TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 (34) - Thaùng 11/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Học tập phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh<br />
Learning style Ho Chi Minh’expression<br />
<br />
ThS. Nguyễn Hồng Điệp<br />
Trường Đại học Chính trị<br />
<br />
M.A. Nguyen Hong Diep<br />
Political University<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh là cách thức sử dụng các phương tiện ngôn ngữ theo nguyên tắc tu từ<br />
phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp tạo nên những nét riêng, độc đáo có tính hệ thống, ổn định<br />
và đặc trưng trong cách nói và cách viết của Hồ Chí Minh. Diễn đạt là một trong những hoạt động đặc<br />
trưng chủ yếu trong hoạt động giảng dạy của giáo viên, giảng viên. Do đó, học tập phong cách diễn đạt<br />
của Hồ Chí Minh có ý nghĩa thiết thực trong nâng cao khả năng diễn đạt, uy tín sư phạm, từ đó trực tiếp<br />
nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, giảng viên ở các nhà trường.<br />
Từ khóa: học tập, phong cách, diễn đạt, Hồ Chí Minh, giáo viên, giảng viên…<br />
Abstract<br />
Style of Ho Chi Minh’expression is the way in using languages; it is based on the rhetorical principles<br />
consistent with the object and context of communication, that created a private, unique stability and<br />
characteristic in speaking and writing by Ho Chi Minh. Expression is one of the main activities in the<br />
teacher's, lecturers’ teaching .Therefore, learning style Ho Chi Minh’expression, has practical<br />
significance in improving the ability of expression and the teaching quality of teachers and lecturers in<br />
the schools is also enhanced.<br />
Keywords: learning, style, expression, Ho Chi Minh, teachers, lecturers…<br />
<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề cách nói cách viết phù hợp với từng hoàn<br />
Trong tất cả những bài nói, bài viết, cảnh, đối tượng và tình huống giao tiếp,<br />
những lần giao tiếp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính điều đó đã tạo nên phong cách diễn<br />
luôn luôn chú ý đến cách diễn đạt (cách nói đạt Hồ Chí Minh. Phong cách diễn đạt Hồ<br />
và cách viết). Đối với Người, nói và viết Chí Minh là cách thức sử dụng các phương<br />
không đơn thuần là một hành động thông tiện ngôn ngữ theo nguyên tắc tu từ phù<br />
tin mà chủ yếu là nhằm tác động lên người hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp<br />
nghe, người đọc, nhằm thuyết phục họ, tạo nên những nét riêng, độc đáo có tính hệ<br />
cảm hóa họ, làm họ thay đổi nhận thức, thống, ổn định và đặc trưng trong cách nói<br />
thay đổi quan niệm, tình cảm thẩm mỹ và và cách viết của Hồ Chí Minh.<br />
hành vi, hướng họ vào các hoạt động thực Diễn đạt có vai trò đặc biệt quan trọng<br />
tiễn phù hợp xu hướng tiến bộ của xã hội, đối với hoạt động giảng dạy, giao tiếp sư<br />
của thời đại. Vì vậy, Người luôn lựa chọn phạm của giáo viên, giảng viên (GV, GV) ở<br />
<br />
65<br />
các nhà trường. Người GV, GV có nhiều tri bài nói, bài viết là cách dùng ngôn ngữ rất<br />
thức mà không làm cho người học hi u mộc mạc, ngắn gọn trong sáng, giản dị,<br />
được thì học sinh, sinh viên (HS, SV) sẽ khúc triết và dễ hi u. Người nói và viết từ<br />
gặp khó khăn trong lĩnh hội, tiếp thu và chuyện đơn giản nhất đến điều hệ trọng<br />
chuy n hóa tri thức của GV, GV thành tri nhất đều rất giản dị mà không nôm na, đại<br />
thức của mình. Mặt khác, khả năng diễn chúng, bình dân mà không tầm thường, dễ<br />
đạt của mỗi GV, GV có tác động mạnh mẽ dãi. Tất cả đều ngắn gọn, hàm súc, không<br />
đến đến tư tưởng, tình cảm của HS, SV tạo hề làm ra vẻ cao siêu mà vẫn đầy chất trí<br />
ra sự yêu mến thích thú kích thích tính tích tuệ. Toàn bộ các bài nói, bài viết của<br />
cực trong tư duy của người học. Hơn nữa, Người đều rất trong sáng về ý tưởng và văn<br />
thực hiện phương châm chỉ đạo đổi mới phong, giản dị trong cách trình bầy và dễ<br />
phương pháp giáo dục theo tinh thần Nghị hi u với người nghe, người đọc. Chẳng<br />
quyết TW 8 khóa XI về đổi mới căn bản, hạn, khi nói về chủ nghĩa xã hội - một vấn<br />
toàn diện giáo dục và đào tạo của Đảng: đề lý luận rất cao siêu và trừu tượng với<br />
“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp những người có trình độ nhận thức thấp,<br />
dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy nhưng lại được Người viết và giải thích rất<br />
tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dễ hi u và phù hợp với trình độ của người<br />
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; dân Việt Nam. Người nói chủ nghĩa xã hội<br />
khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, là: là mọi người được ăn no mặc ấm, sung<br />
ghi nhớ máy móc”[1]. Thực hiện theo tinh sướng, tự do; là đoàn kết, vui khỏe. au<br />
thần đó phải coi trọng rèn luyện cách diễn này khi trình độ dân trí đã được nâng cao,<br />
đạt của GV, GV nhằm xóa bỏ cách truyền Người giải thích thêm: chủ nghĩa xã hội là<br />
thụ đơn điệu, nhàm chán đ lôi cuốn, hấp nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn<br />
dẫn HS, SV vào bài giảng của GV, GV từ hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây<br />
đó mới kích thích tính tích cực, chủ động, dựng lấy. Những thông tin trong bài nói,<br />
sáng tạo trong lĩnh hội và vận dụng kiến bài viết của Người luôn có tính xác thực<br />
thức vào thực tiễn. cao, có nhiều số liệu thực tế. Người luôn<br />
Từ vị trí, vai trò và yêu cầu đặt ra trong chọn lọc từ ngữ trong quá trình sử dụng đ<br />
rèn luyện cách diễn đạt; cuộc vận động học sao cho “lời ít nhưng ý nhiều”, đặc biệt<br />
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Người ưu tiên lựa chọn và sử dụng những<br />
Minh của GV, GV ở các nhà trường; việc từ thuần Việt nhằm không ngừng làm trong<br />
nghiên cứu, quán triệt và rèn luyện phong sáng tiếng nói của dân tộc.<br />
cách diễn đạt Hồ Chí Minh là một nội dung Bút pháp và cách bi u đạt tư tưởng của<br />
rất thiết thực, nhằm nâng cao hiệu quả nói và Người vô cùng “hoạt”, biến hóa và sinh<br />
viết của GV, GV góp phần nâng cao chất động tùy vào tình huống giao tiếp. Khi cụ<br />
lượng truyền thụ tri thức, tạo nên uy tín sư th , trực quan: “Dùng người cũng như<br />
phạm của những người thầy, qua đó trực tiếp dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ,<br />
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các thẳng, cong, đều tuỳ chỗ mà dùng được”[5,<br />
nhà trường hiện nay. tr.88]. Khi hết sức kiệm lời mà mỗi câu từ<br />
2. Phong cách diễn đạt của Hồ Chí Minh lại mang sức nặng của một tuyên ngôn:<br />
Đặc trưng nổi bật trong phong cách “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”,<br />
diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” hay<br />
<br />
66<br />
“Dân cường thì quốc thịnh”. Lúc đanh rẫy là chiến trường/ Cuốc cày là vũ khí/ Nhà<br />
thép, kiên quyết: “Chúng ta muốn hoà nông là chiến sỹ/ Hậu phương thi đua với<br />
bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng tiền phương”[6, tr.44]. Với phụ nữ, còn bị<br />
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng trong nam<br />
càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước khinh nữ trong xã hội Phong kiến, tiến lên<br />
ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất xây dựng chủ nghĩa xã hội phải tạo ra sự<br />
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, bình đẳng cho họ và khuyến khích họ đóng<br />
nhất định không chịu làm nô lệ”[4, tr.534]. góp công sức tham gia vào công cuộc xây<br />
Lại có khi hồn hậu, khiêm nhường: “Tôi dựng đất nước. Do vậy, trong xã hội mới họ<br />
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột không tránh khỏi những e ngại, từ nỗi e ngại<br />
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn của họ, Người khuyến khích: “Ngay việc<br />
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng ngồi cũng không bình đẳng. Phụ nữ muốn<br />
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được bình đẳng không phải bảo Đảng và<br />
được học hành. Riêng phần tôi thì làm một Chính phủ hay nam giới mời lên ngồi mới<br />
cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước ngồi mà phải tự đấu tranh phấn đấu giành<br />
biếc đ câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm lấy”[2, tr.108]. Với đồng bào miền Nam,<br />
bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, trong bối cảnh miền Bắc đã giành độc lập<br />
không dính líu gì với vòng danh lợi”[4, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, được<br />
tr.187]. Và cũng không kém phần hài hước, hưởng tự do hạnh phúc. Trong khi đó, đồng<br />
ý nhị. Chẳng hạn, khi phê phán thói ham bào Nam Bộ chưa được hưởng tự do, hạnh<br />
chuộng hình thức, Người nói: “Thí dụ, phúc, vẫn còn phải gian nan kháng chiến<br />
ngày nay tập quân sự, cốt là biết bắn súng, trường kỳ, Người làm ấm lòng đồng bào<br />
dùng dao, ném lựu đạn, dùng địa thế, khéo bằng sự quả quyết: “Đồng bào Nam Bộ là<br />
mò đêm, khéo trinh thám, nói tóm lại, cốt dân nước Việt Nam. ông có th cạn, núi có<br />
tập cho mọi người biết đánh du kích. Thế th mòn, song chân lý đó không bao giờ<br />
mà có nhiều nơi chỉ đ thì giờ tập” một hai, thay đổi!”[4, tr.280].<br />
một hai”. Thế thì khác gì tập lễ nhạc đ đi Phương pháp trình bày của Hồ Chí<br />
chữa cháy”[5, tr.94]. Minh không rườm ra, quanh co, không mất<br />
Mỗi đối tượng Hồ Chí Minh luôn chọn thời gian cho cả người nói và người nghe,<br />
một cách nói, cách viết khác nhau, phù hợp nhưng đ gây sự chú ý và tạo tác động sâu<br />
trình độ học vấn, trình độ nhận thức xã hội, sắc nhất đến người nghe, người đọc, Người<br />
quan niệm thẩm mỹ, và các đặc đi m về thường đi thẳng vào vấn đề định trình bày.<br />
tâm lý, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tôn Trong nhiều bài nói và bài viết trước đồng<br />
giáo, tín ngưỡng của từng nhóm đối tượng. bào, đồng chí, Người thường trình bày<br />
Nhờ đó, những bài nói, bài viết của Người thẳng vào vấn đề bằng phương pháp phát<br />
luôn được mọi người cảm thụ sâu sắc và có vấn (tức là đặt câu hỏi) như: Vì sao chúng<br />
sức thuyết phục mạnh mẽ. Về vấn đề này, ta ta vào Đảng? Phải chăng đ thăng quan,<br />
có th thấy rất rõ trong cách diễn đạt biến phát tài?”[8, tr.112] au đó, Người trả lời<br />
hóa và uy n chuy n của Hồ Chí Minh trước và giải thích ngắn gọn rằng: “Không<br />
từng đối tượng, trong từng tình huống. Với phải!... Chúng ta vào Đảng là đ hết lòng<br />
nông dân, Người nói theo cách nói của họ, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân<br />
mộc mạc, đơn sơ mà đầy thôi thúc: “Ruộng dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng<br />
<br />
67<br />
viên”[8, tr.112]. Đây là nhiệm vụ rất to lớn tích, giản dị, dễ hi u; biết cách khéo léo sử<br />
và nặng nề. Hoặc khi nói về chủ nghĩa xã dụng ngôn ngữ phù hợp với đối tượng truyền<br />
hội, Người thường đặt câu hỏi “chủ nghĩa đạt đ hình thành nên kỹ năng nói và viết<br />
xã hội là gì”. Hay như khi nói về “Dân nhằm lôi cuốn hấp dẫn HS, SV vào bài<br />
vận” Người cũng đặt vấn đề: Dận vận là giảng của mình qua đó nâng cao chất lượng<br />
gì? i phụ trách dân vận? Dân vận phải thế giảng dạy. Rèn luyện phong cách diễn đạt<br />
nào? Cuối bài Người kết luận: Lực lượng Hồ Chí Minh của GV, GV các nhà trường<br />
của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. hiện nay cần quán triệt những chỉ dẫn của<br />
Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân Hồ Chí Minh về cách nói và cách viết.<br />
vận khéo thì việc gì cũng thành công Thứ nhất là, trước khi định diễn đạt<br />
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, bất cứ một vấn đề gì mỗi GV, GV cần quán<br />
chúng ta đều thấy Người dùng phương triệt quan điểm: “Viết cho ai xem? Nói cho<br />
pháp đó đ trình bày tư tưởng lý luận phức ai nghe?”[5, tr.346] và “nói/viết để làm<br />
tạp, cao siêu trở nên đơn giản đ ai cũng gì? … nói/viết cái gì?”[7, tr.205] của Hồ<br />
hi u được. Người nói: “ ách này muốn nói Chí Minh. Tức là phải xác định đúng và<br />
cho vắn tắt, dễ hi u, dễ nhớ. Chắc có người trúng đối tượng từ đó xác định nói viết đ<br />
sẽ chê rằng văn chương cụt quằn. Vâng! làm gì và như thế nào. Mỗi GV, GV trong<br />
Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau giảng dạy luôn phải đảm nhiệm nhiều đối<br />
mắn, chắc chắn như 2 lần 2 là 4, không tô tượng H , V khác nhau, trình độ khác<br />
vẽ, trang hoàng gì cả ách này chỉ ước nhau. Có th cùng một nội dung giảng dạy<br />
ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ nhưng giảng cho nhiều đối tượng: trung<br />
rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn cấp, cao đẳng, đại học mỗi đối tượng đó<br />
kết nhau mà làm cách mệnh. Văn chương có trình độ nhận thức khác nhau, yêu cầu,<br />
và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: mục đích truyền thụ khác nhau. Do vậy,<br />
Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách xác định trúng và đúng đối tượng có ý<br />
mệnh!!!”[3, tr.283]. nghĩa quyết định đến việc lựa chọn phương<br />
3. Học tập phong cách diễn đạt Hồ pháp truyền thụ, nội dung nào cần tập<br />
Chí Minh như thế nào? trung Vì: muốn cho người xem hi u<br />
Như vậy, với phong cách diễn đạt của được, nhớ được, làm được thì phải viết cho<br />
Hồ Chí Minh, nói và viết đã vượt qua giới đúng trình độ người xem [7, tr.207]. Nói<br />
hạn của kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, từ cách khác, phải từ đối tượng đ đặt ra mục<br />
thuần túy và trở thành một nghệ thuật, thứ đích nào là phù hợp và nội dung nào là<br />
nghệ thuật giàu khả năng chinh phục, đi thiết thực. Xác định sai đối tượng chắc<br />
thẳng vào lòng người đọc, người nghe. Tìm chắn sẽ không biết họ đang cần cung cấp<br />
hi u, học tập và rèn luyện phong cách diễn thông tin gì và sử dụng phương pháp nào<br />
đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ giúp cho đ truyền tải nội dung. Vì vậy, hiệu quả<br />
chúng ta nâng cao trình độ diễn đạt, hoàn truyền thụ tri thức của GV, GV sẽ không<br />
thiện kỹ năng giao tiếp của mỗi người nói cao, thậm chí dẫn đến phản tác dụng, gây<br />
chung và GV, GV nói riêng. Rèn luyện rối trí cho người nghe. Hậu quả của nó<br />
phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh của GV, cũng giống như thí dụ mà Hồ Chí Minh<br />
GV ở các nhà trường hiện nay là rèn luyện nêu ra là: “Nhiều đồng chí ta không hi u<br />
cho mình cách nói cách viết ngắn gọn, súc cái lẽ rất giản đơn đó. Cho nên họ đã đưa<br />
<br />
68<br />
thặng dư giá trị nhồi sọ cho thanh niên và nông, binh, đọc lại. Chỗ nào ngúc ngắc,<br />
phụ nữ nông dân. Họ đã đưa tân dân chủ chữ nào khó hi u, họ nói ra cho thì phải<br />
chủ nghĩa nhồi sọ các em nhi đồng. Họ đã chữa lại”[7, tr.208]. Vì vậy, khi chuẩn bị<br />
đưa biện chứng pháp nhồi sọ công nhân bài giảng phải “nghĩ cho chín” các vấn đề<br />
đang học quốc ngữ”[5, tr.343]. định trình bày, phải “sắp đặt cẩn thận” các<br />
Thứ hai là GV, GV cần thường xuyên nội dung theo lô gic. oạn xong rồi phải<br />
rèn luyện cách diễn đạt ngắn gọn, súc tích, đọc đi, đọc lại đ soát nội dung. Trước khi<br />
dễ hiểu của Hồ Chí Minh. Hoạt động chủ giảng bài phải tập giảng cho chu đáo, chỗ<br />
yếu của GV, GV là truyền đạt những tri thức, nào cần nói ít, chỗ nào cần nói nhiều, sử<br />
kinh nghiệm tới người học. Do vậy, diễn đạt dụng ngôn từ nào cho phù hợp Khi giảng<br />
là khả năng quan trọng đối với GV, GV, bài phải “nói phải cho gọn gàng, có đầu, có<br />
muốn làm chủ quá trình tư duy và nâng cao đuôi, có nội dung... Nói ít, nhưng nói cho<br />
hiệu quả truyền thụ, mỗi GV, GV đều phải thấm thía, nói cho chắc chắn” 7, tr.209].<br />
trau dồi khả năng diễn đạt. Nếu không có Thứ ba là học tập cách sử dụng ngôn<br />
khả năng diễn đạt thì chất lượng, hiệu quả ngữ diễn đạt trong sáng, giản dị, dễ hiểu<br />
truyền thụ tri thức sẽ rất hạn chế và chất phù hợp với đối tượng, trình bày vấn đề gì<br />
lượng giáo dục không được nâng lên. Hồ phải rõ ràng, chân thực. ử dụng ngôn từ<br />
Chí Minh đã từng chê cách diễn đạt “dài, đ diễn đạt của GV, GV có tác động mạnh<br />
dòng này qua dòng khác, trang này qua mẽ đến tình cảm, mức độ hứng thú, qua đó<br />
trang khác, trường giang đại hải, làm cho tác động đến khả năng tiếp nhận những<br />
người xem như là “chắt chắt vào rừng kiến thức của H , V. Nếu sử dụng những<br />
xanh” là lối viết rau muống, dài dòng, ngôn từ khó hi u, uyên bác thì người nghe<br />
rỗng tuếch”[7, tr.207]. Đ đạt được lối diễn sẽ cảm thấy khó hi u dẫn tới nhanh chán,<br />
đạt ngắn gọn, súc tích, dễ hi u, theo Hồ không muốn nghe. Ngược lại, nếu sử dụng<br />
Chí Minh mỗi GV, GV phải chuẩn bị bài ngôn ngữ không trong sáng, rõ ràng sẽ<br />
giảng thật chu đáo trước khi giảng bài, không phản ánh được nội dung cần truyền<br />
tránh lối làm việc “lụp chụp, cẩu thả”. Nếu đạt. Việc sử dụng ngôn từ đ diễn đạt quyết<br />
chuẩn bị bài không chu đáo, cẩn thận lúc định tới hiệu quả truyền thụ tri thức của<br />
giảng bài sẽ gặp phải hậu quả là: “trước khi GV, GV đến H , V. ử dụng ngôn từ nào<br />
nói không sắp sửa kỹ càng. Lúc ra nói hoặc phải chính xác, đầy đủ rõ ràng và đủ ý, cô<br />
lắp lại những cái người trước đã nói hoặc đọng, hàm súc, ý nhiều lời ít, không có lời<br />
lắp đi lắp lại cái mình đã nói rồi. lúng túng thừa, chữ thừa. Vì vậy, những từ nào biết<br />
như gà mắc tóc. Thôi đi thì trẽn. Nói nữa chắc chắn nghĩa của nó thì mới dùng,<br />
thì chán tai”[5, tr.341]. Đồng thời khi không nên vay mượn, lắp ghép tiếng nước<br />
chuẩn bị bài giảng xong cần học tập theo ngoài một cách tùy tiện; phải ưu tiên sử<br />
cách thức hoàn thiện một bài viết trước khi dụng tiếng Việt đ diễn đạt. Hồ Chí Minh<br />
diễn đạt của Người: “Viết rồi thì phải đọc đã khuyên: “Những chữ mà không biết rõ<br />
đi, đọc lại. Thấy cái gì thừa, câu nào, chữ thì chớ dùng. Những chữ mà tiếng ta có thì<br />
nào thừa, thì bỏ bớt đi. Đọc đi đọc lại 4, 5 phải dùng tiếng ta, bất đắc dĩ thì mới dùng<br />
lần đã đủ chưa? Chưa đủ. Đọc đi đọc lại, chữ”[7, tr.208]. Đ sử dụng ngôn từ diễn<br />
sửa đi sửa lại. Mình đọc mấy lần rồi cũng đạt được trong sáng giản dị, dễ hi u, Hồ<br />
chưa đủ. Phải nhờ một số đồng chí công, Chí Minh còn chỉ ra rằng phải chống lại<br />
<br />
69<br />
căn bệnh hay nói chữ, ham dùng chữ, bệnh hỏi, tích lũy, phải không ngừng nâng cao<br />
sính dùng chữ nước ngoài nào đã quen vốn liếng hiểu biết, vốn ngôn từ phong phú.<br />
thuộc, đã “hoá thành chữ ta” mà không Phong cách diễn đạt được tạo nên bởi nội<br />
dùng thì không đúng. Bác Hồ đã nêu ví dụ: dung diễn đạt và phương pháp diễn đạt.<br />
ta nói độc lập chứ không nói đứng một, nói Nội dung diễn đạt là những tri thức, những<br />
du kích chứ không nói đánh chơi. Còn đối kinh nghiệm mà GV, GV cần truyền thụ;<br />
với bệnh lạm dụng chữ nước ngoài thì dù phương pháp diễn đạt là cách thức sử dụng<br />
dùng đúng cũng đã có hại, nếu dùng sai ngôn ngữ, lối diễn đạt, cách lập luận, cách<br />
theo ki u dốt hay nói chữ thì cái hại lại truyền tải nội dung đến người nghe. Vì<br />
càng to . vậy, nội dung diễn đạt là chất liệu tạo nên<br />
Bên cạnh đó, mục đích của hoạt động phong cách diễn đạt, phương pháp diễn đạt<br />
giảng dạy của GV, GV là làm cho H , V là phương tiện đ tạo ra phong cách diễn<br />
“hi u được, nhớ được, làm được”[7, đạt. Theo đó, muốn nói tốt, nói hay, cái cần<br />
tr.207]. Giảng giải vấn đề gì cốt là đ giáo trước hết là phải có nội dung đ nói. Chủ<br />
dục, cổ động, nâng cao nhận thức, định tịch Hồ Chí Minh từng khuyên “Không<br />
hướng hành động, giúp H , V có kiến biết rõ, hi u rõ, chỉ nói, chớ viết. Khi<br />
thức đ làm việc. Nếu H , V mà không không có gì cần nói, không có gì cần viết,<br />
nhớ được, không hi u được, là giảng dạy chớ nói, chớ viết càn”[5, tr.342]. Như vậy,<br />
không đúng mục đích, không đạt yêu cầu. trước hết GV, GV phải có trình độ tri thức,<br />
Bởi vậy, mỗi GV, GV cần phải căn cứ vào phải có vốn hi u biết hay nói cách khác<br />
đối tượng H , V ở từng cấp học đ lựa GV, GV phải có kiến thức sâu và rộng về<br />
chọn ngôn từ nào phù hợp với trình độ lĩnh vực mình đảm nhiệm. Kiến thức đó<br />
nhận thức, trình độ tư duy của người học. bao gồm cả lý luận và thực tiễn. Vốn kiến<br />
Hồ Chí Minh đã yêu cầu khi diễn đạt “phải thức đó có được do quá trình học hỏi ở nhà<br />
viết cho đúng trình độ của người xem, trường, ở thực tiễn công tác. Trong thực<br />
người nghe, viết rõ ràng, gọn gàng, chớ tiễn công tác Hồ Chí Minh chỉ ra các tích<br />
dùng nhiều chữ”[8, tr.207]. Nghĩa là, phải lũy kiến thức cả lý luận và thực tiễn mà<br />
diễn đạt gọn gàng, rõ ràng, vắn tắt. Nhưng GV, GV có th tham khảo và học tập là:<br />
vắn tắt không phải là cụt đầu, cụt đuôi, mà “Nghe, hỏi, thấy, xem, ghi”[7, tr.206].<br />
phải có đầu, có đuôi; đối tượng người học Đối với GV, GV, nghe là lắng tai nghe<br />
ở trình độ nhận thức, tâm sinh lý, lứa tuổi H , V, nghe cấp trên, đồng nghiệp của<br />
nào thì thì sử dụng cách diễn đạt ấy cho mình xem họ có đánh giá như thế nào về<br />
phù hợp. Hồ Chí Minh cũng yêu cầu khi cách nói, cách viết, cách diễn đạt trong<br />
GV, GV đưa ra vấn đề có tính chất làm giảng bài của mình; còn là nghe chính<br />
minh chứng đ trình bày, luận giải và phân lương tâm và trách nhiệm sư phạm của<br />
tích cho các nội dung trong bài giảng. Vấn mình tự đánh giá và nhận xét về cách diễn<br />
đề đó phải nêu đầy đủ xuất xứ, phải cụ th đạt của mình sau mỗi bài giảng, thông qua<br />
rõ ràng, phải: “nói có sách, mách có những trăn trở về những gì mà mình chưa<br />
chứng”, tức là nói cái việc ấy ở đâu, thế làm được, chưa giúp H , V hi u được<br />
nào, ngày nào, nó sinh ra thế nào, phát những vấn đề mình trình bày. Hỏi là trao<br />
tri n thế nào, kết quả thế nào?”[8, tr.208]. đổi với H , V, đồng nghiệp của mình về<br />
Thứ tư là, GV, GV phải chịu khó học phương pháp diễn đạt, trình bày, giảng giải<br />
<br />
70<br />
của mình có phù hợp hay không. Thấy là Người. ự kết hợp giữa trí tuệ uyên bác và<br />
phải nắm chắc đối tượng H , V của mình nghệ thuật tu từ, cách sử dụng ngôn ngữ<br />
về trình độ, khả năng, tâm sinh lý, lứa tuổi; tạo ra phong cách diễn đạt rất độc đáo ở Hồ<br />
thấy còn là thấy thực trạng khả năng diễn Chí Minh. Học tập và rèn luyện theo phong<br />
đạt của mình ở mức độc nào . Xem là cách diễn đạt Hồ Chí Minh của GV, GV ở<br />
phải nghiên cứu, phải đọc báo chí, sách vở, các nhà trường thông qua cách nói, cách<br />
nguồn báo chí sách vở càng đa dạng càng viết của Người hãy bắt đầu từ những điều<br />
tốt đ có vốn tri thức chuyên môn, phải tích chúng ta tưởng như nhỏ nhất đó là cách<br />
cực sâu sát thực tiễn đ có kiến thức thực nói, cách viết, nó đơn giản, mộc mạc<br />
tiễn; xem còn là học hỏi ở đồng nghiệp của nhưng là cơ sở đ chúng ta thực hiện<br />
mình, ở những người xung quanh mình những ước nguyện lớn hơn trong sự nghiệp<br />
những phương pháp diễn đạt hay, cách giáo dục của nước nhà.<br />
thức trình bày tốt, k cả những ngôn từ hay<br />
sâu sắc, ý nghĩa. Ghi là chép lại những gì Tài liệu tham khảo<br />
đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã đọc được<br />
đ bổ sung những cái mình còn thiếu và 1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị<br />
yếu, từ đó hoàn thiện mình. au khi “nghe, quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013, Hội<br />
hỏi, thấy, xem và ghi”, Bác còn lưu ý nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn<br />
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.<br />
chúng ta không nên giữ lòng tự ái cá nhân<br />
mà phải biết tự phê bình và phê bình, phải 2. Phạm Hoàng Điệp (2008), Chủ tịch Hồ Chí<br />
Minh với sự tiến bộ của phụ nữ, Nxb Văn hóa<br />
biết nỗ lực cố gắng đ sửa chữa hoàn thiện<br />
Thông tin.<br />
cách nói cách viết của mình. Người khẳng<br />
3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb<br />
định: “Nói tóm lại, viết cũng như mọi việc CTQG – ST, Hà Nội.<br />
khác, phải có chí, chớ giấu dốt, nhờ tự phê<br />
4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb<br />
bình và phê bình mà tiến bộ. Quyết tâm thì CTQG – ST, Hà Nội.<br />
việc gì khó mấy cũng làm được”[7, tr.212]. 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb<br />
4. Kết luận CTQG – ST, Hà Nội.<br />
Hồ Chí Minh là một đi n hình mẫu 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb<br />
mực trong cách thức sử dụng nghệ thuật tu CTQG – ST, Hà Nội.<br />
từ và cách sử dụng ngôn ngữ. Bên cạnh đó, 7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb<br />
sự uyên bác về trí tuệ và sự trải nghiệm CTQG – ST, Hà Nội.<br />
thực tiễn là những chất liệu tạo nên nội 8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb<br />
dung trong những bài nói bài viết của CTQG – ST, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 19/8/2015 Biên tập xong: 05/11/2015 Duyệt đăng: 10/11/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
71<br />