intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hợp đồng mua bán theo công ước Vienna 1980

Chia sẻ: Dragon Good | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

143
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Một là đề nghị đó phải được gửi tới một hoặc nhiều người cụ thể. Hai là đề nghị đó phải đủ chính xác, tức là phải nêu rõ tên hàng và ấn định rõ ràng hoặc ngầm định hay quy định phương pháp xác định số lượng và giá cả. Ba là phải chỉ rõ ý chí của người đề nghị muốn tự ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp có chấp nhận. Nếu một đề nghị không thoả mãn điều kiện thứ nhất, nhưng người đề nghị nêu rõ đó là một chào hàng thì đề nghị đó cũng được coi là một...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hợp đồng mua bán theo công ước Vienna 1980

  1. Hợp đồng mua bán theo công ước Vienna 1980: Hiệu lực của chào hàng (Phần 1) 09:39' AM - Thứ ba, 16/03/2004 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế năm 1980 (CISG - Công ước Vienna) quy định một đề nghịphải thoả mãn ba điều ki ện mới trở thành một chào hàng. Một là đề nghị đó phải được gửi tới một hoặc nhiều người cụ thể. Hai là đề nghị đó phải đủ chính xác, tức là phải nêu rõ tên hàng và ấn đ ịnh rõ ràng ho ặc ng ầm đ ịnh hay quy định phương pháp xác định số lượng và giá cả. Ba là ph ải ch ỉ rõ ý chí c ủa ng ười đề nghị muốn tự ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp có chấp nhận. Nếu một đ ề nghị không thoả mãn điều kiện thứ nhất, nhưng người đề nghị nêu rõ đó là m ột chào hàng thì đề nghị đó cũng được coi là một chào hàng. Trong ba đi ều ki ện thì đi ều ki ện thứ hai là quan trọng nhất vì nó xác định tính chất của giao d ịch là giao d ịch mua bán hàng hoá. Để thể hiện một giao dịch mua bán thì nội dung c ủa giao d ịch ph ải xác đ ịnh rõ đối tượng hàng hoá (tên hàng và số lượng) và phải xác đ ịnh giá cả đ ể phân bi ệt v ới giao dịch khác (tặng, cho...). Mặc dù vậy, CISG lại quy định nếu h ợp đ ồng đ ược ký k ết hợp pháp nhưng trong hợp đồng không ấn định rõ ràng ho ặc ngầm đ ịnh hay quy đ ịnh phương pháp xác định giá cả thì giá cả trong hợp đ ồng đ ược coi là giá trên th ị tr ường trong những điều kiện tương tự vào thời điểm ký kết hợp đồng (Điều 55). Điều này khiến người ta hiểu có sự mâu thuẫn là nếu coi điều kho ản giá là đi ều kho ản b ắt bu ộc phải có trong chào hàng thì hợp đồng không xác đ ịnh giá cả s ẽ không đ ược coi là "ký kết hợp pháp" và do đó quy định này trở nên vô nghĩa. Nh ưng trong th ương m ại qu ốc tế, một hợp đồng không thể hiện rõ một trong ba nội dung trên, nh ưng d ựa vào nh ững thói quen được thiết lập giữa các bên mà có thể xác định đ ược ý đ ịnh c ủa các bên v ề các nội dung đó thì hợp đồng đó vẫn có hiệu lực. Theo các nguyên tắc giải thích hợp đồng của Công ước của Liên Hi ệp Qu ốc thì m ột hợp đồng phải được giải thích theo cách hiểu, ý định thông th ường c ủa các bên, sau đó là theo cách hiểu của người bình thường có đủ năng l ực hành vi dân s ự ho ặc theo ý định của bên đó nếu bên kia biết hoặc không thể không bi ết. Th ực t ế, khi các bên đã thiết lập những thói quen với nhau thì những n ội dung đ ược các bên hi ểu theo thói quen đó sẽ không được nêu trong hợp đồng và chúng được coi là các bên đã ng ụ ý (ngầm hiểu) với nhau về những nội dung đó. Điều này cho phép các bên trong h ợp đồng không cần thoả thuận đầy đủ các nội dung (cơ bản). Cần lưu ý rằng CISG quy định ba điều kiện trên là các điều kiện để một đề nghị trở thành một chào hàng, vì th ế chỉ nên hiểu đó là các điều kiện bắt buộc của một chào hàng mà không ph ải là c ủa hợp đồng. Cần lưu ý rằng CISG quy định ba điều kiên trên là các điều ki ện đ ể m ột đ ề ngh ị tr ở thành một chào hàng, song không có quy định nào nói rằng đó là các n ội dung b ắt buộc của hợp đồng mua bán hàng hoá ( vì có thể thi ết lập h ợp đ ồng không qua chào hàng, chấp nhận chào hàng). Do đó, chỉ nên hiểu đó là các đi ều ki ện b ắt bu ộc c ủa một chào hàng mà không phải là của hợp đồng. Từ phân tích trên, có thể lý giải sự khác nhau giữa hai quy đ ịnh c ủa CISG là do khi chào hàng được gửi đi thì giữa các bên chưa thiết lập thói quen đ ối v ới giao d ịch mua
  2. bán nêu trong chào hàng đó. Do vậy, một đề nghị được coi chào hàng thì ph ải có các nội dung bắt buộc, nhưng không đồng nghĩa điều kiện đó cho m ọi h ợp đ ồng mua bán. Tuy vậy, nếu như những lập này ủng hộ các quy định về nội dung cơ bản của chào hàng của CISG thì nó lại chỉ ra hạn chế trong việc CISG ch ỉ quy đ ịnh th ời đi ểm h ợp đồng có hiệu lực đối với phương thức giao kết hợp đồng qua chào hàng, ch ấp nh ận chào hàng mà không đề cập đến các phương thức khác. Phạm Đình Thưởng Theo Điều 15 CISG chào hàng bắt đầu có hiệu lực kể từ khi bên chào hàng đ ược chào hàng nhận được . Nhưng theo Điều 20 CISG thì thời hạn đ ể chấp nhận chào hàng bằng thư, điện tín lại "bắt đầu từ lúc bức điện được giao để gửi đi hoặc từ ngày ghi trên thư hoặc nếu không có ngày đó thì là ngày ghi trên bì th ư" và thời hạn để chấp nhận chào hàng bằng điện thoại, telex ho ặc phương tiện thông tin tức thời khác thì "bắt đầu từ thời đi ểm chào hàng tới n ơi ng ười đ ược chào hàng". Phải chăng hai quy định này của CISGmâu thuẫn nhau? Rõ ràng một thông báo chấp nhận tới nơi người chào hàng tr ước khi chào hàng có hi ệu lực thì chưa thể coi là một chấp nhận (chào hàng). Nhưng một chấp nhận nh ư vậy sẽ trở nên có hiệu lực khi chào hàng bắt đầu có hiệu lực, vì nó đảm b ảo trong th ời h ạn hiệu lực của chào hàng thì chấp nhận đó đã tới nơi ng ười chào hàng. Chính vì v ậy, Điều 18 CISG quy định "chấp nhận chào hàng có hi ệu l ực kể t ừ khi nó t ới n ơi ng ười chào hàng" - mà nếu chỉ dừng ở đây thì rõ ràng mâu thuẫn v ới Đi ều 20 - nh ưng Đi ều 18 còn quy định: "Chấp nhận chào hàng không phát sinh hi ệu l ực n ếu nó không đ ược gửi tới người chào hàng trong thời hạn quy định trong chào hàng ho ặc, n ếu không có thời hạn đó, thì trong khoảng thời gian hợp lý". Nếu nh ư quy đ ịnh chào hàng có hi ệu lực kể từ khi nó được gửi đi thì chưa hẳn có lợi cho bên được chào hàng. Nh ưng ng ược lại sẽ bất lợi cho người chào hàng trong trường hợp vì lý do nào đó chào hàng t ới n ơi người được chào hàng rất muộn. Có lẽ vì lý do này mà thời hạn chấp nhận chào hàng theo CISG (Điều 20) được chia thành hai trường hợp theo ph ương th ức trên. Thêm n ữa một thời hạn hợp lý được xác định là thời hạn hiệu lực của chào hàng đ ược xác đ ịnh trên cơ sở căn cứ vào nhiều tình tiết, trong đó có t ốc độ truyền tin c ủa ph ương ti ện truyền tin. Điều đó đảm bảo được quyền lợi của cả hai bên m ột cách h ợp lý. Nhưng Luật Thương mại quy định về "thời hạn trách nhiệm" của bên chào hàng và bên chấp nhận chào hàng (Điều 53). Nhưng thời hạn trách nhi ệm của các bên và th ời h ạn hiệu lực là không đồng nhất. Bởi vì một chấp nhận chào hàng đ ược g ửi đi s ẽ ràng buộc trách nhiệm của bên chấp nhận nhưng không thể có hi ệu lực nếu không t ới n ơi bên chào hàng. Hơn nữa, dựa vào quy định về thời điểm ký kết hợp đồng ("h ợp đ ồng mua bán hàng hoá được coi là đã ký kết kể t ừ thời điểm bên chào hàng nh ận đ ược thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong th ời h ạn trách nhiệm của người chào hàng" (Điều 55) thì có thể suy luận rằng ch ấp nh ận chào hàng có hiệu lực kể từ khi bên chào hàng nhận được thông báo ch ấp nhận ch ứ không ph ải từ khi nó được gửi đi. Tóm lại, theo Công ước Vienna thì: chào hàng có hi ệu l ực k ể t ừ khi nó t ới n ơi ng ười được chào hàng nhưng thời hạn để chấp nhận chào hàng được bắt đầu t ừ khi chào hàng được gửi đi đối với thư, điện tín và từ khi chào hàng t ới n ơi ng ười đ ược chào đ ối với các phương tiện truyền thông tức thời;thời hạn hiệu l ực của chào hàng đ ược ng ười chào ấn định hoặc là một khoảng thời gian hợp lý; chấp nhận chào hàng có hi ệu l ực kể từ khi nó tới nơi người chào hàng trong thời hạn hi ệu l ực c ủa chào hàng. Theo Lu ật
  3. Thương mại thì chào hàng sẽ có hiệu lực kể từ khi nó được gửi đi mà không phân bi ệt hình thức truyền tin và có hiệu lực trong vòng 30 ngày n ếu không có quy đ ịnh khác. V ới quy định như vậy, CISG cho phép các bên có thể thu h ồi chào hàng và ch ấp nh ận chào hàng nếu thông báo thu hồi đến trước hoặc cùng lúc v ới chào hàng và ch ấp nh ận chào hàng (tức là khi chúng chưa có hiệu lực). Luật Thương mại không quy đ ịnh nh ư vậy khi đã quy định thời hạn trách nhiệm của các bên là từ khi chào hàng và ch ấp nhận chào hàng được gửi đi. Về những nội dung cơ bản của chào hàng: Công ước Vienna quy đ ịnh m ột thông báo trả lời tỏ ý chấp nhận chào hàng nhưng có những sửa đ ổi, b ổ sung vẫn đ ược coi là một chấp nhận chào hàng nếu những sửa đổi, bổ sung đó không làm thay đ ổi tính ch ất những điều kiện của chào hàng (trừ trường hợp người chào hàng ngay l ập t ức thông báo không đồng ý về những sửa đổi đó). Những sửa đổi, bổ sung liên quan đ ến các nội dung (nhưng không giới hạn ở) giá cả, thanh toán, chất l ượng, s ố l ượng c ủa hàng hoá, địa điểm và thời hạn giao hàng, phạm vi trách nhi ệm của m ột bên đ ối v ới bên kia hay việc giải quyết tranh chấp được coi là những sửa đổi, bổ sung làm thay đ ổi tính chất các điều khoản của chào hàng. Với quy định như vậy, tám nội dung trên thường được xem là những n ội dung c ơ b ản (chủ yếu) của chào hàng hay của hợp đồng. Đó là những nội dung quan tr ọng liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong h ợp đ ồng. Nh ưng đó không ph ải là những nội dung bắt buộc của chào hàng hay hợp đồng, khác v ới ba n ội dung b ắt bu ộc để một đề nghị (thoả mãn hai điều kiện còn lại) được coi là một chào hàng. Về thời điểm ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá: Công ước Vienna quy đ ịnh h ợp đ ồng được coi là ký kết từ thời điểm chấp nhận chào hàng tới nơi người chào hàng nh ưng không đề cập đến các hình thức giao kết khác. Ngoài quy đ ịnh nh ư Công ước Vienna, Luật Thương mại còn quy định hợp đồng có hiệu lực kể từ khi các bên có m ặt ký vào bản hợp đồng đối với hình thức giao kết này. Theo các Nguyên t ắc c ủa Unidroit v ề H ợp đồng thương mại quốc tế thì hợp đồng có thể được ký kết bằng cách chấp nhận chào hàng hoặc bằng cách khác của các bên miễn là nó thể hi ện sự thoả thu ận gi ữa các bên. Kết luận: Một trong những bất cập lớn của các chế định về hợp đ ồng trong Lu ật Thương mại hiện hành là gây ra nhiều hợp đồng vô hi ệu trong th ực t ế, không đáp ứng được mong muốn của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại và gây nhi ều t ốn kém. Từ những phân tích trên cần tham khảo, cân nhắc các quy đ ịnh c ủa Công ước Vienna để sửa đổi các điều khoản quy định về hợp đồng trong Lu ật Thương mại cho phù hợp. Phạm Văn Thưởng THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 09/11/2007 Giải quyết hợp đồng mua bán quốc tế
  4. Công ước Vienne năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) đ ược so ạn th ảo b ởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) trong một nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Công ước này đã trở thành công ước được áp dụng rộng rãi nh ất trong s ố các đi ều ước quốc t ế đa phương về mua bán hàng hoá quốc tế. Cho đến thời điểm hi ện nay, đã có 66 quốc gia là thành viên Công ước này . Từ khi công ước có hiệu lực (ngày 01/01/1988), đến thời điểm hiện nay tổng số các b ản án, phán quyết đã lên tới hơn 1.600. CISG cũng góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy sự phát tri ển của quan hệ thương m ại về hàng hoá giữa các quốc gia. Việc cùng trở thành thành viên của công ước giúp các quốc gia xích l ại g ần nhau h ơn trong quan hệ mua bán, giúp cho việc giải quyết các tranh ch ấp phát sinh t ừ h ợp đ ồng mua bán hàng hoá quốc tế được nhanh chóng và thuận lợi hơn. Trong số hàng nghìn án lệ về CISG, đã có một án lệ liên quan đến Việt Nam. Đây là án l ệ v ề tranh chấp giữa Công ty thương mại Tây Ninh - Tanico (Việt Nam) và DN Ng Nam Bee (Singapore), đ ược xét xử tại Toà phúc thẩm - TAND Thành phố Hồ Chí Minh, bản án tuyên ngày 4/5/1996. Khi xét x ử v ụ vi ệc này, Toà án đã tham chiếu điều 29 và điều 53, điều 64 CISG. Đây là một án l ệ về CISG đ ầu tiên đ ối v ới Việt Nam. Án lệ này cho thấy, dù Việt Nam chưa phải là thành viên công ước, nh ưng v ẫn có nh ững trường hợp công ước này có thể được áp dụng ở Việt Nam. Câu hỏi được đặt ra là: một khi VN chưa trở thành một quốc gia thành viên c ủa công ước thì khi nào và trong trường hợp nào, CISG có thể được áp dụng t ại VN? Vì vậy, để xem xét các trường hợp có thể áp dụng CISG ở Việt Nam, chúng ta c ần nghiên c ứu Đi ều 1 của CISG. Điều 1.1 của CISG quy định: "Công ước này áp d ụng cho các hợp đ ồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau: a. Khi các quốc gia này là các qu ốc gia thành viên của công ước; b. Khi theo các quy phạm t ư pháp quốc t ế thì luật áp d ụng là lu ật c ủa m ột qu ốc gia thành viên của công ước." Khi Việt Nam chưa là thành viên của CISG thì không thể áp d ụng CISG theo đi ều 1.1.a nói trên cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà một bên là bên Việt Nam. Tuy vậy, ở trường hợp thứ hai, CISG sẽ có thể được áp dụng cho các h ợp đ ồng mua bán qu ốc t ế được ký kết giữa một bên có trụ sở thương mại tại một quốc gia là thành viên và m ột bên có tr ụ s ở thương mại tại một quốc gia chưa phải là thành viên công ước. Lấy ví d ụ, m ột h ợp đ ồng mua bán s ản phẩm viễn thông được ký kết giữa người bán Singapore (Singapore đã gia nh ập CISG vào ngày 16/02/1995 và có hiệu lực từ ngày 1/3/1996) và người mua Việt Nam (Vi ệt Nam ch ưa gia nh ập hay phê chuẩn Công ước). Hai bên không lựa chọn luật áp dụng trong hợp đ ồng. Khi có tranh ch ấp x ảy ra, toà án (trọng tài) sẽ phải dựa vào các qui phạm xung đột trong t ư pháp quốc t ế để xác định lu ật áp d ụng cho hợp đồng. Nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật nước người bán - t ức là luật Singapore, thì lu ật áp dụng cho hợp đồng sẽ là luật Singapore. Nhưng vì Singapere là một quốc gia thành viên c ủa CISG nên đối với các tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, toà án (trọng tài) s ẽ không áp d ụng lu ật của Singapore mà sẽ áp dụng CISG để giải quyết tranh chấp. Nếu tranh ch ấp đ ược gi ải quyết t ại Vi ệt Nam và quy phạm xung đột của Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của m ột quốc gia thành viên công ước thì chúng ta cũng có kết quả tương t ự: đó là CISG sẽ đ ược áp d ụng cho h ợp đ ồng. Đây là đi ểm mà các DN Việt Nam cần chú ý nhằm có được thế chủ động khi CISG đ ược áp d ụng vào h ợp đ ồng theo trường hợp thứ hai nêu trên. Ngoài trường hợp nói trên, còn có hai trường hợp khác ở đó CISG có thể đ ược áp d ụng: - Khi các bên trong hợp đồng lựa chọn CISG là luật áp dụng cho hợp đ ồng c ủa mình; - Khi trong hợp đồng, các bên không lựa chọn luật áp dụng và cơ quan gi ải quy ết tranh ch ấp l ựa chọn CISG để giải quyết tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh ch ấp có thể là toà án VN, toà án n ước ngoài, trọng tài VN hay trọng tài nước ngoài. Khuyến nghị cho các DN VN Khuyến nghị thứ nhất là DN cần nghiên cứu để nắm được tinh thần và nội dung của CISG: Theo chúng tôi sẽ còn có nhiều tranh chấp nữa về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc t ế gi ữa doanh ngi ệp Vi ệt Nam và các đối tác nước ngoài sẽ được giải quyết bằng CISG bởi các tòa án Vi ệt Nam, tòa án n ước ngoài và đặc biệt là các trọng tài quốc tế. Như vậy, tuy Việt Nam chưa tham gia CISG nh ưng các tranh chấp trong mua bán hàng hoá quốc tế của các DN nước ta rất có thể s ẽ đ ược xét x ử theo Công ước này. Vì vậy, chúng tôi nhấn mạnh trước hết đến việc phổ biến Công ước này cho các DN xuất nh ập kh ẩu Vi ệt
  5. Nam, tạo điều kiện cho các DN tiếp cận và nắm được tinh thần và nội dung của Công ước này. B ộ Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI có thể tổ ch ức các khoá h ọc cho DN nhằm mục đích này. Các DN cũng có thể tham gia các khoá học do trường Đ ại h ọc Ngo ại Th ương t ổ chức (ví dụ các khoá học xuất nhập khẩu ngắn hạn, các lớp học chuyên đ ề về xuất nh ập kh ẩu…). Ngoài ra, các DN có thể chủ động tiếp cận với các nguồn thông tin rất phong phú, đa d ạng trên Internet liên quan đến CISG. Khuyến nghị thứ hai là DN có thể lựa chọn CISG là luật áp dụng cho hợp đồng: L ựa ch ọn luật áp dụng luôn là một vấn đề quan trọng và khó khăn đối với các nhà đàm phán h ợp đ ồng mua bán hàng hoá quốc tế của Việt Nam. Họ có sự lựa chọn giữa luật Việt Nam, luật quốc gia c ủa đ ối tác, lu ật qu ốc gia của nước thứ ba, điều ước quốc tế như CISG hay t ập quán thương m ại quốc t ế… Hiện tại Việt Nam chưa gia nhập CISG nhưng các DN xuất nhập khẩu Vi ệt Nam có thể l ựa ch ọn CISG làm nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc t ế vì ba lý do sau: - Thứ nhất, tránh được những khó khăn khi phải đàm phán lựa chọn luật quốc gia làm luật áp d ụng cho hợp đồng. Trên thực tế, việc lựa chọn luật quốc gia thường gặp phải rất nhi ều khó khăn. § Nếu như các nhà đàm phán nước ngoài thường có xu hướng l ựa ch ọn luật quốc gia c ủa mình thì điều này lại không hoàn toàn đúng với các nhà đàm phán Việt Nam. H ọ hi ểu r ằng vi ệc d ẫn chi ếu đ ến luật Việt Nam đôi khi không phải là giải pháp t ối ưu, vì pháp luật về h ợp đ ồng nói chung và v ề h ợp đ ồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng của Việt Nam còn hàm ch ứa nhi ều quy đ ịnh ch ưa phù h ợp v ới đi ều kiện quốc tế, với pháp luật, tập quán thương mại quốc tế và như vậy, chưa th ể b ảo vệ m ột cách hi ệu quả lợi ích của các bên trong hợp đồng quốc tế. § Việc lựa chọn luật quốc gia của nước ngoài có thể đem lại những rủi ro pháp lý cho DN Vi ệt Nam do thiếu sự hiểu biết đầy đủ về luật đó. - Thứ hai, đây là nguồn luật phổ biến nhất điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc t ế hi ện nay. CISG đã được phê chuẩn bởi 66 quốc gia, trong đó có rất nhi ều quốc gia là b ạn hàng l ớn và lâu dài của Việt Nam như Pháp, Mỹ, Italia, Liên bang Nga, Canada, Đức, Hà Lan, Australia, Trung Qu ốc... Các công ty, DN của các nước này đã áp dụng và đã quen áp d ụng CISG cho các h ợp đ ồng mua bán hàng hoá ký với các đối tác nước ngoài. Vì vậy, nếu DN Việt Nam đề xuất việc áp d ụng CISG thì s ẽ d ễ dàng được đối tác chấp nhận. - Thứ ba, có được sự an toàn về mặt pháp lý. Qua việc tìm hi ểu các quy đ ịnh của CISG cũng nh ư qua việc phân tích các án lệ liên quan đến CISG trong th ực tiễn gi ải quy ết tranh ch ấp v ề h ợp đ ồng mua bán hàng hoá quốc tế, chúng tôi thấy rằng các quy định của CISG là phù hợp v ới th ực ti ễn th ương m ại quốc tế, thường được các DN và công ty lựa chọn áp dụng cũng như đ ược các toà án, đ ặc bi ệt là các trọng tài quốc tế dẫn chiếu đến khi giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, với t ư cách là một văn b ản lu ật th ực chất nhằm giải quyết các xung đột trong kinh doanh quốc tế, các quy đ ịnh trong Công ước đ ược coi là r ất hợp lý, đã thống nhất được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên th ế gi ới, t ạo được sự bình đẳng giữa người bán và người mua trong quan hệ hợp đ ồng, giúp các bên b ảo v ệ đ ược quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi giao kết và thực hiện h ợp đ ồng mua bán hàng hoá qu ốc t ế. Khi đã thống nhất lựa chọn CISG làm luật áp dụng cho hợp đ ồng mua bán hàng hoá qu ốc t ế, vì Việt Nam chưa gia nhập Công ước nên khi ký kết hợp đồng, cho dù quốc gia c ủa đ ối tác ch ưa tham gia hay đã là thành viên của CISG, cần phải quy định cụ thể việc áp d ụng CISG trong "Đi ều kho ản Lu ật áp dụng"- "Applicable Law Clause". Điều khoản này cần được quy định cụ thể, rõ ràng, tránh gây ra nh ững xung đột khi tranh chấp phát sinh. Theo chúng tôi, muốn l ựa ch ọn CISG đ ể áp d ụng cho h ợp đ ồng, có thể quy định "Điều khoản Luật áp dụng" trong hợp đồng như sau: "Any questions relating to this Contract which are not expressly or implicitly settled by the provisions contained in the Contract itself shall be governed by the United Nations Convention on the International Sale of Goods and to the extent that such questions are not covered by CISG, by reference to the law of the country where the Seller has his place of business". (Bất kỳ vấn đề nào liên quan đến hợp đồng này mà không đ ược qui định m ột cách rõ ràng hay ngầm hiểu trong các điều khoản của hợp đồng thì sẽ được điều chỉnh b ởi Công ước Viên c ủa Liên hợp quốc về mua bán hàng hoá quốc tế, và nếu những vấn đề đó cũng không thuộc ph ạm vi đi ều ch ỉnh của CISG thì sẽ tham chiếu tới Luật của quốc gia nơi người bán đ ặt trụ s ở kinh doanh) . Nhìn vào điều khoản mẫu nói trên, sẽ có câu hỏi đặt ra là: Tại sao đã ch ọn CISG r ồi l ại còn ph ải chọn luật quốc gia nơi người bán đóng trụ sở? Mặc dù các nhà phân tích và các nhà kinh doanh h ết l ời ca ngợi CISG, nhưng CISG không phải là một công cụ toàn năng, CISG không đi ều ch ỉnh t ất c ả các v ấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Một s ố vấn đề đ ược CISG "b ỏ ng ỏ" , ví d ụ nh ư vấn đề thẩm quyền ký kết hợp đồng, điều kiện hiệu lực của hợp đồng . Do vậy, đ ể ch ặt ch ẽ và tránh
  6. phát sinh tranh chấp khi lựa chọn CISG là luật áp dụng cho h ợp đ ồng mua bán hàng hoá qu ốc t ế, các bên nên lựa chọn một nguồn luật "phụ trợ" để giải quyết các vấn đề mà CISG không bao trùm (th ường nguồn luật phụ trợ này là luật quốc gia). Khuyến nghị về việc Việt Nam tham gia Công ước Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, việc gia nhập CISG là h ết sức cần thiết và có ý nghĩa to lớn đối với các hoạt động ngoại thương nói chung và ho ạt đ ộng mua bán hàng hoá (xuất nhập khẩu) nói riêng của Việt Nam. Đây là Công ước về mua bán hàng hóa qu ốc t ế đã được nhiều nước tham gia, phê chuẩn, đóng vai trò quan trọng trong vi ệc gi ải quyết các xung đ ột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy thương mại quốc tế phát tri ển. Việt Nam đang trên con đ ường hội nhập một cách chủ động và tích cực vào nền kinh tế thế gi ới, đẩy m ạnh các quan h ệ h ợp tác song phương và đa phương, do đó, việc các văn bản luật quốc gia ch ưa phù h ợp v ới pháp lu ật qu ốc t ế s ẽ gây cho chúng ta nhiều khó khăn, bất lợi, làm phát sinh nh ững xung đột pháp luật v ới các n ước khác và khi giải quyết tranh chấp cũng khó khăn. Luật Thương mại Vi ệt Nam năm 1997 (và ngay c ả Lu ật Th ương mại Việt Nam năm 2005) liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc t ế còn b ộc l ộ nhi ều m ặt h ạn chế và còn chứa đựng những điều khoản chưa phù hợp với thực tiễn và đòi hỏi c ủa các nhà kinh doanh quốc tế. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng có các gi ải pháp ti ến t ới gia nh ập CISG trong th ời gian sớm nhất để thống nhất nguồn luật áp dụng cho mua bán hàng hóa quốc t ế gi ữa các DN Vi ệt Nam và các đối tác nước ngoài. Khi đó các DN Việt Nam và nước ngoài sẽ cùng chung "ti ếng nói", cùng chung quan điểm và nhờ đó, các mối quan hệ hợp tác thương mại quốc t ế sẽ ngày càng g ắn ch ặt h ơn, lâu b ền hơn và rộng mở hơn. (Theo dddn.com.vn) ThS Nguyễn Minh Hằng - Trường ĐH Ngoại Thương THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 06/11/2007 Xác định pháp luật điều chỉnh thẩm quyền đại diện doanh nghiệp trong quan hệ quốc tế. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn đ ịnh nh ằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Để tồn tại, doanh nghiệp phải có người đ ại diện. Việc xác định ai là người có thẩm quyền đại diện doanh nghiệp trong giao dịch s ẽ tuân theo pháp luật Việt Nam nếu doanh nghiệp đó là doanh nghiệp Việt Nam và giao dịch đó được thực hiện ở Việt Nam. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài s ản, có tr ụ s ở giao d ịch ổn đ ịnh nh ằm m ục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Để tồn tại, doanh nghi ệp phải có ng ười đ ại di ện. Vi ệc xác đ ịnh ai là người có thẩm quyền đại diện doanh nghiệp trong giao dịch s ẽ tuân theo pháp lu ật Vi ệt Nam n ếu doanh nghiệp đó là doanh nghiệp Việt Nam và giao dịch đó đ ược th ực hi ện ở Vi ệt Nam. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp Việt Nam giao dịch với các doanh nghiệp nước ngoài thông qua ng ười đ ại di ện, thì vi ệc xác định ai là người có thẩm quyền đại diện của các doanh nghi ệp này để thực hi ện m ột giao d ịch l ại tr ở nên phức tạp. Bởi về vấn đề này, pháp luật trong nước và pháp luật n ước ngoài quy đ ịnh không gi ống nhau. Trong khi đó, thực tiễn pháp lý Việt Nam trong nh ững năm g ần đây th ường x ảy ra nh ững tranh chấp về thẩm quyền đại diện của doanh nghiệp trong quan hệ quốc t ế. Vì v ậy, trong nh ững tr ường h ợp đó, việc quy định sử dụng pháp luật nước nào để điều chỉnh là cần thiết. Ví d ụ: Ngày 28/10/1995, Công ty Kurihara Kogyo được thành l ập theo pháp lu ật Nh ật B ản có chi nhánh t ại Singapore ký với Công ty HN (là công ty liên doanh) m ột h ợp đ ồng. Ngày 06/6/1998, Công ty HN ký m ột hợp đồng thanh toán trong đó thỏa thuận chọn trọng tài Hồng Kông khi các bên có tranh ch ấp. Ng ười đại diện ký kết của Công ty HN là ông Thành và ng ười đ ại diện c ủa bên kia là ông Tài. Sau đó, Công ty HN cho rằng "ông Thành - Tổng giám đốc Công ty liên doanh không có quy ền ký th ỏa thu ận tr ọng tài vì đây là vấn đề xác định vốn Công ty liên doanh nên ph ải do H ội đ ồng qu ản tr ị Công ty liên doanh quy ết định". Công ty HN cũng cho rằng, "ông Tài không đ ủ thẩm quy ền ký h ợp đ ồng thanh toán 06/6/1998 vì ông Tài là Giám đốc Công ty liên doanh Kurihara Thăng Long ký h ợp đ ồng v ới Công ty liên doanh HN 28/10/1995, rồi lại thay mặt Công ty Kurihara Kogyo Ltd - Chi nhánh Singapore - ký h ợp đ ồng là không đúng quy định của pháp luật"(Xem Quyết định s ố 01/QĐ ngày 21/9/2001, th ụ lý s ố 01/KTST ngày 18/6/2001 của TAND TP. Hà Nội).
  7. Để biết ông Thành và ông Tài có thẩm quyền ký kết giao d ịch trên hay không, chúng ta ph ải xác định pháp luật nước có thẩm quyền giải quyết. Chọn pháp luật n ước nào khi ở đây có ba h ệ th ống pháp luật có thể được sử dụng: pháp luật Nhật Bản, pháp luật Singapore và pháp lu ật Vi ệt Nam? Pháp lu ật Việt Nam hiện chưa quy định rõ về vấn đề này. Vì vậy, chúng ta cùng nghiên c ứu và tìm h ướng gi ải quyết. Thực trạng pháp luật Việt Nam Thực trạng văn bản Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện nay có quy định về xác đ ịnh pháp luật đi ều ch ỉnh năng l ực hành vi dân sự của cá nhân (Điều 762) và năng lực pháp luật dân s ự c ủa pháp nhân n ước ngoài (Đi ều 765). Tuy nhiên, cần thấy rằng, năng lực hành vi hay năng l ực pháp luật dân s ự c ủa cá nhân hay pháp nhân và thẩm quyền đại diện doanh nghiệp là hai vấn đề khác nhau. Năng l ực là kh ả năng c ủa ai đó làm vi ệc gì. Trong khi đó, thẩm quyền là khả năng của m ột ai đó thay m ặt ch ủ th ể khác th ực hi ện m ột hành vi pháp lý. Ví dụ, công ty A hoàn toàn có khả năng ký kết m ột thoả thu ận tr ọng tài nh ưng li ệu ông B, phó giám đốc của công ty, có thể thay mặt công ty ký một thoả thuận trọng tài hay không l ại là v ấn đ ề th ẩm quy ền của ông B. Ngược lại, ông A là giám đốc m ột công ty có th ể không có năng l ực dân s ự đ ể ký th ỏa thu ận trọng tài để giải quyết một số tranh chấp cá nhân của mình, nh ưng hoàn toàn có th ể ký m ột th ỏa thu ận trọng tài với đối tác của công ty trên danh nghĩa là ng ười có thẩm quy ền đại di ện công ty. Bộ luật Dân sự Việt Nam cũng đã có các quy định về xác định pháp lu ật áp d ụng đi ều ch ỉnh năng lực pháp luật dân sự nhưng chưa có các quy định về vấn đề thẩm quy ền. Lu ật Doanh nghi ệp năm 2005 có những quy định về pháp luật áp dụng và quốc tịch của doanh nghi ệp (Đi ều 3, 4) nh ưng cũng không cho biết là pháp luật nước nào sẽ được chọn để điều ch ỉnh th ẩm quyền đ ại di ện doanh nghi ệp trong quan hệ quốc tế. Như vậy, pháp luật Việt Nam hi ện chưa quy đ ịnh c ụ thể, rõ ràng v ề vi ệc xác đ ịnh pháp luật điều chỉnh thẩm quyền đại diện của doanh nghiệp trong quan hệ có yếu t ố nước ngoài. Thực tiễn pháp lý Thực tiễn pháp lý Việt Nam có hai xu hướng xác đ ịnh pháp luật áp d ụng v ề th ẩm quy ền đ ại di ện doanh nghiệp. Xu hướng thứ nhất là xác định thẩm quyền thông qua nghiên c ứu m ột h ệ th ống pháp lu ật (pháp lu ật một nước). Ví dụ, tại Quyết định số 51/KTPT ngày 26/10/2001, Toà phúc th ẩm TANDTC t ại TP. H ồ Chí Minh có nhận xét: "Hợp đồng mua bán mà Công ty Recofi (Pháp) và Công ty Sunimex (Vi ệt Nam) có quy định tại Điều 11 là việc thoả thuận chọn Trọng tài thuộc Phòng th ương m ại qu ốc t ế Paris là không ch ặt chẽ theo điều lệ mẫu quy định. Do đó, khi phát sinh tranh ch ấp; quan đi ểm c ủa m ỗi bên hoàn toàn khác biệt nhau, không giải quyết thân thiện với nhau đ ược theo nội dung c ủa h ợp đ ồng, mà ph ải ký thêm các điều kiện thoả thuận về việc chọn Trọng tài. Ngày 15/8/1998, các bên ti ến hành ký k ết các th ể th ức tham chiếu ICC vụ kiện số 9677/AC/DG. Phía Sunimex do ông Minh làm đ ại di ện. Nh ưng ở th ời đi ểm này, ông Minh chỉ giữ chức vụ Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Sunimex theo quy ết đ ịnh c ủa UBND TP. Hồ Chí Minh. Việc ông Minh tham gia ký đã không đ ủ t ư cách là ng ười đ ại di ện h ợp pháp đ ể tho ả thu ận thể thức tham chiếu ICC ngày 15/8/1988 theo quy định c ủa pháp lu ật Vi ệt Nam, đã vi ph ạm Kho ản 1, Khoản 2, Điều 102 Bộ luật Dân sự, Điều 37 Luật Doanh nghiệp nhà n ước và trái v ới Đi ều 19 Đi ều l ệ hoạt động của Tổng công ty Sunimex". Ví dụ trên cho thấy, tòa án Việt Nam đã s ử dụng pháp luật Vi ệt Nam đ ể cho r ằng, ông Minh là ng ười không có thẩm quyền đại diện công ty Sunimex trong giao d ịch v ới Công ty Recofi, b ởi l ẽ, ông Minh ch ỉ là Phó Tổng Giám đốc Sunimex. Xu hướng thứ hai là để xác định một người có thẩm quyền đ ại di ện hay không, tòa án còn d ẫn chiếu pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam (pháp luật hai nước), ví d ụ: Ngày 20/4/1993, Công ty Novus của Nga ký h ợp đồng và hai ph ụ l ục h ợp đ ồng đ ể bán cho Công ty Vinatex của Việt Nam một số lượng thép. Đại diện ký hợp đồng và ph ụ l ục c ủa bên bán là ông Malitski (Tổng giám đốc Công ty Novus) và bên mua là ông Nội (đ ại di ện c ủa Công ty Vinatex t ại Nga). Th ời gian sau, hai bên phát sinh tranh chấp. Trong quá trình gi ải quy ết tranh ch ấp, phía Vi ệt Nam cho r ằng, ông Nội không đủ tư cách ký hợp đồng và không được ủy quyền ký h ợp đ ồng; còn phía Nga cho r ằng, ông Nội có thẩm quyền ký kết hợp đồng (các bên không có tranh ch ấp về th ẩm quy ền đ ại di ện c ủa ông Malitski). Xung quanh thẩm quyền đại diện của ông Nội, tòa án nh ận đ ịnh: "Căn c ứ Quy ch ế v ề t ổ ch ức và hoạt động của Cơ quan Đại diện kinh tế thương mại Vi ệt Nam ở nước ngoài - ban hành kèm theo Nghị định 283/HĐBT ngày 8/8/1990 của Hội đồng Bộ trưởng, căn c ứ Khoản 2, Đi ều 2 Quy đ ịnh s ố 299/TMDL-XNK ngày 09/4/1992 quy định về ký kết và quản lý h ợp đ ồng Vinatex - chi ểu theo quy đ ịnh
  8. của pháp luật Việt Nam, ông Nội là người không đ ủ th ẩm quyền, không đ ược ủy quy ền đ ể ký k ết h ợp đồng cũng như ký kết thỏa thuận trọng tài nêu trên". Mặt khác, "Xét th ấy, t ại gi ải trình ngày 08/4/1996 của Công ty Novus gửi Tòa án trọng tài thương mại quốc t ế, đ ại di ện Công ty Novus nêu ra m ột trong những lý do để từ chối việc ký kết văn bản của Công ty là: "Theo Đi ều l ệ c ủa Công ty Novus thì ch ỉ có Tổng giám đốc mới có quyền ký bất kỳ văn bản nào mà không c ần gi ấy ủy nhi ệm. M ọi cán b ộ tr ọng trách của Công ty Novus chỉ có thể ký kết hợp đồng khi có ủy quy ền do T ổng giám đ ốc Công ty c ấp…". Đây cũng là nguyên tắc chung thống nhất được ghi nh ận ở c ả hai n ước, bên ký k ết đ ều ph ải tuân th ủ và thực tế đều đã biết" (Xem Quyết định số 59/KTPT ngày 04/6/1998, th ụ lý s ố 174 ngày 13/12/1997 c ủa Toà phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội). Như vậy, để biết ông Nội có thẩm quyền đại diện Công ty Vinatex hay không, tòa án Vi ệt Nam đã dẫn chiếu những quy định của pháp luật hai nước. Từ những ví dụ trên, có thể nói là thực tiễn pháp lý Vi ệt Nam ch ưa th ống nh ất v ề xác đ ịnh th ẩm quyền đại diện doanh nghiệp trong quan hệ quốc tế. Phương hướng giải quyết Giải pháp có thể: Có thể xác định một người nào đó là đại di ện của doanh nghi ệp b ằng nhi ều h ệ thống pháp luật hay không ? Những tranh chấp được đề cập trên đây liên quan đến th ẩm quyền để thi ết l ập m ột th ỏa thu ận trọng tài hay một hợp đồng. Đây không phải là một đặc thù của Vi ệt Nam, b ởi ở Pháp, nh ững tranh ch ấp liên quan đến thẩm quyền đại diện của doanh nghi ệp Pháp (xem ví d ụ 1) hay c ủa doanh nghi ệp n ước ngoài (xem ví dụ 2) đối với việc ký kết một s ố giao dịch cũng th ường xuyên x ảy ra. Vì v ậy, chúng ta có thể áp dụng pháp luật của nước sở t ại - nơi mà các giao d ịch đ ược ký k ết - theo nguyên t ắc, n ếu giao dịch được ký tại Việt Nam thì xác định thẩm quyền đại diện doanh nghi ệp theo pháp lu ật Vi ệt Nam; n ếu giao dịch được thiết lập ở nước ngoài thì theo pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, gi ải pháp này có nh ược điểm là làm cho việc xác định thẩm quyền đại diện của một doanh nghi ệp ph ụ thu ộc vào n ơi ký k ết giao dịch, trong khi đó nơi này hoàn toàn có thể là s ự l ựa ch ọn tình c ờ (m ột th ỏa thu ận tr ọng tài có th ể đ ược ký ở Việt Nam, hay ở nước mà đối tác của doanh nghi ệp Vi ệt Nam có tr ụ s ở ho ặc ở m ột n ước th ứ ba). Thực tiễn pháp lý một số nước trên thế giới cho th ấy, nh ững tranh ch ấp v ề th ẩm quy ền đ ại di ện doanh nghiệp không chỉ giới hạn ở những giao dịch. Vì vậy, việc l ấy tiêu chí pháp lu ật c ủa qu ốc gia mà t ại đó đã thiết lập giao dịch như trên, không bao trùm đ ược hết nh ững v ấn đề pháp lý c ần gi ải quy ết (xem ví dụ 3). Ngoài ra, chúng ta có thể sử dụng pháp luật của tòa án ( ở đây là pháp lu ật Vi ệt Nam), pháp lu ật n ơi doanh nghiệp có trụ sở để giải quyết. Chúng ta cũng có thể xem xét đ ồng th ời hai hay nhi ều h ệ th ống pháp luật nêu trên cùng một lúc để xem xét thẩm quyền đ ại diện c ủa doanh nghi ệp. Giải pháp nên sử dụng: Vì vấn đề thẩm quyền liên quan đến hoạt động của doanh nghi ệp, thi ết nghĩ, chúng ta nên sử dụng pháp luật của nước nơi doanh nghi ệp có tr ụ s ở vào th ời đi ểm mà ng ười đ ại diện thiết lập giao dịch trên danh nghĩa của doanh nghi ệp. N ếu doanh nghi ệp đ ược đ ại di ện có tr ụ s ở ở nước ngoài, thì chúng ta xác định là người nào đó có th ể đ ại di ện doanh nghi ệp hay không theo pháp luật của nước ngoài này. Ngược lại, nếu doanh nghiệp có trụ s ở t ại Vi ệt Nam, thì xác đ ịnh th ẩm quy ền này theo pháp luật Việt Nam như Tòa án đã làm trong tranh ch ấp gi ữa Recofi c ủa Pháp và Sunimex c ủa Việt Nam mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Thông thường, các bên có tranh chấp về thẩm quyền đ ại di ện c ủa m ột doanh nghi ệp tham gia giao dịch, nhưng đôi khi, thẩm quyền đại diện của cả hai doanh nghi ệp tham gia giao d ịch đ ều gây tranh cãi. Trong trường hợp này, tòa án phải nghiên cứu pháp luật c ủa c ả hai n ước. Tuy nhiên, ở đây tòa án không nên sử dụng cả pháp luật nước ngoài và pháp luật Vi ệt Nam để xác định th ẩm quy ền đ ại di ện c ủa doanh nghiệp Việt Nam hay của doanh nghiệp nước ngoài, mà ch ỉ nghiên c ứu pháp lu ật Vi ệt Nam đ ể xem xét thẩm quyền đại diện của doanh nghiệp Vi ệt Nam và áp d ụng pháp lu ật n ước ngoài đ ể xem xét thẩm quyền đại diện của doanh nghiệp nước ngoài. Đó cũng là gi ải pháp đ ược s ử d ụng trong tranh chấp mà chúng tôi đề cập ở phần trên. Cụ thể, liên quan đến th ẩm quyền đ ại di ện c ủa ông Thành đ ối với Công ty HN, tòa án đã có nhận xét sau: "Theo tài li ệu do phía Công ty HN xu ất trình và theo l ời trình bày của đại diện khách sạn thì đây là hợp đồng thanh toán cuối cùng c ủa h ợp đ ồng cung c ấp thi ết b ị điện và vật liệu để sửa chữa, mở rộng khách s ạn HN được ký gi ữa Công ty liên doanh HN và Công ty Kurihara Kogyo Singapore 28/10/1995 - Bổ sung ngày 05/3/1997, ch ứ không ph ải là b ản quy ết toán tăng vốn của toàn bộ Công ty liên doanh. Do đó, ông Thành ký h ợp đ ồng thanh toán ngày 06/6/1998 là hoàn toàn có đủ thẩm quyền, phù hợp với Điều 12 Điều lệ Công ty liên doanh, không vi ph ạm đi ều 8, kho ản 1 điểm c Pháp lệnh hợp đồng kinh tế như Công ty đ ưa ra". Còn về th ẩm quy ền đ ại di ện c ủa ông Tài đ ối
  9. với Công ty Kurihara, tòa án cho rằng: "Theo giải trình và h ồ s ơ yêu c ầu mà Công ty Kurihara Kogyo Ltd - chi nhánh Singapore xuất trình, thì ông Tài đ ược T ổng giám đ ốc chi nhánh Singapore b ổ nhi ệm làm Giám đốc tại thông báo bổ nhiệm có lực t ừ 01/7/1990 và Giám đ ốc cao c ấp t ại thông báo b ổ nhi ệm có hiệu lực từ 01/7/2000. Trong quá trình Trung tâm trọng tài quốc t ế Hồng Kông gi ải quy ết tranh ch ấp, phía Công ty HN không thắc mắc gì về tư cách ông Tài cũng nh ư về pháp nhân Công ty Kurihara Kogyo Ltd - Chi nhánh Singapore, Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông cũng đã th ừa nh ận t ư cách pháp nhân c ủa Công ty Kurihara Kogyo Ltd - Chi nhánh Singapore. M ặt khác, t ại phiên tòa hôm nay, phía Công ty HN cũng không thắc mắc hay đưa ra được chứng cứ hợp pháp kh ẳng định ông Tài ho ặc Công ty Kurihara Kogyo không đủ năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài theo luật Singapore". Ví dụ 1: Henri, Tổng giám đốc Công ty Aliment sain c ủa Pháp, tham gia đ ầu t ư b ất đ ộng s ản ở Marốc (với tư cách cá nhân). Trong quá trình đầu t ư, Henri đã ký ch ấp nh ận b ảo lãnh m ột kho ản ti ền v ới tư cách là Tổng giám đốc Công ty Aliment sain. Khi bị ng ười nh ận b ảo lãnh (m ột ngân hàng Mar ốc) kh ởi kiện, Công ty Aliment sain cho rằng Henri không có th ẩm quy ền ký k ết b ảo lãnh trên. Tòa phúc th ẩm Paris đã giải quyết vấn đề thẩm quyền này theo pháp luật c ủa Pháp (xem Tòa phúc th ẩm Paris ngày 26/3/1966: Tạp chí JDI năm 1966, tr. 841, bình luận B. Goldman và T ạp chí RCDIP năm 1968, tr. 58, bình luận Y. Loussouarn). Ví dụ 2: Một người đại diện của Công ty General (doanh nghi ệp c ủa Ê - c ốt) đã ký ch ấp nh ận m ột bảo lãnh. Khi bị người nhận bảo lãnh khởi kiện, Công ty General đã vi ện d ẫn pháp lu ật Pháp đ ể cho rằng hợp đồng bảo lãnh trên là không hợp pháp (theo pháp luật Pháp, h ợp đ ồng b ảo lãnh ph ải đ ược H ội đồng quản trị cho phép). Nhưng theo Tòa án, pháp luật đi ều ch ỉnh th ẩm quy ền đ ại di ện c ủa Công ty General không phải là pháp luật Pháp mà là pháp luật c ủa nước n ơi Công ty có tr ụ s ở, t ức là pháp lu ật Ê - cốt (xem Tòa dân sự, Tòa án tối cao Pháp ngày 8/12/1998: T ạp chí RCDIP 1999, tr. 284, bình lu ận M. Menucq). Ví dụ 3: vụ kiện giữa một công ty Pháp (bị đơn) và m ột công ty Đ ức (nguyên đ ơn) t ại Pháp. Trong quá trình tố tụng, bị đơn cho rằng người tham gia v ụ kiện c ủa nguyên đ ơn không ph ải là ng ười đ ại di ện của doanh nghiệp Đức. Trước phản tố này, Tòa phúc thẩm Grenoble đã vi ện d ẫn pháp lu ật Đ ức đ ể gi ải quyết (xem Tòa phúc thẩm Grenoble ngày 7/11/1989: Tạp chí Droit des sociétés tháng 5/1990, bình lu ận số 121). ở đây, vấn đề thẩm quyền được đặt ra không liên quan đ ến giao d ịch dân s ự mà đ ến t ố t ụng trước Tòa án Pháp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2