Giáo trình Luật kinh tế (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2 - ThS. Trần Thị Vân Trà
lượt xem 34
download
Phần 2 Giáo trình Luật kinh tế trình bày nội dung chương 3 - Pháp luật về phá sản, giải quyết tranh chấp thương mại. Cuối mỗi chương có câu hỏi ôn tập. Tham khảo nội dung giáo trình để nắm bắt nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Luật kinh tế (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2 - ThS. Trần Thị Vân Trà
- 14. So sánh doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh? 15. Vì sao trong doanh nghiệp đều có thành viên chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân mà công ty hợp danh lại có tư cách pháp nhân? 16. Các hình thức tổ chức lại doanh nghiệp? 17. Các trường hợp giải thể và thủ tục giải thể doanh nghiệp? CHƯƠNG 3 PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁ SẢN 1.1. Phá sản – hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường 59
- Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, con người làm ra sản phẩm để tự phục vụ, tự đáp ứng cho nhu cầu của mình nên hoạt động thương mại chưa tồn tại và do đó không thể có hiện tượng phá sản. Còn trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chủ thể kinh tế chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh được nhà nước thành lập và tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh nghiệp này không có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh, mà mọi hoạt động trong quá trình kinh doanh đều theo kế hoạch của nhà nước, từ sản xuất cho đến tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước, còn nếu thua lỗ thì được nhà nước bù lỗ. Các doanh nghiệp này vì thế không thể bị mất khả năng thanh toán và hiện tượng phá sản vì thế cũng không xảy ra. Trong nền kinh tế thị trường, phá sản doanh nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại khách quan bởi các lý do sau: - Doanh nghiệp là một thực thể xã hội như các thực thể xã hội khác, có nghĩa là cũng có quá trình sinh ra, phát triển và diệt vong hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của các sự vật, hiện tượng. - Nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, đa thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp cùng song song tồn tại. Các loại hình doanh nghiệp đều tự chủ về tài chính, bình đẳng và tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Cạnh tranh là một quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường bởi các doanh nghiệp đều hướng tới mục tiêu tối thượng là lợi nhuận. Dưới tác động của quy luật này, một số doanh nghiệp mạnh dần lên chiếm lĩnh thị trường, ngược lại, một số doanh nghiệp dần yếu đi, nợ nần chồng chất, đi tới chỗ mất khả năng chi trả các nghĩa vụ tài chính của mình và thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản. - Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bên cạnh lợi nhuận thu được thì doanh nghiệp cũng phải chịu rất nhiều rủi ro. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, tỉ lệ rủi ro là ¼. Nguyên nhân dẫn đến phá sản thì hết sức đa dạng và phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả kinh tế - xã hội nhất định. Ngoài những tác động tiêu cực như sự xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động, thì phá sản bản thân nó là một giải pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu lại” nền kinh tế, góp phần duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày khốc liệt. 1.2. Khái niệm phá sản doanh nghiệp Hiện tượng phá sản xuất hiện từ rất sớm, và Italia là nước đầu tiên khai sinh ra đạo luật phá sản đầu tiên từ thời kỳ La Mã. Đến thời kỳ Trung cổ, các quốc gia Châu Âu cũng lần lượt ban hành luật phá sản, lúc đầu chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương nghiệp, 60
- sau này được mở rộng ra nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, phá sản trở thành hiện tượng phổ biến và là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế, hình thành nên các tập đoàn kinh tế tư bản độc quyền. Phá sản là một quá trình gồm hai thủ tục chính: tái cơ cấu doanh nghiệp mắc nợ (hay còn gọi là phục hồi hoạt động kinh doanh) và thanh lý tài sản. Chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ có thể lựa chọn một trong hai thủ tục theo điều kiện cụ thể. Ở các nước phương Tây, thủ tục phục hồi kinh doanh được nhấn mạnh. Phục hồi kinh doanh về bản chất là quá trình thỏa thuận giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ nhằm xây dựng một kế hoạch tái cơ cấu lại doanh nghiệp và lập một kế hoạch trả nợ phù hơp. Thủ tục phục hồi cho phép doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục hoạt động kinh doanh nhằm bảo đảm cho con nợ có cơ hội thoát ra khỏi khó khăn về tài chính và do đó thoát khỏi tuyên bố phá sản. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, phá sản được xem xét dưới hai bình diện: (a) doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, và (b) phá sản là thủ tục phục hồi hoặc xử lý nợ đặc biệt. 1.2.1. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Điều 3 Luật phá sản năm 2004 xác định, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Như vậy, tương tự như pháp luật phá sản của các nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam cũng coi việc mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi các chủ nợ có yêu cầu là căn cứ cơ bản và duy nhất để xem xét mở thủ tục phá sản doanh nghiệp mà không cần xem xét đến các dấu hiệu khác. Tuy nhiên, cần lưu ý những vấn đề liên quan đến dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Trước hết, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn không có nghĩa là doanh nghiệp hoàn toàn cạn kiệt tài sản. Doanh nghiệp có thể vẫn còn rất nhiều tài sản mà vẫn mất khả năng thanh toán vì các tài sản đó không thể bán được nên doanh nghiệp không có tiền để thanh toán các khoản nợ. Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng tài chính tuyệt vọng, có nghĩa là không thể trả được nợ, không có lối thoát trừ khi có sự can thiệp của tòa án hoặc sự giúp đỡ của các chủ nợ. Thứ ba, pháp luật không nhất thiết quy định cụ thể mất khả năng thanh toán một khoản nợ bao nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản, bởi vì tình hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau. Thứ tư, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng với biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không. Bởi vì nhiều doanh nghiệp không trả được nợ nhưng đó chỉ mang tính nhất thời trong khi mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình 61
- thường. Ngược lại, có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là trá hình, che đậy tình trạng tài chính tuyệt vọng của mình, họ phải sử dụng nhiều phương tiện gian trá để bù đắp ngân quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản nhiều lần để vay tiền ngân hàng,… Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn là đã bị phá sản. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ được coi là bị phá sản khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản. 1.2.2. Phá sản là thủ tục phục hồi hoặc xử lý nợ đặc biệt a. Tính chất đặc thù của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Để thấy được tính đặc thù của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, chúng ta so sánh nó với quá trình tự phục hồi của doanh nghiệp khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong kinh doanh nhưng chưa bị yêu cầu mở thủ tục phá sản. Thủ tục phục hồi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục tư pháp, chứ không phải là giải pháp tổ chức sản xuất kinh doanh được doanh nghiệp chủ động thực hiện như quá trình tự phục hồi. Đây là một giai đoạn trong thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, được tiến hành sau khi tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp và do chính tòa án quyết định thủ tục này. Mặc dù công việc chính trong quá trình phục hồi do doanh nghiệp thực hiện nhưng việc phục hồi chỉ có thể được thực hiện khi có đủ điều kiện pháp luật quy định; nội dung, thủ tục xem xét thông qua và thời hạn thực hiện phương án phục hồi phải tuân thủ quy dịnh của pháp luật. Hoạt động phục hồi này nằm dưới sự giám sát nghiêm ngặt của tòa án cũng như các chủ nợ; và doanh nghiệp phải chịu những hậu quả pháp lý tồi tế nếu phục hồi không thành công. b. Tính đặc thù của thủ tục thanh toán nợ Tính đặc thù của thủ tục thanh toán nợ thông qua phá sản được nhận định thông qua sự so sánh với thủ tục thanh toán nợ dân sự thông thường. Và tính đặc thù này được thể hiện như sau: Thứ nhất, việc đòi nợ và thanh toán nợ mang tính tập thể. Đó là tất cả các chủ nợ đều có cơ hội tham gia vào quá trình đòi nợ và thanh toán nợ. Nhưng họ không thể tiến hành đòi doanh nghiệp mắc nợ phải thanh toán các khoản nợ cho mình một cách tùy tiện mà phải tuân theo một thủ tục tư pháp đặc biệt do pháp luật phá sản ban hành, nhằm đảm bảo sự đồng đều về quyền lợi cho các chủ nợ, tránh để họ hành động vô tổ chức, mạnh ai nấy làm dẫn tới sự đổ vỡ của hàng loạt doanh nghiệp khác có liên quan, gây xáo trộn hoạt động kinh tế - xã hội. Các chủ nợ được phân chia thành 62
- các nhóm khác nhau và yêu cầu của họ sẽ được xem xét công bằng, tại cùng một địa điểm, thời điểm và theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Khi có đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp của những người có thẩm quyền, tòa án có thẩm quyền xem xét nếu đủ căn cứ thì ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Từ thời điểm này, doanh nghiệp ngừng thanh toán nợ. Các chủ nợ muốn được thanh toán nợ thì phải gửi giấy đòi nợ Giấy đòi nợ là thủ tục đặc biệt mà bất cứ chủ nợ nào cũng phải tiến hành để được tham gia vào quá trình phân chia tài sản của doanh nghiệp sau này. Chỉ những chủ nợ gửi giấy đòi nợ trong thời hạn quy định thì mới được đưa vào danh sách chủ nợ, và khi doanh nghiệp có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản thì chỉ những chủ nợ có trong danh sách mới được lấy nợ từ doanh nghiệp. Thứ hai, việc đòi nợ và thanh toán nợ được tiến hành thông qua một cơ quan đại diện có thẩm quyền, đó là Tòa kinh tế Tòa án nhân dân địa phương nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, hoặc nơi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đặt trụ sở chính (điều 7 Luật phá sản năm 2004, điều 30 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2001). Thứ ba, việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp. Đây là điểm khác với nghĩa vụ trả nợ trong dân sự là nợ bao nhiêu thì trả bấy nhiêu. Ở đây nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ sẽ chấm dứt sau khi dùng toàn bộ tài sản của mình để trả nợ, mặc dù có thể thanh toán chưa đủ cho các chủ nợ. Đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh hiện tượng khoanh nợ có thể xảy ra theo khoản 1 điều 90 Luật phá sản năm 2004, nhưng các chủ nợ chỉ có thể được thanh toán khi tìm thấy tài sản còn lại của những người này. Đây là quy định nhằm loại trừ tình trạng doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh lợi dụng thủ tục phá sản để nhằm xóa số nợ và trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Thứ tư, việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành sau khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc thanh toán nợ chỉ được tiến hành sau khi có quyết định của tòa án. Đây là điểm khác với thủ tục thanh toán nợ thông thường có thể diễn ra bất cứ lúc nào, theo phương thức do hai bên lựa chọn. Tuy nhiên tòa án không trực tiếp thanh toán nợ của doanh nghiệp mà công việc này thuộc về Tổ quản lý, thanh lý tài sản (điều 10 Luật phá sản năm 2004) hoặc do chính doanh nghiệp thực hiện (điều 31 Luật phá sản năm 2004). Như vậy, thủ tục phục hồi và xử lý nợ theo Luật phá sản quy định là một thủ tục đặc biệt, khác với thủ tục thanh toán nợ thông thường trong dân sự, kinh tế hay trong đời sống hàng ngày. 63
- 1.3. Phân loại phá sản Phá sản có thể được phân loại theo các cách khác nhau dựa trên các căn cứ khác nhau. Căn cứ vào nguyên nhân gây ra phá sản, phá sản được chia thành phá sản trung thực và phá sản gian trá. Trong đó phá sản trung thực là phá sản do những nguyên nhân khách quan hay những rủi ro trong kinh doanh, còn phá sản gian trá là phá sản do con nợ có những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Cách phân chia này nhằm xác định thái độ đối xử của pháp luật đối với con nợ. Khi giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, đối với phá sản trung thực, pháp luật chỉ tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý tài sản; đối với phá sản gian trá, pháp luật không chỉ tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý tài sản mà còn có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến nhân thân của chủ doanh nghiệp. Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý, phá sản được chia thành phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc. Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi thấy mình lâm vào tình trạng phá sản. Phá sản bắt buộc là phá sản được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ hoặc đại diện chủ sở hữu ở một số loại hình doanh nghiệp. Và cách phân loại này là một trong những căn cứ để xây dựng hồ sơ vụ phá sản cũng như để thẩm phán lựa chọn thủ tục phá sản thích hợp, thủ tục phục hồi hay thủ tục xử lý tài sản. Căn cứ vào đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản, phá sản được chia thành phá sản doanh nghiệp, phá sản hợp tác xã và phá sản cá nhân. Về mặt ý nghĩa, cách phân loại này nhằm xác định pháp luật áp dụng khi giải quyết vụ việc phá sản. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Luật phá sản chỉ được áp dụng cho doanh nghiệp và hợp tác xã. 1.4. So sánh phá sản với giải thể Điểm giống nhau giữa phá sản và giải thể chính là chúng đều là các thủ tục dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải quyết quyền lợi của người lao động,… Những điểm khác nhau giữa chúng là: Về lý do: phá sản chỉ do một nguyên nhân duy nhất là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, trong khi giải thể được tiến hành khi rơi doanh nghiệp vào những trường hợp pháp luật quy định đối với những loại hình doanh nghiệp cụ thể, mà doanh nghiệp đó có thể tự giải thể hoặc bị giải thể. Những lý do này rất đa dạng, như: 64
- mục tiêu đề ra không đạt được, đã hoàn thành xong mục tiêu đề ra, bị thu hồi giấy phép hoạt đông do vi phạm nghiêm trọng pháp luật,… Về thủ tục pháp lý và cơ quan có thẩm quyền tiến hành thủ tục: giải thể là thủ tục hành chính, là một giải pháp mang tính tổ chức do chủ doanh nghiệp tự mình quyết định hoặc do cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập quyết định. Còn phá sản là thủ tục tư pháp, là hoạt động do một cơ quan nhà nước duy nhất là tòa án có thẩm quyền tiến hành theo những quy định chặt chẽ của pháp luật phá sản. Về hậu quả: giải thể dẫn đến sự chấm dứt hoạt động và xóa tên doanh nghiệp. Phá sản thì không phải bao giờ cũng dẫn đến sự chấm dứt hoạt động và xóa tên doanh nghiệp. Về thái độ của nhà nước đối với chủ sở hữu hay người quản lý, điều hành của doanh nghiệp: đối với phá sản, pháp luật thường quy định cấm những người trên không được hành nghề trong một thời gian nhất định. Còn trong trường hợp giải thể thì không đặt ra vấn đề này. 2. PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 2.1. Khái niệm pháp luật phá sản Trong thời kỳ Cổ đại và Trung đại, pháp luật phá sản đều mang nặng tính trừng phạt. Khi không trả được nợ, không chỉ tài sản của con nợ được mang ra thanh lý ngay mà bản thân họ cùng gia đình còn phải chịu những chế tài hình sự nghiêm khắc. Điều này gây ra nhiều thiệt hại cho con nợ và bất ổn cho xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay, pháp luật phá sản đã có cái nhìn khoan dung hơn. Đó là vì bản thân hoạt động kinh doanh đã là một lĩnh vực đầy khó khăn, rủi ro. Mặt khác, hậu quả của phá sản rất lớn nên thương gia phá sản được coi là người kém may mắn và cần được bảo vệ. Do vậy mà pháp luật phá sản không chỉ đặt ra những thiết chế bảo vệ lợi ích cho chủ nợ mà còn bảo vệ lợi ích cho cả con nợ. Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Pháp luật phá sản của mỗi nước không chỉ phản ánh những đặc điểm của quốc gia mình mà còn phản ánh xu hướng chung của thời đại. Pháp luật phá sản là tổng thể nguyên tắc và các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. 2.2. Vai trò của pháp luật phá sản Pháp luật phá sản đóng vai trò rất lớn và quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân nói riêng và đối với toàn xã hội nói chung. Điều này được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: 65
- 2.2.1. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ nợ, cung cấp cho các chủ nợ một công cụ để thực hiện việc đòi nợ Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ nợ là những người đầu tiên có khả năng mất trắng những khoản tín dụng, tài sản mà mình cung cấp cho con nợ. Do vậy mà pháp luật phá sản từ khi mới ra đời đã đặt mục tiêu đầu tiên là bảo vệ lợi ích của chủ nợ. Phá sản thường mang tính dây chuyền nên việc bảo vệ lợi ích của chủ nợ cũng gắn liền với việc bảo vệ và duy trì sự ổn định của nền kinh tế. Bản thân sự tồn tại của pháp luật phá sản và sự đe dọa sẽ áp dụng thủ tục này là một cơ chế có hiệu quả nhằm hạn chế những hành vi kinh doanh quá mạo hiểm của các nhà quản lý, tạo áp lực buộc các doanh nghiệp mắc nợ phải tìm cách tổ chức lại doanh nghiệp, tìm kiếm nguồn tài chính để thanh toán các khoản nợ, hạn chế tình trạng dùng tiền của người khác để phục vụ lợi ích riêng của mình. Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật phá sản trao cho chủ nợ quyền khởi động thủ tục phá sản như là một biện pháp đòi nợ đặc biệt. Trong quá trình giải quyết, pháp luật phá sản đưa ra các cơ chế cho phép các chủ nợ có khả năng bảo vệ tối đa lợi ích của mình, như: kiểm tra, giám sát các hoạt động, hành vi của con nợ; tham gia giải quyết những vấn đề liên quan trực tiếp tới quyền lợi của mình; khiếu nại các quyết định của tòa án;… 2.2.2. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, đem lại cho các doanh nghiệp đang trong tình trạng phá sản một cơ hội phục hồi hoặc rút khỏi thương trường một cách có trật tự Trong quá trình tồn tại của mình, doanh nghiệp nào cũng có thể phải đối mặt với những cạnh tranh, rủi ro dẫn tới sự suy thoái và mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Phá sản lại luôn đem đến những hậu quả xấu về kinh tế - xã hội. Pháp luật phá sản vì thế cũng bảo vệ lợi ích của con nợ bằng các quy định như: giảm bớt gánh nặng tài chính, hạn chế những hành vi pháp lý chống lại con nợ từ phía chủ nợ, buộc các chủ nợ vào một khuôn khổ chung trong quá trình đòi nợ. Hơn thế nữa, thông qua pháp luật phá sản, con nợ được tạo cơ chế, điều kiện để khôi phục lại tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của mình. Khi con nợ có những dấu hiệu không thể khôi phục được thì pháp luật phá sản đưa ra cơ chế giúp cho việc thanh lý tài sản của con nợ được nhanh nhất và giải phóng con nợ khỏi trách nhiệm thanh toán đối với các chủ nợ. 2.2.3. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của người lao động 66
- Hậu quả đáng chú ý nhất của phá sản là làm mất đi thu nhập và việc làm của người lao động. Vì vậy, đây luôn là một trong những vấn đề pháp luật phá sản quan tâm bảo vệ, nhằm hạn chế những thiệt hại vật chất mà phá sản có thể gây ra cho người lao động. Pháp luật phá sản thường quy định, trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, người lao động có quyền cử đại diện tham gia để bảo vệ lợi ích của mình; tiền lương và các khoản lợi ích chính đáng khác của họ luôn thuộc diện ưu tiên trong thứ tự phân chia tài sản của doanh nghiệp; những người lao động trong doanh nghiệp bị phá sản thường được tạo cơ hội tìm việc làm mới. 2.2.4. Pháp luật phá sản góp phần tổ chức và cơ cấu lại nền kinh tế Pháp luật phá sản đưa ra khả năng so sánh giữa tổ chức lại và thanh lý doanh nghiệp. Bất kỳ sự lựa chọn nào của doanh nghiệp đều dựa trên những cơ sở tối ưu nhằm ngăn chặn những trường hợp thanh lý quá vội vàng hoặc trì hoãn việc thanh lý. Khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật phá sản tạo ra cơ chế thiết thực và có hiệu quả nhằm giúp doanh nghiệp có cơ hội khôi phục. Xét trên khía cạnh tăng trưởng kinh tế, đây rõ ràng là biện pháp góp phần tạo dựng một nền kinh tế ổn định. Khi việc lựa chọn tổ chức lại không khả thi thì áp dụng thủ tục thanh lý doanh nghiệp và đi tới chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Và lúc này, đây là một cơ chế hữu hiệu để loại bỏ triệt để những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, góp phần làm trong sạch môi trường kinh doanh. 2.2.5. Pháp luật phá sản góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản, trước nguy cơ có thể mất những khoản tín dụng, tài sản của mình, các chủ nợ có động cơ mạnh mẽ thúc đẩy thực hiện những hành vi chống lại con nợ. Những hành vi đó có thể là hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Nếu không có sự can thiệp của pháp luật hoặc sự can thiệp không hiệu quả thì những hành vi bất hợp pháp của chủ nợ rất dễ xảy ra, gây nên tình trạng lộn xộn. Do vậy, việc pháp luật phá sản quy định cách mà mỗi nhóm chủ nợ khi được bồi thường không làm thiệt hại đến những nhóm chủ nợ khác tạo nên một sự công bằng cần thiết trong việc thanh toán cho các chủ nợ, đồng nghĩa với việc các bên được đưa vào một khuôn khổ chung mà trong đó lợi ích của các bên đều được xem xét một cách công bằng và minh bạch. Bằng việc giải quyết thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ với con nợ, giữa các chủ nợ với nhau, pháp luật phá sản đã góp phần hạn chế những mâu thuẫn có thể phát sinh giữa họ, và vì thế góp phần đảm bảo được trật tự, kỷ cương trong xã hội. 3. THỦ TỤC PHÁ SẢN 3.1. Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản 3.1.1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 67
- Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc về những đối tượng sau: - Chủ nợ: Chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Luật phá sản không quy định chủ nợ có bảo đảm có quyền này, vì xuất phát từ luận điểm cho rằng quyền đòi nợ của các chủ nợ có bảo đảm luôn được ưu tiên thanh toán bằng tài sản bảo đảm của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba. Chỉ đặt ra quyền này cho chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần để giúp họ có cơ hội lựa chọn một thủ tục thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. - Người lao động: theo quy định của khoản 1 điều 14 Luật phá sản năm 2004, người lao động được cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động và người lao động nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Đây là sự tiến bộ của Luật phá sản 2004 so với Luật phá sản doanh nghiệp 1993 khi không quy định điều kiện “không trả được lương cho người lao động trong 3 tháng liên tiếp”. Và sau khi nộp đơn, đại diện cho người lao động hoặc công đoàn được coi là chủ nợ. - Đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn. - Cổ đông hoặc nhóm cổ đông công ty cổ phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty khi nhận thấy công ty lâm vào tình trạng phá sản; nếu điều lệ công ty không quy định thì việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của đại hội đồng cổ đông; nếu điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành họp đại hội đồng cổ đông được thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất là 06 tháng có quyền nộp đơn. - Thành viên hợp danh của công ty hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy công ty lâm vào tình trạng phá sản. Đơn yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu kèm theo được thực hiện như trường hợp chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp nộp đơn. Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc về chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. 68
- Trong 3 tháng kể từ ngày nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản mà những chủ thể trên không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đây là một quy định khá mơ hồ, bởi việc xác định thời điểm “nhận thấy” là không rõ ràng và khó có căn cứ cụ thể. 3.1.2. Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nếu thấy cần sửa đổi, bổ sung tài liệu thì Tòa án yêu cầu người nộp đơn phải sửa đổi, bổ sung trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản kể từ ngày người nộp đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng phí phá sản; trường hợp người nộp đơn không phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì ngày thụ lý là ngày Tòa án nhận được đơn. Tòa án trả lại đơn yêu cầu trong các trường hợp sau: - Người nộp đơn không nộp tiền tạm ứng phí phá sản trong thời hạn do Tòa án ấn định. - Người nộp đơn không có quyền nộp đơn. - Có Tòa án khác đã mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đó. - Có căn cứ rõ ràng cho thấy việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản do không khách quan gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc có sự gian dối trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản. - Doanh nghiệp chứng minh được mình không lâm vào tình trạng phá sản. Trường hợp Tòa án trả lại đơn, trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án, người làm đơn có quyền khiếu nại với Chánh án Tòa án đó. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án phải ra một trong các quyết định sau: - Giữ nguyên quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. - Hủy quyết định trả lại đơn yêu cầu và thụ lý đơn theo quy định của Luật phá sản. Tòa án phải thông báo cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản biết về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong vòng 05 ngày kể từ ngày thụ lý nếu người nộp đơn không phải là chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện của doanh nghiệp. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, doanh nghiệp phải xuất trình cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 4 điều 15 Luật phá sản năm 2004. 69
- Sau khi thụ lý đơn, nếu thấy việc giải quyết phá sản không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án đã thụ lý chuyển việc giải quyết cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người nộp đơn. Kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, việc giải quyết các yêu cầu sau đây đòi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ về tài sản phải tạm đình chỉ: - Thi hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp là người phải thi hành án. - Giải quyết vụ án đòi doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản. - Xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với các chủ nợ có bảo đảm, trừ trường hợp được Tòa án cho phép. 3.1.3. Mở thủ tục phá sản Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản. Nếu thấy không có đủ căn cứ thì Tòa án ra quyết định không mở thủ tục phá sản. Quyết định này phải được gửi cho người làm đơn. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, người làm đơn có quyền khiếu nại với chánh án Tòa án đó. Nếu thấy đủ căn cứ chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản. Quyết định này phải được gửi cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Viện kiểm sát cùng cấp, và đăng báo địa phương, báo hàng ngày của trung ương trong 03 số liên tiếp. Quyết định này phải được thông báo cho chủ nợ, người mắc nợ. Thời hạn cho việc gửi, thông báo là 07 ngày kể từ ngày ra quyết định. Quyết định mở thủ tục phá sản kéo theo các vấn đề pháp lý sau: - Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, thẩm phán ra quyết định thành lập tổ quản lý, thanh lý tài sản. Đây là cơ quan làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Thành phần của Tổ bao gồm một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm tổ trưởng, một cán bộ của Tòa án, một đại diện của chủ nợ, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản. Ngoài ra trong trường hợp cần thiết còn có đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn do thẩm phán quyết định. - Quyền đòi nợ và nghĩa vụ gửi giấy đòi nợ của các chủ nợ. Về nguyên tắc, mọi chủ nợ của doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản đều có quyền gửi giấy đòi nợ đến Tòa án có thẩm quyền. Để hưởng quyền đòi nợ của mình, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ đến Tòa án trong vòng 60 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo về 70
- quyết định mở thủ tục phá sản. Giấy đòi nợ phải nêu cụ thể các khoản nợ, số nợ đến hạn và chưa đến hạn, số nợ có bảo đảm và không có bảo đảm; kèm theo đó là các tài liệu chứng minh. Nếu hết thời hạn này mà chủ nợ không gửi giấy đòi nợ thì được coi là từ bỏ quyền đòi nợ. - Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản; trách nhiệm kiểm kê tài sản. Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của thẩm phán và tổ quản lý, thanh lý tài sản. Quy định này nhằm mục đích tạo cơ hội tái tổ chức hoạt động kinh doanh để cứu vớt doanh nghiệp vượt ra khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Nhằm bảo vệ tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và các chủ thể liên quan, doanh nghiệp bị cấm thực hiện một số hoạt động sau: cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các hoạt động sau chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán: cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và trả lương cho người lao động. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp phải kiểm kê toàn bộ tài sản theo bảng kê chi tiết đã nộp cho Tòa án và xác định trị giá các tài sản đó. Tòa án có thể áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Đó là quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp khi thấy cần thiết theo đề nghị của tổ quản lý, thanh lý tài sản; hoặc tuyên bố các giao dịch của doanh nghiệp là vô hiệu theo yêu cầu của chủ nợ không có bảo đảm, tổ quản lý, thanh lý tài sản; hay ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ, doanh nghiệp, tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản nếu xét thấy việc đình chỉ này có lợi hơn cho doanh nghiệp; hay đình chỉ thi hành án dân sự, đình chỉ giải quyết vụ án và giải quyết vụ án bị đình chỉ trong thủ tục phá sản. 3.1.4. Hội nghị chủ nợ 71
- a. Thành phần tham gia Hội nghị chủ nợ Các chủ thể có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ: - Các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ. Chủ nợ có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia và người được ủy quyền có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ. - Đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền. Trong trường hợp này họ có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ. - Người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp, và họ trở thành chủ nợ không có bảo đảm Nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ thuộc về người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi người nộp đơn là doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Nếu họ không tham gia vào hội nghị chủ nợ thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia. Người được ủy quyền có quyền và nghĩa vụ như người ủy quyền. Đối với doanh nghiệp tư nhân mà chủ doanh nghiệp đã chết thì người thừa kế hợp pháp của người đó tham gia. b. Thủ tục triệu tập Hội nghị chủ nợ Thẩm phán phải triệu tập hội nghị chủ nợ trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập xong danh sách chủ nợ. Trường hợp việc kiểm kê tài sản của doanh nghiệp kết thúc sau ngày lập xong danh sách chủ nợ thì thời hạn này tính từ ngày kiểm kê xong tài sản. Các hội nghị chủ nợ tiếp theo có thể được thẩm phán triệu tập bất kỳ theo đề nghị của tổ quản lý, thanh lý tài sản hoặc của các chủ nợ đại diện cho ít nhất 1/3 tổng số nợ không có bảo đảm. Giấy triệu tập phải được gửi cho người có quyền và nghĩa vụ tham gia chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai mạc hội nghị. Kèm theo là chương trình, nội dung của hội nghị và các tài liệu khác. c. Điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có đầy đủ hai điều kiện sau: - Có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm tham dự. - Có sự tham gia của người có nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ được hoãn một lần trong các trường hợp sau: - Không đủ quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm tham dự. - Quá nợ số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại hội nghị biểu quyết hoãn hội nghị. - Người có nghĩa vụ tham gia hội nghị vắng mặt có lý do chính đáng. 72
- Thẩm phán ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản trong những trường hợp sau: - Khi hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu là chủ nợ hoặc người lao động không tham gia hội nghị chủ nợ được triệu tập lại. - Trường hợp chỉ có doanh nghiệp/chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước/cổ đông của công ty cổ phần/thành viên hợp danh của công ty hợp danh nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà những người này không tham gia hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính đáng. - Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản rút lại đơn; nếu doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp danh nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà chỉ có một hoặc một số người rút đơn thì Tòa án vẫn tiến hành thủ tục phá sản. 3.2. Phục hồi hoạt động kinh doanh 3.2.1. Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi kinh doanh Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi kinh doanh sau khi hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ và yêu cầu doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi và nộp cho Tòa án trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết. Điều kiện để áp dụng thủ tục phục hồi là: - Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất tổ chức thành. - Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ và yêu cầu doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. 3.2.2. Xem xét, thông qua phương án phục hồi Thẩm phán phải xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được phương án để ra quyết định đưa phương án ra hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định; hoặc đề nghị sửa đổi, bổ sung nếu thấy phương án chưa đảm bảo nội dung theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định phục hồi ra hội nghị chủ nợ, thẩm phán phải triệu tập hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án phục hồi. 73
- Nghị quyết về phương án phục hồi được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành. 3.2.3. Công nhận nghị quyết về phương án phục hồi và giám sát thực hiện phương án phục hồi Thẩm phán ra quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Nghị quyết này có hiệu lực đối với tất cả các bên có liên quan. Sau khi thẩm phán ra quyết định công nhận, tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể. Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh sẽ do chính doanh nghiệp tự tiến hành với cơ chế giám sát thích hợp. Sáu tháng một lần, doanh nghiệp phải gửi cho Tòa án báo cáo về tình hình thực hiện phương án phục hồi. Chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi của doanh nghiệp. Kết thúc giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh, Tòa án phải ra một trong hai quyết định sau: - Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. - Mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Trường hợp này rõ ràng cần thành lập lại tổ quản lý, thanh lý tài sản, nhưng vấn đề này lại không được quy định trong Luật phá sản. 3.2.4. Thời hạn thực hiện phương án phục hồi Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là 03 năm, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Tòa án công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp. Thời hạn này mở rộng hơn so với quy định trong Luật phá sản doanh nghiệp là 02 năm. Luật phá sản năm 2004 cho phép các chủ nợ và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện phương án phục hồi được quyền thỏa thuận về sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi. Thỏa thuận này dược chấp nhận khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đồng ý. 3.2.5. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và hậu quả pháp lý Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh nếu có một trong các trường hợp sau: - Doanh nghiệp đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. 74
- - Được quá nửa số phiếu của chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý đình chỉ. Hậu quả pháp lý đầu tiên của quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp được coi là không còn lâm vào tình trạng phá sản. Bên cạnh đó, việc thi hành án dân sự chưa được thi hành hoặc việc giải quyết vụ án bị đình chỉ chưa được giải quyết thì ngay sau quyết định đình chỉ, việc thi hành án hoặc giải quyết vụ án được tiếp tục. Tòa án ra quyết định đình chỉ phải gửi trả hồ sơ vụ án cho tòa án có thẩm quyền để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. 3.3. Thanh lý tài sản, các khoản nợ 3.3.1. Các trường hợp Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản trong các trường hợp sau: - Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã được nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh mà vẫn không phục hồi được và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Đây là trường hợp đặc biệt không cần phải triệu tập hội nghị chủ nợ. - Khi hội nghị chủ nợ không thành trong các trường hợp: (1) chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không tham gia hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính đáng hoặc sau khi hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ, người lao động; (2) không đủ số chủ nợ tham gia hội nghị chủ nợ sau khi chủ nợ đã được hoãn một lầm nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không phải là chủ nợ, người lao động. - Khi hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với dự kiến các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ và yêu cầu doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh mà: (1) doanh nghiệp không xây dựng được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong thời hạn 30 ngày; (2) hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; (3) doanh nghiệp thực hiện không đúng hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp các bên liên quan có thỏa thuận khác 3.3.2. Khiếu nại, kháng nghị và giải quyết khiếu nại, kháng nghị về quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các chủ nợ có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. Những người mắc nợ doanh nghiệp có quyền khiếu nại phần quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp liên quan đến nghĩa vụ trả nợ của mình. 75
- Thời hạn khiếu nại, kháng nghị là 20 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. 3.3.3. Tài sản phá sản và thứ tự phân chia tài sản Tài sản phá sản là tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được xác định từ thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Ngoài ra nó còn là những tài sản được thu hồi từ các giao dịch của doanh nghiệp bị coi là vô hiệu quy định tại điều 43 Luật phá sản năm. Thứ tự phân chia tài sản là: (1) các khoản nợ có bảo đảm; (2) phí phá sản; (3) các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết; (4) Các khoản nợ không có bảo đảm. Trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp sau khi đã thanh toán các khoản theo quy định mà vẫn còn thì phần còn lại thuộc về: chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên của công ty, các cổ đông của công ty cổ phần, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước. 3.3.4. Đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản trong các trường hợp sau đây: - Doanh nghiệp không còn tài sản để thực hiện phương án phân chia tài sản. - Phương án phân chia tài sản đã thực hiện xong. Quyết định này khép lại thủ tục thanh lý tài sản để Tòa án tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. 3.4. Tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản 3.4.1. Các trường hợp Tòa án tuyên bố phá sản Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong các trường hợp sau: - Đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản, thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. - Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết hạn nộp tiền tạm ứng phí phá sản do Tòa án ấn định, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp nộp đơn yêu cầu mở thủ tục thanh lý tài sản không còn tiền và tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. - Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục thanh lý tài sản và nhận được các tài liệu, giấy tờ do các bên có liên quan gửi đến, Tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản nếu doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản. 76
- Trường hợp ra quyết định tuyên bố phá sản thứ nhất được xem là thủ tục phá sản thông thường. Hai trường hợp còn lại là thủ tục phá sản đặc biệt, bởi vì lúc này doanh nghiệp không còn tài sản hoặc còn tài sản nhưng không đủ để nộp tiền tạm ứng phí phá sản hay không đủ để thanh toán phí phá sản. Do đó mà Tòa án không thể thực hiện được thủ tục thông thường mà phải rút gọn nó. Quyết định tuyên bố phá sản không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Các nghĩa vụ về tài sản phát sinh sau khi có quyết định được giải quyết theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 3.4.2. Thông báo quyết định tuyên bố phá sản Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, Tòa án phải gửi quyết định tới doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, chủ nợ, người mắc nợ doanh nghiệp, và đăng báo. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực pháp luật, Tòa án phải gửi quyết định cho cơ quan đăng ký kinh doanh để xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. 3.4.3. Khiếu nại, kháng nghị và giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, chủ nợ, người mắc nợ doanh nghiệp có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản. Thời hạn cho quyền khiếu nại, kháng nghị là 20 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định tuyên bố phá sản. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày hết hạn khiếu nại, kháng nghị, Tòa án đã ra quyết định phải gửi hồ sơ về phá sản kèm theo đơn khiếu nại, kháng nghị cho Tòa án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận hồ sơn, tổ thẩm phán (gồm 03 người) do chánh án Tòa án cấp trên thành lập phải xem xét, giải quyết và ra quyết định không chấp nhận khiếu nại, kháng nghị và giữ nguyên tuyên bố phá sản; hoặc ra quyết định hủy tuyên bố phá sản và giao hồ sơ phá sản cho Tòa án cấp dưới tiếp tục tiến hành thủ tục phá sản. Quyết định giải quyết khiếu nại, kháng nghị là quyết định cuối cùng và có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định. Quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản không bị khiếu nại, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn khiếu nại, kháng nghị. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích khái niệm phá sản theo quy định của pháp luật Việt Nam? 77
- 2. So sánh phá sản và giải thể? 3. Trình bày vai trò của pháp luật phá sản? 4. Thủ tục phá sản? CHƯƠNG 4 GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI 1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 1.1. Tranh chấp thương mại Tranh chấp thương mại và tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Khái niệm này mới được sử dụng ở nước ta trong mấy năm gần đây, bởi trước đây là sự tồn tại của khái niệm tranh chấp kinh tế rất quen thuộc trong cơ chế kinh tế tập trung bao cấp. Về mặt khái niệm, tranh chấp thương mại được hiểu là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Như vậy, các yếu tố của tranh chấp thương mại gồm có: Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. Thứ hai, những mâu thuẫn, bất đồng nêu trên phải phát sinh từ hoạt động thương mại. Thứ ba, những mâu thuẫn, bất đồng nêu trên phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân. 1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại Trên thế giới cũng như tại Việt Nam hiện nay, có bốn phương thức để giải quyết tranh chấp thương mại, đó là: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. 1.2.1. Thương lượng Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất, thông dụng và phổ biến nhất được các bên tranh chấp áp dụng rộng rãi để giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội, và trong hoạt động thương mại không phải là ngoại lệ. Nó là phương thức giải quyết tranh chấp được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết những bất đồng phát 78
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Luật kinh tế
96 p | 11084 | 4496
-
Giáo trình luật kinh tế Việt Nam
96 p | 2175 | 790
-
Giáo trình Luật kinh tế CHƯƠNG I ĐẠI CƯƠNG VỀ LUẬT KINH TẾ BÀI 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LUẬT KINH TẾ
43 p | 2379 | 775
-
Giáo trình Luật kinh tế (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1 - ThS. Trần Thị Vân Trà
58 p | 200 | 47
-
Giáo trình Luật kinh tế - Nghề: Kế toán doanh nghiệp (Trung cấp) - CĐ Nghề Đà Lạt
167 p | 182 | 31
-
Giáo trình Luật kinh tế: Phần 2 - CĐ Đông Phương
46 p | 165 | 25
-
Giáo trình Luật kinh tế: Phần 1 - CĐ Đông Phương
67 p | 170 | 25
-
Giáo trình Luật kinh tế - Trần Ngọc Hoàng Vũ
288 p | 75 | 19
-
Giáo trình Luật Kinh tế (Nghề Kế toán doanh nghiệp - Trình độ Cao đẳng) - CĐ GTVT Trung ương I
56 p | 53 | 13
-
Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam: Phần 1
193 p | 34 | 11
-
Giáo trình Luật kinh tế - ĐH Đà Nẵng
41 p | 76 | 11
-
Giáo trình Luật kinh tế: Phần 1 - NXB Công an Nhân dân
364 p | 27 | 10
-
Giáo trình Luật Kinh tế (Nghề Khai thác vận tải đường bộ - Trình độ Trung cấp) - CĐ GTVT Trung ương I
56 p | 63 | 7
-
Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam: Phần 2
196 p | 24 | 7
-
Giáo trình Luật kinh tế (Nghề: Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ) - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
47 p | 60 | 5
-
Giáo trình Luật kinh tế - Trường Cao đẳng Nghề An Giang
147 p | 24 | 4
-
Giáo trình Luật kinh tế (Nghề: Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ - Trình độ: Cao đẳng nghề) - Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai
47 p | 28 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn