intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 2

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

82
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giới thiệu tổng quát WTO giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các Thành viên trên cơ sở những quy tắc và thủ tục quy định tại “Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp” (Dispute Settlement Understanding - gọi tắt là DSU) được các Thành viên thông qua trong Vòng đàm phán Uruguay. DSU được ghi nhận tại Phụ lục II của WTO trong đó quy định các nguyên tắc, trình tự giải quyết cũng như các biện pháp bảo đảm thi hành các khuyến nghị và phán quyết của cơ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 2

  1. Chương VIII GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KHUÔN KHỔ WTO TS. Nông Quốc Bình Khoa Pháp luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội 8.1. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO 8.1.1. Giới thiệu tổng quát WTO giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các Thành viên trên cơ sở những quy tắc và thủ tục quy định tại “Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp” (Dispute Settlement Understanding - gọi tắt là DSU) được các Thành viên thông qua trong Vòng đàm phán Uruguay. DSU được ghi nhận tại Phụ lục II của WTO trong đó quy định các nguyên tắc, trình tự giải quyết cũng như các biện pháp bảo đảm thi hành các khuyến nghị và phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp. Theo quy định của DSU thì các Thành viên thỏa thuận tuân theo những nguyên tắc giải quyết tranh chấp được áp dụng theo Điều XXII và Điều XIII của GATT 1947 cũng như những thủ tục được tiếp tục sửa đổi bổ sung (khoản 1 Điều 3 DSU). Nếu so sánh với phương thức giải quyết tranh chấp của GATT 1947 với phương thức giải quyết tranh chấp của WTO thì cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có tính ưu việt hơn. Theo quy định của GATT 1947 về cơ chế giải quyết tranh chấp thì các bên phải tuân theo nguyên tắc đồng thuận (consensus), điều này có nghĩa là tranh chấp chỉ được giải quyết nếu các bên nhất trí. Cơ chế vận hành mang tính chất hoà giải hơn là tranh tụng này đã dẫn đến tình trạng chậm trễ hoặc bế tắc trong quá trình giải quyết tranh chấp. Bởi vì dựa trên nguyên tắc đồng thuận của GATT, trong nhiều trường hợp, các bên có điều kiện để ngăn cản quá trình giải quyết tranh chấp. 263
  2. Khác với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vận hành có hiệu quả hơn với mục đích tạo ra sự an toàn và khả năng dự đoán trước cho hệ thống thương mại đa phương, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các bên tranh chấp theo các hiệp định có liên quan. Mục đích này của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO được ghi nhận tại khoản 2 Điều 3 DSU. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO đóng vai trò quan trọng sau đây: Thứ nhất, giải quyết mâu thuẫn giữa bên tranh chấp. Trong thương mại quốc tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà một trong các bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình, điều này dẫn tới tranh chấp giữa các bên. Trong trường hợp như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ được vận hành để giải quyết mâu thuẫn giữa các bên. Thứ hai, tăng giá trị thực tiễn của việc thực thi các hiệp định. Các hiệp định thực chất là các thoả thuận được các bên cam kết. Vì vậy, một Hiệp định không được thực hiện có nghĩa là cam kết đã không được thực hiện và hậu quả của nó làm cho các thoả thuận trở nên vô nghĩa. Cơ chế giải quyết tranh chấp được áp dụng buộc bên không thực hiện nghĩa vụ của mình phải có trách nhiệm đối với thiệt hại do mình gây ra đối với bên bị hại. Nói cách khác, giá trị thực tiễn của việc áp dụng các thoả thuận của các bên sẽ được cơ chế giải quyết tranh chấp bảo đảm. Thứ ba, làm dịu những bất bình đẳng giữa người yếu và kẻ mạnh trên cơ sở quy định pháp luật. Trong nhiều trường hợp, việc tranh chấp diễn ra giữa những Thành viên có trình độ phát triển kinh tế không giống nhau. Do đó thường diễn ra sự không bình đẳng giữa các nước phát triển, các nước đang phát triển và những nước kém phát triển. Trên thực tế những nước có trình độ kinh tế cao luôn có ưu thế hơn so với những nước có nền kinh tế thấp. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp với những luật lệ đã quy định trước có tính đến khả năng kinh tế của các nước đã tạo nên môi trường pháp lý công bằng và thoả đáng giữa các nước không có trình độ phát triển kinh tế không giống nhau. 264
  3. Thứ tư, là công cụ bảo đảm sự tin cậy về mặt pháp lý đối với các cam kết của Chính phủ. Có thể nói, việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO là một đóng góp có ý nghĩa to lớn. Trong đó tăng cường tính pháp lý đối với việc thực thi của các cam kết của các Chính phủ các Thành viên. Nói cách khác, nếu không có cơ chế giải quyết tranh chấp thì tính thực thi các cam kết của Chính phủ sẽ không bảo đảm. Do đó sự tạo ra sự bất ổn định đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên đã được ghi nhận trong các hiệp định. 8.1.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp Trong quá trình vận hành, ngoài việc phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của WTO, quá trình giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ của WTO còn phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: - Công bằng: Kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp là phán quyết và khuyến nghị của cơ quan giải quyết tranh chấp. Theo quy định của DSU, những phán quyết và khuyến nghị không được làm tăng hoặc giảm các quyền và nghĩa vụ của các bên đã được quy định trong các hiệp định đã liên quan (khoản 2 Điều 3 DSU). Đồng thời các quyết định về giải quyết tranh chấp không được triệt tiêu hay làm giảm những lợi ích mà bất cứ Thành viên nào có được các quy định của các hiệp định có liên quan (khoản 5 Điều 3 DSU). - Nhanh chóng: Vấn đề thiết yếu đối với việc thực hiện có hiệu quả chức năng của WTO và duy trì sự cân bằng thích hợp giữa quyền và nghĩa vụ của các Thành viên chính là việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp (khoản 3 Điều 3 DSU). Vì vậy một khi lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp của Thành viên theo quy định của Hiệp định liên quan bị vi phạm thì cần phải được bảo vệ một cách nhanh chóng. - Hiệu quả: Để bảo vệ được quyền lợi của các bên tranh chấp, các Thành viên thể hiện quyết tâm của mình nhằm tăng cường tính hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp. Quan điểm này được khẳng định trong khoản 1 Điều 4 của DSU, theo đó tính hiệu quả được quy định trong giai đoạn tham vấn, một thủ tục đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh chấp. 265
  4. - Bí mật: Nguyên tắc bí mật trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được thể hiện trong việc tiến hành tham vấn và tổ chức các cuộc họp của Ban hội thẩm cũng như thủ tục tố tụng của quá trình xét xử phúc thẩm. Theo đó quá trình tham vấn phải được giữ bí mật (khoản 6 Điều 4 DSU), các cuộc họp của Ban hội thẩm phải được tiến hành không công khai theo đó các bên tranh chấp và các bên quan tâm chỉ có thể được tham dự khi được Ban hội thẩm mời (Điểm 2, Phụ lục 3 của DSU về thủ tục làm việc) và quá trình tố tụng của Cơ quan phúc thẩm phải được giữ kín (khoản 10 Điều 17 DSU). - Đồng thuận phủ quyết (đồng thuận nghịch): Nguyên tắc này được thể hiện tại các khoản 1 Điều 6; khoản 4 Điều 16 và khoản 14 Điều 17 của DSU. Theo các quy định này thì việc ra quyết định của DSB, thành lập Ban hội thẩm, thông qua báo cáo của Ban hội thẩm, thông qua báo cáo của Cơ quan phúc thẩm sẽ tuân theo nguyên tắc đồng thuận phủ quyết. Với nguyên tắc đồng thuận phủ quyết thì các vấn đề nêu trên sẽ không được thông qua nếu tất cả các Thành viên của DSB đều nhất trí không thông qua. - Được các bên chấp nhận: Trước khi khởi kiện, bên nguyên đơn cần phải tự xem xét đánh giá việc kiếu kiện của mình có kết quả hay không. Bởi vì “một giải pháp mà các bên tranh chấp có thể chấp nhận và phù hợp với các hiệp định có liên quan sẽ được ưu tiên áp dụng” (khoản 7 Điều 3 DSU). - Đối xử ưu đãi với các Thành viên là các nước đang phát triển và kém phát triển: Trong khuôn khổ các hiệp định của WTO, các nước đang phát triển và kém phát triển luôn được các ưu đãi hơn so với các nước phát triển. Đối với các trường hợp giải quyết tranh chấp thì tinh thần này cũng được phản ánh trong các quy định về giải quyết tranh chấp. Cụ thể là trong khi tham vấn, các Thành viên khác phải đặc biệt chú ý đến quyền lợi của các nước đang phát triển (khoản 10 Điều 4 DSU). Khi một hoặc nhiều bên là những nước đang phát triển thì báo cáo của Ban hội thẩm phải chỉ ra một cách rõ ràng hình thức trong đó có tính đến các điều khoản có liên quan đến chế độ đãi ngộ khác biệt ưu đãi hơn đối với Thành viên là các nước đang phát triển (khoản 11 Điều 12 DSU) 266
  5. 8.1.3. Các bước trong giải quyết một vụ tranh chấp Thông thường, quy trình giải quyết một vụ tranh chấp trong WTO trải qua bốn giai đoạn: - Tham vấn; - Hội thẩm; - Kháng cáo và phúc thẩm; - Thi hành phán quyết. Tuy nhiên, tuỳ trường hợp tranh chấp cụ thể mà vụ tranh chấp có thể được giải quyết ngay từ giai đoạn tham vấn hoặc phải đưa tới các giai đoạn tiếp theo của quá trình giải quyết tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng hay chậm trễ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nội dung của tranh chấp, tính chất phức tạp của tranh chấp, thiện chí của các bên liên quan… Nội dung chi tiết của các giai đoạn giải quyết tranh chấp này sẽ được đề cập tại mục 8.2.2. Hộp 8.1. Vụ bột mỳ Vụ này bắt nguồn từ một khiếu nại năm 1982 của Hoa Kỳ cho rằng trợ cấp xuất khẩu bột mỳ của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) không áp dụng đúng với khoản 1 Điều 10 của Bộ luật Trợ cấp, một trong các hiệp định Vòng Tokyo. Hoa Kỳ cũng cho rằng trợ cấp của EEC làm cho giá thấp hơn giá của những nhà cung cấp khác vào cùng một thị trường, trái với khoản 3 Điều 10, chúng làm mất giá trị và phương hại đến lợi ích của Hoa Kỳ và gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Sự thật là việc hoàn thuế xuất khẩu của EEC đối với bột mỳ là một phần trong cơ cấu thị trường chung của nội bộ khối này. Mức giá ngưỡng cho bột mỳ được đặt ra mỗi năm được coi là tiêu chuẩn giá nội bộ. Chế độ thương mại của EEC về bột mỳ bao gồm cả cấp phép nhập khẩu và xuất khẩu cũng như chế độ đánh thuế nhập khẩu và hoàn thuế xuất khẩu theo những điều kiện nhất định bằng một phương pháp nhất định. Một mức thuế bằng chênh lệch giữa giá nhập khẩu và giá ngưỡng được áp dụng cho bột mỹ nhập khẩu. Hoàn thuế xuất khẩu có thể được dùng để lấp khoảng chênh lệch giữa giá bột mỳ ở EEC và giá tại các thị trường thứ ba. Tiền chi cho hoàn thuế xuất khẩu bột mỳ được lấy từ cùng một quỹ để hoàn thuế lúa mỳ ở dạng tự nhiên. Phần đầu của vụ này liên quan đến nghĩa của “thị phần nhiều hơn mức hợp lý”. Một vấn đề quan trọng lúc đó là việc chọn lựa một thời kỳ đại diện để đánh giá một Bên ký kết có được một thị phần nhiều hơn mức hợp lý hay không. Hoa Kỳ đã 267
  6. đưa ra một bản thống kê chi tiết để chứng tỏ lập trường về mặt này. Họ đã chọn ba năm trước khi có Chính sách Nông nghiệp chung 1962 vì theo họ chỉ có điều này mới đem lại một bức tranh đích thực. Theo đó, EEC đã tăng thị phần tư 29% lên 75% và thị phần của những nhà xuất khẩu chính khác bị giảm sút. Sự thay đổi này là do trợ cấp xuất khẩu làm cho giá rẻ hơn. Kết luận của Ban hội thẩm là: (a) Hoàn thuế xuất khẩu cho bột mỳ của EEC là một trợ cấp theo Điều XVI (Trợ cấp) của GATT; (b) Thị phần bột mỳ của EEC trên thế giới đã tăng đáng kể và thị phần của Hoa Kỳ và các nước khác giảm đáng kể; (c) Sau khi xem xét nhiều yếu tố, việc quyết định có phải điều này gây ra “thị phần nhiều hơn mức hợp lý” hay không là không thể được; (d) Sự phân chia lại thị trường theo điểm a khoản 2 Điều 10 của Bộ luật Trợ cấp, theo đó cần phải tính đến tác động của trợ cấp xuất khẩu, là không rõ ràng; (e) Không đủ bằng chứng về việc giá bị hạ xuống; (f) Hoàn thuế xuất khẩu của EEC gây ra rối loạn không đáng kể cho lợi ích thương mại thông thường của Hoa Kỳ; và (g) EEC phải cố gắng hạn chế sử dụng trợ cấp trong xuất khẩu bột mỳ. Khi nhìn vào chính sách thương mại và kinh tế sau này, Ban hội thẩm cũng thể hiện mối quan tâm về tính hiệu quả của các điều khoản pháp lý về trợ cấp xuất khẩu và các khía cạnh thương mại khác đối với bột mỳ. Ban này thấy một điều bất thường rằng EEC vốn không thể xuất khẩu một lượng lớn bột mỳ mà không có trợ cấp lại trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới. Ban hội thẩm đề nghị cần có một bản ghi nhớ rõ ràng hơn về khái niệm “thị phần nhiều hơn mức hợp lý” để khái niệm này mang tính hợp lý hơn. Ban này cũng đặt ra câu hỏi những bản ghi nhớ quốc tế về bán hàng theo các điều khoản phi thương mại có bổ sung đầy đủ cho các vấn đề về trợ cấp xuất khẩu hay không. (Nguồn: Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế, MUTRAP II, Hà Nội 2005, tr. 238.) 8.2. HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 8..2.1. Các cơ quan liên quan tới quá trình giải quyết tranh chấp của WTO Trong thủ tục giải quyết tranh chấp theo DSU, các cơ quan có liên quan bao gồm: Cơ quan Giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Body – DSB), Tổng giám đốc và Ban thư ký WTO, Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm, trọng tài, các chuyên gia và một số tổ chức chuyên môn. 268
  7. Trong đó, DSB mang tính chất của một tổ chức chính trị và Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm, trọng tài là các tổ chức độc lập bán tư pháp (gần giống như toà án)66. - Cơ quan Giải quyết tranh chấp (DSB) Cơ quan Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO không phải là một cơ quan độc lập nằm ngoài cơ cấu tổ chức chung của WTO mà thực chất cơ quan này chính là Đại Hội đồng của WTO bởi vì khoản 3 Điều IV của Hiệp định thành lập WTO quy định: “Khi cần thiết Đại Hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhận phần trách nhiệm của Cơ quan Giải quyết tranh chấp được quy định tại Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp”. + Thành phần của DSB: Với nội dung quy định tại khoản 3, Điều IV của Hiệp định thành lập WTO thì Đại Hội đồng WTO thực hiện trách nhiệm của mình theo DSU thông qua DSB. DSB bao gồm đại diện của tất cả các Thành viên WTO. Những đại diện này tham gia DSB với tư cách là công chức nhà nước, nhận chỉ đạo từ thủ đô về lập trường và quan điểm đưa ra tại DSB, vì thế có thể coi DSB là một cơ quan chính trị 67. + Chức năng của DSB: DSB chịu trách nhiệm đảm bảo thực hiện và giám sát thi hành DSU, nhằm duy trì cơ chế giải quyết tranh chấp thống nhất và hiệu quả; DSB giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các Thành viên theo quy định của DSU và đưa ra quyết định cuối cùng. DSB không trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình tố tụng giải quyết tranh chấp, mà các công việc này DSB giao cho Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm thực hiện; DSB sẽ thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm. Các báo cáo do DSB thông qua được coi là phán quyết của DSB về việc giải quyết tranh chấp. 66 Sổ tay về Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005, tr. 53. Sách đã dẫn, tr. 54. 67 269
  8. + Thẩm quyền của DSB: * Thành lập Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm; * Thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm; * Đảm bảo và giám sát việc thực thi các phán quyết và khuyến nghị, cho phép “trả đũa” khi Thành viên không tuân thủ phán quyết (Khoản 1 Điều 2 DSU). + Hoạt động của DSB: DSB họp khi cần thiết, nhằm tuân thủ thời hạn quy định tại khoản 3 Điều 2 DSU. Thông thường, DSB có một cuộc họp thường kỳ mỗi tháng. Khi một Thành viên đề nghị họp, Tổng giám đốc WTO sẽ tổ chức thêm các cuộc họp đặc biệt. Nhân viên Ban thư ký WTO hỗ trợ về mặt hành chính cho DSB (khoản 1 Điều 27 DSU). Việc ra quyết định trong DSB cũng tuân thủ các nguyên tắc chung về giải quyết tranh chấp nêu trên. Quy định này được thể hiện tại các khoản 1 Điều 2, khoản 4 Điều 2, khoản 1 Điều 6, khoản 4 Điều 16, khoản 14 Điều 17, Khoản 6 Điều 22 của DSU. Nội dung của các điều khoản trên đề cập tới các nguyên tắc đồng thuận, đồng thuận nghịch, được các bên chấp nhận… - Tổng giám đốc WTO và Ban thư ký WTO Tổng giám đốc WTO có thể tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp trong các giai đoạn khác nhau. Tổng giám đốc WTO trên cương vị công tác chính thức của mình có thể đưa ra sáng kiến làm người môi giới, người hoà giải hoặc trung gian, nhằm giúp các Thành viên giải quyết tranh chấp (khoản 6 Điều 5 DSU). Khi thủ tục giải quyết tranh chấp liên quan tới Thành viên kém phát triển thì theo đề nghị của Thành viên này, Tổng giám đốc sẽ làm người môi giới, người hoà giải hoặc trung gian để giúp các bên giải quyết tranh chấp trước khi có đề nghị thành lập Ban hội thẩm (khoản 2 Điều 24 DSU). Nếu trong vòng 20 ngày sau ngày thành lập Ban hội thẩm mà không có sự nhất trí về Thành viên của Ban hội thẩm, Tổng giám đốc sẽ tham vấn với Chủ tịch DSB và Chủ tịch của các Hội đồng và Ủy ban có liên quan cũng như tham vấn với các 270
  9. bên tranh chấp để quyết định thành phần Ban hội thẩm bằng việc bổ nhiệm các hội thẩm từ những người mà Tổng giám đốc cho là thích hợp nhất (khoản 7 Điều 8 DSU). Tổng giám đốc chỉ định trọng tài viên để xác định thời hạn thực hiện hợp lý nếu các bên không thống nhất về thời hạn thực hiện và về trọng tài viên. Tổng giám đốc chỉ định trọng tài viên để xem xét lại việc hoãn thực hiện các nghĩa vụ trong trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 22 DSU về bồi thường và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ. Ban thư ký WTO cũng tham gia vào một số giai đoạn trong quy trình giải quyết tranh chấp. Nhân viên Ban thư ký WTO (những người báo cáo lên Tổng giám đốc) giúp đỡ các Thành viên trong việc giải quyết tranh chấp khi họ yêu cầu (khoản 2 Điều 27 DSU) và tiến hành các khoá đào tạo đặc biệt (khoản 3 Điều 27 DSU). Trong trường hợp việc giải quyết tranh chấp có sự liên quan của Thành viên đang phát triển, Ban thư ký tư vấn thêm về mặt pháp lý và hỗ trợ cho các Thành viên đang phát triển này trong các vấn đề về giải quyết tranh chấp một cách khách quan (khoản 2 Điều 27 DSU). Bên cạnh đó, Ban thư ký giúp đỡ các Thành viên đang tranh chấp bằng việc đề cử hội thẩm viên tiềm năng để giải quyết tranh chấp (khoản 6 Điều 8 DSU), hỗ trợ các Ban hội thẩm (khoản 1 Điều 27 DSU) và hỗ trợ về mặt hành chính cho DSB. - Ban hội thẩm Về việc thành lập Ban hội thẩm: Theo DSU, khi có yêu cầu của bên nguyên đơn thì Ban hội thẩm sẽ được thành lập chậm nhất là vào cuộc họp của DSB tiếp theo cuộc họp mà tại đó yêu cầu này lần đầu tiên được đưa ra như một mục của chương trình nghị sự DSB, trừ khi tại cuộc họp đó DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thành lập Ban hội thẩm. Thông thường, khi bên nguyên đơn yêu cầu thì một cuộc họp DSB sẽ được tổ chức trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, với điều kiện là phải thông báo cuộc họp trước 10 ngày (khoản 1 Điều 6 DSU). Đối với tranh chấp có nhiều nguyên đơn thì cũng chỉ có một Ban hội thẩm được thành lập để xem xét những đơn kiện có tính đến quyền của tất cả các Thành viên có liên quan (khoản 1 Điều 9 DSU). Nếu có hai hoặc nhiều Ban hội thẩm được thành lập để xem xét các đơn kiện có liên 271
  10. quan tới cùng một vấn đề thì sẽ cố gắng đến mức cao nhất có thể để chọn các hội thẩm viên chung cho các Ban hội thẩm riêng đó (khoản 3 Điều 9 DSU). Các quy định này nhằm đảm bảo tính nhanh chóng, thống nhất và hiệu quả trong giải quyết tranh chấp. Về thành phần Ban hội thẩm: Ban hội thẩm gồm 3 hội thẩm viên, trừ khi các bên tranh chấp đồng ý một Ban hội thẩm gồm 10 hội thẩm viên trong vòng 10 ngày kể từ ngày thành lập Ban hội thẩm (khoản 5 Điều 8 DSU). Các hội thẩm viên được DSB lựa chọn trên cơ sở danh sách các chuyên gia do Ban thư ký WTO giới thiệu và được thông báo cho các Thành viên WTO. Trong trường hợp vụ tranh chấp xảy ra giữa một Thành viên phát triển và một Thành viên đang phát triển, nếu có yêu cầu của Thành viên đang phát triển, thì Ban hội thẩm sẽ có ít nhất một hội thẩm viên là công dân Thành viên đang phát triển (khoản 10 Điều 8 DSU). Chức năng của Ban hội thẩm là hỗ trợ DSB làm tròn trách nhiệm theo DSU và các hiệp định có liên quan (Điều 11 DSU). Do vậy, Ban hội thẩm cần phải đánh giá một cách khách quan về các vấn đề tranh chấp, gồm cả việc đánh giá thực tế vụ việc, khả năng áp dụng, sự phù hợp của các hiệp định có liên quan và tiến hành những điều tra khác có thể giúp DSB trong việc đưa ra các khuyến nghị hoặc phán quyết được quy định trong các hiệp định có liên quan. Ban hội thẩm sẽ đều đặn tham vấn với các bên tranh chấp và tạo cho họ những cơ hội như nhau để đưa ra một giải pháp thoả đáng đối với cả hai bên. Kết quả làm việc của Ban hội thẩm là một báo cáo trình lên DSB. Nếu báo cáo này được DSB thông qua thì được coi như phán quyết của DSB và có hiệu lực ràng buộc các bên tranh chấp phải thi hành. Cơ quan chịu trách nhiệm hỗ trợ về mặt hành chính và pháp lý cho Ban hội thẩm là Ban thư ký WTO. - Cơ quan phúc thẩm Giai đoạn xét xử phúc thẩm là giai đoạn thứ hai và cuối cùng trong hệ thống giải quyết tranh chấp mang tính xét xử theo DSU. Không giống như Ban hội thẩm được thành lập theo từng vụ tranh chấp cụ thể 272
  11. sau khi có yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp và chấm dứt tồn tại sau khi tranh chấp đã được giải quyết, Cơ quan phúc thẩm được thành lập và duy trì hoạt động với tính chất là một cơ quan thường trực của DSB. Nếu một bên tranh chấp gửi đơn kháng cáo đối với báo cáo của Ban hội thẩm thì Cơ quan phúc thẩm sẽ xem xét lại các vấn đề pháp lý bị kháng cáo và có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc quyết định ngược lại các ý kiến của Ban hội thẩm (khoản 13 Điều 17 DSU). Cơ quan phúc thẩm gồm 7 người và mỗi vụ việc sẽ do 3 người xét xử (Ban phúc thẩm) (Điều 17 DSU). DSB thành lập Cơ quan phúc thẩm từ năm 1995 và đã chỉ định 7 Thành viên đầu tiên của Cơ quan phúc thẩm. Việc chỉ định này dựa trên cơ sở đồng thuận (khoản 4 Điều 2 DSU), nhiệm kỳ 4 năm và mỗi người có thể được tái bổ nhiệm một lần (Điều 17 DSU). Nhiệm kỳ của 3 trong số 7 người được bổ nhiệm ngay sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực sẽ hết hạn sau 2 năm. Người được bổ nhiệm thay thế một người mà nhiệm kỳ chưa hết có thể giữ vị trí đó trong thời gian nhiệm kỳ còn lại của người tiền nhiệm. Như vậy, trung bình cứ 2 năm thì thay đổi một số Thành viên của Cơ quan phúc thẩm. Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo cho Cơ quan phúc thẩm luôn có sự luân phiên thay đổi giữa Thành viên cũ và Thành viên mới, duy trì được hoạt động bình thường của Cơ quan phúc thẩm. Các tiêu chuẩn đối với Thành viên của Cơ quan phúc thẩm được quy định khá chi tiết trong DSU: (i) Họ là những người có uy tín, có kinh nghiệm chuyên môn về pháp luật, thương mại quốc tế và những lĩnh vực thuộc diện điều chỉnh của WTO; (ii) Họ không được liên kết với bất kỳ một Chính phủ nào, với tư cách Thành viên Cơ quan phúc thẩm thì họ sẽ đại diện rộng rãi cho tất cả các Thành viên WTO; (iii) Họ phải sẵn sàng tham gia làm việc bất cứ lúc nào, phải theo kịp các hoạt động giải quyết tranh chấp và các hoạt động liên quan của WTO; (iv) Họ không được tham gia vào việc xem xét các tranh chấp khi có thể tạo ra xung đột lợi ích trực tiếp hay gián tiếp (khoản 3 Điều 17 DSU). Trong Cơ quan phúc thẩm, lúc nào cũng có 3 hoặc 4 Thành viên là công dân của nước Thành viên đang phát triển. Tuy nhiên, việc lựa chọn 3 Thành viên để lập Ban phúc thẩm sẽ được thực hiện ngẫu nhiên. 273
  12. Nhiệm vụ hỗ trợ về mặt luật pháp và hành chính của Cơ quan phúc thẩm do Ban thư ký của Cơ quan phúc thẩm thực hiện (khoản 7 Điều 17 DSU). - Trọng tài Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được quy định tại Điều 22 và Điều 25 DSU. Quy định tại Điều 22 DSU cho phép các bên lựa chọn trọng tài để giải quyết trong trường hợp nếu Thành viên có liên quan phản đối mức độ tạm hoãn được đề xuất hay mức độ trả đũa được đề nghị áp dụng hoặc thời hạn hợp lý cho việc thi hành phán quyết không được các bên thống nhất. Việc áp dụng trọng tài phải do Ban hội thẩm ban đầu tiến hành nếu các bên Thành viên chấp nhận hoặc do trọng tài được Tổng giám đốc chỉ định (khoản 6 Điều 22 DSU). Trong trường hợp này, trọng tài không xem xét bản chất của những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác bị tạm hoãn mà chỉ quyết định xem liệu mức tạm hoãn có tương ứng với mức độ thiệt hại hay không hoặc các nghĩa vụ khác có được phép hay không theo Hiệp định có liên quan (khoản 7 Điều 22). Điều 25 DSU quy định trọng tài được xem là biện pháp thay thế của việc giải quyết tranh chấp trong trường hợp những vấn đề tranh chấp đã được các bên xác định rõ (khoản 1 Điều 25), với điều kiện các bên thoả thuận đồng ý sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp (khoản 3 Điều 25). Với các quy định trên đây, các trọng tài viên (với tư cách cá nhân hoặc một nhóm) phát huy chức năng của mình trong các trường hợp khác nhau: (i) Trọng tài viên được triệu tập để xét xử vấn đề nào đó ở một vài giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp, bên cạnh Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm. DSU quy định hai trường hợp rất cụ thể, đó là sau khi DSB đã thông qua báo cáo của Ban hội thẩm (hoặc báo cáo của Cơ quan phúc thẩm) và bên thua kiện sẽ phải thực hiện phán quyết hoặc khuyến nghị của DSB. Trường hợp 1 là khi trọng tài viên được triệu tập để ra quyết định đối với việc xác định “thời hạn hợp lý” cho bên bị kiện 274
  13. thực hiện (khoản 3 (c) Điều 21 DSU). Trường hợp 2 là khi biện pháp trả đũa được áp dụng, bên phải chịu sự trả đũa đó có thể yêu cầu trọng tài xem xét lại nếu bên này phản đối mức độ hoặc bản chất của việc hoãn thực hiện nghĩa vụ được đề xuất (khoản 6 Điều 22 DSU). (ii) Việc xét xử của trọng tài là biện pháp thay thế cho việc giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm (Điều 25 DSU). Kết quả xét xử của trọng tài có thể bị kháng cáo - nhưng được thi hành thông qua DSU (Điều 21 và Điều 22 DSU) - Tham vấn từ chuyên gia Để có thể giải quyết các tranh chấp có tính chất phức tạp và liên quan tới nhiều vấn đề chuyên môn kỹ thuật hoặc khoa học, DSU quy định Ban hội thẩm tìm kiếm thông tin và tư vấn kỹ thuật từ các chuyên gia khi Ban hội thẩm cân nhắc thấy cần thiết phải tham vấn chuyên gia để làm tròn trách nhiệm của mình (Điều 13 DSU). Ban hội thẩm tiến hành tham vấn các chuyên gia trên cơ sở cá nhân. Để đảm bảo tính khách quan và chính xác, các Thành viên nhóm chuyên gia tư vấn làm việc với tư cách cá nhân và không phải là đại diện chính phủ hoặc bất kỳ tổ chức nào. Các quy tắc thành lập các nhóm chuyên gia rà soát và thủ tục được quy định chi tiết tại Phụ lục 4 của DSU. Theo đó, các nhóm chuyên gia rà soát thực hiện các nhiệm vụ theo yêu cầu của Ban hội thẩm và báo cáo lên Ban hội thẩm. Nhóm chuyên gia chỉ có vai trò tư vấn, quyết định cuối cùng về các vấn đề pháp lý và việc đánh giá các tình tiết vụ việc trên cơ sở báo cáo của các chuyên gia thuộc thẩm quyền của Ban hội thẩm. 8.2.2. Quy trình giải quyết tranh chấp - Tham vấn Tham vấn là giai đoạn đầu trong thủ tục giải quyết tranh chấp, là việc các Thành viên tranh chấp tiến hành đàm phán với nhau để đưa ra một thoả thuận thống nhất về việc giải quyết tranh chấp. Hoạt động tham vấn có ý nghĩa nhằm giải quyết vấn đề trên tinh thần hợp tác thông qua đàm phán giữa các bên tranh chấp hoặc thông qua trung gian hoà giải của một bên thứ ba. Thông qua tham vấn, bản chất sự việc tranh chấp được 275
  14. tìm hiểu và từ đó có thể dẫn đến một giải pháp chung cho các bên. Trong trường hợp các bên tranh chấp không đạt được giải pháp chung tại giai đoạn tham vấn thì đây được coi là bước đầu tiên, đặt cơ sở chuẩn bị cho các bước tiếp theo của quy trình giải quyết tranh chấp. Tham vấn là thủ tục bắt buộc và việc yêu cầu tham vấn sẽ mang lại kết quả là việc chính thức đưa một tranh chấp ra WTO cũng như khởi động quá trình áp dụng các quy định của DSU. Để tham vấn có thể được tiến hành thì bên đưa ra yêu cầu tham vấn phải đệ trình bằng văn bản trong đó phải trình bày rõ lý do yêu cầu bao gồm cả việc chỉ ra có sở pháp lý cho việc yêu cầu tham vấn (khoản 4 Điều 4 DSU). Theo quy định của DSU thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn thì bên được yêu cầu phải thiện chí trả lời các yêu cầu của bên yêu cầu. Nếu trong thời gian 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu mà bên được yêu cầu không trả lời hoặc trong thời gian 30 ngày bên được yêu cầu không tham gia tham vấn thì bên yêu cầu có thể yêu cầu thành lập Ban hội thẩm (khoản 3 Điều 4 DSU). Nếu các bên không đi đến thống nhất việc giải quyết tranh chấp thì trong thời hạn là 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn thì bên yêu cầu có thể yêu cầu thành lập Ban hội thẩm (khoản 7 Điều 4 DSU). Trong trường hợp khẩn cấp và các trường hợp liên quan tới hàng dễ hỏng thì thời gian phải tiến hành tham vấn là 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Trong trường hợp này, thời gian tham vấn không quá 20 ngày. Quá thời hạn này bên nguyên đơn có quyền yêu cầu thành lập Ban hội thẩm (khoản 8 Điều 4 DSU). - Hội thẩm Hội thẩm là giai đoạn DSB tiến hành giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Ban hội thẩm. Cơ sở pháp lý để DSB thành lập Ban hội thẩm là yêu cầu bằng văn bản của nguyên đơn đối với việc thành lập Ban hội thẩm. Trong đó nguyên đơn cần nêu rõ thủ tục tham vấn đã được các bên tiến hành nhưng tranh chấp vẫn chưa được giải quyết, đồng thời nêu ra những cơ sở pháp lý cho việc nộp đơn thành lập Ban hội thẩm. 276
  15. Khi nhận được đơn yêu cầu thành lập Ban hội thẩm thì DSB sẽ triệu tập phiên họp để xem xét việc có thành lập Ban hội thẩm hay không. Nếu không có ý kiến phản đối việc thành lập Ban hội thẩm thì Ban hội thẩm sẽ được thành lập ngay phiên họp tiếp theo của DSU để tiến hành xem xét tranh chấp (khoản 1 Điều 6 DSU). Ban thư ký WTO sẽ đề nghị tên của 3 người tham gia Ban hội thẩm cho các bên tranh chấp lựa chọn, kèm theo danh sách các ứng cử viên có trình độ. Nếu trong vòng 20 ngày sau ngày thành lập Ban hội thẩm mà không có sự nhất trí về thành phần Ban hội thẩm theo yêu cầu của bất kỳ bên nào, thì Tổng giám đốc WTO, sau khi tham vấn với Chủ tịch DSB và Chủ tịch Hội đồng hoặc các Ủy ban có liên quan cũng như tham vấn với các bên tranh chấp, sẽ quyết định thành lập Ban hội thẩm bằng việc bổ nhiệm các hội thẩm viên từ những người mà Tổng giám đốc cho là thích hợp nhất theo đúng bất kỳ quy tắc hoặc thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung có liên quan được áp dụng cho tranh chấp đó. Chủ tịch của DSB sẽ thông báo cho các Thành viên về thành phần của Ban hội thẩm đã được thành lập không quá 10 ngày kể từ ngày Chủ tịch DSB nhận được yêu cầu như trên (Điều 8 DSU). Sau khi được thành lập, Ban hội thẩm sẽ tiến hành xem xét giải quyết tranh chấp. Các bước làm việc của Ban hội thẩm được tiến hành như sau: (i) Trước khi mở phiên họp chính thức đầu tiên, Ban hội thẩm yêu cầu các bên tranh chấp phải gửi cho Ban hội thẩm hồ sơ bao gồm các văn bản về ý kiến của mình đối với vụ tranh chấp và các chứng cứ có liên quan (khoản 1 Điều 7 DSU). (ii) Sau khi nghiên cứu các hồ sơ, Ban hội thẩm sẽ tiến hành mở phiên họp chính thức đầu tiên. Trong phiên họp này, các bên tranh chấp cũng như các bên thứ ba có liên quan chỉ được trình bày quan điểm của mình đối với vấn đề tranh chấp. Những ý kiến phản bác lại chính thức phải được đưa ra tại cuộc họp đi vào nội dung lần thứ hai của Ban hội thẩm, các bên phải đệ trình ý kiến phản bác bằng văn bản tới Ban hội thẩm trước khi cuộc họp này diễn ra. Lần lượt bên bị đơn được phát biểu 277
  16. trước và sau đó bên nguyên đơn có quyền phát biểu. Trong bất cứ thời điểm nào, Ban hội thẩm cũng có thể đưa ra các câu hỏi với các bên và yêu cầu họ phải giải thích ngay trong cuộc họp với các bên hoặc bằng văn bản. Để đảm bảo tính minh bạch, các bài trình bày, bác bỏ và tuyên bố sẽ được đưa ra tại phiên họp với sự có mặt của các bên68. Thủ tục làm việc theo Phụ lục 3 của DSU trên đây có thể được thay đổi nếu Ban hội thẩm quyết định khác, sau khi tham vấn với các bên tranh chấp. Nguyên tắc làm việc chung là: thủ tục làm việc của Ban hội thẩm phải có sự linh hoạt đầy đủ để đảm bảo cho các báo cáo của Ban hội thẩm có chất lượng cao mà lại không làm chậm quá trình tố tụng tại Ban hội thẩm một cách không cần thiết (Điều 12 DSU). (iii) Tham vấn chuyên gia (nếu có): Trong quá trình xét xử, nếu thấy cần thiết thì Ban hội thẩm có thể tham khảo ý kiến các chuyên gia. Ban hội thẩm sẽ chuyển các phần mô tả (thực tế và lập luận) của bản dự thảo báo cáo của mình cho các bên tranh chấp. Các bên có 2 tuần để đệ trình các ý kiến của mình về phần mô tả báo cáo bằng văn bản. (iv) Lập báo cáo giữa kỳ: Sau khi hết hạn tiếp nhận ý kiến của các bên tranh chấp về mô tả báo cáo, Ban hội thẩm sẽ đưa ra một bản báo cáo giữa kỳ cho các bên. Bản báo cáo này bao gồm: các phần mô tả, báo cáo điều tra và các kết luận của Ban hội thẩm Điều 15.2 DSU. Nếu sau 1 tuần, các bên không có yêu cầu về việc rà soát lại các phần của báo cáo thì báo cáo giữa kỳ này được coi là bản báo cáo cuối cùng của Ban hội thẩm. Nếu có yêu cầu xem xét lại các kết luận và phán quyết thì Ban hội thẩm có thể triệu tập thêm một cuộc họp với các bên về những vấn đề được chỉ rõ trong các văn bản nhận xét, thời gian dành cho việc này không quá 2 tuần 69. (v) Lập báo cáo cuối cùng: 68 Phụ lục 3 về Thủ tục làm việc, kèm theo DSU. 69 Phụ lục 3 kèm theo DSU. 278
  17. Sau khi rà soát lại báo cáo giữa kỳ, Ban hội thẩm sẽ hoàn tất và đưa ra báo cáo cuối cùng. Báo cáo này được gửi cho các bên tranh chấp cũng như tất cả các Thành viên. Thời gian để Ban hội thẩm hoàn tất báo cáo cuối cùng là từ 6 đến 9 tháng kể từ ngày thành lập Ban hội thẩm. Đối với các trường hợp khẩn cấp thì thời hạn này rút ngắn còn từ 3 đến 6 tháng (khoản 8 và 9 Điều 12 DSU). Đối với các Thành viên đang phát triển, khoảng thời gian này có thể xê dịch để họ chuẩn bị và trình bày lập trường của mình vì các Thành viên này thường thiếu khả năng ứng phó nhanh về hành chính và kỹ thuật. Tất cả các ưu tiên dành cho các Thành viên đang phát triển phải được nêu rõ trong báo cáo của Ban hội thẩm (khoản 11 Điều 12 DSU). (vi) Thông qua báo cáo cuối cùng: Sau khi báo cáo cuối cùng được Ban hội thẩm gửi tới các Thành viên, các Thành viên có 20 ngày để xem xét. Nếu có ý kiến phản đối về bản báo cáo thì Thành viên phản đối phải chuyển văn bản giải thích lý do phản đối của mình cho DSB chậm nhất là 10 ngày trước khi DSB triệu tập phiên họp xem xét và thông qua báo cáo. Các bên tranh chấp có quyền tham gia đầy đủ vào việc DSB xem xét báo cáo của Ban hội thẩm, các quan điểm và ý kiến của họ được ghi lại đầy đủ. Trong vòng 60 ngày kể từ ngày chuyển báo cáo cho các Thành viên, báo cáo này sẽ tự động được thông qua tại phiên họp của DSB, trừ khi xảy ra một trong hai khả năng: (a) Một bên tranh chấp chính thức thông báo cho DSB về quyết định kháng cáo của mình; (b) DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thông qua báo cáo này. Báo cáo của Ban hội thẩm có giá trị pháp lý khi đã được DSB thông qua. Báo cáo đã được thông qua này được coi là phán quyết của DSB và có hiệu lực ràng buộc các bên phải thi hành. - Kháng cáo và phúc thẩm + Kháng cáo: Chỉ các bên có tranh chấp, chứ không phải các bên thứ ba, mới có quyền kháng cáo báo cáo của Ban hội thẩm. Tuy nhiên, các bên thứ ba đã thông báo cho DSB về quyền lợi đáng kể có thể đệ trình văn bản cho Cơ 279
  18. quan phúc thẩm và sẽ được tạo cơ hội để Cơ quan phúc thẩm nghe vấn đề kháng cáo (khoản 4 Điều 17 DSU). Thời hạn để kháng cáo là 20 ngày kể từ ngày Ban hội thẩm gửi báo cáo cuối cùng cho các Thành viên WTO, tức là trước khi DSB thông qua báo cáo cuối cùng. Sau khi nhận được kháng cáo hợp lệ, DSB sẽ chỉ định Cơ quan phúc thẩm gồm 3 trong số 7 Thành viên của Cơ quan phúc thẩm thường trực. Cơ quan phúc thẩm này sẽ nghe các kháng cáo – ý kiến phản đối báo cáo cuối cùng của Ban hội thẩm. + Phúc thẩm: Phạm vi xem xét kháng cáo của Cơ quan phúc thẩm sẽ giới hạn về những vấn đề pháp lý đã được đề cập đến trong báo cáo của Ban hội thẩm và những giải thích pháp luật của Ban hội thẩm (khoản 6 Điều 17 DSU). Thời hạn xem xét kháng cáo là 60 ngày, tính từ ngày một bên tranh chấp chính thức thông báo quyết định kháng cáo của mình đến ngày Cơ quan phúc thẩm chuyển báo cáo của mình lên DSB. Khoảng thời gian này có thể gia hạn tới mức tối đa là 90 ngày, khi Cơ quan phúc thẩm thấy mình không thể cung cấp báo cáo trong vòng 60 ngày trên và Cơ quan này đã thông báo bằng văn bản cho DSB về lý do trì hoãn cùng với thời gian dự kiến đệ trình báo cáo. Thủ tục phúc thẩm tranh chấp cụ thể sẽ được Cơ quan phúc thẩm soạn thảo, với sự tham vấn của Chủ tịch DSB và Tổng giám đốc WTO, sau đó được thông báo cho các Thành viên. Quá trình tố tụng phúc thẩm phải được giữ kín: các báo cáo của Cơ quan phúc thẩm sẽ được soạn thảo không có sự tham gia của các bên tranh chấp và theo tinh thần của các thông tin được cung cấp và các tuyên bố được lập; các ý kiến của các cá nhân làm việc tại Cơ quan phúc thẩm được trình bày tại báo cáo của Cơ quan phúc thẩm sẽ không được ghi tên cá nhân đó… Kết quả của quá trình phúc thẩm có thể là việc giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ các kết luận pháp lý và phán quyết của Ban hội thẩm. Kết quả xem xét kháng cáo được thể hiện bằng một báo cáo của Cơ quan 280
  19. phúc thẩm. Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm sẽ được DSB thông qua và được các bên tranh chấp chấp nhận vô điều kiện, trừ khi DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thông qua báo cáo của Cơ quan phúc thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày báo cáo đó được gửi tới các Thành viên. Thủ tục thông qua không làm phương hại đến quyền của các Thành viên thể hiện quan điểm của mình trong bản báo cáo này (Điều 17 DSU). Khi đã được DSB thông qua thì bản báo cáo của Cơ quan phúc thẩm trở thành phán quyết của DSB và các bên tranh chấp bắt buộc phải thi hành. Không có bên nào có quyền kháng cáo báo cáo của Cơ quan phúc thẩm và phán quyết cuối cùng của DSB (Điều 17 DSU) - Thi hành phán quyết Việc giải quyết tranh chấp chỉ có ý nghĩa thực tế khi các phán quyết của DSB được các bên thi hành, nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả các Thành viên. Theo DSU, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thông qua báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm, DSB sẽ tiến hành một cuộc họp nhằm xem xét vấn đề thi hành khuyến nghị và phán quyết của DSB. Tại cuộc họp này, bên thua kiện phải thông báo cho DSB về các dự định của mình đối với việc thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Trong trường hợp không thể thực hiện ngay lập tức các khuyến nghị và phán quyết của DSB, Thành viên liên quan sẽ có một “khoảng thời gian hợp lý” để thực hiện. Có 3 cách xác định “khoảng thời gian hợp lý” này theo Điều 21 DSU. Việc thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB sẽ được chính DSB giám sát. Bất kỳ một Thành viên nào cũng có thể nêu vấn đề thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết tại DSB vào bất kỳ thời điểm nào. Vấn đề này sẽ được đưa vào chương trình nghị sự tại cuộc họp của DSB sau 6 tháng kể từ ngày ấn định “khoảng thời gian hợp lý” nêu trên và sẽ vẫn nằm trong chương trình nghị sự của DSB cho tới khi vấn đề được giải quyết, trừ khi DSB quyết định khác. Ít nhất là 10 ngày trước mỗi cuộc họp của DSB, Thành viên thi hành phải cung cấp cho DSB văn 281
  20. bản báo cáo tình hình tiến triển việc thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết này. Đối với tranh chấp do một Thành viên đang phát triển khởi xướng vụ việc thì DSB sẽ có những biện pháp thích hợp để thực hiện chế độ ưu đãi đối với Thành viên đang phát triển. DSB sẽ chú ý đến phạm vi thương mại của biện pháp bị khiếu nại cũng như ảnh hưởng của biện pháp đó đối với nền kinh tế của Thành viên này. Trong trường hợp đã hết thời hạn thi hành phán quyết mà bên phải thi hành không tiến hành điều chỉnh biện pháp thương mại vi phạm cho phù hợp với các nghĩa vụ theo các hiệp định WTO và phán quyết của DSB thì bên thắng kiện có thể yêu cầu bồi thường, hoặc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác (biện pháp trả đũa). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng bồi thường hoặc áp dụng biện pháp trả đũa chỉ là biện pháp tạm thời khi các khuyến nghị và phán quyết chưa được thi hành nghiêm chỉnh. Nội dung của biện pháp bồi thường và trả đũa được quy định như sau: (i) Bồi thường: Biện pháp này phải mang tính chất tự nguyện và phù hợp với các hiệp định có liên quan (khoản 1 Điều 22 DSU). Bên khởi kiện có thể yêu cầu được bồi thường ngay khi thời hạn thi hành các phán quyết đã hết mà bên thua kiện không thi hành. Bên thua kiện khi đó phải đàm phán với bên thắng kiện về mức bồi thường. (ii) Biện pháp trả đũa: Khoản 2 Điều 22 DSU quy định nếu các bên không thoả thuận được biện pháp bồi thường thoả đáng trong vòng 20 ngày kể từ ngày hết hạn thời gian hợp lý thì bất cứ bên nào đã viện dẫn tới các thủ tục giải quyết tranh chấp cũng có thể yêu cầu DSB cho phép tạm hoãn thi hành việc áp dụng đối với Thành viên liên quan những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan. Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi hết thời hạn thi hành phán quyết, DSB sẽ cho phép bên thắng kiện tiến hành trả đũa, trừ khi DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận bác bỏ yêu cầu trả đũa (khoản 2 Điều 282
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2