KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ VDSL CHƯƠNG 2_3
Chia sẻ: Tran Le Kim Yen Tran Le Kim Yen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22
lượt xem 22
download
Ưu nhược điểm của các phương pháp điều chế a. Phương pháp DMT Do điều chế DMT sử dụng đa sóng mang để truyền dẫn các tín hiệu với băng tần hẹp cho mỗi sóng mang nên DMT có một số ưu điểm, nhược điểm sau
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ VDSL CHƯƠNG 2_3
- ĐỒ ÁN HỆ THỐNG MẠNG Đề tài: KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ VDSL CHƯƠNG II CÔNG NGHỆ VDSL 2.3.1.5 Ưu nhược điểm của các phương pháp điều chế a. Phương pháp DMT Do điều chế DMT sử dụng đa sóng mang để truyền dẫn các tín hiệu với băng tần hẹp cho mỗi sóng mang nên DMT có một số ưu điểm, nhược điểm sau: Ưu điểm Truyền được tốc độ bit tối đa trong các khoảng băng tần nhỏ. Linh hoạt trong việc điều chỉnh tốc độ đường truyền. Mỗi kênh con mang một số bit cụ thể phụ thuộc vào tỉ số S/N. Do đó bằng việc điều chỉnh số bit trên một kênh, DMT có thể tự động điều chỉnh tốc độ bit dữ liệu. Nhược điểm Thiết bị rất đắt và phức tạp. Trong điều kiện thực tế do có nhiều xung đột kĩ thuật diễn ra mạnh với các điều kiện kĩ thuật không đạt ở mức tối ưu việc áp dụng DMT vào là gặp nhiều khó khăn.
- b. Phương pháp CAP Ưu điểm CAP dựa trên QAM một cách trực tiếp nên nó là một kĩ thuật hoàn thiện dễ hiểu. Có thể thích ứng tốc độ nhờ việc thay đổi kích cỡ chùm sao mã hoá hoặc bằng cách tăng hoặc giảm băng tần. Mạch thực hiện đơn giản. Nhược điểm Do không có sóng mang nên năng lượng suy giảm nhanh trên đường truyền và tín hiệu thu chỉ biết biên độ mà không biết pha do đó đầu thu phải có bộ thực hiện chức năng quay nhằm xác định chính xác điểm tín hiệu. c. Phương pháp QAM do điều chế QAM sử dụng một sóng mang đơn nên QAM có một số ưu nhược điểm sau: Ưu điểm Có thể thích ứng tốc độ nhờ việc thay đổi kích cỡ chùm sao mã hoá hoặc bằng cách tăng hoặc giảm băng tần. QAM có hiệu quả mạnh mẽ hơn DMT trong các điều kiện thay đổi vì QAM đòi hỏi tính toán ít hơn, kích thước nhỏ hơn, điều đó có nghĩa tiêu thụ ít năng lượng ít hơn và giá rẽ hơn. Mạch thực hiện đơn giản. Nhược điểm
- Tuy nhiên, số trạng thái của QAM càng lớn tỉ số tín hiệu trên tạp âm càng phải lớn để đảm bảo cùng một tỷ lệ BER cho phép. SNR cần thiết cho các hệ thống để đảm bảo BER< 10 -7 được thống kê theo bảng sau: Bảng 2.7 SNR của các hệ thống thoả mãn BER
- BER QAM-64 Vùng không chấp nhận được QAM-32 10-7 QAM-16 10-10 QAM-4 SNR (dB) 21,8 27,8 Hình 2.25 Mối quan hệ giữa các trạng thái QAM và SNR, BER Như vậy để đảm bảo BER cho phép, nếu tổ hợp bít càng lớn thì yêu cầu công suất phát càng cao và đó chính là hạn chế chính để đẩy cao tốc độ bít trên kênh truyền. 2.3.2 Phương pháp truyền dẫn song công Hầu hết các hệ thống FDD đều xác định hai kênh hay nhiều hơn và ít nhất là một kênh truyền dẫn chiều chiều lên và một kênh cho truyền dẫn chiều chiều xuống. Các kênh này tách rời nhau về tần số nên gọi là song công phân tần. Vấn đề trong thực hiện các hệ thống song công phân tần là độ rộng và vị trí các dải tần dành cho các kênh truyền dẫn chiều lên và chiều xuống. Hình 2.26 là một sơ đồ thu phát theo FDD đơn giản.
- Hình 2.26 Sơ đồ thu phát theo FDD Hình 2.27 minh hoạ trường hợp song công phân tần đơn giản nhất cung cấp một dải tần chiều lên và một dải tần chiều xuống. Như hình vẽ minh hoạ, dải tần chiều lên
- POST Upstream Dowstream ISDN fL M Hz fH MHz P OST Upstream Dowstream ISDN fL M Hz f H M Hz Hình 2.27 Vị trí điển hình của các kênh chiều lên và chiều xuống trong FDD Có thể được bố trí có thể nằm trên hay nằm dưới dải tần chiều xuống. Một hệ thống DSL khả thi có thể hoạt động trên các đường dây ở tầm cự ly từ 300 m đến 1,5 km hay dài hơn. Như đã nói như ở các phần trước, suy hao đường dây sẽ ngày càng nhanh cùng với tần số trên các vòng thuê bao dài. Vì vậy độ dài đường dây thuê bao càng tăng thì dải tần hữu dụng của đường dây sẽ càng giảm. Để cho phép truyền dẫn thành công, cả hai kênh chiều xuống và chiều lên phải được bố trí trong dải tần hữu dụng. Nếu dải tần hữu dụng nhỏ hơn fL thì hoặc là kênh chiều xuống hoặc là kênh chiều lên bị biến mất làm cho truyền dẫn song công không thực hiện được. Một điều căn bản khác cần lưu ý khi thiết kế các hệ thống song công phân tần là độ rộng dải của các kênh chiều xuống và chiều lên. Sự lựa chọn đúng đắn các độ rộng dải phụ thuộc vào tốc độ dữ liệu cần thiết và tỷ số tốc độ dữ liệu giữa hai chiều chiều xuống và chiều lên. Vị trí giải thông thích hợp cho truyền tải dữ liệu bất đối xứng 8:1 khác nhiều so với vị trí dải thông hỗ trợ tốc độ dữ liệu đối xứng. Việc lựa chọn độ rộng dải các kênh chiều xuống và chiều lên thêm phức tạp khi xét
- đến độ các đường dây có độ dài khác nhau làm cho các tỷ số SNR và các dải thông hữu dụng cũng khác nhau. Chẳng hạn vị trí dải thông thích hợp cho dịch vụ bất đối xứng tỷ lệ 8:1 trên đường dây dài 300 m khác rất nhiều so với vị trí dải thông cho dịch vụ bất đối xứng trên đường dây dài 1.5 km. Để hỗ trợ tầm tốc độ dữ liệu, tầm số dữ liệu rộng và truyền dẫn hai chiều trên đường dây có độ dài khác nhau, các hệ thống hệ thống song công phân tần phải cung cấp các chiều xuống và chiều lên có độ rộng dải biến thiên làm tăng thêm độ phức tạp của hệ thống và đặc biệt là các bộ lọc tưong tự. Một ngoại lệ là khi một hệ thống song công phân tần DMT cho phép bố trí các phân kênh chiều xuống và chiều lên tuỳ ý bằng cách cung cấp một tập phân kênh dải thông đầy đủ cho mỗi chiều. Sau đó, mỗi phân kênh được sử dụng cho chiều chiều xuống và chiều lên. Mặc dù kĩ thuật này yêu cầu hai bộ biến đổi Fourier rời rạc DFT kích thước đầy đủ trong tất cả các modem vốn làm tăng độ phức tạp của hệ thống, nó vẫn làm cho các yêu cầu tương tự trở nên dể dàng cung cấp sự linh động lớn trong việc bố trí dải tần của phương pháp song công phân tần. Trái ngược với VDSL song công phân tần tách rời rạc các kênh VDSL chiều xuống và chiều lên theo tần số, các hệ thống TDD (song công phân chia thời gian) hỗ trợ truyền dẫn theo hai chiều chiều xuống và chiều lên trong một dải tần duy nhất nhưng trong các khoảng thời gian khác nhau. Hình 2.28 minh hoạ dải tần duy nhất được các hệ thống song công phân chia thời gian sử dụng. Sử dụng độ rộng dải phân kênh theo thời gian đựơc kết hợp với việc dùng các siêu khung. Một siêu khung bao gồm một khoảng thời gian dành cho truyền dẫn chiều chiều lên, một khoảng thời gian bảo vệ, một khoảng thời gian dành cho truyền dẫn chiều chiều xuống và một khoảng thời gian bảo vệ khác. Độ dài các khoảng thời gian truyền dẫn theo chiều chiều xuống và chiều lên là những số nguyên lần chu kì ký hiệu DMT. Một siêu khung được ký hiệu là A-Q-B-Q, với A và B là số các ký hiệu tương ứng bố trí cho chiều chiều xuống và chiều lên và hai ký hiệu Q biểu diễn
- khoảng thời gian boả vệ để đảm bảo cho độ trễ lan truyền của kênh và cho phép đáp ứng dội suy giảm giữa thời gian phát và thu. P OST Dowstream ISDN f f H M Hz 300 kHz Hình 2.28 Dải thông dùng cho cả hai chiều truyền dẫn chiều xuống và chiều lên trong các hệ thống song công phân chia thời gian Trong các hệ thống VDSL song công phân chia thời gian của hãng Texas Instrument, thời gian của một siêu khung là 20 ký hiệu ( 500µs ). Tổng số của A và B là 18 ký hiệu và còn lại 2 ký hiệu Q. Các giá trị của A và B được nhà điều hành khai thác chọn theo tỷ số tốc độ dữ liệu chiều xuống so với chiều lên cần thiết. Chẳng hạn, nếu đặc tính nhiễu theo hai chiều truyền dẫn chiều xuống và chiều lên là như nhau và cài A bằng B sẽ cho kết quả cấu hình hỗ trợ truyền dẫn đối xứng. Cài A = 16 và B = 2 sẽ tạo ra tỷ tốc độ dữ liệu giữa hai chiều chiều xuống và chiều lên là 8:1. Khi cài A = 12 và B = 6 thì hỗ trợ tỷ số tốc độ giữa hai chiều chiều Q 2 kí hiệu upstream 16 kí hiệu downstream Q 12 kí hiệu downstream 6 kí hiệu upstream Q 9 kí hiệu upstream 9 kí hiệu downstream
- xuống và chiều lên là 2:1. Hình 2.29 minh hoạ các siêu khung hỗ trợ truyền dẫn tỷ số tốc độ dữ liệu giữa chiều chiều xuống và chiều lên là 8:1, 2:1 và 1:1. Hình 2.29 Siêu khung của phương pháp TDD cho phép hỗ trợ các tỷ số tốc độ dữ liệu chiều xuống so với chiều lên khác nhau Việc sử dụng siêu khung cho phép các hệ thống song công phân thời bù đắp với các khác biệt trong mức nhiễu giữa hai chiều chiều xuống và chiều lên. Chẳng hạn, nếu nhiễu trong chiều chiều lên nghiêm trọng hơn so với chiều chiều xuống thì hệ thống song công phân chia thời gian có thể bố trí thêm nhiều ký hiệu cho chiều chiều lên để bù lại. Trong trường hợp truyền dẫn đối xứng thì thay vì cần siêu khung 9-Q-9-Q thì hệ thống có thể sử dung siêu khung 8-Q-10-Q và kết quả sẽ tăng thêm cự ly thông tin với cùng một tốc độ yêu cầu. Sử dụng song công phân chia theo thời gian yêu cầu các modem đang tích cực trong một chảo cáp phải được đồng bộ với một clock của siêu khung chung sao cho mọi truyền dẫn theo chiều chiều xuống xảy ra đồng bộ và mọi truyền dẫn theo chiều chiều lên cũng xảy ra chính xác cùng lúc trên mọi đường dây. Nếu không sử dụng một cấu trúc siêu khung chung thì các đường dây hỗ trợ song công phân thời trong c ùng một chảo cáp có thể gây ra xuyên kênh đầu gần với nhau làm giảm tốc độ dữ liệu mà chúng có thể hỗ trợ được. Để đảm bảo hoạt động đồng bộ, mọi modem song công phân chia theo thời gian ở tổng đài nội hạt hay ONU phải đồng bộ với clock siêu khung chung. Có nhiều phương pháp cung cấp clock như vậy. Chẳng hạn, có thể tách ra từ clock 8 kHz từ mạng, lấy từ một trong các modem song công phân chia theo thời gian.
- POST Upstream Dowstream ISDN f fL MHz fH MHz POST Upstream Dowstream ISDN f fL MHz fH MHz Hình 2.30 NEXT khi trộn lẫn các hệ thống FDD đối xứng và bất đối xứng VDSL khác với các hệ thống DSL khác do nó có thể hỗ trợ được thông tin đối xứng lẫn bất đối xứng với tốc độ dữ liệu của hai chiều chiều xuống và chiều lên khác nhau. Biết rằng sự bố giải tần song công phân tần cho các dịch vụ đối xứng và bất đối xứng là khác nhau, khi thực hiện các cấu trúc siêu khung song công phân thời thích hợp thì vấn đề là dịch vụ đối xứng và đối xứng có thể ở cạnh nhau tron g Q cùng một 16 ký hiệu downstream 2 ký hiệu upstream chảo Q 9 ký hiệu upstream 9 ký hiệu downstream
- cáp được không? Thật không may là khi bố trí giải tần hoặc khoảng thời gian thích hợp lại cho kết quả không tương hợp phổ bất kể hệ thống là song công phân thời hay song công phân tần. Hình 2.31 NEXT xảy ra khi trộn lẫn các siêu khung TDD đối xứng và bất đối xứng
- Hình 2.30 minh hoạ bố trí phổ tần trong một hệ thống song công phân tần. Sự bố trí ở trên hỗ trợ truyền dẫn đối xứng và dưới hỗ trợ truyền dẫn bất đối xứng tỷ số 8:1. Phân tô xám là dải tần xảy ra xuyên kênh đầu gần. Vì thế, việc trộn lẫn các hệ thống VDSL song công phân tần đối xứng và bất đối xứng trong cùng một chảo cáp gây ra xuyên kênh đầu gần trong một phần dải tần truyền dẫn, nhưng trong mọi khoảng thời gian. Như vậy, không có một sự bố trí nào cho song công phân tần có hỗ trợ cho cả các dịch vụ đối xứng và bất đối mà không làm suy giảm một trong hai hay cả hai dịch vụ. Các hệ thống song công phân chia theo thời gian cũng tạo ra sự suy giảm tương tự khi hỗ các cấu trúc siêu khung đối xứng và bất đối xứng trong cùng một chảo cáp. Hình 2.31 là trường hợp xấu nhất khi một đường dây hỗ trợ truyền dẫn 8:1 có cấu trúc siêu khung 16-Q-2-Q ở gần một đường dây hỗ trợ truyền dẫn đối xứng có cấu trúc siêu khung 9-Q-9-Q. Lưu ý rằng siêu khung 9-Q- 9-Q được dịch đi theo thời gian một chu kì ký hiệu để tối thiểu hoá khoảng chồng lấn giữa các ký hiệu chiều xuống trên đường truyền dẫn 8:1 và ký hiệu chiều lên trên đường dây truyền dẫn đối xứng. Tuy nhiên, vẫn còn 5 ký hiệu bị tác động bởi xuyên nhiễu đầu gần. Trong khi xuyên kênh đầu gần trong trường hợp song công phân tần chỉ xảy ra trong một phần của phổ tần trong mọi thời gian thì xuyên kênh đầu gần của song công phân chia theo thời gian trải rộng ra trên mọi toàn bộ giải tần nhưng chỉ trong một phần thời gian. Mức độ nghiêm trọng của xuyên kênh đầu gần trong cả hai trường hợp phụ thuộc vào sự khác nhau giữa các tỷ số của đường truyền đem trộn lẫn. Vấn đề chính tạo ra sự không tương hợp giữa các đường dây đối xứng và bất đối xứng không phải là sự yếu kém hiệu quả của hệ thống song công phân tần hay song công phân chia theo thời gian mà vấn đề là đặc tính đối và đối nhiều tốc độ của VDSL.
- Cấu trúc siêu khung sử dụng trong song công phân chia theo thời gian cho phép hỗ trợ cả đối xứng với một tầm các tỷ số độ dữ liệu giữa hai chiều chiều xuống và chiều lên khác nhau trong cùng một máy thu phát. Tỷ số tốc độ dữ liệu cần thiết xác định trong hầu hết trường hợp cài đặt bằng phần mềm các giá trị thích hợp của A và B. Hơn nữa, nếu đặc tính nhiễu của hai chiều chiều xuống và chiều lên khác nhau nhiều thì cấu trúc siêu khung có thể được sửa đổi để bù đắp vào sự khác biệt. Hầu hết các modem song công phân tần đều hỗ trợ các tỷ số tốc độ dữ liệu chiều xuống so với chiều lên khác nhau không bằng song công phân thời. Để hỗ trợ nhiều tỷ số như vậy, các modem song công phân tần phải có khả năng thay đổi giải thông của các kênh chiều xuống và chiều lên vốn thường phải cần đến các bộ lọc tương tự phân chia giải thông nhanh chóng. Sự phức tạp và tiêu tốn năng lượng của các máy thu phát phụ thuộc vào độ phức tạp của các bộ lọc phân chia giải thông và tỷ lệ với cách chọn lựa giải thông mà modem cung cấp. Như đã nói ở các phần trên, ANSI và ETSI yêu cầu cần phải hỗ trợ các tỷ số 1:1, 3:1, 4:1, 6:1 và 8:1. Độ phức tạp của khả năng hỗ trợ tất cả các tỷ số này trên tất cả các độ dài đường dây có thể có sẽ làm cho không thể thực hiện được. Để giảm bớt sự phức tạp nhiều nhà cung những phần cứng khác nhau cho từng tỷ số tốc độ dữ liệu chiều xuống và chiều lên khác nhau. Tuy nhiên, việc sử dụng các phần cứng khác nhau sẽ sự linh động khi thay đổi dịch vụ. Để minh hoạ tại sao cần phải có các phần cứng có khả năng hỗ trợ các tỷ số tốc độ dữ liệu chiều xuống so với chiều lên khác nhau, hãy xét việc sử dụng VDSL trong các vùng đông dân cư và các thành phố lớn. Trong các cùng này, các đường dây của các thuê bao dân dụng và các thuê bao doanh nghiệp có thể ở chung với nhau trong một chảo cáp. Nhiều nhà khai thác và điều hành đồng ý rằng các khách hàng doanh nghiệp thường yêu cầu dịch vụ đối xứng trong khi các khách hàng dân dụng lại yêu cầu dịch vụ bất đối xứng cho việc truy
- cập Internet, video on demand…Như đã phân tích ở trên, việc trộn lẫn các dịch vụ đối xứng và bất đối xứng gây ra sự không tương hợp phổ cho việc bố trí tần số của song công phân tần và thời gian của song công phân thời. V ì vậy, hỗ trợ cùng một lúc các dịch vụ đối xứng và bất đối xứng với nhiều tốc độ dữ liệu khác nhau là không thực tế trừ khi có một sự thoả thuận về bố trí các khoảng thời gian/ tần số. Tuy nhiên, hầu hết các khách hàng doanh nghiệp yêu cầu dịch vụ trong những ngày làm việc trong khi các khách hàng dân dụng yêu cầu các dịch vụ vào buổi chiều hoặc các ngày nghỉ. Các modem VDSL có khả năng cung cấp nhiều tỷ số tốc độ dữ liệu chiều xuống so với chiều lên khác nhau cho phép các nhà khai thác và điều hành dịch vụ cung cấp dịch vụ đối xứng vào ban ngày và dịch vụ bất đối xứng vào ban đêm. Băng cách này, các nhà điều hành và khai thác dịch vụ có thể cung cấp tốc độ dịch vụ cần thiết cho cả khách hàng doanh nghiệp cũng như các khách hàng dân dụng có đường day nằm trong cung một chão cáp. Như đã mô tả ở trên, độ phức tạp của một modem song công phân tần phụ thuộc vào số kiểu bố trí dải tần mà nó hỗ trợ. Modem hỗ trợ mọi tỷ số tốc độ dữ liệu chiều xuống so với chiều lên khác nhau của VDSL trên mọi đường dây sẽ rất phức tạp và giá thành sẽ rất cao, đặc biệt là khi sử dụng nhiều bộ lọc tương tự tách dải thông. Trái lại, các hệ thống song công phân thời có thể cung cấp modem đơn giản hơn cả ở phần xử lí số tín hiệu cũng như phần tương tự. Với các modem song công phân thời dựa trên kĩ thuật DMT thì sự phức tạp giảm nhiều nhờ vào việc dùng chung phần cứng cho cả máy thu và máy phát. Việc sử chung phần cứng có thể thực hiện được là do các chức năng thu phát của một modem DMT đều có nhiều tương đồng: cả hai đều tính toán các phép biến đổi Fourier rời rạc (DFT) thường được thực hiện bằng giải thuật FFT. Vì cơ chế song công phân thời được sử dụng nên modem có thể thu và phát trên những khoảng thời gian khác nhau. Kết quả là chỉ cần một phần cứng tính DFT cho mỗi modem. FFT này sử dụng trên tất
- cả các tần số và khoảng thời gian của siêu khung chỉ trừ các khoảng bảo vệ Q. Hơn nữa, phần cứng tương tự cũng được tiết kiệm và modem song công phan thời thu và phát tín hiệu trên cùng một dải tần. Trong một thời điểm thì chiều nào không sử dụng sẽ tắt nguồn đi và như vậy sẽ tiết kiệm điện năng tiêu thụ. Trái lại các modem song công phân tần phải luôn cung cấp nguồn cho cả hai chiều phát và thu. Cần lưu ý rằng sử dụng song công phân thời với các phương pháp điều chế một sóng mang như CAP hay QAM sẽ không giảm được sự phức tạp thiết bị như đã nêu. Vì các máy phát và thu tín hiệu một sóng mang rất khác nhau nên cần phải có phần cứng thu và phát tách biệt cho mỗi modem một sóng mang và như vậy chẳng tiết kiệm được gì khi thực hiện song công phân thời. Trên thực tế, cần thấy rằng giải pháp song công phân thời dựa trên điều chế CAP/QAM có giá thành cao hơn nhiều so với giải pháp song công phân tần một sóng mang vì chúng phải dùng các bộ lọc DFE dải rộng hơn và phức tạp hơn cũng như cần phải có các bộ biến đổi tín hiệu ADC, DAC tốc độ nhanh hơn. Sự tiết kiệm của hệ thống song công phân thời dựa trên điều chế DMT là giá thành hạ và ít tốn điện. Như đã nói, các modem ở các tổng đài nội hạt và ONU phải được đồng bộ để toàn bộ hệ thống không bị tác động bởi xuyên kênh đầu gần. Vì lí do này cần phải có một clock chung cho các siêu khung. Thật không may là các nhà điều hành khai thác xem sự phân bố của các clock chung này là một công việc khó khăn. Các nhà điều hành khai thác rất ngại chịu trách nhiệm khi cung cấp một clock chung, tin cậy cho nhứng thuê bao trong mạng của minh. Họ lo lắng khi nguồn clock chung này bị hỏng sẽ làm cho họ bị các khách hàng kiện tụng. Kết quả là, các nhà điều hành FSAN khuyến cáo nên sử dụng song công phân tần cho việc song công VDSL. Khi đã xét đến các yêu cầu của hệ thống VDSL có thể thấy rõ ràng là việc song công phân thời có ưu điểm hơn song công phân tần khi sử dụng trên cơ sở
- điều chế DMT. Tuy nhiên, yêu cầu cần phải đồng bộ của song công phân thời lại gây khó khăn cho các nhà cung cấp dịch vụ trong một môi trường tự do. Vì vậy, sơ đồ song công cho VDSL hiển nhiên là song công phân tần. Trong các phần trước cho thấy rằng để đáp ứng các yêu cầu của VDSL thì sự kết hợp giữa điều chế DMT và song công phân thời sẽ cho kết quả tốt nhất. Phân này đưa ra các kết quả đo đạc việc thực hiện thực tế các hệ thống như vậy. Kiểm tra tầm cự ly cực đại đánh giá tầm cự ly đường dài nhất của một hệ thống khi hoạt động ở những tốc độ cho hai chiều chiều xuống và chiều lên cố định và với cùng một mức nhiễu cho cả hai chiều. Hình 2.32 vẽ tầm cực đại trung bình đo được của 5 hệ thống VDSL song công phân thời dựa trên DMT hoạt động ở các tốc độ dữ liệu đối xứng khác nhau với mức nhiễu cho cả hai chiều chiều lên và chiều xuống cùng là 6dB và tỷ số sai bit không quá 10-7. Đồ thị cho thấy tốc độ đối xứng 13 Mbps có thể hỗ trợ đường dây 0,5 mm (24 AWG) dài đến gần 1,4 km và hỗ trợ đường dây 0,4 mm (26AWG) dài đến gần 1,1 km. Tốc độ đối xứng 26 Mbps có thể tải trên đường dây 0,5 mm dài đến 850 m và 0,4 mm dài đến 700 m.
- Dải (m) 1600 1400 1200 1000 800 600 400 200 0 10/10 16/10 20/20 26/20 Tốc độ dữ liệu 0,5 mm 0,4 mm Hình 2.32 Tầm cực đại trung bình của các hệ thống song công VDSL phân thời đối xứng Hình 2.33 vẽ tầm cự ly cực đại trung bình của một hệ thống VDSL song công phân thời dựa trên DMT khi được cấu hình để hỗ trợ truyền dẫn bất đối xứng 8:1
- với mức nhiễu cho cả hai chiều là 6 dB và tỷ số sai bit không quá 10-7 ở cả hai chiều. Tốc độ kết hợp c hiều xuống 26 Mbps và chiều lên 3,2 Mbps trên đôi dây đường kính 0,5 mm có thể dài đến 1,3 km và trên đôi dây đường kính 0,4 mm có thể dài đến 1,5km. Tốc độ kết hợp chiều xuống 52 Mbps và chiều lên 6,4 Mbps trên đôi dây đường kính 0,5 mm có thể dài đến 700 m và trên đôi dây đường kính 0,4 mm có thể dài tới 600 m. Việc đo đạc được thực hiện ít nhất là 5 đôi dây từ 5 vùng khác nhau trên thế giới để tạo ra giá trị trung bình ở trên. Dải (m) 1800 1600 1400 1200 1000 800 600 400 200 0 10/10 16/10 20/20 26/20 Tốc độ dữ liệu 0,5 mm 0,4 mm
- Hình 2.33 Tầm cực đại trung bình của các hệ thống song công VDSL phân thời bất đối xứng 8:1 2.3.3 Ưu nhược điểm của các phương pháp truyền dẫn song công a. Phương pháp FDM Ưu điểm Triệt tiêu được NEXT vì vì hai dải tần số cách nhau bằng băng tần bảo vệ. Không cần sự đồng bộ giữa phát và thu. Được phát triển từ lâu nên có sự chín muồi về công nghệ. Không đòi phải đồng bộ nhịp đồng hồ của các modem. Không yêu cầu phải dung hoà giữa chất lượng của các dịch vụ tốc độ thấp và tốc độ cao. Chất lượng của hệ thống có thể dự đoán trước. Thêm hoặc thay đổi các khách hàng cũng không làm thay đổi chất lượng đường truyền tới khách hàng hiện tại, miễn là việc thực hiện kỹ càng. Nhược điểm
- Không sử dụng hiệu quả băng thông vì luồng lên và luồng xuống ở hai dải tần khác biệt nhau và còn có dải tần bảo vệ. Thành phần tần số cao sẽ bị suy giảm. Tốc độ luồng xuống ở dải tần cao nên bị giảm nhanh chóng khi cự ly truyền dẫn tăng do suy hao ở miền tần số cao nhanh. Vẫn xảy ra hiện tượng nhiễu xuyên âm với các kĩ thuật xDSL khác. Do truyền ở tần số cao. b. Phương pháp TDM Ưu điểm Sử dụng hiệu quả băng thông vì không có khoảng bảo vệ giữa các băng thông. Không bị ảnh hưởng nhiều về tốc độ đường truyền khi truyền dẫn tại miền tần số cao. Nhược điểm Đòi hỏi phải đồng bộ nhịp đồng hồ của các modem. Trong quá trình phát triển dịch vụ việc thay đổi các khách hàng sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng đường truyền tới các khách hàng hiện tại. 2.4 Mô hình tham chiếu của VDSL Phần lớn các DSL chủ yếu được dự định sử dụng từ một CO tới khách hàng và thứ yếu dùng từ những bộ ghép phân phối sợi quang. Trái ngược với VDSL. VDSL sẽ chủ yếu được dùng cho những vòng lặp từ một đơn vị mạng quang (ONU ), cái mà có đặc điểm là đặt tại nơi cách xa khách hàng không lớn hơn 1km. Một số các vòng lặp VDSL nối trực tiếp tới CO.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Nghiên cứu khả năng ứng dụng robot công nghiệp trong hệ sản xuất linh hoạt
112 p | 224 | 62
-
Đề tài khoa học cấp bộ: Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân
121 p | 226 | 45
-
Luận văn thạc sĩ: Tổng hợp, đặc trưng tính chất của các vật liệu nanocomposite epoxy/clay và khả năng ứng dụng làm lớp phủ bảo vệ kim loại
13 p | 235 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động giáo dục tại một số trường mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh
201 p | 175 | 34
-
Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ: Nghiên cứu khả năng ứng dụng truyền tải điện một chiều tại Việt Nam
107 p | 157 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Công nghệ mạng riêng ảo di động và khả năng ứng dụng cho mạng di động GSM và CDMA
97 p | 108 | 22
-
Tóm tắt Luận án Tiến sỹ Kinh tế: Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành thuế ở Việt Nam
27 p | 72 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu khả năng ứng dụng blockchain tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Huế
108 p | 57 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ứng dụng công nghệ tin học và máy RTK SQ-GNSS thành lập bản đồ địa chính tỉ lệ 1/2000 tại xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông
82 p | 48 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ứng dụng công nghệ tin học và máy toàn đạc điện tử thành lập bản đồ địa chính tờ số 15 tỷ lệ 1:500 tại thị trấn Yên Viên – huyện Gia Lâm – thành phố Hà Nội
67 p | 52 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ứng dụng công nghệ thông tin và máy toàn đạc điện tử thành lập bản đồ địa chính tờ số 21 xã Tử Du, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
73 p | 35 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu thu nhận, một số tính chất của tinh bột đậu xanh (Vigna Radiata) và khả năng ứng dụng
27 p | 67 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ứng dụng công nghệ tin học và phương pháp đo RTK thực hiện công tác chỉnh lý bản đồ địa chính tờ số 22 tỷ lệ 1:1000 thị trấn phố Lu huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai
72 p | 40 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Thư viện: Ứng dụng công nghệ mã vạch trong hoạt động thông tin - Thư viện tại Thư viện trường Đại học Hà Nội
103 p | 23 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý đất đai: Ứng dụng công nghệ tin học và máy toàn đạc điện tử thành lập mảnh bản đồ địa chính tờ số 10 tỷ lệ 1:500 thị trấn Yên Viên, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
73 p | 24 | 4
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ứng dụng công nghệ tin học và máy toàn đạc điện tử thực hiện công tác đo đạc chỉnh lý, bổ sung bản đồ địa chính tờ số 10 tỷ lệ 1:1000 xã Bá Xuyên, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
76 p | 21 | 3
-
Luấn án Tiến sĩ Kỹ thuật vật liệu: Nghiên cứu tính chất luyện kim và khả năng ứng dụng quặng sắt Cao Bằng
135 p | 25 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật xây dựng: Nghiên cứu khả năng ứng dụng bê tông rỗng trong xây dựng vỉa hè và các công trình công cộng
69 p | 17 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn