Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012<br />
<br />
GÓP PHẦN ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG RÚT NGẮN THỜI GIAN<br />
THỰC HIỆN NGHIỆM PHÁP DUNG NẠP GLUCOSE<br />
Trần Ngọc Thanh*, Nguyễn Thị Lệ**, Nguyễn Thị Bích Đào***<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) tăng nhanh trên thế giới.<br />
Do đó, việc tầm soát tiền ĐTĐ mang lại một ích lợi quan trọng vì giúp phòng bệnh nguyên phát, nhất là ở người<br />
trẻ hiện nay. Nghiệm pháp dung nạp (NPDN) glucose đường uống là một trong hai cách giúp để phát hiện tiền<br />
ĐTĐ với khả năng phát hiện mạnh hơn. Tuy nhiên, thời gian 2 giờ cần cho việc thực hiện nghiệm pháp là khá<br />
lâu và là một trong những rào cản đối với việc ứng dụng nghiệm pháp này trong thực tế nên cần thiết phải đánh<br />
giá khả năng cải tiến.<br />
Mục tiêu: Đánh giá khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp dung nạp glucose.<br />
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang trên 354 học viên đến thực tập tại Bộ môn sinh lý học –<br />
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.<br />
Kết quả: Có khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp dành cho các đối tượng có kết quả bình<br />
thường tại thời điểm 90 phút và tỉ lệ trường hợp có thể được rút ngắn là 49%.<br />
Từ khóa: nghiệm pháp dung nạp glucose, đường huyết lúc đói, tiền đái tháo đường, rối loạn dung nạp<br />
glucose.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THE PROBABILITY OF SHORTERNING ORAL GLUCOSE TOLERANCE TEST TIME<br />
Tran Ngoc Thanh, Nguyen Thi Le, Nguyen Thi Bich Dao<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 69 - 73<br />
Background: Vietnam is one of the most increasing prevalence of diabetes mellitus countries. Therefore,<br />
screening and defining the prevalance of pre-diabestes are very important, especially in young adults. Oral<br />
glucose tolerance test (OGTT), one of two ways to diagnose diabetes diseases and pre-diabetes has higher accuracy.<br />
However, 2-hour test time is too long for using in community and needs to be improved.<br />
Aim: to define the prevalence of pre-diabestes by using OGTT and to evaluate the probability of shortening<br />
test time.<br />
Method: cross-sectional study on 354 students practicing at Department of Physiology in the University of<br />
Medicine and Pharmacy at HCMC.<br />
Results: The prevalence of impaired glucose tolerance (pre-diabestes) by using OGTT was 26,5%. This<br />
study showed that there was a probability of shortening test time and this might be used for people having normal<br />
result at 90th minute of test. The prevalance of people who can be stopped at 90th minute of test was 49%.<br />
Keywords: oral glucose tolerance test, fasting glucose test, pre-diabetes, impaired glucose tolerance.<br />
<br />
* Bộ môn Sinh Lý Học, Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch<br />
** Bộ môn Sinh Lý Học, Đại Học Y Dược TP.HCM.<br />
*** Khoa Nội tiết, Bệnh viện Chợ Rẫy<br />
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Thị Bích Đào,<br />
ĐT: 0983915048,<br />
Email: phd_bichdao@hotmail.com<br />
<br />
70<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một rối loạn<br />
chuyển hóa do nhiều nguyên nhân phức tạp.<br />
Hậu quả của ĐTĐ là những tổn thương kéo dài,<br />
rối loạn và suy chức năng của các cơ quan khác<br />
nhau(3). Theo IDF 2011, hiện trên toàn thế giới có<br />
khoảng 366 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, dự báo<br />
đến năm 2030 con số này sẽ tăng lên 522 triệu<br />
người(6). Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ<br />
lệ bệnh ĐTĐ tăng nhanh. Do đó, việc tầm soát<br />
tiền ĐTĐ mang lại một ích lợi quan trọng góp<br />
phần phòng ngừa phát triển bệnh ĐTĐ. Nghiệm<br />
pháp dung nạp (NPDN) glucose đường uống là<br />
một trong ba cách giúp chẩn đoán ĐTĐ và cũng<br />
là cách để phát hiện tiền ĐTĐ(4). Tuy nhiên,<br />
nghiệm pháp dung nạp glucose cần thời gian<br />
thực hiện là 2 giờ như vậy khá lâu và là một<br />
trong những rào cản đối với việc ứng dụng<br />
nghiệm pháp này trong thực tế. Vậy có thể rút<br />
ngắn thời gian thực hiện hơn được không? Vì<br />
vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá<br />
khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm<br />
pháp dung nạp glucose.<br />
Mục tiêu: Đánh giá khả năng rút ngắn thời<br />
gian thực hiện nghiệm pháp dung nạp glucose.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
Gồm 354 học viên đến thực tập tại Bộ môn<br />
sinh lý học – Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí<br />
Minh.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Hoàn toàn khỏe mạnh và không có dấu hiệu<br />
lo lắng hay có thai.<br />
<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
Người có bệnh lý hoặc đang điều trị bệnh lý<br />
nội, ngoại khoa.<br />
Đang dùng thuốc thiazide, thuốc ngừa thai<br />
đường uống, các corticoteroid hoặc các thuốc<br />
khác được biết là có ảnh hưởng đến glucose<br />
máu.<br />
Người nghiện cà phê, thuốc lá.<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Tiến cứu – cắt ngang mô tả.<br />
Cỡ mẫu<br />
Tính theo công thức:<br />
<br />
Với α = 0,05, Z = 1,96 là giá trị tại độ tin cậy<br />
95%, P = 0,094 là tỷ lệ ước đoán dựa theo báo cáo<br />
đánh giá của dự án phòng chống ĐTĐ Việt<br />
Nam, d = 0,05 thì cỡ mẫu cần thiết cho nghiên<br />
cứu này là n = 131<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Quy trình nghiên cứu<br />
Tất cả các đối tượng được nghiên cứu sẽ<br />
được hướng dẫn các nội dung cần tuân thủ, bao<br />
gồm: vấn đề ăn uống cho ba ngày trước nghiệm<br />
pháp, các sinh hoạt và việc dùng thuốc. Cần<br />
duy trì chế độ dinh dưỡng như thường ngày và<br />
dùng tối thiểu 3 chén cơm trắng trong một ngày.<br />
<br />
Tiêu chuẩn thu nhận<br />
Có chế độ ăn không giới hạn (trong đó chứa<br />
ít nhất 150g carbohydrate mỗi ngày) trong ít<br />
nhất 3 ngày.<br />
Ngưng đưa năng lượng vào cơ thể tối thiểu<br />
8 giờ trước khi thực hiện nghiệm pháp (kể cả<br />
việc hút thuốc lá và dùng cà phê).<br />
Có thể tham gia thực hiện nghiệm pháp một<br />
cách liên tục trong thời gian là 2 giờ, thời gian<br />
bắt đầu trong khoảng từ 7 giờ đến 9 giờ sáng.<br />
<br />
Buổi sáng thực hiện nghiệm pháp, các đối<br />
tượng sẽ được sàng lọc lại bởi các tiêu chuẩn.<br />
Trong thời gian theo dõi, đối tượng sẽ không<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
71<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
được hoạt động thể lực gắng sức, không dùng<br />
các chất có ảnh hưởng đến kết quả theo dõi.<br />
<br />
11.1 mmol/l) và đường huyết lúc đói < 126 mg/dl<br />
(7.0 mmol/l).<br />
<br />
Trị số đường huyết mao mạch tại các thời<br />
điểm: trước uống dung dịch glucose, sau uống<br />
dung dịch glucose 30 phút, 60 phút, 90 phút, 120<br />
phút.<br />
<br />
Xử lý số liệu<br />
<br />
Đánh giá kết quả đo đường huyết(2,3).<br />
Đối tượng được chẩn đoán là tiền đái tháo<br />
đường khi:<br />
- Glucose lúc đói là trong khoảng ≥ 100<br />
mg/dl đến < 126 mg/dl (5,6-7,0 mmol/l)<br />
- Hoặc nghiệm pháp dung nạp glucose bằng<br />
đường uống từ ≥ 140mg/dl đến < 200 mg/dl. (7,8-<br />
<br />
Phần mềm EXCEL 2007 và SPSS 16.0.<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tần suất<br />
nguy cơ mắc tiền ĐTĐ tại thời điểm đo đường<br />
huyết lúc đói (lúc 0 phút) là 16,1% và tỉ lệ ĐTĐ<br />
là 1,7%. Sau khi thực hiện xong NPDN glucose,<br />
chúng tôi xác định được tỉ lệ mắc rối loạn dung<br />
nạp glucose (tiền ĐTĐ) là 23,4% và ĐTĐ là<br />
1,97% (n=7)(Hình 1).<br />
<br />
Hình 1: Tỉ lệ mắc tiền đái tháo đường theo kết quả đo đường huyết lúc đói (trái) và sau thực hiện nghiệm pháp<br />
dung nạp glucose (phải)<br />
Bảng 1: Tần suất mắc tiền đái tháo đường và tuổi<br />
Tuổi 21-30 31-40 41-50<br />
> 50<br />
Tổng<br />
Kết quả<br />
Dung nạp<br />
157<br />
85<br />
20<br />
2<br />
264<br />
bình thường (77,3%) (75,2%) (71,4%) (66,7%) (76,1%)<br />
Tiền đái tháo<br />
46<br />
28<br />
8<br />
1<br />
83<br />
đường<br />
(22,7%) (24,8%) (28,6%) (33,3%) (23,9%)<br />
Tổng<br />
203<br />
113<br />
28<br />
3<br />
347<br />
(100%) (100%) (100%) (100%) (100%)<br />
<br />
Bảng 2: Tần suất mắc tiền đái tháo đường và giới<br />
Giới<br />
Kết quả<br />
Dung nạp bình thường<br />
Tiền đái tháo đường<br />
Tổng<br />
<br />
Nam<br />
<br />
Nữ<br />
<br />
Tổng<br />
<br />
52<br />
(80%)<br />
13<br />
(20%)<br />
65<br />
(100%)<br />
<br />
212<br />
(75,2%)<br />
70<br />
(24,8%<br />
282<br />
(100%)<br />
<br />
264<br />
(76,1%)<br />
83<br />
(23,9%)<br />
347<br />
(100%)<br />
<br />
Có 178 đối tượng nghiên cứu có mức đường<br />
huyết trở về bình thường ở phút thứ 90, trong<br />
đó có 94,9% (n=169) đạt giá trị bình thường cho<br />
đến khi thực hiện xong nghiệm pháp.<br />
<br />
72<br />
<br />
Bảng 3: Kết quả phân loại glucose máu tại thời điểm<br />
90 phút và 120 phút của NPDN glucose<br />
NPDN glucose phút 120<br />
Dung nạp Dung nạp<br />
bất thường bình thường<br />
Có thể dung<br />
81<br />
95<br />
nạp bất<br />
(90%)<br />
(36%)<br />
thường<br />
NPDN<br />
Có thể dung<br />
9<br />
169<br />
glucose<br />
nạp bình<br />
(10%)<br />
(64%)<br />
phút 90<br />
thường<br />
90<br />
264<br />
Tổng<br />
(100%)<br />
(100%)<br />
<br />
Tổng<br />
176<br />
(49,7%)<br />
178<br />
(50,3%)<br />
354<br />
(100%)<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Theo hình 1, tỉ lệ mắc rối loạn glucose máu<br />
lúc đói (tiền ĐTĐ) trong mẫu nghiên cứu tại<br />
thời điểm 0 phút là 16,1%, và tỉ lệ ĐTĐ là 1,7%;<br />
và tỉ lệ mắc rối loạn dung nạp glucose (tiền<br />
ĐTĐ) là 23,4% và ĐTĐ là 1,97%. Tần suất này<br />
tăng lên do có 24,4% (n=71) đối tượng được<br />
đánh giá là bình thường tại thời điểm 0 phút và<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012<br />
có kết quả ngược lại sau 120 phút thực hiện<br />
nghiệm pháp trong khi có đến 69,8% (n=44)<br />
trường hợp được cho là có rối loạn glucose máu<br />
lúc đói nhưng kết quả thực hiện nghiệm pháp<br />
dung nạp glucose lại là bình thường. Điều này<br />
cũng phù hợp với những ghi nhận trong y văn<br />
về đánh giá hiệu quả của nghiệm pháp dung<br />
nạp glucose so với việc sử dụng glucose máu<br />
lúc đói(2,3). Do đó, trong thực hành tầm soát tiền<br />
ĐTĐ cho các đối tượng nguy cơ cao trong cộng<br />
đồng, nghiệm pháp dung nạp glucose là rất cần<br />
thiết.<br />
So với báo cáo của Tạ Văn Bình(8), năm 2006,<br />
tỉ lệ ĐTĐ là 2,6%, tỉ lệ rối loạn dung nạp glucose<br />
là 7,3%. Sự khác biệt về tỉ lệ mắc rối loạn dung<br />
nạp glucose của tác giả trên so với nghiên cứu<br />
của chúng tôi là đối tượng nghiên cứu của<br />
chúng tôi tập trung ở khoảng tuổi 21-52, sống<br />
trong tình trạng kinh tế khá hơn. Năm 2007, theo<br />
báo cáo của Sở Y Tế tỉnh Bình Định(7), tỷ lệ ĐTĐ<br />
là 9,2%, rối loạn glucose máu lúc đói 20,3%, rối<br />
loạn dung nạp glucose 11,1%. So với đối tượng<br />
nghiên cứu của chúng tôi là người trong độ tuổi<br />
lao động, trong khi đối tượng của các chương<br />
trình tầm soát là đối tượng nguy cơ cao của<br />
ĐTĐ nên tỉ lệ mắc ĐTĐ của chúng tôi thấp hơn.<br />
Mặt khác, NPDN glucose chỉ thực hiện cho<br />
những trường hợp có glucose máu lúc đói chưa<br />
rõ hoặc nghi ngờ chứ không thực hiện cho toàn<br />
bộ đối tượng như chúng tôi. Tuy nhiên, cũng<br />
cần chú ý là y văn có ghi nhận một lượng lớn<br />
người không triệu chứng có giá trị glucose máu<br />
cao sau 1 đến 2 giờ sau dung nạp nhưng lại có<br />
giá trị glucose máu lúc đói là bình thường(2).<br />
Năm 2009, Lê Quang Minh và cs. phát hiện<br />
18,9% trường hợp có rối loạn dung nạp glucose<br />
máu; 24,9% rối loạn glucose máu lúc đói(4). Như<br />
vậy, tỉ lệ 23,4% mà chúng tôi tìm thấy trong<br />
nghiên cứu này vào năm 2011 cũng khá tương<br />
đồng với nghiên cứu của nhóm tác giả trên. Với<br />
tỉ lệ rối loạn dung nạp glucose ở người trong độ<br />
tuổi lao động cao như vậy, đi kèm với sự thay<br />
đổi chế độ ăn, lối sống cho thấy lực lượng đóng<br />
góp chính cho xã hội đang bị ảnh hưởng và vấn<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
đề tầm soát, điều chỉnh tiền ĐTĐ vẫn là việc làm<br />
cấp thiết và mang lại nhiều ích lợi.<br />
Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận<br />
và tiến hành so sánh kết quả đo glucose máu<br />
mao mạch tại thời điểm 90 phút và 120 phút.<br />
Với cách làm như vậy, việc đo glucose máu tại<br />
thời điểm 90 phút được xem như là một xét<br />
nghiệm tầm soát mới và cần phải được so với<br />
một xét nghiệm chuẩn là nghiệm pháp đánh giá<br />
dung nạp glucose sau 120 phút về các thông số<br />
như độ nhạy (sensitivity, Ss), độ đặc hiệu<br />
(specificity, Sp), giá trị tiên đoán dương<br />
(positive predicted value, PV+) và giá trị tiên<br />
đoán âm (negative predicted value, PV-).<br />
Theo bảng 3, kết quả NPDN glucose tại thời<br />
điểm 90 phút có độ nhạy là 90%, độ đặc hiệu là<br />
64%. giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán<br />
âm của NPDN glucose tại phút thứ 90 lần lượt<br />
là 46% và 94,9%. Mặc dù có độ nhạy cao nhưng<br />
với độ đặc hiệu thấp thì kết quả NPDN glucose<br />
tại phút thứ 90 không thể đóng vai trò là một xét<br />
nghiệm chẩn đoán như NPDN glucose chuẩn.<br />
Do đó, tất cả các kết quả tại thời điểm 90 phút<br />
không thể đại diện cho thời điểm 120 phút được.<br />
Điều này cũng đã được ghi nhận trong y văn và<br />
nhiều nghiên cứu khác nhau.<br />
Mặc dù vậy, khi xét riêng các trường hợp<br />
được đánh giá là bình thường ở phút 90 trong<br />
NPDN glucose, có 178 đối tượng nghiên cứu có<br />
mức glucose máu trở về bình thường ở thời<br />
điểm này, trong đó có 94,9% (n=169) đạt giá trị<br />
bình thường cho đến khi thực hiện xong nghiệm<br />
pháp (phút 120). Đây cũng chính là giá trị tiên<br />
đoán âm của NPDN glucose tại phút thứ 90.<br />
Theo Altman DG và cs.(2), giá trị tiên đoán âm<br />
được hiểu là thương số giữa tổng số trường hợp<br />
âm tính thật được xác nhận bằng phương pháp<br />
chuẩn so với tổng số trường hợp được cho là âm<br />
tính bởi kỹ thuật đang sử dụng. Một kỹ thuật có<br />
giá trị tiên đoán âm cao nghĩa là khi xét nghiệm<br />
cho kết quả âm tính thì kết quả thực sự ít khi là<br />
dương tính. Ngoài ra, một kỹ thuật có giá trị tiên<br />
đoán âm cao còn mang ý nghĩa là ít khi nào<br />
phân loại sai một trường hợp dương tính thật sự<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
73<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012<br />
<br />
là âm tính. Trong nghiên cứu này, với giá trị tiên<br />
đoán âm đạt đến 94,9% cho thấy có một tỉ lệ cao<br />
các trường hợp có giá trị bình thường ở phút 90<br />
và duy trì đến phút 120. Do đó, vấn đề đặt ra là<br />
liệu có thể cân nhắc đến khả năng rút ngắn thời<br />
gian thực hiện nghiệm pháp glucose từ 120 phút<br />
xuống còn 90 phút dành cho các đối tượng có<br />
kết quả bình thường tại thời điểm 90 phút. Điều<br />
này có ý nghĩa quan trọng vì nó góp phần giúp<br />
ích cho các nhà nghiên cứu lâm sàng, dịch tễ học<br />
và đối tượng tham gia nghiên cứu. Đối với các<br />
nhà nghiên cứu, khi nghiệm pháp được rút<br />
ngắn sẽ góp phần giảm chi phí về vật lực và<br />
nhân lực. Trong nghiên cứu này, có đến 50,3%<br />
đối tượng nghiên cứu được đánh giá bình<br />
thường ở phút thứ 90, do đó có thể tiết kiệm đến<br />
hơn 50% chi phí cho lần thực hiện cuối cùng<br />
trong toàn bộ quá trình làm nghiệm pháp. Đối<br />
với các đối tượng tham gia sẽ giảm bớt được<br />
một lần thực hiện một kỹ thuật xâm lấn và gây<br />
đau, đồng thời cũng gia tăng sự thoải mái và tiết<br />
kiệm thời gian. Theo kết quả trên, có đến hơn<br />
50% các đối tượng có thể dừng lại tại phút 90.<br />
Việc rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp<br />
dung nạp glucose cho những đối tượng có nồng<br />
độ glucose máu tại thời điểm 90 phút là phù<br />
hợp với ghi nhận của y văn về khuynh hướng<br />
thay đổi của glucose máu sau phút thứ 90. Theo<br />
ghi nhận của Stephen L. Aronoff(2), đường biểu<br />
diễn nồng độ glucose máu trung bình theo thời<br />
gian từ phút thứ 90 đến 120 trên cả hai nhóm đối<br />
tượng là người bình thường và người ĐTĐ là<br />
đường biểu diễn hướng xuống, nghĩa là glucose<br />
máu giảm dần.<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
<br />
phố Hồ Chí Minh, chúng tôi rút ra những kết<br />
luận sau:<br />
- Tần suất rối loạn dung nạp glucose (tiền<br />
đái tháo đường) là 23,4%.<br />
- 50,3% các trường hợp tham gia thực hiện<br />
NPDN glucose có kết quả bình thường tại thời<br />
điểm 90 phút<br />
Kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy có khả<br />
năng rút ngắn thời gian thực nghiệm pháp dung<br />
nạp glucose dành cho các đối tượng. Tuy nhiên,<br />
cần có nhiều nghiên cứu quy mô hơn nữa, với<br />
cỡ mẫu lớn hơn và tiến hành trên nhiều đối<br />
tượng nghiên cứu khác nhau để xác định thêm<br />
về khả năng và phạm vi rút ngắn thời gian thực<br />
hiện nghiệm pháp.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
<br />
Aronoff SL GMaR (2004). "Beyond Insulin and Glucagon".<br />
Diabetes Spectrum p. 183 – 90<br />
2. Douglas G, Altman JMB (1994). "Predictive values". BMJ 309<br />
(6947).102.<br />
3. Khatib OMN (2006). "Guidelines for the prevention,<br />
management and care of diebetes mellitus". Cairo. 23 - 9<br />
4. Lê Quang Minh PTHV, Nguyễn Minh Tuấn (2009),. “Nghiên<br />
cứu rối loạn dung nạp Glucose máu và một số yếu tố liên quan ở<br />
các dân<br />
tộc tỉnh<br />
Bắc Kạn”. Available from:<br />
http://yhth.vn/LibraryDetail/1077/phat-hien-roi-loan-glucosemau-va-dai-thao-duong-typ-2-tai-tinh-bac-kan.htm.<br />
5. New Youth State Departement of Health (2008), "Children with<br />
Diabetes – A resource guide for families and schools" p.13<br />
6. Sacks DB (2006). "Carbohydrates". TIETZ Textbook of Clinical<br />
Chemistry and Molecular Diagnostics. 4th ed p. 837 - 64.<br />
7. Sở Y Tế Bình Định (2007). "Báo cáo tổng kết công tác y tế dự phòng<br />
và phòng chống các bệnh xã hội năm 2007".<br />
8. Tạ Văn Bình (2003). “Dịch tễ học bệnh đái tháo đường, các yếu<br />
tố nguy cơ và các vấn đề liên quan đến quản lý bệnh đái tháo<br />
đường”. Nhà xuất bản Y học Hà Nội.<br />
9. WHO (2006). “Guidelines for the management of hypertension<br />
in patients with DM”. WHP.org, p5 - 11<br />
10. Wild S GR, Green A, Sicree R, King H, (1998). "Estimates for the<br />
year 2000 and projections for 2030. Global Prevalence of<br />
Diabetes". Diabetes Care 27:1047 - 53.<br />
<br />
Qua nghiên cứu 347 học viên đến thực tập<br />
tại Bộ môn sinh lý học – Đại học Y Dược thành<br />
<br />
74<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />