54 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
NGUYỄN XUÂN HÙNG*<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
HỆ THỐNG TỔ CHỨC CỦA HỘI THÁNH TIN LÀNH<br />
VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẦU (1927-1954)<br />
<br />
Tóm tắt: Hội Tin Lành Đông Pháp - tổ chức tiền thân của Hội<br />
Thánh Tin Lành Việt Nam đã được các giáo sĩ thuộc Hội Truyền<br />
giáo C.M.A1 lập ra năm 1927. Với bản Điều lệ năm 1928, lần<br />
đầu tiên, hệ thống tổ chức và cơ cấu vận hành của một giáo hội<br />
Tin Lành đã được thiết lập, định hình và theo thời gian trở<br />
thành giáo hội lớn nhất trong cộng đồng Tin Lành tại Việt Nam<br />
cho đến ngày nay. Tác giả bài viết đi vào tìm hiểu và giới thiệu<br />
khái quát về những đặc điểm, các hình thức tổ chức giáo hội của<br />
đạo Tin Lành cùng đặc trưng hệ thống tổ chức của Hội Thánh<br />
Tin Lành Việt Nam trong thời kỳ đầu (1927-1954), qua đó làm<br />
rõ cơ cấu vận hành và quá trình cải sửa điều lệ, hiến chương<br />
cùng hoạt động của bộ máy giáo hội Tin Lành với những khía<br />
cạnh liên quan.<br />
Từ khóa: Tổ chức, chức sắc, Tin Lành, Việt Nam.<br />
<br />
1. Một số đặc điểm và hình thức tổ chức giáo hội của đạo Tin<br />
Lành trên thế giới<br />
Trong thế giới đa dạng thành phần giáo hội, giáo phái của đạo Tin<br />
Lành ngoài đặc trưng về chủ thuyết, tín lý thì những đặc điểm về hình<br />
thức tổ chức là nét định hình sắc thái của mỗi một giáo hội, giáo phái,<br />
là điểm bắt đầu của việc tìm hiểu về một cộng đồng Tin Lành tại một<br />
vùng, xứ cụ thể.<br />
1.1. Những cơ sở nền tảng để xây dựng tổ chức<br />
Kinh Thánh: Nhằm nhấn mạnh tính chất Cải Cách, ly khai khỏi<br />
Giáo hội Công giáo Roma vốn khẳng định rằng cội nguồn của đức tin<br />
bao gồm Thánh ngôn (Kinh Thánh) và Thánh truyền (các chỉ dụ sắc<br />
<br />
<br />
*<br />
Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.<br />
Ngày nhận bài: 10/11/2017; Ngày biên tập: 17/11/2017; Ngày duyệt đăng: 27/11/2017.<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 55<br />
<br />
lệnh của Giáo hoàng và quyết định của các Công Đồng), đạo Tin Lành<br />
chỉ công nhận Kinh Thánh là cơ sở duy nhất để xây dựng đức tin và tổ<br />
chức giáo hội.<br />
Nguyên tắc bình đẳng và thông công với Chúa của mọi thành phần<br />
dân Chúa trong Hội Thánh: Đạo Tin Lành bao gồm nhiều giáo hội và<br />
giáo phái. Giữa các dòng, phái này có sự dị biệt về giáo thuyết và nghi<br />
lễ cũng như tổ chức giáo hội. Tuy nhiên, nhìn chung đều có sự thống<br />
nhất ở những nội dung chính.<br />
Điểm khác biệt căn bản giữa giáo thuyết Tin Lành và Công giáo là<br />
ở luận thuyết về sự cứu chuộc. Giáo hội Công giáo cho rằng, con<br />
người chỉ được cứu rỗi linh hồn qua tầng lớp trung gian là Giáo hội,<br />
các giáo sĩ có quyền thay mặt Chúa ban phúc, tha tội. Còn đối với tín<br />
đồ thì phải xưng tội, làm việc thiện, hãm mình mới được cứu rỗi. Đạo<br />
Tin Lành thì bác bỏ hoàn toàn và nêu ra những nét chính luận thuyết<br />
về sự cứu chuộc như sau:<br />
Luther giáo cho rằng chỉ được cứu rỗi nhờ đức tin vào tình thương<br />
của Chúa, bác bỏ việc xưng tội, làm việc thiện nếu thiếu ân điển của<br />
Chúa thì cũng không mang lại ý nghĩa gì. Mỗi con người phải tự tìm<br />
ra con đường đến với Đức Chúa Trời để được cứu chuộc. Giáo sĩ chỉ<br />
là người cố vấn tìm đường mà thôi.<br />
Calvin giáo lại cho rằng sự cứu rỗi hoàn toàn phụ thuộc vào ân<br />
điển của Chúa, đề cao thuyết tiền định và cho rằng Chúa đã phân định<br />
trước người hạnh phúc và người bất hạnh, mọi nỗ lực cá nhân chuộc<br />
tội thiếu tình thương của Chúa đều vô hiệu.<br />
Nguyên tắc noi theo hình mẫu các cộng đồng Cơ Đốc giáo sơ khai<br />
Ra đời trong cuộc Cải Cách, với chủ đích cải sửa, xây dựng một<br />
giáo hội mới, khác biệt hoàn toàn với thể chế của Giáo triều Roma,<br />
đáp ứng đòi hòi của cá nhân, nhóm xã hội trong xã hội tư bản, phù<br />
hợp với lối sống và nhu cầu hoạt động trong xã hội mưu sinh, vốn đã<br />
nặng nề trong guồng máy của một xã hội công nghiệp, đạo Tin Lành<br />
chú trọng đặc biệt vào việc tổ chức giáo hội đơn giản, hiệu quả theo<br />
hình mẫu các cộng đồng Cơ Đốc giáo sơ khai. Răn dạy tín đồ về nghi<br />
thức hành lễ thờ phượng Chúa, ngoài ra cấm ngặt mọi hình thức sùng<br />
bái và thờ lạy khác.<br />
56 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
1.2. Một số đặc điểm tổ chức giáo hội<br />
Điểm chung nổi bật nhất của hệ thống tổ chức Tin Lành là đặc biệt đề<br />
cao tính tự chủ, độc lập, tự quản của từng cộng đồng cơ sở giáo hội (chi<br />
hội hay Hội Thánh địa phương). Mỗi Hội Thánh ở cơ sở được cổ động<br />
cho việc tự quản, tự lo đủ chi phí tài chính, mời và trả lương cho mục sư,<br />
truyền đạo cùng đủ mọi chi tiêu thường xuyên và đột xuất. Tự họp, bầu<br />
cử, ứng cử, bãi nhiệm hay mời gọi các chức vụ điều hành Hội Thánh.<br />
Cơ cấu tổ chức không chỉ bao gồm biểu đồ, sơ đồ về các cấp tổ<br />
chức của đạo mà còn là vấn đề con người (nhân sự) để điều hành hoạt<br />
động. So với hệ thống phẩm trật của Giáo hội Công Giáo, đạo Tin<br />
Lành có sự khác biệt lớn, gần như là đối lập. Điều này vốn bắt nguồn<br />
từ động lực của cuộc cải cách chống đối lại các trật tự quyền uy của<br />
Giáo hội Công giáo trong lịch sử.<br />
Giáo hội Công giáo có sự phân chia, phân biệt rõ tín đồ ra làm hai<br />
loại: giáo dân và giáo sĩ với thân phận và quyền hạn khác nhau thì đạo<br />
Tin Lành lại đặc biệt đề cao nguyên tắc mọi tín đồ đều bình đẳng và<br />
thánh thiện như nhau khi đã chịu phép Rửa. Mỗi tín đồ đều có thể<br />
thông công trực tiếp với Chúa mà không cần thông qua tầng lớp trung<br />
gian nào cả. Theo các giới chức Tin Lành thì: Hội Thánh không phân<br />
chia ra tín đồ và giáo sĩ và cũng không có phẩm trật, bởi vì tất cả tín<br />
đồ đều là chi thể của Thần Christ, mỗi người đều đồng đẳng, đồng<br />
quyền và đồng trách nhiệm trước mặt Đức Chúa Trời2.<br />
Tín đồ cũng có thể làm mọi công việc của giáo sĩ (đặc biệt là công<br />
việc truyền đạo). Giáo sĩ cũng chỉ là những người chuyên sâu một vài<br />
công việc nhà Chúa, chứ không có thần quyền, không có danh tính<br />
Thánh. Đạo Tin Lành nói chung vẫn duy trì các chức danh giáo sĩ,<br />
như: Chấp sự, Trưởng lão, Truyền đạo, Mục sư, Giám mục. Anh giáo<br />
còn duy trì chức danh Giám mục. Luther giáo còn cho phép phụ nữ<br />
tham gia chức chấp sự (Diaconos).<br />
Việc đào tạo và phong chức cũng rất đa dạng và khác nhau. Có<br />
giáo hội lớn thì tổ chức trường lớp (Viện thần học, Cao đẳng) với thời<br />
gian đào tạo quy mô, thi cử, sát hạch rất chính quy. Lại có giáo hội,<br />
giáo phái để cho tín đồ tự cử ra Mục sư, Truyền đạo, sau đó đi bồi<br />
dưỡng một khóa ngắn là được làm chức vụ chính thức.<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 57<br />
<br />
Việc buộc phải sống đời độc thân bị bãi bỏ. Nhiều giáo hội, giáo<br />
phái còn quy định phải có gia đình mới được phong chức và cử đi<br />
truyền đạo.<br />
Tất cả các giáo phái đều chú trọng một tiêu chuẩn đặc biệt để làm<br />
giáo sĩ đó là được ân tứ của Chúa (?) mà suy ra cụ thể là khả năng và<br />
nhiệt tình truyền giáo. Như vậy, với đường hướng cải cách, phá bỏ bộ<br />
máy tổ chức giáo hội cũ cùng hệ thống phẩm trật của Giáo hội Công<br />
giáo, đạo Tin Lành đã xây dựng một hệ thống tổ chức giáo hội mới<br />
theo hướng đơn giản, nhẹ nhàng, dân chủ hơn, bình đẳng cho mọi<br />
thành phần dân Chúa, đáp ứng đòi hỏi về lối sống và tự do cá nhân<br />
con người trong xã hội tư bản.<br />
1.3. Một số hình thức tổ chức giáo hội<br />
1.3.1. Tổ chức giáo hội Luther (Lutheranism)<br />
Được mang danh là giáo hội Luther bởi đây là tổ chức tôn giáo cải<br />
cách theo các nguyên tắc giáo lý và tổ chức của M. Luther.<br />
Giáo hội Luther vẫn duy trì chức vụ giám mục nhưng chỉ nắm chức<br />
năng truyền giáo và điều hành hành chính, không có quyền thiêng liêng<br />
đặc biệt. Trong giáo đường, Luther giáo tuy đã cải cách nhưng vẫn giữ lại<br />
ban thờ (Cung thánh), các giáo sĩ vẫn có phẩm phục riêng, v.v…<br />
Hệ thống tổ chức bao gồm chi hội, giáo khu, liên đoàn quốc gia,<br />
trong đó phân chia ra ba ngành: lập pháp, hành pháp và tư vấn.<br />
Năm 1947, tại Thụy Sĩ diễn ra Đại hội thành lập Liên đoàn Luther<br />
thế giới, tổ chức này cho đến ngày nay quy tụ hơn 60 giáo hội Luther<br />
từ gần 40 quốc gia tham gia. Luther giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ tại<br />
Đức, các nước Bắc Âu, như: Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan.<br />
Một số quốc gia tại Bắc Âu coi Luther giáo như là quốc giáo.<br />
1.3.2. Các giáo phái theo chủ thuyết Calvin giáo (Calvinism)<br />
Khác với Luther giáo, Calvin giáo không có một nền tảng tín lý cụ<br />
thể được thống nhất công nhận, cũng không có sự tổ chức thống nhất<br />
chung. Đây là nguyên do mà hầu như thuật ngữ Giáo hội Calvin<br />
không được sử dụng. Các luận thuyết của Calvin xâm nhập và thể hiện<br />
trong nhiều giáo phái, tổ chức Tin Lành khác nhau. Nền tảng cội<br />
nguồn giáo lý Calvin là Kinh Thánh, những văn bản quy định tín lý<br />
58 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
không hạn chế và không cụ thể. Qua các tác phẩm như: Chế độ Kitô<br />
giáo (1536), Sách Kinh Giơnevơ (1545), v.v… J. Calvin đã xây dựng<br />
nên những nguyên tắc thần học và cơ chế tổ chức giáo hội theo đường<br />
hướng cải cách triệt để hơn so với Luther giáo.<br />
Trong thờ phượng, phái Calvin bài bỏ tất cả các hình thức mà Giáo<br />
hội Công giáo thực hành. Tranh tượng, đèn nến, bàn thờ, phép Rửa tội<br />
và Thánh thể chỉ được coi như là nghi thức tượng trưng. Cốt lõi của sự<br />
thờ phượng là bài giảng đi kèm với đọc Kinh Thánh và hát Thánh ca<br />
cùng sự cầu nguyện.<br />
Về cơ cấu tổ chức, Calvin giáo triệt để cải cách, phá bỏ tận gốc hệ<br />
thống thang bậc phẩm trật cũ của Giáo hội Công giáo, đặc biệt là thể<br />
chế giám mục. Trao quyền tự trị rộng rãi cho chi hội cơ sở, tự bầu ra<br />
chức vị Trưởng lão và mời gọi mục sư cai quản. Hệ thống hành pháp<br />
và lập pháp được áp dụng qua việc tiến hành các Hội đồng (lập pháp -<br />
chi hội, vùng, miền) qua đó bầu ra các Ban Trị sự (hành pháp). Thực<br />
thi nguyên tắc giáo hội độc lập với nhà nước.<br />
Ảnh hưởng của nhánh Tin Lành Calvinism còn biểu hiện trong<br />
hàng trăm giáo phái khác nhau ra đời và hoạt động trên cơ sở học<br />
thuyết Calvinism (gọi chung là các giáo phái Cải Cách) chứng tỏ vị<br />
thế của Calvin giáo trong đạo Tin Lành rất sâu rộng.<br />
Hội Thánh Tin Lành tại Việt Nam là sản phẩm truyền giáo của Hội<br />
C.M.A vốn có thành phần giáo phái Trưởng lão là nòng cốt, ảnh<br />
hưởng chủ thuyết Calvinism.<br />
1.3.3. Tổ chức giáo hội Anh giáo (Anglicanism)<br />
Anh giáo mặc dù đã mang những nét chính của tư tưởng Cải cách<br />
tôn giáo (Luther, Calvin), như: coi Kinh Thánh là nền tảng duy nhất<br />
của đức tin, sự cứu chuộc chỉ được thực hiện bởi đức tin, v.v… nhưng<br />
Anh giáo vẫn còn giữ lại phần nào hình thức và thể chế theo Giáo hội<br />
Công giáo.<br />
Nền tảng của đức tin: Bản tín điều Xưng nhận đức tin gồm 39 điều<br />
khoản (ra đời từ năm 1563).<br />
Nghi thức: giữ hai bí tích: Báp têm (Rửa tội) và Tiệc Thánh. Báp<br />
têm bằng cách vảy nước, không dìm mình (như phái Báptit) cho phép<br />
Báp têm cả trẻ em. Tiệc Thánh cử hành trọng thể mỗi Chủ nhật.<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 59<br />
<br />
Anh giáo giữ 5 thánh lễ: Xác tín, Thống hối, Tấn phong hàng giáo<br />
phẩm, Giáo lễ, Xức dầu.<br />
Hàng giáo phẩm có các chức vụ: Tổng Giám mục, Giám mục,<br />
Linh mục (Mục sư), Chấp sự, Tổng Chấp sự. Các chức thánh này đều<br />
mặc áo lễ khác nhau khi hành lễ trong nhà thờ.<br />
Điều hành giáo hội có các hội đồng: Hội đồng Giám mục, Hội<br />
đồng Linh mục, Hội đồng Tín hữu.<br />
Các Hội thánh tại Anh quốc theo thể chế quốc giáo, đứng đầu Giáo<br />
hội là vua nước Anh; điều hành Giáo hội là Tổng Giám mục<br />
Canterbury, có sự liên lạc và thông công với các giáo hội Anh giáo tại<br />
nước khác.<br />
1.3.4. Một vài giáo phái khác<br />
Giáo phái Giám lý (Methodism)<br />
Giáo phái Giám lý ra đời trong một hình thức đòi cách tân Anh<br />
giáo. Năm 1792 tại Đại học Oxford, hai anh em Wesly và Charles<br />
thành lập nhóm hiệp nguyện và nghiên cứu Kinh Thánh với tên gọi là<br />
Methodism - Giám lý, xuất phát từ sự kêu gọi, truyền giảng theo đúng<br />
phương pháp mà Kinh Thánh chỉ dẫn.<br />
Giáo phái này đặc biệt chú trọng trong việc truyền đạo với các<br />
phương pháp mới (thời bấy giờ), như: lộ thiên, nơi nhà tù, hầm mỏ,<br />
công trường.<br />
Về tổ chức giáo hội, mặc dù vẫn giữ chế độ giám mục nhưng có sự<br />
cải cách, sắp xếp khoa học và điều hành chặt chẽ hơn. Không vi phạm<br />
quyền tự chủ của chi hội nhưng liên kết chặt chẽ hệ thống từ thấp lên<br />
cao, việc phong chức mục sư, quản lý tài chính, kế hoạch truyền giáo,<br />
v.v… theo thể lệ chặt chẽ. Sau nước Anh, phái Giám lý phát triển<br />
mạnh mẽ tại Bắc Mỹ và truyền giáo ra toàn cầu. Giám lý có trong<br />
thành phần tổ chức C.M.A, truyền giáo vào Việt Nam, HTTLVN về<br />
mặt tổ chứ giáo hội có nhiều nét ảnh hưởng của Giám lý.<br />
Giáo phái Men nô nai (Mennonite)<br />
Đây là một trong những nhóm tôn giáo ra đời từ buổi đầu cải cách<br />
tôn giáo tại Thụy Sĩ, Hà Lan ở thế kỷ 16. Người sáng lập là linh mục<br />
người Hà Lan - Menno Simons. Khởi đầu bằng các cộng đồng đầu<br />
60 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
tiên tại Hà Lan và bắc nước Đức, sau đó phát triển sang Anh và Mỹ<br />
Châu.<br />
Hàng chức sắc có các chức vụ: Giám mục, Mục sư, Truyền đạo,<br />
Chấp sự.<br />
Hoạt động từ thiện, y tế cứu trợ rất mạnh thông qua tổ chức M.C.C.<br />
Tổ chức này đã đến Việt Nam từ năm 1957.<br />
Giáo phái Báp tít<br />
Đây là giáo phái Tin Lành ra đời từ rất sớm, những cộng đồng Báp<br />
tít đầu tiên ra đời từ đầu thế kỷ 17 tại Hà Lan và Anh. Giáo phái này<br />
chỉ làm Báp têm cho người lớn bằng cách dìm cả người trong nước,<br />
trao quyền giảng đạo cho mọi thành viên cộng đồng.<br />
Báp tít đòi hỏi sự tham gia tích cực của mọi thành viên trong công<br />
tác truyền giáo. Từng chi hội được sự lãnh đạo của Trưởng lão (còn<br />
gọi là mục sư) được bầu một cách dân chủ và tự quản. Giúp việc cho<br />
họ là Truyền đạo và các chấp sự. Giáo phái Báp tít đề cao sự tự trị, tự<br />
lập, tự dưỡng, tự đào tạo của từng chi hội cơ sở, các mối liên hệ tổ<br />
chức bên trên không có tính chất áp đặt, chỉ là sự liên kết thông công<br />
giữa các chi hội tùy theo công việc chung.<br />
Báp Tít tiến hành các hoạt động truyền giáo tại Việt Nam từ năm<br />
1959 và giờ đây có nhiều tổ chức, nhóm Báp tít khác nhau đang hiện<br />
diện.<br />
Giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm (Adventism)<br />
Cơ Đốc Phục Lâm là một trong các giáo phái ra đời vào thời kỳ<br />
bùng nổ tôn giáo tại Mỹ đầu thế kỷ 19. Các tín đồ được răn dạy giữ<br />
luật lệ vệ sinh thanh sạch, không ăn các con vật bị coi là dơ bẩn (heo,<br />
thỏ), không hút thuốc, uống rượu, trà, cà phê, không xi-nê, khiêu vũ,<br />
trai gái, v.v… Cơ Đốc Phục Lâm hoạt động mạnh trong lĩnh vực giáo<br />
dục, giữ gìn sức khỏe, viện trợ nhân đạo.<br />
Về mặt tổ chức, có cơ quan giáo hội toàn cầu gọi là Toàn cầu Tổng<br />
hội tại Mỹ, dưới là các Tổng hội, Liên Hiệp hội, Địa hạt, Chi hội tại<br />
từng vùng miền, quốc gia, địa phương.<br />
Cơ Đốc Phục Lâm đến Việt Nam từ năm 1929 và là giáo phái đứng<br />
thứ hai về lịch sử du nhập chỉ sau Hội truyền giáo C.M.A.<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 61<br />
<br />
Giáo phái Ngũ Tuần (Pentecostism)<br />
Phong trào Ngũ tuần hay còn gọi là phái Ngày thứ 50 là trào lưu<br />
Tin Lành ra đời tại nước Mỹ vào đầu thế kỷ 20, sau đó lan rộng ra<br />
toàn thế giới.<br />
Ngũ Tuần ngay trong buổi ra đời đã phân chia ra nhiều nhóm,<br />
nhánh rất năng động, dễ dàng nhập vào cũng như tách ra khỏi các giáo<br />
phái khác.<br />
Giáo phái này đã đến Việt Nam từ đầu những năm 1970. Thời gian<br />
gần đây Ngũ Tuần hoạt động mạnh tại các chi hội Tin Lành từ Bắc<br />
đến Nam.<br />
Như vậy, đặc điểm và cơ cấu tổ chức của các giáo hội, giáo phái<br />
Tin Lành là làm nổi bật ảnh hưởng các trạng thái xã hội-văn hóa của<br />
các cộng đồng Tin Lành, đòi hỏi giải phóng cá nhân và truyền thống<br />
cải cách, phá bỏ các trật tự, hệ thống tổ chức của Giáo hội Công giáo<br />
trước đây.<br />
2. Tổ chức giáo hội Tin Lành bản xứ đầu tiên tại Việt Nam -<br />
Hội Tin Lành Đông Pháp<br />
2.1. Tiền đề dẫn tới sự hình thành tổ chức giáo hội<br />
Sau một thời gian tiến hành công việc thăm dò, tìm hiểu, vào năm<br />
1911, Hội Truyền giáo Tin Lành C.M.A đã cử 03 giáo sĩ tới Turane<br />
(Đà Nẵng) lập trụ sở truyền giáo đầu tiên tại Đông Dương.<br />
Mục tiêu hoạt động của tổ chức C.M.A được các giáo sĩ nêu ra<br />
trong những điểm sau:<br />
1) Giới thiệu Tin Lành cho người Việt và các sắc dân thiểu số càng<br />
nhiều càng tốt.<br />
2) Cung cấp Kinh Thánh và văn phẩm Cơ Đốc bằng tiếng bản xứ<br />
tạo căn bản cho việc truyền giảng.<br />
3) Huấn luyện tín đồ, chức sắc bản xứ để họ tự lập, tự truyền đạo.<br />
4) Tổ chức nên một Hội Thánh quốc gia theo hình mẫu của Hội<br />
C.M.A3.<br />
Bắt đầu từ năm 1924, hàng năm, các giáo sĩ tổ chức một kỳ họp gọi<br />
là Hội Đồng thường niên cho các chức sắc, tín đồ bản xứ. Mới đầu,<br />
62 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
chỉ là những cuộc họp Hội Đồng mang tính chất bồi linh, hiệp nguyện<br />
và không có quyết định biểu quyết gì, nhưng đây là bước tiền đề tiến<br />
tới thành lập tổ chức giáo hội đầu tiên cho họ.<br />
Nhìn chung, những lý do sau có thể lý giải cho chính sách của Hội<br />
C.M.A muốn nhanh chóng thành lập tổ chức giáo hội bản xứ, khác<br />
biệt với Công giáo hay cả với một số hội truyền giáo Tin Lành khác<br />
tại các vùng truyền giáo Á Châu, đó là:<br />
1) Để đối phó với tình huống chính trị hiện tại, khi các giáo sĩ<br />
ngoại quốc chỉ được hoạt động trong một phạm vi hạn chế (lãnh thổ<br />
nhượng địa, thuộc địa) và bị kiểm soát gắt gao.<br />
2) Tiếp nữa, do xuất phát từ nguyên tắc tổ chức dân chủ, tôn trọng<br />
quyền độc lập của các chi hội cơ sở (vốn là truyền thống của nhiều<br />
giáo phái Tin Lành).<br />
3) Do Hội Truyền giáo C.M.A là một hội truyền giáo nhỏ, ngân<br />
quỹ có hạn nên các giáo sĩ theo đó phải nhanh tróng thiết lập quy<br />
chế tự trị, tự phát triển cho cộng đồng chức sắc, tín đồ bản xứ. Vả<br />
lại cần nhấn mạnh thêm chi tiết là nhằm tránh sự đánh thuế của giới<br />
chức Pháp vào các bất động sản của ngoại kiều tại Đông Dương lúc<br />
bấy giờ.<br />
Năm 1927, tại Đà Nẵng, Hội Đồng lần thứ IV của giới chức Tin<br />
Lành và cũng là Đại Hội Đồng chính thức đầu tiên đã tiến hành họp từ<br />
ngày 5 đến 13 tháng 3 và biểu quyết những nội dung quan trọng sau:<br />
Hội Thánh Việt Nam tự lập tỏ mình ra cho nhà nước.<br />
Thành phần Ban Trị sự:<br />
Hội trưởng : Mục sư Hoàng Trọng Thừa<br />
Phó Hội trưởng : Mục sư Trần Dĩnh<br />
Phái viên : Mục sư Lê Văn Long<br />
Tư hóa : Trần Thành Long<br />
Tổng thư ký : Mục sư Dương Nhữ Tiếp<br />
Chánh thư ký : Mục sư Đoàn Văn Khánh<br />
Phó thư ký : Mục sư Trần Xuân Phan4.<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 63<br />
<br />
Đại Hội Đồng lần I này cũng đã biểu quyết: sửa các quy tắc của<br />
Hội Thánh Việt Nam và giao cho Ban Ủy viên Hội Truyền giáo và<br />
Ban Trị sự Việt Nam họp bàn sửa đổi5.<br />
Như vậy, đây là dấu mốc chính thức đánh dấu sự ra đời của tổ chức<br />
giáo hội Tin Lành đầu tiên của tín đồ chức sắc người Việt, về tên gọi<br />
của tổ chức và bản Hiến chương đầu tiên, Đại Hội Đồng giao cho Ban<br />
Ủy viên của các giáo sĩ và Ban Trị sự người Việt tiến hành soạn thảo<br />
và sẽ đưa ra vào Đại Hội Đồng năm 1928.<br />
Tuy trong thành phần Ban soạn thảo Hiến chương có Ban Trị sự<br />
người Việt nhưng thực ra vai trò chủ chốt là của các giáo sĩ. Sau Đại<br />
Hội Đồng, một ủy ban soạn thảo Hiến chương được thành lập với 5 vị<br />
giáo sĩ của Hội Truyền giáo là các ông: Cadman, Irwin, Jeffrey, Olsen<br />
và Stebbins. Một trong số họ đã kể lại trong hồi ký như sau: Hai ủy<br />
viên trong Ủy ban nhấn mạnh rằng chúng tôi nên dịch bản Điều lệ<br />
của Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên Hiệp, ba ủy viên kia thì cho rằng<br />
việc đó không thích hợp, thiếu nhiều điều cần thiết và quá đơn giản…<br />
Tuy nhiên, Ủy ban có nghiên cứu Điều lệ của các hệ phái lớn khác<br />
bên cạnh điều lệ của Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên Hiệp. Đôi khi<br />
các cuộc thảo luận khá căng thẳng và không có gì khó để hiểu lý do.<br />
Mặc dù tất cả chúng tôi đều là giáo sĩ Liên Hiệp (C.M.A) nhưng mỗi<br />
người lại thuộc về một giáo phái khác nhau. Cuối cùng, chiếu theo<br />
biểu quyết ba phiếu thuận, hai phiếu chống, Ủy ban quyết định soạn<br />
thảo Điều lệ chi tiết hơn Điều lệ của Hội Liên Hiệp6.<br />
Chi tiết này cho biết: Bản Hiến chương sơ lược của Hội C.M.A vốn<br />
chỉ dùng để thỏa hiệp giữa các thành viên giáo phái hợp tác để cùng<br />
truyền giáo tỏ ra quá đơn giản, không đủ chi tiết cho một nền tảng ban<br />
đầu của một hội thánh bản xứ. Kết quả là bản Hiến chương đầu tiên<br />
của các tín đồ Tin Lành Việt Nam đã được các giáo sĩ ngoại quốc soạn<br />
ra với các yếu tố chung của nhiều giáo phái Tin Lành thế giới.<br />
2.2. Bản Hiến chương năm 1928 và sự ra đời hệ thống tổ chức<br />
của Hội Tin Lành Đông Pháp<br />
2.2.1. Nội dung bản Hiến Chương<br />
Bản Hiến chương do Ủy ban soạn thảo Hiến chương rất chi tiết,<br />
bao gồm 37 khoản, 156 tiết, chứa đựng tất cả các điều khoản về bộ<br />
64 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
máy tổ chức, cơ cấu điều hành, các quy định về tín lý, thần học… của<br />
tổ chức giáo hội bản xứ, cụ thể như sau:<br />
Về tên gọi của tổ chức giáo hội<br />
Cho dù có sự tham gia ý kiến của một vài mục sư người Việt, các<br />
giáo sĩ do lo ngại phản ứng từ chính quyền thực dân Pháp vẫn giữ tên<br />
gọi chính thức lúc bấy giờ là: Hội Tin Lành Đông Pháp, được dịch qua<br />
tiếng Anh là: The Evangelical Church of French Indochina. Cho<br />
đến năm 1936, lần tu chính đầu tiên, tên này đã được thay đổi với sự<br />
thêm chữ Việt Nam vào trước từ Đông Pháp. Đến năm 1950, do tình<br />
thế chính trị đã thay đổi nên bỏ từ Đông Pháp và thêm chữ Thánh vào<br />
thành tên gọi ngày nay: Hội Thánh Tin Lành Việt Nam7.<br />
Những quy định về tín lý<br />
Những điều khoản về đức tin được diễn giải trong 16 tiết, nhấn<br />
mạnh vào các lẽ đạo chính, như: Sự tái sinh trong Chúa, sự thánh hóa,<br />
Chúa chữa bệnh, Chúa tái lâm. Lẽ đạo về Chúa tái lâm được đặc biệt<br />
chú ý với sự nhấn mạnh rằng mục đích của Hội Thánh bản xứ là…<br />
khiến cho sự tái lâm mau đến. Bốn lẽ đạo này thực ra là cốt lõi của tư<br />
tưởng thần học Tứ diện Phúc Âm của Hội C.M.A do mục sư A. B.<br />
Simpson sáng lập và cổ súy. Bốn lẽ đạo này như là một truyền thống,<br />
được Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (HTTLVN) lưu giữ cho đến tận<br />
ngày nay qua hệ thống tín lý và được khắc trên con dấu của Hội Thánh<br />
bằng các biểu tượng: Thập tự giá, chim bồ câu, cái bình và mão miện.<br />
Liên quan đến đức tin, có quy định rõ về việc cải đạo và trở thành<br />
tín đồ như sau: Muốn cầu lễ Báp têm để trở thành thuộc viên của Hội<br />
Thánh, một người không những phải ăn năn thật và tin Chúa Jesus<br />
Christ làm Chúa và cứu Chúa của mình, phải thường xuyên nhóm với<br />
Hội Thánh để nghe và học biết về Tin Lành, vui lòng đóng góp phần<br />
tài chính cấp dưỡng Hội Thánh. Người ấy phải từ bỏ việc dùng á<br />
phiện, thuốc điếu… và từ bỏ cờ bạc, gạt bỏ những mê tín dị đoan, xin<br />
xăm, coi bói, sử dụng thuật bói toán để lựa chọn nơi chôn cất, phải<br />
dẹp bỏ thờ hình tượng và hương hỏa, cúng cấp8.<br />
Những quy định nghiêm ngặt như vậy, đặc biệt là vấn đề liên quan<br />
đến thờ cúng tổ tiên của người Việt, đã gây ra nhiều vấn nạn cho công<br />
việc truyền giáo sau này.<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 65<br />
<br />
Thái độ đối với chính trị-xã hội<br />
Khoản 8, tiết 1 quy định rằng: Người nào loạn nghịch chống chính<br />
phủ không thể là thuộc viên Hội Thánh. Điều này có thể giải thích thái<br />
độ thận trọng của cấp lãnh đạo giáo hội, đặc biệt là các giáo sĩ, trong<br />
bối cảnh phải giải tỏa nghi ngờ từ phía chính quyền thuộc địa Pháp.<br />
Tuy nhiên, chi tiết này đã được giới chức Tin Lành người Việt sau này<br />
phát triển thành lập trường đứng ngoài chính trị, không dính lứu đến<br />
chính trị trong bất cứ hoàn cảnh nào như là một nguyên tắc cứng nhắc.<br />
2.2.2. Hệ thống tổ chức<br />
Trong chương 6 về tổ chức, bản Hiến chương ghi rõ: Sự tổ chức<br />
của Hội Tin Lành Đông Pháp gồm có các Chi hội, các Địa hạt Liên<br />
hội và Tổng Liên hội 9. Đó là ba cấp của kết cấu Hội Thánh được các<br />
giáo sĩ dựng lên ngay từ buổi đầu, trong đó mỗi cấp được quy định và<br />
giải thích rõ như sau:<br />
Về chi hội<br />
Phàm nơi nào có những người Việt Nam tụ hiệp lại đặng thờ<br />
phượng Đức Chúa Trời theo thể thức mà Tin Lành của Ngài chỉ dạy<br />
và tổ chức chi hội của mình chiếu theo điều lệ này thì được gọi là chi<br />
hội của Hội Tin Lành Đông Pháp10.<br />
Theo quy định, mỗi chi hội phải có ít nhất từ 20 tín đồ chính thức<br />
trở lên và được phân cấp làm 2 hạng. Hạng một: Hội chánh/chính là<br />
chi hội đã tự trị tự lập, đồng nghĩa với điều kiện đã có thể tự lo mọi<br />
chi phí cho gia đình mục sư, và các khoản chi tiêu của hội thánh. Hạng<br />
hai: được gọi là Hội nhánh - chưa tự trị tự lập được. Hội chánh/chính<br />
có quyền lưu mời mục sư quản nhiệm, cử đại biểu đi dự Đại Hội Đồng<br />
với quyền biểu quyết, nếu còn là Hội nhánh thì không có quyền này.<br />
Về Địa hạt Liên hội<br />
Địa hạt Liên hội là tổ hiệp các chi hội của Hội Tin Lành Đông Pháp<br />
ở trong cùng một địa hạt chiếu theo điều lệ này11.<br />
Về Tổng Liên Hội<br />
Tổng Liên Hội là tổ hiệp các chi hội của các Địa hạt Liên hội Hội<br />
Tin Lành Đông Pháp trong khắp lãnh thổ chiếu theo điều lệ này12.<br />
66 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
Ba cấp tổ chức của Hội Thánh này đều có những định chế riêng với<br />
những hội đồng riêng, họp thường niên để giải quyết các vấn đề của<br />
giáo hội trong phạm vi giáo hội cơ sở (Chi hội), vùng (Địa hạt) hay<br />
quốc gia (Tổng Liên Hội).<br />
Các giáo sĩ C.M.A đã tranh luận rất nhiều nhưng đều thống nhất<br />
một nguyên tắc chung của tinh thần cải cách Tin Lành, đó là: Áp dụng<br />
nguyên tắc phân quyền bằng cách xác định chi tiết tỉ mỉ đoàn lập pháp<br />
và đoàn hành pháp. Mỗi một cấp tổ chức đều có một Ban Trị sự được<br />
bầu ra theo nhiệm kỳ và làm nhiệm vụ điều hành - hành pháp, còn Hội<br />
Đồng hàng năm của cấp đó là cơ quan lập pháp.<br />
Về các chức vụ trong hệ thống tổ chức<br />
1) Chức danh mục sư, truyền đạo, chấp sự<br />
Theo truyền thống của Hội Truyền giáo C.M.A, vốn theo xu hướng<br />
thần học Calvinism, thì chỉ có một chức danh về đạo mang tính thiêng<br />
liêng duy nhất là Mục sư (Pastor). Tuy rằng chức danh này cũng<br />
không đi liền với thần quyền siêu nhiên gì cả (với nghĩa đen dịch ra là<br />
người chăn bầy). Mục sư là người phải có ân phước, có khả năng<br />
truyền giảng, tổ chức gây dựng Hội Thánh, phải tốt nghiệp trường<br />
Thần học, phải có kinh nghiệm thuộc linh, được một Hội Đồng Tổng<br />
Liên Hội tấn phong.<br />
Trong quá trình truyền giáo tại Việt Nam, đặc biệt ảnh hưởng ngôn<br />
từ Miền Trung, Miền Nam mà có sự phổ biến thêm một chức danh là<br />
Truyền đạo.<br />
Truyền đạo là tên gọi gây nhiều tranh cãi, vì Truyền đạo nhiều khi<br />
được hiểu như động từ chỉ hành động mà không phải chức danh. Thực<br />
ra đây là chức danh Phó Mục sư như đã được dịch ra tiếng Anh là<br />
unordained pastor. Truyền đạo chính là những người đã tốt nghiệp<br />
Trường Kinh Thánh nhưng đang còn phục vụ để tích lũy kinh nghiệm<br />
và thành tích để có thể nộp đơn xin xét phong chức Mục sư.<br />
Chấp sự (Deacons): chỉ là chức danh của các tín đồ tích cực tham<br />
gia vào việc giúp cho Mục sư quản nhiệm điều hành mọi vấn đề hoạt<br />
động của chi hội. Chấp sự được bầu ra theo nhiệm kỳ 2 năm, gối nhau,<br />
mỗi năm 1/2 số chấp sự phải bầu lại.<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 67<br />
<br />
2) Hệ thống chức vụ<br />
Cấp chi hội: Ban Trị sự Chi hội được Hội Đồng hàng năm của chi<br />
hội bầu ra gồm các chức vụ sau: Mục sư (hoặc Truyền đạo) quản<br />
nhiệm chi hội, thư ký, thủ quỹ và các nghị viên.<br />
Cấp Địa hạt Liên hội: Ban Trị sự Địa hạt được bầu ra bởi Hội<br />
đồng Địa hạt với nhiệm kỳ 2 năm: bao gồm một Chủ nhiệm (mục sư),<br />
một Phó chủ nhiệm (mục sư), một Thư ký, một Thủ quỹ và ít nhất là<br />
một Phái viên.<br />
Cấp Tổng Liên Hội: Tổng Liên Hội là cơ quan hành pháp cao nhất<br />
của Hội Tin Lành Đông Pháp được bầu ra do các đại biểu của các chi<br />
hội trong các địa hạt họp lại vào kỳ Đại Hội Đồng. Ban Trị sự Tổng<br />
Liên Hội có các chức vụ sau: Một Hội trưởng, một Phó Hội trưởng,<br />
một Thư ký, một Thủ quỹ, các Chủ nhiệm Địa hạt và các Phái viên.<br />
Nhiệm kỳ của các thành viên là 2 kỳ Đại Hội Đồng (2 năm), riêng<br />
Phái viên phải bầu lại hàng năm.<br />
Ban Trị sự Tổng Liên Hội chẳng những có bổn phận thực thi<br />
những luật lệ và các nghị quyết của Đại Hội Đồng Tổng Liên Hội<br />
thông qua mà còn có chức trách điều tra, điều hành về tình hình hoạt<br />
động truyền giảng tại các chi hội, các vùng miền (địa hạt), tư cách của<br />
mục sư, truyền đạo, có quyền tấn phong hoặc bãi bỏ chức vụ của họ.<br />
Ban Trị sự Tổng Liên Hội có quyền khuyên và đòi hỏi sự quyên góp<br />
và đóng góp tài chính từ các địa hạt, các chi hội, và chỉ duy nhất Ban<br />
này có quyền quản trị tài sản (bất động sản, động sản) của toàn thể<br />
các chi hội trực thuộc làm thành viên.<br />
Tuy nhiên, cũng có một vài nan đề, hay có thể gọi là lỗi hệ thống<br />
chưa toàn diện của bộ máy tổ chức này, đó là việc thực hiện các Hội<br />
Đồng các cấp. Tùy theo quy định mỗi năm, hệ thống Hội Đồng này<br />
nhóm họp 1 lần nhưng theo truyền thống được các giáo sĩ dạy dỗ,<br />
chương trình nhóm họp dành phần lớn thời giờ để bồi linh, thờ<br />
phượng, trong khi nhiều vấn đề bức xúc của Hội Thánh địa phương và<br />
Hội Thánh quốc gia lại thiếu thì giờ để đưa ra thảo luận và thông qua.<br />
Tiếp theo là vấn đề tư pháp, đã không có một điều khoản nào của Hiến<br />
chương đầu tiên đề cập tới và trong quá trình phát triển của mình,<br />
HTTLVN đã gặp không ít nan đề về lĩnh vực này.<br />
68 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
Nhìn chung, với một quy tắc phân quyền và bầu cử dân chủ theo ba<br />
cấp tổ chức, được áp dụng một cách rất nguyên tắc, không có trường<br />
hợp ngoại lệ, các giáo sĩ C.M.A đã xây dựng được một nền móng<br />
vững chắc và mang tính bảo thủ, làm cơ sở cho sự phát triển của Hội<br />
Thánh bản xứ cho đến sau này.<br />
Vậy cơ cấu bộ máy tổ chức của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam ngay<br />
từ khởi đầu có nét gì đặc biệt? Phải chăng nó là thể thức chung của<br />
nguyên tắc tổ chức giáo hội Tin Lành trên toàn thế giới? Tác động và<br />
ảnh hưởng của tính đa giáo phái từ Hội C.M.A ra sao? Trả lời các câu<br />
hỏi trên quả là không dễ dàng chút nào, chúng tôi trình bày ý kiến của<br />
giáo sĩ J. D. Olsen bàn về sự tổ chức Hội Thánh làm cơ sở tham chiếu.<br />
Trong quyển 10: Luận về Hội Thánh, chương 3: Luận về chính trị<br />
của Hội Thánh, tác giả J. D. Olsen đã trình bày rất rõ ràng. Theo sự<br />
phân tích của J. D. Olsen, trong các giáo hội, giáo phái Tin Lành (cải<br />
cách) hiện duy trì 03 chế độ cai quản, đó là: Công lý chính thể<br />
(Baptism, Congregationatism, v.v...), Giám mục chính thể (Anh giáo,<br />
Lutherans, Metodism, v.v...) và Chánh thể cộng hòa (Trưởng lão, các<br />
giáo phái cải cách theo Calvin). Tác giả bình luận: Kìa, các giáo hội<br />
công lý đầu đều bởi giáo hữu tự trị, tự chủ trương cả mọi việc của hội<br />
mình, chẳng có hội nào được phép can dự đến.... Song nhược điểm<br />
của họ là lỗi về chỗ thái - phiền về mặt tự chủ của mỗi Hội Thánh địa<br />
phương. Còn giáo hội Anh giáo và các giáo hội theo giám mục chính<br />
thể, lại lỗi về mặt chuyên quyền, giao cả quyền bính của toàn thể cho<br />
một phẩm trật13.<br />
Tác giả nhấn mạnh: Trưởng Lão chế độ cũng có thể gọi là hội đồng<br />
chính thể thì lại khác và theo cộng hòa chủ nghĩa hơn. Theo chính thể<br />
này thì mọi việc của hội thánh không do một người nào tự chuyên tự<br />
quyết; cũng không phải do toàn thể giáo hữu được tham dự, bèn là do<br />
các phái viên của hội chúng công cử để làm đại biểu nên vậy, v.v...<br />
Cuối cùng tác giả kết luận: HTTLVN giữ theo cộng hòa chính thể, hay<br />
là hội đồng chính thể, không quá trọng sự tự chủ của cá thể (tức chi<br />
hội) mà cũng không khinh quyền của toàn thể (tức Hội Thánh chung)<br />
bèn bảo toàn cả hai trong hội đồng chính thể14.<br />
Về các chức danh trong tổ chức giáo hội, theo sự luận giải của J.<br />
D. Olsen thì theo thuyết Calvin vốn không công nhận chức danh<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 69<br />
<br />
giám mục (như Anh giáo, Luther giáo, Giám lý), coi chức Giám mục<br />
tương đương chức Trưởng lão. Tuy nhiên, để sửa đổi cho hợp với<br />
thời đại, giáo phái Trưởng Lão đã bỏ chức danh này. Tác giả nói rõ:<br />
HTTLVN không có chức Trưởng lão, bởi vì coi chức mục sư là chức<br />
Trưởng lão15.<br />
Như vậy, quá trình hình thành nền móng cơ sở của tổ chức giáo hội<br />
Tin Lành đầu tiên của người Việt mang đậm dấu ấn của Hội Truyền<br />
giáo Tin Lành C.M.A, một hội truyền giáo đa giáo phái với ảnh hưởng<br />
chủ đạo của Hội trưởng A. B. Simpson (vốn xuất thân từ phái Trưởng<br />
lão), trong sự tổ chức hoạt động của chi hội, địa hạt có mang những<br />
nét ảnh hưởng của phái Báptit, Giám lý.<br />
3. Một số thay đổi trong hệ thống tổ chức của HTTLVN thời kỳ<br />
từ 1928 đến 1954<br />
Ngay khi Đại Hội Đồng thông qua bản Hiến chương đầu tiên (lần<br />
thứ V, năm 1928), các đại biểu đã thông qua biểu quyết chia 3 kỳ làm<br />
2 hạt là Trung-Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Như vậy, vào thời điểm này, Hội<br />
Tin Lành Đông Pháp có 02 địa hạt.<br />
Đào tạo cán bộ truyền giáo<br />
Trường Kinh Thánh Đà Nẵng từ năm 1927 trở đi mỗi khóa đều có<br />
hơn 90 sinh viên theo học. Đến năm 1942, con số học viên cả nam và<br />
nữ đã lên tới trên 300 người. Với tốc độ đào tạo như vậy, nhân sự bổ<br />
sung cho việc truyền giáo được gia tăng nhanh chóng và đã thể hiện<br />
sự thành công phần nào của chính sách giáo hội bản xứ mà Hội<br />
C.M.A theo đuổi. Tỷ lệ số mục sư, truyền đạo bản xứ so với số giáo<br />
sĩ đã thay đổi từ 2/1 năm 1928 lên 8/1 vào năm 1937 và 12/1 vào<br />
năm 1941.<br />
Sự gia tăng số địa hạt, chi hội và sự trưởng thành của mạng lưới<br />
các chi hội tự lập<br />
Năm 1932, theo biểu quyết tại Đại Hội Đồng thường niên, Địa hạt<br />
Trung-Bắc Kỳ tách ra làm 2, thành Trung hạt và Bắc hạt. Như vậy, từ<br />
đây HTTLVN có 3 địa hạt (Nam kỳ đã là một địa hạt từ trước bao<br />
gồm cả vùng Bình Thuận).<br />
70 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
Đến cuối năm 1934, sự tăng trưởng về mặt tổ chức được ghi nhận<br />
với 38 chi hội tại Bắc Kỳ, 34 ở Trung Kỳ và 47 tại Nam Kỳ, tổng<br />
cộng đã có tới 119 chi hội.<br />
Các chi hội này đều được cổ súy cho việc mau chóng tiến tới Hội<br />
Thánh tự lập, nghĩa là tự cấp dưỡng mục sư và trả tất cả mọi chi phí<br />
điều hành để được quyền tự trị, được lưu mời mục sư quản nhiệm,<br />
được cử đại biểu đi dự Hội đồng với quyền biểu quyết.<br />
Nếu như vào năm 1928 mới chỉ có 10 chi hội tự lập (trong tổng số<br />
74) thì đến năm 1930 đã lên tới 20, năm 1943 đã có 40 chi hội tự lập.<br />
Tiếp tục củng cố về mặt tổ chức, điều lệ, hiến chương<br />
Liên tiếp trong các kỳ Đại Hội đồng thường niên 1930, 1931, 1932,<br />
1935 đã có những nội dung bàn thảo, biểu quyết, sửa đổi (nhuận<br />
chính) lại một số mục, tiết trong Hiến chương 1928. Về cơ bản, không<br />
có sửa đổi gì lớn về mặt nội dung. Những thay đổi này chủ yếu là sắp<br />
đặt và viết lại cho dễ hiểu, chính xác hơn đối với chức sắc và tín đồ<br />
người Việt. Những sự thay đổi liên hệ phần lớn tới chức vụ mục sư,<br />
các thể thức bầu cử, tư cách của Hội trưởng và Phó Hội trưởng, quyền<br />
hành và các thể thức của Ban Trị sự chung.<br />
Bản Điều lệ mới được thông qua năm 1936 (từ đây gọi là Điều lệ)<br />
là kết quả của những cải sửa kể trên. Văn bản này đã mang tính ổn<br />
định, chính xác hơn và được HTTLVN dùng cho tới những năm 1950.<br />
Một giai đoạn suy thoái<br />
Sau một khoảng thời gian lập được nhiều địa bàn truyền giáo, gia<br />
tăng số lượng chi hội, tín đồ, từ giữa thập niên 1930, Hội C.M.A cũng<br />
như HTTLVN rơi vào khủng hoảng và suy thoái. Sử gia Tin Lành gọi<br />
đây là thời kỳ suy thoái và tan lạc. Nguyên do của sự suy thoái và tan<br />
lạc này là do ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị- xã hội trên thế<br />
giới và tại Đông Dương.<br />
Đầu tiên là cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu vào những năm 1930 đã<br />
ảnh hưởng lớn đến nguồn tài chính hỗ trợ truyền giáo từ Hội C.M.A<br />
tại Mỹ. Các giáo sĩ tại Đông Dương đã phải cắt bớt chi phí, các<br />
chương trình truyền giáo, cung lương hỗ trợ cho đội ngũ mục sư,<br />
truyền đạo bản xứ (đa phần các chi hội vẫn chưa tự lập được và phải<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 71<br />
<br />
nhận trợ cấp từ Hội C.M.A), chi phí mua đất, xây dựng nhà thờ, chi<br />
phí đào tạo tại Trường Kinh Thánh… đều bị cắt giảm đến mức tối đa.<br />
Chiến tranh Thế giới lần thứ II nổ ra, năm 1943, quân đội Nhật đã<br />
bắt giam tất cả các giáo sĩ C.M.A đang hoạt động tại đây. HTTLVN<br />
bỗng dưng dù muốn hay không đều phải tự trị, tự lập không chỉ cấp<br />
chi hội mà cả Tổng Liên Hội.<br />
Chiến tranh và khủng hoảng kinh tế, nạn đói năm 1945 đã khiến hệ<br />
thống tổ chức của HTTLVN tại Miền Bắc và Miền Trung chịu ảnh<br />
hưởng nặng nề nhất. Số mục sư, truyền đạo tại Miền Bắc bị sút giảm<br />
nhiều do có đến 1/4 rời bỏ chức vụ, một số lớn xin thuyên chuyển đi<br />
nơi khác.<br />
Số chi hội tại Miền Bắc vào năm 1942 có 57 chi hội (trong đó chỉ<br />
có 4 chi hội tự lập) đến cuối năm này đã phải đóng cửa 11 chi hội.<br />
Vào thời điểm nạn đói xảy ra, hơn 80% số chi hội đã phải đóng cửa.<br />
Cách mạng tháng Tám và tiếp theo là cuộc kháng chiến chống thực<br />
dân Pháp trong 9 năm đã xáo trộn tổ chức và sinh hoạt của các tầng<br />
lớp dân cư, trong đó có cộng đồng Tin Lành. Hệ thống tổ chức của<br />
HTTLVN bị xáo trộn mạnh nhất tại Miền Bắc và Miền Trung. Đa<br />
phần nhà thờ, chi hội bị đóng cửa, chức sắc, tín đồ đi tản cư hoặc tan<br />
lạc. Hệ thống tổ chức của Tin Lành chỉ phục hồi phần nào tại các vùng<br />
tạm chiếm khi các giáo sĩ quay trở lại đây vào đầu những năm 1950.<br />
Tại Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ, tình hình khác hơn, các giáo sĩ đã<br />
quay trở lại và gia tăng hoạt động. Thời điểm những năm 1950 đến<br />
1953, 1954, nhiều chi hội mới được mở ra, nhiều nhà thờ được hỗ trợ<br />
tiền mua đất, xây dựng mới tại nhiều địa phương.<br />
Vào năm 1942, HTTLVN cũng thành lập Đoàn truyền giáo Tin<br />
Lành Việt Nam để hỗ trợ về nhân sự cho các giáo sĩ trong việc truyền<br />
giáo lên các vùng dân tộc thiểu số.<br />
Cũng cần nhấn mạnh rằng trước khi bước vào giai đoạn thối lui và<br />
tan lạc, bộ máy tổ chức của HTTLVN cũng đã chịu nhiều chấn động<br />
với sự ly khai của nguyên 2 Hội trưởng gia nhập giáo phái Cơ Đốc<br />
Phục Lâm, kéo theo sự đổ vỡ của nhiều chi hội tại Miền Trung và<br />
Miền Nam.<br />
72 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
Tuy nhiên, cũng trong thời điểm khó khăn này, giới chức Tin Lành<br />
đón nhận tin vui: Vào năm 1942, chính quyền thực dân Pháp rốt cuộc<br />
cũng đã công nhận tư cách pháp nhân tổ chức giáo hội của họ.<br />
Kết luận<br />
Năm 1927 đánh dấu mốc sự ra đời của tổ chức giáo hội Tin Lành<br />
người Việt đầu tiên: Hội Tin Lành Đông Pháp, tổ chức tiền thân của<br />
HTTLVN sau này.<br />
Với bản Hiến chương đầu tiên năm 1928, bằng một quy tắc phân<br />
quyền và bầu cử dân chủ theo ba cấp tổ chức, được áp dụng một cách<br />
rất nguyên tắc, không có trường hợp ngoại lệ, các giáo sĩ C.M.A đã<br />
xây dựng được một nền móng vững chắc và mang tính nền tảng, làm<br />
cơ sở cho sự phát triển của Hội Thánh bản xứ cho đến sau này.<br />
Đây là hình mẫu tổ chức của một giáo hội theo đường lối Calvin,<br />
với quy chế dân chủ và phân quyền hành pháp - lập pháp khá rõ lần<br />
đầu tiên được một tôn giáo áp dụng tại Việt Nam.<br />
Đặc điểm tổ chức giáo hội này còn chứa đựng trong nó những yếu tố<br />
đa giáo phái, vốn chỉ có từ một Hội Truyền giáo Liên hiệp như Hội<br />
C.M.A.<br />
HTTLVN suốt trong lịch sử của mình đã hình thành và phát triển<br />
trong một đường hướng thần học, tổ chức như vậy. Tuy nhiên, trong<br />
từng giai đoạn lịch sử và căn cứ vào tình hình biến động của tổ chức,<br />
giới chức Tin Lành đã linh hoạt vận dụng nguyên tắc, tiến hành cải<br />
sửa, tu chính chi tiết về tổ chức hội thánh để phục vụ cho sự phát triển<br />
của giáo hội./.<br />
<br />
CHÚ THÍCH:<br />
1 C.M.A: Viết tắt của từ The Christian and Missionary Alliance.<br />
2 Phạm Xuân Tín (1957), Tôn chỉ của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, Sài Gòn: 23.<br />
3 Dẫn theo: Lê Hoàng Phu (1974), Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (1911 -<br />
1965), Trung tâm Nghiên cứu Phúc Âm: 38. Có thể xem nguyên văn về điều lệ,<br />
cơ cấu tổ chức, các nguyên tắc hoạt động của tổ chức C.M.A trong: Manuanl of<br />
the Christian and Missionary Alliance, The Christian and Missonary Alliance, N.<br />
1957. (N.X.H)<br />
4 Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (1964), Các quyết nghị Đại Hội đồng Tổng Liên<br />
(1927-1964), Nha Trang: 1.<br />
Nguyễn Xuân Hùng. Hệ thống tổ chức… 73<br />
<br />
<br />
<br />
5 Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (1964), Các quyết nghị Đại Hội đồng Tổng Liên<br />
(1927-1964), Nha Trang: 1. Nguyên văn: Về sự sửa các quy tắc của Hội Thánh<br />
Việt Nam thì Ban Ủy viên Hội Truyền giáo và Ban Trị sự Việt Nam sẽ họp lại mà<br />
sửa đổi theo lẽ thật.<br />
6 I. R. Stebbins (2004), “41 năm hầu việc Chúa với Hội Thánh Tin Lành Việt Nam<br />
1920-1961 (Hồi ký)”, Spiritual Light Magazine: 150-151.<br />
7 Lê Hoàng Phu (1974), Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam,… Sđd: 62.<br />
8 Hiến chương của Hội Tin Lành Đông Pháp, Nhà in Tin Lành, Hà Nội, 1932: 5.<br />
9 Hiến chương của Hội Tin Lành Đông Pháp, Sđd: 2.<br />
10 Hiến chương của Hội Tin Lành Đông Pháp, Sđd: 3.<br />
11 Hiến chương của Hội Tin Lành Đông Pháp, Sđd: 3.<br />
12 Hiến chương của Hội Tin Lành Đông Pháp, Sđd: 4.<br />
13 J. D. Olsen (1958), Thần đạo học, Nhà in Tin Lành, Sài Gòn: 791.<br />
14 J. D. Olsen (1958), Thần đạo học, Sđd: 791-792.<br />
15 J. D. Olsen (1958), Thần đạo học, Sđd: 799.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Hội Tin Lành Đông Pháp (1939), Bản thảo Điều lệ của Hội Thánh Tin Lành<br />
Đông Pháp, Nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn.<br />
2. Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (1958), Điều lệ của Hội Thánh Tin Lành Việt<br />
Nam, Nhà in Tin Lành, Sài Gòn.<br />
3. Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Miền Bắc (1963), Điều lệ của Hội Thánh Tin<br />
Lành Việt Nam (Miền Bắc), Hà Nội.<br />
4. Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (1964), Các quyết nghị Hội Đồng Tổng Liên<br />
1927-1964, Bản in roneo, Lưu hành nội bộ, Nha Trang.<br />
5. Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Miền Bắc (2005), Điều lệ Hội Thánh Tin Lành<br />
Việt Nam (Miền Bắc), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.<br />
6. Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Miền Nam (2002), Hiến Chương, Nxb. Tôn giáo,<br />
Hà Nội.<br />
7. Nguyễn Xuân Hùng (2001), “Về nguồn gốc và sự xuất hiện tên gọi đạo Tin Lành<br />
tại Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, 3 (9): 47-55.<br />
8. Nguyễn Xuân Hùng (2015), “Về Hội Truyền giáo Tin Lành C.M.A”, Nghiên cứu<br />
Tôn giáo, 10(148): 89-110.<br />
9. Nguyễn Xuân Hùng (2015), “Lịch sử mối quan hệ giữa Hội Truyền giáo Tin<br />
Lành C.M.A và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, 11(149):<br />
91-107.<br />
10. Olsen J. D. (1958), Thần đạo học, Nhà in Tin Lành, Sài Gòn.<br />
11. Lê Hoàng Phu (1974), Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 1911-1965, Trung<br />
Tâm nghiên cứu Phúc Âm, Sài Gòn.<br />
12. Lê Văn Thái (1971), Bốn mươi sáu năm trong chức vụ - hồi ký, Cơ quan xuất<br />
bản Tin Lành, Sài Gòn.<br />
13. Phạm Xuân Tín (1957), Tìm hiểu Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, Nhà in Tin<br />
Lành, Sài Gòn.<br />
74 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2017<br />
<br />
<br />
<br />
14. Phạm Xuân Tín (1957), Tôn chỉ của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, Nhà in Tin<br />
Lành, Sài Gòn.<br />
15. Phạm Xuân Tín (1962), “Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam”, Truyền giáo<br />
(số đặc biệt), Nhà in Tin Lành, Sài Gòn.<br />
<br />
Abstract<br />
<br />
THE ORGANIZATIONAL STRUCTURE OF THE<br />
EVANGELICAL CHURCH OF VIETNAM IN THE<br />
EARLY PERIOD (1927-1954)<br />
The East French Protestant Church - the precursor of the<br />
Evangelical Church of Vietnam - was formed in 1927 by the<br />
missionaries of the Christian and Missionary Alliance (CMA). The<br />
organizational structure of a Protestant church was established by the<br />
Charter (1928) for the first time. This church has gradually became the<br />
largest church of the Protestant community in Vietnam at present. The<br />
author explores and generalizes characteristics and forms of<br />
Protestantism’s church organization as well as the organizational<br />
characteristics of the Evangelical Church of Vietnam in the early<br />
period (1927- 1954). Based on this research, this paper clarifies the<br />
organizational structure and the process of amending the Charter as<br />
well as operation of the Protestant church.<br />
Keywords: Organization, dignitaries, Protestantism, Vietnam.<br />