Đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn khoa xã hội học Hoàng Thị Tây Ninh
Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng dân tộc thiểu số tại Hà giang (Nghiên cứu trường hợp tại xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ và xã Bạch Đích, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang) Luận văn thạc sỹ xã hội học
1
Hà Nội - 2008
Đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn khoa xã hội học Hoàng Thị Tây Ninh
Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng dân tộc thiểu số tại Hà giang (Nghiên cứu trường hợp tại xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ và xã Bạch Đích, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang)
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30
Luận văn thạc sỹ xã hội học
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Quý
2
Hà Nội - 2008
Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn «Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng các
dân tộc thiểu số tại Hà Giang » (Nghiên cứu trường hợp xã Lùng Tám,
huyện Quản Bạ và xã Bạch Đích, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang), tôi đã
nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình từ phía Vụ Gia đình, Uỷ ban Dân số,
Gia đình và Trẻ em Việt Nam (nay thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch)
để tôi hoàn thành công trình nghiên cứu, tôi xin trân trọng cảm ơn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lê Thị Quý - người đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo giảng dạy ở Khoa Xã hội học -
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã cho tôi những kiến thức quý
báu, những kinh nghiệm học tập và nghiên cứu trong suốt thời gian tôi học tập
tại đây.
Nhân dịp này, tôi muốn gửi lời cảm ơn tới các đồng nghiệp, gia đình,
bạn bè đã động viên, ủng hộ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả vì những tình cảm vô cùng tốt đẹp đó.
Hà Nội, ngày 1/11/2008
Học viên
3
Hoàng Thị Tây Ninh
MỤC LỤC
Trang
3 Lời cảm ơn
4 Mục lục
6 Bảng các chữ cái viết tắt
7 Phần mở đầu
7 1. Lý do chọn đề tài
11 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
14 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
15 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
15 5. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
16 6. Phương pháp nghiên cứu
18 7. Điểm mới của luận văn
19 Phần nội dung
19 Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
19 1.1. Phương pháp luận Mác xít
20 1.2. Một số lý thuyết và quan điểm của các nhà xã hội học trong
nghiên cứu về gia đình.
1.3. Quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về 25
hôn nhân – gia đình.
28 1.4. Hệ thống khái niệm công cụ
36 Chương II: Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng các dân tộc thiểu
số tại xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ và xã Bạch Đích, huyện Yên
Minh, tỉnh Hà Giang
2.1. Một số nét khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã 36
hội của địa bàn nghiên cứu
4
2.2. Một số đặc điểm nhân khẩu học của nhóm khách thể nghiên cứu 41
2.3. Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng dân tộc thiểu số ở Hà Giang 47
2.3.1. Tỷ lệ tảo hôn tại địa bàn nghiên cứu. 47
2.3.2. Thực trạng đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục 50
của những người kết hôn sớm
2.4. Nhận thức, thái độ của người dân đối với hiện tượng kết hôn 58
sớm.
2.5. Vấn đề bình đẳng giới trong tảo hôn 60
64 Chương III: Các nguyên nhân và hậu quả của tình trạng kết hôn
sớm ở cộng đồng các dân tộc thiểu số tại xã Lùng Tám và xã Bạch
Đích, tỉnh Hà Giang 3.1. Các nguyên nhân dẫn đến của tình trạng kết hôn sớm tại địa bàn 64
nghiên cứu.
3.1.1. Nguyên nhân về gia đình 64
3.1.2. Nguyên nhân về văn hóa 69
3.1.3. Nguyên nhân về nhận thức 71
3.1.4. Nguyên nhân về quản lý 75
3.2. Một số hậu quả của tình trạng kết hôn sớm tại địa bàn nghiên 78
cứu.
3.2.1. ảnh hưởng đến sức khoẻ thể chất và chăm sóc sức khoẻ 78
3.2.2. ảnh hưởng đến cơ hội học tập, phát triển cá nhân 80
3.2.3. ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển kinh tế gia đình 81
84 Kết luận và khuyến nghị
88 tài liệu tham khảo
5
91 Phụ lục
Bảng các chữ cái viết tắt
CTQG Chính trị quốc gia
DS Dân số
GĐ Gia đình
KH&CN Khoa học và Công nghệ
KHHGĐ Kế hoạch hoá gia đình
KHXH Khoa học xã hội
NXB Nhà xuất bản
PTCS Phổ thông cơ sở
PTTH Phổ thông trung học
PVS Phỏng vấn sâu
TC, CĐ Trung cấp, cao đẳng
TCTK Tổng cục Thống kê
TE Trẻ em
TLN Thảo luận nhóm
UBND Uỷ ban nhân dân
6
UNFPA Quỹ Dân số Liên hợp quốc
Phần Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Gia đình là tế bào của xã hội, là một thiết chế xã hội đặc thù có vị trí và
vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, bảo vệ và chuyển giao các giá trị văn
hoá của dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dưới tác động của các yếu tố
chính trị - kinh tế - xã hội, cấu trúc và chức năng của gia đình thường có
những biến đổi phù hợp, do vậy, việc củng cố và phát triển thiết chế gia đình
được coi là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự bền vững của xã
hội.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, gia đình Việt
Nam đang dần chuyển hóa và chịu ảnh hưởng của một số đặc điểm gia đình
thuộc nền văn minh công nghiệp. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc
tế, giao lưu văn hoá đang làm biến đổi cấu trúc, chức năng gia đình ở Việt
Nam. Những xung đột giá trị trong quá trình chuyển đổi này là một trong
những nguyên nhân quan trọng gây nên sự xáo trộn của gia đình. Nếu lãng
quên các giá trị truyền thống sẽ dẫn đến sự "đứt đoạn văn hóa gia đình” hoặc
gia đình không có “gốc”, không có nền tảng bền vững, còn nếu từ chối những
giá trị hiện đại, gia đình sẽ trở nên trì trệ, bảo thủ.
Trong xã hội sản xuất nông nghiệp truyền thống, gia đình là một trong
những thiết chế quan trọng nhất của xã hội. Vì vậy, việc "dựng vợ gả chồng",
ổn định cuộc sống gia đình cho con cái được coi là một trách nhiệm quan
trọng của các bậc làm cha mẹ. Ngay từ khi con còn nhỏ, cha mẹ thường để ý,
"đánh tiếng" trước với những đối tượng kết hôn họ thấy là phù hợp và sắp xếp
sớm lập gia đình cho con. Việc kết hôn sớm khi chưa đến tuổi trưởng thành
hay còn gọi là tảo hôn là một hiện tượng phổ biến trong các xã hội trước đây,
7
nó gắn với chế độ gia trưởng. Đây là do nhu cầu kén người phụ nữ về làm
việc đồng áng và việc nhà, đồng thời, sớm sinh đẻ cho gia đình những đứa
con “nối dõi”. Tuy nhiên, cho đến nay hiện tượng kết hôn sớm vẫn tồn tại ở
một số nhóm cộng đồng trong xã hội, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Mặc dù khoản 1 điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã có
quy định rõ ràng về độ tuổi kết hôn “đối với nam là từ 20 tuổi trở lên, đối với
nữ là từ 18 tuổi trở lên”, tuy nhiên, theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số
và nhà ở năm 1999 của Tổng cục Thống kê cho thấy: cả nước có 112.773 nam
nữ thứ 13 – 17 tuổi kết hôn, chiếm 1,3% dân số ở độ tuổi này. Việc tảo hôn
xảy ra ở tất các các khu vực, từ nông thôn, thành thị hay miền núi, với các đối
tượng khác nhau; song nhiều nhất vẫn là khu vực nông thôn – miền núi, đặc
biệt miền núi chiếm 87,44%; vùng chiếm tỷ lệ cao nhất là Tây Bắc (3,86%),
tiếp đó là Tây Nguyên (2,08%) và Đông Bắc (2,06%). [29, tr.23-37]
Điều đáng lưu ý là thời gian gần đây, nhóm 13-14 tuổi có xu hướng kết
hôn nhiều hơn trước, năm 1997 - 1998 nhóm tuổi này chưa có trường hợp nào
kết hôn thì năm 2002 có 0,1% số trẻ em ở độ tuổi 13-14 đã có vợ/chồng. Tỷ lệ
tảo hôn cao tập trung tại các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi có nhiều đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống và tại một số địa phương có trình độ dân trí thấp,
còn tồn tại các phong tục tập quán lạc hậu. 15/61 tỉnh, thành phố có trên 1%
trẻ em ở độ tuổi từ 14-16 tuổi đã có vợ/ chồng. Các tỉnh có tỷ lệ trẻ em tảo
hôn cao là Hà Giang (5,72%); Cao Bằng (5,1%); Lào Cai (2,7%); Sơn La
(2,6%); Quảng Trị (2,4%). [23]
Kết quả Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 2005 cho
thấy: trong phạm vi cả nước, tỷ lệ đã từng kết hôn của nam 15-19 tuổi là dưới
2% và nữ ở nhóm tuổi này là gần 7%. Tỷ lệ kết hôn trong nhóm tuổi 15 – 19
8
thấp nhất tại đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ
và Đông Nam Bộ (dưới 1%) còn Tây Bắc chiếm tỷ lệ cao nhất (9%). [22,
tr.23-29]
Để thực sự trở thành tổ ấm của mỗi người, gia đình cần được xây dựng
trên một nền tảng vững chắc cả về vật chất và tinh thần, sức khoẻ và tâm sinh
lý của mỗi thành viên. Việc lập gia đình khi người con trai và người con gái
vừa bước qua tuổi thiếu niên, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tâm lý,
chưa có khả năng tự lập về kinh tế, chưa có đủ nhận thức về hôn nhân, gia
đình, ít kinh nghiệm sống.... sẽ trực tiếp gây ra những mâu thuẫn trong cuộc
sống gia đình sau này, ảnh hưởng tới sự tiến bộ của bản thân, hạnh phúc lứa
đôi, sự phát triển của gia đình và tương lai con cái.
Kết hôn sớm cũng đồng nghĩa với việc các em sẽ trở thành các ông bố,
bà mẹ “trẻ con”. Làm mẹ khi cơ thể chưa phát triển đầy đủ là nguyên nhân
dẫn đến đẻ non, đẻ nhẹ cân; trẻ sinh ra dễ mắc các bệnh và thường không
khỏe mạnh. Ngoài ra, những bà mẹ vị thành niên có nguy cơ tử vong trong
thời kỳ thai nghén cao gấp đôi so với những bà mẹ trên 20 tuổi [40].
ở độ tuổi này, hầu hết các em chưa thể tự lập, không có việc làm mà
thường vẫn phải dựa vào bố mẹ, trông chờ vào sự giúp đỡ từ phía cha mẹ, gia
đình, thiếu chủ động về kinh tế. Quan trọng hơn, việc các em lập gia đình quá
sớm có ảnh hưởng trực tiếp đến việc học tập, phấn đấu vươn lên; nhiều em
sau khi lập gia đình thường ngại đi học vì sợ bạn bè trêu chọc nên thường bỏ
học. Các em gái khi đã có chồng thường phải gánh vác công việc gia đình quá
sức và sinh con nên việc học tập trở thành điều không tưởng.
Có con khi còn quá trẻ, điều kiện kinh tế khó khăn, không có việc làm,
thu nhập, không có trình độ học vấn ... sẽ đẩy các cặp vợ chồng vào vòng luẩn
quẩn lạc hậu - thất học - nhiều con – ốm đau - không có việc làm - đói nghèo.
9
Điều này không những ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của các cặp vợ
chồng trẻ, gây ra mâu thuẫn gia đình, bạo lực gia đình, mà còn có những tác
động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, từ trước đến nay,
Hà Giang luôn được xếp là một trong những tỉnh khó khăn nhất của cả nước.
Một trong những nguyên nhân chính là do địa bàn của tỉnh phức tạo, dân cư
phần lớn sống ở các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xã nên gặp nhiều khó khăn
trong đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Là một tỉnh đa dân tộc (với 22 dõn tộc cựng chung sống), mỗi dõn tộc
ở đây lại cú phong tục tập quỏn, nghi lễ khỏc nhau. Nhỡn chung, nghi lễ cưới
hỏi của cỏc dõn tộc ở vựng sõu, vựng xa ở Hà Giang cũn nhiều hủ tục rườm
rà như xem tuổi, thách cưới, tảo hụn, tỷ lệ đăng ký kết hôn thấp... Việc dựng
vợ gả chồng nhiều khi chưa thực sự do đôi trai gái tự chọn, vẫn cũn hiện
tượng do bố mẹ, gia đỡnh quyết định.
Có thể nói, do điều kiện phát triển kinh tế khó khăn, trình độ dân trí
chưa cao, người dân còn chịu nhiều ảnh hưởng của phong tục tập quán nên
Hà Giang là tỉnh có tỷ lệ kết hôn sớm trước tuổi quy định còn tương đối cao.
Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các chính sách về dân số,
gia đình của Nhà nước, đồng thời, ảnh hưởng đến sự phát triển của bản thân
những ông bố, bà mẹ trẻ và các con của họ. Đây là một trong những yếu tố
kìm hãm sự phát triển của địa phương cả về kinh tế, xã hội và mặt bằng văn
hoá chung, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của gia đình.
Năm 2005, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, cơ quan được giao
nhiệm vụ quản lý Nhà nước về dân số, gia đình và trẻ em, thực hiện đề tài
khảo sát thực trạng tảo hôn ở khu vực miền núi phía Bắc. Bản thân tác giả
luận văn là người tham gia trực tiếp trong tất cả các bước thực hiện đề tài. Kế
thừa kết quả nghiên cứu “Khảo sát thực trạng tảo hôn khu vực miền núi phía
10
Bắc”, trong luận văn này, tôi tập trung vào vấn đề: "Thực trạng kết hôn sớm
ở cộng đồng các dân tộc thiểu số tại Hà Giang" (Nghiên cứu trường hợp tại
xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ và xã Bạch Đích, huyện Yên Minh, tỉnh Hà
Giang) với mong muốn làm rõ thực trạng kết hôn sớm trước tuổi quy định,
nguyên nhân của hiện tượng này, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc
phục, tiến tới giảm mạnh tỷ lệ kết hôn sớm ở địa bàn nghiên cứu và các địa
phương khác.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Nghiên cứu về gia đình nói chung, về gia đình các dân tộc thiểu số, các
phong tục tập quán, giá trị, chuẩn mực, định hướng giá trị nói riêng đã và
đang là mảng đề tài được nhiều người quan tâm nghiên cứu dưới những góc
độ khác nhau. Một số hiện tượng xã hội lệch chuẩn như bạo lực gia đình, kết
hôn sớm… cũng được nhiều tác giả đề cập trong một số công trình nghiên
cứu, trên một số phương tiện thông tin đại chúng.
Nhận thức được những hậu quả nghiêm trọng của hiện tượng tảo hôn
đối với việc thực hiện quyền của trẻ em gái, phụ nữ và trẻ em, ngày
8/10/2003, trong Báo cáo thường niên, Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc
(UNFPA) đó tuyờn bố rằng: “Kết hụn sớm, cú thai ngoài ý muốn và
HIV/AIDS ở độ tuổi vị thành niên trên thế giới đang là mối đe dọa cho sự
phát triển và chúng ta cần phải chiến đấu chống lại giống như cuộc chiến
chống nghèo đói”.[40]
Có thể khẳng định rằng: xã hội càng văn minh thì số lượng người kết
hôn sớm càng giảm. Trên thế giới, tại các nước công nghiệp phát triển, người
ta thường thấy một xu hướng tương đối phổ biến là tuổi kết hôn lần đầu muộn
hơn so với các thế hệ trước; rất hiếm các trường hợp kết hôn sớm trước tuổi
quy định. Trong khi đó, ở các nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế kém phát
triển, trình độ dân trí thấp vẫn còn tồn tại hiện tựợng tảo hôn. Theo báo cáo
11
mới đây của UNICEF, 74% bé gái vùng Amhara bị ép lấy chồng trước 15
tuổi. Nguyên nhân chủ yếu là do người dân quá nghèo khổ, họ muốn gả con
để họ và con khỏi bị chết đói. Người dân ở đây cho tảo hôn là một hiện tượng
bình thường vì đây là một tục lệ tồn tại đã lâu trong lịch sử, họ sợ bị mang
tiếng xấu nếu không tìm được chỗ gửi gắm con gái trước tuổi thành niên, sợ
con họ sẽ phải sống độc thân suốt đời và không được cộng đồng thừa nhận; và
một nguyên nhân nữa là vấn đề trinh tiết, họ sợ không bảo vệ được đứa trẻ,
nếu đứa trẻ bị hãm hiếp thì khổ cho cả gia đình [35].
ở Việt Nam, vấn đề kết hôn sớm trước tuổi quy định cũng được đăng
tải trên nhiều báo, tạp chí, internet… “Nạn tảo hôn và hôn nhân không đăng
ký trước pháp luật vẫn diễn ra phổ biến ở các xã vùng sâu, vùng xa thuộc tỉnh
Lâm Đồng. Theo Ban Dân số, Gia đình và Trẻ em huyện Bảo Lâm, toàn
huyện có 14 xã thì xã nào cũng có tình trạng tảo hôn, xã vùng sâu có tỷ lệ cao
hơn” [36]. “ở P.Lỏm (Tương Dương, Nghệ An), người Mông vẫn còn duy trì
nạn tảo hôn. Con gái 13, 14 tuổi đã phải lấy chồng, rồi sinh 5, 6 đứa con, làm
quận quật cả ngày. Nếu lúc nhỏ không được đến trường thì suốt đời không nói
được tiếng Kinh, chứ nói chi đến biết đọc, biết viết” [38].
“ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, hiện tượng tảo hôn xảy ra rất nhiều. Điều
đáng nói là những đám cưới “non” ấy được tổ chức rất công khai… Nguyên
nhân là do nhận thức của người dân còn kém, do sự bồng bột của tuổi trẻ và
do sự buông lỏng của chính quyền địa phương…” [32].
Nhìn chung, tình hình tảo hôn tương đối phổ biến ở các tỉnh miền núi
phía Bắc. Kết quả khảo sát của Sở Tư pháp tỉnh Sơn La năm 2006 cho thấy:
toàn tỉnh có 47.665 trường hợp các cặp vợ chồng sống với nhau mà không
đăng ký kết hôn, 101.036 trường hợp trẻ chưa được khai sinh. Trong năm
2005 và 6 tháng đầu năm 2006, tại 10 huyện miền núi của tỉnh Sơn La đã có
12
500 trường hợp vi phạm Luật Hôn nhân và Gia đình [35].
Tuy nhiên, không phải ở nơi miền núi xã xôi mà liền kề ngay với thành
phố Hồ Chí Minh phát triển và sôi động vẫn còn có hiện tượng tảo hôn. “Một
cán bộ Hội phụ nữ xã Tân Phú, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh cho
biết: chỉ riêng ấp Bến Đò 1 và 2 của xã, tính sơ sơ đã có 5 trường hợp chưa đủ
tuổi kết hôn nhưng vẫn tổ chức cưới hỏi... Có những đứa trẻ 2, 3 tuổi rồi mà
vẫn không làm giấy khai sinh được vì cha mẹ chưa đăng ký kết hôn. Không
biết đợi đến tuổi vào lớp 1 thì cha mẹ của chúng có còn sống chung với nhau
nữa không?” [32]
Nhìn chung, các tin tức, bài viết về vấn đề hôn nhân gia đình, đặc biệt
là vấn đề tảo hôn xuất hiện tương đối nhiều trên các phương tiện truyền thông
đại chúng, tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề hôn nhân và gia đình trong
cộng đồng các dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc mới chỉ được một
số nhà nghiên cứu quan tâm.
Năm 2003, Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em thuộc Uỷ ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện đề tài "Nghiên cứu một số đặc điểm hôn
nhân và gia đình các dân tộc H'Mông và Dao ở hai tỉnh Lai Châu và Cao
Bằng". Công trình nghiên cứu này đã đi sâu phân tích, phản ảnh rõ nét những
đặc điểm cũng như thực trạng hôn nhân và gia đình của hai dân tộc Hmông và
Dao đồng thời đã đưa ra được những khuyến nghị cụ thể giúp cho việc hoạch
định chính sách về dân số và gia đình. Trong nghiên cứu này, thông qua việc
tập trung đánh giá những vấn đề về hôn nhân và gia đình, như người quyết
định hôn nhân, tiêu chí lựa chọn trong hôn nhân, tuổi kết hôn lần đầu... nhóm
tác giả cũng đã đề cập đến hiện tượng tảo hôn, việc đăng ký kết hôn, các nghi
lễ trong hôn nhân và một số đặc điểm về gia đình của hai dân tộc Hmông và
Dao ở hai địa phương trên. [12]
Tác giả Đỗ Thuý Bình - Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và
13
phụ nữ (nay là Viện Gia đình và Giới) trong đề tài" Hôn nhân và gia đình các
dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam" (1994) đã mô tả tương đối chi tiết thực
trạng hôn nhân và gia đình ở đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam;
phân tích sự ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là
phong tục tập quán đối với vấn đề hôn nhân và gia đình trong cộng đồng các
dân tộc; ngoài ra, nghiên cứu cũng đề cập ít nhiều đến hiện tượng tảo hôn.[1]
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến những vấn đề chung
của hôn nhân và gia đình, chưa tập trung đánh giá một cách toàn diện thực
trạng và các nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng kết hôn sớm trước tuổi quy
định - một hiện tượng tuy không phổ biến nhưng còn tồn tại trong không ít
các nhóm cộng đồng dân cư, có ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc cuộc sống
gia đình và những vấn đề liên quan như sức khoẻ sinh sản, mức sinh, chất
lượng sống... Việc tìm kiếm các giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu tỷ lệ tảo
hôn cũng chưa được quan tâm một cách thích đáng. Do vậy, tôi lựa chọn đề
tài nghiên cứu "Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng các dân tộc thiểu số
tại Hà Giang" (Nghiên cứu trường hợp tại xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ và
xã Bạch Đích, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang) với hy vọng đóng góp một
phần nhỏ bé vào các nghiên cứu về vấn đề hôn nhân và gia đình nói chung,
làm phong phú thêm phần nào các mảng nghiên cứu về vấn đề gia đình hiện
14
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và các yếu tố tác động đến
hiện tượng kết hôn sớm trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Hà Giang qua
nghiên cứu trường hợp tại hai xã Bạch Đích và Lùng Tám, từ đó đề xuất một
số giải pháp nhằm giảm tỷ lệ kết hôn sớm để tăng cường chất lượng sống của
các gia đình trẻ trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở địa bàn nghiên cứu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn, phương pháp luận
nghiên cứu vấn đề kết hôn sớm trong cộng đồng các dân tộc thiểu số.
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và các yếu tố tác động đến
tình trạng kết hôn sớm trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở địa bàn
nghiên cứu.
- Phân tích tình trạng bất bình đẳng giới trong tảo hôn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm tỷ lệ kết hôn sớm để tăng cường
chất lượng sống của các gia đình trẻ trong cộng đồng các dân tộc thiểu
số ở Hà Giang và các vùng khác có hoàn cảnh tương tự.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng các dân tộc thiểu số tại Hà Giang.
4.2. Khách thể nghiên cứu:
- Các đối tượng kết hôn sớm
- Cha mẹ có con kết hôn sớm
- Đối tượng nam nữ 13-18 tuổi chưa lập gia đình
15
- Phụ nữ và nam giới đã có gia đình
- Cán bộ chính quyền, đoàn thể địa phương (Hội phụ nữ, Đoàn thanh
niên, cán bộ tư pháp, cán bộ chuyên trách dân số…).
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu được thực hiện tại xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ và xã
Bạch Đích, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.
5. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết:
5.1. Giả thuyết nghiên cứu:
- Tình trạng kết hôn sớm vẫn tồn tại khá phổ biến và được chấp nhận
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi, vùng sâu,
vùng xa.
- Các nguyên nhân của hiện tượng kết hôn sớm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
từ phong tục tập quán, điều kiện kinh tế và nhận thức của người dân.
- Các chính sách, pháp luật về vấn đề hôn nhân và gia đình chưa được
triển khai thực hiện hiệu quả ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa
16
5.2. Khung lý thuyết:
Điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội
Chính sách dân số, pháp luật về hôn nhân và gia đình
Gia đình (điều kiện kinh tế, thu nhập...)
Phong tục tập quán về hôn nhân và gia đình
Cá nhân (Các đặc điểm cá nhân: tuổi, giới tính, trình độ học vấn, sức khoẻ, nghề nghiệp, việc làm…)
Tình trạng kết hôn sớm trước tuổi quy định
Hệ quả của tình trạng kết hôn sớm với cá nhân, gia đình và xã hội
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Phương pháp luận:
- Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử cùng với những quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về vấn đề hôn nhân và gia đình (có tính đến yếu tố thời gian - trong
nhóm này, trong giai đoạn này...).
- Vận dụng một số lý thuyết và tư tưởng của một số nhà xã hội học trong
17
nghiên cứu về hôn nhân và gia đình. Ví dụ như các lý thuyết:
+ Lý thuyết về giới
+ Lý thuyết cấu trúc - chức năng
+ Lý thuyết hành vi lựa chọn hợp lý
6.2. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp định lượng:
Thông tin và số liệu định lượng sử dụng trong luận văn dựa trên việc
phân tích số liệu thứ cấp của cuộc điều tra “Khảo sát thực trạng tảo hôn khu
vực miền núi phía Bắc” do Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện năm
2005. Khảo sát được tiến hành với việc phỏng vấn bằng bảng hỏi 400 đối
tượng là nam nữ đã có gia đình và 100 nam nữ thanh niên trong độ tuổi từ 13-
18 chưa lập gia đình tại địa bàn nghiên cứu. Tác giả luận văn là người tham
gia trực tiếp cuộc khảo sát này ở tất cả các bước thiết kế bảng hỏi, thu thập
thông tin, phân tích số liệu, viết báo cáo. Các thông tin sử dụng trong luận văn
được xử lý và phân tích bằng phần mềm SPSS 11.5 và chương trình hỗ trợ
Epi6.
b. Phương pháp định tính:
Một số phương pháp định tính được sử dụng trong đề tài này là phương
pháp phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
Các thông tin định tính được tiến hành phân tích và đưa ra các đánh giá định
tính kết hợp với đánh giá định lượng trong báo cáo kết quả.
* Phỏng vấn sâu: thực hiện 12 phỏng vấn sâu đối với các đối tượng sau:
+ 02 lãnh đạo chính quyền xã, 02 cán bộ đoàn thể xã.
+ 02 nam và 02 nữ thanh niên kết hôn sớm;
+ 02 cha và 02 mẹ có con kết hôn sớm.
18
* Thảo luận nhóm: thực hiện 06 thảo luận nhóm (mỗi nhóm 6- 8 người)
+ 02 nhóm phụ nữ đã có gia đình;
+ 02 nhóm nam giới đã có gia đình
+ 01 nhóm nam và 01 nhóm nữ 13-18 tuổi chưa lập gia đình
- Phương pháp thu thập và phân tích tài liệu:
Đề tài sử dụng phương pháp thu thập và phân tích tài liệu liên quan đến
đề tài nghiên cứu bao gồm các công trình thực nghiệm, các báo cáo nghiên
cứu, số liệu thống kê, sách báo, Internet… để có được cái nhìn toàn diện cũng
như có cơ sở để so sánh, đối chiếu với những thông tin, số liệu mà đề tài thu
thập được.
7. Điểm mới của luận văn
Đề tài nghiên cứu "Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng các dân tộc
thiểu số tại Hà Giang" (Nghiên cứu trường hợp tại xã Lùng Tám, huyện
Quản Bạ và xã Bạch Đích, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang) được thực hiện
nhằm phân tích thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và các yếu tố tác động đến
hiện tượng kết hôn sớm tại một địa bàn cụ thể mang tính đại diện cho một số
địa phương có hoàn cảnh tương tự. Các giải pháp được đề xuất sẽ góp một
phần vào việc thay đổi nhận thức của các nhà quản lý, các nhà hoạch định
chính sách và người dân nhằm giảm thiểu tình trạng kết hôn sớm tại địa bàn
19
nghiên cứu và một số địa phương khác.
PHầN NộI DUNG
Chương I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1. Phương pháp luận Mác xít
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và các nguyên tắc phương pháp
luận của xã hội học.
- Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan: nghiên cứu bản thân sự vật hiện tượng
như chúng đang tồn tại trong thực tế, không phán đoán chủ quan, các kết luận
phải được phản ánh từ thực tế. Khi xem xét các sự vật hiện tượng, để có hiểu
biết đúng đắn về sự vật, hiện tượng phải hướng tới cái bản chất, không hướng
tới cái ngẫu nhiên, không ổn định.
- Nghiên cứu trong sự phát triển: mỗi sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
đều có quá trình nảy sinh, vận động và phát triển; đều tồn tại trong một không
gian và thời gian xác định. Khi nghiên cứu cần nhìn nhận sự vật hiện tượng
như nó tồn tại trong một giai đoạn cụ thể trong cả quá trình vận động, phát
triển; chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể làm phát sinh vấn đề đó,
tới sự ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực khách quan và chủ
quan. Nó giúp ta thấy được sự vận động, phát triển của các sự vật cũng như lý
giải được quá trình vận động và phát triển của các sự vật đó.
- Nguyên tắc nghiên cứu sự vật hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn. Khi
xem xét các sự vật hiện tượng, phải nhìn nhận trong mối liên hệ qua lại giữa
các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật hiện tượng
20
đó. Đồng thời, phải xem xét sự vật hiện tượng trong mối liên hệ qua lại với
nhau (cả trực tiếp và gián tiếp) và trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của
con người. [24, tr. 212 – 232].
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: sự sản xuất ra tư liệu
sản xuất và sự sản xuất ra con người cũng như sự tái sản xuất không ngừng ra
tư liệu sản xuất và con người là nhân tố có tính quyết định của xã hội. Sự phát
triển của gia đình cũng gắn với sự phát triển của sản xuất, tái sản xuất vật chất
và tinh thần cũng như tái sản xuất ra con người. Điều này được đề cập đến
trong "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước" - của Ph.
ăngghen. [24]
Gia đình chịu sự tác động mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế - xã hội,
tuy nhiên lại có tính ổn định và độc lập tương đối trong sự phát triển của nó.
Tóm lại, cách tiếp cận của chủ nghĩa duy vật lịch sử đòi hỏi khi nghiên cứu về
gia đình phải đặt trong một bối cảnh kinh tế - xã hội nhất định, một nền văn
hoá nhất định.
Trong luận văn này, tôi nhìn nhận và đánh giá hiện tượng kết hôn sớm
ở cộng đồng các dân tộc thiểu số trong mối liên hệ với các hiện tượng xã hội
khác; đồng thời, đặt hiện tượng này trong bối cảnh lịch sử cụ thể nhằm hướng
tới cái bản chất của hiện tượng.
1.2. Một số lý thuyết và quan điểm của các nhà xã hội học trong nghiên
cứu về gia đình.
1.2.1. Lý thuyết về giới:
Trong nghiên cứu gia đình, lý thuyết về giới có vai trò đặc biệt quan trong,
nó cho phép xem xét, đánh giá, phân tích các sự vật hiện tượng trên một góc
độ hoàn toàn khác biệt so với các lý thuyết khác. Đó là sự xem xét sự vật hiện
tượng dựa trên sự khác biệt về vai trò xã hội xuất phát từ sự khác biệt về giới
21
tính.
Lý thuyết về giới, lý thuyết nữ quyền xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX ở
Phương Tây, được chia thành ba giai đoạn gọi là ba làn sóng nữ quyền. Làn
sóng nữ quyền thứ nhất (1848 - 1918) với mục tiêu đạt được các quyền phụ
nữ trong phạm vi công cộng, đặc biệt là quyền bầu cử, giáo dục, nghề nghiệp.
Quan điểm của các nhà nữ quyền thời kỳ này là nhanh chóng đưa phụ nữ
tham gia vào lĩnh vực công cộng, nơi có sự nghiêm khắc về đạo đức giới tính
và ứng xử. Đại biểu cho thuyết nữ quyền thời kỳ này là Mary Wollstonecraft.
Làn sóng thứ hai (1918 - 1968) có liên quan đến các cải cách xã hội và cuộc
“cách mạng” trong lĩnh vực riêng tư như quyền tránh thai, chấm dứt áp bức
tình dục. Trong thời kỳ này có hai xu hướng lớn: phong trào nữ quyền mác –
xít và phong trào nữ quyền tự do, cấp tiến và cách mạng. Đại biểu của giai
đoạn này là Betty Friedan. Làn sóng thứ ba (từ 1968 đến nay) lại chủ yếu liên
quan đến các vân đề công cộng (vấn đề bình đẳng về lương, chấm dứt phân
biệt giới tính trong nghề nghiệp, lương hưu, thế chấp tài sản...) và các vấn đề
riêng tư (sự hãm hiếp và bạo lực gia đình). Trong giai đoạn này, lý thuyết nữ
quyền được phân chia theo các lĩnh vực: địa lý, lịch sử, khoa hoạc chính trị,
tâm lý, xã hội học...[9, tr.1-5].
Theo lý thuyết này, vai trò giới, tương quan giới là kết quả của quá trình
xã hội hóa cá nhân. Cấu trúc hành vi, tình cảm, thái độ đặc thù cho mỗi giới
đã có sẵn trong xã hội trước khi đứa trẻ chào đời. Kể từ khi lọt lòng đến khi
mất đi, con người không ngừng tiếp thu và làm theo các cấu trúc giới đang tồn
tại một cách khách quan. Trẻ em nam, trẻ em nữ bắt chước, học tập theo các
cách ứng xử theo khuôn mẫu quy định một cách tương ứng đối với nam hay
nữ. Điều này đã dẫn đến một thực tế là phụ nữ bị phân biệt đối xử ở cả gia
đình và cộng đồng, theo các nhà nữ quyền thì phụ nữ bị đẩy xuống “địa vị
hạng hai”, không có quyền lực gì và chịu sự phân công lao động bất bình
22
đẳng ngay trong gia đình của mình.
Cho đến nay, thuyết nữ quyền và các thành tựu khoa học về giới đã tạo cơ
sở cho việc xem xét vấn đề giới một cách toàn diện và khách quan hơn. Có
thể khẳng định rằng: sự phân biệt nam nữ hoàn toàn là xuất phát từ chính xã
hội loài người. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phân tích điều này rất rõ trong các
tác phẩm của mình. ở Việt Nam, trong những năm vừa qua, việc tiếp cận quan
điểm giới đã giúp cho các nhà nghiên cứu nhìn ra những điều mà trước đó
người ta coi là chuyện đương nhiên. Nói tóm lại, lý thuyết về giới đã tạo ra
một cuộc cách mạng, đem đến một luồng gió mới cho các nghiên cứu về gia
đình và phụ nữ.
Trong luận văn này, tôi luôn vận dụng, xem xét, đánh giá, tìm hiểu bản
chất của sự vật hiện tượng trên quan điểm giới, lý thuyết về giới. Tìm hiểu sự
khác biệt về suy nghĩ, hành vi, quan niệm của cộng đồng xã hội về vai trò của
các cá nhân trong cộng đồng đó có xuất phát từ các quan niệm mang tính chất
giới không, đặc biệt lưu ý tới những quan niệm mang tính chất thiên lệch,
nhạy cảm giới. Chẳng hạn như, mục đích của việc kết hôn sớm có phải là
nhằm biến người phụ nữ trở thành người có trách nhiệm chính với công việc
đồng áng, giặt giũ, nấu ăn, phục vụ nhà chồng và sinh con sớm để nối dõi cho
nhà chồng hay không? Vị trí và vai trò giới của phụ nữ tảo hôn có khác gì so
với những phụ nữ kết hôn bình thường, đúng độ tuổi không? Phải chăng tảo
hôn đã góp phần làm ngắn đi quãng đời thanh xuân của phụ nữ và đưa họ sớm
phụ thuộc vào người chồng và gia đình anh ta?
1.2.2. Lý thuyết cấu trúc - chức năng:
Hai đại biểu lớn nhất của thuyết cấu trúc chức năng là Emile Durkheim
và Talcott Parsons. Nhìn chung, thuyết cấu trúc chức năng giải thích sự tồn tại
và phát triển của các thể chế xã hội là do chức năng duy trì trật tự xã hội của
23
chúng. Các nhà nghiên cứu theo thuyết cấu trúc chức năng quan niệm xã hội
bình thường như một cơ thể lành mạnh, trong đó, các thể chế có chức năng
riêng và quan hệ hữu cơ với nhau; cùng hướng vào việc duy trì tính hợp lý xã
hội. Các chức năng có vị trí, vai trò bình đẳng với nhau. Xã hội là một hệ
thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau và tham gia tạo nên sự ổn định bền
vững của chỉnh thể xã hội. Để giải thích các thiết chế xã hội, phải tìm hiểu hệ
thống xã hội như một tổng thể, đòi hỏi phải thoả mãn các nhu cầu của nó.
Emile Durkheim cho rằng: mỗi yếu tố, mỗi thành phần, một bộ phận cấu
thành của xã hội đều thực hiện những chức năng nhất định, thoả mãn những
nhu cầu nhất định của hệ thống xã hội. E. Durkheim chỉ ra hai đặc trưng quan
trọng nhất của sự kiện xã hội: một là, tính khách quan của sự kiện xã hội thể
hiện ở chỗ các sự kiện xã hội tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức cá
nhân; hai là, sự kiện xã hội có khả năng cưỡng chế, kiểm soát, bắt buộc đối
với hành vi, hoạt động của cá nhân. Sự thay đổi một yếu tố, một bộ phận nào
đó sẽ kéo theo sự thay đổi ở các bộ phận, yếu tố khác và làm biến đổi cả hệ
thống.
Theo E. Durkhiem, đặc trưng nổi bật của sự kiện xó hội là sự cưỡng
bức của nó đối với hành vi của cá nhân. Sự cưỡng bức của các sự kiện xó hội
khụng phải là do ý chớ cỏ nhõn mà là do hiện thực xó hội quy định, là sản
phẩm của nguyên nhân nhất định.
Sự cưỡng bức của xó hội đối với cá nhân không đơn giản là sự cưỡng
bức vật chất mà cả trí tuệ và đạo đức. í thức tập thể, tỡnh cảm gắn bú với cộng
đồng xó hội và sự tụn trọng tập quỏn xó hội của cỏ nhõn chỉ cú thể hỡnh
thành và củng cố khi họ đặt sự tồn tại của họ trong sự tồn tại phong phú, phức
tạp và lâu bền của xó hội. [4, tr.148-152]
Nhìn chung, trong các tác phẩm của mình, những nhà xã hội học theo chủ
thuyết chức năng đều nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu
24
thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều các chức năng nhất định góp
phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương
đối ổn định và bền vững.
Talcott Parsons phân biệt ít nhất bốn cấp độ hệ thống và cho rằng thông
qua quá trình xã hội hóa cá nhân, hành động của con người hình thành và biểu
hiện trên các cấp độ hệ thống từ cấp hành vi đến cấp nhân cách, cấp xã hội và
cấp văn hóa. Một số đặc điểm cần lưu ý là: Thông qua cơ chế xã hội hóa cá
nhân, các hệ thống văn hóa có khả năng biến các giá trị chung của xã hội
thành hệ những giá trị riêng của mỗi người, nhờ vậy thực hiện chức năng
kiểm soát xã hội, bảo tồn các khuôn mẫu hành động của các cá nhân. [4,
tr.230-234]
Mặc dù không phủ nhận sự khác biệt về mặt giá trị giữa các nhóm xã hội
cũng như tính linh hoạt, chủ động của các cá nhân, những người theo trường
phái chức năng luôn nhấn mạnh việc con người có xu hướng hành động theo
những vai trò mà xã hội định trước, đồng thời nhấn mạnh đến tính vững chắc
của các thiết chế và cấu trúc xã hội và việc phục tùng của các cá nhân đối với
các chuẩn mực và nhu cầu của hệ thống xã hội.
Trong luận văn này, tôi luôn xem xét, đánh giá sự vật hiện tượng trên cơ
sở liên hệ quan điểm cấu trúc – chức năng, tìm hiểu các nguyên nhân của hiện
tượng kết hôn sớm có phải xuất phát từ nhu cầu thực tế hoặc chịu ảnh hưởng
từ các quan niệm xã hội hay không? Phải chăng việc kết hôn sớm là một biểu
hiện trong đó cá nhân thực hiện vai trò xã hội của mình? Đó là lựa chọn mang
tính chất cá nhân hay là sự phục tùng theo khuôn mẫu hành động do xã hội
quy định?
25
1.2.3. Lý thuyết hành vi lựa chọn hợp lý:
Thuyết hành vi lựa chọn hợp lý dựa vào tiền đề cho rằng con người luôn
hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các
nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu.
Định đề cơ bản của lý thuyết này được nhà xã hội học người Mỹ Homans
diễn đạt theo kiểu định lý toán học như sau: khi lựa chọn trong số các hành
động có thể có, cá nhân sẽ chọn cách nào mà họ cho là tích của xác suất thành
công của hành động đó với giá trị mà lợi ích của hành động đó là lớn nhất.
Cũng tương tự như Homans, John Elster tóm lược nội dung cơ bản của thuyết
lựa chọn duy lý: “Khi đối diện với một số cách hành động, mọi người thường
làm cái mà họ tin là có khả năng đạt được kết quả cuối cùng tốt nhất”.
Thuyết hành vi lựa chọn hợp lý đòi hỏi phải phân tích hành động lựa chọn
của các cá nhân trong mối liên hệ với cả hệ thống xã hội của nó bao gồm các
cá nhân khác với những nhu cầu và sự mong đợi của họ, các khả năng lựa
chọn và các sản phẩm đầu ra của từng lựa chọn cùng các đặc điểm khác.
Georg Simmel nêu ra nguyên tắc “cùng có lợi” của mối tương tác xã hội
giữa các cá nhân và cho rằng mỗi cá nhân luôn phải cân nhắc, toan tính để
theo đuổi mục đích cá nhân, để thỏa mãn các nhu cầu cá nhân. [4, tr.353-368]
Khi phân tích các vấn đề trong luận văn này, tôi luôn cố gắng tìm hiểu bản
chất của sự vật hiện tượng, vận dụng và lý giải các hiện tượng trên cơ sở
thuyết hành vi lựa chọn hợp lý. Phải chăng phong tục tập quán kết hôn sớm
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số là một lựa chọn phù hợp với truyền
thống của họ nhằm đảm bảo sự phát triển gia đình trong điều kiện “đất rộng,
người thưa”? Vấn đề cá nhân có được lựa chọn không? Và sự lựa chọn của họ
có phù hợp với lợi ích của gia đình và cộng đồng không?
1.3. Quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về vấn
26
đề kết hôn sớm/ tảo hôn.
Hôn nhân và gia đình mang những nét tiêu biểu cho văn hóa của mỗi
dân tộc và mang đặc trưng của một xã hội truyền thống. Vì vậy, Luật pháp về
hôn nhân và gia đình một mặt cần chú trọng tới tính nhất quán của các quy
định pháp luật nhưng mặt khác cũng cần quan tâm tới việc giữ gìn và phát
huy những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp và tích cực các dân tộc.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của pháp luật là điều chỉnh, định hướng các
quan hệ xã hội theo lợi ích và trật tự chung mà Nhà nước đã đặt ra. Luật Hôn
nhân và gia đình, với tư cách là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân gia đình cũng có vai trò là cơ sở pháp
lý vững chắc góp phần xây dựng, duy trì, phát triển và bảo vệ chế độ hôn
nhân và gia đình tiến bộ phù hợp với điều kiện và bản chất của xã hội Việt
Nam.
Tảo hôn/ kết hôn sớm là một trong số các phong tục tập quán của xã
hội Việt nam trước đây. Tuy nhiên, do nhận thức được các tính chất tiêu cực
của hiện tượng này nên Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đã có những quy
định cụ thể về việc cấm tảo hôn. Tại khoản 2, Điều 4 của Luật quy định: “cấm
tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cấm kết hôn
giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo, cấm
yêu sách của cải trong việc cưới hỏi”.
Bộ luật Hình sự năm 1999 có một chương riêng (Chương XV) quy định
về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Theo quy định của Bộ luật
Hình sự thì các hành vi xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, tuỳ theo mức
độ vi phạm và hậu quả xảy ra mà có thể bị xử lý về hình sự với các khung
hình phạt khác nhau, như tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn. Điều 148 Bộ luật
Hình sự quy định: “Người nào có một trong những hành vi sau đây, đã bị xử
phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo
27
không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm:
a. Tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn;
b. Có ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến
tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án buộc chấm dứt
quan hệ đó”.
Nhìn chung, các tội danh này được xử lý ở mức hình phạt cao hơn so
với mức hình phạt quy định đối với các tội danh này trong Bộ luật Hình sự
năm 1985, điều này cũng cho thấy Nhà nước ta luôn coi trọng việc áp dụng
các biện pháp cần thiết, kể cả việc áp dụng các hình phạt nghiêm khắc để xử
lý các cá nhân có hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình, bảo đảm cho
các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia định được thực thi nghiêm
chỉnh trong cuộc sống.
Luật Bình đẳng giới được Quốc hội khoá XI thông qua ngày
29/11/2006 đã có một số các điều khoản quy định rõ ràng nhằm hạn chế, tiến
tới xoá bỏ bất bình đẳng giới. Điều 10 của Luật có ghi rõ các hành vi nghiêm
cấm, đó là: “Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới” (khoản 1) và “Phân
biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức” (khoản 2). Các chính sách của Nhà
nước đều phải được cân nhắc, xem xét và thực hiện có tính đến mục tiêu bình
đẳng giới: “Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị - kinh tế -
văn hoá – xã hội và gia đình...” (khoản 1, điều 7); và cần đặc biệt lưu ý đến
việc thực hiện bình đẳng giới ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số “áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục tập quán
lạc hậu, cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới” (khoản 3, điều 7) và “hỗ
trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn...” (khoản 5,
điều 7). [25]
Nước ta là một nước có nhiều dân tộc sinh sống. Việc kết hôn sớm vì
28
mục đích có nhiều lao động, được chia thêm ruộng đất hay do phong tục tập
quan lạc hậu vẫn còn diễn ra. Để nhân dân các dân tộc thiểu số thực hiện tốt
Luật hôn nhân và gia đình, sau khi Quốc hội ban hành Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định 32/2002/NĐ-CP ngày 27
tháng 3 năm 2002 quy định việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với
các dân tộc thiểu số.
Nghị định này ngoài việc quy định về độ tuổi kết hôn, các điều kiện
khác như quy định Luật hôn nhân gia đình 2000 còn nhấn mạnh những phong
tục tập quán tốt đẹp của nhân dân các dân tộc cần được tôn trọng và phát huy.
Những phong tục tập quan lạc hậu trái với nguyên tắc quy định của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 thì bị nghiêm cấm hoặc vận động xóa bỏ.
Bên cạnh các chế tài về hình sự, sau khi Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 được ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 87/2001/NĐ-CP
ngày 21/11/2001 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và
gia đình. Nghị định này quy định cụ thể về các hành vi vi phạm, hình thức và
mức xử phạt, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình. Nghị định này có quy định việc xử phạt hành chính đối với
các hành vi vi phạm như: hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn.
Cùng với các quy định cụ thể của luật pháp về hôn nhân và gia đình,
nhiều chính sách khác của nhà nước nhằm phát triển kinh tế xã hội cho các
dân tộc vùng sâu, vùng xa và sự nỗ lực của các cấp chính quyền, người dân,
tình trạng tảo hôn ở một số vùng ở nước ta hiện nay đã giảm xuống. Điều này
đã có ảnh hưởng tích cực tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống và chất
lượng dân số ở những vùng này nói riêng và trên phạm vi toàn quốc nói
chung.
1.4. Hệ thống khái niệm công cụ:
29
1.4.1. Khái niệm hôn nhân
Hôn nhân được coi là quan hệ xã hội mang tính văn hoá, thể hiện sự
tán thành và đồng ý của xã hội đối với quan hệ tình dục và quan hệ sinh sản
giữa một người đàn ông và một người đàn bà, kèm theo những quyền và
nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận đối với nhau và đối với con cái. Sau khi
kết hôn, cá nhân được xã hội chấp nhận có cuộc sống gia đình và bắt đầu
thực hiện vai trò xã hội mới của mình đối với gia đình (là người chồng, người
vợ, làm cha, làm mẹ…) [28].
Chính vì những lẽ như trên, người ta thường coi hôn nhân là một thể
chế xã hội, gắn liền với những điều kiện (tuổi kết hôn, tình trạng sức khoẻ,
quy định nội hôn, ngoại hôn…) và những thủ tục nhất định (sự công nhận của
pháp luật, cộng đồng, của nhà thờ). Trong quá trình phát triển xã hội, hôn
nhân thường có sự thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử gắn liền với sự biến
chuyển trình độ phát triển của xã hội.
“Khi nói đến hôn nhân, Ăng-ghen cho rằng trọng tâm ý nghĩa thường
rơi vào mặt tính giao xác thịt trong quan hệ giữa đàn ông và đàn bà, vào việc
làm thoả mãn những nhu cầu sinh dục. Mức độ phát triển cao nhất của nó là
tình yêu chọn lọc giữa các cá nhân với nhau, với niềm hưng phấn bởi một tình
cảm cao quý. Vấn đề bảo đảm các nhu cầu sinh học khác, trước tiên là các tư
liệu sinh hoạt, cũng như việc sinh con đẻ cái và giáo dục chúng, trong trường
hợp này nổi lên như một nhu cầu thứ yếu, có thể phát sinh hoặc không phát
sinh từ cuộc hôn nhân nói trên”. [5, tr.23]
Cũng theo tác giả Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý: “hôn nhân là một
mối quan hệ được thừa nhận về mặt pháp lý, thường bao gồm việc hợp tác về
kinh tế, việc hoạt động tình dục cũng như việc nuôi dạy con cái trong một thời
gian dài” [5, tr.54].
Cũn theo tác giả Đoàn Văn Chúc (2004), hôn nhân được phân tích là từ
30
ghép bởi hai từ gốc Hán là hôn và nhân. Hôn tức là bố mẹ cô dâu (từ này khác
với từ hôn là buổi chiều, không có bộ nữ); nhân là bố mẹ chú rể. Hôn nhân
còn được gọi là giá thú, được ghép bởi hai từ Hán – Việt, trong đó giá là việc
lấy chồng; thú là việc lấy vợ. Theo ngữ nghĩa trên, khi gọi là hôn nhân là
đứng trên quan điểm của cha mẹ hai bên gia đình lo dựng vợ gả chồng cho
con; còn khi gọi là giá thú là trên quan điểm của đôi trai gái lấy nhau làm
chồng làm vợ để lập thành gia đình [8, tr.65-71].
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000: “Hôn nhân là sự
liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà xác lập quan hệ trên cơ
sở hoàn toàn bình đẳng và tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm
chung sống với nhau suốt đời và xây dựng hạnh phúc gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững” (®iÒu 8, kho¶n 6). [26]
Với ý nghĩa đó, hôn nhân trong xã hội Việt Nam có một số đặc điểm sau
đây:
- Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà,
đó là hôn nhân một vợ một chồng. Đặc điểm này nói lên sự khác nhau cơ bản
giữa hôn nhân xã hội dân chủ và hôn nhân xã hội phong kiến trước đó (một
chồng nhiều vợ).
- Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà
dựa trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện. Cơ sở của sự tự nguyện là tình yêu
giữa nam và nữ.
- Hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa người đàn ông và người đàn bà.
Bình đẳng giữa vợ và chồng là bình đẳng về địa vị xã hội, về kinh tế và văn
hoá.
- Hôn nhân là sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà theo quy
định của pháp luật. Nghĩa là, việc đăng ký kết hôn phải tuân theo quy định
31
của pháp luật để được công nhận hợp pháp. [28].
Tóm lại, hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn, là cơ
sở của gia đình, là phương thức để xây dựng, duy trì, củng cố và phát triển gia
đình. Trên thực tế, hôn nhân vừa liên quan chặt chẽ với toàn bộ xã hội, có ảnh
hưởng trực tiếp và thường xuyên đến cuộc sống của mỗi cá nhân; vừa là biểu
hiện sinh động của sắc thái văn hoá tộc người. Vì vậy, hôn nhân không chỉ là
sự thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ giới tính mà còn mang nhiều ý nghĩa
văn hoá - xã hội – kinh tế khác.
Cũng có ý nghĩa tương tự như hôn nhân, kết hôn là việc nam và nữ xác
lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn. Kết hôn là sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một
người nữ, sự liên kết đó phải được Nhà nước thừa nhận bằng một sự phê
chuẩn dưới hình thức pháp lý – đó là đăng ký kết hôn. Như vậy, đăng ký kết
hôn nhằm xác lập quan hệ hôn nhân và là cơ sở để hình thành gia đình. Để gia
đình thực sự bền vững và hạnh phúc, Nhà nước quản lý việc kết hôn của cá
nhân thông qua quy định pháp luật về điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn cùng
những quy định về giải quyết những vi phạm trong lĩnh vực kết hôn. Luật
Hôn nhân và Gia đình quy định rõ: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan
hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết
hôn”. (Điều 8).
Quy định vấn đề kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
cũng là sự nội luật hoá Công ước CEDAW – Công ước xoá bỏ mọi phân biệt,
đối xử với phụ nữ. Mục b, khoản 1, Điều 16 Công ước quy định nam nữ có
“Quyền tự do như nhau trong việc lựa chọn bạn đời và chỉ kết hôn khi cả hai
hoàn toàn tự do và tự nguyện”. [20]
1.4.2. Khái niệm gia đình
Gia đỡnh là một thiết chế xã hội quan trọng và đặc biệt. Hầu hết mọi cá
32
nhân từ khi chào đời cho đến khi chết ®i ®ều gắn bó với gia đình của mình.
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Mỗi
khoa học khi nghiên cứu về gia đình đều có nội dung và phương pháp tiếp cận
riêng, cụ thể: Tâm lý học nghiên cứu quá trình hình thành và hoàn thiện nhân
cách của cá nhân trong gia đình; Dân số học quan tâm đến vai trò của gia
đình và cơ cấu của gia đình trong tái sản xuất dân số; Kinh tế học chú ý đến
gia đình với tư cách là một đơn vị kinh tế, đơn vị tiêu dùng; Xã hội học thì
nghiên cứu những vấn đề xã hội của gia đình, cụ thể là nghiên cứu các mối
quan hệ bên trong gia đình và các quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa gia
đình và xã hội; Gia đình học thì nghiên cứu một cách hệ thống về gia đình,
đặt ra và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tế về gia đình một cách toàn
diện, cung cấp các luận cứ khoa học cho những giải pháp tăng cường vai trò
của gia đình phù hợp với yêu cầu phát triển...
Tuỳ theo sự biến đổi theo vùng, theo lịch đại và tuỳ theo những hướng
tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra những đĩnh nghĩa khác nhau về gia
đình. August Comte, người được coi là ông tổ của Xã hội học coi “gia đình là
một tập đoàn xã hội cơ bản và quan trọng nhất mang tính lịch sử trong quá
trình tiến triển của xã hội”. Cßn Karl Marx cho rằng “gia đình là một mối
liên hệ, thông qua đó và nhờ đó mà thực hiện việc tái sản xuất con người và
cơ cấu của việc tái sản xuất con người”. [28].
Theo Ph. Ăng-ghen: “Khái niệm gia đình thường gắn với hôn nhân và
là khái niệm phát sinh từ chính hôn nhân, song không thể chỉ quy trực tiếp
vào hôn nhân được. Gia đình đòi hỏi phải có hành động tương hỗ giữa các cá
thể trong quá trình thoả mãn không chỉ các nhu cầu sinh dục; mà còn có cả
các nhu cầu ăn uống và sinh hoạt giáo dục và tình cảm nữa. Nó cũng bao
gồm việc làm kinh tế chung, sinh con đẻ cái và giáo dục chúng, việc con cháu
33
được thừa hưởng tài sản của tổ tiên.... Về ý nghĩa này, theo Ăng-ghen, gia
đình có tính “xã hội” cao hơn so với hôn nhân; còn hôn nhân “có tính sinh
học” ở một mức độ cao” [5, tr.23].
Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, có sự xuất hiện rất nhiều các hình thức
gia đình khác nhau: gia đình đầy đủ (gồm cha mẹ và con cái); gia đình đơn
(chỉ có mẹ hoặc cha và con cái); gia đình tái hôn; nam nữ sống chung mà
không cưới; gia đình chỉ có hai vợ chồng mà không có con; gia đình cha mẹ
và con nuôi; gia đình mở rộng hoặc đa thế hệ; gia đình đa thê (hoặc đa phu);
gia đình đồng tính luyến ái... Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc tìm
kiếm một định nghĩa chung về gia đình.
Điều 8 Luật Hôn nhân vµ gia đình Việt Nam năm 2000 cã nªu: “Gia
đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền
giữa họ với nhau. Quan hệ huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định cha mẹ
con mà còn là cơ sở xác định nguồn gốc, dòng họ, gia phả với những giá trị
văn hóa tinh thần, đạo đức và truyền thống của dòng họ”. Tuy nhiên, khái
niệm trên chỉ đề cập đến những cặp vợ chồng có đăng ký kết hôn chính thức
nhằm mục đích quản lý Nhà nước về gia đình chứ chưa bao quát được những
hình thức gia đình khác.
Gia đình cũng có thể được hiểu là “Một cộng đồng được thiết chế hoá và
hình thành trên cơ sở hôn nhân, trách nhiệm pháp luật và đạo đức giữa vợ
chồng, con cái và các thành viên cùng chung sống với nhau trong khoảng thời
gian không hạn định”.[28] Từ khái niệm trên, có thể thấy rằng để đảm bảo
cho một gia đình ổn định cần có một số dấu hiệu sau đây:
- Một gia đình thường bắt đầu từ sự kết hôn giữa một người đàn ông và
một người đàn bà;
34
- Có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng.
- Có sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi giữa các thành viên trong gia
đình.
Mặc dù có nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về gia đình, nhưng
theo cách chung nhất, có thể hiểu một cách thông thường rằng: “Gia đình là
một thiết chế xã hội liên kết con người lại với nhau nhằm thực hiện việc duy
trì nòi giống và chăm sóc con cái. Các mối quan hệ gia đình còn được gọi là
mối quan hệ họ hàng. Đó là những sự liên kết ít nhất là của hai người dựa
trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và việc nhận con nuôi. Những người này
sống cùng hoặc sống khác mái nhà với nhau” [5, tr.54]
1.4.3. Kh¸i niÖm kÕt h«n sím
Khái niệm kết hôn có ý nghĩa tương tự như khái niệm hôn nhân. Vì
vậy, khái niệm kết hôn sớm được hiểu trên cơ sở khái niệm hôn nhân hoặc kết
hôn. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây được xác định là thời điểm kết hôn.
Kết hôn sớm, hay còn gọi là tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một trong
hai bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật.
Liên quan đến việc kết hôn sớm, khoản 2 Điều 16 Công ước CEDAW
có quy định rõ: “Việc hứa hôn và kết hôn của trẻ em phải bị coi là không có
hiệu lực pháp lý và phải tiến hành mọi hoạt động cần thiết, kể cả về mặt pháp
luật, nhằm quy định độ tuổi tối thiểu có thể kết hôn và buộc phải làm thủ tục
đăng ký kết hôn chính thức”. [20]
Điều 9 khoản 1 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 của Việt Nam có
quy định rõ tuổi kết hôn là “nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi
trở lên mới được kết hôn”.{26} Do đó, “nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ
đã bước sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về độ tuổi
kết hôn” - Mục 1 điểm Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000
của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số
35
quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Và vì vậy, bất cứ trường
hợp nào kết hôn trước độ tuổi quy định nêu trên được coi là kết hôn sớm hay
còn gọi là tảo hôn.
1.4.2. Khái niệm dân tộc/ dân tộc thiểu số:
Nhìn chung, các thuật ngữ như dân tộc, nước, đất nước hay nhà nước
thường được dùng như những từ gần nghĩa. Các khái niệm "Nhà nước", "quốc
gia", "dân tộc" đều là các từ Hán-Việt mới được sử dụng phổ biến ở Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX.
Theo GS. Phan Huy Lê, ở nước ta, trong quá trình sử dụng, từ "dân tộc"
mang một số ý nghĩa như sau:
- Là một đơn vị tộc người nói chung, không phân biệt cấp độ loại hình cộng
đồng, ví dụ như khi nói: dân tộc Việt, dân tộc Tày, dân tộc Thái, Việt Nam có
54 dân tộc...
- Là cộng đồng quốc gia bao gồm nhiều cộng đồng cư dân, tộc người sống
trên một lãnh thổ do một nhà nước quản lí, như trong trường hợp nói dân tộc
Việt Nam, dân tộc Lào, dân tộc Cămpuchia...
Nhìn chung, khái niệm “dân tộc” dùng để chỉ một cộng đồng cụ thể
(Tày, Việt, Thái, Mường, Hoa...), nhưng thực ra đó là khái niệm “tộc người”
(ethnie), là một hình thái đặc thù của một tập đoàn người, một tập đoàn xã
hội, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt
bởi ba đặc trưng cơ bản: ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác về cộng đồng,
mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử. Như vậy, thực chất của
“Dân tộc Tày, dân tộc Kinh” mà người ta quen gọi chỉ nên gọi là “Tộc người
Tày, tộc người Kinh”, thậm chí đơn giản hơn chỉ là “người Tày, người Kinh”
[6].
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam có 54 tộc người, trong đó, người Việt
chiếm đa số tuyệt đối với tỉ lệ khoảng 87% dân số và các tộc người. Tỷ lệ còn
36
lại (13%) thuộc về 53 dân tộc với số lượng người không nhiều, chủ yếu tập
trung sống ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Do số lượng dân cư ít nên khi
37
nói đến 53 dân tộc này, người Việt Nam thường gọi là các dân tộc thiểu số.
Chương II
Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng
các dân tộc thiểu số tại xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ và xã Bạch Đích,
huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang
2.1. Một số nét khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội
của địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Tỉnh Hà Giang:
Hà Giang là tỉnh miền núi cao nằm ở cực Bắc tổ quốc, phía Bắc giáp
các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây - Trung Quốc trên chiều dài biên giới là 274
km, phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía
Tây giáp Yên Bái và Lào Cai. Về tổ chức hành chính, tỉnh Hà Giang có 1 thị
xã tỉnh lỵ (thị xã Hà Giang) và 9 huyện với 119 xã, phường, thị trấn.
Địa hình Hà Giang tương đối phức tạp, được chia cắt thành các tiểu
vùng mang đặc điểm khác nhau về độ cao, thời tiết và khí hậu:
- Vùng 1: vùng cao núi đá phía bắc gồm 4 huyện Đồng Văn, Mèo Vạc,
Quản Bạ và Yên Minh. Diện tích tự nhiên 2.221 km2, dân số 21,3
vạn người. Đây là 4 trong số 9 huyện được đánh giá là khó khăn
nhất Việt Nam. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. §é cao trung
b×nh tõ 1.000 – 1.600m, gåm nhiÒu khu vùc nói ®¸ v«i cã ®é dèc
kh¸ lín, thung lòng vµ s«ng suèi bÞ chia c¾t nhiÒu.
- Vùng 2: vùng cao núi đất phía tây gồm 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần
với diện tích 1.453 km2, dân số 10,8 vạn người. Địa hình tự nhiên chia cắt
mạnh, độ dốc lớn. Độ cao trung bình là 900 – 1.000 m, sườn núi dốc, đèo cao,
38
thung lũng và sông suối hẹp.
- Vùng 3: vùng núi thấp gồm 3 huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê và thị
xã Hà Giang. Diện tích tự nhiên 4.174 km2, dân số 30,6 vạn người. §é cao
trung b×nh 50 – 100m, chñ yÕu lµ ®åi thÊp.
Về kinh tế, trong giai đoạn 1996-2002 Hà Giang duy trì được tốc độ
tăng GDP khá cao (khoảng 10%/năm). GDP bình quân đầu người năm 2002
là 2,14 triệu đồng (năm 2000 là 1,7 triệu đồng). Tuy nhiên, các cơ sở công
nghiệp còn nhỏ lÎ và đến nay Hà Giang vẫn chưa có khu vực kinh tế đầu tư
nước ngoài. Nguồn ngân sách của tỉnh chủ yếu do trung ương cấp ‐ năm
2002 Hà Giang mới tự lo được khoảng 18% trong tổng ngân sách 953 tỷ
đồng.
Tỉ lệ hộ nghèo năm 2001 theo tiêu chí mới của Bộ Lao động, Thương
binh và xã hội là 25,7%. Năm 2002, tỉ lệ này còn 18% và không còn hộ đói
(Báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và xã hội tỉnh Hà Giang). Theo địa
bàn, thị xã Hà Giang là nơi có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất trong khi Mèo Vạc là
huyện nghèo nhất. Theo dân tộc, HMông là cộng đồng nghèo nhất (chiếm
50% số hộ nghèo năm 2001). Có 142 xã của Hà Giang nằm trong danh sách
1.870 xã nghèo đói của Việt Nam. Yên Minh và Quản Bạ lµ mét trong những
huyện có tỉ lệ xã được chương trình 135 cao nhất, tương ứng là Yên Minh
(16/18 xã) và Quản Bạ (11/13 xã).
Dân số của Hà Giang hiện nay là 614.000 người, trong đó 90% là đồng
bào các dân tộc thiểu số. Dân tộc Mông chiếm 31,3% số dân, dân tộc Tày
chiếm 26,2%, Dao chiếm 15,4%; người Kinh chiếm 11% dân số. Mật độ dân
số vào loại thưa, bình quân toàn tỉnh hiện nay là 78 người/ km2. Dân số của
tỉnh phân bố không đều, vùng đông dân như thị xã Hà Giang và huyện Bắc
Quang có mật độ dân số trên 220 người/ km2 nhưng vùng núi cao như Vị
39
Xuyên, Quản Bạ, Mèo Vạc chỉ trên dưới 60 người/ km2.
2.1.2 Xã Lùng Tám, Huyện Quản Bạ - Tỉnh Hà Giang
Quản Bạ là một trong 4 huyện vùng cao núi đá phía Bắc của tỉnh Hà
Giang, phía Tây và phía Bắc giáp huyện Malypho (tỉnh Vân Nam, Trung
Quốc); phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Yên Minh; phía Nam giáp huyện
Vị Xuyên. Với độ cao trung bình 1000 m đến 1200 m, địa hình của huyện bị
chia cắt phức tạp.
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 549,89 km2. Trong đó đất
nông nghiệp 8.707,18 ha; đất lâm nghiệp 23.727,35 ha; đất chuyên dùng
320,1 ha; đất ở 339,49 ha; đất chưa sử dụng 21.894,88 ha. Toàn huyện có 13
xã, thị trấn với tổng số dân trên 3,9 vạn người gồm 14 dân tộc. Trong đó, dân
tộc Mông chiếm trên 60%. Số người trong độ tuổi lao động năm 2002 là
18.101 người, chiếm 46,6% tổng dân số.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm 10%, bình quân lương thực đầu
người đạt 338 kg/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 2 triệu đồng/năm.
Toàn huyện có 1 trung tâm y tế, 2 bệnh viện khu vực, 100% xã có trạm y tế.
Trên 50 % số hộ sử dụng điện, 10/13 xã, thị trấn được sử dụng lưới điện quốc
gia. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 19%.
Lùng Tám là xã vùng cao núi đá của huyện Quản Bạ - một trong bốn huyện
miền núi cực Bắc của tỉnh Hà Giang. Đường lên xã Lùng Tám, Quản Bạ là
quốc lộ 4C - một con đường độc đạo và được mệnh danh là một trong những
cung đường hiểm trở và hùng vĩ nhất Việt Nam.
Xã Lùng Tám gồm 7 thôn, trong đó đa số bà con là người dân tộc
Mông. Cũng như bao thôn bản khác trên vùng “cao nguyên đá”, từ xưa đến
nay cuộc sống của bà con chỉ dựa vào cây ngô, cây lúa phải trồng cấy vất vả
trên từng khe đá. “Sống và chết trên đá” là hình ảnh mà mọi người thường
dùng để nói về cuộc sống khó khăn nhưng cũng hết sức “phi thường” của bà
40
con dân tộc ở đây.
Năm 2000, theo chính sách định canh, định cư của tỉnh, bà con trong xã
Lùng Tám đã di dời từ những “cổng trời” xuống định cư tại vùng đất thấp.
Mặc dù công việc đồng áng vẫn ở trên núi, nhưng từ khi “hạ sơn” điều kiện
sống của bà con có nhiều thuận lợi hơn, nhiều nhà đã có nhà ở kiên cố và có
điện sinh hoạt đầy đủ.
Trong 8 tháng của năm 2008, tổng diện tích gieo trồng toàn xã Lùng
Tám đạt 856,8 ha, bằng 129,8% so với cùng kỳ năm trước, tăng 10,7 tấn so
năm 2007. Tuy nhiên, do đất nông nghiệp ít nên việc tập trung phát triển chăn
nuôi được chính quyền xã đặc biệt coi trọng. Trong những năm gần đây, với
chính sách chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng và vật nuôi nên người dân trong
xã đã biết chăn nuôi theo hướng hàng hoá. Đã xuất hiện các nhóm hộ chăn
nuôi tập trung theo hình thức trang trại và bán trang trại như ở các thôn Mỏ
Nhà Thấp, Thôn Tùng Lùn, Lùng Tám Thấp…
Giới thiệu về những hiệu quả trong phát triển chăn nuôi của xã, ông
Giàng Mí L. (Chủ tịch UBND xã Lùng Tám) cho biết: “Tuy vẫn là một xã
nghèo của huyện, song với chủ trương, định hướng đúng cùng sự đầu tư của
Nhà nước, sự nỗ lực của người dân nhằm đưa nghề chăn nuôi chiếm tỷ trọng
lớn trong cơ cấu nền kinh tế, chắc chắn chăn nuôi ở Lùng Tám sẽ giúp người
dân thoát nghèo”.
2.1.3. Xã Bạch Đích, Huyện Yên Minh - Tỉnh Hà Giang:
Yên Minh là huyện vùng cao biên giới phía Bắc của tỉnh Hà Giang, có
29,6 km đường biên giới giáp với Trung Quốc. Phía Bắc giáp huyện Đồng
Văn (Hà Giang) và huyện Malypho, (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc), phía Đông
giáp huyện Mèo Vạc và huyện Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng), phía Tây giáp
huyện Quản Bạ, phía Nam giáp huyện Vị Xuyên và huyện Bắc Mê. Huyện có
41
17 xã và 1 thị trấn.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2002 đạt 14,94%, thu nhập bình quân
đầu người đạt 2,044 triệu đồng/năm. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn
1,97%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 19% năm 2002. Dân số toàn huyện có trên
6,6 vạn người với 15 dân tộc sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Mông
(54%), Tày (14,4%).
Bạch Đích là xã vùng cao núi đá thuộc huyện Yên Minh - một trong
bốn huyện miền núi cực Bắc của tỉnh Hà Giang. Toàn xã có tất cả 561 hộ ở 19
xóm/thôn; gồm 8 dân tộc, trong đó Nùng chiếm nhiều nhất rồi đến dân tộc
Mông, Dao, Nùng, Giấy, Cao Lan, Hán.
Những năm trước đây, Bạch Đích được biết đến là một xã nghèo, đặc
biệt khó khăn với hơn một nửa số hộ thiếu đói hàng năm từ 2 đến 4 tháng.
Được sự hỗ trợ của Nhà nước, xã được đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: điện,
đường, trường, trạm, hệ thống kênh mương thủy lợi và được hỗ trợ giống, vốn
cho các hộ sản xuất. Từ đó, người dân xã Bạch Đích có điều kiện phát triển
sản xuất. Được hướng dẫn về kỹ thuật, người Bạch Đích đã tích cực chuyển
đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi.
Năng suất lúa của Bạch Đích trong năm 2006 đạt 63,4 tạ/ha, tăng hơn
20 tạ so với năm 2000; năng suất ngô đạt 26,2 tạ/ha, tăng 10 tạ/ha so với năm
2000. Nhờ đó, Bạch Đích đã đạt bình quân lương thực 410kg/người/năm,
chấm dứt tình trạng thiếu đói lâu nay.
Có đủ lương thực, không còn thiếu đói, nhiều hộ trong xã đã vươn lên
làm giàu bằng cách chuyển đổi một phần đất trồng lương thực sang trồng các
cây khác cho thu nhập cao hơn như trồng đậu Hà Lan, khoai tây trái vụ cho
thu hơn 41 triệu đồng/ha/năm, cao gần gấp 4 lần trồng lúa, hơn 8 lần trồng
ngô. Bộ mặt của xã biên giới Bạch Đích gần đây đã thay đổi hẳn. Hầu hết các
bản trong xã đều đã có đường giao thông nông thôn đi lại, 85% số hộ dân đã
42
được sử dụng điện sinh hoạt.
2.2. Một số đặc điểm nhân khẩu học của nhóm khách thể nghiên cứu
2.2.1. Tuổi của người trả lời:
Các đối tượng được lựa chọn tham gia trả lời bảng hỏi được chia thành
hai nhóm chính: nhóm phụ nữ, nam giới đã có gia đình (hay còn gọi là nhóm
hộ gia đình) và nhóm nam nữ thanh niên trong độ tuổi từ 13-18 chưa lập gia
đình. Đối với nhóm đối tượng là thanh niên, độ tuổi được quy định tương đối
rõ ràng nên không có những khác biệt quan trọng. Sự đa dạng về độ tuổi thể
hiện nhiều hơn ở nhóm hộ gia đình, cụ thể như sau: nhóm tuổi dưới 19 là 9%;
nhóm từ 19 - 25 là 31,5%; nhóm 26 - 35 là 36,2%; nhóm 36 - 45 là 21,7%;
nhóm 46 - 60 là 0,8% và nhóm trên 60 tuổi là 0,8%. Như vậy, đại đa số các
đối tượng trong mẫu khảo sát nằm trong độ tuổi từ 19 đến 35.
Biểu 2.1: Tuổi của đối tượng trả lời nhóm hộ gia đình (%)
2.2.2. Giới tính của người trả lời:
Tỷ lệ giới tính nam nữ trong tổng dân số thường tồn tại ngẫu nhiên và
43
xấp xỉ bằng nhau. Vì vậy, khi chọn mẫu chúng tôi đã cố gắng tìm một số giải
pháp để đảm bảo độ chênh lệch thấp về cơ cấu giới tính của người tham gia
trả lời. Tỷ lệ giới tính trong nhóm đối tượng có gia đình tương đối đồng đều,
nam là 55,9% và nữ là 44,1%.
Biểu 2.2: Tỷ lệ giới tính trong nhóm đối tượng đã có gia đình (%)
Tỷ lệ giới tính trong nhóm đối tượng thanh thiếu niên tại địa bàn khảo sát
có sự khác biệt tương đối. Đối tượng nam thanh niên tham gia trả lời bảng hỏi
ít hơn so với nữ thanh niên, tương ứng là nam 41% và nữ 59%. Sự chênh lệch
về cơ cấu giới tính như trên là do việc tiếp cận với các đối tượng nam thanh
niên trên thực tế khó khăn hơn so với các đối tượng nữ thanh niên.
2.2.3. Dân tộc và tôn giáo của người trả lời:
ở địa bàn khảo sát, thành phần dân tộc ít người của đối tượng có gia
đình tham gia trả lời phỏng vấn rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, tỷ lệ cao
44
nhất là các dân tộc Mông, Nùng và Dao, tương ứng là 40%; 31.2% và 21.2%.
Nhóm dân tộc Kinh tại địa bàn khảo sát chiếm một tỷ lệ rất thấp (1.5%).
Biểu 2.3: Tỷ lệ các dân tộc trong nhóm đối tượng có gia đình (%)
Cũng tương tự như nhóm có gia đình, thành phần dân tộc trong nhóm
thanh thiếu niên tại địa bàn khảo sát không có sự khác biệt rõ rệt. Nhóm dân
tộc Mông, Nùng và Dao chiếm tỷ lệ đa số, tương ứng là 31%; 31% và 30%.
Không có trường hợp nào là dân tộc Kinh.
Kết quả khảo sát cho thấy: đại đa số các đối tượng tham gia trả lời bảng
hỏi không theo tôn giáo nào (chiếm 94%). Chỉ có một tỷ lệ nhỏ các đối tượng
theo tôn giáo: 5,3% theo Phật giáo, 0.7% theo đạo Tin Lành. Hầu hết các đối
tượng thanh thiếu niên tham gia khảo sát không theo tôn giáo nào chiếm 90%.
Có 10% đối tượng thanh thiếu niên theo Phật giáo. Điều này có thể lý giải
được bởi các em còn sống với bố mẹ nên mọi định hướng hầu như đều phụ
45
thuộc vào gia đình.
2.2.4. Trình độ học vấn của người trả lời
Học vấn là một yếu tố quan trọng, mang tính chi phối các yếu tố khác
như thu nhập, điều kiện sống và nhận thức xã hội…. vì vậy, những đối tượng
có trình độ học vấn thấp, nhận thức xã hội hạn chế thường phải đối mặt với
nguy cơ nghèo khổ nhiều hơn.
Kết quả khảo sát cho thấy: các đối tượng tham gia trả lời bảng hỏi có
trình độ học vấn tiểu học chiếm tỷ lệ lớn nhất (31,5%), tiếp đến là biết đọc
biết viết (26,2%). Có 9.2% đối tượng có trình độ phổ thông cơ sở; 3,8% có
trình độ phổ thông trung học; 1,5% có trình độ trung cấp/trung học dạy nghề
và cao đẳng; không có đối tượng nào có trình độ đại học. Điều đáng lưu ý là
số đối tượng mù chữ trong địa bàn khảo sát chiếm tỷ lệ khá cao 20,8%; tỷ lệ
tái mù là 7%.
Biểu 2.4: Trình độ học vấn của đối tượng đã có gia đình (%)
Có thể nói Hà Giang là tỉnh có nhiều khó khăn, còn nhiều điểm dân cư
thiếu trường học nên trình độ học vấn của người dân còn rất hạn chế. Tỷ lệ
người dân có trình độ biết đọc biết viết hoặc tỷ lệ người mù chữ và tái mù chữ
trong tổng số đối tượng phỏng vấn còn rất cao.
46
Cũng tương tự như nhóm đối tượng có gia đình, kết quả khảo sát
trong nhóm đối tượng thanh thiếu niên như sau: các đối tượng có trình độ học
vấn tiểu học và phổ thông cơ sở chiếm tỷ lệ lớn nhất, tương ứng là 40% và
42%; 9.0% có trình độ phổ thông trung học, biết đọc biết viết là 5%. Tỷ lệ
thanh thiếu niên mù chữ vẫn còn tồn tại dù không nhiều (4%).
2.2.5. Nghề nghiệp của người trả lời:
Kết quả khảo sát cho thấy nghề nghiệp của đối tượng tham gia trả lời
trong bảng hỏi hộ gia đình có cơ cấu chủ yếu như sau: tỷ lệ làm nông nghiệp
chiếm tỷ lệ cao nhất (97%). Các loại hình nghề nghiệp khác có nhưng không
đáng kể: tỷ lệ đối tượng tham gia lực lượng vũ trang là 0.8%; đối tượng hiện
đang là học sinh chiếm 1,5% và không có việc làm chiếm 0,8%. Còn đối với
đối tượng là thanh niên, 50% trả lời nghề nghiệp của mình là làm nông
nghiệp; 48% là học sinh và 2% tham gia lực lượng vũ trang.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng: cơ cấu nghề nghiệp của các đối
tượng khảo sát tại địa bàn khảo sát tập trung ở một số loại hình cơ bản. Đại đa
số các đối tượng là làm nông nghiệp. Dường như sự phân công lao động cũng
như cơ cấu nghề nghiệp ở đây còn rất thuần nhất, có thể nói rằng “người
người làm nông nghiệp, nhà nhà làm nông nghiệp”, nền kinh tế chủ yếu là tự
cấp, tự túc. ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đối với khu vực dân cư này
còn tương đối mờ nhạt. Trong số đối tượng phỏng vấn, có một tỷ lệ thấp đối
tượng có gia đình là hiện đang là học sinh. Điều này chứng tỏ có các đối
tượng kết hôn khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường, kết hôn trước tuổi pháp
luật quy định.
2.2.6. Tình trạng hôn nhân của người trả lời:
Một điều tương đối đặc biệt về tình trạng hôn nhân của nhóm hộ gia
đình là 100% người tham gia trả lời bảng hỏi hiện đang có vợ có chồng,
47
không có trường hợp nào goá bụa hoặc ly thân, ly hôn. Có thể khẳng định
rằng, hầu hết người dân ở đây sống rất thuần khiết và chất phác bởi cuộc sống
của họ cũng đơn giản, cách nhìn đối với cuộc sống rất lạc quan, tự nhiên và
vui vẻ. Chẳng hạn như đối với người miền xuôi, việc người chồng uống rượu
nhiều đến nỗi say thường không phải là điều người vợ mong muốn; thậm chí
ở không ít gia đình, rượu là một trong những nguyên nhân gây ra bất hoà gia
đình, bạo lực gia đình và dẫn đến ly hôn. Tuy nhiên, với người dân tộc thiểu
số khu vực miền núi phía Bắc, trong đó có Hà Giang, thì rượu là một phần
cuộc sống của họ nên họ coi việc say rượu là điều bình thường. Và với họ,
không vì lẽ đó mà ảnh hưởng đến đời sống gia đình dẫn tới việc ly thân, ly
hôn.
Tuy nhiên, cũng theo kết quả khảo sát: chỉ có 68,3% đối tượng trả lời
thuộc nhóm hộ gia đình có thực hiện đăng ký kết hôn, còn 36,2% đối tượng
phỏng vấn chưa thực hiện đăng ký kết hôn, nhưng có đến 92,5% đối tượng
cho biết họ có tổ chức đám cưới. Điều này có thể lý giải là do quan niệm của
người dân ở đây: việc tổ chức đám cưới tức là đã được sự công nhận của họ
hàng, làng xóm đối với hôn nhân của họ rồi. Hiện nay, tại địa bàn khảo sát
vẫn còn tương đối nhiều cặp vợ chồng đã sống với nhau hàng chục năm
nhưng vẫn chưa thực hiện đăng ký kết hôn.
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi cũng phát hiện được một điều rất
thú vị đó là quan điểm tương đối “mở” mang tính chất văn hoá về hôn nhân
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Theo phong tục tập quán của người
Mông, người con trai có thể tự do tìm kiếm người bạn tình của mình, nếu
được bố mẹ đồng ý thì trước khi quyết định đi đến hôn nhân, chàng trai có thể
đưa bạn gái của mình về nhà sống cùng với bố mẹ mình từ vài tháng cho đến
một năm, khi gia đình có điều kiện kinh tế mới tiến hành tổ chức lễ cưới.
Trên thực tế, có không ít các cặp vợ chồng ở với nhau, có con đến 1, 2 tuổi rồi
48
mới tổ chức lễ cưới. Đây là nét văn hoá đặc thù của dân tộc Mông và một số
các dân tộc khác, vì vậy, mối quan hệ của đôi trai gái vẫn được cha mẹ và
cộng đồng cho phép.
2.3. Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Hà
Giang:
Hà Giang là tỉnh có số đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao trong
dân cư là (89,33%). Càng tới sát vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới tỷ lệ đồng
bào thiểu số càng chiếm tỷ lệ cao trong dân cư. Các dân tộc sinh sống lâu đời,
thuộc nhiều ngôn ngữ, có phong tục tập quán mang sắc thái văn hóa riêng.
Đặc điểm phổ biến là các dân tộc sống xen ghép nhau trên diện rộng, phân bố
dân cư không đều; phân tán về tộc người và xen kẽ về địa bàn. Dân cư phân
bố không đều ngay trong mỗi xã do yếu tố tự nhiên và tập quán của từng dân
tộc khác nhau. Dân tộc H' Mông thường định cư ở các triền núi có độ cao từ
700 - 800 mét. Dân tộc Tày, Dao sống ở vùng thấp hơn. Mặc dù sống phân
tán, xen kẽ các dân tộc vẫn có sự phân bố mang tính tập trung về địa dư.
Trước đây, trong cộng đồng các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, hình
thái gia đình chủ đạo là tiểu gia đình phụ quyền, quan hệ phong kiến – gia
trưởng còn nặng nề, bất bình đẳng nam nữ còn rất phổ biến. Tính chất mua
bán trong hôn nhân còn thể hiện ở tục thách cưới, ở rể. Đến nay, tình trạng
này ít nhiều đã được cải thiện, tuy nhiên, hiện tượng tảo hôn vẫn đang diễn ra
tương đối phức tạp, mang đậm nét phong tục tập quán của từng địa phương.
Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của mỗi cá nhân, gia đình
và cả cộng đồng xã hội.
2.3.1. Tỷ lệ tảo hôn ở địa bàn nghiên cứu:
ở Việt Nam, Luật Hôn nhân và Gia đình đã có những quy định rất rõ về
49
độ tuổi được phép kết hôn, nhưng trên thực tế, tình trạng kết hôn sớm vẫn tồn
tại ở tất cả các cộng đồng dân tộc. ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thì
hiện tượng tảo hôn xảy ra phổ biến hơn.
Theo số liệu của cuộc Tổng điều ra Dân số và nhà ở năm 1999: tỷ lệ dân
số nhóm tuổi 15 – 19 đã từng kết hôn trên toàn quốc đối với nam là 2,2%. Tại
khu vực Tây Bắc, vào tuổi 15 có 3,4% nam và 3,5% nữ đã từng kết hôn; vào
tuổi 16 có 4,7% nam và 8,4% nữ đã từng kết hôn; vào tuổi 17 có 8,6% nam và
18,4% nữ đã từng kết hôn; vào tuổi 18 có 11,1% nam đã từng kết hôn và có
tới 28,1% nam đã từng kết hôn vào tuổi 19.
Riêng đối với Hà Giang, tỷ lệ nhóm dân cư trong nhóm tuổi 15 – 19 đã
từng kết hôn còn cao hơn rất nhiều (10,9% đối với nam) và tuổi kết hôn trung
bình lần đầu đối với nam là 18,5. Nhìn chung, nam và nữ vị thành niên dân
tộc Mông và Dao có tuổi kết hôn trung bình lần đầu thấp nhất, thấp hơn tuổi
kết hôn theo luật định. {29}
Theo kết quả Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình
1/4/2005, trên phạm vi cả nước, 1,5% nam giới đã từng kết hôn ở độ tuổi 15 –
19. So sánh với số liệu nêu trên với số liệu của Tổng điều tra dân số 1999 thì
tỷ lệ kết hôn trong độ tuổi 15 -19 có giảm nhưng không đáng kể (1,5% so với
1,6%). Tỷ trọng kết hôn vị thành niên ở nông thôn cao gấp hai lần so với
thành thị (ở đối tượng nam thành thị tỷ lệ này là 0,7% trong khi nam nông
thôn là 1,7%; nữ nông thôn là 6,9%). {22}
Cũng theo kết quả của cuộc điều tra này, tỷ trọng đã từng kết hôn ở cả
nam và nữ khu vực Tây Bắc là rất cao, tiếp đến là khu vực Đông Bắc. Cứ 10
nam ở độ tuổi 19 ở Tây Bắc thì có gần hai người đã từng kết hôn (17%). Theo
đánh giá trong báo cáo nghiên cứu của Điều tra biến động dân số và kế hoạch
hoá gia đình thì khu vực miền núi phía Bắc là nơi cư trú của nhiều dân tộc ít
50
người, kinh tế kém phát triển hơn so với các vùng khác trong cả nước. Điều
này có thể là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mức độ kết hôn ở tuổi vị thành
niên tương đối cao nêu trên. {22}
Kết quả điều tra tại địa bàn nghiên cứu ở hai xã của Hà Giang cho thấy
một tỷ lệ tương đối cao các đối tượng kết hôn sớm trước tuổi quy định của
pháp luật. Trong số các đối tượng được hỏi có đến 9% (36/397 trường hợp)
dưới 18 tuổi nhưng hiện đang có vợ/ chồng. Khi được hỏi về tuổi kết hôn lần
đầu: có 21,2% nam cho biết đã từng kết hôn khi chưa đến 19 tuổi và 25,1%
nữ cho biết đã từng kết hôn khi chưa đến 18 tuổi. Điều này khẳng định hiện
tượng tảo hôn hiện nay vẫn còn tồn tại trong cộng đồng các dân tộc ít người,
những người sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Nam (n = 222)
Nữ (n = 175)
Tuổi
-
25,1
Dưới 18
21,2
-
Dưới 19
-
66,9
18 – 25
67,1
-
19 – 25
9,9
5,2
26 – 35
1,8
2,8
Trên 36
100
100
Tổng
Bảng 2.1: Tương quan giới tính và tuổi kết hôn lần đầu (%)
Theo như bảng trên, có đến 21,2% nam giới ở địa bàn nghiên cứu kết
hôn lần đầu khi còn chưa tròn 19 tuổi và có đến 25,1% nữ đã từng kết hôn
dưới tuổi 18. Như vậy, cứ trong 5 nam giới lại có 1 người kết hôn trước tuổi
quy định của pháp luật và cứ trong 4 phụ nữ lại có 1 người kết hôn trước tuổi
51
quy định. Trong đó, tỷ lệ tảo hôn ở dân tộc Mông và Dao chiếm tỷ lệ cao nhất
(tương ứng là 31,7% và 51,1%). Điều này cũng tương đối thống nhất với kết
quả Điều tra Sức khoẻ sinh sản 2002 tại Hà Giang (UNFPA): đến độ tuổi 18
gần 88% phụ nữ Mông đã có chồng; ở độ tuổi 16 – 18 đã có 59% phụ nữ
Mông sinh con đầu lòng.
Hiện nay, do trình độ nhận thức của người dân được nâng cao hơn, đời
sống kinh tế khá giả hơn, số năm đến trường của trẻ em được kéo dài hơn nên
tỷ lệ tảo hôn trong các đối tượng thanh thiếu niên tại địa bàn khảo sát đã có
những thay đổi đáng kể. Qua trao đổi với đồng chí Bí thư Đảng uỷ xã Lùng
Tám, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, chúng tôi được biết: "Độ tuổi tảo hôn ở
đây thường là 16, 17 tuổi, chứ không ít tuổi như trước nữa. ở xã này tảo hôn
cơ bản là dân tộc Mông. Từ năm 2000 đến bây giờ thì cứ mỗi năm có từ vài
ba cặp tảo hôn nhưng nhìn chung là không còn nhiều nữa. Chứ trong tầm 5
năm trở về trước thì nhiều lắm".
Như vậy, tỷ lệ kết hôn sớm trong cộng đồng các dân tộc thiểu số tại địa
bàn nghiên cứu vẫn là một vấn đề tương đối nghiêm trọng. Điều này có thể là
do phong tục tập quán vẫn còn có tác động mạnh mẽ đến quan niệm và hành
vi về hôn nhân và gia đình. Nguyên nhân của hiện tượng này sẽ được đề cập
chi tiết trong các phần sau của luận văn.
2.3.2. Thực trạng đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục của
những người kết hôn sớm
Một trong những mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu ảnh hưởng
của tình trạng tảo hôn tới cuộc sống của chính bản thân các đối tượng kết hôn
sớm. Để tìm hiểu thực trạng cuộc sống của các gia đình kết hôn sớm, chúng
ta cần tập trung xem xét, phân tích cuộc sống gia đình của các đối tượng kết
hôn sớm trên một số phương diện sau: về đời sống kinh tế; về chăm sóc sức
52
khoẻ/KHHGĐ của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là việc chăm sóc
sức khoẻ phụ nữ và trẻ em; đời sống văn hoá tinh thần và khả năng tiếp cận
các thiết chế giáo dục. Từ đó, nhằm có được một bức tranh tương đối rõ ràng
và toàn diện về thực trạng cuộc sống gia đình của các cặp kết hôn sớm.
Tìm hiểu về các vấn đề thường gặp của các gia đình cũng cho phép
chúng ta hiểu rõ hơn về đời sống gia đình của khách thể nghiên cứu. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: phần lớn các gia đình trong cộng đồng dân tộc thiểu số
đều gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế, chiếm tới 72% số người
tham gia phỏng vấn. Có đến 48,7% các gia đình khẳng định thiếu điều kiện
chăm sóc sức khoẻ cho các thành viên trong gia đình; 46,4% người được hỏi
cho rằng họ không có thời gian dành cho việc học tập, nâng cao kiến thức;
38,5% không có thời gian dành cho sinh hoạt xã hôi, cộng đồng và 44,4%
không có thời gian dành cho việc nghỉ ngơi, giải trí. Nhìn chung, trong các
vấn đề nêu ra trên đây thì các khó khăn mà các gia đình tảo hôn gặp phải đều
cao hơn so các gia đình không tảo hôn.
Bảng 2.2: Các vấn đề thường gặp trong gia đình (%)
Các vấn đề thường gặp trong gia đình Tổng (n=397)
Khó khăn về điều kiện phát triển kinh tế 72,0
Thiếu điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho các thành viên 48,7
Không có thời gian dành cho việc học tập, nâng cao 46,4
kiến thức
Không có thời gian dành cho các sinh hoạt xã hội, cộng 38,5
đồng
Không có thời gian nghỉ ngơi, giải trí 44,4
2.3.2.1. Về kinh tế:
53
Chúng tôi đề nghị các đối tượng được hỏi tự đánh giá về mức sống của
gia đình họ so với các hộ gia đình xung quanh dựa trên năm mức: khá giả,
khá, trung bình, kém trung bình và nghèo. Kết quả thu được như sau: không
có đối tượng nào tự nhận gia đình mình khá giả hơn so với gia đình khác hoặc
có mức sống khá và cũng không có trường hợp nào tự nhận gia đình mình
nghèo hơn so với các gia đình khác; đại đa số các đối tượng được hỏi tự nhận
gia đình mình có mức sống trung bình chiếm 80,4% và kém hơn trung bình
chiếm 19,6%.
Bảng 2.3: Tương quan mức sống và tuổi kết hôn lần đầu
theo nhóm nam(%)
Tuổi kết hôn lần đầu (n= 222)
Mức sống
<19 tuổi
> 19 tuổi
Khá giả
-
-
Khá
-
-
Trung bình
17,1
63,0
Kém hơn trung bình
82,9
37,0
Nghèo
-
-
Không biết
-
-
Tổng
100
100
Có thể thấy rằng: có sự chênh lệch tương đối rõ ràng giữa mức sống
của các gia đình tảo hôn và các gia đình không tảo hôn: 17,1% gia đình tảo
hôn tự đánh giá mức sống của gia đình là trung bình và có đến 82,9% gia đình
tảo hôn tự đánh giá là có mức sống kém hơn trung bình; trong khi đó 63% gia
đình không tảo hôn tự đánh giá là có mức sống trung bình, chỉ 37% tự đánh
giá là có mức sống kém hơn trung bình. Tuy nhiên, mặt bằng kinh tế của địa
bàn khảo sát không cao, do vậy, việc so sánh để tìm hiểu sự khác biệt rõ ràng
về điều kiện kinh tế của các gia đình tảo hôn và không tảo hôn là tương đối
54
khó. Thực tế cho thấy, nguồn thu nhập chính của đồng bào dân tộc thiểu số là
từ nông nghiệp nhưng điều kiện thiên nhiên ở đây lại vô cùng khắc nghiệt,
không hề ưu đãi cho loại hình công việc này.
"Nghề nghiệp chính của người dân là dựa vào cây lúa, trồng ngô ngoài
ra bà con còn chăn nuôi thêm và làm vườn. Vườn của mình ở đây chủ yếu chỉ
trông cây ăn quả và không mang tính quy hoạch, chỉ để ăn và mang đi bán
nhỏ do nhận thức của người dân còn thấp, chưa biết cách làm kinh tế" (PVS,
Chủ tịch UBND xã Bạch Đích).
"Người dân ở đây còn khổ lắm, 1 năm thì 3 tháng thiếu ăn. Nghề
nghiệp chính chỉ có nông nghiệp trồng lúa nhưng lại thiếu nước. Cũng đã có
sự hỗ trợ về giống và kĩ thuật nhưng do trình độ kém và thiếu nước nên khó
chuyển đổi được cơ cấu nghề nghiệp." (PVS, cán bộ UBDS, GĐ và TE xã
Lùng Tám).
Nhiều cặp vợ chồng tảo hôn lập gia đình khi vẫn còn trong độ tuổi đi
học, không đủ trình độ học vấn nên rất khó có thể tìm được việc làm có thu
nhập. Đa số các cặp vợ chồng tảo hôn nếu mới cưới thì tiếp tục sống cùng cha
mẹ, phụ giúp công việc gia đình hoặc có thể cùng lao động độc lập trên mảnh
đất được chia. Nhiều trường hợp khi ra ở riêng, bố mẹ phải hỗ trợ rất nhiều,
nhưng trên thực tế các gia đình không có điều kiện nên sự hỗ trợ này cũng rất
hạn chế, phần lớn các cặp vợ chồng trẻ phải tự xoay xỏa lấy cuộc sống của
mình.
H: Cặp vợ chồng kết hôn sớm có gặp khó khăn trong phát triển kinh tế
gia đình không?
Đ: Nếu không có bố mẹ hướng dẫn thì cũng không biết làm ăn, không
biết tính toán đâu”. (PVS, mẹ có con trai tảo hôn, 55 tuổi, xã Bạch Đích)
“H: Thế hiện nay 2 vợ chồng ở riêng hay ở chung với bố mẹ?
Đ: ở riêng ạ.
55
H: Hàng ngày 2 vợ chồng đi làm nương thì ai trông con cho?
Đ: Địu con đi thôi tại ở nhà không có ai trông cho.
H: Sao không gửi ông bà nội hay ông bà ngoại?
Đ: Ông bà nội, ông bà ngoại cũng đi làm cả, không ai trông được.
(PVS, nữ tảo hôn, 18 tuổi, xã Lùng Tám)
“Điều kiện ra ở riêng thì trên này nó cũng chẳng yêu cầu nhiều lắm.
Nếu gia đình nào khá giả thì cho nó cái nhà ngói 3 gian, cho nó con trâu, con
bò còn không thì cho nó gian nhà tạm bợ thôi rồi dần dần kinh tế ổn định nó
sẽ tự làm lấy”. (PVS, Cán bộ văn hoá xã Bạch Đích).
Nhìn chung, đối với các gia đình tảo hôn, khi cả hai vợ chồng đều còn
quá trẻ, chưa có khả năng tự lập về kinh tế thì việc tạo thu nhập, ổn định cuộc
sống không phải là chuyện dễ dàng. Sự khó khăn về điều kiện kinh tế sẽ kéo
theo hàng loạt những khó khăn phát sinh trong cuộc sống. Đây quả là một thử
thách rất lớn đối với cặp vợ chồng trẻ đang ở độ tuổi “ăn chưa biết no, lo chưa
biết đến” này.
2.3.2.2. Về chăm sóc sức khoẻ/KHHGĐ:
Sức khoẻ đối với con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là điều kiện
để lao động và duy trì các hoạt động sống khác. Thiếu sức khoẻ, thiếu điều
kiện chăm sóc, phát triển sức khoẻ là một trong những nguyên nhân dẫn tới
chất lượng nguồn nhân lực không cao.
Qua kết quả phỏng vấn, chúng tôi thấy rằng: hầu hết người dân ở đây
đều nhận thức được rằng, kết hôn sớm và sinh con sớm khi còn quá trẻ sẽ
không tốt cho sức khoẻ của cả mẹ và con: “Tất nhiên là kết hôn khi chưa đủ
tuổi thì cũng gặp nhiều hạn chế, không tốt cho sức khoẻ. Khi chưa đủ tuổi kết
hôn, chưa đủ tuổi sinh đẻ thì con cái sinh ra chắc chắn cũng không được
mạnh khoẻ, không được như những đứa trẻ được sinh ra khi bố mẹ chúng đủ
56
tuổi kết hôn”. (TLN cha mẹ, xã Bạch Đích)
“H: Theo các em việc kết hôn sớm như vậy là có lợi hay không?
Đ: Có hại ạ.
H: Có hại trên những mặt nào?
Đ: Có hại cho sức khoẻ của người phụ nữ, cho cả vợ cả chồng và nhiều
nhất là cho đứa con.
H: Các cặp vợ chồng trẻ đó có gặp nhiều khó khăn không? Đ: Có, không đủ điều kiện nên đồ dùng thiếu, nuôi con không đủ khoẻ
mạnh, không được học hành giao tiếp như bạn bè cùng lứa tuổi”.
(TLN, vị thành niên, xã Lùng Tám)
Do tuổi đời còn quá trẻ, ít kinh nghiệm sống nên các cặp vợ chồng trẻ
nhiều khi rất lúng túng trong việc chăm sóc con cái, hầu hết đều phải nhờ vào
sự giúp đỡ của ông bà, cha mẹ: “H: Các anh chị ấy có biết nuôi dạy và chăm
sóc con cái không? Đ: Khi có con thì hầu như lúc nào cũng phải nhờ bà nội
chăm sóc. Nếu không có bà nội thì chưa chắc đã biết chăm con, nuôi con
đâu”. (PVS mẹ có con tảo hôn, 55 tuổi, xã Bạch Đích).
Qua kết quả khảo sát, có thể thấy việc chăm sóc sức khoẻ đã bước đầu
được người dân quan tâm, chú ý. Tuy nhiên, với đội ngũ cán bộ y tế còn
mỏng cộng với điều kiện đi lại khó khăn sẽ là những trở ngại lớn đối với
người dân khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa trong việc tiếp cận với các
dịch vụ y tế.
Trong những năm qua, chương trình dân số/ kế hoạch hoá gia đình ở
địa bàn nghiên cứu đã ít nhiều đạt được các thành tựu tích cực. 51,3% số đối
tượng phỏng vấn hộ gia đình cho biết họ có 1 - 2 con. Tuy nhiên, số gia đình
sinh từ 3 con trở lên vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong số đối tượng tham gia khảo
sát: 44,1% đối tượng trả lời cho biết họ có từ 3 – 5 con và 4,7% đối tượng trả
lời cho biết họ có trên 5 con. Đây là một con số đáng được quan tâm chú ý,
đặc biệt là trong điều kiện đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn như hiện
57
nay.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác tuyên truyền, vận động
người dân tuy nhiên do sự hạn chế về trình độ học vấn, phong tục tập quán và
sự khó khăn về mặt địa lý đã làm số gia đình sinh con thứ 3 giảm chậm. "Tỷ lệ
sinh con thứ 3 cao, 50% số trẻ sinh ra là con thứ 3. Công tác truyền thông
khó khăn vì bất đồng ngôn ngữ, trình độ học vấn không có." (PVS, cán bộ
DS, GĐ và TE xã Lùng Tám).
Bảng 2.4: Tương quan số con và tuổi kết hôn lần đầu theo nhóm nữ (%)
Tuổi kết hôn lần đầu (n= 175)
Số con
<18 tuổi
> 18 tuổi
45,2
54,8
47,8
38,3
1 – 2 con
6
6,9
3 – 5 con
100
100
> 5 con
Tổng
Dựa vào bảng trên, có thể thấy rằng: 45,2% nhóm phụ nữ có tuổi kết
hôn lần đầu dưới 18 tuổi hiện nay có từ 1-2 con trong khi đó 54,8% số phụ nữ
có tuổi kết hôn trên 18 tuổi có từ 1 – 2 con. Tuy nhiên, có đến 47,8% số phụ
nữ có tuổi kết hôn lần đầu dưới 18 tuổi hiện có từ 3 con trở lên, và con số
tương ứng ở nhóm phụ nữ kết hôn sau tuổi 18 là 38,3%. Điều này có thể cho
thấy quy mô gia đình nhiều con vẫn tương đối phổ biến ở địa bàn khảo sát.
Có thể khẳng định rằng một phụ nữ kết hôn sớm và sinh nhiều con chắc
chắn sẽ ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ hơn là những người phụ nữ kết hôn
muộn hơn và sinh ít con hơn, và đương nhiên, ít con hơn thì sẽ có nhiều điều
58
kiện chăm sóc sức khoẻ cho bản thân và con cái hơn.
2.3.2.3. Về giáo dục, văn hoá, xã hội:
Để xây dựng được một gia đình theo đúng ý nghĩa tích cực là duy trì
giống nòi, phát triển kinh tế và là động lực thúc đẩy xã hội phát triển thì một
điều kiện tiên quyết là các cá nhân phải thực sự trưởng thành cả về tâm sinh
lý cũng như khả năng tự lập để ổn định cuộc sống của mình. Lập gia đình quá
sớm sẽ khiến cho cả hai vợ chồng khó có điều kiện tiếp tục việc học tập. Với
trình độ học vấn thấp họ chỉ có thể làm những công việc có thu nhập không
cao, vất vả như làm nông nghiệp hoặc làm thuê. Nếu không có thêm sự trợ
giúp từ bố mẹ, cuộc sống sẽ càng thêm nhiều khó khăn hơn nữa.
Nhiều trường hợp đối tượng phỏng vấn tại địa bàn khảo sát cho rằng họ
không có thời gian dành cho việc học tập, nâng cao kiến thức (chiếm 46,4%).
Trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, ngoài việc không có thời gian để học tập thì
còn một tỷ lệ không nhỏ các gia đình không có thời gian dành cho sinh hoạt
xã hội, cộng đồng chiếm 38,5% và không có thời gian nghỉ ngơi, giải trí
chiếm 44,4%.
Vai trò là "người có gia đình" đã làm hạn chế rất nhiều cơ hội học tập
nâng cao kiến thức của cá nhân. Đối với các gia đình tảo hôn tại các địa bàn
khảo sát, do cả hai vợ chồng còn trẻ, vẫn đang đi học, và vẫn trong độ tuổi
Đoàn nên họ thường tham gia vào Đoàn thanh niên, tuy nhiên, sự tham gia
này không mang tính thường xuyên do ngại bạn bè trêu chọc.
"Có chứ, khi nào họ (cán bộ đoàn xã) về gọi thì mình đành phải đi
thôi... nhưng không thích đi đâu" (PVS, nữ tảo hôn, 18 tuổi, xã Lùng Tám).
Hoặc "Mình ngại đi lắm vì sợ bạn bè trêu" (PVS, nam tảo hôn, 20 tuổi, xã
Bạch Đích).
Như vậy, một phần vì công việc gia đình quá nặng nề đối với cặp vợ
chồng trẻ tuổi, cộng thêm tâm lý ngại ngùng vì việc lập gia đình sớm đã khiến
59
các bạn thanh niên này không tham gia vào các hoạt động xã hội. Có thể coi
đây là một thiệt thòi vì qua những hoạt động như nói chuyện, toạ đàm, các
bạn thanh niên có thể được cung cấp nhiều kiến thức về chăm sóc sức khoẻ,
luật pháp, văn hoá xã hội...
Nhu cầu được nghỉ ngơi, giải trí, tái tạo sức lao động là một trong
những nhu cầu cơ bản cần được đáp ứng của con người. Tuy nhiên, qua báo
cáo của các địa phương khảo sát có thể thấy đời sống văn hoá tinh thần cho
người dân còn chưa được quan tâm đúng mức. ở Hà Giang, nhiều điểm dân
cư còn chưa có điện lưới, người dân chỉ có thể trông chờ vào những đội văn
nghệ lưu động của Đoàn thanh niên, hoặc những buổi họp của chính quyền và
các đoàn thể địa phương để có thể được cung cấp kiến thức, được vui chơi
giải trí. "Cũng cố gắng đi chiếu phim cho bà con xem nhưng cũng chỉ 1 năm 1
lần vì đường xá, thiết bị khó khăn" (PVS cán bộ văn hoá, xã Bạch Đích).
Nhìn chung, đối với hầu hết các gia đình do hoàn cảnh khó khăn nên họ
vẫn chưa có điều kiện được nghỉ ngơi, giải trí. Ngoài tivi, đài truyền thanh,
một số hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao không thường xuyên, họ
không được tiếp cận thêm loại hình giải trí văn hoá nào khác. Sách báo, tạp
chí dường như còn là một sản phẩm quá xa xỉ với họ.
Tóm lại, thực trạng cuộc sống của các gia đình tại địa bàn nghiên cứu
còn rất khó khăn, vất vả. Đặc biệt, so với điều kiện sống chung của cả địa bàn
thì cuộc sống của những gia đình tảo hôn còn gặp nhiều khó khăn hơn trên cả
ba phương diện: kinh tế, y tế và văn hoá, giáo dục.
2.4. Nhận thức, thái độ của người dân đối với hiện tượng kết hôn sớm.
Trong mối quan hệ giữa cộng đồng và cá nhân thì cá nhân có vai trò
đặc biệt quan trọng, là một trong các yếu tố cơ bản cấu thành nên cộng đồng,
xã hội. Tuy nhiên, một khi đã là một thành viên trong xã hội thì cá nhân lại
60
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ phía gia đình và cộng đồng. Các thái độ, hành vi
của các cá nhân chịu sự chi phối trực tiếp từ các chuẩn mực xã hội được chấp
nhận trong xã hội đó. Các quan niệm, thái độ của cộng đồng có vai trò điều
chỉnh hành vi của các cá nhân.
Trên cơ sở quan niệm như vậy, chúng tôi tìm hiểu về nhận thức, thái độ
của người dân tại địa bàn nghiên cứu đối với hiện tượng kết hôn sớm với hy
vọng xác định được một trong những yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyết định kết hôn của gia đình cũng như của đôi nam nữ thanh niên
kết hôn sớm.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy: có đến 17,8% ý kiến được hỏi
cho biết họ ủng hộ các trường hợp kết hôn sớm; có 49,2% cho biết họ phân
vân, lưỡng lự, vừa ủng hộ nhưng cũng vừa phản đối; chỉ có 25,4% ý kiến
không đồng tình với trường hợp kết hôn sớm. Điều này chứng tỏ còn rất nhiều
người dân có ý kiến đồng tình hoặc không phản đối một cách rõ ràng đối với
các trường hợp kết hôn sớm. Và như vậy, các quan niệm lạc hậu về hôn nhân
gia đình vẫn còn tồn tại trong cộng đồng các dân tộc thiểu số.
Bảng 2.5: ý kiến của mọi người về trường hợp kết hôn sớm (%)
ý kiến của mọi người về trường hợp Tỷ lệ (%) Tổng số
kết hôn sớm
ủng hộ 17,8 21
Không đồng tình 25,4 30
Phân vân, vừa ủng hộ, vừa phản đối 49,2 58
Không có ý kiến gì 7,6 9
Tổng 100 118
Khi tìm hiểu thái độ, ý kiến của cộng đồng về các trường hợp kết hôn
sớm, chúng tôi nhận thấy: dường như cộng đồng không có phản ứng gì nhiều
61
đối với các trường hợp kết hôn sớm, họ coi đây là việc hoàn toàn bình thường
và các trường hợp kết hôn sớm như vậy là do ý muốn của các cá nhân và do
hoàn cảnh riêng của từng gia đình. Hoặc nếu có thì cũng phản ứng rất nhẹ
“Những cặp kết hôn không đủ tuổi, không đăng kí thì xã cũng không đi
nhàng, thiếu kiên quyết.
mừng còn bình thường thì xã đi ăn mừng hết”. (PVS, mẹ có con tảo hôn, 55
tuổi, xã Bạch Đích)
“H: Đối với những cặp tảo hôn như vậy thì bà con làng xóm có ý kiến
gì không?
Đ: Không, bà con nói chung cũng không có ý kiến gì”.
(PVS, Bí thư Đảng uỷ xã Lùng Tám)
Trên thực tế, mặc dù không gặp nhiều ý kiến phản đối từ phía cộng
đồng nhưng có không ít các bậc cha mẹ có con kết hôn sớm bày tỏ sự băn
khoăn của mình khi có con cái kết hôn sớm: "Có những cặp lúc đầu cứ tưởng
là chúng nó hợp nhau, đến 2, 3 năm sau chúng nó trưởng thành hơn, lại thấy
không hợp nhau, không thống nhất được với nhau dẫn đến tình cảm rạn nứt.
Lúc đấy lại bỏ nhau và đi lấy người khác. Cái khó nhất là ở chỗ, nếu người
con trai mà không thích người con gái đấy, mà bỏ thì nhà trai phải bị thiệt cái
lễ hỏi và lễ cưới mà nhà trai đã mang sang nhà gái (khoảng 2, 3 triệu). Nếu
con gái mà không thích mà bỏ trước thì nhà gái phải đền lại nhà trai cái lễ
mà nhà trai đã sắm sửa mang sang nhà gái". (PVS, cha có con tảo hôn, 48
tuổi, xã Lùng Tám).
Có thể khẳng định rằng mặc dù đã ý thức được những khó khăn, bất lợi
do tảo hôn mang lại nhưng dường như quan niệm sớm lập gia đình cho con đã
hằn sâu trong suy nghĩ của những người dân nơi đây và trong ngày một ngày
hai không dễ dàng thay đổi được. Và, chừng nào cộng đồng xã hội còn ủng
hộ, thậm chí không phản đối thì chừng đó hiện tượng tảo hôn vẫn còn cơ sở
62
để tồn tại.
2.5. Vấn đề bình đẳng giới trong tảo hôn
Trong các giai đoạn trước đây, tư tưởng trọng nam khinh nữ, sự bất
bình đẳng về giới còn tương đối nặng nề trong xã hội Việt Nam, đến nay, mặc
dù đã có nhiều thay đổi nhưng những ảnh hưởng của tư tưởng này vẫn còn tồn
tại ở không ít các gia đình. Việc sinh con gái và lại sinh nhiều con gái là điều
mà dường như hầu hết các gia đình không hề mong muốn. Chỉ khi nào sinh
được con trai, các bậc cha mẹ mới có thể yên tâm, họ tin rằng có con trai là họ
sẽ có chỗ dựa lâu dài sau này vì con trai sẽ đỡ đần, chăm sóc phục vụ họ khi
ốm đau, khi về già, họ có thể “mát mặt” với hàng xóm và được coi là “nhà có
phúc”.
Tâm lý coi trọng con trai tương đối phổ biến ở địa bàn nghiên cứu.
Điều này có thể coi là một trong những nhân tố tạo ra các điều kiện bất lợi
cho trẻ em gái trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, ít có cơ hội phát triển cá
nhân, đặc biệt, điều này ít nhiều có liên quan trực tiếp đến tình trạng kết hôn
sớm và việc thực hiện bình đẳng giới trong các gia đình tảo hôn.
ở địa bàn nghiên cứu, đặc biệt là trong các gia đình nghèo, việc học tập
của các em gái thường bị thiệt thòi hơn. Lý do là vì các em gái tuy tuổi còn
nhỏ nhưng đã biết phụ giúp cha mẹ một số việc như trông em, dọn dẹp nhà
cửa, chăn trâu, phụ cơm nước, lợn gà... Sự được việc của con gái đã khiến cho
trách nhiệm đối với công việc gia đình dồn lên vai các em nhiều hơn. Và điều
này cũng có nghĩa là các em ít có thời gian dành cho việc học hành hơn các
em trai.
“H: Trong gia đình, con trai hay con gái phải làm việc nhiều hơn?
TL: Con gái làm nhiều hơn ạ.
63
H: Làm được nhiều hơn những việc gì?
TL: Nhiều lắm ạ, các công việc trong gia đình...” (TLN, vị thành niên,
Lùng Tám).
Sự bất bình đẳng về giới thể hiện tương đối rõ nét trong các gia đình
tảo hôn. Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Tâm trong “Một số nét về bình đẳng
giới ở các dân tộc thiểu số” (2006): “Tâm lý coi trọng con trai tồn tại tương
đối phổ biến ở cộng đồng dân tộc Mông và Dao... Thực chất lý do quan trọng
và sâu xa là chỉ có con trai mới có quyền thừa kế tài sản, đất đai... Nếu gia
đình nào không có con trai thì tài sản và nhà cửa của gia đình sẽ thuộc về
những anh em ruột của gia đình người chồng”.{10} Tại địa bàn nghiên cứu,
khi tiến hành phỏng vấn các đối tượng vị thành niên, chúng tôi được biết, các
gia đình ở đây thích có con trai hơn vì con trai mới có quyền được sở hữu tài
sản cha mẹ để lại. Con gái đi lấy chồng là về gia đình nhà chồng, không có
quyền gì cả đối với các tài sản này.
“H: Mọi người ở đây thích có con trai hay có con gái hơn?
TL: Thích có con trai hơn
H: Tại sao lại thích con trai hơn?
TL: Vì con trai giữ được gia tài.
H: Tại sao lại như vậy, tại sao con gái lại không được giữ gia tài?
TL: Vì con gái đi lấy chồng thì thôi, không được mang theo”. (TLN, vị
thành niên, Lùng Tám).
Trên thực tế, quan niệm này gần như đã ép buộc người phụ nữ dù đã
sinh nhiều nhưng vẫn phải cố gắng sinh tiếp cho đến khi có được con trai.
Đặc biệt, trong các gia đình tảo hôn thì việc sinh sớm, sinh dày và sinh nhiều
có thể gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng sức khoẻ của người
phụ nữ.
64
“H: Trong bản mình có nhiều người sinh con thứ ba không?
TL: Có, những người có con một bề, có người có 3 con, 4 con rồi
nhưng cũng chưa đặt vòng.
H: Sao có nhiều con rồi mà vẫn chưa đặt vòng?
TL: Vì nó bảo có con một bề nhưng toàn con gái hết mà.
H: Thế có phải có con trai thì mới thôi không? Có con trai rồi thì có
đặt vòng không?
TL: Nếu có con trai thì hai con cũng đặt vòng rồi.
H: Như vậy là chỉ quý con trai thôi à? TL: Vâng, theo địa phương thì bảo không có con trai không đạt được
yêu cầu.
H: Thế cứ đẻ đến khi nào có con trai thì mới thôi à?
TL: Theo phong tục tập quán và trình độ dân trí thấp thì họ bảo rằng
cứ đẻ con gái thì gả đi làm dâu trăm họ hết còn nhà thì không có ai. Thế nên
phải đẻ được con trai thì mới thôi”, (PVS, mẹ có con tảo hôn, 49 tuổi, Lùng
Tám).
Ngoài ra, một điều rất đáng lưu ý là đời sống văn hoá tinh thần của
người Mông, đặc biệt là phụ nữ còn rất nghèo nàn. Nhiều phụ nữ không biết
đọc, biết viết, không biết nói tiếng Kinh. Khi tiếp xúc với người lạ, nhiều phụ
nữ tỏ ra rất e dè, ngại ngùng, nhiều người chỉ nói rất ít, thậm chí có trường
hợp không nói gì cả, chỉ cười bẽn lẽn trong suốt buổi phỏng vấn, mặc dù đã
rất cố gắng nhưng có trường hợp chúng tôi chỉ nhận được những cái gật đầu
hoặc lắc đầu mà thôi. Tại địa phương cũng có tổ chức các lớp xoá mù nhưng
nhiều phụ nữ chỉ theo học được vài buổi rồi nghỉ. Lý do là vì không có ai thay
họ làm các công việc gia đình.
Như vậy, có thể thấy phụ nữ vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là phụ nữ
trong các gia đình tảo hôn phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Ngay từ nhỏ, họ đã đã
65
phải lao động vất vả, góp phần trực tiếp vào kinh tế gia đình, đến khi lớn lên,
trở thành người vợ, người mẹ, họ lại tiếp tục hy sinh quyền lợi của bản thân
cho chồng, cho con và cho gia đình chồng. Nếu chúng ta không có những
biện pháp can thiệp nhằm giảm dần tư tưởng trọng nam khinh nữ thì dưới ảnh
hưởng của phong tục tập quán và một số quan niệm phổ biến hiện nay, thế hệ
tương lai, đặc biệt là các em gái có thể lại vẫn là những lớp người tiếp tục nối
66
dài thêm những bất bình đẳng giới trong cộng đồng các dân tộc thiểu số.
Chương III
Các nguyên nhân và hậu quả của tình trạng
kết hôn sớm ở cộng đồng các dân tộc thiểu số tại
xã Lùng Tám và xã Bạch Đích, tỉnh Hà Giang
3.1. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng kết hôn sớm tại địa bàn nghiên
cứu.
3.1.1. Nguyên nhân về gia đình:
Một trong số các đặc trưng của đồng bào các dân tộc thiểu số là số
lượng dân cư thưa thớt sinh sống tại các vùng núi xa xôi, hẻo lánh. Do địa bàn
rộng, vị trí địa lý hiểm trở, thời tiết tương đối khắc nghiệt, không thuận lợi
cho việc phát triển nông nghiệp nên đời sống kinh tế của người dân nơi đây
còn rất nhiều khó khăn. Với kiểu canh tác nhỏ lẻ, chủ yếu là trồng trọt trên
các triền núi cao nên để có được lương thực, thực phẩm đáp ứng đủ nhu cầu
tiêu dùng của gia đình phải cần tới một nguồn nhân công lao động không nhỏ.
Vì vậy, người dân ở đây thường quan niệm: gia đình nào có đông người làm
trong nhà có nghĩa là sẽ có nhiều của ăn của để. Cũng từ suy nghĩ đó, đã từ
lâu đời, các dân tộc thiểu số thường có quan niệm lấy sớm cho con để có thêm
người làm, sớm sinh con đẻ cái, có thêm nhiều lao động. Điển hình trong hôn
nhân của người Mông là lấy vợ để bổ sung thêm sức lao động cho gia đình.
Mặt khác, người Mông theo chế độ phụ hệ với đặc trưng vai trò người
đàn ông, dòng họ rất rõ nét, do đó người con trai Mông thường chủ động đi
tìm vợ, ngược lại người con gái thường bị động trong việc lựa chọn bạn đời
của mình. Tiêu chí để lựa chọn con dâu của người Mông là người con gái đẹp
là người biết thêu váy áo, biết làm nương giỏi và biết đẻ nhiều con. Xuất phát
từ quan niệm như vậy, các bậc cha mẹ thường sớm tìm vợ cho con trai và việc
67
lựa chọn một cô gái về làm vợ cho con không tập trung nhiều vào hình thức
hay tuổi tác mà điều quan trọng là sức khoẻ, sự khéo léo và đảm đang của cô
gái đó.
Kết quả điều tra đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Một số đặc điểm
về hôn nhân và gia đình của dân tộc Hmông và Dao tại Lai Châu và Cao
Bằng" do Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện năm 2004
(với cỡ mẫu n = 300), cho thấy: có đến 53,9% số người trả lời là do nhu cầu
lao động; 26,3% là do cha mẹ bắt ép; 16,4% là do luật tục quy định. Nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng nhu cầu thêm lao động trong gia đình là nguyên nhân
xếp hàng đầu tiên của hiện tượng tảo hôn và trong các trường hợp kết hôn
sớm, tuổi của cô dâu bao giờ cũng lớn hơn tuổi của chú rể. Điều này phản ánh
rõ nét tính đặc trưng về động cơ cần thêm lao động ở gia đình nhà trai và xuất
phát từ thực tế đời sống còn nhiều khó khăn của bà con các dân tộc thiểu số.
{12}
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy: có 40,7% người được hỏi cho
biết các đối tượng tảo hôn tự tìm hiểu nhau trước khi đi đến quyết định kết
hôn. Điều này cho thấy sự thay đổi rõ nét về vai trò của các thành viên trong
gia đình đối với quyết định hôn nhân. Thanh thiếu niên người dân tộc thiểu số
hiện nay đã có nhiều cơ hội hơn trong việc tìm hiểu nhau trước khi đi đến kết
hôn và đã có những nhận thức mới trong quyết định hôn nhân của mình.
Tuy nhiên, những quyết định này vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào vai
trò quyết định của bố mẹ. Có đến 55,9% đối tượng được hỏi cho biết lý do kết
hôn của các cặp vợ chồng tảo hôn là do ý muốn của cha mẹ, họ hàng. Cũng
do quan niệm "lấy vợ để giúp đỡ bố mẹ làm nương"... nên có không ít thanh
niên chưa coi kết hôn là việc quan trọng của cả đời mình. Cách suy nghĩ của
nhiều người còn tương đối đơn giản, họ thấy cha mẹ họ sống với nhau như thế
nào thì cuộc sống của họ lại tiếp tục như thế. Cả hai vợ chồng cùng nhau làm
68
lụng rồi sinh con đẻ cái. Họ cứ sống như thế tiếp diễn ngày này qua ngày
khác, nhiều phụ nữ không biết đến cuộc sống phía sau những dãy núi kia có gì
khác so với cuộc sống của họ hay không.
Bảng 3.1: Lý do kết hôn sớm của cặp vợ chồng tảo hôn (%)
Lý do kết hôn sớm Tỷ lệ (%) Tổng (n=118)
ý muốn của cha mẹ 55,9 66
Do hai người tự quyết định 40,7 48
Tập quán địa phương 26,3 31
Gia đình neo người, cần người làm 38,1 45
Giảm bớt gánh nặng kinh tế - -
Tách hộ để có đất sản xuất 7,6 9
Do người khác khuyên bảo - -
Do quan hệ tình dục và có thai 2,5 3
Có 38,1% đối tượng được phỏng vấn cho biết lý do kết hôn của các cặp
vợ chồng tảo hôn là do gia đình neo người, cần người lao động (đối với nhà
trai) và có 60,7% ý kiến được hỏi cho rằng việc kết hôn sớm có lợi là vì có
thêm người để giúp đỡ công việc. Một người con gái khoẻ mạnh, đảm đang,
tháo vát, biết lo công việc gia đình là một mẫu hình lý tưởng khi cha mẹ chọn
vợ cho con và khi người con trai chọn vợ cho mình. Khi người con gái được
cưới về nhà thì đương nhiên cô trở thành một trong những lao động chính của
gia đình. Ngoài việc làm nương, cô còn chịu trách nhiệm dọn dẹp nhà cửa,
nấu cơm, giặt giũ quần áo cho cả gia đình.
Khi trao đổi về nguyên nhân của hiện tượng tảo hôn, người dân tại địa
bàn khảo sát cũng thẳng thắn cho biết: "Đây là dân tộc ở vùng cao, vùng sâu
vùng xa nên trình độ nhận thức còn thấp, không am hiểu xã hội. Về vấn đề
này (tảo hôn) thì mỗi nhà có một hoàn cảnh, có gia đình thì do neo đơn, thiếu
69
công lao động, muốn lấy về để giúp công việc gia đình. Cũng có gia đình bố
mẹ ốm đau, thiếu công lao động nên chưa đủ tuổi cha mẹ vẫn cứ tổ chức kết
hôn cho con ". (Thảo luận nhóm cha mẹ xã Bạch Đích).
Bảng 3.2: Tương quan giới tính và lý do có lợi của việc kết hôn sớm (%)
Lý do có lợi của việc kết hôn Nam Nữ Tổng
sớm (n=222) (n=175)
Có thêm người để giúp đỡ 61,7 59,7 60,7
công việc
Có thể được chia thêm đất 23,5 22,4 23,0
canh tác
Sớm có con cháu cho vui cửa 51,9 53,7 52,8
vui nhà
Phù hợp với phong tục tập 37,0 37,3 37,2
quán của dân tộc, địa phương
Cho cha mẹ yên tâm 55,6 46,3 51,4
Kết quả khảo sát cho thấy: 23,5% ý kiến cho rằng việc kết hôn sớm có
lợi là vì để có thể được chia thêm đất canh tác. Như vậy, ngoài mục đích để
bổ sung thêm nguồn lao động gia đình, còn không ít các trường hợp kết hôn
sớm để họ sớm có con có cháu, để tách hộ, có thêm đất thêm rừng để phát
triển kinh tế gia đình.
Ngoài ra, qua kết quả phỏng vấn các đối tượng kết hôn sớm ở địa bàn
nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có một số đặc điểm đáng lưu ý ở nhóm đối
tượng này như sau:
Thứ nhất, độ tuổi kết hôn của các đối tượng tảo hôn hiện nay không
70
còn thấp như thời gian trước đây, gần như không còn hiện tượng con cái mới
10 – 12 tuổi cha mẹ đã lập gia đình cho con. Hầu hết, các trường hợp tảo hôn
là khoảng 17 – 18 tuổi, gần sát với tuổi quy định của pháp luật.
Thứ hai, hầu hết các em đều không có trình độ học vấn cao. Rất nhiều
em đã được đi học, tuy nhiên, do lập gia đình sớm nên các em thường học đến
cấp hai là bỏ học, không tiếp tục đi học thêm lên nữa. Một số em gái do bỏ
học đã lâu nên không còn nhớ mặt chữ nữa.
Thứ ba, hầu hết các trường hợp tảo hôn đều nằm trong số các bạn có
điều kiện kinh tế khó khăn, gia đình neo người, bố mẹ ốm đau… nên phải kết
hôn sớm. “Cũng tuỳ theo từng người, từng hoàn cảnh gia đình. Có những em
không muốn kết hôn sớm nhưng do bố mẹ bắt ép, rồi bảo rằng gia đình neo
đơn quá, không lấy ai giúp công việc”. (PVS, mẹ có con tảo hôn, 55 tuổi, xã
Bạch Đích).
Có thể nói, khi xem xét vấn đề xã hội hoá cá nhân, chúng ta luôn khẳng
định: gia đình có vai trò quan trọng trong việc định hướng cho thanh thiếu
niên các giá trị xã hội, có tác động tích cực đến sự hình thành lối sống, quan
niệm và hành động của thanh niên nhưng cũng chính thiết chế này nếu không
thực hiện tốt được vai trò của mình, có thể có những ảnh hưởng tiêu cực. Cụ
thể, trong vấn đề tảo hôn, một khi các bậc làm cha làm mẹ lấy quyền uy của
mình ra để thuyết phục, ép buộc con cái, thì dù không muốn nhưng các đối
tượng kết hôn sớm cũng phải nghe theo "Các cháu cũng không muốn lấy
nhưng do bố mẹ ép buộc, thành ra một áp lực". (PVS, Chủ tịch xã Bạch
Đích).
Hoặc cũng có nhiều trường hợp cha mẹ không có ý định cho con kết
hôn sớm nhưng do các quan niệm truyền thống, sức ép từ phía gia đình, họ
hàng, đồng thời do không có thái độ kiên quyết, dứt khoát nên họ cũng chấp
71
thuận lập gia đình sớm cho con. “Ai cũng bảo là lấy sớm quá, 16, 17 tuổi thì
chưa nên lấy, rồi sau này thì dễ lại bỏ nhau. Cũng nhiều người nói thế nhưng
lại không thực hiện được”. (PVS, mẹ có con tảo hôn, 55 tuổi, Bạch Đích).
Như vậy, có thể khẳng định rằng một trong các nguyên nhân cơ bản của
hiện tượng tảo hôn trong cộng đồng các dân tộc thiểu số tại địa bàn khảo sát
là từ phía gia đình, do gia đình neo người, cần người lao động, do sức ép của
cha mẹ, do sự thiếu hiểu biết của nam nữ thanh niên. Đây là một trong số các
nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn ở vùng dân tộc thiểu số nói chung và
dân tộc thiểu số phía Bắc nói riêng cao hơn hẳn so với cả nước.
3. 1.2. Nguyên nhân văn hoá:
Một trong những nguyên nhân cơ bản của tục tảo hôn là nhằm tạo
nguồn lao động cho gia đình nhưng xét trên khía cạnh văn hoá - xã hội thì
hiện tượng này lại mang những yếu tố về phong tục tập quán của cộng đồng
các dân tộc thiểu số.
Kết hôn là một trong những việc lớn trong cuộc đời mỗi con người. Với
người dân tộc như dân tộc Dao, Mông thì việc lập gia đình được xem như
khẳng định sự trưởng thành của người đàn ông. Một người đàn ông Dao, nếu
có điều kiện để làm lễ thành đinh trước khi lấy vợ là một điều rất đáng tự hào.
Những gia đình có điều kiện về kinh tế, khi con trai lên 5 đến 8 tuổi cha mẹ
thường lo tổ chức lễ cúng thành đinh để sau đó có thể tìm vợ cho con trai
ngay sau lễ thành đinh. Đối với người phụ nữ Mông, khi đã qua tuổi 17-20
mà không có người đến hỏi thì bị coi là ế chồng. Hay theo phong tục của dân
tộc Nùng, dân tộc Tày thì cứ đến năm có tuổi sinh của bố mẹ chồng hoặc năm
tuổi của người con trai hoặc người con gái thì không tổ chức kết hôn được.
"Do nhận thức của nhiều người, nhiều hộ gia đình vẫn còn theo phong
72
tục tập quán của dân tộc, muốn sớm được làm ông làm bà, sớm hoàn thành
trách nhiệm của bố mẹ với con cái, vì vậy mà tảo hôn, rồi cũng không thực
hiện đăng ký kết hôn". (PVS, Chủ tịch UBND xã Bạch Đích).
Kết quả khảo sát cũng cho thấy: có đến 52,8% ý kiến được hỏi cho biết
lý do của việc kết hôn sớm là để sớm có con cháu cho vui cửa, vui nhà; 37,2%
cho là phù hợp với phong tục tập quán của dân tộc, địa phương và 51,4%
khẳng định lý do của việc kết hôn sớm là để cho cha mẹ yên tâm.
Qua điều tra thực tế tại địa bàn khảo sát, chúng tôi cũng nhận thấy:
người dân ở đây cũng có nhận thức được rằng việc kết hôn theo đúng độ tuổi
pháp luật quy định thì sẽ tốt hơn nhưng họ cũng những lý do cũng thật thú vị.
"Theo tôi thấy thì những cặp vợ chồng kết hôn khi đủ tuổi thì sẽ tốt hơn, cuộc
sống êm ấm hơn nhưng mọi người lại không làm như vậy. Họ bảo con trai lớn
đã 15, 16 tuổi mà không lấy vợ thì người con dâu mà mình vừa mắt, vừa ý
mình đã bị người khác lấy mất rồi". (PVS, mẹ có con tảo hôn, 49 tuổi, xã
Lùng Tám).
Điều này có thể cho thấy: mặc dù thanh thiếu niên hiện nay đã được
học tập nhiều hơn lớp cha mẹ của họ, có được nhiều cơ hội hơn trong việc
giao lưu, tiếp xúc với cộng đồng bên ngoài, tuy nhiên, những người mà họ
biết được cũng chỉ bó hẹp trong phạm vi xã này với xã kia, cơ hội lựa chọn
bạn đời thường chỉ tập trung vào các chàng trai, cô gái trong cùng độ tuổi
trong bản, trong xã mà họ biết. Ngoài ra, hầu hết các dân tộc lại có truyền
thống chỉ kết hôn với người dân tộc mình chứ không kết hôn với người của
dân tộc khác nên cơ hội lựa chọn lại càng khó khăn hơn. Vì thế, một khi đã
"ưng bụng" một cô gái đảm đang, xinh đẹp nào rồi thì chàng trai đó thường
nói với cha mẹ tổ chức lễ cưới cho, nếu không sẽ bị chàng trai khác "để ý"
mất.
Ngoài ra, theo phong tục tập quán thì các đồng bào dân tộc thiểu số ở
73
đây từ xưa đến nay có truyền thống lấy vợ lấy chồng từ rất sớm. Chỉ cần gặp
nhau trong một buổi chợ, “thấy ưng cái bụng” và biết là cô gái đó chưa có
chồng thì chàng trai người Mông có thể rủ một vài người bạn, cùng nhau đến
kéo cô gái đó về nhà mình, thế là đã có thể thành vợ thành chồng rồi. Người
con gái được chọn dù không ưng thuận cũng đành phải chấp nhận vì “đã là
“ma” của nhà trai rồi, nếu không muốn thì cũng không ai lấy mình nữa”.
Có thể thấy các quan niệm, phong tục tập quán truyền thống dường như
sức mạnh vô hình rất lớn và không dễ dàng gì có thể thay đổi được nếp suy
nghĩ đã hằn sâu trong đầu óc người dân nơi đây. Khi thực hiện khảo sát thực
địa tại xã Bạch Đích (Yên Minh, Hà Giang), chúng tôi có gặp gỡ, trao đổi với
đồng chí cán bộ văn hoá xã về hiện tượng tảo hôn tại địa phương. Trong cuộc
nói chuyện, thật bất ngờ chúng tôi được biết gia đình anh cũng vừa mới tổ
chức đám cưới cho đứa con gái hiện còn đang đi học của mình. Anh cho biết:
"Cả hai đứa bây giờ vẫn đang đi học, cuối năm nay là hết lớp 9 rồi. Gia đình
cho chúng nó lấy vợ lấy chồng thế là cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố lắm.
Thứ nhất là hai đứa nó học cùng nhau nên yêu nhau, hai bên gia đình cũng
ưng nhau nên cũng dự định dựng vợ gả chồng cho nhau rồi. Thứ hai nữa là
nó được ngày được tháng nên cưới. Theo phong tục ở trên này thì cưới phải
xem kỹ ngày tháng. Cứ năm nào là năm đẻ của hai đứa hoặc năm đẻ của bố
mẹ chồng thì không cưới được. Cháu năm nay mới 16 tuổi thôi nhưng không
rơi vào năm tuổi thì cứ tổ chức kết hôn vì năm sau lại rơi vào năm tuổi của
bên nhà chồng". (PVS cán bộ văn hoá xã Bạch Đích).
Đây là một điều rất đáng khiến chúng ta phải suy nghĩ: một cán bộ của
Uỷ ban xã được học hành, có hiểu biết và được giao nhiệm vụ tuyên truyền,
vận động người dân địa phương thực hiện nếp sống văn hoá mới mà thực tế
vẫn không thoát ra được lối suy nghĩ và hành động chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
74
bởi các phong tục tập quán lạc hậu đến như vậy.
Có thể khẳng định rằng: nguyên nhân quan trọng của hiện tượng tảo
hôn tại địa bàn khảo sát là do ảnh hưởng của phong tục tập quán và truyền
thống văn hoá của các dân tộc tại địa phương. Chúng ta luôn trân trọng và gìn
giữ bản sắc văn hoá các dân tộc nhưng đó phải là các giá trị nhân văn, tiến bộ,
phù hợp với sự phát triển của xã hội; và chúng ta cũng quyết tâm loại bỏ
những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu có ảnh hưởng tới sự phát triển của
các cá nhân, sự bền vững của gia đình và cộng đồng.
3.1.3. Nguyên nhân về nhận thức:
Ngoài những nguyên nhân có liên quan đến vấn đề kinh tế, văn hoá,
phong tục tập quán còn có một nguyên nhân cơ bản mang tính nguồn gốc của
hiện tượng tảo hôn đó là trình độ học vấn thấp, hiểu biết luật pháp hạn chế và
việc tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng của đồng bào các dân
tộc thiểu số còn nhiều khó khăn.
Trình độ văn hóa thấp, không được đến trường học là một nguyên nhân
khiến cho các bạn trẻ lập gia đình sớm. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở
năm 1999 cho thấy nam có trình độ học vấn tiểu học thì tuổi kết hôn trung
bình lần đầu là 24,3 và nữ là 22,1, nhưng với nam có trình độ học vấn từ cao
đẳng trở lên thì tuổi kết hôn trung bình lần đầu là 29,5 và nữ là 26,8.
Khi tìm hiểu về nhận thức, sự hiểu biết luật pháp về lĩnh vực hôn nhân
- gia đình của người dân tại địa bàn khảo sát, chúng tôi thu được kết quả như
sau: 79,4% số người được hỏi cho biết họ có nghe nói đến Luật hôn nhân và
gia đình, tuy nhiên có đến 20,6% khẳng định chưa được nghe nói đến Luật
hôn nhân và gia đình bao giờ.
Bảng3.3: Tương quan giới tính và đã nghe nói đến Luật Hôn nhân
và gia đình(%)
75
Đã nghe nói đến Luật Hôn Nam (n=222) Nữ (n=175) Tổng
nhân và gia đình
Có 80,5 78,2 79.4
Không 19,5 21,8 20.6
Tổng 100 100 100
Luật hôn nhân và gia đình ở nước ta ra đời từ năm 1959, từ thời gian đó
đến nay đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, và gần đây nhất chúng ta có Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000. Như vậy, từ khi Luật hôn nhân và gia đình ra
đời đến nay đã gần một nửa thế kỷ, vậy mà vẫn còn đến hơn 1/5 đồng bào các
dân tộc thiểu số không biết đến sự tồn tại của luật này. Sự không hiểu biết luật
pháp sẽ đương nhiên dẫn đến việc vi phạm pháp luật.
Qua trao đổi với đồng chí Bí thư Đảng uỷ xã Lùng Tám, Quản Bạ, Hà
Giang, chúng tôi được biết: "Cũng một phần là do phong tục tập quán còn
một phần là do nhận thức của người dân, do thiếu học vấn, ý thức chưa đầy
đủ. Thường thì sau khi ăn tết xong thì có một vài cặp tảo hôn, người xã này
lấy người xã khác, người xã khác lại đến lấy xã này".
"Đây là dân tộc ở vùng cao, vùng sâu vùng xa nên trình độ nhận thức
còn thấp, không am hiểu xã hội nên tảo hôn còn nhiều". (Thảo luận nhóm cha
mẹ xã Bạch Đích)
Với đối tượng thanh thiếu niên, chúng tôi hy vọng là hiện nay các em
được học hành đầy đủ hơn lớp cha mẹ các em, có hiểu biết hơn và vì thế tỷ lệ
các em biết đến Luật hôn nhân và gia đình sẽ nhiều hơn, nhưng thực tế số liệu
mà chúng tôi thu được lại không phải như vậy: 74,7% số thanh thiếu niên
được hỏi cho biết các em có nghe nói đến Luật hôn nhân và gia đình, tuy
nhiên hơn 1/4 số em được hỏi (25,3%) khẳng định chưa được nghe nói đến
Luật hôn nhân và gia đình bao giờ. Thậm chí, có 1% trả lời là nam 17 tuổi trở
76
lên có thể lập gia đình và 4% trả lời là nam 18 tuổi trở lên là đủ tuổi lập gia
đình. Có 34% các thanh thiếu niên được hỏi băn khoăn không biết kết hôn
sớm có lợi hay không.
Những thanh thiếu niên này sẽ là lớp người kế tiếp thế hệ cha mẹ các
em, đồng thời các em cũng chính là những đối tượng đang chuẩn bị bước vào
ngưỡng cửa hôn nhân, vậy mà nhận thức, hiểu biết về luật pháp của các em
còn rất nhiều hạn chế. Sự không hiểu biết, không lường hết được những khó
khăn của việc kết hôn sớm cộng với áp lực của gia đình, cha mẹ sẽ dẫn đến
việc các em phản ứng yếu ớt hoặc không phản ứng khi cha mẹ có ý định lập
gia đình cho các em.
Sự hiểu biết về luật pháp cũng có mối liên hệ trực tiếp với trình độ học
vấn. Những đối tượng có trình độ học vấn càng thấp thì hiểu biết về kiến thức
xã hội nói chung và luật pháp nói riêng có hạn chế hơn. Trong số 20,6% đối
tượng chưa bao giờ nghe nói đến Luật hôn nhân và gia đình thì số người có
trình độ học vấn thấp là đông hơn cả: 4% là đối tượng mù chữ, 3,6% là đối
tượng biết đọc, biết viết; 0,9% là đối tượng tái mù; 4% có trình độ tiểu học và
6% có trung học cơ sở.
Bảng 3.4: Tương quan trình độ học vấn và nghe nói đến Luật Hôn nhân
và gia đình (%)
Trình độ học vấn Có Không Tổng
(n=397)
Mù chữ 10,3 4,0 14,3
Tái mù 2,0 0,9 2,9
Biết đọc, biết viết 7,4 3,6 11,0
Tiểu học 26,5 4,0 30,5
PTCS 23,3 6,0 29,3
PTTH 7,2 2,1 9,3
77
Trung cấp/ Cao đẳng 2,7 - 2,7
Đại học - - -
Tổng 79,4 20,6 100
Có thể khẳng định rằng: trình độ nhận thức, sự hiểu biết về luật pháp có
ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi chấp hành luật pháp của mỗi người dân. Vì
vậy, để hạn chế tiến tới xoá bỏ hiện tượng tảo hôn thì hoạt động tuyên truyền
nâng cao nhận thức cho nhân dân là rất cần thiết.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc tuyên truyền luật pháp cho nhân dân còn
rất nhiều khó khăn. Tại địa phương, việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật cũng đã được chính quyền địa phương lưu ý, tuy nhiên, do trình độ văn
hoá của người dân còn thấp, không đọc thông viết thạo tiếng phổ thông nên
việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế.
“H: Thế ở đây, tuyên truyền luật pháp bằng cách nào?
Đ: Ví dụ như hôm nay họp các thôn bản thì cán bộ cũng chỉ nhân thể
hô hào được mấy câu thôi.
H: Thế họ tuyên truyền bằng tiếng phổ thông hay tiếng dân tộc?
Đ: Anh nào mà biết phiên dịch thì phiên dịch bằng tiếng dân tộc còn
anh nào không biết thì đọc nguyên văn một lượt rồi thôi”. (PVS, mẹ có
con tảo hôn, 49 tuổi, Lùng Tám).
Cán bộ xã cho biết họ cũng phải linh hoạt trong việc tuyên truyền giáo
dục pháp luật, tuỳ từng đối tượng lại có cách tuyên truyền khác nhau. Có như
vậy thì người dân mới hiểu, mới nắm được cốt lõi vấn đề.
“ở đây, với mỗi thôn phải có cách tuyên truyền khác nhau. Ví dụ như ở
thôn Thù Nần do nhận thức đầy đủ hơn, không có tảo hôn thì tuyên truyền
bằng cách vừa nói vừa giải thích cho người dân. Còn ở những thôn trên núi
cao thì có chọn lọc và tuyên truyền bằng tiếng dân tộc về những gì mà nhà
78
nước cho phép, được quy định trong luật và cái gì là không được phép, luật
không cho phép. Mà nói phải có chọn lọc những gì cơ bản, cốt yếu nhất chứ
không đọc nguyên văn tất cả rồi xong là xong, không đọng lại cái gì hết”.
(PVS, Bí thứ Đảng uỷ, xã Lùng Tám).
Mặt bằng dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp là một nguyên
nhân làm cho công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng
và truyền thông trực tiếp không được đồng bộ và triệt để, nhất là bà con ở
vùng sâu, vùng xa thì công việc cập nhật kiến thức, thông tin mới gặp rất
nhiều khó khăn. Thực tế này đặt ra cho các cấp, các ngành phải đầu tư hơn
nữa cho chương trình xóa mù chữ, nâng cao dân trí cho người dân, đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, huy động nhiều phương tiện thông tin đại chúng cho
người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
3.1.4. Nguyên nhân về quản lý:
Qua tìm hiểu thực tế, chúng tôi được biết, ngoài các nguyên nhân nêu
trên còn có một nguyên nhân có ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại dai dẳng
của hiện tượng tảo hôn trong cộng đồng các dân tộc thiểu số đó là tình trạng
nơi lỏng pháp luật, thực thi pháp luật chưa kiên quyết; việc quản lý đăng ký
kết hôn ở địa bàn khảo sát còn lỏng lẻo.
Như chúng ta đã biết, mật độ dân cư ở cộng đồng các dân tộc thiểu số
còn rất thưa thớt. Hầu hết người dân trong cùng làng, cùng bản biết về nhau
rất rõ, thậm chí do sự gần gũi trong các mối quan hệ xã hội do hôn nhân tạo ra
thì gần như cả làng, cả bản ít nhiều đều có quan hệ họ hàng, thông gia với
nhau. Chính vì vậy, việc xử lý và thực hiện luật pháp trong nhiều trường hợp
tảo hôn, vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình là rất khó khăn. Điều này có thể
gây ra những tác động không tốt đến việc tuyên truyền thực hiện pháp luật tại
địa bàn nghiên cứu, bởi vì một gia đình có con tảo hôn không bị xử lý thì tất
79
nhiên sẽ có những gia đình khác noi theo.
"Để thực hiện được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho
thật tốt thì phải thẳng tay xử phạt các trường hợp vi phạm và phải xử lý ngay,
chứ còn tình cảm này, tình cảm nọ, lý do này lý do khác thì rất không hay cho
lớp trẻ. Một nhà tảo hôn không bị làm sao, nhà khác nó noi theo thì cũng rất
là khó". (PVS, cha có con kết hôn sớm, 60 tuổi, xã Bạch Đích).
Khi được hỏi về việc thực thi các quy định pháp luật, các đối tượng
phỏng vấn ở địa bàn khảo sát cũng thẳng thắn công nhận là việc xử lý các
trường hợp kết hôn sớm ở đây đều chưa nghiêm túc và chặt chẽ theo quy định
của pháp luật.
“Đ: Chúng tôi cũng có xử phạt hành chính một vài trường hợp không
chấp hành đúng Luật.
H: Thế các anh xử phạt hành chính như thế nào?
Đ: Chúng tôi cũng mới dừng lại ở mức độ cảnh cáo, mời gọi lên uỷ ban
tuyên truyền, giáo dục chứ cũng chưa phạt tiền Nói chung, cũng rất là khó,
cũng có khi làm văn bản khiển trách, khi cố tình vi phạm này nọ thì xử lí hành
chính bằng tiền phạt. Cố tình vi phạm thì sẽ bị phạt 100.000đ. Nhưng báo cáo
chị là mình cũng đưa ra khung hình phạt là như thế song cũng chưa phạt ai.”.
(PVS, Chủ tịch UBND xã Bạch Đích)
Hoặc: “Chủ yếu chỉ bằng nhắc nhở và giáo dục thôi còn hình thức phạt
thì không muốn áp dụng vì phần lớn các gia đình còn khó khăn, không muốn
đánh vào kinh tế”. (PVS, cán bộ văn hoá xã Bạch Đích)
Việc nhắc nhở, can thiệp của chính quyền địa phương đối với các gia
đình tảo hôn cũng chưa kiên quyết, hiện nay mới chỉ dừng ở mức độ rất “nhẹ
nhàng” đó là không tiến hành đăng ký kết hôn cho cặp vợ chồng tảo hôn.
“Trong các vụ nào mà các cháu cưới tảo hôn, dưới 18 tuổi thì chính
80
quyền địa phương cũng có một số can thiệp. Đối với những cặp cưới tảo hôn
thì xã không tổ chức đăng kí cho còn các gia đình cưới thì cứ cưới thôi”.
(PVS, cán bộ văn hoá xã Bạch Đích)
"Tảo hôn thì tất nhiên chính quyền không cho đăng ký và cán bộ xã
cũng không đi mừng còn bình thường thì đi ăn mừng hết. Xã chỉ nhắc nhở
thôi chứ không có xử phạt gì". (PVS, mẹ có con tảo hôn, 55 tuổi, xã Bạch
Đích).
Mặc dù, các văn bản luật và hướng dẫn thực hiện pháp luật có quy định
rất rõ về việc xử phạt vi phạm pháp luật đối với các trường hợp kết hôn sớm
trước tuổi quy định, thế nhưng, trên thực tế việc thực hiện còn nhiều bất cập.
Cách giải quyết vấn đề ở đây còn “nhẹ về lý” và “nặng về tình” đó là chỉ nhắc
nhở các gia đình vi phạm thôi còn các chế tài xử lý chưa được áp dụng triệt
để. Theo ý kiến của một cán bộ xã tại địa bàn nghiên cứu thì do điều kiện
sống trong các gia đình ở đây còn rất khó khăn, đại đa số là các gia đình
nghèo nên chính quyền xã không áp dụng các hình thức phạt, đặc biệt là phạt
về kinh tế.
"Chính quyền địa phương cũng có can thiệp, các cháu cưới tảo hôn,
dưới 18 tuổi thì xã không tổ chức đăng ký cho còn các gia đình cưới thì cứ
cưới thôi. Cũng chỉ bằng nhắc nhở và giáo dục thôi còn hình thức phạt thì
không muốn áp dụng vì phần lớn các gia đình còn khó khăn, không muốn
đánh vào kinh tế....". (PVS, cán bộ văn hoá, xã Bạch Đích).
Có thể khẳng định rằng: dù chúng ta có thực hiện tuyên truyền tốt đến
mấy nhưng chỉ một vài hiện tượng thể hiện sự dung túng, thiếu kiên quyết của
chính quyền địa phương đối với các cặp vợ chồng kết hôn sớm thì hiệu quả
tuyên truyền sẽ bị giảm sút đi rất nhiều. Ngoài ra, những khó khăn thực tế
trong việc xử phạt cũng đưa đến những gợi ý đối với các nhà hoạch định
chính sách và xây dựng pháp luật đó là cần phải có những biện pháp kiên
81
quyết hơn nhưng cũng khả thi hơn, có thể là cần có những chế tài mạnh mẽ
hơn, xử phạt nặng hơn nhưng cũng có thể là những biện pháp “nhẹ nhàng
hơn” nhưng không kém phần nghiêm túc, chẳng hạn như khuyến khích người
dân địa phương tự xây dựng hương ước, quy ước của làng xã trong đó có
những quy định về tảo hôn hoặc lao động công ích, thực hiện các hoạt động
phát triển cộng đồng...
Như vậy, việc thực hiện các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước liên quan đến vấn đề hôn nhân gia đình ở địa phương có nhiều bất cập là
một trong những yếu tố quan trọng, tạo điều kiện cho hiện tượng tảo hôn vẫn
còn tồn tại và tiếp diễn.
3.2. Một số hậu quả của tình trạng kết hôn sớm tại địa bàn nghiên cứu.
3.2.1. ảnh hưởng đến sức khoẻ thể chất và việc chăm sóc sức khỏe:
Kết hôn khi còn quá sớm, khi người con trai và người con gái vừa mới
bước qua tuổi thiếu niên, chưa kịp phát triển hoàn thiện về thể chất, tâm sinh
lý … đã buộc phải làm cha, làm mẹ có thể để lại những hậu quả rất nguy hiểm
cho tính mạng của cả con và mẹ như đẻ sớm, đẻ dày, sinh con thiếu tháng,
thiếu cân, suy dinh dưỡng, hậu sản… Nói như tác giả Nguyễn Thu Nguyệt
(2007) là: “Nhiều thanh thiếu niên còn ở độ tuổi “ăn chưa biết no, lo chưa
biết đến” đã phải làm mẹ, làm vợ vì nhiều lẽ khác nhau… Lúc nào trên tay,
trên lưng người Mông cũng có trẻ nhỏ “khi bé thì bế em, lớn lên một chút thì
bế con, chưa kịp về già thì đã bế cháu…” [7, tr.61]
Khi được hỏi kết hôn sớm có lợi hay không có lợi thì có đến 86,4% ý
kiến được hỏi trả lời là kết hôn sớm không có lợi vì ảnh hưởng tới sức khoẻ
của cặp vợ chồng, đặc biệt là người phụ nữ. 81,6% cho rằng có ảnh hưởng tới
sức khoẻ con cái, sinh ra hay ốm đau, suy dinh dưỡng; 51,7% ý kiến cho rằng
kết hôn sớm có ảnh hưởng đến việc đầu tư, chăm sóc sức khoẻ cho các thành
82
viên trong gia đình.
Mặc dù đã nhận thức được những ảnh hưởng không tốt của kết hôn sớm
đối với sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, nhưng do ảnh hưởng của phong tục tập
quán, vì quan niệm đã có từ lâu đời nên tình trạng tảo hôn vẫn còn tiếp diễn.
Mặt khác, do cơ sở vật chất thiếu thốn cộng với trình độ học vấn thấp nên
việc chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình, đặc biệt là người
mẹ và trẻ em không được quan tâm đúng mức.
Qua khảo sát thực địa ở Lùng Tám (Quản Bạ, Hà Giang), chúng tôi gặp
chị S., mới 16 tuổi đã hai lần sinh con, mỗi cháu cách nhau không đầy hai
năm, cháu bé thứ hai sinh ra chỉ nặng 1,7kg, khi được 2 tháng cháu bị bệnh
đường ruột chữa chạy rất tốn kém, khi 3 tuổi cháu bị bệnh sởi người mẹ
không biết kiêng gió, kiêng nước nên cháu bị biến chứng và chết.
Như vậy, việc các ông bố, bà mẹ trẻ không được đi học, không được
giáo dục về kiến thức chăm sóc sức khoẻ trẻ em có thể khiến đứa trẻ không
được nuôi dưỡng, chăm sóc đầy đủ, ít được quan tâm, giáo dục để trẻ được
phát triển một cách hoàn thiện. Đời sống vật chất thiếu thốn sẽ đẩy các gia
đình vào cảnh ốm đau, đói rét; khó tiếp cận được các dịch vụ y tế và tất yếu sẽ
có nhiều trẻ em bị suy dinh dưỡng, bệnh tật.
Theo đánh giá của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA, 2003): “ở
những vùng nghèo nhất và ít được giáo dục nhất, tình trạng kết hôn sớm và
mang thai sớm vẫn tồn tại, điều này làm tăng tỷ lệ tử vong bà mẹ và làm
những bà mẹ đó mất cơ hội học tập. Đặc biệt, những bà mẹ vị thành niên có
nguy cơ tử vong trong thời kỳ thai sản cao gấp hai lần so với những bà mẹ
lớn hơn 20 tuổi. Mặc dù vậy, mỗi năm vẫn có 14 triệu bà mẹ trẻ từ 15 – 19
tuổi sinh con và khoảng 5 triệu vị thành niên nữ nạo phá thai không an
toàn”.{40}
Như vậy, có thể khẳng định rằng: việc kết hôn sớm, mang thai và sinh
83
con khi tuổi còn quá trẻ có thể gây những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ
thể chất của cả bà mẹ và trẻ em cũng như việc chăm sóc sức khoẻ trong
những năm sau này.
3.2.2. ảnh hưởng đến cơ hội học tập, phát triển cá nhân
Theo báo cáo “Việt Nam thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ” (NXB
Thống kê, 2005) thì: “Tệ tảo hôn là một trở ngại lớn rút ngắn số năm ngồi
trên ghế nhà trường của nhiều học sinh, đặc biệt là trẻ em gái... ở Việt Nam,
nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nạn tảo hôn khiến các em gái đã có
chồng phải gánh vác công việc gia đình và sinh con thì học tập trở thành điều
không tưởng...” {30}
Các cặp vợ chồng tảo hôn thường đang trong độ tuổi đi học nhưng vì
phải lấy vợ, lấy chồng nên không thể tiếp tục đến trường được nữa. Rất nhiều
trường hợp các em vẫn muốn đi học và nhưng vì bị gia đình ép lấy chồng, lấy
vợ nên không đành phải bỏ học. “Một số trường hợp do hoàn cảnh gia đình
neo đơn, thiếu người làm, phải bỏ học giữa chừng vì xây dựng gia đình sớm”.
(PVS, Chủ tịch UBND xã Bạch Đích).
Kết hôn sớm có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội học tập và sự phát triển
của mỗi cá nhân, đặc biệt là người phụ nữ. Một khi đã kết hôn thì người phụ
nữ phải gánh vác rất nhiều công việc gia đình, rồi lại sinh con đẻ cái, lo lắng
chăm sóc cho con cái nên họ không còn thời gian để nghỉ ngơi. Tâm lý
thường thấy ở họ là sự cam chịu và chấp nhận, họ thậm chí ngại khi tham gia
các lớp học, các buổi họp hành.
“H: Hiện nay em có học gì không?
Đ: Em đang đi học lớp bổ túc buổi tối
H: Thế vợ có đi học không?
Đ: Em có cho nhưng vợ em không muốn học, vợ bảo là già rồi, ngại
84
không đi học nữa (PVS, nam tảo hôn, 20 tuổi, xã Bạch Đích).
Có thể khẳng định rằng việc các em lập gia đình quá sớm có ảnh hưởng
trực tiếp đến khả năng tiếp tục học tập của các em. Gánh nặng công việc gia
đình cộng với việc sinh con đẻ cái sau khi kết hôn là một cản trở thực sự đối
với các em gái trong việc tiếp tục học tập, nâng cao trình độ, đảm bảo quyền
bình đẳng về giới. Có nhiều bằng chứng cho thấy: giáo dục toàn diện và kéo
dài làm tăng cơ hội thụ hưởng giáo dục cho người dân nói chung, đặc biệt là
phụ nữ và trẻ em gái.
3.2.3. ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của gia đình
Hầu hết những cặp vợ chồng tảo hôn khi sống chung với bố mẹ đều phụ
thuộc kinh tế vào cha mẹ. Hơn thế nữa, do quá trẻ, chưa có kinh nghiệm sống,
không có vốn liếng làm ăn, kinh doanh sản xuất, cũng như không được học
hành đến nơi đến chốn, lại sinh con đẻ cái, phải lo miếng cơm manh áo hàng
ngày nên các gia đình tảo hôn gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế
gia đình. 76,4% ý kiến được hỏi cho rằng kết hôn sớm sẽ dẫn đến khó khăn
trong phát triển kinh tế gia đình; 45,3% cho rằng tảo hôn có thể dẫn đến việc
xảy ra mâu thuẫn gia đình do cả hai thiếu kinh nghiệm sống.
Do còn quá trẻ, không có kinh nghiệm sống nên hay xảy ra mâu thuẫn
gia đình. ở lứa tuổi 15 – 16, nam nữ thanh niên thường tìm hiểu và về sống
với nhau nhưng họ chưa thực sự trưởng thành, chưa nhận thức được những
khó khăn nảy sinh trong cuộc sống gia đình; chưa hiểu hết những thay đổi
trong tính tình, đến khi sống với nhau được một thời gian thì nảy sinh nhiều
mâu thuẫn, không thống nhất được với nhau, tình cảm vợ chồng rạn nứt, có
nhiều trường hợp dẫn đến ly thân, ly hôn.
“Trong giai đoạn sau này thì vấn đề tảo hôn thực sự cũng rất là bức
xúc. Chẳng hạn là tuổi còn rất trẻ, nhận thức chưa được đầy đủ nên làm
85
người chồng, người vợ còn chưa được chín chắn, dẫn đến nhiều mâu thuẫn
giữa vợ chồng và hai bên gia đình. Thứ hai nữa là vấn đề cũng do chưa nghĩ
được sâu xa thì cũng chưa phát triển được kinh tế đâm ra gia đình hoàn cảnh
thiếu thốn rồi dẫn đến ly hôn, ly thân”. (PVS, Chủ tịch xã Bạch Đích)
“Đối với những cặp vợ chồng tảo hôn mà sau đó vợ chồng còn không
thuận nhau thì mọi thứ cũng rất khó, suy nghĩ còn rất nông cạn về trách
nhiệm của mình với con cái khi đẻ con ra”. (PVS, Cán bộ DS, GĐ, TE xã
Lùng Tám)
Bản thân các bậc cha mẹ có con kết hôn sớm cũng phải thừa nhận là
việc người con dâu còn quá trẻ, ít tuổi đời, ít kinh nghiệm sống có ảnh hưởng
không nhỏ đến cuộc sống gia đình.
“Dứt khoát là về sự chín chắn, tính toán nó kém người hơn tuổi chứ. Ví
dụ như về nuôi con, các vấn đề sinh hoạt trong gia đình…nó kém hơn. Nói
chung, dứt khoát cách suy nghĩ, ăn nói của chị ấy (tức là cô con dâu tảo hôn –
theo tác giả) không được bằng những người lớn tuổi hơn”. (PVS, bố có con
tảo hôn, 60 tuổi, Bạch Đích).
Thái độ ứng xử kém suy nghĩ, trẻ con của cô con dâu ít tuổi có thể khiến
cha mẹ phải phiền lòng. Với các bậc cha mẹ có suy nghĩ chín chắn, khoan
dung, độ lượng thì có thể bỏ qua còn nếu không có thể gây ra những xung đột,
bất hoà trong gia đình.
H: Chị ấy còn trẻ như vậy, trong ứng xử với bố mẹ chồng có gì còn khiến
cô chú không được hài lòng không?
Đ: Có chứ ạ. Ví dụ như việc làm hàng ngày: những chị lớn thì chỉ cần
mình nói qua một lần là người ta làm được, còn đây thì mình phải chỉ đến nơi
đến chốn… Mình không chỉ thì không làm. Những chị con dâu lớn tuổi thì nói
chung người ta sắp xếp công việc, rồi việc lặt vặt cũng như việc lớn phải hơn
cái chị con dâu ít tuổi chứ. Bởi vì dù sao chị con dâu ít tuổi suy nghĩ vẫn còn
86
nông cạn, rồi thậm chí là còn trẻ con nữa chứ. Vậy nên dứt khoát là có khó
khăn...Rồi có khi nhiều khi ăn nói với bố mẹ chồng làm bố mẹ chồng không
hài lòng… (PVS, bố có con tảo hôn, 60 tuổi, Bạch Đích)
Như vậy, có thể khẳng định rằng, kết hôn khi còn quá sớm có những ảnh
hưởng không nhỏ, thậm chí có thể để lại những hậu quả tiêu cực đến cuộc
sống của các cặp vợ chồng kết hôn sớm. Nếu không có sự định hướng và bảo
ban, hỗ trợ kịp thời từ phía gia đình thì các cặp vợ chồng “trẻ con” này sẽ gặp
rất nhiều khó khăn, thách thức, tác động trực tiếp đến sự ổn định và phát triển
87
của gia đình.
Kết luận và khuyến nghị
1. Kết luận:
Gia đình là một trong những thiết chế xã hội có vai trò đặc biệt quan
trọng. Các vấn đề, các sự kiện liên quan đến vấn đề hôn nhân và gia đình
không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi thành viên trong gia
đình mà còn có tác động không nhỏ đến cộng đồng và xã hội. Vấn đề kết hôn
sớm không chỉ liên quan đến cuộc sống của bản thân cặp vợ chồng kết hôn
sớm mà còn là một vấn đề mang tính xã hội, là một trong những cơ sở để
đánh giá trình độ phát triển của xã hội.
Qua kết quả khảo sát “Thực trạng kết hôn sớm ở cộng đồng dân tộc thiểu
số tại Hà Giang” (nghiên cứu trường hợp tại xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ và
xã Bạch Đích, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang), có thể khẳng định rằng các
giả thuyết được đưa ra trong phần đầu của luận văn này về cơ bản là đúng.
Một là, tình trạng kết hôn sớm vẫn tồn tại và được chấp nhận trong cộng
đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Mặc dù
người dân ở địa bàn nghiên cứu đều nhận thức được những ảnh hưởng tiêu
cực của hiện tượng tảo hôn đối với sức khoẻ của phụ nữ và trẻ em, đến việc
phát triển kinh tế gia đình, giảm cơ hội học hành, cản trở sự phát triển cá nhân
và sự bền vững của gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện tượng các cặp vợ
chồng vị thành niên vẫn tiếp tục tồn tại. Mặc dù không hoàn toàn ủng hộ
nhưng những phản ứng từ phía cộng đồng đối với hiện tượng này còn rất yếu
ớt, hầu hết đều coi đây là chuyện riêng của từng gia đình.
Hai là, các nguyên nhân của hiện tượng kết hôn sớm chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ từ phong tục tập quán, điều kiện kinh tế và nhận thức của người
dân. Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, tập tục tảo hôn mặc dù đã tồn tại
88
từ rất lâu, nhưng cho đến nay, nó vẫn tiếp tục có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
quan niệm, thái độ, hành vi của đồng bào dân tộc. Những khó khăn về điều
kiện phát triển kinh tế cộng với sự hạn chế về trình độ văn hoá là các nguyên
nhân khách quan tạo cơ hội cho sự tồn tại của cho hiện tượng này.
Ba là, các chính sách, pháp luật về vấn đề hôn nhân và gia đình chưa
được triển khai thực hiện hiệu quả ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Mặc dù, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan
đến việc gìn giữ, phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, xoá bỏ các tập tục lạc
hậu, đồng thời củng cố sự phát triển của gia đình, tuy nhiên, việc thực hiện
các chủ trương, chính sách này tại địa bàn nghiên cứu còn nhiều bất cập. Điều
này có nguyên do chủ yếu từ việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
tại địa phương còn hạn chế; trình độ dân trí không cao, nhiều người dân
không biết nói tiếng Kinh, gây khó khăn cho việc tuyên truyền. Ngoài ra, việc
thực thi pháp luật hôn nhân gia đình còn lỏng lẻo; sự can thiệp từ phía chính
quyền địa phương đối với các trường hợp tảo hôn còn chưa mạnh mẽ, thiếu
kiên quyết.
Có thể khẳng định rằng, hiện tượng tảo hôn ít nhiều có liên quan yếu tố
văn hoá, là một trong số các phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc
thiểu số, vì vậy muốn hạn chế tiến tới xoá bỏ nó đòi hỏi một quá trình lâu dài
với những biện pháp hiệu quả. Việc tuyên truyền vận động người dân dần làm
quen với nếp sống mới, không kết hôn sớm, tuân thủ pháp luật cần được đặc
biệt lưu ý.
2. Khuyến nghị:
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, chúng tôi có đề xuất một số khuyến
nghị, giải pháp can thiệp nhằm giảm tỷ lệ tảo hôn trong cộng đồng các dân tộc
89
thiểu số tại Hà Giang, cụ thể như sau:
Một là, Nhà nước cần tiếp tục đầu tư, nâng cao trình độ dân trí cho đồng
bào các dân tộc thiểu số, tăng cường việc mở các lớp xoá mù chữ, tạo điều
kiện thuận lợi cho trẻ em đến độ tuổi được đi học đầy đủ và hoàn thành phổ
cập phổ thông cơ sở, tiến tới phổ cập phổ thông trung học. Việc nâng cao
trình độ dân trí, tiếp cận được với nhiều thông tin sẽ dần dần tạo những biến
đổi trong nhận thức giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là thế hệ trẻ
để các bạn thanh thiếu niên luôn có được sự lựa chọn đúng đắn trong cuộc
sống; tiến tới xoá bỏ những phong tục tập quán lạc hậu.
Hai là, nâng cao vai trò của việc tuyên truyền vận động đồng bào thực
hiện nếp sống văn hóa, sống và làm việc theo pháp luật. Thách thức ở đây là
lực lượng cán bộ làm công tác tuyên truyền phải là những người am hiểu về
phong tục tập quán của dân tộc, biết sử dụng ngôn ngữ dân tộc, thường xuyên
tiếp xúc với đồng bào, xuống từng xóm bản để tuyên truyền giúp họ nhận
thức và tuân thủ pháp luật. Ngoài ra, cần cụ thể hóa các quy định luật pháp
cho phù hợp với điều kiện văn hóa đặc trưng từng dân tộc.
Ba là, tăng cường vai trò của gia đình, đoàn thể, nhà trường trong việc
giáo dục, định hướng cho thanh niên thiếu niên các giá trị xã hội tích cực. Nhà
trường và các tổ chức đoàn thể cần là những nhân tố nòng cốt trong việc
tuyên truyền, giáo dục cho thanh niên về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kỹ năng
sống, đồng thời vận động thanh niên tiếp cận và thực hiện theo nếp sống mới.
Bốn là, đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc nhằm
nâng cao đời sống cho đồng bào. Bên cạnh việc khuyến khích các hộ gia đình
trẻ sống độc lập và phát triển kinh tế cần phải có chính sách cụ thể hỗ trợ cho
các đối tượng nhằm tạo điều kiện cho họ phát triển kinh tế hộ gia đình, động
viên con em đến trường. Khả năng thích nghi nhanh chóng của các thành viên
90
trẻ trong gia đình đối với sự phát triển của xã hội hiện đại sẽ là động lực quan
trọng làm thay đổi những thói quen cũ kỹ trong nếp nghĩ, trong sinh hoạt của
cộng đồng dân tộc thiểu số, hoà nhập vào sự phát triển của xã hội
Năm là, xây dựng các hoạt động văn hoá lành mạnh tại địa phương. Có
thể thấy đời sống văn hoá tinh thần của người dân tại địa bàn nghiên cứu còn
rất nghèo nàn lạc hậu. Nhiều người dân, đặc biệt là phụ nữ không có điều kiện
tiếp cận các thông tin, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự thay đổi quan
niệm cũng như cách suy nghĩ của người dân. Việc tổ chức các hoạt động văn
hoá lành mạnh không chỉ cung cấp các “món ăn tinh thần” vốn rất thiếu và
yếu ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa mà ngoài ra còn có thể kết hợp,
lồng ghép việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong các hoạt động văn hoá,
khiến cho các điều luật khô cứng đi vào cuộc sống một cách đơn giản mà hiệu
quả hơn.
Sáu là, có chế tài xử phạt nặng hơn đối với các trường hợp tảo hôn. Trên
thực tế, việc thực hiện pháp luật về hôn nhân gia đình tại địa bàn nghiên cứu
còn nhiều hạn chế. Vì vậy, để tăng cường vai trò của pháp luật, cần phải có
các chế tài xử phạt mạnh mẽ hơn, kết hợp với một số các biện pháp giáo dục
khác. Việc xử lý các trường hợp vi phạm một cách nghiêm túc, triệt để có tác
91
dụng giáo dục rất tích cực cho các gia đình khác trong cộng đồng/.
Tài liệu tham khảo
I. Các công trình, sách, tạp chí khoa học:
1. Đỗ Thuý Bình. Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt
Nam. Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ. 1994
2. Đỗ Thị Bình. Một số cách tiếp cận lý thuyết trong nghiên cứu gia đình,
Tạp chí nghiên cứu Gia đình và Giới, Số 2 – 2007
3. Vũ Quang Hà. Xã hội học đại cương. NXB ĐHQG Hà Nội, 2003
4. Lê Ngọc Hùng. Lịch sử và lý thuyết xã hội học. NXB KHXH, Hà Nội,
2008
5. Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý. Gia đình học. NXB Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2007
6. Phan Huy Lê. Báo cáo tham luận hội thảo. Vấn đề dân tộc và chủ nghĩa
dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. 2008.
7. Nguyễn Thu Nguyệt. Vấn đề hôn nhân – Gia đình và trẻ em qua góc nhìn
báo chí. NXB KHXH, Hà Nội, 2007
8. Đặng Thị Kim Oanh. Đặc tính hôn nhân từ những dữ liệu nhân học. Tạp
chí Phát triển KH&CN, số 3 – 2006
9. Lê Thị Quý. Bài giảng Thuyết nữ quyền và ảnh hưởng của nó trong
nghiên cứu giới hiện nay ở Việt Nam. Đại học KHXH và nhân văn
10. Nguyễn Thị Thanh Tâm. Một số nét về bình đẳng giới ở các dân tộc
thiểu số. Tạp chí nghiên cứu gia đình và giới số 2 – 2006.
11. Nguyễn Đình Tấn. Xã hội học. NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005
12. Đỗ Ngọc Tấn. Hôn nhân gia đình các dân tộc HMông, Dao ở Lai Châu
và Cao Bằng. NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2004
13. Lê Thi. Những cản trở đối với sự phát triển của trẻ em gái trong gia đình
92
Việt Nam xưa và nay. Tạp chí nghiên cứu gia đình và giới số 1 – 2007
14. Nguyễn Phương Thảo. Trẻ em dân tộc thiểu số – rào cản tiếp cận giáo
dục ở những vùng khó khăn, Tạp chí nghiên cứu gia đình và giới, quyển 16,
số 1 – 2006
15. Nguyễn Bá Thủy. Di dân tự do của đồng bào Tày, Nùng, HMông, Dao.
NXB Lao động – xã hội, Hà Nội, 2004
16. Lê Ngọc Văn. Về quan hệ hôn nhân hiện nay. Tạp chí nghiên cứu gia
đình và giới số 2 – 2006.
17. Báo cáo Điều tra Sức khỏe sinh sản Hà Giang. UNFPA, 2002.
18. Báo cáo Nghiên cứu về phong tục, tập quán của một số dân tộc ảnh
hưởng đến hành vi sinh sản ở Việt Nam, Viện Khoa học dân số, gia đình và
trẻ em, Hà Nội 2006
19. Báo cáo tình hình tảo hôn khu vực miền núi phía Bắc. Uỷ ban Dân số,
Gia đình và Trẻ em. 2005
20. Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi sự phân biệt, đối xử với phụ nữ
(CEDAW), www.ubphunu-ncfaw.gov.vn, cập nhật ngày 29/3/2006
21. Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang, Báo cáo của
Ngân hàng Thế giới, 2003.
22. Điều tra biến động Dân số và KHHGĐ: những kết quả chủ yếu. NXB
Thống kê, Hà Nội, 2006
23. Điều tra thực trạng mức sống hộ gia đình. NXB Thống kê, Hà Nội, 2002.
24. Giáo trình Triết học Mác, Lê-nin, nhiều tác giả, NXB CTQG. 2002
25. Luật Bình đẳng giới. NXB CTQG 2006
26. Luật Hôn nhân và gia đình. NXB CTQG 2004
27. Sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Uỷ ban Dân số và kế hoạch hoá gia
đình. 1999.
28. Tập bài giảng Xã hội học. Nhiều tác giả. Đại học Đà Nẵng, 2006
93
29. Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999. Chuyên khảo về hôn
nhân, sinh đẻ và tử vong ở Việt Nam: mức độ, xu hướng và những khác biệt.
NXB Thống kê, Hà Nội, 2001
30. Việt Nam – thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. NXB Thống kê. 2005
II. Một số bài báo viết, báo điện tử:
31. Diễn đàn Hỏi - đáp, vấn đề “Kết hôn sớm”, www.doanthanhnien.org.vn,
7/6/2006
32. Quang Đạt. Nhức nhối nạn tảo hôn ở nông thôn, Báo Sài Gòn Giải
phóng, ngày 30/9/2005
33. Hà Giang – thành tựu trong công cuộc đổi mới – trích theo Báo Đối
ngoại Việt Nam, 2004, www.hagiang.gov.vn
34. Hồ Minh Long. Nạn tảo hôn, www.tntp.org.vn ngày 17/12/2004
www.vietbao.vn
35. Nạn tảo hôn ở Ethiopia, trích theo Thế giới mới ngày 24/11/2003,
36. Nạn tảo hôn ở Lâm Đồng, trích theo báo Thanh niên, www.tuoitre.com.vn
ngày 26/11/2004
37. Tống Ngọc. Làm cha làm mẹ khi còn là trẻ thơ, Báo Sức khỏe và đời
sống, ngày 14/9/2006.
38. Người hiệu trưởng trẻ tuổi của học sinh người Mông, trích theo Báo An
ninh thế giới, www.nhandan.com.vn ngày 19/11/2005
39. Những bà mẹ ở tuổi ô mai, trích theo Báo Tuổi trẻ, www.vnexpress.net
ngày 25/8/2007
40. Hải Yến. Liên Hợp quốc báo động tình trạng kết hôn sớm, có thai ngoài
94
ý muốn ở độ tuổi vị thành niên, www.unfpa.org/swp/swpmain.htm
Phụ lục
1. Phiếu phỏng vấn cá nhân
95
2. Một số trường hợp phỏng vấn sâu