HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM<br />
1. Khái niệm kinh tế biển<br />
Theo chúng tôi, khi xem xét tới kinh tế biển, cũng cần đề cập đến kinh tế<br />
vùng ven biển ở một mức độ cần thiết. Để có một khái niệm mang tính quy<br />
ước khi phân tích, chúng tôi quan niệm Kinh tế biển bao gồm:<br />
1) Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: 1. Kinh tế<br />
Hàng hải (Vận tải biển và Dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi<br />
trồng hải sản); 3. Khai thác Dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm<br />
muối; 6. Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; và 7. Kinh tế đảo. Có thể coi<br />
đây là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa hẹp.<br />
2) Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không<br />
phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố<br />
biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven<br />
biển, bao gồm: 1. Đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp<br />
chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải); 2. Công nghiệp chế biến dầu, khí; 3.<br />
Công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; 4. Cung cấp dịch vụ biển; 5. Thông tin<br />
liên lạc (biển); 6. Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực<br />
phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường<br />
biển. Có thể coi cách hiểu kinh tế biển bao gồm cả các hoạt động kinh tế<br />
diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác<br />
biển ở dải đất liền ven biển là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa rộng.<br />
Trong bài viết này, những số liệu sơ bộ tính toán dựa trên khái niệm kinh tế<br />
biển theo nghĩa rộng. Cách quan niệm về kinh tế biển như vậy về cơ bản<br />
cũng thống nhất với thông lệ quốc tế. Ví dụ, trong thống kê hàng năm về<br />
kinh tế biển của Trung Quốc, tập hợp trong khái niệm về kinh tế biển bao<br />
gồm: hải sản, khai thác dầu và khí tự nhiên ngoài khơi, các bãi biển, công<br />
nghiệp muối, đóng tàu biển, viễn thông và vận tải biển, du lịch biển, giáo<br />
dục và khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, dịch vụ biển…<br />
Khác với kinh tế biển, Kinh tế vùng ven biển là toàn bộ các hoạt động kinh<br />
tế ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven<br />
biển hoặc cũng có thể là các tỉnh ven biển - có biên giới đất liền tiếp giáp với<br />
biển), bao gồm cả các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch<br />
vụ trên phạm vi địa bàn lãnh thổ này.<br />
2. Hiện trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam<br />
Với cách quan niệm nêu trên, ước tính quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng<br />
ven biển Việt Nam hiện nay (thời kỳ 2000-2005) chiếm khoảng 47-48%<br />
<br />
GDP cả nước, trong đó GDP của riêng kinh tế biển chiếm khoảng 22% tổng<br />
GDP cả nước.<br />
Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của ngành kinh tế diễn ra trên biển<br />
chiếm tới 98%, trong đó khai thác dầu khí chiếm 64%; hải sản 14%; hàng<br />
hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển) hơn 11%; du lịch biển hơn 9% (số<br />
liệu năm 2005). Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển<br />
như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thuỷ, hải sản,<br />
thông tin liên lạc, v.v... bước đầu phát triển, nhưng hiện tại quy mô còn rất<br />
nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nước).<br />
Song, dự báo trong tương lai, cùng với việc đẩy nhanh tiến trình công<br />
nghiệp hoá, sẽ có mức gia tăng nhanh hơn rất nhiều so với hiện nay.<br />
Những năm gần đây, kinh tế trên một số đảo đã có bước phát triển nhờ chính<br />
sách di dân và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo (hệ thống giao<br />
thông, mạng lưới điện, cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá...)<br />
Tuy vậy, có thể nhận định một cách khái quát rằng, sự phát triển của kinh tế<br />
biển còn quá nhỏ bé và nhiều yếu kém. Quy mô kinh tế biển Việt Nam năm<br />
2005 đạt khoảng hơn 184 nghìn tỷ đồng (tương đương với khoảng 12 tỷ<br />
USD); trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới năm 2001 ước 1.300 tỷ<br />
USD, Nhật Bản năm 2003 là 468,5 tỷ USD, Hàn Quốc là 33,4 tỷ USD….<br />
Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập, tức phải cạnh tranh quốc tế để tồn tại và<br />
phát triển, so với sự phát triển kinh tế biển của thế giới đương đại, thì thấy<br />
rất rõ rằng, cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém,<br />
lạc hậu. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún. Năm 2005, trong tổng số<br />
126 cảng biển ở các vùng, miền thì chỉ có 4 cảng có công suất trên 10 triệu<br />
tấn/năm và 14 cảng có công suất trên 1 triệu tấn/năm, còn lại đều là cảng<br />
quy mô nhỏ, khả năng neo đậu được tàu 3.000 tấn trở xuống. Thiết bị nhìn<br />
chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng<br />
thông qua cảng trên đầu người rất thấp so với các nước trong khu vực (chỉ<br />
bằng 1/140 của Singapore, 1/7 của Malaysia và 1/5 của Thái Lan). Năng suất<br />
xếp dỡ bình quân chỉ đạt mức trung bình thấp so với các nước trong khu vực<br />
(khoảng 2.500-3.000tấn/mét/năm). Đến nay, Việt Nam vẫn chưa có đường<br />
bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu<br />
công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn. Các sân bay<br />
ven biển và trên một số đảo nhỏ bé. Các thành phố, thị trấn, khu kinh tế, khu<br />
công nghiệp ven biển còn nhỏ bé, đang trong thời kỳ bắt đầu xây dựng. Hệ<br />
thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho<br />
kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thời thiết, thiên tai, các<br />
trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... còn nhỏ bé, trang bị thô sơ.<br />
<br />
Đội tàu biển mới chỉ có hơn 1.000 chiếc, trong đó tàu container có 20 chiếc.<br />
Tuổi bình quân của đội tàu viễn dương lớn (15-17 tuổi), chi phí quản lý khai<br />
thác cao, trong khi đó các doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn về tài<br />
chính, khó vay vốn đẩy mạnh đổi mới đội tàu và thiết bị trên tàu…<br />
Du lịch biển là một tiềm năng kinh doanh lớn. Vùng biển và ven biển tập<br />
trung tới 3/4 khu du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề. Tuy<br />
nhiên, ngành du lịch biển vẫn chưa có những sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có<br />
tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, cũng chưa có khu du lịch biển<br />
tổng hợp đạt quy mô và trình độ quốc tế.<br />
Khai thác hải sản vốn là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của biển và hiện đang tạo<br />
việc làm cho hơn 5 vạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch<br />
vụ nghề cá. Kể từ khi đổi mới nền kinh tế, ngành hải sản đã trở thành một<br />
trong những ngành có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và phát triển đồng<br />
đều cả đánh bắt, nuôi trồng và chế biến. Riêng trong lĩnh vực đánh bắt khơi<br />
xa, từ 1997 đến nay, Nhà nước đã đầu tư 1.300 tỷ đồng đóng 1.292 chiếc tàu<br />
đánh bắt xa bờ trong Chương trình đánh bắt cá xa bờ. Mặc dù chưa có một<br />
đánh giá tổng kết chính thức và công bố rộng rãi về hiệu quả của Chương<br />
trình này, nhưng riêng về khía cạnh kinh tế tài chính, với số dư nợ đóng tàu<br />
khai thác xa bờ là gần 1.400 tỷ đồng, tổng nợ quá hạn là 280 tỷ đồng, thì có<br />
thể nói, Chương trình đánh bắt cá xa bờ theo cách làm của thời gian qua<br />
chưa đem lại kết quả như mong đợi.<br />
Đối với ngành dầu khí, với mức khai thác năm 2005 là 18,8 triệu tấn dầu thô<br />
và 6,89 tỷ m3 khí, sản phẩm dầu thô hầu như xuất khẩu toàn bộ, kim ngạch<br />
xuất khẩu đạt 7,44 tỷ USD, là ngành có đóng góp lớn nhất cho GDP kinh tế<br />
biển hiện nay. Sự xuất hiện và phát triển của ngành này là hiện thân của hợp<br />
tác quốc tế trong phát triển, đóng góp quan trọng cho lĩnh vực an ninh năng<br />
lượng và thu ngân sách Nhà nước. Tuy vậy, hạn chế lớn nhất của ngành là<br />
đến nay, vẫn còn dừng ở cấp độ của một ngành khai mỏ để bán sản phẩm thô<br />
nhờ vào công nghệ khai mỏ của nước ngoài. Doanh thu từ dầu mỏ của phía<br />
Việt Nam chủ yếu là của "trời cho".<br />
Đối với các ngành kinh tế liên quan trực tiếp đến biển như chế biến sản<br />
phẩm dầu, khí; chế biến thuỷ hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất<br />
muối biển công nghiệp, các dịch vụ kinh tế biển và ven biển (như thông tin,<br />
tìm kiếm cứu nạn hàng hải, dịch vụ viễn thông công cộng biển trong nước và<br />
quốc tế, nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, xuất khẩu thuyền viên,<br />
v.v...), hiện chủ yếu mới ở mức đang bắt đầu xây dựng, hình thành và quy<br />
mô còn nhỏ bé.<br />
<br />
Đời sống của dân cư trên đảo và nhiều vùng ven biển, của các cán bộ chiến<br />
sĩ lực lượng vũ trang, của dân cư làm nghề biển (có lẽ chỉ trừ ngành dầu khí)<br />
vẫn còn không ít khó khăn và chịu nhiều rủi ro, mức độ an toàn trong sinh<br />
kế còn thấp.<br />
3. Những nguyên nhân chủ yếu<br />
Trong rất nhiều nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp, chủ quan và khách quan,<br />
chúng tôi chỉ xin nêu vắn tắt một số nguyên nhân mà chúng tôi cho là có ý<br />
nghĩa quyết định nhất.<br />
Thứ nhất là, sự nhận thức về vị trí, vai trò của biển đối với chính cuộc sống<br />
và sự phát triển chưa đúng tầm. Trong lịch sử, so với các nhiều quốc gia có<br />
biển khác, Việt Nam tuy là quốc gia biển, nhưng người Việt Nam lại chưa<br />
tạo dựng được cho mình một truyền thống kinh tế và văn hoá biển đặc sắc,<br />
có đóng góp cho thế giới.<br />
Thứ hai là, tuy Đảng và Nhà nước đã có quan tâm, chỉ đạo về phát triển<br />
kinh tế biển, nhưng mức quan tâm chừng ấy cho thấy là chưa đủ. Cho đến<br />
nay, nước ta chưa có một cơ quan Nhà nước để quản lý tổng hợp, thống nhất<br />
về biển. ở cấp Trung ương tuy đã có Ban chỉ đạo Biển Đông - Hải đảo<br />
(thành lập năm 1993), nhưng rất hạn chế về công tác quản lý Nhà nước.<br />
Nhiều Bộ, Ngành cùng tham gia quản lý biển nên có tình trạng chồng chéo,<br />
trong khi nhiều khâu lại bị bỏ trống. ở các địa phương chưa có bộ máy tổ<br />
chức quản lý biển thống nhất nên rất lúng túng và có tình trạng buông lỏng<br />
hoặc rất yếu trong lĩnh vực quản lý biển.<br />
Thứ ba là, nước ta nghèo và trước đây theo mô hình kinh tế KHH tập trung<br />
nên không đủ vốn đầu tư phát triển kinh tế biển, trước hết là đầu tư cho cơ<br />
sở hạ tầng.<br />
Thứ tư là, khu vực Biển Đông hiện còn có sự tranh chấp, nên việc hợp tác<br />
quốc tế để phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp một số khó khăn.<br />
Tổng hợp từ TC Kinh tế và Dự báo số 7/2007<br />
<br />