intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Luật kinh tế: Phần 2 - CĐ Đông Phương

Chia sẻ: Trần Văn Tân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:46

166
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nố tiếp phần 1 cuốn giáo trình Luật kinh tế phần 2 với 3 chương cuối trình bày về pháp luật về hợp tác xã, pháp luật về phá sản, pháp luật về mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, giao kết hợp đồng mua bán, giải thể hợp tác xã,... Hãy tham khảo tài liệu này để giúp ích cho quá trình học tập và giảng dạy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Luật kinh tế: Phần 2 - CĐ Đông Phương

  1. - Chia lợi nhuận cho tổng Công ty theo vốn tổng Công ty đầu tư để hình thành quỹ tập trung của tổng Công ty; - Chịu sự giám sát, kiểm tra của Tổng Công ty; định kỳ báo cáo chính xác, đầy đủ các thông tin về Công ty và báo cáo tài chính của Công ty với Tổng Công ty. b. Với đơn vị sự nghiệp: Đơn vị sự nghiệp hoạt động theo quy chế do Hội đồng Quản trị tổng Công ty phê duyệt, thực hiện chế độ phân cấp hạch toán do tổng Công ty quy định, được tạo nguồn thu từ việc thực hiện các hợp đồng cung cấp dịch vụ, nghiên cứu khoa học và đào tạo, chuyển giao công nghệ với các đơn vị trong và ngoài tổng Công ty. c. Với các Công ty do Tổng Công ty đầu tư và nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ: Tổng Công ty thực hiện quyền nghĩa vụ của chủ sở hữu theo quy định của ge Luật doanh nghiệp. d. Với các Công ty có vốn góp chi phối của tổng Công ty: le Tổng Công ty thực hiện quyền, nghĩa vụ của cổ đông hoặc thành viên góp vốn chi phối thông qua đại diện của mình tại Công ty đó theo quy định của Luật ol doanh nghiệp năm 2003. C PD C 67
  2. CHƯƠNG V PHÁP LUẬT VỀ HỢP TÁC XÃ I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP TÁC XÃ 1. Khái niệm hợp tác xã: Trong những năm qua, công cuộc đổi mới đã thực sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến kinh tế hợp tác và phong trào hợp tác hoá, một mặt cho thấy tuyệt đại đa số các hợp tác xã kiểu cũ đã bộc lộ tính không phù hợp với yêu cầu đổi mới, một bộ phận không nhỏ các hợp tác xã đã tan rã hoặc tồn tại trên danh nghĩa và trở thành lực cản đối với sự phát triển của hợp tác xã, một số hợp tác xã còn lại gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong việc chuyển đổi sang hợp tác xã kiểu mới và trong hoat động hiện nay. Để tạo khuôn khổ pháp lý cho các hợp tác xã hoạt động, tháng 3 năm ge 1996 Quốc hội đã thông qua Luật hớp tác xã và có hiệu lực từ ngày 01/01/1997; các văn bản dưới luật như Nghị định số 02/CP ngay 02/01/1997 quy định về quản lý nhà nước đối với hợp tác xã; Nghị định số 15/CP ngày 21/02/1997 về chuyển đổi và đăng ký hợp tác xã và tổ chức hoạt động của liên hiệp hợp tác xã le và các nghị định về điều lệ mẫu các loại hình hợp tác xã lần lượt được ban hành. ol Hiện nay, các hợp tác xã kiểu cũ đang đòi hỏi phải giải quyết cấp bách các vấn đề đặt ra để chuyển đổi thành hợp tác xã kiểu mới theo Luật hợp tác xã hay giải thể, chuyển sang các tổ chức kinh tế hợp tác của nông dân theo Bộ luật C dân sự,còn những tổ chức kinh tế hợp tác của nông dândax hình thành và đang phát triển thành hợp tác xã kiểu mới, đa dạng thích hợp với điều kiện của mình. Để đáp ứng nguyện vọng của nông dân và phần lớn nhân dân lao động hoạt PD động trong một số ngành kinh tế khác đồi hỏi phải có sự hợp tác thì địa vị pháp lý của đơn vị hợp tác xã cần phải khẳng định.Do đó,Luật hợp tác xã năm 2003 ra đời thay thế Luật hợp tác xã năm 1996 đã tạo được hành lang pháp lí cụ thể, bao quát hơn cho hợp tác xã phát triển, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã C hội của đất nước, tạo động lực thúc đẩy hợp tác xã phát triển đồng thời một số nghị định của Chính phủ về hợp tác xã cũng đã được ban hành như Nghị định của Chính phủ số 177/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hợp tác xã năm năm n2003 và Nghị định của Chính Phủ số 87/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 về đăng kí kinh doanh hợp tác xã. Điều 1 Luật hợp tác xã năm 2003 quy định:” Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên), có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyên góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phàn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi 68
  3. vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật”. Như vậy, từ định nghĩa trên đã khẳng định hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tâp thể có tư cách pháp nhân như một doanh nghiệp, được thành lập do các xã viên tự nguyện liên kết lại nhằm giải quyết, đáp ứng nhu cầu và lợi ích về kinh tế, văn hoá, xã hội thông qua việc thành lập một tổ chức kinh tế sở hữu tập thể, có góp vốn và quản lí dân chủ. Hợp tac xã được xây dựng trên cơ sở ác giá trị vè sự tự giúp đỡ, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, công bằng và đoàn kết. 2. Đặc điểm của hơp tác xã: Từ quan niệm trên đây về hợp tác xã, có thể rút ra hợp tác xã có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, xét về góc độ kinh tế, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế cơ bản và quan trọng nhất của thành phần kinh tế tập thể, "kinh tế tập thể dựa trên cơ sở hữu của các xã viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, ge các hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn". Như vậy, đặc trưng của hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể và dựa trên sở hữu của các le xã viên hợp tác xã, từ đó mà phát sinh các quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối tương ứng. ol Hợp tác xã là một hình thức của quan hệ kinh tế hợp tác xã tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh C của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh cũng như đời sống kinh tế và mục tiêu xa hơn là nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi xã viên. PD Thứ hai, xét về góc độ xã hội, hợp tác xã mang tính chất xã hội sâu sắc. Tính xã hội của hợp tác xã thể hiện trong toàn bộ nguyên tắc tổ chức, hoạt động của mình. Với việc tạo điều kiện cho những người lao động, những người sản xuất nhỏ chẳng những có thể trụ vững trong thị trường cạnh tranh mà còn đẩy C mạnh sự phát triển, xóa bớt một số gánh nặng về thất nghiệp, chất lượng cuộc sống ... cho xã hội. Ngoài ra, từ hoạt động của mình, hợp tác xã đã giáo dục, nâng cao tinh thần hợp tác cho các xã viên hợp tác xã. Tuy nhiên, những hoạt động có ý nghĩa xã hội như trên sẽ chỉ đạt được hiệu quả khi nó được đặt trên nền tảng của hoạt động kinh tế. Thứ ba, xét về góc độ pháp lý, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Về tổ chức, hợp tác xã bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người nhiều vốn và người ít vốn (thực hiện nguyên tắc đối nhân, khác với nguyên tắc đối vốn trong công ty cổ phần), cùng góp vốn và góp sức trên sơ cở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế được thành lập theo thủ tục pháp lý nhất định, có đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản tách biệt so với tài sản của các xã viên, có thểm quyền nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật. Tuy vậy, hợp tác xã có một số đặc trưng 69
  4. khác với các loại hình doanh nghiệp khác như sau: Loại hình hợp tác xã được quyết định không phải bởi số vốn góp mà là yếu tố xã viên hợp tác xã. Trong mỗi loại hình hợp tác xã ở từng lĩnh vực cụ thể luôn đòi hỏi số lượng xã viên nhất định. Ngoài ra, nguyên tắc "xã viên hợp tác có quyền ngang nhau trong biểu quyết" (khoản 2 Điều 7 Luật hợp tác xã năm 2003) là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, không thuần túy để thu lợi nhuận trên số vốn góp. Về hình thức sở hữu tài sản trong hợp tác xã gồm hai phần: Sở hữu tập thể và sở hữu mang tính chất cổ phần, tức là trong hợp tác xã có bộ phận tài sản chung như các công trình phục vụ sản xuất, công trình phúc lợi văn hóa, xã hội, kết cấu hạ tầng phục vụ cho cộng đồng dân cư được hình thành từ quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi của hợp tác xã, các nguồn vốn được tài trợ bởi Nhà nước hay quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước và có bộ phận tài sản được hình thành từ vốn góp của các xã viên. Thứ tư, về tổ chức quản lý, các hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc tự ge chủ, tự chịu trách nhiệm. Hợp tác xã hoạt động lấy lợi ích kinh tế là chính bao gồm lợi ích của các xã viên và lợi ích của tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các xã viên. Đánh giá hiệu quả kinh tế - chính trị - xã hội. Mối quan hệ le giữa các xã viên hợp tác xã với hợp tác xã dựa trên vị trí tương đối độc lập nhưng lại gắn bó với nhau sâu sắc. Hợp tác xã luôn tôn trọng quyền độc lập, tự chủ kinh tế của xã viên. Khi xã viên là một hộ hia đình hay thậm chí là một tổ ol chức, pháp nhân thì khi trở thành xã viên hợp tác xã sẽ thực hiện những quy định trong điều lệ hợp tác xã và hợp tác xã không có bất cứ sự can thiệp nào C ngoài những quy định trong điều lệ của mình. Thứ năm, về phần phối, kinh tế hợp tác xã thực hiện phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ. PD Theo luật hợp tác xã năm 2003 và Nghị định số 177/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật hợp tác xã năm 2003, hợp tác xã được coi là tổ chức kinh tế hoạt động như doanh nghiệp. C Hợp tác xã được quyết định không phải bởi số vốn góp mà là yếu tố xã viên hợp tác xã. Vì vậy, việc phân phối trong hợp tác xã không chỉ dựa theo nguyên tắc vốn góp mà còn theo lao động và tùy thuộc mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Từ những đặc điểm trên cho thấy hợp tác xã có nhiều điểm khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp được thành lập theo Luật doanh nghiệp năm 1999. Sự khác biệt đó không chỉ nói lên bản chất của hợp tác xã mà còn khẳng định ưu thế, vị trí, vai trò của hợp tác xã trong nền kinh tế nói chung. Đó chính là một hình thức tổ chức kinh tế giúp phát huy mọi khả năng kinh tế chưa được khai thác hết, đặc biệt trong nền kinh tế đa thành phần như hiện nay. II. NGUYÊN TẮC, TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ: Hoạt động của hợp tác xã tuy dựa trên sự tự quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng để nó thực sự có hiệu quả đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc tổ chức, hoạt động nhất định. Những nguyên tắc này giúp cho hợp 70
  5. tác xã định hướng được đường lối phát triển, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, vừa phù hợp với đường lối chính sách của đảng và Nhà nước. Điều 5 Luật hợp tác xã năm 2003 đã ghi nhận cụ thể 4 nguyên tắc về tổ chức, hoạt động của hợp tác xã, cụ thể gồm: 1. Nguyên tắc tự nguyện: Nguyên tắc "tự nguyện gia nhập và ra hợp tác xã" được ghi nhận tại khoản 1 Điều 5 Luật hợp tác xã năm 2003. Theo nguyên tắc này: "Mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật này, tán thành điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập hợp tác xã; xã viên có quyền ra hợp tác xã theo quy định của điều lệ hợp tác xã". Khoản 1 Điều 2 Nghị định của Chính phủ số 177/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật hợp tác xã năm 2003 cũng đã quy định cụ thể nguyên tắc này như sau: "Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân, cán bộ, công chức Nhà nước có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 10 Nghị định này, tán thành ge điều lệ hợp tác xã và có đơn xin gia nhập hoặc xin ra hợp tác xã. Đối với xã viên của các hợp tác xã đã đăng ký và hoạt động theo Luật hợp tác xã năm 1996 được miễn trừ đơn xin gia nhập hợp tác xã nhưng nếu xin ra hợp tác xã thì phải có đơn". le Riêng việc hợp tác xã tham gia liên hiệp hợp tác xã phải được đại hội xã viên biểu quyết thông qua. ol Như vậy, nguyên tắc này được áp dụng đối với các đối tượng muốn gia C nhập hay ra khỏi hợp tác xã, bao gồm cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân, cán bộ, công chức Nhà nước có đủ điều kiện về sự tự nguyện, đóng góp tài sản vào hợp tác xã. Việc gia nhập hay ra khỏi hợp tác xã đều được quyết định bởi sự tự PD nguyện của các đối tượng, tức là các đối tượng sẽ không chịu sự áp đặt của bất cứ ai. Nguyên tắc này được đề cập và đã được khẳng định ngay từ khi hợp tác xã xuất hiện. Theo Ăng-Ghen: "Nông dân trong một làng hay là một nhà xứ ... C phải kết hợp toàn bộ ruộng đất của họ lại thành một doanh nghiệp lớn duy nhất, cùng bỏ sức cày cấy chung và chia hoa lợi theo tỷ lệ ruộng đất đã góp vào, tiền bạc đã bỏ ra và lao động làm được..." Còn Lênin cũng đã khẳng định: "... Công xã nông nghiệp được thiết lập nên một cách tự nguyện, việc chuyển sang lối canh tác chung ruộng đất chỉ có thể thực hiện được do tinh thần tự nguyện mà thôi. Về mặt này, Chính phủ công nông không thể dùng một biện pháp cưỡng chế nào. Pháp luật cấm dùng biện pháp đó". Như vậy, nguyên tắc này không phải là lần đầu tiên được ghi nhận mà nó đã được ghi nhận từ ngay khi xuất hiện loại hình hợp tác xã. Điều đó cũng có nghĩa là ngay từ đầu bản chất của hợp tác xã đã được ghi nhận và đã được nhận thức một cách đầy đủ. Pháp luật các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều ghi nhận nguyên tắc này, đó chính là sự kế thừa, sự phản ánh nhận thức về loại hình hợp tác xã dù có những quy định khác nhau nhưng đều dựa trên bản chất vốn của các loại hình kinh tế này. Bất cứ sự thay đổi nào, Nhà nước, pháp luật cũng không được đưa ra những biện pháp nhằm ép buộc các xã viên hợp tác xã tham gia vào tổ chức kinh tế này. Quy định này đã 71
  6. khẳng định bản chất pháp lý của hợp tác xã là hình thức tổ chức kinh tế tập thể được thành lập do sự tự nguyện gia nhập của các xã viên. Hơn nữa, việc quy định như trên sẽ tạo tiền đề thúc đẩy sự tham gia của mọi đối tượng vào hợp tác xã, đặc biệt với đối tượng chỉ có điều kiện kinh tế nhất định. 2. Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai: Theo khoản 2 Điều 5 Luật hợp tác xã năm 2003 và thì nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai được hiểu là: "Xã viên hợp tác xã có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong điều lệ hợp tác xã". Điều này cũng được quy định cụ thể trong khoản 2 Điều 2 Nghị định số 177/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004: Tất cả xã viên cùng tham gia quản lý hợp tác xã. Biểu quyết của xã viên có giá trị như nhau; xã viên có quyền đề đạt và yêu cầu Ban ge quản trị, ban kiểm soát giải thích và trả lời, xã viên có quyền đưa ra đại hội xã viên để giải quyết; hợp tác xã công khai tới xã viên trong đại hội xã viên hoặc thông báo bằng văn bản định kỳ trực tiếp tới từng xã viên, nhóm xã viên cùng sinh sống theo địa bàn hoặc thông tin trên bản tin hằng ngày tại trụ sở hợp tác xã le về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, việc trích lập các quỹ, chia lãi theo vốn góp, theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã; các đóng góp xã hội; các ol quyền lợi nghĩa vụ của từng xã viên trừ những vấn đề thuộc về lý luận kinh doanh, bí quyết công nghệ sản xuất do đại hội xã viên quy định. C Nguyên tắc này đã ghi nhận quyền của xã viên, là một nguyên tắc buộc hợp tác xã phải thực hiện trong quá trình tổ chức hoạt động của mình. Các xã viên hợp tác xã có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của hợp PD tác xã. Như vậy, các xã viên được trình bày, nêu ra các phương hướng, chiến lược cho hợp tác xã, có quyền được điều hành các hoạt động của hợp tác xã, có quyền được điều hành các hoạt động của hợp tác xã. Ngoài ra, trong quá trình tổ chức, thực hiện các hoạt động sản xuất cũng như các hoạt động khác của hợp tác C xã, có quyền được xem xét, giám sát hoạt động đó có đúng so với chỉ tiêu, kế hoạch, yêu cầu hay không; có quyền được nêu ý kiến đồng ý hay bác bỏ, được trình bày ý kiến với cơ quan có thẩm quyền... Nguyên tắc này còn biểu hiện ở những điểm như: Tập thể quyết định tất cả các vấn đề trong quá trình hoạt động và phát triển của hợp tác xã. Các cơ quan quản lý và kiểm soát của hợp tác xã đều do đại hội xã viên bầu ra. Như vậy, nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai đã khẳng định quyền của các xã viên đối với hoạt động, tổ chức của hợp tác xã. Sự dân chủ được thể hiện ở chỗ, cá nhân hay tổ chức nào có quyền áp đặt cho các xã viên hợp tác xã. Sự bình đẳng có ý nghĩa là các xã viên hợp tác xã có vị trí ngang nhau, quyền lợi và nghĩa vụ ứng với những yêu cầu theo điều lệ hợp tác xã. Yếu tố bình đẳng còn được phản ánh ở quy định có quyền ngang nhau trong biểu quyết, tức là "một xã viên - một phiếu". Dù xã viên đó là cá nhân, hộ gia đình hay pháp nhân thì khi tham gia vào hợp tác xã, họ sẽ có địa vị pháp lý ngang 72
  7. nhau, có quyền nêu ý kiến, được biểu quyết như nhau. Từ quy định này một lần nữa khẳng định yếu tố đối nhân (con người) quyết định đến thành lập, hoạt động của hợp tác xã, bên cạnh yếu tố vốn góp. Về sự công khai, mọi xã viên hợp tác đều có quyền được biết về mọi hoạt động của hợp tác xã, về tình hình của hợp tác xã và hợp tác xã trong khi hoạt động luôn đảm bảo phải báo cáo đầy đủ, kịp thời cho các xã viên của mình. Việc đề ra nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai lại một lần nữa khẳng định bản chất của hợp tác xã có sự khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác. Hợp tác xã thực sự là một tổ chức kinh tế tập thể dành cho mọi đối tượng trong xã hội và đây cũng chính là môi trường để các đối tượng trong xã hội có thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế. Việc ghi nhận nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai trong văn bản pháp lý có giá trị cao như Luật hợp tác xã năm 2003 đã thể hiện rõ quan điểm khuyến khích mọi đối tượng trong xã hội tham gia vào hợp tác xã và hơn nữa Nhà nước ta ghi nhận bản chất thực sự của hợp tác xã. Có thể nói, từ nguyên tắc ge này sẽ thúc đẩy các cá nhân, hộ gia đình, thậm chí pháp nhân tích cực tham gia vào hợp tác xã, đưa hợp tác xã trở thành một tổ chức kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế nói chung. le 3. Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: Mục đích chính của hợp tác xã là nhằm nâng cao đời sống cho các xã ol viên, từ đó thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế - xã hội. Như vậy, hợp tác xã có trách nhiệm không chỉ đối với các xã viên của mình mà còn có trách nhiệm với C Nhà nước, với toàn xã hội. Để thực hiện trách nhiệm ấy, khoản 3 Điều 5 Luật hợp tác xã đã ghi nhận nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi với nội dung cụ thể là: "Hợp tác xã tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động PD sản xuất, kinh doanh, tự quyết định về phân phối thu nhập, sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của hợp tác xã, một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã". C Nguyên tắc này cụ thể như sau: Hợp tác xã tự quyết định lựa chọn phương án sản xuất, kinh doanh; phân phối kết quả sản xuất, kinh doanh; lập và trích lập các quỹ; mức tiền công, tiền lương đối với những người làm việc cho hợp tác xã; hợp tác xã tự lựa chọn và quyết định: hình thức, thời điểm huy động vốn; chủ động sử dụng vốn và tài sản của mình, chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; tổ chức thực hiện hợp đồng và chịu trách nhiệm theo pháp luật về hợp đồng đã ký kết; hợp tác xã tự chịu trách nhiệm về những rủi ro trong quá trình hoạt động. Mỗi xã viên trong hợp tác xã cùng chịu trách nhiệm về những rủi ro của hợp tác xã trong phạm vi vốn góp của mình, cùng nhau quyết định những giải pháp khắc phục rủi ro, các xã viên hợp tác xã cùng hưởng lợi theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 18 Luật hợp tác xã năm 2003. Như vậy, nguyên tắc này đã khẳng định: Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, hợp tác xã phải tự mình đề ra kế hoạch, tổ chức và thực hiện kế hoạch hoạt động của mình trong phạm vi nội dung đăng ký kinh doanh cũng như 73
  8. phần vốn góp của mình có. Không có bất kỳ tổ chức, cá nhân nào từ bên ngoài chịu trách nhiệm cùng hợp tác xã hoạt động giống như mọi doanh nghiệp có tư cách pháp nhân khác theo quy định của pháp luật hiện hành. Một nội dung quan trọng khác của nguyên tắc này là việc phân chia lợi nhuận: Về phân phối thu nhập, phải đảm bảo quyền lợi của hợp tác xã cũng như của các xã viên hợp tác xã là yêu cầu tất yếu khách quan. Nguyên tắc này khẳng định yêu cầu cùng có lợi giữa hợp tác xã và xã viên của mình. Lợi ích thu được từ quá trình sản xuất, kinh doanh thì không thể hoặc chỉ dành cho hợp tác xã, hoặc chỉ dành cho các xã viên hợp tác xã mà nó phải đảm bảo được cả hai. Quy định như vậy sẽ đảm bảo cho hợp tác xã luôn có điều kiện để tiếp tục duy trì hoạt động và mở rộng phát triển đồng thời cũng đảm bảo cho các xã viên hợp tác xã có được quyền và lợi ích, nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao đời sống kinh tế - xã hội cho các xã viên của hợp tác xã. Theo nguyên tác này, việc phân phối thu nhập phải đảm bảo lợi ích của cả hợp tác xã và xã viên có ý nghĩa là đảm bảo hợp tác xã và xã viên cùng có lợi, ge đây là điểm khác biệt, chỉ có trong hình thức tập thể. Việc quy định như trên có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là nền tảng để hợp tác xã tổ chức, thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Ngoài ra, nó le sẽ giúp cho xã viên và hợp tác xã nhận thức đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ của mình, chỉ có như vậy thì hoạt đọng của hợp tác xã mới có hiệu quả và mới đảm ol bảo ý nghĩa kinh tế, xã hội của hợp tác xã. Mục tiêu của bất cứ tổ chức kinh tế nào cũng là lợi ích kinh tế. Hợp tác xã C dù là tổ chức có nhiều ý nghĩa xã hội nhưng bản chất vẫn là một tổ chức kinh tế nên mục tiêu của nó sẽ là sử dụng phần lãi có được từ kinh doanh như thế nào. PD Nguyên tắc này quy định thứ tự ưu tiên trong việc sử dụng phần lãi thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh. Như bất kỳ doanh nghiệp hay các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất kinh doanh nào, hợp tác xã cũng phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước. Sau đó họ phải thực hiện nghĩa vụ đối C với những khoản lỗ, nợ của hợp tác xã, chỉ như vậy hợp tác xã mới có thể đảm bảo điều kiện tiếp tục duy trì hoạt động. Bước tiếp theo, trích một phần nhất định vào các quỹ của hợp tác xã sao cho đảm bảo nguồn kinh phí cho các hoạt động khác nhau của hợp tác xã. Cuối cùng mới tính đến chia lãi cho các xã viên theo các căn cứ vốn góp và công sức đóng góp. Đặc biệt, nguyên tắc này còn có quy định hợp tác xã chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã phần lãi còn lại sau khi tiến hành phân chia các bước trên. Việc quy định có ý nghĩa rất lớn nó khuyến khích bản thân các xã viên hợp tác xã sử dụng dịch vụ của hợp tác xã và vô hình trung sẽ thúc đẩy hợp tác xã phát triển hơn. Vấn đề tài chính và quản lý tài chính luôn là khía cạnh vô cùng quan trọng trong hoạt động quản lý nói chung. Luật hợp tác xã năm 2003 đã ghi nhận một nguyên tắc giành cho hoạt động này đã tạo nên cơ sở giúp hợp tác xã có thể quản lý tốt hơn, đạt hiệu quả hơn, dung hòa được lợi ích của hợp tác xã với xã viên hợp tác xã và giữa tổ chức kinh tế với Nhà nước. 74
  9. 4. Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng: Mặt dù là một tổ chức kinh tế song hợp tác xã lại có ý nghĩa xã hội sâu sắc, đó là mục đích tương trợ, hỗ trợ để các xã viên ngày càng nâng cao điều kiện sống. Mục đích trên chỉ thực sự có ý nghĩa, hiệu quả khi các xã viên cùng hợp tác để phát triển. Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng đã được ghi nhận tại Đại hội Liên minh hợp tác xã quốc tế lần thứ 31 tại Manchester vào tháng 9/1995, khi Đại hội tiến hành xem xét và thông qua các nguyên tắc hợp tác xã cho thế kỷ XXI. Ở Việt Nam, nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng được ghi nhận tại khoản 4 Điều 5 Luật hợp tác xã năm 2003, với nội dung: "Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong hợp tác xã, trong cộng đồng xã hội; hợp tác giữa các hợp tác xã trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật". ge Nguyên tắc này thể hiện rất cụ thể yêu cầu đối với mọi xã viên hợp tác xã là có ý thức tinh thần xây dựng tập thể, cùng hợp tác với nhau trong nội bộ hợp tác xã và cao hơn nữa là hợp tác xã với nhau cả trong và ngoài nước. Điều đó le đòi hỏi mọi xã viên hợp tác xã phải nổ lực và cống hiến hết khả năng của mình nhằm xây dựng hợp tác xã phát triển nói riêng và của cả hệ thống hợp tác xã nói chung. ol Việc quy định nguyên tắc này đã đặt ra trách nhiệm đối với các xã viên C hợp tác xã: Xã viên hợp tác xã phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong hợp tác xã, trong cộng đồng xã hội; các hợp tác xã cùng hợp tác với nhau trong sản xuất, kinh doanh và trong xây dựng, phát triển PD phong trào hợp tác xã. Để hợp tác xã phát huy được vai trò, thể hiện bản chất của mình, đòi hỏi chính các xã viên phải cùng nhau đóng góp, xây dựng nên. Tóm lại, Điều 5 Luật luật hợp tác xã năm 2003 đã quy định những nguyên tắc trong tổ chức, hoạt động của hợp tác xã thực sự đã tạo nền tảng, kim chỉ nam C hướng dẫn cho các hợp tác xã trong tiến trình hoạt động phát triển của mình. Nhờ có các nguyên tắc này, các hợp tác xã đã tổ chức và hoạt động theo đúng mục tiêu của mình và ngày càng khẳng định được vị thế, vai trò của mình trong tiến trình phát triển nền kinh tế nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung. III. THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI VÀ GIẢI THỂ HỢP TÁC XÃ: 1. Thành lập và đăng ký kinh doanh hợp tác xã: Cũng như việc thành lập bất cứ tổ chức kinh tế nào, việc thành lập hợp tác xã cần phải đáp ứng những yêu cầu nhất định của pháp luật. Pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều có những quy định cụ thể về: Số lượng, thủ tục thành lập, đăng ký hoạt động ... đối với mỗi loại hình doanh nghiệp, trong đó có hợp tác xã. Ví dụ: Ở Cộng hòa liên ban Đức, yêu cầu số lượng xã viên tối thiểu là 7 xã viên cho mọi loại hình hợp tác xã hay ở Thái Lan, Singapore, yêu cầu số lượng xã viên tối thiểu là 10 xã viên ... Những quy định này được đặt ra sao cho 75
  10. phù hợp với điều kiện của từng quốc gia cũng như giúp cho các hợp tác xã khi thành lập đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và phát huy hết khả năng, tiềm lực, thế mạnh của mình. Ở Việt Nam, để hợp tác xã thực sự là một tổ chức kinh tế do những người lao động, tổ chức, pháp nhân có nhu cầu tự nguyện lập nên và để phù hợp với các đặc điểm kinh tế - xã của đất nước, Luật hợp tác xã năm 2003 đã quy định những bước cụ thể khi thành lập hợp tác xã như sau: Bước 1: Các sáng lập viên tiến hành tuyên truyền, vận động thành lập hợp tác xã Sáng lập viên theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 177/2004/NĐ-CP ngày 12/10/2004 là "công dân Việt Nam, tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ Luật dân sự; đại diện có đủ thẩm quyền của hộ gia đình hoặc pháp nhân, có hiểu biết pháp luật về hợp tác xã và khẳng định bằng văn bản cam kết sẽ xây dựng và phát triển ge hợp tác xã do mình khởi xướng thành lập". Trước khi vận động thành lập hợp tác xã, sáng lập viên phải báo cáo bằng văn bản với ủy ban nhân dân cấp xã nơi dự định đặt trụ sở chính của hợp tác xã le về việc thành lập, địa điểm đóng trụ sở, phương hướng sản xuất kinh doanh, kế hoạch hoạt động của hợp tác xã đồng thời tiến hành các công việc tuyên truyền, vận động các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân và cán bộ, công chức Nhà nước có ol nhu cầu tham gia hợp tác xã, xây dựng phương hướng sản xuất, kinh doanh; dự thảo điều lệ và xúc tiến các công việc cần thiết khác để tổ chức hội nghị thành C lập hợp tác xã. Việc quy định bước đầu tiên như vậy vừa đảm bảo cho đề án xây dựng, PD thành lập hợp tác xã có tính chất khả thi, vừa có thể giúp cho mọi cá nhân, tổ chức, pháp nhân có nhu cầu tham gia có thể có điều kiện tìm hiểu, góp ý kiến và cùng thành lập nên hợp tác xã. Bước 2: Tổ chức Hội nghị thành lập hợp tác xã C Hội nghị thành lập hợp tác xã do các sáng lập viên tổ chức, với thành phần bao gồm: Các sáng lập viên và những người có nguyện vọng trở thành xã viên. Nội dung chính của hội nghị là thảo luận phương hướng sản xuất kinh doanh, dịch vụ và kế hoạch hoạt động của hợp tác xã; thông qua dự thảo điều lệ hợp tác xã; thảo luận về tên, biểu tượng (nếu có) của hợp tác xã và lập danh sách xã viên, bầu chủ nhiệm hợp tác xã và các xã viên khác của ban quản trị và ban kiểm soát. Với nội dung trên, hội nghị thông qua bằng phương pháp biểu quyết theo đa số các vấn đề sau: - Danh sách xã viên chính thức (số lượng xã viên tối thiểu từ 7 trở lên); - Thông qua Điều lệ, nội quy hợp tác xã (mỗi hợp tã xã có điều lệ riêng, điều lệ hợp tác xã phải phù hợp với các quy định của Luật hợp tác xã và các quy 76
  11. định khác của pháp luật, điều lệ hợp tác xã có các nội dung chủ yếu được quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật hợp tác xã năm 2003 và Điều 7 Nghị định số 177/2004/NĐ-CP); - Quyết định thành lập riêng hay không thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành hợp tác xã; - Bầu ban kiểm soát và trưởng ban kiểm soát trong số xã viên của ban kiểm soát. - Thông qua biên bản hội nghị thành lập hợp tác xã. Bước 3: Đăng ký kinh doanh Hợp xã chỉ có tư cách pháp nhân sau khi đã đăng ký kinh doanh, do đó việc đăng ký kinh doanh là trách nhiệm của hợp tác xã. Việc đăng ký kinh doanh được quy định tại Điều 8 Nghị định số 177/2004/NĐ-CP như sau: Người đại diện của hợp tác xã sẽ thành lập, người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh đã chọn và phải ge chịu trách nhiệm về tính chính xác trung thực của hồ sơ đăng ký kinh doanh. Hồ sơ đăng ký kinh doanh gồm: định; le - Đơn đăng ký kinh doanh lập theo mẫu do Bộ kế hoạch và Đầu tư quy ol - Điều lệ hợp tác xã; - Số lượng xã viên, danh sách ban quản trị và ban kiểm soát hợp tác xã C hoặc doanh sách hợp tác xã thành viên, hội đồng quản trị đối với liên hiệp hợp tác xã. - Biên bản đã thông qua tại hội nghị thành lập hợp tác xã; PD Trình tự và thủ tục đăng ký kinh doanh được quy định tại Nghị định của Chính phủ số 87/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 về đăng ký kinh doanh hợp tác xã như sau: C - Hợp tác xã nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh đã chọn theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật hợp tác xã năm 2003; liên hiệp hợp tác xã nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật hợp tác xã năm 2003. Hợp tác xã có thể gửi hồ sơ đăng ký kinh doanh qua địa chỉ thư điện tử (Email) của cơ quan đăng ký kinh doanh nhưng phải nộp đủ bản chính thúc khi đến nhận giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để cơ quan đăng ký kinh doanh đối chiếu và lưu hồ sơ. Ngoài hồ sơ này cơ quan đăng ký kinh doanh không được yêu cầu hợp tác xã nộp thêm bất kỳ giấy tờ nào khác. - Cơ quan đăng ký kinh doanh phải trao giấy biên biên nhận, chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ khí tiếp nhận, không chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm pháp luật của hợp tác xã xảy ra sau đăng ký kinh doanh. 77
  12. - Cơ quan đăng ký kinh doanh phải trao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã trong thời hạn 15 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày nhận hồ sơ, nếu có đủ các điều kiện sau dây: + Hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ theo quy định. + Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. + Tên của hợp tác xã được đặt theo quy định của pháp luật. + Có vốn điều lệ; đối với hợp tác đăng ký kinh doanh ngành, nghề mà quy định phải có vốn pháp định thì vốn điều lệ hợp tác xã không được thấp hơn vốn pháp định. + Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định. - Hợp tác xã có tư cách pháp nhân và có quyền hoạt động theo nội dung đăng ký kinh doanh kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; sau khi được cấp giấy ge chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp tác xã được khắc dấu và có quyền sử dụng con dấu của mình. Kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hợp tác xã có le quyền tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh và cơ tư cách pháp nhân. Trong trường hợp, sau khi nghiên cứu và thấy hợp tác xã không đáp ứng ol đủ điều kiện quy định tại Điều 15 Luật hợp tác xã, ủy ban nhân dân có quyền từ chối bằng văn bản với việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác C xã. Hợp tác xã có quyền khiếu nại khởi kiện đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật. Trên đây là thủ tục thành lập, đăng ký của hợp tác xã hoạt động kinh PD doanh ở những ngành nghề thông thường. Nhìn chung, so với thủ tục thành lập doanh nghiệp tại Luật doanh nghiệp hiện hành thì thủ tục thành lập hợp tác xã đơn giản hơn. Tuy nhiên, so với những ngành nghề đặc biệt mà do Chính phủ thống nhất quản lý thì lại do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung C ương cấp giấy chứng nhận đăn ký kinh doanh. Luật hợp tác xã năm 2003 quy định cụ thể các bước tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh một cách cụ thể, rõ ràng và đơn giản hơn so với Luật hợp tác xã năm 1996 cũng như so với thủ tục tiến hành thành lập các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp hiện hành. Điều đó đã tạo điều kiện cho các hợp tác xã thành lập nhanh chóng hơn, đáp ứng được mục tiêu kinh tế và xã hội của mình. Chính việc quy định thủ tục thành lập như trên đã góp phần khẳng định hợp tác xã luôn là hình thức tổ chức kinh tế tập thể được Nhà nước ta khuyến khích phát triển. 2. Tổ chức lại hợp tác xã: Với mục đích phát huy được khả năng của hợp tác xã khi điều kiện khác quan chủ quan có sự thay đổi, Luật hợp tác xã năm 2003 có những quy định cụ thể về vấn đề tổ chức lại hình thức kinh tế này. 78
  13. Hợp tác xã được tổ chức lại chủ yếu theo phương hướng: Hợp nhất nhiều hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã lớn hơn hoặc chia tách hợp tác xã lớn thành những hợp tác xã nhỏ hơn. Việc thực hiện phương hướng hợp nhất hay chia tách thuộc quyền quyết định của đại hội xã viên hợp tác xã. Tổ chức lại hợp tác xã là biện pháp tốt nhất để hợp tác xã khắc phục tình trạng làm ăn kém hiệu quả, tạo điều kiện cho hợp tác xã phát triển. Để tiến hành tổ chức lại hợp tác xã có hiệu quả, Luật hợp tác xã đã có những quy định cụ thể các bước cần tiến hành khi tổ chức lại hợp tác xã (Điều 40, 41 Luật hợp tác xã năm 2003). a. Chia, tách hợp tác xã Chia, tách hợp tác xã là việc một hợp tác xã được chia hoặc tách thành hai hay nhiều hợp tác xã. Cơ quan có quyền quyết định việc chia tách hợp tác xã là đại hội xã viên. Thủ tục tiến hành chia, tách hợp tác xã được quy định cụ thể ở Điều 40 Luật hợp tác xã năm 2003. ge b. Hợp nhất, sáp nhập hợp tác xã Hợp nhất, sáp nhập hợp tác xã là việc hai hay nhiều hợp tác xã có thể hợp nhất thành một hợp tác xã mới, bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa le vụ và lợi ích hợp pháp sang hợp tác xã hợp nhất đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các hợp tác xã bị hợp nhất. Thủ tục hợp nhất hợp tác xã được thực hiện theo ol quy định tại khoản 2 Điều 41 Luật hợp tác xã năm 2003. Sáp nhập hợp tác xã là việc một hoặc một số hợp tác xã có quyền sáp C nhập vào một hợp tác xã khác, bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang hợp tác xã sáp nhập đồng thời chấm dứt sự tồn tại của hợp tác xã bị sáp nhập. Về thủ tục sáp nhập hợp tác xã (khoản 3 Điều 41 PD Luật hợp tác xã năm 2003) cũng tương tự như thủ tục hợp nhất hợp tác xã nhưng khác là không pải làm thủ tục đăng ký kinh doanh mà chỉ phải gửi đơn, biên bản sáp nhập và điều lệ hợp tác xã đến cơ quan đăng ký kinh doanh để bổ sung hồ sơ hợp tác xã sáp nhập. Sau khi bổ sung hồ sơ đăng ký kinh doanh, hợp tác xã sáp C nhập có quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao đồng và các nghĩa vụ tài sản khác của các hợp tác xã bị sáp nhập. Nhìn chung, Luật hợp tác xã năm 2003 đã có quy định rõ ràng về thủ tục tiến hành khi hợp tác xã áp dụng các biện pháp tổ chức lại hợp tác xã (xem khoản 2 và Điều 3 Điều 40, Điều 41 Luật hợp tác xã năm 2003). 3. Giải thể hợp tác xã: Hợp tác xã với bản chất là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân nên khi có lý do, điều kiện nhất định, hợp tác xã có quyền giải thể hợp tác xã, tức là chấm dứt sự tồn tại của mình. Hợp tác xã có thể được giải thể theo nguyên tắc tự nguyện hoặc theo nguyên tắc bắt buộc. 79
  14. * Theo nguyên tắc tự nguyện, việc giải thể hợp tác xã chỉ được thực hiện khi có nghị quyết của đại hội xã viên và được cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã chấp thuận. Trong trường hợp giải thể tự nguyện, hợp tác xã phải gửi đơn xin giải thể và Nghị quyết của đại Hội xã viên đến cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời phải đăng báo địa phương nơi hợp tác xã hoạt động trong 3 số liên tiếp về việc xin giải thể và thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng. Cơ quan đăng ký kinh doanh phải ra thông báo chấp thuận hoặc không chấp thuận việc xin giải thể hợp tác xã trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thanh toán nợ và thanh lý hợp đồng. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo chấp thuận việc xin giải thể của cơ quan đăng ký kinh doanh, hợp tác xã phải thanh toán các khoản chi phí giải thể, trả vốn góp và chi trả các khoản cho xã viên theo điều lệ hợp tác xã. * Giải thể bắt buộc là giải thể do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, tức là giải thể ngoài ý chí của hợp tác xã (được quy định tại Điều 21 Nghị ge định số 177/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004). Hợp tác xã buộc phải giải thể khi có một trong các trường hợp sau: le - Sau thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà hợp tác xã không tiến hành hoạt động; ol - Hợp tác xã ngừng hoạt động 12 tháng liền; - Trong thời hạn 18 tháng liền, hợp tác xã tổ chức được đại hội xã viên C thường kỳ mà không có lý do chính đáng; - Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật; PD Như vậy, các trường hợp giải thể bắt buộc do ý chí của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là ủy ban nhân dân đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã khi xét thấy sự tồn tại, hoạt động của hợp tác xã không có hiệu quả, không đạt được mục tiêu của hợp tác xã được đề ra từ khi thành lập. C Thủ tục giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã như sau: - Cơ quan cấp đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã trình hồ sơ giải thể bắt buộc tới ủy ban nhân dân cùng cấp. - Ủy ban nhân dân ra quyết định giải thể và thành lập hội đồng giải thể. Chủ tịch Hội đồng giải thể là đại diện ủy ban nhân dân; các ủy viên là địa diện của liên minh hợp tác xã tỉnh (nếu hợp tác xã là thành viên của liên minh), chính quyền cấp xã nơi hợp tác xã đóng trụ sở, ban quản trị hợp tác xã, ban kiểm soát hợp tác xã, xã viên hợp tác xã; - Hội đồng tiến hành làm các thủ tục giải thể hợp tác xã theo quyết định của ủy ban nhân dân và tự giải thể sau khi hoàn tất việc giải thể. Kinh phí để phục vụ cho việc giải thể được lấy từ các nguồn tài chính còn lại của hợp tác xã. Trường hợp không đủ thì sử dụng nguồn tài chính từ quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã tại địa phương (cấp tỉnh). 80
  15. Như vậy, để tiến hành giải thể hợp tác xã, ủy ban nhân dân ra quyết định giải thể lập hội đồng giải thể và chỉ định Chủ tịch Hội đồng giải thể. Nhiệm vụ của Hội đồng này là phải đăng báo việc giải thể hợp tác xã trong 3 số liên tiếp trên báo địa phương nơi hợp tác xã đang hoạt động đồng thời phải thông báo trình tự, thủ tục, thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng, thanh lý tài sản, trả vốn góp của xã viên và giải quyết quyền lợi khác có liên quan. Thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng tối đa 180 ngày kể từ ngày thông báo lần thứ nhất. Cơ quan đăng ký kinh doanh đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và xóa tên hợp tác xã trong sổ đăng ký kinh doanh; hợp tác xã có trách nhiệm nộp ngay con dấu cho cơn quan Nhà nước có thẩm quyền. Để đảm bảo quyền khiếu nại, quyền khởi kiện đối với hợp tác xã, Luật hợp tác xã quy định: "Nếu không đồng ý với quyết định của ủy ban nhân dân về việc giải thể bắt buộc, hợp tác xã có quyền khiếu nại, khởi kiện đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải quyết". Như vậy, việc giải thể bắt buộc xuất phát từ ge ý chí của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng bản thân hợp tác xã vẫn có thể phát huy tác dụng dân chủ nếu chứng minh được hiệu quả, hay thực chất là vẫn đảm bảo được điều kiện tồn tại của mình. le ol C PD C 81
  16. CHƯƠNG VI PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN I. KHÁI NIỆM: 1. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản: Luật phá sản 2004 đã xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Nghiên cứu dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, về phương diện lý luận cũng như thực tiễn cần xem xét một số khía cạnh cụ thể sau: Thứ nhất, mất khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp tài sản. Doanh nghiệp có thể tài sản mà nhưng mất khả năng thanh toán, ví dụ như tài sản đó không thể bán được, nên doanh nghiệp không có tiền để thanh toán ge đươc các khoản nợ đến hạn. Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào tình le trạng tài chính tuyệt vọng, nghĩa là không trả được nợ, trừ phi có sự can thiệp của toà án hoặc sự giúp đỡ của chủ nợ. ol Thứ ba, đối với doanh nghiệp tư nhân, nếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh có giao kết bất kỳ hợp đồng nào mà sau đó phát sinh ra các khoản nợ thì C những khoản nợ này được coi là cơ sở để đánh giá tình trạng phá sản của doanh nghiệp. Nhưng ở đây cũng cần phân biệt với các khoản nợ do chủ doanh nghiệp tư nhân xác lập trên cơ sở những hợp đồng phục vụ cho sinh hoạt cá nhân hoặc PD gia đình họ vì nó không xuất phát từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ tư, pháp luật không quy định cụ thể mất khả năng thanh toán một khoản nợ bao nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản. Thứ năm, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng C với biểu hiện bên ngoài là trả nợ được hay không. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay nhiều doan nghiệp không trả được nợ nhưng điều này chỉ có tính chất nhất thời trong khi mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình thường. Tóm lại, theo quy định của pháp luật Việt Nam, phá sản là khái niệm dùng để chỉ doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với dấu hiệu đặc trưng là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn đã bị phá sản. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ được coi là bị phá sản khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản. 2. Phá sản - thủ tục phục hồi doanh nghiệp hoặc thanh lý nợ đặc biệt Luật Phá sản là luật về thủ tục phục hồi hoặc thanh lý nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo tinh thần của Luật phá sản, các thủ tục phục hồi hoặc thanh lí nợ ở đây khác với quá trình phục hồi khi doanh nghiệp tự phục hồi sắp 82
  17. xếp lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình hoặc thủ tục thanh toán nợ trong tố tụng dân sự. - Tính chất đặc thù của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tính chất đặc thù của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được nhìn nhận trong mối quan hệ so sánh với quá trình tự phục hồi doanh nghiệp khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong kinh doanh nhưng chưa bị yêu cầu mở thủ tục phá sản. So sánh với quá trình tự phục hồi đó, thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có sự khác biệt cơ bản. Đó là, quá trình tự phục hồi là giải pháp tổ chức sản xuất kinh doanh được doanh nghiệp chủ động thực hiện còn phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lại là thủ tục tư pháp. - Tính đặc thù của thủ thủ tục thanh toán nợ. Không những vụ kiện đòi tài sản trong lĩnh vực dân sự hay kinh tế, phá sản là ge một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, kéo theo nhiều hậu quả xấu, ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ nợ, bản thân doanh nghiệp mắc nợ và những người làm công cũng như lợi ích của xã hội nói chung. Để bảo vệ họ và những người có liên quan, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên khi phá sản, bảo le vệ trật tự kỷ cương xã hội thì việc giải quyết phá sản phải được thực hiện theo một thủ tục đặc biệt khác với thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ thông thường. Sự ol đặc biệt này được xác định bởi tính chất của quan hệ giữa chủ nợ với doanh nghiệp mắc nợ. Điều đó thể hiện ở những nội dung sau: C Thứ nhất, việc đòi nợ và thanh toán nợ mang tính tập thể: Tính tập thể của thủ tục phá sản thể hiện trước hết ở việc tất cả các chủ nợ đều có cơ hội tham gia vào quá trình đòi nợ và thanh toán nợ. Nhưng họ không thể PD tiến hành đòi doanh nghiệp mắc nợ phải thanh toán các khoản nợ cho mình một cách tuỳ tiện. Pháp luật phá sản đã thiết kế sẵn một thủ tục tư pháp đặc biệt để đảm bảo sự đồng đều về quyền lợi của các chủ nợ thay vì để họ hành động vô tổ chức, mạnh ai nấy làm dẫn đến sự đổ vỡ của hàng loạt doanh nghiệp khác có C liên quan, gây xáo trộn mọi hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội. Các chủ nợ được phân chia thành các nhóm khác nhau và yêu cầu của họ sẽ được xem xét công bằng, tại cùng một thời điểm và theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Thứ hai, việc đòi nợ và thanh toán các khoản nợ tiến hành thông qua một cơ quan đại diện có thẩm quyền. Theo quy định của Luật phá sản 2004, cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là Toà kinh tế toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh (trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản hợp tác xã là Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi hợp tác xã đăng ký kinh doanh (Điều 7). Thứ ba, thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp. 83
  18. Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở tài sản còn lại của doanh nghiệp. Điều này không có nghĩa là nợ bao nhiêu thì trả bấy nhiêu như nợ trong dân sự mà nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ sẽ chấm dứt sau khi dùng toàn bộ tài sản của mình để trả nợ mặc dù có thể thanh toán chưa đủ cho các chủ nợ. Đối với pháp nhân, sau khi hoàn thành nghĩa vụ này đồng thời cũng chấm dứt sự tồn tại của pháp nhân đó nên việc xoá nợ đối với doanh nghiệp bị phá sản là đương nhiên. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh hiện tượng khoanh nợ có thể xảy ra, tuy nhiên các chủ nợ chỉ có thể được thanh toán khi tìm thấy ở chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp doanh còn tài sản. Thứ tư, thanh toán các khoản nợ được tiến hành sau khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành sau khi có quyết định của toà án. Đây cũng là một đặc thù so với thủ tục thanh toán nợ thông thường. Thủ tục thanh toán nợ thông ge thường có thể diễn ra bất cứ khi nào, theo phương thức do hai bên lựa chọn, kể cả khi cần sự can thiệp của Toà án thì Toà án vẫn tôn trọng quyết định của đương sự. le Tóm lại, thủ tục phục hồi và xử lý nợ theo Luật phá sản là một thủ tục đặc biệt khác với thủ tục thanh toán nợ thông thường trong dân sự, kinh tế và trong ol đời sống hàng ngày. 3. Phân loại phá sản: C Dựa vào những căn cứ khác nhau, phá sản có thể được phân loại như sau: a. Căn cứ vào nguyên nhân gây ra phá sản, phá sản được chia thành phá PD sản trung thực và phá sản gian trá. - Phá sản trung thực là hiện tượng phá sản do những nguyên nhân khách quan, rủi ro trong quá trình kinh doanh gây ra. C - Phá sản gian trá là hiện tượng phá sản do con nợ có những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Việc phân loại nào có ý nghĩa xác định thái độ đối xử của pháp luật đối với con nợ. Đối với phá sản trung thực, khi giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, pháp luật chỉ tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý tài sản còn đối với phá sản gian trá, khi giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, pháp luật không chỉ tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý tài sản mà còn có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến nhân thân của chủ doanh nghiệp. b. Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý, phá sản được phân thành phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc. - Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi thấy lâm vào tình trạng phá sản. 84
  19. - Phá sản bắt buộc là phá sản được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ hoặc đại diện chủ sở hữu ở một số loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty hợp danh). Việc phân loại này có ý nghĩa khi xây dựng hồ sơ vụ phá sản doanh nghiệp cũng như khi thẩm phán lựa chọn thủ tục phá sản thích hợp trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. d. Dựa vào đối tưọng và phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản, phá sản được chia thành phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và phá sản cá nhân. Việc phân chia này có ý nghĩa trong việc áp dụng pháp luật khi giải quyết phá sản. 4. Phân biệt phá sản với giải thể Nếu chỉ xem xét về mặt hiện tượng thì phá sản và giải thể doanh nghiệp không có gì khác nhau, bởi vì cả hai thủ tục này đều dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải quyết ge quyền lợi cho người làm công…Tuy nhiên, về bản chất đây là hai thủ tục pháp lý khác nhau. Thứ nhất, lý do giải thể không đồng nhất với các loại hình doanh nghiệp le và rộng hơn nhiều so với lý do phá sản. ol Thứ hai, phá sản khác với giải thể ở bản chất của hai thủ tục pháp lý cũng như cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục đó. C Thứ ba, giải thể và phá sản khác nhau về hậu quả. Giải thể bao giờ cũng chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, hợp tác xã về mọi phương diện còn đối với phá sản không phải bao giờ cũng đem đến một kết quả như vậy. PD Thứ tư, thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay người quản lý, điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh trong hai trường hợp trên cũng có sự phân biệt. Đối với chủ sở hữu hay người quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản sẽ bị pháp luật hạn chế quyền tự do kinh doanh, còn đối với C trường hợp giải thể thì vấn đề hạn chế quyền tự do kinh doanh không bị đặt ra. II. THỦ TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ Luật phá sản năm 2004 đã quy định các thủ tục mà toà án có thể áp dụng khi giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp bao gồm những nội dung sau: - Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản - Phục hồi hoạt động kinh doanh - Thanh lý tài sản, các khoản nợ - Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản 1. Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản a. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 85
  20. - Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các chủ nợ: Pháp luật phá sản của Việt Nam chỉ dành quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho các chủ nợ không có bảo đảm và có bảo đảm một phần nhằm giúp họ có cơ hội lựa chọn một thủ tục thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Theo Luật phá sản 2004, các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đề có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó mà không cần phải cung cấp các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc làm của mình. Đơn yêu cầu phải được gửi cho toà án có thẩm qyền theo quy định của pháp luật và phải bao gồm các nội dung sau: + Ngày, tháng, năm làm đơn; ge + Tên, địa chỉ người làm đơn; + Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; le + Các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần mà không được doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán; ol + Qúa trình đòi nợ; + Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản. C - Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động. Luật phá sản 2004 cho phép người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu PD mở thủ tục phá sản trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không cần điều kiện “Không trả được lương cho người lao động trong 3 tháng liên tiếp”. Tuy nhiên, để tránh sự tuỳ C tiện trong việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, người lao động phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Đơn phải đựoc gửi cho toà án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và phải có những nội dung chủ yếu sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn; + Tên, địa chỉ người làm đơn; + Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; + Số tháng nợ tiền lương, tổng số tiền lương và các khoản nợ doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được cho người lao động; + Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản. 86
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2