intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kết quả bước đầu nghiên cứu giảm nghèo theo phương pháp cùng tham gia ở xã Bình Thành huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:7

63
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xã Bình Thành huyện Hương Trà là một xã trung du miền núi nằm hai bên bờ sông Hữu Trạch, cách thành phố Huế khoảng 15 km. Nguyên nhân nghèo đói ở xã Bình Thành được xác định bằng phương pháp đánh giá có sự tham gia của cộng đồng dân cư ở địa phương. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài báo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kết quả bước đầu nghiên cứu giảm nghèo theo phương pháp cùng tham gia ở xã Bình Thành huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 23, 2004<br /> <br /> <br /> <br /> KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU GIẢM NGHÈO <br /> THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIA Ở XàBÌNH THÀNH <br /> HUYỆN HƯƠNG TRA,Ì TỈNH THỪA THIÊN HUẾ<br /> Nguyễn Ngọc Châu<br /> Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế<br /> <br /> Xã Bình Thành huyện Hương Trà là một xã trung du miền núi nằm hai bên bờ <br /> sông Hữu Trạch, cách thành phố Huế khoảng 15 km. Xã Bình Thành trước đây là một <br /> phần của xã Hương Thọ, tháng 1 năm 1975 một bộ phận cư dân đi làm kinh tế  mới  <br /> đã định cư ở đây. Năm 1979 HTX Bình Thành 2 được thành lập, sau đó (tháng 4 năm <br /> 1984) sát nhập với bộ phận dân cư của xã Hương Thọ hình thành nên xã Bình Thành  <br /> như hiện nay. <br /> Cư dân xã Bình Thành  huyện Hương Trà có nguồn gốc từ nhiều nơi hợp thành.  <br /> Dân tại chỗ  thuộc xã Hương Thọ  (thôn Thọ  Bình, Thọ  Tân), một bộ  phận từ  thành  <br /> phố  Huế  lên xây dựng kinh tế  mới từ  tháng 1/1975 và một số  di dân tự  do từ  các  <br /> huyện và tỉnh khác đến. Trong đó sôï người từ  thành phố  Huế  lên xây dựng kinh tế <br /> mới chiếm số lượng đông nhất. Họ có nguồn gốc là những người buôn bán nhỏ, đạp  <br /> xích lô, bốc vác và một bộ phận là những người tham gia chế độ  cũ chuyển lên làm <br /> kinh tế mới.<br /> Năm 2002 toàn xã có 547 hộ (trong đó có 63 hộ mới tách ra vào cuối năm 2002),  <br /> 2779 nhân khẩu và 1191 lao động. Về  phân loại hộ  theo báo cáo của xã năm 2002  <br /> toàn xã có 168 hộ  thuần nông nghiệp (chiếm 30,7% tổng số  hộ) và 249 hộ  lâm <br /> nghiệp (chiếm 45,5%) còn các nhóm hộ khác chiếm tỷ trọng không đáng kể.<br /> Theo tiêu chuẩn phân loại năm 2002 xã Bình thành chỉ có 87 hộ (chiếm 16%) là <br /> hộ khá và giàu; 274 hộ (50%) là hộ trung bình. Hộ đói nghèo còn chiếm tỷ lệ khá cao <br /> trong xã, hiện tại xã còn 186 hộ đói nghèo chiếm tới 34 % tổng số hộ. Đây là một xã  <br /> có tỷ  lệ  hộ  nghèo cao so với toàn tỉnh và cả  nước, do vậy công tác xóa đói giảm  <br /> nghèo là một nhiệm vụ  cấp bách và nặng nề  trước mắt cũng như  lâu dài của địa <br /> phương.<br /> Từ  thực tế  đó với sự  hỗ  trợ  của các tổ  chức chúng tôi đã chọn Bình thành là  <br /> một trong những xã làm điểm nghiên cứu dự án giảm nghèo cho cư dân lưu vực sông  <br /> Hương.<br /> I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Nguyên nhân nghèo đói ở xã Bình Thành được xác định bằng phương pháp đánh  <br /> giá có sự tham gia của cộng đồng dân cư ở địa phương. Cán bộ nghiên cứu chỉ đóng <br /> vai trò hướng dẫn các hội thảo. Những người tham gia đánh giá được chia thành 3 <br /> nhóm:<br /> <br /> 88<br /> ­ Nhóm I: Nhóm những người am hiểu, bao gồm những người có tham gia vào <br /> hoạt động quản lý về  mặt chính quyền và đoàn thể   ở  địa phương, chẳng hạn như:  <br /> Đại diện UBND xã, đại diện Hội nông dân, giáo viên...<br /> ­ Nhóm II: Bao gồm các hộ nghèo mà chủ hộ là phụ nữ <br /> ­ Nhóm III: Bao gồm các hộ nghèo mang tính đại diện ở địa phương<br /> Với các thành phần tham gia như vậy, kết quả đánh giá sẽ được xác định khách <br /> quan, thể  hiện  ở  các góc độ  và cách nhìn nhận khác nhau, từ  đó việc xác định các <br /> nguyên nhân nghèo đói và biện pháp xóa đói giảm nghèo sẽ  phù hợp với thực tiễn  <br /> hơn.<br /> II. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> 1. Kết quả đánh giá của nhóm thứ nhất (nhóm những người am hiểu)<br /> a. Xác định các nguyên nhân nghèo đói cấp I:<br /> Các thành viên của nhóm I (gồm  13 người tham gia trong số  15 người được  <br /> mời dự  hội thảo) đã đưa ra 15 nguyên nhân của sự  đói nghèo của người dân  ở  địa <br /> phương đó là:<br /> ­   Thiếu   cần   cù   chịu  ­ Phụ thuộc vào rừng ­ Đất đai xấu, bạc màu<br /> khó<br /> <br /> ­   Thời   tiết   Thiếu   cần <br /> cù chịu khó<br /> ­ Thiếu kỷ thuật  xuất ­   Chi   tiêu   thiếu   kế  ­ Thiếu nước sản xuất<br /> hoạch<br /> ­ Thiếu vốn ­ Thời tiết khắc nghiệt ­ Đông con<br /> ­ Trình độ dân trí thấp ­ Thiếu đất sản xuất ­ Thiếu lao động<br /> ­ Neo đơn ­ Bệnh tật ­ Thiếu thông tin<br /> Dựa vào những nguyên nhân nêu ra trên đây, những người tham gia đã tiếp tục  <br /> đánh giá mức độ quan trọng của các nguyên nhân (mỗi người chọn 3 nguyên nhân mà <br /> theo họ  là tác động lớn nhất đến nghèo đói). Kết quả  có 4 nguyên nhân chính dẫn  <br /> đến nghèo đói như sau:<br /> Bảng I: Kết quả đánh giá của nhóm I về các nguyên nhân nghèo đói chủ yếu<br /> Kết quả đánh giá<br /> Số  Nguyên nhân Tỷ lệ người lựa chọn so  Số tương đối<br /> thứ tự với số người được hỏi (%)<br /> 1 Đông con 8/13 61,5<br /> 2 Thiếu vốn 7/13 53,8<br /> 3 Phụ thuộc vào rừng 7/13 53,8<br /> 4 Thiếu cần cù chịu khó 7/13 53,8<br /> <br /> <br /> <br /> 89<br /> Đây là những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến nghèo đói theo ý kiến của <br /> nguời tham gia đánh giá, và cũng chính là những nguyên nhân cấp I. Từ những nguyên  <br /> nhân cấp I này những người tham gia đánh giá sẽ tiếp tục xác định các nguyên nhân  <br /> cấp II (nguyên nhân hình thành nên nguyên nhân cấp I) và nguyên nhân cấp III...<br /> b. Xác định nguyên nhân cấp II.<br /> Từ  các nguyên nhân cấp I hội thảo tiếp tục phân tích bàn luận để  tìm ra các  <br /> nguyên nhân cấp II và cấp III theo phương pháp vẽ cây vấn đề. Những nguyên nhân <br /> này được phân tích và lý giải như sau: <br /> ­ Đông con: Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đông con của các hộ nghèo <br /> ở  địa phương vẫn là vấn đề  nhận thức. Do  ảnh hưởng của quan niệm xưa nay về <br /> vấn đề nối dõi tông đường nên nhiều gia đình đã cố gắng theo đuổi để  có được con <br /> trai. Điều này dẫn đến tình trạng đông con, đặc biệt là các gia đình có nhiều con <br /> gái.Thứ hai, vấn đề nhận thức về kế hoạch hóa gia đình của người dân ở đây còn rất  <br /> hạn chế. Quan niệm “Trời sinh voi, sinh cỏ” vẫn tồn tại khá nặng. Cuối cùng là trình  <br /> độ hiểu biết về vấn đề sinh sản và phương tiện kế hoạch hóa gia đình còn hạn chế.<br /> ­ Thiếu vốn: Thực tế cho thấy, người dân ở địa phương vẫn tiếp cận được với  <br /> các kênh tín dụng khác nhau. Tuy nhiên do cách sử dụng vốn vay không hợp lý đã dẫn <br /> đến khả năng hoàn trả vốn vay của người dân (đặc biệt là hộ nghèo) rất thấp, từ đó <br /> khả năng vay vốn ở những lần tiếp theo của họ rất khó khăn. Bên cạnh đó, mức cho <br /> vay của các tổ chức tín dụng, ngân hàng còn chưa đáp ứng được nhu cầu của người  <br /> dân. Khối lượng vốn và thời hạn vay còn hạn chế  nên người dân không thể  thực  <br /> hiện tốt kế hoạch đầu tư cho sản xuất của mình.<br /> ­ Phụ thuộc vào rừng: Với diện tích rừng và đồi núi chiếm phần lớn diện tích <br /> đất đai của xã (90%) và hầu hết hộ nghèo ở địa phương đều sống nhờ vào rừng, thực  <br /> tế cho thấy, những hộ nghèo này vốn đã nghèo nay lại càng nghèo hơn vì những lý do <br /> sau đây:<br /> Thứ nhất, thu nhập của những hộ dân sống nhờ vào rừng là rất bấp bênh. Việc  <br /> khai thác rừng (chủ  yếu là đi củi) không đều,   phụ  thuộc lớn vào thời tiết và sức <br /> khoẻ nên thu nhập của hộ không ổn định cộng thêm vào đó là việc chi tiêu không có <br /> kế hoạch đã dẫn đến tình trạng cuộc sống gia đình là tạm thời và lay lắt. Bên cạnh  <br /> đó, với chủ trương cấm khai thác rừng của Nhà nước, những hộ dân cư này lại càng  <br /> gặp khó khăn hơn trong kiếm sống.<br /> Thứ  hai, với tình trạng cuộc sống tạm bợ, phụ  thuộc lớn vào rừng nên hoạt  <br /> động sản xuất trồng trọt và chăn nuôi của hộ  đều bị  lãng quên. Chính vì vậy, khi  <br /> những hộ  này quay lại với hoạt động sản xuất bình thường thay thế  cho việc khai  <br /> thác rừng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ  chức sản xuất do thiếu kinh  <br /> nghiệm và tư liệu sản xuất như: đất đai, vốn liếng, kỹ thuật...<br /> Có thể nói khai thác rừng là một nghề chính ở địa phương (khoảng 47% dân cư <br /> của xã là sống chủ yếu nhờ vào rừng) và chính nghề  này (trong điều kiện quỹ rừng <br /> ngày càng cạn kiệt) đã làm cho tình trạng đói nghèo của dân cư địa phương ngày càng <br /> trầm trọng.<br /> <br /> <br /> 90<br /> ­ Thiếu cần cù chịu khó: Đây cũng là một tình trạng bắt nguồn từ tư tưởng phụ <br /> thuộc vào rừng. Hầu hết các hộ sống nhờ vào rừng đều cho rằng việc khai thác rừng <br /> đem lại nguồn lợi nhanh hơn, kiếm tiền dễ hơn. Chính vì vậy họ  chỉ  quan tâm đến  <br /> việc làm sao khai thác rừng càng nhiều càng tốt, không suy nghĩ đến hướng làm ăn <br /> mới. Sự  thiếu kế  hoạch trong chi tiêu đã dẫn đến nợ  nần trong những lúc thời tiết <br /> xấu hay lúc đau  ốm. Bên cạnh đó, việc khai thác rừng đem lại thu nhập thấp và  <br /> không  ổn định nên khả  năng tích lũy của hộ  cũng hạn chế, và như  vậy việc đầu tư <br /> sản xuất vào những ngành nghề khác là không thực hiện được.<br /> Sự thiếu cần cù chịu khó của hộ nghèo ở đây thể hiện trong sản xuất khi họ từ <br /> bỏ  nghề  khai thác rừng. Với tư  tưởng đã quen với việc khai thác rừng, đem lại thu <br /> nhập nhanh hơn, nên khi quay lại với công việc trồng trọt, chăn nuôi họ  cảm thấy <br /> ngại bởi thời gian sản xuất quá dài, họ không đủ kiên nhẫn để chờ đợi. Ngoài ra, từ <br /> bỏ hoạt động khai thác rừng đồng nghĩa với mất đi nguồn thu nhập cần thiết cho chi  <br /> tiêu hàng ngày, bởi vậy người dân lại càng không yên tâm và có hứng thú đối với <br /> công việc làm vườn hay chăn nuôi, từ đó lại quay về với rừng để kiếm sống.<br /> Bên   cạnh   những   nguyên   nhân   chính   nêu   trên   (nguyên   nhân   cấp   I),   một   số <br /> nguyên nhân đói nghèo khác cũng đã được phân tích xác định nguyên nhân cấp II, III  <br /> của nó, chẳng hạn như tình trạng thiếu lao động và thiếu kỷ thuật, thiếu kiến thức  <br /> của các hộ nghèo.<br /> Về  nguyên nhân thiếu lao động, phần lớn hộ nghèo  ở  địa phương rơi vào tình  <br /> trạng này là do bệnh tật, neo đơn, già cả và đông con nhưng con còn nhỏ nên chưa đủ <br /> sức lao động.<br /> Thực trạng thiếu kỹ thuật sản xuất  ở địa phương chủ yếu là do trình độ dân trí  <br /> thấp, không đủ  khả  năng tiếp thu kỹ  thuật mới. Bên cạnh đó, việc tập huấn và  <br /> hướng dẫn sản xuất chỉ mới được áp dụng ở quy mô nhỏ  (chủ  yếu thực hiện thông <br /> qua Hội phụ nữ và số lượng thành viên tham gia hạn chế) và không được chú trọng.  <br /> Ngoài ra, cơ hội tiếp nhận thông tin cũng là một vấn đề  có  ảnh hưởng rất lớn đến  <br /> trình độ và khả năng tiếp thu kỹ thuật sản xuất của người dân đa số  hộ nghèo tham  <br /> gia hội thảo đều không có tivi.<br /> 2. Kết quả đánh giá của nhóm hai nhóm còn lại (mỗi nhóm 20 người)<br /> Với  phương pháp hướng  dẫn thảo luận và  đánh  giá tương  tự, kết  quả  về <br /> nguyên nhân đói nghèo theo quan điểm của những người tham gia ở hai nhóm này cho  <br /> thấy:<br /> a. Xác định các nguyên nhân nghèo đói và nguyên nhân cấp I.<br /> Các nguyên nhân của sự đói nghèo của người dân ở địa phương được nêu lên đó  <br /> là:<br /> ­ Thiếu vốn ­ Thiếu đất <br /> ­ Sử dụng vốn sai mục đích ­ Thiếu kiến thức<br /> ­ Đông con ­ Bệnh tật<br /> ­ Thiếu lao động ­ Phụ thuộc vào rừng<br /> ­ Thiếu trách nhiệm ­ Thiếu mô hình sản xuất<br /> <br /> <br /> 91<br /> Bốn nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói (nguyên nhân cấp I) của hai nhóm  <br /> này đưa được tóm tắt ở bảng 2:<br /> Bảng I: Kết quả đánh giá của nhóm II và nhóm III về các nguyên nhân nghèo đói chủ yếu<br /> Kết quả đánh giá<br /> Số thứ tự Nguyên nhân Tỷ lệ người lựa chọn so  Số tương đối<br /> với số người được hỏi (%)<br /> 1 Thiếu vốn  40/40 100<br /> 2 Đông con 24/40 60<br /> 3 Bệnh tật 18/40 45<br /> 4 Thiếu đất 18/40 45<br /> b. Xác định nguyên nhân cấp II.<br /> ­ Thiếu vốn: Phần lớn người dân tham gia đều cho rằng thiếu vốn là do mức <br /> vay thấp. Bên cạnh đó thời hạn vay ngắn và thủ  tục vay khó khăn cũng là nguyên  <br /> nhân làm cho nguồn vốn khó đến tay người dân và ít phát huy hiệu quả.<br /> ­ Đông con: Hầu hết người tham gia cho rằng nguyên nhân là do nhận thức kém  <br /> về kế hoạch hóa gia đình.<br /> ­ Thiếu kiến thức: Do hạn chế về việc tiếp cận thông tin như đài, báo, tivi...và  <br /> ít được tập huấn về kỷ thuật sản xuất nên người dân ở đây đều làm ăn theo kiểu tự <br /> phát hiệu quả sản xuất không cao.<br /> ­ Thiếu đất: Do một số hộ nhập cư sau nên diện tích đất sản xuất ít, thứ hai là  <br /> do một số  hộ  chạy theo thu nhập từ  rừng nên đã bỏ  các diện tích khai hoang trước <br /> đây. Chính vì vậy diện tích này đã được các hộ  cần cù chịu khó khai thác sử  dụng <br /> thậm chí mua lại.  Khi các hộ này nhận thức ra đất trồng là quan trọng thì quỹ đất đã  <br /> phân phối hết, chỉ  còn những diện tích đất có khả  năng Nông nghiệp  ở  rất xa khu  <br /> trung tâm.<br /> Như vậy so sánh với kết quả thảo luận của nhóm những người am hiểu (nhóm  <br /> I) thì cơ  bản các nguyên nhân nghèo đói được đưa ra là khá thống nhất về  các  <br /> nguyên nhân dẫn đến nghèo đói.. Tuy nhiên hai nhóm hộ  nghèo và phụ  nữ  lại đưa  <br /> thêm nguyên nhân thiếu đất và bệnh tật lại là 2 trong 4 nguyên nhân chính dẫn đến  <br /> nghèo đói thay cho nguyên nhân thiếïu cần cù chịu khó. Mặc dù chúng ta biết rằng  <br /> nói chung theo các nghiên cứu hiện nay về  nghèo đói thì thiếu vốn không còn là  <br /> nguyên nhân hàng đầu nữa mà có thể là thiếu kiến thức, kinh nghiệm sản xuất. Tuy  <br /> nhiên đây là ý kiến người dân tự nhận xét nên chúng tôi phải tôn trọng. Đối với các  <br /> hộ nghèo này họ không muốn nhận họ là người thiếu kiến thức, văn hóa thấp.<br /> <br /> II. NHỮNG GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO CHỦ YẾU Ở XàBÌNH THÀNH<br /> Trên cơ sở những nguyên nhân của nghèo đói nêu trên, các giải pháp nhằm khắc  <br /> phục tình trạng đói nghèo được xác định dựa trên các đóng góp ý kiến của những  <br /> người tham gia. Cụ thể, các giải pháp được xác định theo phương pháp: mỗi người <br /> dân tham gia đề  xuất 3 giải pháp cho một nguyên nhân. Tất cả  các giải pháp này <br /> <br /> <br /> 92<br /> được tổng hợp, phân loại theo mức độ quan trọng. Những giải pháp chủ yếu cần áp <br /> dụng để có thể xóa đói giảm nghèo cho người dân ở đây đó là:<br /> 1. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp<br /> ­ Trồng cỏ chăn nuôi bò, trâu<br /> ­ Trồng các loại cây: sắn, cao su, trồng rừng<br /> ­  Cải tạo vườn, tập trung cho các loại cây: xoài, cam, chanh...<br /> Các loại cây con này khá phù hợp với điều kiện tự nhiên ở đây, hơn nữa đây là  <br /> những cây, con thuộc các chương trình lớn của tỉnh đang được ưu tiên thực hiện nên <br /> sẽ có sự hỗ trợ tối đa của các cấp, ngành.<br /> 2. Giải pháp vốn<br /> ­ Các cấp chính quyền cần tạo điều kiện cho vay theo nhu cầu, thời hạn vay dài  <br /> hơn.<br /> ­ Bên cạnh việc đáp  ứng đủ  vốn vay, cần cung cấp thông tin, tập huấn và <br /> hướng dẫn kỹ thuật sản xuất nhằm giúp người dân sử  dụng vốn đúng mục đích và <br /> có hiệu quả.<br /> 3. Giải pháp về kế hoạch hóa gia đình<br /> ­ Đẩy mạnh tuyên truyền thực hiện Kế  hoạch hóa gia đình và có sự  hỗ  trợ <br /> thường xuyên các dụng cụ tránh thai đến từng người dân (đặc biệt là hộ nghèo).<br /> 4. Giải quyết dứt điểm việc khai thác rừng bừa bãi<br /> Đây là một giải pháp khó thực hiện khi mà hầu hết hộ  nghèo  ở  đây đều đang <br /> sống phụ  thuộc vào rừng. Việc khai thác rừng đem lại thu nhập giải quyết vấn đề <br /> chi tiêu hàng ngày của hộ. Vì vậy muốn thực hiện giải pháp này cần phải:<br /> ­ Có sự hỗ trợ của các cấp chính quyền của địa phương đặc biệt trong thời gian  <br /> đầu.<br /> ­ Tổ  chức tập huấn, hướng dẫn các mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện  <br /> của địa phương. Làm tốt công tác vận động tuyên truyền để  nâng cao ý thức người  <br /> dân về vấn đề bảo vệ tài nguyên rừng.<br /> 5. Giải pháp tạo việc làm cho người lao động<br /> ­ Cần xây dựng nếp nghĩ mới mới để  họ  quên đi tư  tưởng cũ là sống dựa vào <br /> rừng đã ăn sâu vào tâm trí họ. Vì vậy cần làm tốt công tác vận động tư tưởng đồng  <br /> thời thực hiện nghiêm túc chủ trương cấm khai thác rừng của Nhà nước.<br /> ­ Tạo một định hướng nghề  nghiệp mới, vì vậy phải tìm hiểu sâu sát từng hộ <br /> nghèo để biết được tâm tư nguyện vọng của họ.<br /> ­ Cần tổ  chức đào tạo nghề  cho hộ, bố  trí thêm đất sản xuất cho một số  hộ <br /> thực sự thiếu đất.<br /> Trên đây là một số kết quả ban đầu về đánh giá đói nghèo có sự  tham gia của  <br /> người dân tại xã Bình Thành, huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên Huế  theo phương  <br /> pháp cùng tham gia. Tuy nhiên đây mới chỉ  là một trong những nội dung làm cơ  sở <br /> cho việc đánh giá nghèo đói. Để có được các giải pháp thực sự có hiệu quả cần phải  <br /> có các nghiên cứu phân tích định lượng từ việc điều tra phỏng vấn các hộ gia đình về <br /> các vấn đề  liên quan đến tình hình cơ  bản cũng như  thu nhập chi tiêu của các hộ.  <br /> Chúng tôi sẽ tiếp tục thảo luận thêm vấn đề này tại các số kỳ sau.<br /> <br /> 93<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. CIDSE và nhà xuất bản Nông nghiệp. Giới thiệu phương pháp đánh giá nhanh  <br /> nông thôn vói sự tham gia của nông dân phục vụ phát triển nông nghiệp, Q1. Hà <br /> Nội (1992)<br /> 2. CIDSE và nhà xuất bản Nông nghiệp. Giới thiệu phương pháp đánh giá nhanh  <br /> nông thôn vói sự tham gia của nông dân phục vụ phát triển nông nghiệp, Q2, Hà <br /> Nội (1992).<br /> 3. Institute of Development Studies. PRA Tools & Techniques Pack (1996).<br /> 4. Crone,   Catherine   D.   and   Carmen   St.   John   Hunter.  From   the   field:   Tested  <br /> Participatory Activities for Trainers. World Education (1980).<br /> 5. Greenwood, David J. and Morten Levine. Introduction to Action Research: Social  <br /> Research For Social Change. Sag Publication (1998).<br /> 6. Participatory Assessment and Planning (PAP)  Process for Community Planning  <br /> and   Natural   Resource   Management:   A   Training   Manual,   Farmer   ­   centred  <br /> Agricultural Resource Management (FARM) programme (1997).<br /> 7. Leonora C. Angeles; Kaurinar Jeeris ­ Warder. Sử dụng các phương pháp nghiên  <br /> cứu cùng tham gia có sự nhận thức giới trong thu thập thông tin về nghèo đói ở  <br /> cộng đồng, lập kế hoạch dự án và đánh giá chính sách, tài liệu phục vụ cho hội  <br /> thảo tham dự và giới, Hồ Núi Cốc, Thái Nguyên ­ Việt Nam  (23 ­ 25/10/2000).<br /> <br /> <br /> SOME PRIMARY RESULTS OF PARTICIPATORY POVERTY ASSESSMENT <br /> OF BINH THANH COMMUNE,HUONG TRA DISTRICT, <br /> THUA THIEN HUE PROVINCE<br /> Nguyen Ngoc Chau<br /> College of  Economics, Hue University<br /> SUMMARY<br /> Participatory poverty assessment is the new approach that has recently been used by  <br /> many organizations in practice nowadays in order to draw a picture of the existing poverty  <br /> situation in Vietnam. This paper was writen on the basis of the participatory poverty assessment  <br /> of Binh Thanh commune. The innitial findings were presented in this paper which indicates the  <br /> roots of the poverty in the district. Based on these first ­ hand findings, solutions were proposed  <br /> for policy makers with the aim at the poverty reduction for the local inhabitants in Binh Thanh  <br /> commune, Huong Tra district in Thua Thien Hue province from a community based perspective.  <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 94<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2