intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hoài Thanh – nhà lí luận văn học đầu tiên khẳng định bản chất thẩm mĩ của văn học

Chia sẻ: Lulu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

105
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Không phải ngẫu nhiên mà nếu như bỏ được các định kiến, thì ta sẽ thấy Hoài Thanh là nhà văn đã để lại nhiều ý kiến hay bậc nhất về đặc trưng văn học nghệ thuật vào thời ấy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hoài Thanh – nhà lí luận văn học đầu tiên khẳng định bản chất thẩm mĩ của văn học

  1. Hoài Thanh – nhà lí luận văn học đầu tiên khẳng định bản chất thẩm mĩ của văn học
  2. Không phải ngẫu nhiên mà nếu như bỏ được các định kiến, thì ta sẽ thấy Hoài Thanh là nhà văn đã để lại nhiều ý kiến hay bậc nhất về đặc trưng văn học nghệ thuật vào thời ấy. Mỗi ý kiến của ông đều là kết quả của sự thể nghiệm và nghiền ngẫm sâu sắc. Chẳng hạn ông viết: “Không! Văn nghệ không làm – hay không phải chỉ làm công việc một tấm gương”. Một ý kiến tưởng như vừa phát biểu vào thời kì Đổi mới năm 1986! Hoặc như những câu sau đây: “Điều cốt yếu trong văn chương là tinh thần sáng tạo, là tự do, là không ngờ, là linh động, là sống vậy”. “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”, “Người ta có thể vượt ra ngoài giai cấp mình. Một người không ăn cắp bao giờ vẫn có thể thích nghe nhà văn kể chuyện một thằng ăn cắp. Vì thằng ăn cắp khi đã đưa vào trong một tác phẩm nghệ thuật, nó không còn là thằng ăn cắp nữa, nó là Người (chữ Người viết hoa) và có tính cách vĩnh viễn”. Điều này trước đây nói ra sẽ bị gây nhiều phiền phức vì “tính người chung chung”, song ngày nay ai cũng thấy có biết bao sự thật văn học của nhân loại chứng minh cho nó! Về tác động thẩm mĩ của văn học ông viết: “Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim, suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì quá đáng” Kẻ nói đây thiết nghĩ là Oscar Wild. Chúng ta còn có thể trích ra nhiều câu như thế nữa. Phân biệt tính cách văn chương và tác dụng thẩm mĩ của văn học là một ý tưởng lí luận quan trọng của Hoài Thanh trước năm 1945. Và các nhận thức của ông về đặc trưng văn học như tính cách đẹp, hình thức đặc thù, sự thể hiện của tài năng, tinh thần sáng tạo, tính cá nhân, cá tính, đòi hỏi một sự thành thực và môi trường tự do, phân biệt văn học với báo chí (thông tấn) phải nói là những nhận thức đúng đắn về lí thuyết. Sự phát triển tiếp theo của lí luận văn học phương Tây những năm 60, 70 thế kỉ XX về tính văn học, về hình thức độc lập (như hình thức trần thuật), khép kín (hệ thống kí hiệu riêng), tính sáng tạo của nghệ thuật… đều đã xác nhận tính đúng đắn của những tiên liệu đi trước thời gian của Hoài Thanh. Ngày nay chúng ta có thể và cần lấy đó làm một điểm xuất phát để phát triển lí luận văn học hiện đại của chúng ta. Đó là những điểm thiết nghĩ không nên quy vào cái ô nghệ thuật vị nghệ thuật để phủ nhận, tự làm nghèo truyền thống lí luận văn học Việt Nam vốn không lấy gì làm phong phú.
  3. Xét từ phương diện này, cuộc tranh luận giữa Hoài Thanh và Hải Triều có phần không phải là sự đối đầu giữa nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, mà trước hết là sự đối lập giữa hai cách tiếp cận trong phê bình: một bên nhấn mạnh tính đặc thù, một bên nhấn mạnh sự phụ thuộc của văn học vào xã hội, chức năng xã hội, chính trị của văn học. Nếu tỉnh táo nhìn nhận thì đó sẽ là hai quan niệm bổ sung cho nhau, tạo thành một quan niệm toàn diện về nghệ thuật. Sự thắng thế của Hải Triều tuy đáp ứng nhu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh xã hội, song tiềm ẩn một nguy cơ nghiêm trọng là chủ nghĩa công lợi thực dụng, chủ yếu chỉ coi trọng nội dung xã hội, chính trị, coi nhẹ hình thức và đặc trưng nội dung của văn nghệ, một khuynh hướng tồn tại kéo dài trên nửa thế kỉ và cho đến ngày nay chưa thể nói là đã được giải quyết hài hoà. Nguy cơ ấy không thể nói là không có ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng nghệ thuật của sáng tác. Khẳng định quan niệm sâu sắc của Hoài Thanh về đặc trưng văn chương nghệ thuật, không có nghĩa là xoá bỏ những hạn chế, thậm chí sai lầm trong quan niệm văn học của ông. Định nghĩa của ông về nghệ thuật là “Đi tìm cái đẹp trong tự nhiên” cũng rất hạn hẹp. Quả đúng “Văn chương là văn chương”, nó có tính độc lập, nhưng “thuần tuý” thì không, bởi nó phải hướng về xã hội, đem những tư tưởng xã hội, lịch sử, chính trị, luân lí, đạo đức, triết học biến thành máu thịt hữu cơ của mình. Nếu nghệ thuật chỉ hướng tới cái đẹp thuần tuý mà toàn bộ cuộc sống nhiều mặt của con người bị mờ nhạt thì còn đâu sức hấp dẫn? Có thể nói quan niệm văn học của Hoài Thanh ở đây đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của chủ nghĩa duy mĩ. Vào thời ấy Hoài Thanh không đơn độc trong quan niệm của mình. Nguyễn Tuân, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… đếu có quan niệm ấy. Quan niệm phân biệt văn học với báo chí của Hoài Thanh căn bản là đúng. Sau này, khi đã trải qua thời gian dài thể nghiệm loại thơ phản ánh hiện thực “chân chân chân, thật thật thật”, nhà thơ Xuân Diệu đã giác ngộ ra và đã nêu lại sự phân biệt thơ ca và thông tấn trong bài tiểu luận nổi tiếng Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy. Tuy nhiên Hoài Thanh đã đối lập văn học và báo chí một cách quá ư tuyệt đối, hầu như không thể dung hoà giữa cái nhất thời và cái vĩnh viễn, xem nội dung xã hội của văn học chỉ có tính cách phụ, và nhà văn nếu hướng tới hiện thực chỉ là sự tình cờ. Ở đây không thể nói là không có ảnh hưởng của quan niệm ảo tưởng về “văn học thuần tuý”. Thật khó tán thành với Hoài Thanh khi ông cho rằng, khi nhà văn “bênh vực kẻ yếu, chống lại với sức mạnh của tiền tài của súng đạn” thì lúc đó nhà văn không làm văn
  4. nữa mà “chỉ làm cái phận sự một người cầm bút mà thôi”. Vậy biết bao thơ của Đỗ Phủ, của Nguyễn Du chỉ là thơ của người cầm bút hay sao? Thơ văn đâu chỉ “khiến cho khách giang hồ quên những nỗi nhọc nhằn mà trong chốc lát hưởng những phút say sưa” mà còn hun đúc chí khí, tâm hồn con người, giúp họ cảm được những nỗi đau thương thành thực của loài người như chính Hoài Thanh đã không ít lần nhắc đến. Cái quan niệm xem mối quan hệ chính trị, đạo đức, tôn giáo với nghệ thuật chỉ là quan hệ “tình cờ” cũng không phù hợp với thực tế văn học xưa nay. Mặc dù đây đó còn phiến diện, ảo tưởng và mâu thuẫn, song Hoài Thanh vẫn là nhà lí luận Việt Nam đầu tiên nêu ra một cách sâu sắc vấn đề đặc trưng, bản chất thẩm mĩ của văn học, một vấn đề cốt tử của lí luận văn nghệ mà đời sau vẫn phải còn tốn nhiều công sức và tâm huyết mới mong giải quyết. Cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật với nghệ thuật vị nhân sinh” tất nhiên vẫn còn trong lịch sử văn học như một cuộc biểu dương quan niệm Mác xít trong văn nghệ, chuẩn bị cho những bước phát triển về sau của quan niệm văn nghệ cách mạng, và Hoài Thanh vẫn có những điểm để người ta liên hệ ông với chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, song xét về thực chất, sự mâu thuẫn của Hoài Thanh với Hải Triều qua những bài tranh luận đương thời chủ yếu chỉ là mâu thuẫn của hai cách tiếp cận đối với văn học. Lịch sử hiện đại đã cho thấy nhiều cuộc tranh luận văn học đã bị chính trị hoá, làm che lấp mất hạt nhân học thuật của nó, phải một thời gian rất lâu sau người ta mới nhận ra. Nếu nhìn kĩ về mặt học thuật ta sẽ thấy cả hai khẩu hiệu đều có ưu điểm và khuyết điểm. Quan điểm vị nhân sinh thấy được mối liên hệ khăng khít giữa văn học với cuộc sống, song nó dễ dàng rơi vào chủ nghĩa thực dụng, coi nhẹ đặc trưng văn nghệ. Ngược lại quan điểm vị nghệ thuật tuy nhận rõ đặc trưng văn nghệ, coi trọng tính độc lập của văn nghệ, song nó lại dễ dàng thoát li hiện thực. Vì thế không nên xem quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh là quan niệm tuyệt đối đúng và hoàn toàn khoa học. Bởi vì suy cho cùng cái gì mà chẳng vị nhân sinh? Hoài Thanh là người có khuynh hướng học thuật. Trong bài báo Vấn đề học thuật nước ta chỉ là một vấn đề tâm lí viết năm 1936 Hoài Thanh đã nêu rất cao vấn đề học thuật, tuy có phần cực đoan. Ông viết: “Nếu dân tộc này không bao giờ tự mình dựng lên được nền học thuật thì chẳng nói hai mươi triệu, có đông đến hai trăm triệu cũng là một dân tộc bỏ đi, một dân tộc không có tên trong pho lịch sử văn minh loài người”. Điều kiện để có một nền học thuật ông viết: “Về học thuật cũng vậy. Nếu ta đặt cho học thuật một cái mục đích ngoài học thuật thì chẳng nên mong gì
  5. chuyện thành đạt”.Có thể xem đó như một lời nhắn lại cho những ai còn tha thiết với nền học thuật nước nhà, rằng nếu đồng nhất học thuật với những vấn đề chính trị, ý thức hệ thì sẽ làm mất đi khả năng giải quyết và đánh giá đúng các vấn đề học thuật
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2