Giáo trình môn học Chính trị (Trình độ Trung cấp)
lượt xem 9
download
Giáo trình Giáo dục chính trị trình độ trung cấp có nội dung gồm: Khái quát về chủ nghĩa Mác – Lênin; khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh; những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, con người ở Việt Nam; tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người công dân tốt, người lao động tốt.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình môn học Chính trị (Trình độ Trung cấp)
- BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỸ NGHỆ II GIÁO TRÌNH MÔN HỌC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP (Ban hành kèm theo Quyết định số ……/QĐ–CĐKNII ngày … tháng … năm 2020 của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II) TP. Hồ Chí Minh – năm 2020.
- MỤC LỤC Bài mở đầu .......................................................................................................... 1 I. Vị trí, tính chất môn học ................................................................................... 1 II. Mục tiêu của môn học ..................................................................................... 1 III. Nội dung chính ............................................................................................... 2 IV. Phương pháp dạy học và đánh giá môn học .................................................. 2 Bài 1: Khái quát về chủ nghĩa Mác – Lênin .................................................... 2 I. Khái niệm chủ nghĩa Mác – Lênin ................................................................... 3 II. Các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác – Lênin ........................................ 4 III. Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của chủ nghĩa Mác – Lênin.......... 16 Bài 2: Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh ..................................................... 19 I. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh .................................................................... 19 II. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh ....................................... 22 III. Vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam ....................... 26 IV. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.......................................................................................... 27 Bài 3: Những thành tựu của cách mạng việt nam dưới sự lãnh đạo của Đảng .............................................................................................................. 35 I. Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam ............................................................................................................... 35 II. Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ........ 48 Bài 4: Phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, con người ở Việt Nam ................. 53 I. Nội dung của chủ trương phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, con người ở Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 53 II. Giải pháp phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, con người ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................................. 59 Bài 5: Tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người công dân tốt, người lao động tốt....... 73 I. Quan niệm về người công dân tốt, người lao động tốt ..................................... 73 II. Nội dung tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người công dân tốt, người lao động tốt... 75 Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 81 i
- ii
- BÀI MỞ ĐẦU I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT MÔN HỌC 1. Vị trí Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chính trị trước hết là bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, hiệu lực quản lý của nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính trị có vai trò to lớn. Chính trị đúng đắn giúp cho một giai cấp, mỗi con người thực hiện được mục tiêu của mình. Môn học Giáo dục chính trị là môn học bắt buộc thuộc khối các môn học chung trong chương trình đào tạo trình độ trung cấp. 2. Tính chất môn học Giáo dục chính trị là bộ phận của khoa học chính trị, của công tác tư tưởng, có nội dung chủ yếu là giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn cho mỗi người, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước. Môn học Giáo dục chính trị gắn bó chặt chẽ với đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với thực tiễn đất nước, gắn với sự tu dưỡng, rèn luyện của người học, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. II. MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC Sau khi học xong môn học, người học cần đạt được: Về kiến thức: Trình bày được một số nội dung khái quát về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; yêu cầu và nội dung học tập, rèn luyện để trở thành người công dân tốt, người lao động tốt. Về kỹ năng: Vận dụng được các kiến thức chung được học về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào việc học tập, rèn luyện, xây dựng đạo đức, lối sống để trở thành người công dân tốt, người lao động tốt và tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Có năng lực vận dụng các nội dung đã học để rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; thực hiện tốt quan điểm, 1
- đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. III. NỘI DUNG CHÍNH Môn học Giáo dục chính trị trình độ trung cấp có nội dung gồm: Khái quát về chủ nghĩa Mác – Lênin; Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh; Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; Phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, con người ở Việt Nam; Tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người công dân tốt, người lao động tốt. IV. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC 1. Phương pháp dạy học Môn học Giáo dục chính trị lấy phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở dạy học; sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. Người học chú trọng tự nghiên cứu tài liệu, kết hợp với thảo luận trên lớp, liên hệ với thực tiễn nghề nghiệp đào tạo; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, tham khảo nhiều tài liệu của Đảng, Nhà nước để củng cố kiến thức. Giáo dục chính trị là môn học gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống. Trong dạy và học cần liên hệ với thực tiễn hiện nay; gắn dạy lý thuyết với học ngoại khoá, tham quan bảo tàng, thực tiễn sản xuất, các doanh nghiệp; các di tích lịch sử, văn hoá cách mạng... 2. Đánh giá môn học Việc đánh giá kết quả học tập của người học được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 09/2017/TT-BLĐTBXH ngày 13 tháng 3 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định việc tổ chức thực hiện chương trình đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng theo niên chế hoặc theo phương thức tích lũy mô đun hoặc tín chỉ; quy chế kiểm tra, thi, xét công nhận tốt nghiệp. CÂU HỎI 1. Làm rõ vị trí và tính chất của môn Giáo dục chính trị? 2. Cần phải làm những gì để học tập tốt môn Giáo dục chính trị? 2
- Bài 1 KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN I. KHÁI NIỆM CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập từ những năm giữa thế kỷ XIX, được V.I.Lênin bổ sung, phát triển vào đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống lý luận thống nhất được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản là triết học Mác – Lênin, kinh tế chính trị học Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống lý luận khoa học thống nhất về mục tiêu, con đường, biện pháp, lực lượng thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác – Lênin có vị trí, vai trò khác nhau nhưng là một thể thống nhất nêu rõ mục tiêu, con đường, lực lượng, phương thức giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Triết học Mác – Lênin là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; có vai trò trang bị cho con người cách nhìn khoa học và phương pháp đúng đắn để nhận thức, cải tạo và phát triển thế giới. Kinh tế chính trị học Mác – Lênin là khoa học nghiên cứu các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi trong quan hệ biện chứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản xuất nhất định. Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chính trị – xã hội, những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, những con đường và hình thức, phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm thực hiện sự chuyển hóa từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. - Nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Mác Về kinh tế – xã hội: Nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ XIX phát triển mạnh ở nhiều nước Tây Âu. Sự ra đời và phát triển của giai cấp vô sản với tính cách là lực lượng chính trị độc lập là nhân tố quan trọng ra đời chủ nghĩa Mác. Về tư tưởng lý luận là những đỉnh cao về triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển ở Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán ở Pháp. Về khoa học là những phát minh về khoa học tự nhiên như thuyết tiến hóa giống loài của Đác-uyn, thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lô-mô-nô- 3
- xốp; học thuyết về tế bào của các nhà khoa học Đức. Các học thuyết này là cơ sở củng cố chủ nghĩa duy vật biện chứng – cơ sở phương pháp luận của học thuyết Mác. - Nhân tố chủ quan: C.Mác (1818-1883), Ph.Ăng-ghen (1820-1895) là những thiên tài trên nhiều lĩnh vực. Hai ông đã nghiên cứu kỹ xã hội tư bản, kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tiền đề tư tưởng lý luận, khoa học, phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân và sáng lập ra học thuyết mang tên mình. - Ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin Giai đoạn C.Mác, Ph.Ăng-ghen (1848-1895). Tháng 2-1848, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do hai ông dự thảo được Đồng minh những người cộng sản thông qua, mở đầu sự ra đời chủ nghĩa Mác. Sau đó hai ông đã viết nhiều tác phẩm, xây dựng nên học thuyết khoa học với ba bộ phận triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. V.I.Lênin phát triển chủ nghĩa Mác (1895-1924): V.I.Lênin (1870-1924) đã đấu tranh, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Người đã lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, phát triển nhiều vấn đề lý luận mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi V. I. Lênin mất, Quốc tế Cộng sản đã bổ sung, gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ năm 1924 đến nay, các Đảng cộng sản và công nhân trên thế giới coi chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng để vận dụng, bổ sung, phát triển, xây dựng đường lối cách mạng phù hợp với thực tiễn đất nước. II. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 1. Triết học Mác – Lênin a) Chủ nghĩa duy vật biện chứng Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập quan niệm mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới rất đa dạng nhưng bản chất là sự tồn tại của vật chất thông qua các sự vật cụ thể. Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức chỉ là sự phản ánh một phần thế giới vật chất vào đầu óc con người. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất nên vận động của vật chất là vĩnh viễn vì đó là sự vận động tự thân, do mâu thuẫn bên trong quyết định. Có 5 hình thức cơ bản của vận động là vận động cơ học, lý học, hoá học, sinh học và vận động xã hội. Vận động xã hội là hình thức vận động cao nhất vì nó là sự vận động các chế 4
- độ xã hội thông qua con người. Ý thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người, gồm ba yếu tố cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí của con người. Do tâm, sinh lý, mục đích, yêu cầu, động cơ và điều kiện mỗi người khác nhau nên cùng hiện thực khách quan nhưng ý thức con người có thể khác nhau. Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung, bản chất và sự vận động của ý thức. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. - Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là: + Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khẳng định thế giới có vô vàn các sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ tương hỗ, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp với nhau. Có mối liên hệ bên trong, bên ngoài, mối liên hệ chung, liên hệ riêng; có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp, thông qua trung gian. Vì vậy phải có quan điểm toàn diện để xem xét các mối liên hệ bản chất, bên trong sự vật, hiện tượng. + Nguyên lý về sự phát triển khẳng định mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. Có những vận động diễn ra theo khuynh hướng đi lên, đi xuống, vòng tròn, lặp lại hoặc xoáy ốc đi lên. Phát triển là khuynh hướng vận động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện theo chiều hướng đi lên. Vì vậy cần nhận thức sự vật, hiện tượng theo xu hướng vận động, đổi mới phát triển. - Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật + Quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại Quy luật này chỉ ra về cách thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi sự vật, hiện tượng đều gồm hai mặt đối lập chất và lượng. Chất là các thuộc tính khách quan, vốn có của các sự vật, hiện tượng; còn lượng là chỉ số các yếu tố cấu thành, quy mô tồn tại và nhịp điệu biến đổi của chúng. Tương ứng với một lượng thì cũng có một chất nhất định và ngược lại. Lượng biến đổi sẽ dẫn đến mâu thuẫn, phá vỡ chất cũ, chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất cũ. Sự thay đổi về lượng đều có thể dẫn tới những sự thay đổi về chất và ngược lại tạo ra sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. + Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập 5
- Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Theo quy luật này, mọi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất của các mặt đối lập có liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau, tác động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau. Sự thống nhất các mặt đối lập là tương đối; đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối. Các mặt đối lập vận động trái chiều nhau, không ngừng tác động, ảnh hưởng đến nhau, làm sự vật, hiện tượng biến đổi, phát triển. + Quy luật phủ định của phủ định Quy luật này vạch ra khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật . Thế giới vật chất tồn tại, vận động phát triển không ngừng. Sự vật, hiện tượng nào đó xuất hiện, mất đi, thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác. Sự thay thế đó gọi là phủ định. Phủ định biện chứng là sự tự phủ định do mâu thuẫn bên trong sự vật, Cái mới phủ định cái cũ, nhưng cái mới sẽ không phải là mới mãi, nó sẽ cũ đi và bị cái mới khác phủ định; không có lần phủ định cuối cùng. Cái cũ tuy bị thay thế nhưng vẫn còn lại những yếu tố, đôi khi mạnh hơn cái mới. Cái mới còn non yếu chưa có khả năng thắng ngay cái cũ. Vận động phát triển đi lên, là xu hướng chung của thế giới, nhưng không diễn ra theo đường thẳng tắp, mà diễn ra theo đường xoáy ốc, quanh co phức tạp. - Lý luận nhận thức Nhận thức là một hoạt động của con người, là quá trình phản ánh chủ động, tích cực, sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc người. Hoạt động nhận thức được thực hiện thông qua thực tiễn, lấy thực tiễn làm cơ sở, là mục đích, động lực và là tiêu chuẩn xác định tính đúng đắn của nhận thức. Chủ thể nhận thức là con người nhưng thường bị chi phối bởi điều kiện lịch sử, về kinh tế, chính trị -xã hội, truyền thống văn hoá; đặc điểm tâm sinh lý, đặc biệt là năng lực nhận thức, tư duy của chủ thể. Nhận thức của con người không phải là thụ động mà là chủ động, tích cực, sáng tạo, đi từ biết ít đến biết nhiều, từ biết hiện tượng đến hiểu bản chất sự vật, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức có liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Giai đoạn nhận thức cảm tính, nhận thức hiện thực trực tiếp thế giới khách quan, nhưng đó chỉ là nhận thức những hiện tượng bề ngoài, giản đơn. Nhận thức lý tính chỉ ra những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong, vạch ra quy luật vận động phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý 6
- tính khi đã hình thành sẽ tác động trở lại làm cho nhận thức cảm tính nhạy bén hơn, chính xác hơn. Tư duy trừu tượng phản ánh gián tiếp hiện thực nên phải kiểm nghiệm trong thực tiễn để phân biệt đúng, sai. - Thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất của con người nhằm cải tạo thế giới khách quan để phục vụ nhu cầu của con người. Hoạt động thực tiễn thể hiện qua ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức,cung cấp những tài liệu hiện thực, khách quan, làm cơ sở để con người nhận thức. Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức; là tiêu chuẩn của chân lý. b) Chủ nghĩa duy vật lịch sử Chủ nghĩa duy vật lịch sử bao gồm những quy luật vận động, phát triển của xã hội. - Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Con người hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần và sản xuất ra chính con người. Để tồn tại và phát triển, trước tiên con người phải ăn, uống, ở và mặc trước khi có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, sinh sản... Muốn vậy, họ phải lao động sản xuất ra của cải vật chất. Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất vật chất trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Mỗi phương thức sản xuất gồm hai mặt cấu thành là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và công cụ lao động, trong đó công cụ lao động là yếu tố động nhất, luôn đổi mới theo sự phát triển của sản xuất. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, tổ chức, quản lý và phân phối sản phẩm lao động; trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định nhất. Trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn 7
- bó hữu cơ với nhau. Lực lượng sản xuất như thế nào về trình độ phát triển thì quan hệ sản xuất phù hợp như thế ấy. Khi trình độ lực lượng sản xuất phát triển, thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. Đến mức độ nào đó, quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa, nó sẽ mâu thuẫn và cản trở lực lượng sản xuất. Để tiếp tục phát triển, lực lượng sản xuất phải phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. - Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất còn lại của hình thái kinh tế – xã hội trước đó và quan hệ sản xuất của hình thái kinh tế – xã hội tương lai. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo và chi phối các quan hệ sản xuất khác. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học... và những thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các tổ chức quần chúng..., được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định và phản ánh cơ sở hạ tầng đó. Cơ sở hạ tầng thế nào thì kiến trúc thượng tầng được xây dựng tương ứng. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị phù hợp với nó. Khi cơ sở hạ tầng biến đổi, kiến trúc thượng tầng biến đổi theo. Biến đổi cơ sở hạ tầng, sớm hay muộn cũng dẫn tới biến đổi kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại, bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, Nhà nước có vai trò quan trọng và có hiệu lực mạnh nhất vì Nhà nước là công cụ quản lý hiệu quả của giai cấp thống trị đối với xã hội Cách mạng xã hội là bước nhảy vọt về chất trong sự phát triển xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng hình thái kinh tế – xã hội khác, tiến bộ hơn. Trong cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển xã hội,...là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử xã hội. 2. Kinh tế chính trị Mác – Lênin a) Học thuyết giá trị và giá trị thặng dư - Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của C.Mác. Bằng việc phân tích hàng hoá, C.Mác đã vạch ra quan hệ giữa người với người thông qua quan hệ trao đổi hàng hoá, đó chính là lao động, cơ sở của giá trị hàng hoá. Hàng hoá là sản phẩm của lao động, dùng để thoả mãn nhu cầu của con người 8
- thông qua trao đổi mua bán. Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Giá trị trao đổi là một tỷ lệ, theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Giá trị của hàng hoá là lượng lao động xã hội được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết của người sản xuất hàng hoá. Để trao đổi hàng hoá đó với nhau phải căn cứ vào giá trị xã hội của hàng hoá đó. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, với một trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình trong điều kiện xã hội nhất định. Năng suất lao động xã hội là năng lực sản xuất của lao động được tính bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Lao động giản đơn là lao động của bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được huấn luyện đào tạo thành lao động lành nghề. Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện của tiền. Tiền, về bản chất, là một loại hàng hóa đặc biệt, là vật ngang giá chung, thước đo giá trị trong trao đổi hàng hóa; là kết quả của quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Tiền xuất hiện là yếu tố ngang giá chung, là hình thái biểu hiện giá trị của hàng hóa. Giá trị của hàng hóa biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thức tiền là giá cả của hàng hóa đó. Giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Tuy nhiên ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như sức cạnh tranh, cung cầu, sức mua của người tiêu dùng… - Học thuyết giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong toàn bộ học thuyết kinh tế của C.Mác, là đóng góp to lớn của ông trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Nó chỉ ra bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nội dung cơ bản của học thuyết là: Sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định thì tiền biến thành tư bản. Công thức của lưu thông hàng hóa giản đơn là Hàng-Tiền-Hàng, nghĩa là bán một hàng hóa đi để mua một hàng hóa khác.... Công thức chung của lưu thông tư bản là Tiền-Hàng-Tiền nhiều hơn, nghĩa là mua để bán nhằm có thêm lợi nhuận. Phần tiền tăng thêm so với số tiền lúc đầu bỏ vào 9
- lưu thông gọi là giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác đã chỉ rõ nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản khi nhà tư bản thuê công nhân, tức mua được loại hàng hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động bao gồm giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đủ để duy trì sức khoẻ của người lao động ở trạng thái bình thường; chi phí đào tạo tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động; giá trị tư liệu sinh hoạt cho con cái của người lao động. Trên thực tế, giá trị của hàng hóa sức lao động được thể hiện bằng tiền công, tiền lương, là sự biểu thị bằng tiền giá trị sức lao động, hay là giá cả của sức lao động. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động được thể hiện trong quá trình lao động. Sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Nhà tư bản sử dụng hàng hóa sức lao động của người công nhân, tạo lợi nhuận ngày càng nhiều cho chủ tư bản. Nhà tư bản thường sử dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối do kéo dài thời gian lao động tất yếu và sản xuất giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu do ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động xã hội.Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối, là cơ sở tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết giá trị thặng dư đã vạch rõ bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; chứng minh khoa học về cách thức bóc lột giai cấp công nhân của giai cấp tư sản và luận chứng những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa xã hội, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, học thuyết giá trị thặng dư vẫn có giá trị. Cần quan tâm ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động... để tạo ra nhiều giá trị thặng dư, vừa để nâng cao thu nhập của mình, vừa mang lại lợi ích, xây dựng cơ sở vật chất nhiều hơn cho xã hội. b) Về chủ nghĩa tư bản độc quyền Chủ nghĩa tư bản độc quyền với 5 đặc điểm kinh tế cơ bản: Một là, sự tích tụ, tập trung sản xuất và tập trung tư bản với quy mô lớn với sự liên minh giữa các nhà tư bản để nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Hai là, sự tích tụ và tập trung tư bản ngân hàng ra đời các tổ chức độc quyền 10
- ngân hàng. Tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng hợp tác hình thành tập đoàn tư bản tài chính có tiềm lực vốn và lực lượng sản xuất rất mạnh. Ba là, xuất khẩu tư bản để các nhà tư bản tài chính tiến hành khai thác sức lao động, tài nguyên thiên nhiên,... ở các nước chậm phát triển dưới hình thức đầu tư xây dựng nhà máy, doanh nghiệp, tổ chức sản xuất hoặc cho vay. Bốn là, sự phân chia thị trường thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền để độc chiếm nguồn nguyên liệu, quy mô sản xuất, định ra giá cả độc quyền cao. Năm là, sự phân chia thế giới về lãnh thổ, thực chất là phân chia thế giới về kinh tế giữa các cường quốc tư bản. Biểu hiện ở việc các nước đế quốc xâm chiếm thuộc địa, độc chiếm nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hàng hoá và thiết lập căn cứ quân sự khống chế các nước khác. Chủ nghĩa tư bản độc quyền ra đời đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển đạt tới mức cao nhất trong lịch sử sản xuất của nhân loại. Mặt tiêu cực của sự ra đời chủ nghĩa tư bản độc quyền là gắn với quá trình bóc lột chiếm lợi nhuận cao thể hiện rõ dưới nhiều hình thức. Các cuộc khủng hoảng kinh tế trong xã hội tư bản hiện đại kéo dài, trầm trọng hơn. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động với giai cấp tư sản ngày càng sâu sắc. Sự cạnh tranh kinh tế quyết liệt giữa các nước tư bản với nhau, các nước tư bản với các nước đang phát triển là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến xung đột và chiến tranh đe dọa hòa bình và ổn định của thế giới. 3. Chủ nghĩa xã hội khoa học a) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã dùng khái niệm giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại để chỉ lực lượng những người lao động không phải chủ sở hữu của tư liệu sản xuất mà phải bán sức lao động, nhận tiền lương; tạo ra giá trị thặng dư làm giàu cho nhà tư bản và xã hội. Giai cấp công nhân ra đời, phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thế kỷ XIX. Ngày nay, trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ và kinh tế tri thức, khái niệm giai cấp công nhân được mở rộng hơn, “là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”1. 1 Đảng CSVN: Văn kiện Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ 6, khoá X, Nxb CTQG. HN, 2009. tr. 287 11
- - Đặc điểm của giai cấp công nhân Giai cấp công nhân ra đời và lớn lên cùng với sự phát triển của đại công nghiệp và cách mạng khoa học và công nghệ, họ đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, có tính chất tiên tiến, gắn với xu hướng phát triển của xã hội. Trong cuộc đấu tranh của mình, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để không chỉ để giải phóng mình mà còn giải phóng toàn bộ xã hội... Giai cấp công nhân lao động trong hệ thống sản xuất có tính chất dây chuyền công nghiệp, có thói quen của lối sống ở đô thị tập trung, tuân thủ các quy định của cộng đồng, pháp luật của nhà nước nên họ có tính chất tổ chức kỷ luật cao. Sản xuất công nghiệp và khoa học và công nghệ có tính chất quốc tế nên giai cấp công nhân có tính chất quốc tế. - Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là cộng sản chủ nghĩa. Về kinh tế, giai cấp công nhân là người đại diện phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát triển xã hội. Giai cấp công nhân là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao và quan hệ sản xuất mới phù hợp dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Giai cấp công nhân có điều kiện đoàn kết với nhau trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, thiết lập chế động công hữu xã hội chủ nghĩa. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành người chủ đất nước, là lực lượng đi đầu lãnh đạo nhân dân lao động cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ áp bức bất công và nghèo nàn lạc hậu bằng đẩy mạnh công nghiệp hóa, thực hiện một kiểu tổ chức mới về lao động, có năng suất ngày càng cao, với các nguyên tắc sở hữu tư liệu sản xuất mới, cách thức quản lý sản xuất và tổ chức phân phối sản phẩm phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Về chính trị, giai cấp công nhân có điều kiện khách quan đứng ở vị trí trung tâm, lãnh đạo và đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, tổ chức xây dựng chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Về văn hóa, tư tưởng, giai cấp công nhân tiến hành cuộc cách mạng văn hóa 12
- tư tưởng, cải tạo những tư tưởng, tàn dư của xã hội cũ, xây dựng hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, xây dựng nền văn hóa mới trở thành nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có đạo đức, lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. - Tất yếu hình thành chính đảng của giai cấp công nhân Ngay từ khi mới ra đời, giai cấp công nhân đã phải đấu tranh với giai cấp tư sản để bảo vệ quyền lợi của mình. Sự thất bại của phong trào công nhân tự phát giữa thế kỷ XIX khách quan đòi hỏi có lý luận khoa học dẫn đường và đảng chính trị tiền phong lãnh đạo. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân tất yếu ra đời chính đảng của giai cấp công nhân. Đó là quy luật chung ra đời đảng cộng sản- chính đảng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng có tổ chức chặt chẽ, bao gồm những người tiên tiến về mặt nhận thức và gương mẫu về mặt hành động trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng cộng sản được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; có lý luận tiền phong là chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân tự giác nhận thức rõ mục tiêu, con đường, biện pháp đấu tranh cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là lãnh đạo toàn xã hội đấu tranh xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. b) Cách mạng xã hội chủ nghĩa Cách mạng xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan do mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá cao với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa không diễn ra tự phát. Chỉ khi giai cấp công nhân có lý luận dẫn đường, nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, có đội tiên phong là đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới có thể tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa là khối đoàn kết, liên minh công nông, trí thức và các tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân lãnh đạo. Cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị, chủ yếu là đảng cộng sản 13
- lãnh đạo giai cấp công nhân và các lực lượng nhân dân lao động đấu tranh lật đổ chính quyền tư sản, thiết lập quyền lực chính trị về tay mình, xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực kinh tế, nhiệm vụ trọng tâm là phát triển lực lượng sản xuất, tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội; xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; xây dựng và phát huy quyền làm chủ của người lao động đối với tư liệu sản xuất; cải thiện đời sống nhân dân. Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa là tiến hành giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa; xây dựng con người mới, xây dựng đạo đức, lối sống mới xã hội chủ nghĩa. c) Sự phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao; giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa, giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa. Trước khi đến giai đoạn sau là thời kỳ quá độ để cải biến cách mạng từ xã hội trước sang xã hội sau. - Về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, quá trình chuyển biến từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ để cải biến toàn diện và triệt để trên tất cả các lĩnh vực về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc điểm của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là tồn tại đan xen những yếu tố của xã hội cũ chưa xoá bỏ hết và những nhân tố mới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội vừa mới xây dựng chưa đầy đủ, còn non yếu. Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là quá trình mới mẻ, chưa có tiền lệ, nhiều khó khăn và phức tạp nên không thể tiến hành xong trong thời gian ngắn. Cần có thời kỳ quá độ để giai cấp công nhân và nhân dân lao động lãnh đạo xây dựng, từng bước hoàn thiện về chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, con người. Thời kỳ quá độ dài ngắn khác nhau vì phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, điều kiện, hoàn cảnh quốc tế và xu thế thời đại. Về chính trị, trong thời kỳ quá độ, kẻ thù vừa bị đánh đổ luôn có sự cấu kết trong, ngoài nước tiếp tục chống phá; đấu tranh giai cấp vẫn còn tiếp tục dưới hình thức mới, trong điều kiện mới. Cần xây dựng, củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng đảng cộng sản vững mạnh đủ sức lãnh đạo toàn xã hội đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực và mọi âm mưu, hành động chống phá 14
- cách mạng của các thế lực thù địch, xây dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa. Về kinh tế, cần có thời gian để cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Trong đó cần thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế dưới sự quản lý của nhà nước tồn tại và phát triển trong mối quan hệ vừa cạnh tranh, vừa hỗ trợ nhau thúc đẩy nền sản xuất phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư của tư bản nước ngoài và sử dụng chuyên gia tư sản vào sản xuất. Cần phát triển các hợp tác xã, sử dụng và phát triển kinh tế tư nhân để nó trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Về tư tưởng văn hoá, trong thời kỳ quá độ bên cạnh hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin đang xây dựng, còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, phong kiến, tiểu nông và các luồng tư tưởng du nhập từ bên ngoài.... Vì vậy cần có đẩy mạnh hoạt động đấu tranh tư tưởng, khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa; từng bước xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, những nước kinh tế kém phát triển có thể quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Để thực hiện bước quá độ đó, cần phải có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, có sự đoàn kết toàn dân tộc và sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến. - Về xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản có những đặc trưng cơ bản là: Có cơ sở vật chất-kỹ thuật là nền công nghiệp phát triển ở trình độ hiện đại với năng suất lao động cao hơn hẳn xã hội tư bản. Có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới nhiều hình thức; không còn chế độ người bóc lột người. Cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động trên tinh thần tự giác, tự nguyện, bình đẳng. Có nhiều hình thức phân phối, trong đó thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và phân phối theo phúc lợi xã hội ngày càng tăng. Có nền văn hóa mới tiên tiến, phong phú, đa dạng; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện. Các dân tộc đoàn kết, bình đẳng cùng phát triển. Xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Có quan hệ quốc tế rộng rãi theo chủ nghĩa quốc tế vô sản. - Xã hội cộng sản chủ nghĩa là xã hội có những đặc trưng cơ bản: Lực lượng sản xuất với khoa học kỹ thuật phát triển rất cao, của cải xã hội làm ra rất dồi dào, mọi người “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Con người phát triển tự do và toàn diện năng lực của mình. Lao động trở thành nhu cầu của con người ngày càng 15
- được giảm nhẹ. Xã hội ngày càng phát triển ở trình độ văn minh; không còn sự khác nhau giữa các giai cấp, các tầng lớp; không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Nhân dân làm chủ ở mức độ rất cao. Những thiết chế chính trị và pháp luật sẽ dần dần mất đi, nhà nước trở thành không cần thiết, tự tiêu vong. III. VAI TRÒ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN 1. Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin - Chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống lý luận khoa học, thể hiện trong toàn bộ ba bộ phận cấu thành học thuyết Triết học Mác – Lênin trang bị cho con người thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức, cải tạo và phát triển thế giới. Kinh tế chính trị học Mác – Lênin chỉ rõ những quy luật kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản, trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội và và dưới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học là lý luận về về cách mạng xã hội chủ nghĩa; làm rõ lực lượng xã hội to lớn để thực hiện sự nghiệp đó là giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, người lãnh đạo toàn xã hội đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. - Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết duy nhất nêu rõ mục tiêu, con đường, lực lượng, phương thức giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết duy nhất, nêu rõ mục tiêu xây dựng xã hội tốt đẹp trên toàn thế giới; chỉ rõ phương hướng, lực lượng, phương thức để giải phóng toàn xã hội khỏi mọi bất công, áp bức; giải phóng mọi giai cấp thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, giải phóng con người khỏi mọi sự ràng buộc của chủ nghĩa cá nhân, đi tới tự do. - Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết mở, sống động, không ngừng tự phê phán, tự đổi mới, bổ sung và phát triển trong thực tiễn cách mạng Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết mang tính chất cách mạng, không chỉ giải thích thế giới, mà còn cải tạo và xây dựng xã hội mới tốt đẹp. Học thuyết này luôn sống động, nó có khả năng tự phê phán, đổi mới, bổ sung và phát triển. - Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết cách mạng, có ý nghĩa thực tiễn, không chỉ giải thích thế giới mà là cải tạo xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực. 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (hệ cao cấp lý luận chính trị): Phần 1
172 p | 511 | 109
-
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Văn Hảo, PGS.TS. Nguyễn Đình Kháng (đồng chủ biên)
170 p | 284 | 64
-
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin chuyên ngành
257 p | 225 | 48
-
Giáo trình môn học Giáo dục chính trị (Trình độ cao đẳng): Phần 1
78 p | 636 | 30
-
Giáo trình kinh tế chính trị_1
21 p | 166 | 25
-
Giáo trình môn học Giáo dục chính trị (Trình độ cao đẳng): Phần 2
84 p | 98 | 21
-
Giáo trình kinh tế chính trị_9
21 p | 120 | 18
-
Giáo trình kinh tế chính trị_7
21 p | 136 | 15
-
Giáo trình kinh tế chính trị_6
21 p | 149 | 15
-
Giáo trình kinh tế chính trị_2
21 p | 195 | 15
-
Giáo trình kinh tế chính trị_3
21 p | 103 | 11
-
Giáo trình kinh tế chính trị_5
21 p | 132 | 10
-
Giáo trình kinh tế chính trị_8
21 p | 121 | 9
-
Giáo trình kinh tế chính trị_4
21 p | 128 | 9
-
Giáo trình dạy học môn Chính trị (Trình độ: Trung cấp): Phần 1 - Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp
35 p | 26 | 5
-
Góp ý về chương trình lí luận chính trị ở các trường đại học và cao đẳng hiện nay
5 p | 42 | 2
-
Một số đề xuất hoàn thiện giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin hệ không chuyên Lý luận chính trị theo chương trình mới
5 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn