intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hành vi duy lý của con người và sự duy lý mang tính kinh tế

Chia sẻ: Nguyễn Đình Vinh Vinh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:57

442
lượt xem
74
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Một phương trình về hành vi duy lý của con người theo thuyết công cụ, đặc biệt là về mặt kinh tế, tính duy lý đại diện cho một chuẩn mực trong phương pháp tiếp cận chọn lựa mang tính kinh tế hay mang tính duy lý. Thời gian gần đây, người ta ngầm hiểu việc làm rõ và mở rộng quan niệm nội tại về hành vi duy lý cũng như sự duy lý kinh tế của kinh tế học chính thống.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hành vi duy lý của con người và sự duy lý mang tính kinh tế

  1. Translated by Nguyen Ngoc My Tien The Electronic Journal of Sociology (2003) ISSN: 1198 3655 Hành vi duy lý của con người và sự duy lý mang tính kinh tế Milan Zafirovski University of North Texas milanzafir@yahoo.com Tóm tắt Một phương trình về hành vi duy lý của con người theo thuyết công cụ, đặc biệt là về mặt kinh tế, tính duy lý đại diện cho một chuẩn mực trong phương pháp tiếp cận chọn lựa mang tính kinh tế hay mang tính duy lý. Thời gian gần đây, người ta ngầm hiểu việc làm rõ và mở rộng quan niệm nội tại về hành vi duy lý cũng như sự duy lý kinh tế của kinh tế học chính thống. Quan niệm chính thống định nghĩa tính duy lý kinh tế bằng cách tối ưu hóa những mục tiêu theo chủ nghĩa duy vật cá biệt, cụ thể như lợi nhuận của nhà sản xuất và tính thỏa dụng của người tiêu dùng. Phương pháp chọn lựa duy lý ứng dụng quan điểm này rất rõ ràng vào tất cả các hành vi duy lý và hành vi của con người, do vậy sự duy lý kinh tế được hiểu vốn đã tự tồn tại trong chính bản thân nó. Bài báo này tranh luận về hành vi duy lý của cá nhân so với tính thỏa dụng – và tối ưu hóa lợi nhuận cố định, do đó không thể tự động giảm sự duy lý kinh tế. Tranh luận quan trọng nhất là hành vi không chỉ duy lý trên nền Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 1
  2. Translated by Nguyen Ngoc My Tien tảng kinh tế mà còn trên nền tảng phi kinh tế. Do vậy, hành vi con người có thể là phi duy lý trong kinh tế và chưa duy lý trong những mảng kinh tế đặc biệt, nghĩa là phi duy lý về mặt kinh tế và duy lý phi kinh tế. Giới thiệu Mục đích của bài báo này dùng để kiểm chứng quan điểm hành vi duy lý thường gặp trong xu hướng kinh tế học và xã hội học chọn lựa duy lý (một bài phê bình chung gần đây về lý thuyết chọn lựa duy lý, Archer và Tritter 2000). Bài báo này cố gắng minh chứng quan điểm này không thích đáng cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm. Bài này đề xuất một quan điểm thay thế có các đặc điểm vượt trội hoặc có thể giảm bớt thuyết công cụ của quan niệm hành vi duy lý, đặc biệt là về kinh tế, và như thế đóng góp vào hệ thống phương pháp tiếp cận vấn đề này đầy đủ hơn. Phổ biến nhất thì hành vi duy lý được định nghĩa là sự kết hợp duy lý, tự nhiên và thiết thực hoặc sự thích nghi giữa mục tiêu và ý nghĩa cho mục đích đạt được đó, theo quan điểm của Pareto về cách xử thế hợp lý, tương đương với hành động hướng tới sự duy lý và hành động định hướng mục tiêu của Weber, (Boudon 1982). Sự kết hợp đó đặc trưng cho hành vi duy lý bị ràng buộc, chủ quan (Simon 1982) đến khi sự kết hợp ấy được nhận thức bởi các hành động hợp lý, công cụ hoặc hàm số để đạt được mục đích được tìm kiếm những gì mà yếu tố này có được. Nói cách khác, diễn biến hành động được cho trước đại diện cho hành vi duy lý tổng quát trong chừng mực mà các cá thể có những lý do tốt hay lý do hợp lý cho những hành động như vậy (Boudon 1989). Mặc khác, sự kết hợp giữa mục đích – ý nghĩa cũng dẫn đến hành vi duy lý khách quan trong phạm vi/hay mức độ của sự quan sát/sự thay Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 2
  3. Translated by Nguyen Ngoc My Tien đổi theo bản ngã, ví dụ như xem sự kết hợp hợp lý hay hàm số được quy vào những mục tiêu, lý do hay những ý nghĩa cụ thể, chúng có thể được hiểu theo lý lẽ của Verstehen hoặc sự thấu cảm, dù không cần thiết phải tán thành hay đồng cảm với nó. Nói một cách tổng quát nhất, những hành vi duy lý được quyết định bởi mức độ tương quan chặt nhất định giữa ý nghĩa chủ quan hay lý do có ý nghĩa của người tham gia và mục đích khách quan đặc trưng bởi những người tham gia khác hay của những người quan sát. Theo ý định của WEber, điều này hàm ý tính tương đương trong sự xác định rõ hành động có chủ định trước hay có chủ định sau giữa người tham gia và môi trường xã hội, mà không loại trừ những điểm không kết hợp khác nhau giữa các hành động duy lý khách quan bởi những lý do hợp lý và duy lý chủ quan hiệu chỉnh bởi những mục đích đã được tính toán hay đã được chứng minh. Nói tóm lại, hành vi duy lý được nhận thức hay được trải nghiệm bởi những người tham gia không nhất thiết là những gì được quan sát hay được đặc trưng bởi các đối tác khác, và ngược lại (Boudon 1982; Simon 1982) Do vậy, hành vi xã hội thiếu những đặc điểm như thế, ví dụ như sự kết hợp logic giữa mục đích và ý nghĩa, sẽ chứng tỏ sự phi duy lý hay bất hợp lý, dù không nhất thiết là phi duy lý, vấn đề chỉ là bất cứ phẩm hạnh nào của con người, duy lý hay không cũng vẫn thể hiện sự phi luân lý mà không hẳn là trái đạo lý. Trong tác phẩm của Pareto “varnish of logic”, phạm vi ảnh hưởng của hành vi phi duy lý như thế không bị ảnh hưởng bởi khuynh hướng của con người đối với những lý do hay các nhân tố cơ bản được quan sát khách quan hay quan sát bên ngoài những hành động phi duy lý/không thể chấp nhận được, mà chúng dùng để tìm ra nguồn gốc hay sự giải thích duy lý, bao gồm sự nghiên cứu về tư tưởng các Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 3
  4. Translated by Nguyen Ngoc My Tien thành viên trong xã hội, để làm cho những hành vi như thế lại hiện ra theo tính duy lý hay có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, những gì gây rủi ro ở thời điểm này không còn là vấn đề về phạm vi ảnh hưởng và sự thích hợp của các hành vi duy lý trong đời sống xã hội hay khả năng để xây dựng lý thuyết xã hội học về duy lý cũng như phi duy lý (Boudon 1982). Thay vào đó, vấn đề được đưa vào gắn liền với việc xây dựng một quan niệm đúng đắn về hành vi duy lý chẳng hạn như để định nghĩa những hành vi duy lý là gì trong bối cảnh hành động xã hội và cấu trúc xã hội. Để đạt được điều này, bài báo có những phần tổng quan sau đây. Phần I xác định sự sai lầm của thuyết mục đích về quyết định mục đích nào trong kinh tế học hiện thời hay quan niệm cứng nhắc về hành vi duy lý và đề xuất hiệu chỉnh. Trong phần II chứng minh rằng phương pháp chọn lựa duy lý hay kinh tế là mô hình tốt nhất của hành vi con người được nghiên cứu cẩn thận và được gợi ý những mô hình phi duy lý có thể thay thế nhau. Cũng được nghiên cứu lại trong phần III, chứng minh rằng lựa chọn duy lý thực sự đại diện cho mô hình hợp nhất bằng cách chỉ ra hướng cơ bản giữa sự hà tiện và chủ nghĩa hiện thực. Phần IV phân loại các chiến lược có thể thay thế nhau cho việc xây dựng các lý thuyết bổ sung trong xã hội học dựa trên tầm quan trọng được giả định của hành vi duy lý. Phần V kiểm tra lại khả năng mà các quan niệm rộng hay hẹp về hành vi duy lý thỏa mãn đối tác hẹp hay cứng nhắc. Bài báo bao gồm việc tổng quan lại những đặc tính so sánh của quan niệm hiện thời về hành vi duy lý và những quan niệm có thể thay thế nó được. Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 4
  5. Translated by Nguyen Ngoc My Tien I. Quyết định thuyết mục đích dự tính: Có phải tất cả mục đích của con người đều là công cụ? Những định nghĩa cơ bản về hành động duy lý trên hàm ý không xác định mục đích hay ý nghĩa của hành vi duy lý đó. Chúng có thể là kinh tế/phi kinh tế, công cụ/phi công cụ, vị kỷ/vị tha, cá nhân/xã hội và v.v… Những quan niệm về hành động duy lý không mô tả thuyết mục đích cơ bản, điển hình như các đặc điểm về mục đích hay mục tiêu theo đuổi. Dù chúng là gì đi nữa thì điều kiện tiên quyết cơ bản cho hành động duy lý là phải tồn tại sự kết hợp vốn có giữa mục tiêu và ý nghĩa, nếu sự kết hợp này được nhận thức bởi người hành động (chính mình)/những người khác (bạn chí cốt). Điều này trái ngược với khuynh hướng gây hiếu kỳ về lý thuyết hành vi duy lý trong việc xác định rõ những mục đích này là kinh tế tiên nghiệm, công cụ, vị kỷ và cá nhân, chẳng hạn như độ thỏa dụng, lợi nhuận, tối ưu hóa sự giàu có, tìm kiếm vị lợi, tối thiểu hóa chi phí, tính toán chi phí - lợi ích, và những thứ tương tự thế, do đó quy tất cả những điều này thành 1 lớp riêng. Những giả thuyết cơ bản về phương thức này có nghĩa là chỉ các mục đích, các hành động tương ứng và những chọn lựa như thế là duy lý và phi duy lý hay bất hợp lý khác. Nhắc lại thuyết vị lợi xa xưa, lý thuyết chọn lựa duy lý hiện thời trong xã hội học và kinh tế học định nghĩa hành vi duy lý là sự duy lý vốn có trong thuật ngữ công cụ, cũng như hành vi duy lý về mặt kinh tế hay tính toán vị lợi. Gộp tất cả các mục đích, lý do và động cơ hành động thành công cụ, vị kỷ hay chủ nghĩa khoái lạc, ví dụ, theo đuổi mức thỏa dụng, lợi ích cá nhân hay sự thỏa mãn, và tránh việc không thỏa dụng hay phải chịu đựng khó khăn để làm điều này. Do đó, một hình thức đặc biệt về tính duy lý - như công cụ, vị lợi, vị kỷ hay sự khoái lạc - được đúc kết Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 5
  6. Translated by Nguyen Ngoc My Tien với hành vi duy lý một cách toàn diện. Về mặt nhận thức, phương thức này dựa vào giả thiết “vị kỷ duy lý” (Hechter và Kanazawa 1997) và dẫn đến thuyết vị lợi hay chủ nghĩa đế quốc kinh tế thông qua việc mở rộng nguyên lý tối ưu hóa độ thỏa dụng đối với toàn bộ đời sống xã hội, thường được kết hợp với quan niệm cân bằng thị trường. Tóm lại, “ giả định về tối ưu hóa độ thỏa dụng và cân bằng trong hành vi nhóm là nền tảng truyền thống của phân tích chọn lựa duy lý và phương pháp tiếp cận kinh tế học theo hành vi” (Becker and Murphy 2000:5). Tôi cố gắng chỉ ra rằng phân tích hành vi duy lý/phương pháp tiếp cận kinh tế - tiền đề trong định nghĩa về tính duy lý là tối đa hóa độ thỏa dụng – là không có căn cứ về thực nghiệm và không hoàn thiện theo logic. Trước tiên, nó dính đến sai lầm trong việc đơn giản hóa xã hội học bằng cách hòa trộn tất cả các hành động xã hội - bao gồm đạo lý duy lý - thành một loại hành vi công cụ đơn giản được ví dụ trong việc tối đa hóa độ thỏa dụng (Alexander 1990; Barber 1993). Do vậy, tôi tranh luận về việc vượt quá độ thỏa dụng tối đa (Stote 1989) đến một quan niệm rộng hơn, mạnh hơn về hành vi duy lý hơn là sự tối đa hóa (Bonham 1992) và thậm chí thỏa mãn thiên về độ thỏa dụng hay lý thuyết gắn với sự duy lý, như thế đã nằm ngoài quan niệm công cụ về hành vi duy lý(Gerard 1993). Nói tóm lại, những gì cần được thừa nhận là “mở rộng lý thuyết duy lý hơn hình dạng cụ thể về sự duy lý được sử dụng bởi lý thuyết chọn lựa duy lý (Boudon 1998:824). Không giống như kinh tế học tân cổ điển và lý thuyết chọn lựa duy lý xã hội học tìm kiếm sự tổng quát và mở rộng sang hiện tượng phi kinh tế, một phương pháp tiếp cận để lựa chọn đối với hành vi xã hội bao gồm cả tính duy lý hay công cụ và “chiều lý thuyết chọn lựa phi duy lý của Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 6
  7. Translated by Nguyen Ngoc My Tien tính duy lý” (Boudon 1998:824). Do vậy, theo phương pháp tiếp cận này, hành vi xã hội duy lý là loại phức tạp và phong phú vượt quá tính duy lý về kinh tế/công cụ cũng như chỉ một trong các yếu tố của nó. Không thể chối bỏ sự hòa trộn vấn đề trước đó thành vấn đề sau cùng được thực hiện bởi lý thuyết chọn lựa duy lý hiện thời, với việc nhấn mạnh quá mức quan niệm cứng nhắc và giới hạn (Boudon 1996) về hành vi duy lý được vay mượn từ kinh tế học tân cổ điển và sau đó được mở rộng một cách bừa bãi. Tựu chung lại, lý thyết chọn lựa hành vi duy lý xã hội học (Kiser and Hechter 1998; Hechter and Kanazawa, 1997) hoặc lý thuyết hành động duy lý về xã hội học thực hiện không hơn kiểu “đưa chuyên đề tân cổ điển hạn hẹp để trình diễn trong những lĩnh vực khác (Ackerman 1997:662). Trong khi phát triển đến một mức độ độc lập về kinh tế học, lý thuyết chọn lựa duy lý về xã hội học đã trở thành “thí dụ nổi bật nhất về việc sử dụng kinh tế học để suy luận trong xã hội học” (Kalleberg 1995). Nói ngược lại, mô hình chọn lựa duy lý bác bỏ hầu hết các giả thiết xã hội học truyền thống và dường như mâu thuẫn với lý thuyết xã hội học cổ điển, bao gồm cả lý thuyết Weber. Thí dụ như lý thuyết chọn lựa duy lý của Coleman được thừa nhận “dựa trên sự tổng quát hóa lý thuyết cân bằng kinh tế học thông thường” (Fararo 2001:272). Theo lẽ này, lý thuyết chọn lựa duy lý có vẻ được thừa nhận như ăn theo (Coleman 1986; Elster 1989; Fararo 2001) mặc dù vài tiêu chuẩn và khoảng cách gần đây (Coleman 1994; Goldthorpe, 1998; Hechter and Kanazawa, 1997) liên quan đến “quan hệ tân cổ điển” (Kiser and Hechter 1998) hơn là luận thuyết hợp trội tự trị hay chương trình nghiên cứu mới (Abell 2000; Kiser and Hechter 1991). Phương thức hòa Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 7
  8. Translated by Nguyen Ngoc My Tien trộn liên quan đến những gì được xác định là sai lầm về tính trừu trượng hay tính mập mờ đặt không đúng chỗ với toàn bộ tính chất phổ quát, bởi vì nó cân bằng yếu tố cấu thành không thỏa đáng, cụ thể là tính duy lý theo công cụ. Tất cả các điều này liên quan đến sự đơn giản hóa, sự kết hợp 2 thứ thành một, sự quy tụ và sự hỗn hợp đa dạng liên quan đến tính duy lý về hình thức và nội dung, tính duy lý khách quan và chủ quan, tính duy lý ngay tức thời và lâu dài, và… Sự khác nhau theo nguyên tắc giữa lý thuyết chọn lựa duy lý quy ước và lý thuyết có thể thay thế hợp lý hơn được tổng quát như sau. Trong khi vấn đề trước cho rằng lựa chọn duy lý chỉ là lựa chọn về kinh tế/công cụ hẹp – độ thỏa dụng, lợi nhuận hay tối đa hóa sự giàu có - những vấn đề sau lại tranh luận lựa chọn cũng là chọn lựa phi công cụ, theo đuổi chức năng hay mục tiêu khách quan rạch ròi, ví dụ như sức mạnh, uy tín, sự công bằng, hạnh phúc tôn giáo, sự hoàn hảo về đạo đức, đặc điểm nhận dạng về tôn giáo, độ thuần khiết về tư tưởng hay sự hài lòng về thẩm mỹ. Lý thuyết mở rộng hơn cho rằng loại hành vi duy lý thứ hai không quy được về cái đầu tiên, do vậy bác bỏ sự đơn giản điển hình của lý thuyết chọn lựa duy lý hẹp mà hòa trộn mọi thứ thành độ thỏa dụng và chủ nghĩa vị kỷ. Không có gì ngạc nhiên khi hàm thỏa dụng hầu như trở nên vô nghĩa khi kết quả của thuyết chọn lựa duy lý trở thành lý thuyết được giả định gồm tất cả mọi thứ (Hodgson 1998:168), bao gồm mọi thứ và không có những thứ gì đặc biệt cả, do đó “giải thích mọi thứ xảy ra đồng thời và do vậy là không có gì cả” (Smelser 1992:403; also Ackerman 1997:663). Thậm chí những nhà lý luận chọn lựa duy lý không hài lòng với tình trạng này, họ phàn nàn về việc không có nội dung thực nghiệm bên ngoài tồn tại trong hàm thỏa dụng được tối đa hóa bởi nhà Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 8
  9. Translated by Nguyen Ngoc My Tien kinh tế học. Hàm thỏa dụng trở thành công cụ tiện ích bởi cách hành xử theo hành vi duy lý được xem như tối ưu hóa hay thỏa mãn thiên về độ thỏa dụng, đặc biệt là trong thủ thuật toán học. Phải thừa nhận sự bất hợp lý trong việc định nghĩa hành động xã hội duy lý là tối đa hóa vài hàm thỏa dụng(Margolis 1982:16). Sự thừa nhận cơ bản về phương pháp tiếp cận kinh tế đối với hành vi con người hoặc lý thuyết chọn lựa duy lý công cụ mà các người tham gia là những người tối đa hóa độ thỏa dụng duy lý trong hành vi kinh tế cũng như hành vi xã hội của họ, ví dụ, trong tất cả các khả năng thuộc về hành vi được cư xử bắt nguồn từ bối cảnh thực tế hoặc có ý nghĩa triết học (Buchanan). Hầu như không thể minh chứng thỏa đáng bằng thực nghiệm (Lea 1994:71-5). Ví dụ, với sự tuân thủ theo chuẩn mực xã hội, lý thuyết chọn lựa duy lý hẹp cho rằng quy trình này là nền tảng trong việc tính toán lợi ích – chi phí phù hợp bởi những người ích kỷ duy lý (Hechter 1990). Trái lại, phiên bản mở rộng về vấn đề này yêu cầu thiết lập các nhân tố khác nhau hay các khả năng khác nhau rõ ràng của những công cụ hợp lý. Về phương diện chuẩn mực xã hội không vụ lợi thuần khiết thường là động lực chính cho một quy chuẩn phù hợp, trong việc kết hợp với uy tín mà nó tạo ra, không phân biệt lợi nhuận trực tiếp với hành vi này (Bourdieu 1988:19-22). Những người tham gia không tuân theo chuẩn mực xã hội vì sự cân nhắc về kinh tế hay công cụ, và cũng vì cân nhắc phi công cụ, được diễn đạt trong sự chủ quan của các chuẩn mực cũng như là một quy trình tự trị không lệ thuộc vào sự tính toán giữa chi phí – lợi nhuận. Những sự cân nhắc về công cụ như thế có tầm quan trọng thứ cấp, vì không có độ thỏa dụng hay sự tăng cường ngoại lai nào khác được tối đa hóa bằng những quyết định phi duy lý hay phi công cụ liên quan đến việc Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 9
  10. Translated by Nguyen Ngoc My Tien xem xét quy luật và giá trị chủ quan (Kreps 1997). Tóm lại, hành động xã hội được hành xử theo hướng dẫn bởi tính duy lý kinh tế cũng như các cân nhắc thỏa đáng hơn là bởi các vấn đề trước đó, và với vấn đề đó, được thừa nhận bởi lý thuyết chọn lựa duy lý, và bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng thông thường, hoặc bởi các vấn đề sau đó được thừa nhận bằng các quan điểm của những nhà văn hóa. Điểm chung của phiên bản mở rộng và hạn hẹp về lý thuyết chọn lựa duy lý là định đề chung của hành vi duy lý trong xã hội loài người. Trái với sự quả quyết của người trình bày, những đặc trưng khác nhau hay sự thuận lợi tương đối của lý thuyết chọn lựa duy lý công cụ không giả định và cho phép hành vi duy lý trong đời sống xã hội chưa được đề cập đến, không giống như những lý thuyết về xã hội học khác như thuyết chức năng. Thay vào đó lý thuyết chọn lựa duy lý như thế làm giảm sự lựa chọn này sang một biến công cụ hẹp khác. Có thể nói, để tranh luận hành vi duy lý trong toàn bộ xã hội không tương đương với lý thuyết chọn lựa duy lý hành động mà lựa chọn này cần những đặc tính hạn định như vậy. Nếu người ta giả định bằng cách ứng dụng nguyên lý khoan dung của hành vi duy lý (Elster 1979 : 116-7), lựa chọn công cụ đó có khắp mọi nơi trong xã hội, cũng giống như được cho theo giá trị và chuẩn mực xã hội, ví dụ: những thói quen và những quy luật thuộc về văn hóa khác có khắp mọi nơi trong hành động của con người (Hodgson 1997:663)- định nghĩa và diễn đạt những nguyên lý mẫu của những lựa chọn này (Barber 1993:359). Do vậy, các nhà kinh tế học thấy rằng: “kinh tế tân cổ điển hay kinh tế học hành vi cung cấp một lượng các nền tảng về các thói quen hay các quy luật” (Hodgson 1997:663). Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 10
  11. Translated by Nguyen Ngoc My Tien Ngoài ra, hành vi duy lý công cụ, ví dụ như hành động công cụ mục tiêu của Weber, có thể bị ảnh hường hoặc bị bác bỏ bởi hành vi duy lý phi công cụ, điển hình như tính duy lý duy tâm về giá trị tuyệt đối (Alexander 1990) hoặc tính duy lý giá trị cộng sinh được xem là loại khác biệt của hành vi duy lý mà không được quy vào loại đầu tiên. Vì hình thức này cho trước sự tồn tại của các tác nhân xã hội và lịch sử của các thông tin về giá trị, trong giá trị phân tích về xã hội học không thể xem xét một cách thỏa đáng như độ thỏa dụng được phân theo thứ tự (Willer 1992:57-59). Việc quy tụ chọn lựa thông thường của hành động chính trị sang hành động kinh tế như quyền lực sang sự giàu có, nền dân chủ sang cạnh tranh thị trường, quá trình bầu cử sang chu kỳ kinh doanh và những thứ khác đều không thể chấp nhận giống nhau được. Vì liên quan đến sự mâu thuẫn hay sự ép buộc, trái ngược với quan hệ kinh tế trong kinh tế thị trường chẳng hạn như sự chủ động có thể đoán được, quyền lực và những mối quan hệ về chính trị khác đi đôi với mức độ hành động trong lĩnh vực lý thuyết xã hội riêng biệt, do đó nó không được quy về cấp lý thuyết chọn lựa duy lý (Munch 1992:139-41). Việc không thể quy quyền lực chính trị sang của cải hay quyền lực kinh tế ít nhất được chứng minh là hợp lý bởi sự thật rằng, trong tác phẩm của Parson, vấn đề trước đó đã được phân cấp và định tính, vấn đề sau đó là tuyến tính và định lượng. Thậm chí một số nhà lý luận duy lý thừa nhận rằng quyền lực thị trường và sự giàu có khác biệt với quyền lực chính trị, mặc dù vấn đề sau đó có thể đạt được bởi những vấn đề trước đó không kể đến những yếu tố khác (Coleman 1986:281-3). Đây chính xác là những gì mà hầu hết những nhà kinh tế học đương thời và những nhà lý luận chọn lựa duy lý có thiên hướng thực Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 11
  12. Translated by Nguyen Ngoc My Tien hiện bằng cách hòa trộn tất cả các hành động xã hội, các giá trị, các mục tiêu thành những loại công cụ. Phương pháp tiếp cận này được đặc trưng bởi việc quy lựa chọn duy lý điển hình của tính vị tha và hành động duy lý có giá trị thành dạng nghịch đảo của tính vị kỷ và hành động duy lý công cụ. Tuy nhiên, bằng cách xem xét hành vi vị tha khi bị cuốn theo động cơ lợi ích cá nhân, lý thuyết chọn lựa duy lý chẳng khác gì cách diễn giải rời rạc, thất bại và không gây ấn tượng với mọi người (Sugden 1991). Không có gì ngạc nhiên khi những sự rút gọn/sự quy tụ như thế bị bác bỏ bới những nhà lý luận về chọn lựa duy lý phải chăng (Boudon 1998; Elster 1998). Về mặt này, người ta đề nghị rằng lý thuyết chọn lựa duy lý đầy đủ trong xã hội học chỉ được xây dựng bởi cách đi quá tính khắt khe của các giả định về phương pháp tiếp cận kinh tế học (Willer 1992). Do đó, quan niệm công cụ hẹp về hành vi duy lý có nền tảng dựa trên các giả định bị thay thế bởi quan niệm công cụ rộng hơn về hành vi duy lý cho phép công cụ và phi công cụ, bao gồm tính duy lý về giá trị và nhận thức (Boudon 1998). Phải thừa nhận là, đời sống xã hội hầu như khá vị lợi, và loài người không tối đa hóa độ thỏa dụng thông qua tính toán lợi ích-chi phí một cách chính xác và phù hợp (Homans 1990:77). Do đó, hành vi duy lý bao gồm không chỉ các kết quả công cụ thuần túy như độ thỏa dụng, lợi nhuận hay sự giàu có, mà còn các hành động xã hội – hành động chỉ duy lý nếu nó hướng đến “không chỉ mục tiêu kinh tế mà còn mục tiêu xã hội, sự đồng thuận, địa vị và sức mạnh” (Granovetter 1985: 509-10). Đây là sai lầm cơ bản của lý thuyết chọn lựa duy lý hiện thời khi gộp tất cả các mục đích hành động thành chỉ một dạng (kinh tế), thông qua lý luận loanh quanh để thực hiện các vấn đề sau đó một cách toàn diện nhưng lại vô nghĩa về mặt lý thuyết và vô dụng về Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 12
  13. Translated by Nguyen Ngoc My Tien mặt thực tiễn (Knole 1988). Để làm được như vậy, phải quan sát thực tế không chỉ về lợi ích vật chất mà còn lợi ích lý tưởng cấu thành nền tảng của hành động xã hội duy lý, bao gồm hành động kinh tế, cũng như được minh chứng kinh điển vởi Weber. Trong ngữ cảnh này, Weber phân biệt giữa hành động duy lý - giá trị xuất phát từ lợi ích duy tâm như tôn giáo, chính trị, giá trị đạo đức hay ý thức và hành động được tạo ra bởi xúc cảm dễ thay đổi, cũng như hành động logic và không logic của Pareto được gây ra bởi sự thặng dư tương ứng. Điều này có giá trị đúng trong sự phân biệt giữa hành động duy lý – giá trị và hành động xã hội duy lý – công cụ được thấy lần lượt như được thúc đẩy bởi các lợi ích về vật chất. Do đó, những lợi ích này không có nghĩa là nghiên cứu mọi mặt các nhân tố chủ chốt của hành động xã hội duy lý, bao gồm các mô hình kinh tế của nó. Điều này hàm ý rằng tính duy lý về kinh tế và hệ thống kinh tế đi ngược lại với sự tự tham chiếu đối với hành vi duy lý và toàn bộ hệ thống xã hội. Những sự lựa chọn về kinh tế và công cụ chỉ là tập con của hành vi duy lý mà cũng có thể là sự chọn lựa phi kinh tế hay phi công cụ. Không phải tất cả các hành động duy lý xã hội được quy về hành động hay các nguyên lý kinh tế, như Weber đã tranh luậnh kinh điển. Sự quy tụ này được nhìn nhận một cách nghi ngờ không chỉ bởi các nhà xã hội học cổ điển mà còn các nhà kinh tế học đương thời và nhà kinh tế học tân cổ điển chống lại thuyết vị lợi từ Mill, Jevons, Walras đến Pareto và Marshall đến Schumpeter và Keneys ngoại trừ Spencer. Tuy nhiên, sự quy tụ này được thực hiện điển hình theo phương pháp tiếp cận chọn lựa duy lý hoặc kinh tế đối với hành vi con người. Thảo luận trước đó chỉ ra tính xác thực và tính nổi bật của đa số tính duy lý trong hành vi xã hội của con người theo ánh sáng của vô số mục đích hoặc thuyết mục đích, Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 13
  14. Translated by Nguyen Ngoc My Tien không chỉ là kinh tế - công cụ vững chắc, và với vấn đề đó, hành vi duy lý xác nhận vượt quá mục đích duy nhất như tính thỏa dụng, được giả định bởi lý thuyết chọn lựa duy lý. Bảng 1 tổng quát lại nhiều hình thức của hành vi duy lý liên quan đến sự phức tạp của thuyết mục đích trong đời sống xã hội. Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 14
  15. Translated by Nguyen Ngoc My Tien II. Có phải chọn lựa duy lý là mô hình tổng quan nhất/tốt nhất hay không? Các mô hình phi duy lý của hành động xã hội hợp nhất Những nhà lý luận chọn lựa duy lý đưa ra giả thuyết và chứng minh mô hình hợp nhất nhiều hơn những mô hình khác về hành vi con người. Đặc biệt là chứng minh không thể có hai hay nhiều hơn các mô hình khác nhau về những người tham gia như nhau và do đó các mô hình về hành vi con người đồng nhất, nhưng có một vấn đề khác hơn đó là mô hình chọn lựa duy lý. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra tăng lên khi người ta đặt câu hỏi liệu hành vi duy lý có thực sự hay ít nhất là mô hình hợp nhất tốt nhất không hoặc có phải là lý thuyết tổng quát về hành vi xã hội không. Vấn đề có thể được làm rõ hơn đối với kết quả của các lý thuyết về hành vi phi duy lý liệu có thể đại diện cho mô hình đầy đủ và hợp nhất của các hành động xã hội hơn là những vấn đề duy lý khác không. Vấn đề này được lồng ghép vào sau đó bằng cách rà soát lại những tranh luận và các loại hình của các mô hình hợp nhất phi duy lý của các hành động xã hội. Tranh luận về những mô hình phi duy lý hợp nhất của hành động xã hội như các lý thuyết chung về hành vi phi duy lý có thể làm nền tảng cho nhận thức luận và bản thể luận chính thống. Về mặt nhận thức luận, không có lý do nào ưu tiên để làm theo mô hình duy lý hợp nhất của hành động xã hội và bác bỏ những vấn đề tương tự phi duy lý khác. Các mô hình hợp nhất phi duy lý của hành động xã hội không cần thiết tuân theo phương pháp luận như hành vi duy lý. Điều hợp lý để tranh luận là khi hành vi con người “luôn luôn hợp lý và duy lý bất cứ nơi đâu”, do đó người ta giả thiết rằng hầu hết tính phi duy lý hay duy lý có trong thuật ngữ vị lợi về kinh tế. Ví dụ, mô hình hợp nhất về hành động xã hội phi duy lý về mặt thói quen và thể chế (Hodgson 1998) được thừa nhận là Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 15
  16. Translated by Nguyen Ngoc My Tien chính thống về phương pháp luận cũng như đạo lý duy lý khắt khe, điển hình là “tính toán hành vi tối đa hóa độ thỏa dụng tổng quát” (Stigler và Becker 1977). Quan trọng hơn là những mô hình hợp nhất phi duy lý về hành động xã hội lúc nào cũng không hợp pháp về mặt bản thể hay về mặt thực nghiệm lại có vẻ giống như mô hình hợp nhất duy lý. Hơn thế nữa, mô hình hợp nhất phi duy lý của hành vi con người khôn ngoan trong sự cân bằng duy lý về tính đúng đắn của bản thể học hoặc liên quan đến thực nghiệm như xã hội, thậm chí bao gồm kinh tế, đời sống là duy lý thuộc bản thể học – được thừa nhận bởi những nhà kinh tế học tân cổ điển (Schumpeter 1991: 337). Chí ít cũng được thừa nhận trong thuật ngữ của Pareto, có thể phi logic hoặc bán duy lý (Thaler 1994). Thiết lập sự đúng đắn về nhận thức luận và bản thể luận, các mô hình phi duy lý hợp nhất về hành vi con người có thể được phân loại tống quát thành các nhóm sau. Một nhóm bao gồm các mô hình hợp nhất về hành vi giá trị tăng thêm. Ví dụ một trường hợp cụ thể như quan niệm của Weber về hành động giá trị duy lý – như duy lý về kinh tế và phi duy lý về kinh tế - được tạo ra bởi nguyên lý các mục đích thuần túy, đơn cử như loại quan niệm về doanh nghiệp tư bản Protestant, sau đó là tôn giáo đương thời của Pareto (Schumpeter 1991:336),… Nhóm khác liên quan đến các mô hình hợp nhất của những gì mà Weber gọi là “hành vi quy tắc - tự trị”. Ví dụ các mô hình về “phương diện quy tắc thống trị” (Hayek 1991:368) của hành vi con người là các quan niệm của Weber về hành động truyền thống, quan niệm của Veblen về phẩm chất thói quen hay theo phong tục, cũng như quan niệm của Dukheim về tư chất đạo đức và những thứ tương tự như vậy. Các hành vi phi duy lý hợp nhất là những hành vi biểu cảm và theo cảm xúc bao gồm trong nhóm khác. Những mô Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 16
  17. Translated by Nguyen Ngoc My Tien hình như thế được thí dụ bởi loại hành động theo cảm xúc của Weber, khái niệm của Pareto về thặng dư và việc tìm ra nguồn gốc, điển hình như các nhà kinh tế tân cổ điển như Wieser đặt tên là “sức mạnh của niềm vui để sáng tạo” cho lợi ích của mình hay niềm vui để sáng tạo (Chumper 1949:93) và “tinh thần sôi nổi” của Keynesian phản ánh đa dạng tâm lý không khoái lạc của các tác nhân kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp. Nhóm tiếp theo hợp thành mô hình sức mạnh về hành vi hợp nhất thừa nhận rằng con người tìm kiếm sức mạnh không chỉ có ý nghĩa về mục đích kinh tế mà theo Weber còn là vì lợi ích cá nhân. Quan niệm của Weber về sức mạnh, sự thống trị hay uy quyền là ví dụ cho những mô hình phi duy lý hợp nhất như thế. Hơn nữa, sức mạnh hợp nhất, tính duy lý phi kinh tế và phi duy lý kinh tế, mô hình hành vi của con người đầy đủ về mặt bản thể hơn là về sự cân bằng duy lý và kinh tế đối với phạm trù theo đuổi mục đích vật chất được thừa nhận “rào cản vô tội (Mueller 1996:346) bằng cách so sánh để tìm kiếm sức mạnh. Một lớp đặc biệt nói về các mô hình phi duy lý của hành vi con người liên quan đến những cái làm tiền đề để tìm kiếm vị thế xã hội hay sự đồng thuận của nhóm (Frank 1996). Một trường hợp khác là quan niệm của Veblen về việc tìm kiếm uy tín thông qua quy mô nhiều hoạt động mở rộng, ví dụ như sự tiêu dùng nổi bật, sự giải trí và giáo dục, …cũng như quan niệm của Weber về nhóm vị thế được phân biệt trên nền tảng danh vọng xã hội. Và chỉ là công cụ tối đa hóa sự giàu có cũng như là “sự thừa nhận giá trị điển hình” của mô hình chọn lựa duy lý (Hechter 1994), vị thế xã hội thường là mục tiêu cơ bản hay hợp nhất của xã hội, bao gồm hành động kinh tế gắn với sức khỏe trở nên có ý nghĩa cùng với mục tiêu đó. Các mô hình có tính chất lịch sử hợp nhất của hành vi con người cũng được xem là loại riêng Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 17
  18. Translated by Nguyen Ngoc My Tien biệt theo nghĩa trên. Những mô hình này được dựa trên quan niệm của Durkhiem – Weber – Parsons về thể chế động lực, sở thích và chủ nghĩa cá nhân, quan niệm của Veblen đem lại cuộc cách mạng về thể chế dựa trên hành vi cá nhân, quan niệm của trường phái cổ điển về sự xác định văn hóa xã hội của các hoạt động kinh tế,… Trái với những minh chứng của nhà lý luận lựa chọn hành vi, nghiên cứu trước đó cho thấy rằng không lý do có căn cứ về nhận thức hoặc phương pháp luận và về bản thể hay thực nghiệm lý luận tại sao mô hình về hành vi con người hợp nhất chỉ nên là loại duy lý. Các mô hình hợp nhất phi duy lý tồn tại hay được xây dựng theo trạng thái tương tự như tính cân bằng duy lý. Về mặt nhận thức, cả hai loại mô hình hợp nhất đều hợp lý như nhau để xây dựng – không có tranh luận gì về phương pháp luận đúng đắn được viện dẫn cho các mô hình chỉ có duy lý và ngược lại là mô hình phi duy lý. Ở điểm này, sự dẫn chứng của nhà lý luận chọn lựa duy lý về “nguyên lý lòng khoan dung” của tính duy lý được cho là đúng đắn – những người tham gia có duy lý” – không đúng đắn hơn việc chuyển nguyên lý đó thành cái để chỉ dẫn theo hình thức giả định tính phi duy lý mà “đời sống là phi duy lý” hay ít nhất là bán duy lý. Tóm lại, để chứng minh chọn lựa duy lý chỉ là mô hình hợp nhất có sẵn hay tối ưu về hanh vi con người là không hợp lý về phương pháp luận. Về mặt bản thể học, mô hình hợp nhất duy lý và phi duy lý của hành vi con người chính đáng đối với phạm vi mà chúng có mức độ thích hợp về giá trị thực nghiệm. Do đó, nếu các mô hình phi duy lý hợp nhất thực hiện thích hợp với những phương diện liên quan đến tính xác thực của hành động xã hội, chúng vừa có mô hình chính thống cũng như duy lý về mặt bản thể học, chúng cũng được thừa nhận về lòng khoan dung. Hơn Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 18
  19. Translated by Nguyen Ngoc My Tien nữa, hành vi duy lý chứng minh là mô hình hợp nhất tốt nhất về hành vi con người trong phạm vi bằng chứng quan sát và có hệ thống biểu thị tính phi duy lý về bản thể học nhiều hơn là tính duy lý, như được gợi ý bên trên (Chumpeter 1991:336-7). Trong phần này cung cấp những sự lưu ý đặc biệt và những gì được kỳ vọng của nhiều nhà kinh tế cũng như nhà tâm lý học có tư tưởng mở rộng, điển hình như Marshall, Pareto, Schumpeter, Parson, Weber. Đây là đường hướng từ nhận thức ban đầu về tính duy lý sang bản thể cuối cùng của tính phi duy lý, như những gì Weber chỉ định về tính duy lý. Nói cách khác, đường hướng bắt đầu từ giả định về tính duy lý trong hành động xã hội, và mục đích cùng với những phát hiện may mắn về tính cân bằng thực tế của hành vi phi duy lý hay bán duy lý ngẫu nhiên có những mục đích là công cụ trong chuyển biến của nhiều nhà kinh tế học thành nhà xã hội học, như Pareto, Parsons, Weber,…Tuy nhiên, lý thuyết chọn lựa duy lý đương thời khi bắt đầu từ giả định tính duy lý tương đồng hoặc nguyên lý lòng khoan dung chưa đạt đến sự “đột phá” dù có vài gợi ý hướng dẫn điều này (Boudon 1998; Elster 1998). Ngoài ra, có nhiều tranh luận về mô hình đơn lẻ hay duy nhất về hành vi con người bị đặt nghi vấn – tính duy lý hay phi duy lý. Nếu có thể thì cả hai mô hình duy lý và phi duy lý liên quan đến sự giải thích đơn nguyên thiếu tin tưởng và khá hà tiện, nó thừa nhận những sai lầm theo lý thuyết nhất nguyên. Cụ thể là, những sai lầm như thế đưa ra những đòi hỏi kiểm tra lại nếu không bác bỏ quy luật hà tiện (Hirchman 1984). Do vậy, những mô hình này là đa chiều, phức tạp và cung cấp sự giải thích thực tế được ưa thích hơn giải thích 1 khía cạnh, đơn giản, phi thực tế và bủn xỉn. Do đó, về mặt lý thuyết đa nguyên được ưa thích hơn thuyết Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 19
  20. Translated by Nguyen Ngoc My Tien nhất nguyên cho trước về tính phức tạp và tính vô tỷ của thế giới thực (Arrow 1997:765). Phần tiếp theo kiểm tra lại lựa chọn duy lý là mô hình hợp nhất. III. Có phải chọn lựa duy lý thực sự là mô hình hợp nhất? Giữa sự hà tiện/sự đơn giản hóa và chủ nghĩa hiện thực/ ad-hocism Lựa chọn duy lý không chỉ chứng minh đó là mô hình hành động hợp nhất tốt nhất bị đặt nghi vấn mà còn chứng minh mô hình là hợp nhất như sự gắn kết chặt chẽ nội hàm. Được đề cập trước đó, sự biện minh chọn lựa duy lý chuẩn mực của mô hình hợp nhất về hành vi xã hội mà con người giải quyết “những người tham gia như nhau” liệu có phân tích hành động trong lĩnh vực kinh tế thị trường hoặc trong phạm vi phi kinh tế. Ngoài ra, lựa chọn duy lý cung cấp mô hình đơn như thế dựa trên nền tảng giả định về hành vi duy lý phổ quát đáng tin cậy trong thực tiễn, bằng cách ứng dụng nguyên tắc khoan dung duy lý về việc làm sáng tỏ hành vi xã hội. Tuy nhiên, chọn lựa duy lý khi kiểm tra cho thấy quá trình nghịch lý mâu thuẫn trực tiếp và gián tiếp và làm yếu đi sự đoàn kết và gắn kết của mô hình. Tựu chung lại, đây là hành trình từ một mô hình thống nhất bên ngoài của hành động xã hội sang vài mô hình khác nhau, mô hình ẩn hoặc mô hình hiện. Một thí dụ đặc biệt hơn về chu kỳ khá lạ này được ghi bên dưới. (a) Từ “phương pháp kinh tế toàn diện sang hành vi con người” (Becker 1976:3) giải thích “không chỉ là hành vi thị trường bình thường mà còn là thị trường ngầm” (Becker và Murphy 2000:5) sang một mô hình về tính vị kỷ về hành động trong kinh tế thị trường và mô hình khác về tính vị tha và liên quan đến lĩnh vực phi kinh tế (Becker 1991; Nguyenngocmytien@yahoo.com Page 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2