trong thời hạn quy định thì mới được đưa vào danh sách chủ nợ, và khi doanh nghiệp có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản thì chỉ những chủ nợ có trong danh sách mới được lấy nợ từ doanh nghiệp. Thứ hai, việc đòi nợ và thanh toán nợ được tiến hành thông qua một cơ quan đại diện có thẩm quyền, đó là Tòa kinh tế Tòa án nhân dân địa phương nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, hoặc nơi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đặt trụ sở chính (điều 7 Luật phá sản năm 2004, điều 30 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2001). Thứ ba, việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp. Đây là điểm khác với nghĩa vụ trả nợ trong dân sự là nợ bao nhiêu thì trả bấy nhiêu. Ở đây nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ sẽ chấm dứt sau khi dùng toàn bộ tài sản của mình để trả nợ, mặc dù có thể thanh toán chưa đủ cho các chủ nợ. Đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh hiện tượng khoanh nợ có thể xảy ra theo khoản 1 điều 90 Luật phá sản năm 2004, nhưng các chủ nợ chỉ có thể được thanh toán khi tìm thấy tài sản còn lại của những người này. Đây là quy định nhằm loại trừ tình trạng doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh lợi dụng thủ tục phá sản để nhằm xóa số nợ và trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Thứ tư, việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành sau khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc thanh toán nợ chỉ được tiến hành sau khi có quyết định của tòa án. Đây là điểm khác với thủ tục thanh toán nợ thông thường có thể diễn ra bất cứ lúc nào, theo phương thức do hai bên lựa chọn. Tuy nhiên tòa án không trực tiếp thanh toán nợ của 97
- doanh nghiệp mà công việc này thuộc về Tổ quản lý, thanh lý tài sản (điều 10 Luật phá sản năm 2004) hoặc do chính doanh nghiệp thực hiện (điều 31 Luật phá sản năm 2004). Như vậy, thủ tục phục hồi và xử lý nợ theo Luật phá sản quy định là một thủ tục đặc biệt, khác với thủ tục thanh toán nợ thông thường trong dân sự, kinh tế hay trong đời sống hàng ngày. 1.3. Phân loại phá sản Phá sản có thể được phân loại theo các cách khác nhau dựa trên các căn cứ khác nhau. Căn cứ vào nguyên nhân gây ra phá sản, phá sản được chia thành phá sản trung thực và phá sản gian trá. Trong đó phá sản trung thực là phá sản do những nguyên nhân khách quan hay những rủi ro trong kinh doanh, còn phá sản gian trá là phá sản do con nợ có những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Cách phân chia này nhằm xác định thái độ đối xử của pháp luật đối với con nợ. Khi giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, đối với phá sản trung thực, pháp luật chỉ tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý tài sản; đối với phá sản gian trá, pháp luật không chỉ tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý tài sản mà còn có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến nhân thân của chủ doanh nghiệp. Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý, phá sản được chia thành phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc. Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi thấy mình lâm vào tình trạng phá sản. Phá sản bắt buộc là phá sản được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ hoặc đại diện chủ sở hữu ở một số loại hình doanh nghiệp. Và cách phân loại này là một trong những căn cứ để xây dựng hồ sơ vụ phá sản cũng như để thẩm phán lựa chọn thủ tục phá sản thích hợp, thủ tục phục hồi hay thủ tục xử lý tài sản. Căn cứ vào đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản, phá sản được chia thành phá sản doanh nghiệp, phá sản hợp tác xã và phá sản cá nhân. Về mặt ý nghĩa, cách phân loại này nhằm xác định pháp luật áp dụng khi giải quyết vụ việc phá sản. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Luật phá sản chỉ được áp dụng cho doanh nghiệp và hợp tác xã. 1.4. So sánh phá sản với giải thể Điểm giống nhau giữa phá sản và giải thể chính là chúng đều là các thủ tục dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải quyết quyền lợi của người lao động,… Những điểm khác nhau giữa chúng là: 98
- Về lý do: phá sản chỉ do một nguyên nhân duy nhất là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, trong khi giải thể được tiến hành khi rơi doanh nghiệp vào những trường hợp pháp luật quy định đối với những loại hình doanh nghiệp cụ thể, mà doanh nghiệp đó có thể tự giải thể hoặc bị giải thể. Những lý do này rất đa dạng, như: mục tiêu đề ra không đạt được, đã hoàn thành xong mục tiêu đề ra, bị thu hồi giấy phép hoạt đông do vi phạm nghiêm trọng pháp luật,… Về thủ tục pháp lý và cơ quan có thẩm quyền tiến hành thủ tục: giải thể là thủ tục hành chính, là một giải pháp mang tính tổ chức do chủ doanh nghiệp tự mình quyết định hoặc do cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập quyết định. Còn phá sản là thủ tục tư pháp, là hoạt động do một cơ quan nhà nước duy nhất là tòa án có thẩm quyền tiến hành theo những quy định chặt chẽ của pháp luật phá sản. Về hậu quả: giải thể dẫn đến sự chấm dứt hoạt động và xóa tên doanh nghiệp. Phá sản thì không phải bao giờ cũng dẫn đến sự chấm dứt hoạt động và xóa tên doanh nghiệp. Về thái độ của nhà nước đối với chủ sở hữu hay người quản lý, điều hành của doanh nghiệp: đối với phá sản, pháp luật thường quy định cấm những người trên không được hành nghề trong một thời gian nhất định. Còn trong trường hợp giải thể thì không đặt ra vấn đề này. 2. PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 2.1. Khái niệm pháp luật phá sản Trong thời kỳ Cổ đại và Trung đại, pháp luật phá sản đều mang nặng tính trừng phạt. Khi không trả được nợ, không chỉ tài sản của con nợ được mang ra thanh lý ngay mà bản thân họ cùng gia đình còn phải chịu những chế tài hình sự nghiêm khắc. Điều này gây ra nhiều thiệt hại cho con nợ và bất ổn cho xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay, pháp luật phá sản đã có cái nhìn khoan dung hơn. Đó là vì bản thân hoạt động kinh doanh đã là một lĩnh vực đầy khó khăn, rủi ro. Mặt khác, hậu quả của phá sản rất lớn nên thương gia phá sản được coi là người kém may mắn và cần được bảo vệ. Do vậy mà pháp luật phá sản không chỉ đặt ra những thiết chế bảo vệ lợi ích cho chủ nợ mà còn bảo vệ lợi ích cho cả con nợ. Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Pháp luật phá sản của mỗi nước không chỉ phản ánh những đặc điểm của quốc gia mình mà còn phản ánh xu hướng chung của thời đại. Pháp luật phá sản là tổng thể nguyên tắc và các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. 2.2. Vai trò của pháp luật phá sản 99
- Pháp luật phá sản đóng vai trò rất lớn và quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân nói riêng và đối với toàn xã hội nói chung. Điều này được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: 2.2.1. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ nợ, cung cấp cho các chủ nợ một công cụ để thực hiện việc đòi nợ Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ nợ là những người đầu tiên có khả năng mất trắng những khoản tín dụng, tài sản mà mình cung cấp cho con nợ. Do vậy mà pháp luật phá sản từ khi mới ra đời đã đặt mục tiêu đầu tiên là bảo vệ lợi ích của chủ nợ. Phá sản thường mang tính dây chuyền nên việc bảo vệ lợi ích của chủ nợ cũng gắn liền với việc bảo vệ và duy trì sự ổn định của nền kinh tế. Bản thân sự tồn tại của pháp luật phá sản và sự đe dọa sẽ áp dụng thủ tục này là một cơ chế có hiệu quả nhằm hạn chế những hành vi kinh doanh quá mạo hiểm của các nhà quản lý, tạo áp lực buộc các doanh nghiệp mắc nợ phải tìm cách tổ chức lại doanh nghiệp, tìm kiếm nguồn tài chính để thanh toán các khoản nợ, hạn chế tình trạng dùng tiền của người khác để phục vụ lợi ích riêng của mình. Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật phá sản trao cho chủ nợ quyền khởi động thủ tục phá sản như là một biện pháp đòi nợ đặc biệt. Trong quá trình giải quyết, pháp luật phá sản đưa ra các cơ chế cho phép các chủ nợ có khả năng bảo vệ tối đa lợi ích của mình, như: kiểm tra, giám sát các hoạt động, hành vi của con nợ; tham gia giải quyết những vấn đề liên quan trực tiếp tới quyền lợi của mình; khiếu nại các quyết định của tòa án;… 2.2.2. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, đem lại cho các doanh nghiệp đang trong tình trạng phá sản một cơ hội phục hồi hoặc rút khỏi thương trường một cách có trật tự Trong quá trình tồn tại của mình, doanh nghiệp nào cũng có thể phải đối mặt với những cạnh tranh, rủi ro dẫn tới sự suy thoái và mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Phá sản lại luôn đem đến những hậu quả xấu về kinh tế - xã hội. Pháp luật phá sản vì thế cũng bảo vệ lợi ích của con nợ bằng các quy định như: giảm bớt gánh nặng tài chính, hạn chế những hành vi pháp lý chống lại con nợ từ phía chủ nợ, buộc các chủ nợ vào một khuôn khổ chung trong quá trình đòi nợ. Hơn thế nữa, thông qua pháp luật phá sản, con nợ được tạo cơ chế, điều kiện để khôi phục lại tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của mình. Khi con nợ có những dấu hiệu không thể khôi phục được thì pháp luật phá sản đưa ra cơ chế giúp cho việc 100
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Luật thương mại quốc tế - ĐH Kinh Tế Quốc Dân
458 p | 4311 | 1839
-
Giáo trình Luật thương mại quốc tế - TS.Trần Thị Hòa Bình
458 p | 875 | 301
-
Giáo trình Luật thương mại 3
52 p | 1057 | 225
-
Giáo trình - Luật thương mại II - chương 1-2
8 p | 536 | 181
-
Giáo trình Luật thương mại - TS Bùi Thị Kim Khuyên
164 p | 682 | 142
-
Giáo trình - Luật thương mại II - chương 3-4
6 p | 337 | 128
-
Giáo trình - Luật thương mại II - chương 5-6
9 p | 222 | 91
-
Giáo trình - Luật thương mại II - chương 7-9
10 p | 209 | 73
-
Giáo trình Luật thương mại (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
80 p | 225 | 63
-
Giáo trình Luật thương mại
81 p | 272 | 58
-
Giáo trình Luật kinh tế (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2 - ThS. Trần Thị Vân Trà
35 p | 135 | 34
-
Giáo trình Luật thương mại quốc tế (Phần I - Luật Tổ chức thương mại thế giới): Phần 1
118 p | 49 | 25
-
Giáo trình Luật Thương mại quốc tế: Phần 1
241 p | 78 | 20
-
Giáo trình Luật Thương mại quốc tế: Phần 2
283 p | 55 | 18
-
Giáo trình Luật thương mại quốc tế (Phần I - Luật Tổ chức thương mại thế giới): Phần 2
125 p | 41 | 17
-
Giáo trình Luật thương mại quốc tế (Phần 2): Phần 1
257 p | 40 | 15
-
Giáo trình Luật thương mại quốc tế (Phần 2): Phần 2
187 p | 47 | 15
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn