Giáo trình Lý luận về nhà nước pháp quyền (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
lượt xem 67
download
Giáo trình "Lý luận về nhà nước pháp quyền" (Giáo trình đào tạo từ xa) được chia thành 2 phần. Với phần 1 giáo trình gồm những nội dung liên quan đến những vấn đề lý luận cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Lý luận về nhà nước pháp quyền (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Đinh Ngọc Thắng GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Vinh - 2011
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Đinh Ngọc Thắng GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh - 2011 2
- Phân công biên soạn: - Chủ biên: Đinh Ngọc Thắng - Các tác giả: Đinh Ngọc Thắng : Chương 1 đến Chương 3 3
- CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM 1. BẢN CHẤT, NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN VÀ MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 1.1. Bản chất, các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền 1.1.1 Nhà nước pháp quyền – giá trị phổ biến của nền dân chủ Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người trong việc tổ chức và vận hành xã hội. Những ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã có từ lâu trong lịch sử nhân loại và được các nhà khoa học chính trị, luật học, xã hội học, sử học nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau. Nhà nước pháp quyền được các nhà luật học của nhiều nước định nghĩa bằng những ngôn ngữ và diễn đạt khác nhau, song về bản chất có thể tóm lại như sau: nhà nước pháp quyền là nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Như vậy, nếu phân tích đầy đủ khái niệm này từ góc độ pháp luật, có thể thấy rằng một nhà nước pháp quyền phải là nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật trong mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, công chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép được coi như một trong những nguyên tắc chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền. Khía cạnh khác của Nhà nước pháp quyền, hầu như đối lập với yêu cầu kiểm soát và kiềm chế đối với bộ máy nhà nước là yêu cầu về các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. ở khía cạnh này, nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ phải bảo đảm bằng pháp luật các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Những công chức và cơ quan thực thi pháp luật không được có những hành vi hoặc quyết định hạn chế hay tước quyền tự do, dân chủ và tiếp cận công lý của người dân mà không dựa trên những cơ sở chắc chắn của pháp luật. Công dân được quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm được coi là nguyên tắc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội trong Nhà nước pháp quyền. Như vậy, có thể thấy Nhà nước pháp quyền gắn liền với pháp luật và được hợp pháp hoá bởi pháp luật. Pháp luật là nền tảng của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ là hệ thống pháp luật làm nền tảng cho nhà nước pháp quyền phải như thế nào? Đương nhiên, một hệ thống pháp luật với những quy định hạn 4
- chế quyền tự do dân chủ của nhân dân, cản trở sự tiến bộ xã hội, công lý không được bảo đảm, chưa kể đến việc thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, thì không thể trở thành nền tảng của nhà nước pháp quyền, bởi vì không đáp ứng được yêu cầu thứ hai của nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân và công lý. Như vậy, xét ở khía cạnh giá trị đạo đức xã hội thì pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải phục vụ và bảo đảm được các yếu tố này. Nói như Josef Thesing thì nhà nước pháp quyền phải dựa trên “vị trí tối thượng của pháp luật và khái niệm về đạo đức của công lý”1. Về phương diện lý luận, Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Trong ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Điều này có nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn liền với một nền dân chủ. Tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình thái kinh tế – xã hội, nhưng nhà nước pháp quyền không thể xuất hiện trong một xã hội phi dân chủ. Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà nước pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau: - Chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản, mới có cơ hội và điều kiện để xuất hiện nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản đang được tuyên bố xây dựng ở hầu hết các quốc gia tư bản phát triển và đang phát triển. - Nhà nước pháp quyền, với tính chất là cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà nước và xã hội, không những được xây dựng ở chế độ tư bản mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. - Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố. 1 Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, T. 34. 5
- Các yếu tố này, về thực chất, là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền như một mô hình chung, thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp. 1.1.2.Tính phổ biến và tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền và các mô hình tương ứng Thành tựu khoa học pháp lý hiện đại đã cho thấy Nhà nước pháp quyền là một khái niệm có thể được hiểu ở hai mức độ: (i) với tính cách là học thuyết, là tư tưởng; (ii) với tính cách là thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thực thi dân chủ. Từ phương diện lý thuyết, học thuyết về Nhà nước pháp quyền có nguồn gốc và lịch sử phát triển cùng với nguồn gốc và lịch sử của các học thuyết chính trị – pháp lý nói chung và của các trào lưu tư tưởng chính trị nói riêng. Đó là lịch sử đấu tranh vì mục tiêu xác lập những cách thức cầm quyền tốt cho người dân, chống sự lạm quyền và vi phạm các lợi ích hợp pháp của công dân. Nói một cách khái quát hơn – lịch sử của các học thuyết về Nhà nước pháp quyền là lịch sử của những tư tưởng, những quan điểm xoay quanh cái trục quan hệ giữa Nhà nước và xã hội, giữa hai phạm trù giá trị là quyền lực và pháp luật. Bên cạnh đó, với tính cách là một giá trị phổ biến của nhân loại, Nhà nước pháp quyền luôn được hiểu là phương thức tổ chức quyền lực Nhà nước và thực thi nền dân chủ với các đặc điểm: (i) Nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng của chủ nghĩa hợp hiến; (ii) pháp luật giữ vị trí chi phối và có hiệu lực pháp lý tối thượng trong xã hội, Nhà nước cũng phải chịu sự ràng buộc của pháp luật; (iii) bảo đảm nguyên tắc phân quyền và yêu cầu về sự độc lập của tư pháp; (iv) pháp luật 6
- phải được áp dụng công bằng, nhất quán, phải bảo đảm tính công khai, sự minh bạch, dễ tiếp cận, áp dụng kịp thời; (v) tôn trọng và bảo vệ quyền công dân và quyền con người. Trên cơ sở những thuộc tính phổ biến trên, nhiều nhà nghiên cứu cũng thống nhất cho rằng, các Nhà nước, khi thiết kế mô hình và bắt tay vào xây dựng chế độ Nhà nước pháp quyền đều không thể không tính đến truyền thống lịch sử, văn hoá và bối cảnh chính trị cụ thể của từng nước. Tuy nhiên, những “biến thể” đó chỉ có thể liên quan đến những yếu tố (hay còn gọi là những đặc trưng) không thuộc đặc trưng cơ bản. Chẳng hạn, trong hệ thống chính trị của Việt Nam, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền có thể được coi là yếu tố đặc trưng riêng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam mà ở nhiều nước có chế độ Nhà nước pháp quyền không có. Như vậy, mô hình có tính đặc trưng riêng cho từng quốc gia. Mô hình bảo đảm trước hết các yếu tố cơ bản của chế độ Nhà nước pháp quyền và những yếu tố đặc thù. Mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản với các yếu tố đặc thù ấy là mối liên hệ biện chứng giữa cái chung, cái phổ biến với cái riêng, cái đặc thù, hoàn toàn thống nhất và chấp nhận được nhau như những giá trị nhất quán. Sẽ không có và không thể xác lập và khẳng định được chế độ Nhà nước pháp quyền nếu các yếu tố đó loại trừ, vô hiệu lẫn nhau, đối nghịch với nhau với tính cách là những giá trị xã hội. Vậy, những yếu tố đặc thù của một chế độ Nhà nước pháp quyền cụ thể đó là gì? Vì sao lại có sự biến thể (modification) như vậy? Có thể nói rằng, lý do của sự khác biết ấy là hết sức đa dạng có thể nêu lên một số nhóm lý do như sau. Thứ nhất, đó là sự khác biệt về cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước. Chẳng hạn, ở Thái Lan, Nhật Bản, Campuchia cơ cấu quân chủ vẫn tồn tại, nhưng bên cạnh đó là một chế độ Nhà nước pháp quyền. Vì thế, chế độ Nhà nước pháp quyền đó đương nhiên phải biết thích nghi tốt với chế độ quân chủ và ngược lại. Ở các nước phương Tây một yếu tố được coi như là hòn đá tảng của Nhà nước pháp quyền của họ là chế độ phân quyền rõ rệt trong một hệ thống chính trị đa đảng có đảng đối lập, có các nhóm lợi ích và xã hội dân sự. Nhà nước pháp quyền theo mô hình ấy phải là cơ sở cho một chế độ dân chủ đa nguyên nhằm tạo 7
- ra những cơ chế cần thiết cho sự thể hiện các lợi ích và cân bằng quyền lực, bảo đảm tính pháp lý và sự hợp pháp của quyền lực nhà nước. Như vậy, đặc điểm của chế độ Nhà nước pháp quyền phụ thuộc vào đặc điểm của chế độ dân chủ và là bệ đỡ cho chế độ dân chủ đó2. Giáo sư Josef Thesing của Cộng hoà Liên bang Đức đã viết như sau: “Ở bất cứ nơi nào chế độ pháp quyền hình thành trên cơ sở một trật tự chính trị, thì ở nơi đó nó cũng dạy cho người dân biết phải giải quyết xung đột về giá trị hoặc lợi ích theo quy định pháp luật chứ không dùng đến bạo lực”3. Nói cách khác, chế độ pháp quyền phải gắn liền và hài hoà với chế độ dân chủ, với phương thức tổ chức và hoạt động của nền chính trị và hệ thống chính trị. Do đó, sự khác biệt và đa dạng của mô hình dân chủ chắc chắn sẽ tạo nên sự khác biệt và sự đa dạng của các mô hình Nhà nước pháp quyền. Từ đó, chúng ta thấy trong khuôn mẫu chung của chế độ dân chủ chính trị đa đảng và của chế độ phân quyền vẫn tồn tại những cách thiết kế mô hình nhà nước pháp quyền ở Hoa Kỳ, ở Pháp, ở CHLB Đức, ở Nhật Bản v.v. Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa với các tổ chức thể chế nhiều đảng (8 đảng) hợp tác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và trong khuôn khổ của một hệ thống chính trị như vậy, Trung Quốc đã chủ trương phát triển kinh tế thị trường, cải cách mở cửa và xây dựng chế độ pháp trị. Ở nước ta, Đảng đã chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong điều kiện khẳng định vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, với cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, phát huy vai trò làm chủ và sự kiểm tra giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Như vậy, mặc dù có cùng chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa với chính quyền thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhưng mô hình Nhà nước pháp quyền của Việt Nam có sự khác nhau với mô hình Nhà nước pháp trị của Trung Quốc. 2 Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, tr. 13 -14. 3 Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, tr. 14. 8
- Thứ hai, đó là sự khác biệt về tính chất của nền kinh tế thị trường của các nước khác nhau. Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, một chế độ Nhà nước pháp quyền chỉ có thể được bắt tay vào xây dựng, hình thành và phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Bởi vì, chỉ trong một nền kinh tế thị trường mới cần đến sự bảo đảm từ sự quản lý nhà nước nhằm duy trì và phát triển tự do, bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thị trường, kích thích sáng kiến và cạnh tranh lành mạnh.Tuy nhiên, kinh tế thị trường có những đặc điểm riêng ở mỗi nước và do đó nó đòi hỏi những mô hình đặc thù phù hợp của chế độ Nhà nước pháp quyền. Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường được Đảng và Nhà nước ta xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền XHCN có chức năng bảo đảm cho nền kinh tế được vận hành không chỉ theo cơ chế thị trường mà phải tạo ra những cơ sở pháp lý và chính sách để cơ chế kinh tế đó phù hợp và thúc đẩy đạt được các mục tiêu xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ ba, đó là sự khác biệt của văn hoá và đạo đức truyền thống T\ừ quan niệm khác nhau về mối liên hệ giữa pháp luật với các yếu tố đạo đức xã hội đã dẫn đến hai mô hình Nhà nước pháp quyền: Nhà nước pháp quyền thực chứng cứng nhắc và Nhà nước pháp quyền khoan dung, dựa trên nền tảng văn hoá và đạo đức xã hội. Theo mô hình Nhà nước pháp quyền thực chứng, mọi cá nhân và tổ chức đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trật tự pháp luật theo yêu cầu của nguyên tắc pháp lý đó. Mô hình Nhà nước pháp quyền khoan dung không phủ nhận các chuẩn mực pháp lý. Tuy nhiên, theo quan niệm này, điều cốt lõi trong quan hệ giữa pháp luật, Nhà nước và đạo đức là ở chỗ Nhà nước tạo ra các cơ cấu pháp lý để giúp cá nhân hành động không chỉ theo pháp luật mà theo cả các nguyên tắc đạo đức và cuối cùng ai cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Nền tảng đạo đức của chế độ pháp trị ở đây chính là khoan dung, tự do và bình đẳng. Nhà nước pháp quyền bảo đảm để mỗi cá nhân tự do thực thi trách nhiệm. Thứ tư, đó là sự khác biệt về truyền thống pháp luật. Nhiều công trình nghiên cứu so sánh về pháp luật đã cho thấy rằng, cách thức tổ chức quyền lực nhà 9
- nước ở những mức độ lớn được quyết định bởi đặc điểm của hệ thống pháp luật. Điều này không có gì khó hiểu, bởi vì suy cho cùng, áp dụng pháp luật là lý do tồn tại quan trọng của các thiết chế quyền lực. Với nghĩa đó, chúng ta thấy có mô hình tổ chức và chức năng, thẩm quyền, vai trò, địa vị của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp có sự khác nhau và được phân biệt theo hai mô thức lớn là mô thức châu Âu lục địa và mô thức Anh – Mỹ, bởi có sự tồn tại của hai hệ thống pháp luật rất khác nhau: hệ thống pháp luật lục địa (châu Âu) và hệ thống thông luật (Common Law) của Anh – Mỹ. Như vậy, chúng ta có thể đi đến một kết luật chắc chắn rằng, có một mô hình phổ biến của Nhà nước pháp quyền với tính cách là những yêu cầu, những giá trị cơ bản mang tính phổ biến lớn không thể thiếu được đối với một Nhà nước pháp quyền và có những mô hình đặc thù cho những khu vực quốc gia và những nước riêng biệt. Tính đặc thù của một chế độ pháp quyền được quy định bởi các yếu tố khách quan, nhưng đồng thời đó là sản phẩm của sự lựa chọn chính trị của nhân dân mỗi nước. Với chức năng tạo nên sự ổn định của xã hội, bệ đỡ của nền dân chủ, Nhà nước pháp quyền phản ánh sự đồng thuận trong xã hội. “Đồng thuận có nghĩa là công dân, bằng đa số của mình, chấp nhận chế độ chính trị của Nhà nước, trật tự và kinh tế của nó”4. 1.2. Nhà nước pháp quyền và các chức năng kinh tế xã hội – Mối liên hệ giữa Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự 1.2.1 Quan niệm về xã hội dân sự trong xã hội hiện đại Xã hội dân sự được xây dựng trên những nguyên tắc có tính nền tảng là mỗi thành viên của xã hội với tính cách là công dân đều được đảm bảo và có được các quyền tự do, tự chủ, bình đẳng và công bằng giữa các công dân. Hiện nay khái niệm xã hội dân sự được hiểu theo nghĩa khác: xã hội dân sự là tổng thể các quan xã hội hệ phi nhà nước, tổng thể các thiết chế phi nhà nước, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Xã hội dân sự được hiểu như vậy có đặc điểm thể hiện không chỉ ở chỗ có sự tồn tại của những lợi ích cá nhân, lợi ích theo nhóm mà còn thể hiện ở khả năng tự điều chỉnh, khả năng phục vụ lợi ích chung và tuân thủ những nguyên tắc chung. Hiểu theo nghĩa này thì chế độ tư hữu không hẳn trong mọi điều kiện là 4 Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, tr. 15. 10
- tiền đề của xã hội dân sự. Tuy nhiên cũng có người dùng khái niệm phi xã hội dân sự hay "xã hội không văn minh" khi thấy rằng một xã hội nào đó tồn tại nhiều hiện tượng phi đạo đức, nhiều vi phạm lợi ích chung xuất phát từ trình độ phát triển thấp của xã hội. Cũng còn có những cách tiếp cận khác nhau về xã hội dân sự, mà trong các công trình nghiên cứu gần đây cũng đã chỉ ra. Nhưng theo nhận thức chung về xã hội dân sự thì một nhà nước của dân, do dân và vì dân thì đương nhiên tính chất của nhà nước ấy không thể tách rời tính chất của xã hội dân sự và nền kinh tế thị trường. Nhà nước được hiểu là tổ chức quyền lực chính trị công cộng, trong đó bao gồm tổng thể các thành tố thực hiện công quyền. Ngoài tổng thể các thành tố, các tổ chức có tính chất công quyền đó ra, tất cả thuộc lĩnh vực xã hội dân sự. Các thành tố của kinh tế thị trường, trong một chừng mực nhất định cũng là những thành tố của xã hội dân sự5. Do vậy, xã hội dân sự có thể được hiểu là tổng thể các thiết chế phi nhà nước, trong đó có các thiết chế của kinh tế thị trường, được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ, là hệ thống các thiết chế, tổ chức của công dân, của các cộng đồng cư dân không mang tính chất quyền lực nhà nước và có mối quan hệ chặt chẽ với các thiết chế nhà nước, đảm bảo cho quan hệ giữa Nhà nước và xã hội cân bằng, ổn định, tạo các điều kiện tối ưu cho phát triển bền vững và tiến bộ xã hội. Xã hội dân sự bao gồm toàn bộ những liên hiệp, hiệp hội, liên đoàn theo lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, nghề nghiệp, sáng tạo, khoa học, giáo dục, giải trí v.v... Xã hội dân sự, do vậy, là các thiết chế nằm ngoài, "nằm bên cạnh" các thiết chế nhà nước (như quốc hội, chính phủ, tổng thống, cơ quan tư pháp, chính quyền địa phương...). Nói cách khác, các thiết chế xã hội dân sự độc lập tương đối các tổ chức nhà nước. Tùy theo mô hình hệ thống chính trị các tổ chức của xã hội dân sự có thể thuộc hoặc không thuộc hệ thống chính trị, chỉ có các tổ chức chính trị - xã hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mới là các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Như vậy có thể nói, ở nước ta tất cả các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các hiệp hội, liên hiệp, hội, đoàn thể quần chúng đều nằm trong lĩnh vực xã hội dân sự. Tuy nhiên ở đây cũng đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Xã hội dân sự 5 Trần Đình Hảo, Xã hội dân sự và kinh tế thị trường, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 2005, Tr. 24 11
- vận hành theo những quy luật nhất định, khác với các thiết chế nhà nước. Trong thời kỳ tập trung, quan liêu, bao cấp ở nước ta những thiết chế được coi là xã hội dân sự hầu như lại hoạt động theo cơ chế thiết chế nhà nước. Cho đến nay những dấu hiệu đó vẫn đang hiện diện trong đời sống xã hội nước ta. Đã đến lúc chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn hơn về xã hội dân sự, khác hẳn nhận thức của chính chúng ta thời kỳ tập trung, quan liêu bao cấp. Khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, dù đó là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế ấy về cơ bản thuộc lĩnh vực xã hội dân sự. Một khi chúng ta cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, bán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước thì khu vực kinh tế nhà nước được tổ chức và quản lý lại theo hướng xây dựng và phát triển xã hội dân sự. Điều đó xuất phát từ một luận đề là: Nền kinh tế thị trường cần sự điều tiết của Nhà nước, nhưng đồng thời có ranh giới phân biệt giữa các thiết chế của xã hội dân sự, các thiết chế của kinh tế thị trường với các thiết chế nhà nước. Hiệp hội mía đường, hiệp hội chè, hiệp hội xi măng... đương nhiên đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế thị trường, cần sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía Nhà nước. Hay Hội nông dân Việt Nam rồi đến những tổ chức chính trị xã hội như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đều thuộc xã hội dân sự. Tuy nhiên chúng ta cần tránh cả hai thái cực: để các hội đó tự hoạt động vì không liên quan đến thiết chế nhà nước hoặc thái cực bằng các hình thức khác nhau nhà nước hoá các tổ chức đó (phân bổ kinh phí từ ngân sách nhà nước, giao chỉ tiêu biên chế, lương bổng theo ngạch bậc công chứ...). Cả hai thái cực đều không thể chấp nhận được. Vấn đề là ở chỗ Nhà nước cần hỗ trợ cho các thiết chế thuộc lĩnh vực xã hội dân sự, trong đó có các thiết chế kinh tế thị trường, biết dựa vào xã hội dân sự nhưng hãy để cho các thiết chế xã hội dân sự hoạt động độc lập, quản lý của nhà nước theo pháp luật nhưng không can thiệp sâu vào các thiết chế xã hội dân sự, làm mất đi tính tự nguyện, tính tự chủ của xã hội dân sự. Cần phải xem xét việc mở rộng lĩnh vực xã hội dân sự, thu hẹp tới mức có thể thu hẹp được lĩnh vực thiết chế nhà nước và điều quan trọng nữa là không nhầm lẫn thiết chế nhà nước với thiết chế xã hội dân sự. Xã hội dân sự theo tiếng Latin là: Societas Civilis; theo tiếng Anh: Civil society... Như vậy, về thực chất có thể dùng khái niệm "xã hội dân sự". Đó là vì nói xã hội dân sự là nói đến một xã hội của những người bình dân, mà không phải 12
- là “thần dân”, một xã hội văn minh, hiện đại. Theo quan niệm của các học thuyết cận đại, xã hội dân sự có trước Nhà nước, là tất cả những gì tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người. Mỗi cộng đồng người với lợi ích của mỗi cá nhân, lợi ích tư tạo thành xã hội dân sự - quan hệ giữa người với người trên cơ sở bình đẳng giữa các quyền tự nhiên, tự do cá nhân. Theo Mác, thì xã hội dân sự đó là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của toàn bộ lịch sử... xã hội dân sự bao gồm toàn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá nhân trong một giai đoạn phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất6, xã hội dân sự được dùng để chỉ tồ chức xã hội ra đời trực tiếp từ sản xuất và thương nghiệp và trong bất kỳ thời đại nào cũng là cơ sở của Nhà nước và còn là của kiến trúc thượng tầng tư tưởng nữa7. ý nghĩa của nhận định này là ở chỗ, giai cấp nào, lực lượng xã hội nào, đảng chính trị nào muốn chiến thắng đều phải nắm được xã hội dân sự. Về mối quan hệ có tính thể chế với nhà nước, Mác và Ăng ghen cho rằng, Nhà nước tồn tại bên cạnh và bên ngoài xã hội dân sự; nhà nước xây dựng trên cơ sở xã hội dân sự, nên các thể chế của xã hội dân sự đều tác động đến nhà nước và vì thế, mang một hình thức chính trị nhất định. Hiện nay xã hội dân sự là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học- triết học, xã hội học, sử học, luật học... Xã hội dân sự cũng là tiêu điểm chú ý của nhiều đảng chính trị và các phong trào xã hội. Hiện cũng còn nhiều quan niệm, nhiều cách tiếp cận khác nhau về xã hội dân sự, chẳng hạn tiếp cận theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, theo nền văn minh, theo hình thức thực hiện dân chủ, theo của thiết chế xã hội. Khái niệm được thừa nhận chung về xã hội dân sự hiện chưa có. Hiện còn nhiều vấn đề phải tiếp tục được nghiên cứu về mặt lý luận. Khi xã hội đang thay đổi, chúng ta chuyển từ nền kinh tế chỉ có hai thành phần Nhà nước và tập thể sang nền kinh tế nhiều thành phần, các quan hệ xã hội đang phát triển, đa dạng hoá thì đương nhiên việc xác định rõ ràng về giới hạn của xã hội dân sự, tách bạch hẳn xã hội dân sự ra khỏi khu vực nhà nước. Về mặt lý thuyết, một Nhà nước của dân, do dân và vì dân thì đương nhiên tính chất của Nhà nước ấy cũng khó có thể tách khỏi tính chất của xã hội dân sự. Nhiều học giả phương Tây 6 C. Mác - Ph. ăng ghen. Tuyển tập.Tập 1. Nxb Sự thật. Hà Nội. 1980, tr. 299. 7 C. Mác - Ph. ăng ghen, Tuyển tập. Tập 4. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984. tr. 362. 13
- đã đưa ra khái niệm Nhà nước xã hội, có lẽ cũng xuất phát từ tính chất xã hội của nhà nước, chức năng xã hội của nhà nước. Chính vì thế khái niệm Nhà nước nếu có tách ra khỏi khái niệm xã hội dân sự cũng chỉ mang tính chất tương đối mà thôi. Chẳng hạn, có những chế định thuần tuý là chế định nhà nước nhưng xét về mặt nào đó nó cũng có tính chất của xã hội dân sự. Nếu chính quyền địa phương được tổ chức như ở nước ta hiện nay thì rõ ràng đây là chế định Nhà nước. Nhưng nếu chúng ta chuyển chính quyền đại phương sang chế độ tự quản thì nó lại thuộc xã hội dân sự8. 1.2.2 Hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền – cơ sở pháp lý cho mối liên hệ dân chủ giữa cá nhân, Nhà nước với các thiết chế tự quản của xã hội dân sự Như đã đề cập ở trên, xã hội dân sự là chỉ một đời sống xã hội có các tổ chức mang tính chất tự nguyện, tồn tại song song với Nhà nước, bị ràng buộc bởi một hệ thống luật pháp và các giá trị văn hóa. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề liên quan đến Nhà nước và pháp luật, chúng ta cũng có thể thấy rằng, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ sử dụng thuật ngữ xã hội dân sự, nhưng các quan điểm của Người về “Nước lấy dân làm gốc”, “Nhà nước dân chủ”, “Trăm điều phải lấy thần linh pháp quyền”, “Dân có quyền kiểm soát, giám sát và bãi miễn đại biểu Quốc hội”, “Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân” và là một bộ phận của xã hội, đại đoàn kết toàn dân v.v... phản ánh nội dung cơ bản mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự . Vậy những đòi hỏi hay định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm là cơ sở pháp lý vững chắc để tạo lập, duy trì và phát triển hiệu quả các mối quan hệ này bao gồm các vấn đề gì? Theo chúng tôi, cần quan tâm hai nhóm vấn đề chủ yếu sau đây: Một là: Hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tạo cơ sở pháp lý để các cá nhân có thể tự do tham gia, thành lập, sinh hoạt trong các tổ chức tự quản của xã hội dân sự; đồng thời, pháp luật phải tạo hành lang pháp lý để các tổ chức xã hội tự quản hoạt động một cách có hiệu quả, là đại diện hợp pháp bảo vệ quyền lợi ích cho các thành viên, hướng các 8 Trần Đình Hảo, Xã hội dân sự và kinh tế thị trường, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 2005, Tr. 25. 14
- thành viên của họ trong đời sống thường ngày biết tuân thủ pháp luật, tuân thủ các quy tắc đạo đức, xây dựng xã hội lành mạnh, no ấm và hạnh phúc. Hai là: Hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức tự quản hoạt động tuân thủ pháp luật, phát huy được vai trò của các tổ chức này trong quản lý xã hội, đồng thời, trong khuôn khổ pháp luật, các tổ chức xã hội phải đề cao vai trò của mình nhằm hỗ trợ công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự ra đời của các tổ chức xã hội, (có thể hiểu tương ứng với các thiết chế tự quản của xã hội dân sự), đã từng bước được thiết lập, kể cả việc khôi phục truyền thống tự quản của làng như hương ước, và các loại quỹ, hội tương thân tương ái. Hiện tại, có 6 loại tổ chức xã hội đăng ký chính thức hoạt động, đó là: (i) Các tổ chức chính trị - xã hội (gồm 5 tổ chức quần chúng) là: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam với hơn 31 triệu hội viên và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với 29 tổ chức thành viên. (ii) Các hiệp hội nghề nghiệp - xã hội trung ương: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp Văn học và Nghệ thuật Việt Nam và Liên hiệp các Hiệp hội Hoà bình, Hữu nghị và Đoàn kết Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ, Hội Người cao tuổi, các hiệp hội kinh doanh thuộc các ngành nông nghiệp, công nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản, thủ công mỹ nghệ.. v.v... gồm hàng trăm hội thành viên với hàng chục triệu hội viên. (iii) Các hiệp hội địa phương chỉ hoạt động trong phạm vi địa phương có khoảng 2.150 hội với hàng triệu hội viên. (iv) Các hiệp hội nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ, bảo tồn di sản văn hoá truyền thống và môi trường thiên nhiên gồm hơn trăm tổ chức với hàng chục nghìn thành viên. (v) Các tổ chức dân lập, tự quản gồm hàng chục nghìn quỹ, hội tín dụng, tiết kiệm, hỗ trợ người nghèo, tàn tật..., và các tổ, đội, câu lạc bộ văn hoá - nghệ thuật, thể dục - thể thao v.v... với sự tham gia của hàng triệu người. (vi) Các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng (Đạo Phật, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hoà Hảo, Cao Đài) với khoảng 18 triệu tín đồ. 15
- Tại Việt Nam cũng có 530 tổ chức phi chính phủ của các nước đang hoạt động. Các tổ chức này hiện có 150 văn phòng trên cả nước và thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức và công dân Việt Nam... Cho đến nay, trong tổng số 84 triệu dân, ước tính có khoảng 60 triệu người tham gia từ một đến nhiều tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội (cả chính thức và không chính thức) chính là các thiết chế tự quản thực sự rộng lớn của xã hội dân sự9. Dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân..., Nhà nước ta cũng đã ban hành một số văn bản pháp luật để tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức xã hội có thể thành lập, hoạt động và phát triển, đồng thời xác lập cơ chế quản lý đối với các tổ chức này như: Luật Công đoàn, Luật Hợp tác xã; Bộ luật Dân sự; Luật Khoa học và Công nghệ; Luật Luật sư; Luật Bảo vệ môi trường..., và một số quy chế như: Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và doanh nghiệp; Quy chế hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội - từ thiện v.v... Tuy nhiên cho đến nay, về cơ bản, các tổ chức xã hội vẫn thành lập, tổ chức và hoạt động theo Điều lệ của từng tổ chức cụ thể... Cơ sở pháp lý chính yếu bằng các quy định pháp luật cho các tổ chức xã hội thành lập, tổ chức và hoạt động vẫn chưa được xác lập. Bắt đầu được xây dựng từ năm 1993, nhưng dự thảo Luật về Hội vẫn chưa được Quốc hội phê chuẩn do còn những tranh luận về một số vấn đề căn bản như đối tượng điều chỉnh của Luật và đặc biệt là việc các bộ, ngành... thuộc hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước quản lý các hội hay không...? Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền là phải có hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất, rõ ràng, minh bạch để điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội, duy trì và bảo vệ công lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm quyền con người. Để có được một xã hội dân sự với các thiết chế tự quản hoạt động hiệu quả, phát huy vai trò thật sự trong mối liên hệ dân chủ giữa nó với Nhà nước, hỗ trợ, góp ý, phản biện xã hội... để nâng cao vai trò quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thì đòi hỏi hệ thống pháp luật là cơ sở pháp lý cho nó phải rất hoàn hảo. Từ hệ thống pháp lý hoàn hảo đó, những cá nhân, tổ chức thuộc các thiết chế tự quản mới ý thức được những quyền 9 Xã hội dân sự: Từ kinh điển Mác – Lê-nin đến thực tiễn Việt Nam hiện nay - Nguyễn Thanh Tuấn - http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&news_ID=6776787 . 16
- và nghĩa vụ của họ để thực thi đúng pháp luật. Ở đây, chúng ta không thể đòi hỏi ngay một khuôn khổ pháp lý hoàn hảo giống như những nước phương Tây đã phát triển lâu đời như Anh, Pháp hay Hoa Kỳ… Nhưng ít nhất phải có cơ sở pháp lý mà ở đó quyền của những cá nhân, tổ chức thuộc các thiết chế tự quản được bảo đảm và được tôn trọng thật sự. Người dân cũng như những tổ chức, hội đoàn của họ ý thức được nghĩa vụ mà họ phải tuân thủ. Có thể có những đạo luật, những quy định mà trong đó ấn định nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức. Nhưng ngược lại quyền lợi của họ cũng phải được tôn trọng một cách đúng mức. Sự tương tác giữa Nhà nước và cá nhân công dân; giữa Nhà nước và các thiết chế tự quản - là những yếu tố cơ bản để tạo ra một xã hội dân sự trường tồn, một Nhà nước vững mạnh. Ở vấn đề thứ nhất: Hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tạo cơ sở pháp lý để các cá nhân có thể tự do tham gia, thành lập, sinh hoạt trong các tổ chức tự quản của xã hội dân sự; đồng thời, pháp luật phải tạo hành lang pháp lý để các tổ chức xã hội tự quản hoạt động một cách có hiệu quả, là đại diện hợp pháp bảo vệ quyền lợi ích cho các thành viên, hướng các thành viên của họ trong đời sống thường ngày biết tuân thủ pháp luật, tuân thủ các quy tắc đạo đức, xây dựng xã hội lành mạnh, no ấm và hạnh phúc. Nếu hiểu và phát triển các tổ chức xã hội theo bản chất và nội hàm của xã hội dân sự, thì các tổ chức xã hội nằm ngoài hệ thống các cơ quan nhà nước, đó là những tập thể liên kết những cá nhân với nhau trong những hoạt động vì một mục đích chung, theo nguyên tắc tự nguyện. Các tổ chức xã hội, các hội, hiệp hội mang tính cộng đồng và là thành phần quan trọng của xã hội dân sự. Cũng có thể coi xã hội dân sự là diễn đàn, là nơi mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung, thì các thiết chế tự quản trong xã hội dân sự được thành lập để hỗ trợ người dân hiểu và làm theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, đồng thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng của họ. Trên thực tế, ở Việt Nam cũng đã tồn tại xã hội dân sự, bởi chúng ta cũng đã từng có những khẩu hiệu thể hiện chủ trương khích lệ sự tham gia của quần chúng nhân dân vào hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước như “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra” hoặc Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Có thể coi các thiết chế tự quản của xã hội dân sự ở nước ta bao gồm từ Mặt trận Tổ quốc tới một mạng lưới rộng khắp các hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức cộng đồng... Một trong những ưu điểm đáng khích lệ của các tổ chức xã hội là khả năng thực 17
- hiện hiệu quả các chính sách xã hội đối với người nghèo và nhóm người kém vị thế, trong khi các cơ quan nhà nước thực hiện không hiệu quả10. Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng, các hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước, ngay từ năm 1990, trong Nghị quyết số 8B-NQ/ HNTW (khoá VI), Đảng ta đã chủ trương: “Trong giai đoạn mới, cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện - nhân đạo…” Hiện nay, bên cạnh các đoàn thể nhân dân có truyền thống lịch sử gắn với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, các hội, tổ chức phi chính phủ đã, đang được thành lập và hoạt động trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội với nhiều mô hình rất đa dạng, phong phú, đã có trên 300 hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc, hơn 2.000 hội có phạm vi hoạt động tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và hàng chục vạn hội, tổ chức cộng đồng tự quản, tổ hoà giải có phạm vi hoạt động tại các quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã, thôn, làng, ấp, bản… Bên cạnh đó là khoảng trên 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam, trong đó có gần 400 tổ chức có chương trình, dự án đối tác với Việt Nam. Nhiều tổ chức đang đề nghị Chính phủ Việt Nam cho lập các văn phòng đại diện, văn phòng dự án… Ngoài các hội, tổ chức phi chính phủ được thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, còn có các hội quần chúng, tổ chức cộng đồng có tính truyền thống hoặc do người dân tự nguyện thành lập, không có tư cách pháp nhân (hay còn gọi là hội không chính thức), như tổ, nhóm tự quản, hội đồng hương… và các câu lạc bộ. Với thực tế này, nếu không tạo được hành lang pháp lý vững chắc sẽ đưa đến hệ quả, một mặt chúng ta không kiểm soát và quản lý được hoạt động của các thiết chế tự quản, mặt khác, dường như việc tham gia của các cá nhân vào các tổ chức xã hội vẫn dường như chỉ là nhu cầu tự phát... Bởi 10 Xem thêm: Xã hội dân sự không đối lập với Nhà nước – Văn Tiến http://vietnamnet.vn/chinhtri/doinoi/2006/06/580015/ 18
- vậy, pháp luật cần phải tạo cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm để mọi người dân có thể tự do tham gia vào các tổ chức theo nguyện vọng chính đáng của họ. Cùng với việc quy định tham gia các tổ chức, các thiết chế tự quản, pháp luật cũng cần định hướng về tổ chức và hoạt động cho các thiết chế tự quản này, trong đó nhấn mạnh đến tinh thần tương thân, tương ái giữa các thành viên. Pháp luật không ấn định những quy phạm về nghĩa vụ, mà khuyến khích lòng nhân ái, đề cao những giá trị đạo đức để các thiết chế tự quản có thể tự bảo vệ các thành viên của họ trong các mối quan hệ với bên ngoài. Ở vấn đề thứ hai: Hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức tự quản hoạt động tuân thủ pháp luật, phát huy được vai trò của các tổ chức này trong quản lý xã hội, đồng thời, trong khuôn khổ pháp luật, các tổ chức xã hội phải đề cao vai trò của mình nhằm hỗ trợ công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức tự quản hoạt động tuân thủ pháp luật là quan tâm đến yếu tố thành lập, hoạt động của các thiết chế tự quản trong xã hội dân sự, điều này trước hết cần phải tôn trọng tính tự nguyện, tự quản của các tổ chức hội, tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi để đáp ứng quyền được lập hội của người dân, tạo môi trường pháp lý để các tổ chức hội – thành tố chủ đạo của xã hội dân sự phát huy được vai trò của nó, đồng hành cùng Nhà nước và thị trường xây dựng một xã hội lành mạnh, có kỷ cương theo mục tiêu phát triển bền vững. Mặt khác, sức mạnh của các tổ chức hội, đặc biệt là các hội nghề nghiệp, là tính chuyên môn hóa cao và đưa ra được những ý tưởng và phương thức mới mẻ, không những trong việc tìm ra các giải pháp thực thi, mà còn trong các ý kiến phản biện xã hội mang tính khách quan, đúng đắn. Tạo cơ sở pháp lý để các thiết chế tự quản của xã hội dân sự hoạt động hiệu quả, phát huy tính dân chủ là việc phải tạo ra các quy phạm dẫn đường, hướng đích, một mặt, đảm bảo để các thiết chế tự quản, các tổ chức xã hội của xã hội dân sự tuân thủ pháp luật, đề cao các giá trị đạo đức truyền thống, tương thân tương ái, mặt khác, phải tôn trọng tính tự nguyện và tự quản của họ. Nếu các quy định của pháp luật – cơ sở pháp lý để nó tổ chức và hoạt động lại quy định như các hoạt động mang tính nhà nước, áp dụng chế độ bộ chủ quản để thực hiện việc quản lý thì đó không phải là những hoạt động mang tính xã hội, và dường như, chúng ta đang “nhà nước hoá” hoạt động của các tổ chức xã hội. 19
- Từ góc nhìn bản chất nội hàm của xã hội dân sự, “cơ quan chủ quản” của các thiết chế tự quản, các tổ chức xã hội chính là hệ thống pháp luật, trong đó Luật về Hội là hạt nhân quan trọng bậc nhất. Hội hoạt động và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật11. Cũng như các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường, đến nay cũng không còn cơ chế “bộ chủ quản”. Một xã hội sẽ phát triển bền vững, đạt được một cách hiệu quả các tiêu chí về “công bằng, dân chủ và văn minh” khi được vận hành dựa trên sự hài hoà của “ba đỉnh” thể chế, đó là: Thể chế nhà nước; thể chế thị trường và thể chế xã hội dân sự. Trong đó, sức mạnh của thể chế nhà nước là pháp luật; của thị trường là lợi nhuận; còn sức mạnh của xã hội dân sự là tuân theo pháp luật, tuân theo thị trường, nhưng thúc đẩy khía cạnh đạo đức, khai thác tính nhân văn, tính cộng đồng. Trong quá trình vận hành hệ thống “ba đỉnh” này, rất cần cảnh giác với những hiện tượng lệch chuẩn, đó là: Nhà nước can thiệp quá sâu vào thị trường (không có thị trường đích thực), hoặc thị trường mua chuộc Nhà nước (căn bệnh tham nhũng tràn lan). Trong hệ thống “ba đỉnh”, xã hội dân sự không nằm lọt trong Nhà nước, nhưng cũng không đối trọng với Nhà nước, mà là bổ sung, hiệu chỉnh từ trí tuệ, nguyện vọng của người dân. Tiếng nói của một người dân có thể chưa chuẩn xác, nhưng một khi số đông người dân lên tiếng, thì chính quyền, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần lắng nghe và hiệu chỉnh các chính sách trong quá trình quản lý xã hội - Đó là biểu hiện của dân chủ và tôn trọng dân chủ. Không nên quan niệm một cách cực đoan là xã hội dân sự đối lập với Nhà nước hoặc Nhà nước có thể bao trùm xã hội, quản lý và điều tiết mọi vấn đề phát sinh trong xã hội. Nhà nước là đại diện của toàn thể dân chúng trên mọi lĩnh vực và không cần các thiết chế tự quản của xã hội dân sự12. Rồi đây, những tổ chức xã hội nghề nghiệp, những hiệp hội, những câu lạc bộ, những tổ chức phi chính phủ, các phương tiện thông tin đại chúng, các nhóm lợi ích... sẽ dần dần có vai trò lớn, nhất là khi “Luật về Hội” được ban hành. Một mạng lưới dày đặc các mối tương tác và trao đổi giữa những cá nhân và cá nhân, cá nhân và cộng đồng được hình thành có tổ chức. Nếu pháp luật thúc đẩy được xã hội dân sự phát triển hiệu quả, các thiết chế tự quản, các tổ chức xã hội của xã hội dân sự được tham dự vào các hoạt động quản lý xã hội, thì công 11 Góc nhìn từ xã hội dân sự - http://dddn.com.vn/18850cat113/goc-nhin-tu-xa-hoi-dan-su.htm. 12 Xem thêm: Xã hội dân sự - Vũ Duy Phú (Viện VIDS)- http://www.gencomnet.org/default.asp?xt=&page=newsdetail&newsid=627 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
168 p | 8888 | 2370
-
Giáo trình Lý luận hành chính nhà nước: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải (chủ biên)
74 p | 1794 | 243
-
Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật (Dùng cho đào tạo đại học và sau đại học luật): Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Văn Động
200 p | 672 | 205
-
Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật (Dùng cho đào tạo đại học và sau đại học luật): Phần 2 - PGS.TS. Nguyễn Văn Động
155 p | 324 | 149
-
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật: Phần 1 - PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế
264 p | 1120 | 122
-
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật: Phần 2 - PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế
355 p | 317 | 96
-
Giáo trình Lý luận về nhà nước pháp quyền (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
93 p | 210 | 55
-
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật: Phần 1
246 p | 236 | 54
-
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật (Tập 1): Phần 2
275 p | 202 | 45
-
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật (Tập 1): Phần 1
207 p | 194 | 41
-
GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT.PHẦN DẪN NHẬP MÔN HỌCCHƯƠNG 1 KHOA HỌC LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VÀ MÔN HỌC LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
148 p | 228 | 41
-
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật: Phần 2
225 p | 176 | 36
-
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
78 p | 155 | 30
-
Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người (Tái bản lần thứ nhất có sửa đổi, bổ sung) : Phần 2
117 p | 280 | 27
-
Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người (Dùng cho hệ cử nhân): Phần 2
197 p | 50 | 13
-
Giáo trình Lý luận về Nhà nước và Pháp luật - Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân
117 p | 212 | 13
-
Giáo trình Lý luận nghiệp vụ Nhà nước & Pháp luật - Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu
59 p | 20 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn