intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khắc phục các lực cản đe dọa sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Khắc phục các lực cản đe dọa sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay" phân tích những lực cản đối với quá trình xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm nhận diện bản chất nguy hiểm của những lực cản này, qua đó tìm kiếm các giải pháp khắc phục các lực cản để thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khắc phục các lực cản đe dọa sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG KHẮC PHỤC CÁC LỰC CẢN ĐE DỌA SỰ SỐNG CÒN CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Dương Anh Hoàng Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Tác giả liên hệ: Dương Anh Hoàng, email: hoang.da@due.edu.vn Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Trong phạm vi bài này, tác giả chủ yếu phân tích những lực cản đối với quá trình xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm nhận diện bản chất nguy hiểm của những lực cản này, qua đó tìm kiếm các giải pháp khắc phục các lực cản để thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa. Từ khóa: xã hội chủ nghĩa; chế độ; lực cản; khắc phục. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh thương mại, chiến tranh công nghệ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ diễn ra gay gắt, nhất là ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia của Việt Nam. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xây dựng được hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn còn tồn tại một số vấn đề phức tạp cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ; nhiều lực cản nguy hiểm cần tập trung giải quyết để đưa đất nước tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa. 146
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Như chúng ta đã biết, trong giai đoạn cách mạng trước và ngay cả trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã lưu tâm về “ba thứ giặc”: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đó cũng chính là nêu rất khái quát về ba “trở lực” cho cách mạng nước ta. Khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Người lại lưu ý: “Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh phải lâu dài và gian khổ. Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ địch chống lại cách mạng. Trên tinh thần đó, ngay từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận, xác định thêm những lực cản có nguy cơ cản trở thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đó là: “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệnh hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1994, 25). Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ nêu lên cho đến nay vẫn là những thách thức lớn. Các nguy cơ ấy có mối liên hệ tác động lẫn nhau và đều nguy hiểm, không thể xem nhẹ nguy cơ nào” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005, 456). Gần đây nhất, tại Đại hội lần thứ XII Đảng ta tiếp tục nhận định: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ diễn biến hòa bình của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 10). 2. CÁC LỰC CẢN CHỦ YẾU ĐE DỌA SỰ SỐNG CÒN TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia và tác động sâu rộng tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa là một quá trình có tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực, đem lại cả thời cơ, vận hội phát triển lẫn thách thức, nguy cơ hiểm họa khó lường đối với các quốc gia, dân tộc. Vì toàn cầu hóa hiện nay, về bản chất, là toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền chi phối, 147
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Toàn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam và một số nước khác. Về phương diện kinh tế, đây là cuộc cạnh tranh, đấu tranh hết sức cam go và phức tạp giữa các nước trong bối cảnh các thế lực tư bản độc quyền gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối toàn cầu hóa. Hai thách thức lớn nhất về kinh tế là: Nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh tranh quốc tế đang diễn ra hết sức quyết liệt hiện nay (Nguyễn, 2009, 429). Tụt hậu về kinh tế được biểu hiện trên rất nhiều mặt như thu nhập bình quân theo đầu người; năng suất lao động; năng lực cạnh tranh... Tất cả các mặt này chúng ta vẫn còn có nhiều hạn chế. Năng suất lao động vẫn còn thấp so với nhiều nước trên thế giới, do nền kinh tế vẫn đang trong mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, dựa trên khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với sức ép cạnh tranh rất gay gắt mà nếu không đáp ứng được có thể bị thua ngay trên sân nhà. Thu nhập bình quân đầu người của nước ta tăng lên, chúng ta đã bước vào các quốc gia có thu nhập trung bình nhưng vẫn còn khoảng cách lớn về thu nhập so với thế giới. Năm 1990, GDP bình quân đầu người theo giá thực tế của thế giới là 4.168 USD và Việt Nam là 98 USD, chênh tới 4.070 USD. Đến 2017, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 2.385 USD, thế giới khoảng 10.700 USD, chênh nhau là 8.315 USD; năm 2018, Việt Nam khoảng 2.590 USD, thế giới khoảng 11.000 USD, chênh tới 8.410 USD (Kinh tế Việt Nam đi nhanh nhưng chỉ là những bước nhỏ, 2019) . Cho dù Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế liên tục, ổn định trong 20 năm qua, bình quân 7%, nhưng thực tế vẫn cho thấy: xét về số tuyệt đối thì GDP của thế giới vẫn đã và đang ngày một doãng ra với tốc độ rất nhanh so với GDP của Việt Nam. Nếu cách đây 30 năm, GDP của thế giới hơn GDP của Việt Nam là 3.900 USD thì nay con số đó là 7.500 USD. Mặc dù chúng ta tự hào tốc độ tăng GDP cao hơn nhiều nước trên thế giới nhưng vì quy mô GDP của Việt Nam nhỏ hơn nhiều nước nên dù tốc độ tăng cao thì về mặt giá trị tuyệt đối GDP lại tăng không bằng các nước khác. Giá trị tăng 7% trên 1 quy mô GDP nhỏ như Việt Nam thua xa so với giá trị tăng dù chỉ 1-2% trên 1 quy mô GDP gấp chúng ta nhiều lần. Sau 15 năm, 148
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” tổng GDP của Việt Nam mới chỉ tăng 160 tỷ USD, trong khi với Thái Lan, con số này là 270 tỷ USD, Malaysia là 200 tỷ USD, đặc biệt là Indonesia có mức tăng trưởng kỷ lục với 700 tỷ USD và Hàn Quốc là 850 tỷ USD (Diệu Thùy, 2015). Việt Nam dù có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa lọt vào danh sách ASEAN 6 mà vẫn nằm ở top cuối của ASEAN. Nói cách khác, dù Việt Nam đã đi được nhiều bước, song đó chỉ là những bước ngắn, nên vẫn tụt hâu so với nhiều quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm, nhưng họ lại đi được những bước dài. Và rõ ràng, đây là một thách thức thực sự, là một vấn đề khó đối với Việt Nam hiện nay, rất cần có chiến lược tổng thể, dài hạn để khắc phục. Nếu không có giải pháp khắc phục kịp thời, rút ngắn khoảng cách với nền kinh tế thế giới, chúng ta thực sự bỏ lỡ nhiều cơ hội đáng tiếc trong mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi Mặt trái của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế tác động không nhỏ làm phát sinh nhận thức chính trị sai lệch trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Một số thế lực thù địch triển khai các hành động chống phá, thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra các luận điệu vô cùng gian xảo hòng làm thay đổi tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mặt khác, hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề phức tạp, khó khăn và thách thức cho công tác phòng chống tham nhũng nhất là trong việc xác định hành vi tham nhũng và các biện pháp đấu tranh phòng chống tham nhũng. Tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp hơn bởi có yếu tố nước ngoài (Trịnh, 2021). Hành vi tham nhũng, tiêu cực rất đa dạng, phức tạp và biến tướng ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Nếu như trước đây, tham nhũng chỉ đơn giản là hành vi “ăn cắp vặt”, nhận “phong bì”, lợi ích vật chất nhỏ, tính chất riêng lẻ, đơn giản, manh mún, thì nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tham nhũng đã “biến hình”, khoản tiền tham nhũng ngày càng lớn hơn, hành vi có tính cấu kết, nhiều vụ có tổ chức, có biểu hiện “nhóm lợi ích”, “lợi ích nhóm” ngày càng chặt chẽ, khép kín, có sức mạnh “lũng đoạn” các quyết sách của cả tập thể, tổ chức. Lợi ích mà tham nhũng hướng đến không chỉ dừng lại ở vật chất nữa, mà còn phi vật chất, không chỉ diễn ra trong khu 149
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG vực công, mà còn trong khu vực tư, có sự móc nối, câu kết chặt chẽ giữa người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực nhà nước với doanh nghiệp... Không chỉ tham nhũng, hành vi tiêu cực còn đa dạng, tinh vi, phức tạp hơn, biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực công tác, đời sống chính trị của cán bộ, công chức, viên chức... Thời gian qua, không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ luật của Đảng, hành chính của Nhà nước và xử lý hình sự. Tổng kết công tác xây dựng Đảng của nhiệm kỳ XII, Đại hội XIII đã chỉ ra: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 223). Tổng kết về công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng cho thấy, có đến hơn 87 nghìn đảng viên bị kỷ luật (Tất Dũng & Đặng Phước, 2020), trong đó vi phạm chủ yếu là nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc, những điều đảng viên không được làm, tham nhũng, tiêu cực, buông lỏng lãnh đạo, cố ý làm trái. Kết quả cũng cho thấy, có đến 113 cán bộ cao cấp diện Trung ương quản lý bị kỷ luật (tăng hơn 10 lần so với nhiệm kỳ Đại hội XI - chỉ xử lý 11 trường hợp cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý). Thanh tra Chính phủ và thanh tra chuyên ngành đã chuyển cơ quan điều tra xem xét, xử lý gần 450 vụ, hơn 600 đối tượng. Kiểm toán nhà nước đã chuyển gần 20 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật. Từ năm 2013-2020, các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và địa phương đã khởi tố, điều tra 14.300 vụ/24.410 bị can, xét xử sơ thẩm hơn 11.700 vụ/22.600 bị cáo về tham nhũng, kinh tế, chức vụ. Riêng Ban Chỉ đạo đã đưa hơn 800 vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm vào diện theo dõi, chỉ đạo (Kết quả công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020, 2021). Tham nhũng lan rộng đến mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, xảy ra phổ biến hơn gấp nhiều nhiều lần; là quy mô từng vụ tham nhũng lớn hơn gấp nhiều lần; là “tính tập thể”, mà người ta hay gọi một thuật ngữ là “lợi ích nhóm” trong tham nhũng đã phổ biến vô số lần; là phương thức, phương cách tham nhũng tinh vi hơn gấp rất rất nhiều lần; là tiền và quyền đã bện chặt vào nhau, đã quyện chặt vào nhau hơn bao 150
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” giờ hết. Kẻ có quyền đang dùng quyền để vơ vét tiền nhiều nhất có thể. Kẻ có tiền đang dùng tiền để mua quyền để có nhiều tiền hơn. Quyền-tiền đã trở thành những giá trị đánh bạt đạo đức, kỷ cương và pháp luật. Thảm trạng này đã phổ biến hết sức rộng rãi. Và “hậu quả hết sức nghiêm trọng” hay “khôn lường” mà Ban lãnh đạo Đảng nêu ra cách 1/4 thế kỷ1 đã được nhân lên gấp bội lần; mối lo về “sự tồn vong của chế độ” không những không giảm bớt mà lại còn tăng lên… Ai cũng biết xử lý nghiêm khắc nhất có thể các vụ án đích thực tham nhũng là cần thiết, nhưng chỉ tập trung vào “chống” là rất chưa đủ. Thực tế mấy chục năm qua đã cho thấy điều này: càng chống, tham nhũng càng phát triển, càng phổ biến, càng tinh vi, càng trầm trọng. Chúng ta cần phải có cách thức: thể chế, cơ chế để ngăn chặn, tìm cách giảm thiểu, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc tất cả những ai vi phạm. 2.3. Nguy cơ từ những âm mưu, hành động “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch vẫn thường trực và có những biểu hiện mới Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã và đang có nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng phải đối mặt với không ít nguy cơ, thách thức. Một trong những thách thức, nguy cơ đã được Đảng ta chỉ ra là âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, các thế lực thù địch luôn coi việc phá hoại tư tưởng là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng với chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng tìm cách đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra những luận điệu lập lờ, lẫn lộn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đến đảng viên và nhân dân. So sánh các chế độ, chính sách liên quan đến đời sống nhân dân ta với các nước phương Tây; vấn đề tự do, dân chủ, hòng làm cho người dân thấy như “xã hội Việt Nam đang có vấn đề” dẫn đến hoài nghi, mơ tưởng về một “xã hội khác tốt đẹp hơn”. 1 Ban lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ ra nghị quyết chống tham nhũng số 14-NQ/TW ngày 15/5/1996, trong đó nhấn mạnh: “[…] cuộc đấu tranh chống tham nhũng đạt hiệu quả rất thấp. Tham nhũng vẫn diễn ra tràn lan, phổ biến, thậm chí có địa phương, có lĩnh vực còn nghiêm trọng hơn trước. Tình trạng tham nhũng đã và đang gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng, làm xói mòn bản chất của Đảng và Nhà nước, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên, tiếp tay cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá ta, uy hiếp sự tồn vong của chế độ ta”. 151
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Nếu cán bộ, đảng viên chúng ta không vững vàng về tư tưởng, dễ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thay đổi quan điểm, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Điều chỉnh thủ đoạn chống phá từ công kích trực diện vào nền tảng tư tưởng, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng đối lập, đòi bỏ điều 4 Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do không đem lại kết quả. Thủ đoạn mới của chúng là tuyên truyền kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ. Từ đó tác động làm tha hóa từng cán bộ, đảng viên, nhằm thực hiện mưu đồ phá hoại từ bên trong, thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Chúng sử dụng các cách thức tác động tinh vi, xảo quyệt đối với từng đối tượng cụ thể. Đối với cán bộ, đảng viên, chúng thổi phồng khuyết điểm yếu kém của một số địa phương và một số cá nhân đảng viên, đánh đồng giữa tập thể, cá nhân tốt với tập thể và cá nhân có khuyết điểm, sai phạm hòng làm cho nhân dân mất niềm tin vào Cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đối với các tầng lớp nhân dân, chúng lợi dụng việc tiếp cận thông tin còn hạn chế, đưa những thông tin sai lệch, nhằm tạo khoảng trống trong tư tưởng nhân dân, làm cho nhân dân hoài nghi, mất niềm tin với chế độ, Đảng và nhà nước, từ đó chúng kích động các hoạt động gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trước những thủ đoạn mới của các thế lực thù địch chống phá đất nước ta, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện, giữ vững lập trường, tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, chủ động phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. 2.4. Nguy cơ từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, kể cả ở cấp cao chưa được ngăn chặn, đẩy lùi Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên là vấn đề đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến khi Người bàn về đạo đức cách mạng. Người luôn coi chủ nghĩa cá nhân, chứng bệnh tiêu cực 152
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” là một loại giặc “nội xâm”, thứ bệnh nguy hiểm ẩn nấp trong lòng mỗi con người, nguy hiểm không kém giặc ngoại xâm, vì nó phá ta “từ trong phá ra”. Thứ bệnh này cũng được Đảng ta nhận diện, chỉ ra từ Đại hội VI, nhưng đặc biệt được quan tâm và đề cập rõ nét về tính chất diễn biến phức tạp, nhất là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đại hội XII, XIII. Do tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó có mặt trái, mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, dẫn đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn biến phức tạp. Ngay từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng đã chỉ ra những biểu hiện của tình trạng này và coi đó là một trong bốn nguy cơ cần quan tâm đấu tranh phòng, chống. Các kỳ Đại hội Đảng và nhiều hội nghị Trung ương các khóa tiếp tục đánh giá thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; xác định việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ vừa cơ bản lâu dài, vừa có ý nghĩa cấp bách trong công tác xây dựng Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII đã nhấn mạnh tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên không còn là nguy cơ mà là thực tiễn đáng lo ngại: “… làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”; “… Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng, đe dọa đến vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ…”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”. Vấn đề đặt ra là: căn nguyên do đâu mà tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tiếp tục diễn biến nghiêm trọng và chưa được ngăn chặn, đẩy lùi? Phải chăng chúng ta chưa đánh giá chính xác mức độ, tính chất của tình hình, chưa xác định rõ căn nguyên sâu 153
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG xa, để đề ra được hệ thống giải pháp đồng bộ và đủ mạnh nhằm khắc phục tình trạng suy thoái này. 3. CÁC ĐỊNH HƯỚNG LỚN NHẰM KHẮC PHỤC CÁC LỰC CẢN ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, vững vàng bước vào hội nhập quốc tế Thứ nhất, giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phát huy đầy đủ vai trò của thị trường trong phân bổ các nguồn lực sản xuất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp và thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước; tập trung vào nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; đẩy mạnh cải cách hành chính; giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiến tạo phát triển. Tạo điều kiện và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên, hội viên, phản biện, góp ý luật pháp, chính sách của nhà nước, giám sát các doanh nghiệp, các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của nhà nước trong việc thực thi pháp luật. Thứ hai, tập trung rà soát, sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa hợp lý trong hệ thống luật pháp, các thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân, gây phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tạo nên những rào cản cản trở sự phát triển đất nước. Đồng thời, bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn, công khai, minh bạch, thông thoáng để thu hút đầu tư, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là việc tạo môi trường thuận lợi cho hình thành, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo doanh nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực, những mô hình sản xuất kinh doanh mới, công nghệ mới, sản phẩm mới trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng; cơ cấu lại nền kinh tế để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước thực hiện chuyển đổi số 154
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” cho các ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước nhiệm vụ trọng tâm là đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, thoái vốn, cổ phần hóa cơ cấu lại doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại. Đồng thời, kiểm tra giám sát chặt chẽ không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ trang trại trong nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lớn mạnh, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiện làm việc của người lao động, và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện các trách nhiệm xã hội. Nâng cao hiệu quả các dự án đối tác công tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, sẵn sàng chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Thứ tư, hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để việc phẩn bổ các nguồn lực của Nhà nước được thực hiện theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá trị thị trường với các hàng hóa, dịch vụ, kể cả giá các dịch vụ công cơ bản, thu hẹp giá do nhà nước quyết định. Phát triển đồng bộ, với cơ sở hạ tầng và phương thức giao dịch hiện đại, các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản để các thị trường vận hành thông suốt, kết nối thị trường trong nước với thị trường thế giới. Ngoài ra, cần xây dựng, cụ thể hóa hệ tiêu chí xác định những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nội dung: Về cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế: là nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần; 155
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự chủ, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Về cơ chế vận hành: là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Về trình độ phát triển: Có lực lượng sản xuất phát triển ngày càng hiện đại; cơ cấu hợp lý; tăng trưởng theo chiều sâu; có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao; là nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế…. 3.2. Giải pháp căn cơ nâng cao hiệu quả phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Thứ nhất, tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được thực hiện nghiêm túc sẽ giảm thiểu hành vi tiêu cực, phát hiện kịp thời những vi phạm của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng. Đồng thời, công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện nghiêm chỉnh sẽ là lời cảnh tỉnh, răn đe đối với những cán bộ, đảng viên đã và đang có ý định thực hiện hành vi tiêu cực, tham nhũng. Thứ hai, hoàn thiện thể chế quản lý về kinh tế - xã hội, bịt kín các “kẽ hở” để “không thể tham nhũng”, ngăn ngừa việc chuyển dịch tài sản bất hợp pháp có được từ tham nhũng, tiêu cực. Trong thời gian tới, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh tế - xã hội, trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để kiểm soát có hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn, tăng cường và nâng cao hiệu quả phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Hiện nay, các quy định về việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức đã dần được hoàn thiện, nhưng chưa đủ sức để “truy quét” được tài sản tham nhũng, tiêu cực. Pháp luật về thuế, về bất động sản chưa đánh thuế đối với các bất động sản thứ hai của chủ sở hữu nên tạo ra kẽ hở để cán bộ, công chức “hợp pháp hóa” tài sản tham nhũng, tiêu cực bằng việc để người thân đứng tên trên bất động sản, chuyển hóa tài sản tham nhũng thành tài sản hợp pháp. Thứ ba, tiếp tục tập trung phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi tham nhũng, nhất là thông qua công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; trong đó chú trọng xử lý cả các vụ việc tiêu cực trong cán bộ, đảng viên có tính chất phức tạp, nổi cộm, dư luận xã hội quan tâm. 156
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Tập trung đẩy nhanh tiến độ, xử lý dứt điểm các vụ án, vụ việc tham nhũng, sai phạm kinh tế nghiêm trọng, phức tạp với quan điểm: Tích cực, khẩn trương, rõ đến đâu xử lý đến đó, không phân biệt người có hành vi phạm tội là ai, đã có dấu hiệu phạm tội phải khởi tố điều tra và đã kết luận có tội thì phải truy tố, xét xử. Các cơ quan chức năng trong quá trình kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, thi hành án, nếu phát hiện dấu hiệu phạm tội phải kịp thời chuyển hồ sơ vụ việc đến cơ quan điều tra để thụ lý, điều tra, xử lý theo pháp luật, không chờ kết thúc quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, thi hành án. Thứ tư, tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, nâng cao hơn nữa nhận thức về phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhận thức yếu kém, sai lệch của một bộ phận cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân về công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khuyết điểm của công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian qua. Nhận thức đúng đắn về vai trò, tác dụng của công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực sẽ làm cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy khi triển khai thực hiện sẽ nghiêm chỉnh, tích cực, quyết liệt hơn. Vì vậy, trong thời gian tới, để công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực đạt hiệu quả cao hơn nữa, đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Tham nhũng, tiêu cực là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Thường xuyên giáo dục, đẩy mạnh nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và đội ngũ cán bộ đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị về vai trò, tác dụng to lớn của công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Phải đẩy mạnh giáo dục liêm chính, hình thành “văn hóa nêu gương”, “nói đi đôi với làm”; văn hóa “trọng liêm sỉ, danh dự” trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và văn hóa “căm ghét tham nhũng” trong đại bộ phận quần chúng nhân dân. Cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên sinh hoạt đảng thường kì hàng tháng hoặc tổ chức sinh hoạt chuyên đề để tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về công tác phòng, chống tiêu cực, tham nhũng. Tăng cường, chủ động cung cấp thông tin chính xác, khách quan, khoa học về phòng chống tham nhũng, tiêu cực trên mạng xã hội, internet… Thường xuyên mở các hội nghị, hội thảo khoa học, lớp tập huấn và phát động các cuộc thi tìm hiểu 157
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG về công tác phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, tạo ra một khí thế mới, một “khao khát mới”, sục sôi và quyết liệt hơn trong đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Thứ năm, đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị theo hướng thật đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả, khắc phục bằng được sự lạm quyền, lộng quyền và lợi dụng quyền lực của cán bộ, đảng viên có chức vụ. Để làm được điều này, phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn. Đặc biệt, phải chú trọng quy định thật cụ thể chế tài xử lý vi phạm đối với cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực ở nhiều lĩnh vực. Xây dựng được cơ chế kiểm soát bên trong thật hiệu quả để việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm, tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị không còn “là khâu yếu”. Tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Nhà nước; công tác giám sát của các cơ quan tư pháp, cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với việc thực thi nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn, bảo đảm quyền lực được thực hiện đúng. Phải kịp thời phát hiện, giải quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Phải kiểm tra, giám sát tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội, trọng tâm là đầu tư công, xây dựng cơ bản từ vốn nhà nước, hoạt động tín dụng. Chú trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong công tác tổ chức và cán bộ; kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là người đứng đầu và cán bộ được quy hoạch vào các vị trí lãnh đạo, quản lý; kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, nhiều dư luận và đơn thư phản ánh, tố cáo tham nhũng. Nếu cơ quan nào có dấu hiệu tiêu hủy, bao che, không cung cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật thì sẽ bị xử lý theo mức độ vi phạm. Thứ sáu, hoàn thiện chế độ, chính sách về tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức. Đây được xem là một trong những giải pháp rất quan trọng để ngăn ngừa hành vi tiêu cực, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Singapore đã trả lương rất cao cho cán bộ, công chức đủ để họ nuôi sống bản thân và gia đình mà 158
  14. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” “không cần tham nhũng”. Khi cán bộ, công chức đã được đảm bảo cuộc sống họ sẽ yên tâm cống hiến hết năng lực, sở trường. Ngược lại, khi cuộc sống của đội ngũ cán bộ, công chức không được bảo đảm thì họ sẽ có nguy cơ nhũng nhiễu, tiêu cực. Vì vậy, cần hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ, tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ, công chức làm trong các cơ quan có chức năng chống tham nhũng, tiêu cực. Để làm được điều này, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp như: tinh giảm biên chế để tăng quỹ lương; đẩy mạnh thực hiện quy chế tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; hoàn thiện bảng mô tả công việc; bố trí sắp xếp việc làm và trả lương theo đúng chuyên môn, năng lực, phù hợp với vị trí việc làm. 3.3. Một số giải pháp phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân hiểu rõ và nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc, tôn giáo. Đây là giải pháp cơ bản nhằm đưa các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc, tôn giáo vào cuộc sống. Đồng thời, làm cho nhân dân thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động trong việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng phủ nhận đường lối đổi mới của Đảng, kích động mâu thuẫn giữa Nhân dân với cấp ủy, chính quyền các cấp, chia rẽ đồng bào các dân tộc và các tôn giáo. Để đạt hiệu quả, cán bộ, đảng viên, nhất là ở cơ sở phải gần dân, sát dân, tìm hiểu và nắm tâm tư, nguyện vọng của dân. Phát huy vai trò của già làng, trưởng thôn, các nhân sĩ trí thức là người dân tộc thiểu số và các chức sắc, chức việc tôn giáo tiến bộ cùng vận động, thuyết phục đồng bào các dân tộc có đạo nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương. Chủ động phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời, hiệu quả tình trạng truyền đạo trái pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị trên từng địa bàn. Thứ hai, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, tôn giáo. Tập trung khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, thế mạnh ở từng tiểu vùng, từng xã; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, sáng tạo, nỗ lực vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân ở cơ sở; thu hút và sử dụng có hiệu quả các 159
  15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nguồn lực, xã hội hóa để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi, trường, trạm vừa giúp giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước, vừa tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh để nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ; hỗ trợ, hướng dẫn đồng bào dân tộc thiểu số chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đi vào sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, định canh, định cư; xây dựng thôn, làng thành cộng đồng giàu về kinh tế, phát triển về văn hóa - xã hội, đoàn kết, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội; giải quyết tốt tình trạng tranh chấp đất đai, đẩy nhanh tiến độ giao đất, khoán rừng, giúp đồng bào an cư lạc nghiệp. Thứ ba, củng cố và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh. Trong bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào môi trường khu vực và toàn cầu; với cả thời cơ và thách thức đan xen, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, lợi dụng các vấn đề về “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” cùng những sơ hở, yếu kém trong quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, do đó, phải chủ động phòng ngừa, dự báo chính xác tình hình để sớm triệt tiêu các nhân tố bất lợi có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội. Trong đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt là người dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo vững mạnh về mọi mặt; thực hiện tốt phong cách dân vận “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”, từ đó kịp thời phát hiện, giải quyết dứt điểm những vấn đề nổi cộm, bức xúc, những vụ việc phát sinh có liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo; thực hiện nghiêm Quy chế Dân chủ cơ sở, tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân; tập trung “Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân” như Văn kiện Đại hội Đảng XIII đã đề ra, làm cơ sở, chỗ dựa vững chắc cho đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn gây bạo loạn, ly khai của các thế lực thù địch. Trong tình hình hiện nay, nếu mất cảnh giác, hữu khuynh, đấu tranh thiếu kiên quyết, triệt để với các biểu hiện, mầm mống gây đột biến, có thể dẫn đến hậu quả khôn lường. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Trong đó, phải hết sức chăm lo bộ máy của hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, thực 160
  16. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” sự gần dân và vì dân; có năng lực quản lý vĩ mô ngày càng hoàn thiện. Chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là về công tác dân tộc, tôn giáo cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh; từ đó nâng cao quyết tâm, trách nhiệm của các cấp, ngành và toàn dân phòng, chống hiệu quả những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn. 3.4. Giải pháp khắc phục phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống Một là, tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, quần chúng theo định hướng Đại hội XIII của Đảng. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII, 2021). Đồng thời, đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng chính trị, học tập nghị quyết, kết hợp chặt chẽ việc phổ biến, quán triệt làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn với gợi mở vấn đề thực tế đang đặt ra và thảo luận, trao đổi, phát huy tìm tòi, sáng tạo của cá nhân; chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng; thường xuyên cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Mặt khác, cần tăng cường việc rèn luyện, giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, quần chúng gắn chặt với xây dựng và thực hành đạo đức trong Đảng, nhất là phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Bên cạnh đó, cần tổ chức đăng ký tu dưỡng, rèn luyện viên đảng viên gắn với theo dõi, đánh giá đúng thực chất hằng năm của tổ chức đảng; tăng cường giáo dục lương tâm, danh dự, liêm sỉ đối với đảng viên theo lời Bác Hồ dạy: “Phải biết rằng tham lam là một điều rất đáng xấu hổ”, phải “ít lòng tham muốn về vật chất”, “Cán bộ Ðảng, cán bộ chính quyền không phải làm quan cách mạng, ăn trên ngồi trốc...” (Hồ, 2000, 513). 161
  17. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Hai là, tiếp tục thực hiện nghiêm nguyên tắc, chế độ, quy định và đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; xác định rõ vai trò và phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Trước hết, cần thực hiện nghiêm các nguyên tắc sinh hoạt trong Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; duy trì nề nếp và chuẩn bị chu đáo nội dung sinh hoạt. Việc tự phê bình và phê bình phải dựa trên tinh thần xây dựng tập thể và “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”; khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh cho cái đúng. Đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ là giải pháp quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay. Bên cạnh thực hiện nghiêm nguyên tắc sinh hoạt Đảng thì cần thực hiện đúng quy chế làm việc của cấp ủy, ủy ban kiểm tra và quy chế lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu; kiên quyết khắc phục các biểu hiện dân chủ hình thức, độc đoán chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa, lấy danh nghĩa tập thể để trục lợi hoặc tranh công, đổ lỗi… Ba là, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, nền tảng tư tưởng của Đảng; chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị. Đảng ta xác định: Công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”. Mọi việc trong bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể tốt hay không tốt đều từ cán bộ mà ra. Do vậy, cần thực hiện nghiêm quy trình, quy định của Đảng về công tác cán bộ; có cơ chế kiểm soát quyền lực, khắc phục và ngăn chặn sự lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực; xử lý và thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm sút uy tín, trì trệ; sử dụng cán bộ đúng việc, đúng chỗ để phát huy điểm mạnh và hạn chế nhược điểm; đồng thời bảo đảm tính kế thừa và phát triển, chống cục bộ, bè phái, chạy chức, chạy quyền... trong công tác cán bộ. Cấp ủy, chi bộ cần chủ động theo dõi, nắm bắt tư tưởng, dự báo tình hình, lãnh, chỉ đạo và phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên để kịp thời phát hiện, đấu tranh làm thất bại hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là trên không gian mạng. Thường xuyên thông tin thời sự trong nước, quốc tế, vấn đề dư luận quan tâm; tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong cán bộ, đảng viên, quần chúng. 162
  18. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Bốn là, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ chính trị và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Muốn giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng, đòi hỏi tổ chức đảng phải không ngừng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của chính mình. Muốn vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, sự hiểu biết, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Để rèn luyện đạo đức thì mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hành lời dạy của Bác: “Gạo đem vào giã bao đau đớn/ Gạo giã xong rồi trắng tựa bông...” và phải luôn “cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”; tránh học theo, bắt chước thói hư, tật xấu, biểu hiện tiêu cực đang hiện hữu đâu đó trong bộ hệ thống chính trị và ngoài xã hội. Năm là, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng. Ngoài việc xây dựng chương trình, kế hoạch, chuẩn hóa đội ngũ làm công tác kiểm tra, giám sát; cần xác định đúng trọng tâm, trọng điểm nội dung kiểm tra, giám sát, trong đó cần xem kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, năng lực công tác là nội dung rất quan trọng; cần được tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ, đúng quy trình, quy định. Mặt khác, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, tổ chức trong hoạt động kiểm tra, giám sát, nhất là vai trò của cấp ủy, cơ quan, đơn vị, ủy ban kiểm tra, tổ chức đảng và quần chúng đối với cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm minh, “tâm phục, khẩu phục” những trường hợp vi phạm. “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (Hồ, 2002, 557-558 ). Vì vậy, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên là giải pháp hàng đầu để xây dựng tổ chức đảng có đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. 4. KẾT LUẬN Trên đây là những lực cản và cũng là thách thức lớn đối với sự tồn vong của chế độ XHCN ở nước ta trong thời gian sắp tới. Trong cuộc đấu tranh này đòi hỏi chúng ta vừa đề cao cảnh giác, chủ động nhận diện, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng. Đặc biệt phản bác một cách mạnh mẽ, 163
  19. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ hình thức nào. Điều cốt lõi là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Có thể nói, các nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ XHCN ở Việt Nam mà Đảng ta khẳng định có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu một nguy cơ nào đó tăng hoặc giảm sẽ làm cho các nguy cơ khác tăng và giảm theo. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải có giải pháp, khắc phục xóa bỏ tất cả các nguy cơ, không được xem nhẹ nguy cơ nào. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1994). Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII. Lưu hành nội bộ. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật. [5]. Diệu Thùy. (2015, November 21). Việt Nam đang tụt hậu xa về kinh tế. Chuyên trang của báo Vietnamnet. https://infonet.vietnamnet.vn/thi-truong/viet-nam- dang-tut-hau-xa-ve-kinh-te-103756.html [6]. Hồ, C. M. (2000). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia. [7]. Hồ, C. M. (2002). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia. [8]. Kết quả công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020. (2021, February 15). Trang Thông tin Điện tử Tổng hợp Ban Nội Chính Trung ương. https://noichinh.vn/tin-tuc-su-kien/tin-trung-uong/202102/ket-qua-cong-tac- phong-chong-tham-nhung-giai-doan-2013-2020-309186/ [9]. Kinh tế Việt Nam đi nhanh nhưng chỉ là những bước nhỏ. (2019, October 30). Trang thông tin Điện tử Đài PT-TH Quảng Bình. http://qbtv.vn/tin-tuc/kinh-te-viet- nam-di-nhanh-nhung-chi-la-nhung-buoc-nho-10510.html 164
  20. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” [10]. Nguyễn, N. L. (2009). Chủ nghĩa Mác - Lê-nin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia. [11]. Tất Dũng & Đặng Phước. (2020, December 12). Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, giai đoạn 2013-2020. Ban Nội Chính Trung ương. http://noichinh.vn/cong-tac-phong-chong-tham-nhung/202012/hoi-nghi-toan- quoc-tong-ket-cong-tac-phong-chong-tham-nhung-giai-doan-2013-2020- 308914/ [12]. Trịnh T. Q. (2021, April 4). Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. Ban Nội Chính Trung ương. http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202104/cac-yeu-to-anh-huong-den- thuc-hien-phap-luat-ve-phong-chong-tham-nhung-o-viet-nam-hien-nay- 309378/ 165
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1