intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khái quát về cấu trúc kiến tạo Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Văn Thanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:67

129
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu "Khái quát về cấu trúc kiến tạo Việt Nam" trình bày về các địa khu lục địa tiền Cambri tái biến cải trong Phanerozoi, hệ tạo núi đa kỳ Neoproterozoi Paleozoi sớm Việt-Trung, các trũng nội lục Paleozoi muộn Kainozoi, rìa lục địa tích cực Mesozoi muộn Đà Lạt,... Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khái quát về cấu trúc kiến tạo Việt Nam

  1. KHÁI QUÁT VỀ CẤU TRÚC­KIẾN TẠO VIỆT NAM Việt Nam và các khu vực kế  cận thuộc Đông Nam Á và Hoa Nam là phần   đông nam của mảng thạch quyển Âu­Á, tiếp giáp với các mảng thạch quyển  Ấn  Độ­Australia  ở  phía tây nam và Pacific (Thái Bình Dương)  ở  phía đông, mà ranh  giới giữa chúng là các đới hội tụ  đang hoạt động hút chìm dọc các vực Sunda và  Đông Philippines [Hamilton, 1979; Katili, 1986; Gatinski, 1986, 2005; Hutchison,  1989,   v.v.],   chứa   một   số   tổ   hợp   phức   tạp   các   địa   khu   lục   địa   ngoại   lai   (allochthonous continental terrane) cùng với các cung đảo và các phức hệ  bồi kết  có nguồn gốc từ  Gondwana [Stauffer, 1985; Metcalfe, 2006; Burrett   et al., 1990;  Barber et al., 2005]. Trên bình đồ  cấu trúc hiện tại, Việt Nam và các khu vực kế  cận có thể được chia ra các đơn vị kiến tạo chính như trình bày ở Hình 4.1. Các địa khu lục địa Tiền Cambri tái biến cải trong Phanerozoi, trong đó chủ  yếu là các địa khu biến chất cao, như Hoàng Liên Sơn ở Bắc Bộ, là một bộ phận  tách ra từ craton Yangtze (Dương Tử), Phu Hoạt­Nậm Sư Lư  ở Bắc Trung B ộ và   Cực Tây Bắc Bộ, Kon Tum  ở  Trung Trung Bộ  và cả  Hoàng Sa  ở  Biển Đông là   những bộ  phận của craton Indosinia. Giữa các địa khu này là hệ  tạo núi đa kỳ  (polyepisodic orogenic system) Neoproterozoi­Mesozoi sớm. Hệ tạo núi này được  chia ra làm hai phân hệ: phân hệ tạo núi đa kỳ  Neoproterozoi­Paleozoi sớm Việt­ Trung, mà về bản chất là một địa khu liên hợp (composite terrane), trong đó phần  ở  Việt Nam gồm hai đai tạo núi nội lục (intracontinental orogenic belt) Paleozoi  sớm là Đông Bắc Bộ  và Tây Bắc Bộ, và phân hệ  tạo núi đa kỳ  Paleozoi giữa­ Mesozoi sớm Đông Dương gồm các đai tạo núi Paleozoi giữa Đà Nẵng­Sê Kông,  Paleozoi muộn­Mesozoi sớm Trường Sơn và Indosini Mekong. Nằm   chồng   gối   lên   các   cấu   trúc   đã   cố   kết   nêu   trên   là   các   trũng   nội   lục  Paleozoi muộn­Kainozoi có nguồn gốc phân dị  và thời gian hình thành khác nhau.  Các hệ rift nội lục Permi muộn­Mesozoi Sông Hiến­An Châu  ở  Đông Bắc Bộ  và  Sông Đà­Tú Lệ ở Tây Bắc Bộ, các hệ rift nội lục sau va chạm Mesozoi Sầm Nưa­ Hoành Sơn  ở  Bắc Trung Bộ, Sông Bung­An Khê  ở  Trung Trung Bộ. Rìa lục địa  tích cực Mesozoi muộn Đà Lạt chiếm phần lớn địa phận Nam Trung Bộ và Đông   Nam Bộ là một bộ phận của đai núi lửa­pluton Đông Á. Sau cùng là các trũng nội lục Kainozoi nằm chồng trên các móng đa nguồn,   trong đó trên đất liền, ngoài các trũng nhỏ, có hai trũng Châu thổ  Sông Hồng và  Sông Mekong nối liền với các bể ngoài biển. Các bể Kainozoi ngoài biển gồm có  các bể  Bắc vịnh Bắc Bộ, Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Tư  Chính­Vũng Mây, Malay­Thổ Chu, Hoàng Sa, Trường Sa và lòng chảo đại dương  Biển Đông. Ngoài ra còn có vành bazan khuếch tán Tây Nguyên bao trùm lên phần   lớn miền Nam Đông Dương và cả một phần ngoài biển. Dưới đây là phần mô tả các đơn vị cấu trúc kiến tạo kể trên. 1
  2. Hình 4.1. Các đơn vị kiến tạo chính ở Việt Nam  Nguồn: Trần Văn Trị, Nguyễn Xuân Bao, 2008 2
  3. 4.1. CÁC ĐỊA KHU LỤC ĐỊA TIỀN CAMBRI TÁI BIẾN CẢI TRONG PHANEROZOI Các phức hệ đá biến chất cao hoặc siêu cao ở Việt Nam lộ ra trên các đơn vị  cấu trúc dưới dạng địa khu thường có ranh giới đứt gãy kiến tạo với các cấu trúc   vây quanh. Chúng tạo thành các địa khu lục địa Tiền Cambri bị tái biến cải trong  Phanerozoi, như  các địa khu Hoàng Liên Sơn ở  Bắc Bộ, Phu Hoạt­Nậm Sư Lư  ở  Tây Bắc Bộ­Bắc Trung Bộ, Kon Tum  ở  Trung Trung Bộ, và Hoàng Sa  ở  Biển  Đông [Trần Văn Trị et al., 2007]. 4.1.1. Địa khu biến chất  cao Hoàng Liên Sơn:  Địa   khu   biến   chất   cao  Hoàng Liên Sơn nối liền với  Ailaoshan   là   phần   rìa   T­N  craton   Yangtze   (Dương   Tử),  kéo   dài   theo   phương   TB­ĐN  khoảng 800 km, có bề  ngang  20­30 km  ở  Vân Nam (Trung  Quốc), mở  rộng dần về  phía  tả  ngạn sông Đà có bề  rộng  60­70 km ở các vùng Phú Thọ­ Hoà   Bình   dọc   theo   đới   cắt­ trượt   bằng   phải   Sông   Hồng.  Trên phạm vi Tây Bắc Bộ, địa  khu Hoàng Liên Sơn gồm hai á  Hình 4.2. Mặt cắt địa điện MTS thu được bằng mô hình số 2D.  địa   khu   (subterrane):   Phan   Si  Tại mỗi lớp có hai giá trị điện trở suất tính bằng Ωm. Giá trị trên:  điện trở dọc (phân cực E), giá trị dưới: điện trở ngang (phân cực  Pan ở phía TN và Núi Con Voi  ở phía ĐB, gần trùng với các ranh giới phân chia của Đovjikov [1965]. Hai á địa khu  này có sự khác nhau về điện trở suất, biên độ nâng hạ (Hình 4.2) [Phạm Văn Ngọc  et  al.,   1995;   Nguyễn   Thị   Kim   Thoa,   2007]   cũng   như   cự   ly   dịch   chuyển   ngang   [Tapponnier et al., 1990; Phan Trọng Trịnh và nnk., 2004]. 4. 1.1.1. Á địa khu Phan Si Pan  Nằm kẹp giữa đới đứt gãy Sông Hồng và các đới đứt gãy phân đoạn Mường  Hum, Nghĩa Lộ, Phù Yên­Hồ Hoà Bình, á địa khu này có thể  chia thành hai khối:   Sa Pa ở phía TB và Ca Vịnh ở phía ĐN, có dạng phức nếp vồng mà nhân lộ ra các   đá   kết   tinh   Tiền   Cambri   và   hai   cánh   là   các   dãy   địa   tầng­kiến   tạo   (tectono­ stratigraphic sequences) Neoproterozoi­Paleozoi. Phức hệ móng kết tinh tái biến cải: Các đá móng kết tinh của á địa khu Phan  Si Pan lộ ra trong các cấu tạo uốn nếp dạng tuyến TB­ĐN được xếp vào loạt Xuân  Đài   có   tuổi   Mesoarchei­Paleoproterozoi   sớm,   gồm   hai   phức   hệ.   Phức   hệ   Suối   Chiềng   nằm   dưới   gồm   gneis   amphibol­biotit,   xen   quarzit   biotit,   jaspilit   (quarzit   magnetit), đá phiến thạch anh­biotit­granat, amphibolit,     migmatit có bề  dày trên  2200 m [Nguyễn Xuân Bao, 1978; 2004], lộ  ra dọc hữu ngạn sông Hồng, là đá  phiến hai mica chứa graphit, đá phiến mica granat­disthen, amphibolit chứa quặng   đồng­sắt­ quarzit magnetit, đá hoa bề dày trên 1500 m [Bùi Phú Mỹ 1978; 2004], tạo  3
  4. thành hệ  nếp uốn hẹp kéo dài, nhiều nơi có những nếp uốn đảo có mặt chúc  nghiêng về phía ĐB với góc dốc khoảng 450, thường có các đứt gãy hoặc các mạch  đá xâm nhập đi kèm. Xuyên lẫn khá chỉnh hợp theo mặt lớp của các đá kết tinh thuộc phức hệ Suối   Chiềng là các thể  gneis plagiogranit, diorit, granodiorit, granit kiểu thuộc tổ  hợp   tonalit­trondhjemit­granodiorit (TTG) được xếp vào phức hệ Ca Vịnh [Izokh, trong  Đovjikov và nnk., 1965]. Phức hệ Ca Vịnh có đặc điểm thạch hoá mang tính kiềm  vôi Na>K khá giàu Sr, Zr, đất hiếm nhóm nhẹ, nghèo Nb, Ta… xen lẫn trong móng  sẫm màu có đặc tính kiểu cung magma, liên quan với sự nóng chảy dạng tấm (slab   melting) trong đới hút chìm ở rìa TN địa khu Hoàng Liên Sơn. Orthogneis của phức hệ  Ca Vịnh theo đồng vị  Sm­Nd có tuổi mô hình TDM là  3,4­3,1 tỷ năm và tuổi chặn trên của U­Pb zircon là 2834, 2762, 2601, 2535 Tr.n.,  giá trị εNd (0) rất thấp, từ   ­43,1 đến ­29,6 tương ứng với các phức hệ Kongling và   Kangding ở rìa tây craton Yangtze [Lan et al., 2001], tuổi U­Pb (SHRIMP) zircon là  2936, 2362, 1964 và granit microlin của phức hệ  Xóm Giấu là 2264 Tr.n. [Trần  Ngọc Nam, 2001]; còn tuổi đơn khoáng cyrtolit là 1368 Tr.n., magnetit là 1717 Tr.n.  [Lê Đình Hữu, 1977] là những chứng cứ  vỏ  lục địa  ở  địa khu Hoàng Liên Sơn   được hình thành vào Meso­Neoarchei và bị  tái biến cải trong nhiều giai đoạn sau  đó.  4
  5. Hình 4.3. Sơ đồ địa chất vùng Hưng Khánh­Minh An thuộc á địa khu Phan Si Pan  Nguồn: Lê Mai Sơn và nnk., 2009 Giai đoạn hoạt động magma tiếp theo là các tiêm nhập metagabbro thuộc phức   hệ   Bảo   Hà   dưới   dạng   các   thể   nhỏ,   dạng   thấu   kính   có   tuổi   đồng   vị   Rb­Sr,   40 Ar/39Ar trong khoảng 1800­1700 Tr.n. [Trần Trọng Hoà, 1999], và thành phần  nguyên tố vết và đất hiếm có đặc trưng giữa các loạt mafic kiềm và kiềm­vôi có   thể   liên   quan   với   cơ   chế   tách   giãn   trên   rìa   lục   địa   tích   cực   trong   Paleo­ Mesoproterozoi. Về phía TB của địa khu các thể xâm nhập thuộc tổ hợp diorit­granodiorit­granit   migmatit được xếp vào phức hệ Po Sen lộ ra có dạng hình thoi, kiến trúc đồng tâm,   kéo dài theo phương TB­ĐN từ Bát Xát đến Văn Bàn, dài khoảng 80 km, nơi rộng   nhất đến 14 km, cắt qua đường Lào Cai­Sa Pa có tuổi đồng vị  U­Pb (SHRIMP)  zircon là 751 Tr.n., nhân zircon di sót có tuổi 1800 Tr.n. [Trần Ngọc Nam, 2003] và  TIMS là 760 Tr.n. [Wang  et al., 1999]. Phức hệ  granitoid Po Sen  ứng với kiểu I­ granit và một phần kiểu S­granit trong loạt kiềm­vôi thành tạo trong cung núi lửa  lục   địa   trên   đới   hút   chìm   Neoproterozoi,   có   thể   liên   quan   với   đại   dương   Mozambique chúi xuống rìa tây craton Yangtze phía nam tỉnh Sichuan (TN Trung  Quốc) trong giai đoạn từ 860 đến 740 Tr.n. [Zhou et al., 2006]. Ở  mút ĐN của khối Ca Vịnh, các đá biến chất phân đới dạng vòm, tuổi K/Ar   của biotit là 1027 Tr.n. đánh dấu cho giai đoạn cố kết vào cuối Mesoproterozoi­đầu  Neoproterozoi [Trần Văn Trị và nnk, 1977], liên quan tới quá trình hội nhập Rodinia.  Vòm   nhiệt­kiến   tạo   Thục   Luyện   hình   thành   trong   Mesozoi   có   rất   nhiều   thể  pegmatit chứa muscovit, beryl,… có tuổi K/Ar của muscovit là 206 Tr.n., liên quan   với hoạt động nội mảng. Phức hệ  lớp phủ  tái biến cải: Nằm không chỉnh hợp trên các đá móng kết  tinh Meso­Neoarchei của á địa khu Phan Si Pan là các dãy địa tầng­kiến tạo thềm   lục địa gồm đá phiến thạch anh­sericit­chlorit xen với quarzit  ở phần dưới và đá   vôi, dolomit tái kết tinh hoa hoá, nhiều nơi bị tremolit, talc hoá ở  phần trên, được   xếp vào loạt Sa Pa có tuổi Neoproterozoi­Cambri sớm, bề dày chung khoảng 800   m. Nằm chỉnh hợp giả với gián đoạn địa tầng nhỏ có sạn­cuội kết cơ sở nằm trên  đá hoa cổ  hơn, chuyển lên trầm tích lục nguyên­carbonat chứa phosphorit bị  biến   chất thành apatit thuộc hệ tầng Cam Đường tuổi Cambri sớm, có bề  dày khoảng   600 m, tạo thành bể apatit Lào Cai kéo dài từ Lũng Pô giáp Trung Quốc đến Làng   Lếch, Bảo Hà, dài trên 100 km, dọc hữu ngạn sông Hồng [Kalmưkov, 1970]. Với đặc trưng nhiều đá lục nguyên vụn thô, hỗn tạp nêu trên, các dãy trầm tích   này là sản phẩm của quá trình tạo núi Caledoni nằm chồng lấn kiểu bồi kết lục   địa lên rìa TN của địa khu Hoàng Liên Sơn. 5
  6. Tiếp trên là các đá lục nguyên hạt mịn và carbonat thuộc các hệ tầng Bó Hiềng   (S3­4), Sông Mua, Bản Nguồn (D 1), đá vôi Bản Páp (D1­2), đá vôi xen kẽ  đá phiến  silic Bản Cải (D3) và đá vôi Bắc Sơn (C­P2) có bề  dày chung trên 3000 m được  thành tạo trên thềm thụ đông. Các dãy địa tầng­kiến tạo Paleozoi này tạo thành hệ cấu trúc nghiêng vòng, lượn  theo hạ lưu sông Đà, kéo dài lên hữu ngạn sông Hồng về phía tây các tỉnh Phú Thọ,   Yên Bái, làm cho bình đồ  cấu trúc của á địa khu Phan Si Pan thay đổi rõ rệt. Dọc  theo hệ cấu trúc nghiêng vòng này, nhiều nếp uốn đảo, đứt gãy nghịch. Những hiện   tượng cấu trúc nếp uốn chờm nghịch, cà nát ở hạ lưu sông Đà nêu trên được một số  tác giả cho rằng do chuyển động địa di tạo ra [Deprat, 1914; Dussault, 1921].  4.1.1.2. Á địa khu Núi Con Voi  Á địa khu Núi Con Voi gồm các đá biến chất cao và siêu cao có dạng nêm kiến  tạo kiểu địa lũy có bề  rộng 10­18 km, kéo dài trên 250 km gần như  thẳng tắp,   nằm kẹp giữa hai địa hào Đệ  tam trên các đới đứt gãy Sông Chảy  ở  phía ĐB và   Sông Hồng phía TN. Các đá biến chất này được xếp vào loạt Sông Hồng [Đovjikov   và nnk., 1965]  gồm hai phức hệ Núi Con Voi nằm dưới và Ngòi Chi nằm trên [Trần Xuyên, 1988].  Các   đá   kết   tinh   của   loạt   Sông   Hồng   biến   chất   đến   phần   cao   của   tướng   amphibolit, có nơi đến tướng granulit [Hoàng Thái Sơn, 1998; Trần Tất Thắng,   2000].  Tuổi của các đá kết tinh của loạt Sông Hồng dựa vào mức độ  biến chất cao  được xếp giả  định vào Archei [Đovjikov  và nnk.,  1965; Hoàng Thái Sơn, 1998;  Trần Tất Thắng, 2000], nhưng các số  liệu tuổi đồng vị  U­Pb (TIMS) zircon là   838±45 Tr.n. và 30 Tr.n. [Lan et al., 2001], và tuổi U­Pb (SHRIMP) zircon là 800­ 900 Tr.n. và 29,3­42,5 Tr.n. [Trần Ngọc Nam, 2006] tương  ứng với các chu kỳ  Jinning ở Nam Trung Quốc và Himalaya ở Nam Á.  Ở phần kéo dài của địa khu Hoàng Liên Sơn sang Vân Nam (Trung Quốc) cũng  lộ  ra móng kết tinh được xếp vào loạt Ailaoshan có tuổi 1973­1958 Tr.n., loạt  Dahongshan có tuổi 1840 Tr.n. [China Geological Survey, 2004] bị  biến chất và   biến dạng chồng trong Permi, Trias, Eocen­Oligocen, Neogen, cũng như  các cấu  trúc   lớp   phủ   chờm   nghịch   (thrust­nappe),   biến   dạng   tách   rời   (detachment  deformation) có các đới dăm kết kiến tạo đi kèm diễn ra trong chu kỳ  tạo núi  Himalaya [Wang, 1996]. Vấn đề  động học cũng như  cự  ly dịch chuyển của đới   cắt trượt Sông Hồng vẫn còn nhiều tồn tại và sẽ  được trình bày ở  phần các đới  đứt gãy và biến dạng. 4.1.2.  Địa khu biến chất cao Phu Hoạt­Nậm Sư Lư Địa khu biến chất cao này phân bố ở Bắc Trung Bộ kéo qua Đông Bắc Lào đến   Tây Bắc Bộ  dài khoảng 300 km, theo hướng TB­ĐN dọc rìa nam đới khâu Sông   Mã, có thể  chia ra hai á địa khu là Bù Khạng và Nậm Sư  Lư. Đặc trưng của địa   khu này là một chuỗi khối nhô đều có các vòm biến chất tạo thành nhân của các  nếp lồi. 4.1.2.1. Á địa khu Bù Khạng  Á địa khu này có dạng một khối nhô phức nếp lồi kéo dài trên 100 km từ Nghĩa  Đàn, Quỳ  Hợp lên Quỳ  Châu, Kim Sơn (Nghệ  An), có các đỉnh núi Bù Khạng  6
  7. (1087 m) và Phu Hoạt (2452 m) kéo sang Sầm Tớ,  Mường Pơn (Sầm Nưa, Lào).  Theo cấu trúc hiện tại, ranh giới phía nam của á địa khu này tiến giáp với đới Sông  Cả qua các hệ đứt gãy Mường Lâm­Quỳ Hợp phương TB và phía đông, ĐB qua các   hệ đứt Sông Con và rift nội lục Mesozoi Sầm Nưa dọc các lưu vực sông Chu, Sông  Hiếu. Diện phân bố này gần trùng với “cánh cung Phu Hoạt” [Fromaget, 1941] hoặc   “đới dương Phu Hoạt” (Đovjikov và nnk, 1965), trong đó đại diện là các vòm biến  chất Bù Khạng, nam Kim Sơn, Sầm Tớ.   Vòm Bù Khạng chứa các đá plagiogneis, đá phiến thạch anh mica, amphibolit,  migmatit cấu tạo vi uốn nếp thể hiện rõ biến chất phân đới đồng tâm mà phức hệ  nhân biến chất gồm các đới từ  sillimanit  ở  trung tâm chuyển sang staurolit­disthen,  almandin   và   biotit   ở   vòng   ngoài   được   xếp   vào   hệ   tầng   Bù   Khạng   tuổi   Meso­ Neoprotezoi, có bề dày trên 4500 m. Nằm không chỉnh hợp giả định trên là hệ tầng   Suối Mai tuổi Neoproterozoi­Cambri sớm, gồm quarzit xen đá phiến biotit­chlorit­ graphit, đá phiến silic, đá hoa có dạng nhịp với bề dày chung là 3500 m [Lê Duy Bách,  1969; Phan Trường Thị và nnk., 1970]. Nghiên cứu tuổi đồng vị U­Pb (SHRIMP) của zircon trong gneis ở đới cắt trượt   vùng biên giới vòm Bù Khạng cho tuổi 244±7 Tr.n. thuộc giai đoạn nhiệt­kiến tạo   Indosini và thường gặp các tuổi từ 600 đến 2541±69 Tr.n Rìa TN á địa khu Bù Khạng là các trầm tích Ordovic­Silur chứa nhiều Bút đá,  trầm tích Devon, Carbon­Permi thuộc đới Sông Cả thường là tiếp xúc kiến tạo với  các đá biến chất nêu trên và rìa đông bắc là trầm tích lục nguyên­carbonat, cũng   như đá núi lửa ryolit­dacit Trias trung thuộc rift nội lục phủ chờm lên trên. Hoạt động magma trong á địa khu Bù Khạng diễn ra theo nhiều giai  đoạn,  chồng chéo phức tạp. Phổ  biến hơn cả  là các thể  lớn, granodiorit, granit gneis  dạng  mắt  xuyên vào nhân  vòm Bù  Khạng,  Nam  Kim  Sơn  được  xếp vào tuổi   Carbon sớm theo tuổi K/Ar biotit là 285 Tr.n. [Nguyễn Xuân Tùng, trong Trần Văn   Trị  và nnk., 1977] sau đó lại xếp vào tuổi trước Devon so sánh với phức hệ  Đại   Lộc ở phía TB tỉnh Quảng Nam [Lê Duy Bách, Nguyễn Văn Hoành và nnk., 1996]. Ngoài ra, các thể granosyenit, granit biotit dạng porphyr được xếp vào phức hệ  Sông Chu­Bản Chiềng có tuổi K/Ar của biotit dao động trong khoảng 29­41 Tr.n.,   được xếp vào Paleogen [Izokh, trong Đovjikov và nnk., 1965] và theo U­Pb zircon  TIMS là 30 Tr.n. [Bùi Minh Tâm và nnk., 2008] xuyên cắt các đá granit gneis ở vùng  Quế Phong, tây Nghệ An. Về  cấu trúc, vòm Bù khạng gồm các đá biến chất có phương biến dạng dẻo  theo vòng đồng tâm hình ovan có trục dài > 25 km theo hướng TB­ĐN, trục ngắn   ≈  15 km gần như  nằm ngang  ở  vùng đỉnh vòm và dốc thoải ra các cánh xung  quanh, mà phần nam tiếp xúc với các đứt gãy chờm nghịch. Quá trình căng giãn và  nâng trồi với áp suất cao của vòm gneis Bù Khạng diễn ra vào Oligocen­Miocen,   xác định qua các tuổi  40Ar­39Ar của mica trong granit có từ  36 đến 21 Tr.n..  Kết  thúc biến dạng dẻo liên quan với chế độ động học của các đới cắt trượt bằng trái  Sông Hồng, Sông Cả  kèm theo chuyển động quay với sự  di chuyển của các khối  Kon Tum và Biển Đông, gây ra sự trượt bằng phải giữa chúng [Jolivet et al., 1999]. 4.1.2.2. Á địa khu Nậm Sư Lư  7
  8. Phần tây bắc của địa khu Phu Hoạt­Nậm Sư  Lư  nhiều nơi bị  các trầm tích  Paleozoi che phủ còn lộ ra một vòm đá biến chất khoảng 129 km2 dưới dạng tách  biệt ở vùng Nậm Sư Lư, cách Tp Điện Biên khoảng 30 km về phía ĐN, gọi tắt là  vòm Nậm Sư Lư. Vòm Nậm Sư  Lư  có nhiều mặt cắt lộ  tốt như  Pá Vạt­Huổi Tóng, Huổi Xa,   Nậm Sư  Lư  gồm đá phiến hai mica­granat­fibrolit, amphibolit phân dải trong đá   phiến thạch anh mica, quarzit chứa mica­granat có bề  dày khoảng 1800 m và các   thể nhỏ gabbro, amphibolit đi cùng, được xếp chung vào Proterozoi [Nguyễn Văn  Truật  và nnk., 1988] có tuổi K/Ar của amphibol trong plagiogneis là 1300 Tr.n.   [Nguyễn Ngọc Liên, trong Nguyễn Xuân Tùng và nnk, 1992]. Các hệ  tầng Nậm Sư  Lư, Nậm Cô được xếp chung vào các đá biến chất đới  khâu Sông Mã, trong đó hệ tầng Nậm Sư Lư biến chất cao hơn, gồm chủ yếu là   amphibolit, granulit Cpx­Grt áp xuất cao,  ứng với 920 0C/2,0 Gpa, monazit trong  gneis biotit­sillimanit­granat có tuổi U­Th­Pb là 1396±13 Tr.n. và monazit trong  gneis pelit, amphibolit granat có tuổi trung bình là 233±5 Tr.n. [Nakano et al., 2008].  Đới khâu Sông Mã là một phần của đới va chạm lục địa giữa hai craton Đông  Dương và Việt­Trung (Hoa Nam) trong đai tạo núi Xuyên Việt Nam có tuổi biến  chất Permi­Trias (270­230 Tr.n.), mà cực điểm vào 250 Tr.n. [Osanai et al., 2008];  có lẽ đây là giai đoạn nhiệt­kiến tạo tái hoạt động sẽ đề cập ở phần sau. 4.1.3.   Địa   khu   biến   chất   cao   Kon   Tum  (Kontum   high­grade   metamorphic   terrane) Ở  Trung Trung bô Viêt Nam, phong ch ̣ ̣ ̉ ưng năm kep gi ̀ ̣ ưa cac vi tuyên 13O ̃ ́ ̃ ́   ́ ̀ ̣ va 16O, cac nha đia chât Phap lân đâu tiên mô ta cac gneis va đa phiên kêt tinh, ̀ ́ ́ ̀ ̀ ̉ ́ ̀ ́ ́ ́   được xêp vao Archei va Proterozoi. Ho goi đây la mom nhô Kontum – n ́ ̀ ̀ ̣ ̣ ́ ̀ ̉ ơi trôi lô ̀ ̣  ́ ̀ ̉ ̣ mong Tiên –Cambri cua đia khôi Indosinia. Tuy nhiên cac kêt qua nghiên c ́ ́ ́ ̉ ứu gân ̀  ́ ̣ ̣ đây cho thây hoat đông biên chât cao vao cuôi Ordovic gi ́ ́ ̀ ́ ưa đa tac đông manh me ̃ ̃ ́ ̣ ̣ ̃  ̀ ̣ ̀ lên toan bô vung nay, bao gôm ca cac thanh tao đia chât Paleozoi ha. Vi vây, t ̀ ̀ ̉ ́ ̀ ̣ ̣ ́ ̣ ̀ ̣ ừ nay  ̀ ̣ ̣ ̀ ̣ đê nghi goi đây la đia khu biên chât cao Kontum, bao gôm cac thanh tao Proterozoi ́ ́ ̀ ́ ̀ ̣   ̣ ha, trung  ở  phân trung tâm va đia khu bôi kêt Paleozoi ha  ̀ ̀ ̣ ̀ ́ ̣ ở riêm ngoai phia băc va ̀ ̀ ́ ́ ̀  phia tây. ́ Kê t ̉ ừ Ordovic muôn tr ̣ ở  đi, đia khu biên chât cao Kontum đa trai qua nhiêu ̣ ́ ́ ̃ ̉ ̀  ̀ ̣ ̉ ̣ lân bi cai tao sâu săc b ́ ởi cac hoat đông magma, biên chât, biên vi rât đa dang. Đăc ́ ̣ ̣ ́ ́ ́ ̣ ́ ̣ ̣   ̣ biêt, trong biên cô khu v ́ ́ ực xây ra vao Permi muôn – Trias s ̉ ̀ ̣ ơm, cung v ́ ̀ ơi s ́ ự xâm  ̣ ̣ ̉ ̉ nhâp râm rô cua cac thê granit nguôn gôc vo, đa phat triên cac tr ̀ ́ ̀ ́ ̉ ̃ ́ ̉ ́ ương biên chât khu ̀ ́ ́   vực chông lên, cuc bô đên t ̀ ̣ ̣ ́ ương granulit v ́ ơi cac xâm nhâp charnokit đi kem. Do ́ ́ ̣ ̀   ̣ đo, hoat đông biên chât  ́ ̣ ́ ́ ở  đia khu Kotum co đăc tr ̣ ́ ̣ ưng đa ky va đa t ̀ ̀ ướng chông ̀   cheo ph ́ ưc tap v ́ ̣ ơi hai ky trong Permi muôn – Trias s ́ ̀ ̣ ơm va Ordovic muôn biêu hiên ́ ̀ ̣ ̉ ̣   cực ky manh liêt, lam xoa dâu vêt cac hoat đông cô x ̀ ̃ ̣ ̀ ́ ́ ́ ́ ̣ ̣ ̉ ưa trong Proterozoi. ̣ Đia khu biên chât cao Kontum bao gôm cac a đia khu đia tâng – kiên tao ́ ́ ̀ ́ ́ ̣ ̣ ̀ ́ ̣   (tectono­stratigraphic subteranes) sau đây: 4.1.3.1.  A đia khu Ngoc Linh ́ ̣ ̣ Đây la vung trôi lô cua ph ̀ ̀ ̀ ̣ ̉ ưc hê biên chât Ngoc Linh đ ́ ̣ ́ ́ ̣ ược xêp tam vaó ̣ ̀  ̣ ̣ Proterozoi ha, phân bô trên đia phân cac tinh Quang Ngai, Kon Tum va Gia Lai. ́ ̣ ́ ̉ ̉ ̃ ̀   Phưc hê gôm ba loat đa ( ́ ̣ ̀ ̣ ́ rock­group): amphibolit đi kem v ̀ ơi gabro­amphibolit Cheo ́   8
  9. Reo  ở  phân d ̀ ươi, gneis amphibol Sông Re  ́ ở  phân gi ̀ ưa va gneis biotit Ba Điên  ̃ ̀ ̀ ở  phân trên. Toan bô ph ̀ ̀ ̣ ức hê Ngoc Linh bi biên chât chu yêu  ̣ ̣ ̣ ́ ́ ̉ ́ ở  tướng amphibolit,   nhưng rai rac co cac diên lô nho đa granulit. Hoat đông siêu biên chât phô biên va ̉ ́ ́ ́ ̣ ̣ ̉ ́ ̣ ̣ ́ ́ ̉ ́ ̀  manh liêt, tao nên cac tr ̃ ̣ ̣ ́ ương granit­migmatit dang vom, trong đo co ba khôi l ̀ ̣ ̀ ́ ́ ́ ớn là  Ta Ma, Ha Gia va Thach Nham đêu  ̀ ̀ ́ ̀ ̣ ̀ ở  Tây Quang Ngai. Tuôi đông vi U­Pb trên ̉ ̃ ̉ ̀ ̣   zircon cua chung  ̉ ́ ưng vao Ordovic muôn. Đây cung la tuôi biên chât ro nhât cua ́ ̀ ̣ ́ ̃ ̀ ̉ ́ ́ ̃ ́ ̉   phân l ̀ ơn phia đông a đia khu nay. Riêng phân nho phia tây trên đia ban tinh Kon ́ ́ ́ ̣ ̀ ̀ ̉ ́ ̣ ̀ ̉   ̣ ̣ Tum, hoat đông biên chât cao biêu hiên ro nhât vao Permi muôn – Trias s ́ ́ ̉ ̣ ̃ ́ ̀ ̣ ơm v ́ ơí  ̉ ̣ tuôi đông vi (Sm­Nd) 240 ±2 triêu năm cua đa granulit  ̀ ̣ ̉ ́ ở đeo Măng R ̀ ơi. Phưc hê biên chât Ngoc Linh bi cac thê t ́ ̣ ́ ́ ̣ ̣ ́ ̉ ường gabro­amphibolit phưc hê Phu ́ ̣ ̀  ̃ ́ ̉ My co tuôi Neoproterozoi gi ưa xuyên qua. Tuôi cac nhân zircon di sot trong cac đa ̃ ̉ ́ ́ ́ ́  phưc hê Ngoc Linh la 1455, 2541 triêu năm. H ́ ̣ ̣ ̀ ̣ ơn nưa, tuôi T ̃ ̉ DM cac đa biên chât nay ́ ́ ́ ́ ̀  theo Lan va nnk [2001] co gia tri 2400 triêu năm. Do đo, hiên tam xêp ph ̀ ́ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ưc hê Ngoc ́ ̣ ̣   Linh vao Proterozoi ha va đôi sanh no v ̀ ̣ ̀ ́ ́ ́ ơi mong kêt tinh cung tuôi (1,7 ty năm) cua ́ ́ ́ ̀ ̉ ̉ ̉   khôi Cathaysia  ́ ở Đông Nam Trung Quôc. ́  4.1.3.2. A đia khu Kan Nack – Sông Biên ́ ̣ ́ ̣ A đia khu nay phân bô  ̀ ́ở trung tâm phia đông đia khu biên chât cao Kontum ́ ̣ ́ ́   ̣ ̀ ́ ̉ trên đia ban cac tinh Gia Lai, Binh Đinh va năm kep gi ̀ ̣ ̀ ̀ ̣ ưa cac đ ̃ ́ ứt gay Ba T ̃ ơ ở phiá   băc va Sông Ba  ́ ̀ ở phia nam. Đăc tr ́ ̣ ưng cua a đia khu la s ̉ ́ ̣ ̀ ự phân bô phô biên cac đa ́ ̉ ́ ́ ́  biên chât cao nhiêt t ́ ́ ̣ ương granulit t ́ ừ cac đa nguyên thuy la luc nguyên – carbonat va ́ ́ ̉ ̀ ̣ ̀  ́ ́ ̣ cac câu tao uôn nêp t ́ ́ ương đôi rông va thoai. Cac kêt qua nghiên c ́ ̣ ̀ ̉ ́ ́ ̉ ứu tuôi đông vi ̉ ̀ ̣  ́ ̉ cho biêt tuôi biên chât cua khu v ́ ́ ̉ ực Sông Biên (Binh Đinh)  ̀ ̣ ở phia đông a đia khu co ́ ́ ̣ ́  ̉ tuôi Ordovic, con cua khu v ̀ ̉ ực Kan Nack (Gia Lai)  ở phia tây a đia khu nay lai co ́ ́ ̣ ̀ ̣ ́  ̉ tuôi Permi muôn – Trias s ̣ ơm. Trong s ́ ự kiên biên chât kê sau  ̣ ́ ́ ̀ ở trương granulit Kan ̀   Nack dương nh ̀ ư co s ́ ự bô sung magma d ̉ ươi mang ( ́ ̉ magmatic underplating), khiêń   ̣ tao ra nguôn nhiêt cao va s ̀ ̣ ̀ ự xuât hiên cac xâm nhâp “magma khô”: gabronorit Kon ́ ̣ ́ ̣   Kbang, charnokit Sông Ba va granit­gneis Plei Manko đêu co tuôi đông vi trong ̀ ̀ ́ ̉ ̀ ̣   ̉ khoang xâp xi 250 triêu năm. ́ ̉ ̣ Cać   thanh ̀   taọ   granulit   ở   á  điạ   khu   naỳ   cung ̃   bị   cać   thể   tường   gabro­ amphibolit phưc hê Phu My xuyên qua. Kêt qua xac đinh tuôi đông vi U­Pb nhiêu ́ ̣ ̀ ̃ ́ ̉ ́ ̣ ̉ ̀ ̣ ̀  mâu đa  ̃ ́ở  ca hai khu v ̉ ực Sông Biên va Kan Nack đêu thu đ ̀ ̀ ược gia tri xâp xi 1400 ́ ̣ ́ ̉   triêu năm đôi v ̣ ́ ơi cac nhân zircon hoăc tuôi chăn trên. Do vây, hiên tam xêp tuôi cac ́ ́ ̣ ̉ ̣ ̣ ̣ ̣ ́ ̉ ́  đa nguyên thuy  ́ ̉ ở a đia khu nay vao Proterozoi gi ́ ̣ ̀ ̀ ưa va đôi sanh chung v ̃ ̀ ́ ́ ́ ơi ph ́ ưc hê ́ ̣  biên chât Baoban cua đao Hai Nam, Trung Quôc. Vê bôi canh kiên tao, tô h ́ ́ ̉ ̉ ̉ ́ ̀ ́ ̉ ́ ̣ ̉ ợp cac đa ́ ́  ̣ luc nguyên – carbonat cua thanh tao nguyên thuy nay co thê đ ̉ ̀ ̣ ̉ ̀ ́ ̉ ược xem la l ̀ ơp phu ́ ̉  ̣ dang nên trên mong uôn nêp Proterozoi ha. ̀ ́ ́ ́ ̣ 4.1.3.3. A đia khu Nam – Ngai (Hiêp Đ ́ ̣ ̃ ̣ ưc – Sa Thây) ́ ̀ ́ ̣ A đia khu nay phân bô  ̀ ́ ở  ria phia băc va phia tây đia khu biên chât cao ̀ ́ ́ ̀ ́ ̣ ́ ́   Kontum. Đây thực chât la môt đia khu bôi kêt ( ́ ̀ ̣ ̣ ̀ ́ accreted terrane) hay la môt đai tao ̀ ̣ ̣   nui ( ́ orogenic belt) Paleozoi sơm (hay Caledon s ́ ơm) do môt cung đao đai d ́ ̣ ̉ ̣ ương va  cham va găn kêt v ̣ ̀ ́ ́ ới a đia khu Ngoc Linh vao Ordovic gi ́ ̣ ̣ ̀ ưa. S ̃ ự va cham va khâu nôi ̣ ̀ ́  ́ ̣ nay đa diên ra kha manh, khiên cho hâu hêt đai tao nui nay, ma ban thân co môt bô ̀ ̃ ̃ ́ ̀ ́ ̣ ́ ̀ ̀ ̉ ́ ̣ ̣  ̣ phân vôn la lăng tru bôi kêt ( ́ ̀ ̣ ̀ ́ accretionary prism) bi dâp v ̣ ̣ ỡ va biên vi sâu săc đê tr ̀ ́ ̣ ́ ̉ ở  thanh môt thê xao trôn kiên tao ( ̀ ̣ ̉ ́ ̣ ́ ̣ tectonic melange) không lô. Do chiu tac đông biên ̉ ̀ ̣ ́ ̣ ́  ̣ ̉ vi cua cac ky kiên sinh muôn h ́ ̀ ́ ̣ ơn nên đai tao nui nay bi uôn cong va be gâp lai thanh ̣ ́ ̀ ̣ ́ ̀ ̉ ̣ ̣ ̀   9
  10. hai nhanh: (a) nhanh Hiêp Đ ́ ́ ̣ ức phương a vi tuyên phân bô trên đia phân Nam Quang ́ ̃ ́ ́ ̣ ̣ ̉   Nam va Băc Quang Ngai, tiêp giap vê phia băc v ̀ ́ ̉ ̃ ́ ́ ̀ ́ ́ ới nhanh Đa Năng cua đai tao nui ́ ̀ ̃ ̉ ̣ ́  ̣ Caledon muôn Đa Năng – Sekong qua vong chông Mesozoi Sông Bung va (b) nhanh ̀ ̃ ̃ ̀ ̀ ́   Sa Thây ph ̀ ương a kinh tuyên, phân bô trên đia phân Tây Nam Quang Nam va Tây ́ ́ ́ ̣ ̣ ̉ ̀   Kon Tum; tiêp giap vê phia tây v ́ ́ ̀ ́ ới nhanh Sekong cua đai tao nui Caledon muôn noi ́ ̉ ̣ ́ ̣ ́  ̉ ́ ̣ trên. Trong thê xao trôn cua a đia khu nay co cac yêu tô tham gia sau đây: ̉ ́ ̣ ̀ ́ ́ ́ ́ 1. Khôi đa metapelit ́ ́   bi đ ̣ ưt tach ra khoi mong Proterozoi ha cua a đia khu ́ ́ ̉ ́ ̣ ̉ ́ ̣   ̣ Ngoc Linh phân bô  ́ở me đông nam Khâm Đ ́ ưc. Co thê coi đo la môt vi đia khu “s ́ ́ ̉ ́ ̀ ̣ ̣ ở  ̣ “native” icroterrane). tai” ( 2. Tô h ̉ ợp thach – kiên tao (THTKT) ria luc đia thu đông Pt ̣ ́ ̣ ̀ ̣ ̣ ̣ ̣ 3­O2 Khâm Đưc ́  vôn  ́ ở  ven ria a đia khu Ngoc Linh, bao gôm cac đa metabasalt va metagabro cao ̀ ́ ̣ ̣ ̀ ́ ́ ̀   titan   loaṭ   tholeit,   cać   đá  luc̣   nguyên  và  carbonat   biên  ́ chât  ́ co ́ chưá   cać   sưu  tâp ̣   Acritarcha co tuôi Pt ́ ̉ 3­O. 3. THTKT cung đao đai d ̉ ̣ ương Ordovic sơm – gi ́ ưa Nui Vu ̃ ́ ́ bao gôm cac đa ̀ ́ ́  xâm nhâp va nui l ̣ ̀ ́ ửa chu yêu mafic va trung tinh bi biên chât, trong đo co cac đa ̉ ́ ̀ ́ ̣ ́ ́ ́ ́ ́ ́  thuôc̣   loaṭ   thach ̣   hoá   boninit   (cao   Mg   –   thâp ́   Ti)   ở   đới   trên   chuć   chim ̀   (suprasubduction zone). Môt sô kêt qua xac đinh tuôi đông vi U­Pb/zircon cac đa ̣ ́ ́ ̉ ́ ̣ ̉ ̀ ̣ ́ ́  diorit va plagiogranit  ̀ ở Quê S ́ ơn va Quê Tho gân Hiêp Đ ̀ ́ ̣ ̀ ̣ ức cho gia tri xâp xi 475 ́ ̣ ́ ̉   triêu năm.̣ 4. THTKT ophiolit va nêm bôi kêt Hiêp Đ ̀ ̀ ́ ̣ ức  bao gôm cac thê đa peridotit­ ̀ ́ ̉ ́ serpentinit,   metagabro,   metabasalt;   cać   đá  metachert   và  metacarbonat   là  vỏ   đaị   dương Pt3­O2. Sưu tâp Acritarcha t ̣ ừ môt khôi đa hoa ̣ ́ ́ ở  chân câu Ba Huynh gân ̀ ̀ ̀ ̀  Hiêp Đ ̣ ưc cho khoang tuôi nay. Rai rac găp cac đa phiên trăng la san phâm biên chât ́ ̉ ̉ ̀ ̉ ́ ̣ ́ ́ ́ ́ ̀ ̉ ̉ ́ ́  cao ap, thâp nhiêt  ́ ́ ̣ ở đới chuc chim. ́ ̀ 5. THTKT va cham Ordovic gi ̣ ưa – muôn ̃ ̣   gôm cac san phâm biên chât khu ̀ ́ ̉ ̉ ́ ́   vực   đa   tương, ́   cać   trương ̀   siêu   biên ́   chât́   và  nong ́   chay ̉   vo ̉ vơí   cać   granit­gneis   ̉ ́ ̣ migmatit. Rai rac găp cac diên lô nho đa biên chât t ́ ̣ ̣ ̉ ́ ́ ́ ướng granulit va ca charnokit. ̀ ̉   ̣ ̣ Hoat đông biên chât khu v ́ ́ ực cao nhiêt va nong chay vo kem theo nay la hê qua tr ̣ ̀ ́ ̉ ̉ ̀ ̀ ̀ ̣ ̉ ực  ́ ̉ tiêp cua va cham gi ̣ ưa cung đao Nui Vu vao khôi luc đia Ngoc Linh – Kan Nack vao ̃ ̉ ́ ́ ̀ ́ ̣ ̣ ̣ ̀  cuôi Ordovic gi ́ ưa – đâu Ordovic muôn, đa tac đông lan truyên đê tao ra đia khu biên ̃ ̀ ̣ ̃ ́ ̣ ̉ ̉ ̣ ̣ ́  chât Kontum.́ Ngoai ra, trong THTKT va cham nay con phai kê đên cac thanh tao trâm tich ̀ ̣ ̀ ̀ ̉ ̉ ́ ́ ̀ ̣ ̀ ́   ̣ ̃ ̉ vun thô đa đô xuông cac bôn tiên x ́ ́ ̀ ̀ ứ va đia hao gi ̀ ̣ ̀ ữa nui, đ ́ ược mô ta la cac tâp cuôi ̉ ̀ ́ ̣ ̣  kêt – cat kêt c ́ ́ ́ ơ sở kha day cua hê tâng Long Đai  ́ ̀ ̉ ̣ ̀ ̣ ở Suôi Cat, Mo Rai, Hon Kem va ́ ́ ̀ ̃ ̀  A Lươi tuôi Ordovic muôn – Silur, phân bô  ́ ̉ ̣ ́ở riêm đia khu Kontum. ̀ ̣ 4.1.3.4. Cac biêu hiên biên cai sau tao nui Ordovic trên đia khu Kontum ́ ̉ ̣ ́ ̉ ̣ ́ ̣ ̀ ̣ La môt khôi co diên tich không ĺ ́ ̣ ́ ơn va lai năm gi ́ ̀ ̣ ̀ ữa miên tao nui đa ky, đia ̀ ̣ ́ ̀ ̣   khu Kontum đa nhiêu lân bi tac đông b ̃ ̀ ̀ ̣ ́ ̣ ởi cac chuyên đông kiên tao khu v ́ ̉ ̣ ́ ̣ ực vơi cac ́ ́  ̉ ̣ ̣ ̉ biêu hiên đa dang cua cac hoat đông magma, tao bôn trâm tich, biên chât va biên ́ ̣ ̣ ̣ ̀ ̀ ́ ́ ́ ̀ ́  ̣ dang co tinh chông gôi, hoat hoa hoăc th ́ ́ ̀ ́ ̣ ́ ̣ ừa kê. Cac THTKT đo bao gôm: ́ ́ ́ ̀ 1. THTKT cung magma ria luc đia tich c ̀ ̣ ̣ ́ ực Silur  la cac xâm nhâp granitoid vôi– ̀ ́ ̣ kiêm ph ̀ ưc hê Tra Bông – Diên Binh. ́ ̣ ̀ ̀ ̀ ̣ 2. THTKT tao nui va cham Silur muôn – Devon s ́ ̣ ̣ ơm ́  la cac xâm nhâp granit­gneis ̀ ́ ̣   ̀ ́ ̉ ́ ưc hê Ea Dui va Đai Lôc. nguôn gôc vo cac ph ́ ̣ ̀ ̣ ̣ 10
  11. 3. THTKT cung magma ria luc đia tich c ̀ ̣ ̣ ́ ực Carbon muôn – Permi gi ̣ ưã  gôm đa ̀ ́  ́ ửa chu yêu la andesit cac hê tâng Ch nui l ̉ ́ ̀ ́ ̣ ̀ ư Prong, A Lin va cac xâm n hâp granitoid ̀ ́ ̣   vôi–kiêm ph ̀ ưc hê Bên Giăng – Quê S ́ ̣ ́ ̀ ́ ơn. ̣ 4. THTKT tao nui va cham Permi muôn – Trias s ́ ̣ ̣ ơm ́   bao gôm cac xâm nhâp ̀ ́ ̣   ̀ ́ ̉ ́ ưa kim loai hiêm (Sn­W­Li) cac ph nguôn gôc vo co ch ́ ̣ ́ ́ ưc hê Hai Vân va Dôc Nang, ́ ̣ ̉ ̀ ́ ̀   ́ ̉ ̉ cac san phâm biên chât đa t ́ ́ ương bao gôm ph ́ ̀ ưc hê granulit Kan Nack va cac xâm ́ ̣ ̀ ́   ̣ nhâp magma khô đi kem. ̀ ̣ ́ ̣ 5. THTKT tao nui muôn (late­orogenic) Trias gi ưã  bao gôm cac trung trâm tich ̀ ́ ̃ ̀ ́   ̣ ̀ ́ ́ ửa ryolit hê tâng Mang Yang, cac xâm nhâp granit vôi–kiêm cao kali vun va đa nui l ̣ ̀ ́ ̣ ̀   phưc hê Vân Canh. ́ ̣ ̉ 6. THTKT điêu chinh (hay phuc hôi) sau va c ham ̀ ̣ ̀ ̣  (post­collosional readjustment   ̉ (or restoration)) tuôi Trias muôn – Jura s ̣ ơḿ , bao g ôm: ̀ ­ Tô h ̉ ợp magma lương th ̃ ưc phi tao nui ( ́ ̣ ́ anorogenic bimodal magmatic) T3 gôm ̀   cac đa gabro kiêm, monzogabro, monzodi orit, lamprophyr, lamproit ph ́ ́ ̀ ưc hê Tra ́ ̣ ̀  Phong va cac đa granosyenit ph ̀ ́ ́ ưc hê Măng Xim. ́ ̣ ­ Tô h ̉ ợp cac trâm tich hat vun trong  cac bôn trung nôi luc T ́ ̀ ́ ̣ ̣ ́ ̀ ̃ ̣ ̣ 3­J2 ở Đăk Selo, Binh ̀   Sơn va Ca Lui. ̀ ̀ ́ ́ ̉ 7. THTKT co thê liên quan đên ch ́ ơm – vay va uôn nêp sau cung ̀ ̉ ̀ ́ ́  (may have been   related to back­arc thrusting and folding) tuôi J ̉ 3­K bao gôm cac khôi  granit nguôn ̀ ́ ́ ̀  ́ ̉ ở Binh S gôc vo  ̀ ơn va Đăk Selo. ̀ 8. THTKT cung ria luc đia tich c̀ ̣ ̣ ́ ực Creta  bao gôm  cac xâm nhâp granitoid vôi– ̀ ́ ̣ kiêm phân bô  ̀ ́ở Binh Đinh va Phu Yên. ̀ ̣ ̀ ́ 9. THTKT nâng vom – khôi tang ̀ ́ ̉   do nâng trôi quyên mêm va căng mang thach ̀ ̉ ̀ ̀ ̉ ̣   quyên  ̉ (block­doming   due   to   asthenosphere   upwelling   and  lithosphere   stretching)  ̣ Kainozoi muôn    bao gôm cac l ̀ ́ ơp phu basalt va cac trâm tich luc đia cac hê tâng ́ ̉ ̀ ́ ̀ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ̀   Sông Ba va Kontum.̀ 4.2. HỆ TẠO NÚI ĐA KỲ NEOPROTEROZOI-PALEOZOI SỚM VIỆT-TRUNG Phân hệ tạo núi đa kỳ này nằm ở phía bắc đới khâu Sông Mã, chiếm phần lớn   diện tích Bắc Bộ  và Nam Trung Quốc. Sự  va chạm, hội nhập giữa hai craton   Yangtze và Cathaysia vào Neoproterozoi, mà ở Trung Quốc gọi là tạo núi Jinning, và  tái biến cải mạnh trong bối cảnh nội lục Paleozoi sớm  [Guo et al., 1989; Jen, 1996;  Charvet, 1996]  đã tạo nên địa khu liên hợp Việt­Trung. Trong phạm vi Bắc Bộ,  ngoài địa khu biến chất cao Hoàng Liên Sơn đã trình bày  ở  phần trên, còn có các  vòm biến chất Sông Chảy, Chiêm Hoá, hoặc đới biến chất Sông Mã, Nậm Cô bị tái  động viên, lôi cuốn vào các đai tạo núi nội lục Đông Bắc Bộ  và Tây Bắc Bộ  sẽ  được mô tả chung với từng đơn vị kiến tạo tương ứng. Nằm chồng lên các đai tạo  núi này là các trũng nội lục Permi muộn­Mesozoi như Sông Đà­Tú Lệ, Sông Hiến­ An Châu và các trũng lục địa Kainozoi. 4.2.1. Đai tạo núi nội lục Paleozoi sớm Đông Bắc Bộ Đai tạo núi này phát triển trên vỏ lục địa Neoproterozoi phân bố ở phía bắc địa  khu Hoàng Liên Sơn  có thể chia ra các đới Tây Việt Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ.  11
  12. 4.2.1.1. Đới Tây Việt Bắc Đới Tây Việt Bắc nằm giữa 2 đới đứt gãy Sông Chảy và Sông Đáy, gồm cả  đới Sông Lô và phần bắc đới Sông Hiến theo phân chia của Đovjikov  và nnk.  [1965], có các tổ  hợp thạch­kiến tạo rìa lục địa thụ  động lục nguyên­carbonat  Neoproterozoi thượng­Ordovic và Devon­Permi.   Đới Tây Việt Bắc  có thể  chia   thành 2 phụ  đới: phụ đới Sông Lô  ở  phía tây, chủ  yếu là trầm tích Neoproterozoi   thượng­Ordovic hạ; và phụ đới Sông Gâm ở phía đông, gồm các trầm tích Cambri­ Ordovic hạ, Devon­Permi với hoạt động magma nhiều thế hệ đa dạng hơn. 1. Phụ  đới Sông Lô: được giới hạn ở phía TN bởi đới đứt gãy Sông Chảy và  phía ĐN bởi các đới đứt gãy Sông Lô, Bắc Quang­Nà Sài và Hà Giang­Nà Hang,  trong đó vòm biến chất Sông Chảy chiếm phần trung tâm. Vòm biến chất Sông Chảy (gọi tắt là vòm Sông Chảy) có dạng ovan lệch,  chiếm một diện tích rất lớn, khoảng 3400 km2, phía đông giáp thị xã Hà Giang, Vị  Xuyên, phía nam giáp Việt Quang, Nghĩa Đô, phía tây giáp Xín Mần, phía bắc còn  kéo sang vùng Dulong, Laojunshan, Vân Nam (Trung Quốc), có địa hình là các dãy  núi cao, trong đó có các đỉnh cao nhất của Đông Bắc Bộ  như  Tây Côn Lĩnh, cao   2427 m ở phía đông, và các đỉnh Kiều Liên Ty 2144 m, Sán Bờ Ngài 1856 m ở phía  tây. ­ Tổ hợp thạch­kiến tạo biến chất cao Meso­Neoproterozoi tạo thành phức hệ  đá móng của vòm lộ ra chủ  yếu dưới dạng các thể  tù kích thước thay đổi từ  một   vài đến vài trăm mét, bị biến dạng mạnh mẽ làm cho thế nằm của chúng xoay song  song với phương của các đá trẻ  hơn vây quanh. Phức hệ  móng gồm đá phiến hai   mica, plagio­amphibolit, plagiogneis biotit, migmatit quarzit bị sừng hoá, lộ ra nhiều  nơi  ở phần nhân vùng Hoàng Su Phì, cũng như  các phần cánh xung quanh. Các đá   kết tinh này chứa những hạt zircon di sót tròn cạnh, có tuổi  207Pb/206Pb là 2652, 2452,  2050 Tr.n. [Nguyễn Xuân Tùng và nnk, 1992] và bị các thể orthogneis chứa zircon có  tuổi 207Pb/206Pb là 1000, 980 Tr.n., cũng như  granit hai mica dạng gneis có tuổi 625  Tr.n. xuyên cắt chỉnh hợp [Nguyễn Khắc Vinh, 1982], chứng tỏ đá móng có tuổi  Meso­Neoproterozoi sớm. Phần kéo dài của vòm Sông Chảy sang Vân Nam (Trung Quốc) cũng ghi nhận   được các tuổi đồng vị U­Pb zircon (SHRIMP) trong orthogneis là 829 và 761 Tr.n.  [Liu et al, 2006] và 799 Tr.n., được cho là tuổi kết tinh của đá magma nguyên thủy   liên quan với cung của đai tạo núi Jiangnan vào Neoproterozoi do sự va chạm gắn   kết giữa các khối Yangtze và Cathaysia tạo thành mảng Hoa Nam là một phần của   siêu lục địa Rodinia [Yan  et al., 2006; Li  et al., 2008]. Những chứng cứ  nói trên  chứng tỏ  là phức hệ  nhân biến chất Sông Chảy đã trải qua các giai đoạn nhiệt­ kiến tạo trong khoảng Meso­Neoproterozoi sớm.   ­   Tổ   hợp   thạch­kiến   tạo   thềm   lục   địa   thụ   động   Neoproterozoi   muộn­ Ordovic sớm  gồm  các trầm tích lục nguyên chuyển lên carbonat, tạo thành lớp  phủ  nền bao quanh vòm Sông Chảy và còn kéo dài qua các vùng Tuyên Quang,   Vĩnh Yên được chia ra làm hai dãy. Dãy Neoproterozoi thượng­Cambri hạ  được xếp vào loạt Sông Chảy, gồm đá  phiến mica xen những lớp mỏng quarzit, đá hoa, đôi nơi có amphibolit chuyển lên đá  vôi, dolomit phân lớp vừa, tái kết tinh có bề  dày trên 1800 m. Dãy Cambri trung­ 12
  13. Ordovic hạ gồm đá phiến thạch anh­sericit­vôi xám đen chứa ít phosphorit  ở  phần  dưới và đá vôi, dolomit  ở  phần trên kiểu nền carbonat bình ổn, dày khoảng 2000­ 2500 m, gồm các hệ tầng Hà Giang, Chang Pung, Lutxia chứa Oncolit, Bọ ba thùy,   Tay cuộn, v.v., phân bố  rộng khắp các vùng Bắc Hà, Mường Khương, Hà Giang,   Lục Yên dưới dạng các nếp uốn nghiêng vòng không đối xứng bị  uốn nếp đảo,  chồng nghiêng hoặc thẳng đứng theo phương TB­ĐN và ĐB­TN và phổ biến vi uốn   nếp biến dạng với các ứng lực cắt.­Tổ hợp thạch­kiến tạo ophiolit Neoproterozoi­ Paleozoi sớm(?)  bao gồm các thể  apoharz­burgit, apodunit bị  serpentin hoá mạnh,  metagabbrodiabas, plagiogranit thuộc phức hệ  Nậm Bút [Trần Xuyên và nnk., 1987]  được xếp vào tổ hợp ophiolit Bắc Quang [Trần Văn Trị et al., 1986; Gatinskii et al.,  1991], trong đó plagiogranit Thành Long ở vùng Bạch Xa có tuổi U­P zircon TIMS là  470 Tr.n. trong bối cảnh bể sau cung [Bùi Minh Tâm và nnk., 2008]. Với những tài  liệu hiện có, bản chất, tuổi và bối cảnh kiến tạo của tổ hợp ophiolit Bắc Quang và   các đá basalt, andesit ở Hà Giang, Bắc Hà còn đang là vấn đề tồn tại lớn.  ­ Tổ  hợp thạch­kiến tạo magma đồng tạo núi nội lục Ordovic giữa­Silur   gồm granit migmatit gneis dạng batholit được xếp vào phức hệ  Sông Chảy. Tổ  hợp này chủ  yếu đặc trưng bởi granit hai mica dạng porphyr với các ban tinh  felspat lớn vài cm, có nơi đến 10­15 cm, dạng mắt, ovan theo phương phân dải  dòng chảy migmatit gneis trùng với cấu trúc dạng vòm. Granit hai mica này có tuổi  đồng vị U­Pb zircon (TIMS) là 428 Tr.n. [Roger et al., 2000], (SHRIMP) 424 Tr.n.  [Carter, 2001], 436­402 Tr.n. [Yan et al., 2006] và 465 Tr.n. (U­Pb zircon) với tỷ lệ  đồng vị  87Sr/ 86Sr = 0,714; εNd(t) = ­(9,1­9,7), chứng tỏ  chúng có nguồn gốc vỏ  và  thuộc loại granit kiểu S đồng tạo núi Caledoni [Ponomareva et al., 1997]. Phức hệ  granit Sông Chảy xuyên lên theo kiểu diapir trong trạng thái nóng chảy không đều  tạo ra vòm gneis [Izokh  và nnk., 1984] gây biến chất tiếp xúc đá sừng của dãy  trầm tích rìa lục địa thụ  động Neoproterozoi­Cambri hạ thuộc loạt Sông Chảy và  Cambri trung có hoá thạch Bọ  ba thùy của hệ  tầng Hà Giang [Trần Văn Trị   và  nnk., 1977].  ­ Tổ hợp thạch­kiến tạo kiểu rift nội lục Devon  nằm không chính hợp trên các  thành tạo cổ hơn, gồm các trầm tích lục nguyên vụn thô chuyển lên đá phiến sét­vôi,  đá vôi chứa Tay cuộn, San hô, v.v. trong môi trường cận lục địa, phân bố hạn chế ở  Bản Lầu, Lào Cai và một số nơi ở Tuyên Quang. Ngoài ra, trầm tích Trias lục nguyên   biển nông và Creta lục địa màu đỏ tạo thành các trũng nhỏ ở vùng Yên Bình Xã cũng   như các địa hào Đệ tam tướng sông­hồ còn có biểu hiện biến dạng của các đới cắt   trượt theo phương TB­ĐN dọc các đới đứt gãy Sông Chảy, Sông Lô, v.v..    2. Phụ đới Sông Gâm: nằm tiếp giáp với phụ đới Sông Lô ở phía tây và đới đứt  gãy Sông Đáy kéo lên Bảo Lạc, Cao Bằng sang Quảng Tây  (Trung Quốc)  ở  phía  đông. Về địa hình, phụ đới này phân bố trên phần lớn lưu vực sông Gâm có đỉnh núi   cao nhất là Phu Tha Ca (2276 m), lưu vực sông Miện, cao nguyên Đồng Văn, Mèo  Vạc và vùng Lũng Cú cực bắc của Việt Nam. ­ Tổ hợp thạch­kiến tạo thềm lục địa thụ động Neoproterozoi muộn­Paleozoi:  Các trầm tích Neoproterozoi thượng­Ordovic hạ và Devon­Permi uốn nếp tạo thành  phức nếp lõm Sông Gâm có hình cánh cung với mặt lồi hướng về phía đông, bị  rift  nội lục Permi­Trias Sông Hiến phủ chồng lên.  13
  14. ­ Tổ  hợp thạch­kiến tạo biến chất cao Neoproterozoi muộn­Cambri sớm   tạo thành vòm biến chất Chiêm Hoá [Vasilevskaja, trong Đovjikov và nnk., 1965].  Vòm này có dạng nếp lồi gồm các đá biến chất Proterozoi của các hệ tầng Chiêm   Hoá nằm dưới và Nà Hang nằm trên, lộ  ra dưới dạng khối nâng khá đẳng thước   với đường kính khoảng 18 km. Phức hệ nhân biến chất gồm đá phiến thạch anh­ hai mica, andalusit, gneis migmatit xen lớp mỏng quarzit, đá phiến actinolit ở phần   dưới, chuyển lên đá hoa dạng dải đôi nơi xen gneis biotit, thấu kính amphibolit có   bề dày >1300 m. Vòm Chiêm Hoá có các đá biến chất kiểu disthen­sillimanit cấu   tạo dạng vòm gồm các đới biotit granat, disthen­staurolit trong điều kiện nhiệt  động To  ≈  410­610oC; P  ≈  2,5­6,3 kbar, được xếp vào tuổi Neoproterozoi muộn   [Trần   Tất   Thắng  và   nnk.,   1984,   1989]   và   bị  các  thể  nhỏ   dạng   thấu   kính  gabbrodiabas, plagiogranit chưa rõ tuổi xuyên cắt. ­ Tổ  hợp thạch­kiến tạo rìa lục địa thụ  động Cambri giữa­Ordovic sớm  gồm đá phiến thạch anh­sericit­vôi, đá phiến sét, bột kết vôi xen kẽ  những lớp   mỏng đá vôi, đá vôi dolomit cấu tạo trứng cá, có bề  dày chung khoảng 3200 m,  tạo thành hai cánh của phức nếp lõm Sông Gâm bị  biến dạng mạnh mẽ  làm cho   thế nằm và diện phân bố biến vị phức tạp. Cánh TB lộ ra dọc tả ngạn sông Lô, từ  vùng đông bắc thị xã Hà Giang đến Tuyên Quang, với góc dốc thay đổi trung bình   45­55o, hướng dốc ĐB và Đ, còn cánh ĐB lộ dọc tả  ngạn sông Nho Quế  về  phía  bắc, gần các thị trấn Đồng Văn, Mèo Vạc giáp Trung Quốc, với góc dốc khá bình   ổn 40­45o đổ  về  hướng TTN. Dãy Cambri trung­Ordovic hạ đặc trưng là trầm tích  carbonat chiếm ưu thế, chứa phức hệ động vật bám đáy Bọ ba thùy, Tay cuộn (xem  Chương 3 Phần Địa tầng) trong môi trường thềm biển nông khá yên tĩnh, rất giống  với dãy Cambri trung­Ordovic hạ ở Tây Việt Bắc, cũng như lớp phủ nền Yangtze ở  khu vực ĐN Vân Nam (Trung Quốc). ­ Tổ  hợp thạch­kiến tạo thềm lục  địa thụ  động Devon­Permi  được chia  thành hai dãy. Dãy  Devon nằm phủ  lên trầm tích Ordovic hạ  kiểu bất chỉnh hợp  song song mà phần thấp có ít cuội­sạn kết thưa thớt, cát kết chuyển dần lên đá   phiến sét, bột kết, đá vôi, đá vôi­silic phân lớp vừa và mỏng chứa nhiều Tay cuộn,   San hô, v.v., có bề dày chung 1500­2400 m phân bố rộng rãi trên phức nếp lõm Sông  Gâm. Đồng thời tổ hợp núi lửa­pluton gồm trachyporphyr, ryolit xen trong trầm tích  Devon trong dải Tòng Bá, Bắc Mê [Tạ Hoàng Tinh, 1972] xâm nhập á núi lửa syenit  porphyr, granosyenit xuyên lên các đá vây quanh, gây biến chất  ở  tướng đá phiến  lục đến epidot­amphibolit [Vương Mạnh Sơn, 2003]. Ngoài ra còn gặp ryolit, dacit   và   tuf   của   chúng   xen   trong   đá   phiến   thạch   anh­sericit,   đá   phiến   silic­vôi   chứa  mangan, đá vôi silic Devon hạ   ở  trung lưu sông Gâm [Nguyễn Kinh Quốc, 1977].   Dãy trầm tích lục nguyên­carbonat chứa hoá thạch bám đáy biển nông Devon nêu   trên và các đá núi lửa felsic­kiềm cũng như xâm nhập syenit nephelin thuộc phức hệ  Phia Ma tuổi giả định là Devon, thuộc magma nội mảng được thành tạo trong cấu   trúc rift nội lục Tòng Bá. Dãy trầm tích Carbon­Permi chủ  yếu là đá vôi­dolomit   kiểu nền có bề  dày khoảng 600­800 m, nằm không chỉnh hợp lên dãy trầm tích   Devon­Carbon hạ phân bố chủ yếu ở các vùng ĐB tỉnh Hà Giang. Dọc cánh TN của phức nếp lõm Sông Gâm tồn tại một đới cắt trượt kéo dài   trên 100 km theo hướng TB­ĐN từ  Quản Bạ qua các vùng Tòng Bá, Bắc Mê, hồ  Ba Bể, làm cho các đá trầm tích Devon, cũng như  núi lửa­pluton felsic­kiềm kể  14
  15. trên bị  phân phiến dạng dải, biến chất trao đổi, là sản phẩm nóng chảy tại chỗ  (anatectic products) của vỏ lục địa, có thể  do  ảnh hưởng của các sự  kiện nhiệt­ kiến tạo in chồng Indosini. Sang giai đoạn Permi muộn­Mesozoi, chế độ  kiến tạo tích cực hơn, mang tính   chất hoạt hoá tạo thành rift nội lục Sông Hiến­An Châu phủ chồng lên các tổ hợp   thạch­kiến tạo nêu trên, sẽ được trình bày ở Chương 3 thuộc Phần này. 4.2.1.2. Đới Đông Bắc Bắc Bộ Đới này phân bố ở phía đông đới đứt gãy Sông Đáy trải ra tận rìa tây vịnh Bắc   Bộ, nối tiếp sang Quảng Tây, Quảng Đông (Trung Quốc), có thể chia ra hai phụ đới  Đông Việt Bắc và Quảng Ninh và bị  hệ  rift nội lục Sông Hiến­An Châu che phủ,   chia cắt ra nhiều phần. 1. Phụ  đới Đông Việt Bắc:  chiếm phần lớn diện tích các tỉnh Thái Nguyên,  Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, v.v.. Địa hình phụ  đới này có những dãy núi hình   cánh cung theo phương BĐB như các dãy Phia Bioc (1554 m), Ngân Sơn (1763 m)­ Cốc Xô (1131 m), chuyển dần sang phương ĐB và á vĩ tuyến với các dãy núi thấp   dần như Bồ Cu (539 m) cũng như các vùng núi karst Bắc Sơn. ­ Các tổ hợp thạch­kiến tạo thềm lục địa thụ động kiểu aulacogen Cambri­ Silur có tổng bề dày trên 4300 m, được chia ra hai dãy Cambri trung­Ordovic hạ và  Ordovic trung­Silur. Dãy đầu gồm các trầm tích lục nguyên dạng flysh, biến chất   đến tướng đá phiến lục, tạo thành nhân của các nếp lồi lớn có phương ĐB­TN  như  Thần Sa­Na Rì, Bồ Cu (Thái Nguyên­Bắc Cạn), Bắc Sơn (Lạng Sơn), Bồng  Sơn, Đông Khê (Cao Bằng), v.v. thuộc hệ  tầng Thần Sa có bề  dày trên 2000 m  chứa hóa thạch Bọ  ba thùy họ  Agnostidae Cambri muộn thuộc tướng thềm giáp  sườn lục địa. Chúng bị  biến dạng mạnh, tạo thành những nếp uốn nhỏ phức tạp  có sự  giao thoa uốn nếp, với góc dốc biến đổi có khi đến 70­80 0 và thoải dần ra  40­450  ở  các cánh. Các trầm tích Cambri thượng chứa phức hệ  Bọ  ba thùy này  (xem Chương 3 Phần Địa tầng) rất giống với các trầm tích cùng tuổi  ở  Quảng   Tây kéo lên Jiangnan  ở Hoa Nam [Shegold, 1995; Phạm Kim Ngân và nnk., 2008].  Dãy trầm tích Ordovic trung­Silur hạ, nằm không chỉnh hợp bên trên, cũng được  thành tạo trong thềm lục địa thụ động với thành phần chính là lục nguyên, lộ ra ở  một số  vùng thuộc Thái Nguyên, Bắc Kạn, trong đó dải Phú Ngữ  có trầm tích   kiểu flysh dày trên 2300 m với nhiều nếp uốn biến dạng có trục theo phương  BĐB.  Ở  một số nơi phía B và ĐB Thái Nguyên, như  Nà Mọ, Thần Sa, Nà Dăm,   trầm tích biển nông Ordovic trung­thượng nằm không chỉnh hợp trên trầm tích  Cambri, bắt đầu bằng cuội kết, cát kết, chuyển lên bột kết vôi chứa nhiều Bọ ba   thùy, Tay cuộn, v.v., dày khoảng 500 m liên quan đến quá trình nâng tạo núi và bào   mòn trong giai đoạn này. Với những đặc tính nêu trên, tổ hợp thạch­kiến tạo Cambri­Silur  ở Đông Việt  Bắc có lẽ được hình thành trong một cấu trúc aulacogen. ­ Tổ hợp thạch­kiến tạo thềm lục địa thụ  động Devon­Permi  gồm hai dãy.  Dãy Devon­Carbon hạ gồm sỏi­cuội kết thưa thớt, cát kết, bột kết tướng ven bờ  được xếp vào loạt Sông Cầu Devon hạ  chuyển lên đá phiến sét­vôi, đá vôi, đá   phiến silic­vôi chứa mangan tướng biển sâu hơn, có dạng rift nội lục, bề  dày  khoảng 1500 m, nằm không chỉnh hợp gần như  song song trên trầm tích Cambri   15
  16. thượng. Dãy Carbon­Permi trung gồm đá vôi nền đặc trưng, dày ≈800 m tạo thành  những nếp uốn ngắn với góc dốc phổ  biến 40­45 0C, phân bố  rộng rãi  ở  các tỉnh  Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Các xâm nhập granitoid Paleozoi  muộn   xuất   hiện   hạn   chế   ở   các   vùng   Ngân   Sơn,   nam   Bắc   Sơn   và   gabbroid,   granitoid Permi muộn xuyên lên các trầm tích Ordovic  ở dải Phú Ngữ, rìa tây Bắc  Cạn, Thái Nguyên, cũng như các thể nhỏ diabas ở Cao Bằng, Lạng Sơn, v.v., đều  liên quan với magma nội mảng. 2. Phụ đới Quảng Ninh: nằm về phía ĐN đới đứt gãy Yên Tử­Tấn Mài, trước  đây được chia thành hai đới cấu trúc Duyên Hải và Cô Tô [Đovjikov và nnk., 1965],  được xem là phần kéo dài của Caledonit Cathaysia [Pusharovki, 1967; Phạm Văn   Quang, 1973, 1986] có dạng hình cánh cung, bề lõm quay về hướng B, ĐB từ Phúc   Yên xuống Đồ Sơn vòng qua Quảng Ninh và rìa TB vịnh Bắc Bộ dài trên 250 km và   còn kéo sang vùng biên giới Quảng Tây­Quảng Đông (Trung Quốc). Phụ đới Quảng  Ninh có cấu trúc không đối xứng, gồm các dãy trầm tích Ordovic­Silur, Devon­ Permi tạo thành những nếp uốn dạng tuyến và hình cung, trong nội bộ khối có hệ  địa hào Mesozoi Hòn Gai­Bảo Đài, bị  rift  nội lục Permi muộn­Mesozoi An Châu  che phủ phần phía bắc và bể Kainozoi Sông Hồng che phủ ở phía nam.  ­ Tổ  hợp thạch­kiến tạo kiểu bể  tiền địa (foreland basin) Ordovic muộn­ Silur  ở Quảng Ninh gồm trầm tích flysh, turbidit thành phần cát kết tuf felsic xen   kẽ  dạng nhịp với đá phiến sét đen chứa Bút đá, đôi nơi còn có các thấu kính,  ổ,  luống cuội­sạn kết dạng đá vụn núi lửa felsic olistostrom hoặc cuội kết rẻ quạt   (fanglomerate). Trầm tích kiểu molas này có bề dày trên 2500 m, được xếp vào các  hệ tầng Cô Tô (O3­S2), lộ ra trên quần đảo cùng tên, và Tấn Mài dạng địa lũy dọc   rìa TB tỉnh Quảng Ninh.  Ở  các đảo Cái Chiên, Vĩnh Thực, đá phiến thạch anh­ sericit tạo thành những nếp uốn dạng tuyến hẹp, gấp khúc phức tạp phương ĐB  có nhiều mạch thạch anh dạng lớp, thấu kính xuyên theo mặt lớp của các nếp  uốn. Trầm tích molas vụn lục nguyên và tuf felsic này biểu hiện các nếp uốn song  song theo phương ĐB­TN, có nơi đảo ngược, chờm nghịch hoặc dốc đứng, lộ  ra   các kiểu nhịp flysh, turbidit dòng quẩn sụt ngầm, xiên chéo tuyệt đẹp dọc ven bờ  biển các đảo Cô Tô, Thanh Lân, v.v., phản ảnh quá trình tạo núi, bào mòn diễn ra  trong giai  đoạn Ordovic muộn­Silur sớm  ở Đông Bắc Bắc Bộ cũng như  ở  ĐN Trung Quốc.   Với những đặc trưng địa chất độc đáo ở  quần đảo Cô Tô, có thể  xác lập ở  vùng   này thành một công viên địa chất với những di sản về trầm tích luận, cổ  sinh và  cấu trúc kiến tạo quý giá. ­ Các tổ hợp thạch­kiến tạo thềm cận lục địa thụ  động Devon­Permi  trong  đới Quảng Ninh được chia ra hai dãy Devon­Carbon hạ và Carbon­Permi.   Dãy Devon­Carbon hạ, Tournais được bắt đầu bằng ít sạn­cuội kết, cát kết  hạt thô phân lớp dày xiên chéo trầm tích bãi triều, gợn sóng khi phong hóa có màu   đỏ  gụ  được xếp vào các hệ  tầng Dưỡng Động và Đồ  Sơn có tuổi Devon sớm­ giữa, chuyển dần lên đá vôi, đá phiến silic­vôi phân lớp mỏng dạng nhịp có bề dày  chung khoảng 1600 m, được thành tạo trong bối cảnh rift nội lục. Phần dưới của   dãy gồm cát kết hạt thô xen những thấu kính cuội­sạn kết tạo thành cánh nghiêng   thoải dốc về  phía bắc 10­150  ở  các vùng Phủ  Liễn, Đồ  Sơn  vòng  lên quần đảo  Quán Lạn chuyển sang hướng dốc về TTB 20­250 khá bình ổn. Phần trên là đá vôi,  16
  17. dolomit phân lớp vừa, đá phiến vôi­silic phân lớp mỏng, cấu tạo nhịp kiểu turbidit   thuộc hệ tầng Phố Hàn (D3fm­C1t) được xếp chung vào loạt Thủy Nguyên (D2­C11)  tạo thành cánh đơn nghiêng có những nếp uốn nhỏ. Nằm không chỉnh hợp bên trên là dãy Carbon­Permi trung đặc trưng là đá vôi,  đá vôi dolomit­silic khá đồng nhất, phân lớp dày thuộc hệ tầng Bắc Sơn có bề dày  ~1200­1600 m, phân bố rộng rãi trên các vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, đảo Cát Bà,  Long Châu, Cẩm Phả, v.v…. dưới dạng một nếp lõm không đối xứng. Các tổ hợp thạch­kiến tạo Paleozoi nêu trên bị hệ địa hào Mesozoi Hòn Gai­Bảo  Đài, thuộc bể than Quảng Ninh kéo dài trên 250 km, phủ chồng với sự khống chế của  các đới đứt gãy Yên Tử­Tấn Mài, Trung Lương, Đông Triều­Cẩm Phả  [Phạm Văn   Quang và nnk., 1973; Trần Văn Trị  và nnk., 1986, 2000]. Bể than này gồm các trầm  tích lục địa, á lục địa vụn thô chứa hàng chục vỉa than có tổng bề dày thay đổi từ  1000 đến 4000 m, được xếp vào hệ tầng Hòn Gai (T 3n­r) và lục địa vụn thô màu  đỏ dày khoảng 1200 m thuộc hệ tầng Hà Cối (J1­2) nằm không chỉnh hợp bên trên  [Pavlov, 1960; Đovjikov và nnk., 1965].  4.2.2. Đai tạo núi nội lục Paleozoi sớm Tây Bắc Bộ Đai tạo núi này nằm về phía bắc đới khâu Sông Mã, tiếp giáp với hệ rift Permi  muộn­Mesozoi Sông Đà­Tú Lệ  qua đới đứt gãy Sơn La­Hà Trung, phía tây bắc bị  đới đứt gãy trượt bằng phải Lai Châu­Điện Biên cắt chéo. Kéo dài trên 400 km theo  phương TB­ĐN, đai này vát nhọn ở vùng TB Phong Thổ (Lai Châu), mở rộng dần   về phía Sơn La dọc những dãy núi cao trên dưới 2000 m và thấp dần xuống đồng   bằng Thanh Hóa ra vịnh Bắc Bộ gồm các đới Sông Mã, Thanh Hóa và phần rìa tây  nam của đới Sơn La theo cách phân chia của Đovjikov và nnk. [1965]. 4.2.2.1. Tổ hợp thạch­kiến tạo kiểu cung rìa lục địa Neoproterozoi­Cambri   sớm: Tổ hợp này gồm đá phiến mica, đá phiến thạch anh sericit­chlorit xen những   lớp mỏng quarzit và đôi nơi có amphibolit, dày khoảng 2000 m được xếp vào hệ  tầng Nậm Cô [Đovjikov và nnk., 1965; Nguyễn Xuân Bao và nnk., 1978] tạo thành  phức nếp lồi lớn có trục kéo dài > 230 km từ phía tây nam Tuần Giáo (Điện Biên)   đến Mường Lát (Thanh Hoá) có nhiều nếp uốn dốc đứng. Biến chất của tổ  hợp   này biểu hiện không đều từ tướng đá phiến lục đến tướng amphibolit, có tuổi K/Ar   của amphibol  ở  vòm biến chất Mường Lát là 900 Tr.n. [Nguyễn Ngọc Liên, trong   Nguyễn Xuân Tùng và nnk., 1992]. Những năm gần đây, một số tác giả còn xác lập  loạt Bó Xinh gồm hai hệ  tầng Huổi Hào (NP) chủ  yếu gồm  đá phiến lục có  nguồn   gốc   từ   metabasalt,   và   Nậm   Ty   (NP­ε1)   gồm   đá   phiến   thạch   anh­sericit  [Phạm Đình Trưởng, 1999; Nguyễn Văn Hoành, 2001] nằm dưới trầm tích lục  nguyên – carbonat chứa Bọ  ba thuỳ  Cambri giữa­muộn, thực chất có thể  là sự  chuyển tướng của hệ tầng Nậm Cô nêu trên. Liên quan đến rìa lục địa này còn có  phức hệ Po Sen ở Lào Cai có tuổi U­Pb zircon là 760­751 Tr.n. [Wang et al., 1999;  Trần Ngọc Nam, 2003] và có lẽ cùng trong cung núi lửa Nam Sichuan có tuổi 860­ 740 Tr.n. [Zhou et al., 2006], khi đó địa khu Hoàng Liên Sơn  ở  Tây Bắc Bộ  còn  dính liền với rìa TN craton Yangtze. 4.2.2.2. Tổ hợp thạch­kiến tạo ophiolit Neoproterozoi­Paleozoi sớm(?):  Kéo  dài trên 300 km từ ĐB Điện Biên qua Thanh Hoá ra vịnh Bắc Bộ với bề rộng 15­20   km, tổ hợp này gồm metabasalt, đá phiến lục, đá phiến silic, được xếp  vào địa khu  17
  18. bồi kết của cung núi lửa Paleozoi sớm Sông Mã [Fildlay, 1999] harzburgit, dunit bị  serpentin hoá mạnh, metagabbro, plagiogranit tạo thành đới ophiolit xáo trộn kiến  tạo. Đặc điểm thạch hoá của đá siêu mafic gần gũi với magma nóng chảy từ nguồn   manti nghèo kiệt, metagabbro, metadolerit, metabasalt sống núi giữa đại dương ứng   với E­MORB và N­MORB (xem Chương 4 Phần  Địa tầng). Các thể  mafic­siêu  mafic Sông Mã rất có thể  có nhiều loại được thành tạo và xâm cư  (emplacement   protusion)   theo   các   giai   đoạn   khác   nhau,   trong   đó   tuổi   biến   chất   tái   xác   lập  (metamorphic resetting age) phổ biến trong Permi muộn­Trias sớm. Vấn đề  tuổi của metabasalt  đang còn nhiều tồn tại: theo K­Ar là 455 Tr.n.   [Nguyễn Ngọc Liên, 1980], Rb­Sr metadiabas là 541±75 Tr.n. [Nguyễn Đức Thắng  và nnk, 1999], theo Sm­Nb amphibol, titanit trong gabbro amphibolit là 414,8 Tr.n.,  266­245 Tr.n. [Nguyễn Văn Vượng và nnk, 2006], 850­840 Tr.n. [Phạm Kim Ngân,  chưa công bố], 940 Tr.n. [Bùi Minh Tâm và nnk, 2008] và U­Pb zircon (SHRIMP)  trong   metabasalt   là   967­733   Tr.n.   và   267­251   Tr.n.,   trong   gabbroamphibolit   và  plagiogranit: 265­263 Tr.n. [Trần Văn Trị, Niu B.G., He Z.J., chưa công bố]. Ngoài  ra, dọc rìa TB đới khâu Sông Mã còn gặp các thể diorit­granodiorit­granit của phức   hệ Huổi Tóng có tuổi U­Pb zircon (TIMS) là 446­415 Tr.n. [Nguyễn Văn Nguyên và  nnk. 2005].  Tuổi va chạm của đới khâu Sông Mã còn có nhiều luận giải khác nhau, từ  Paleozoi sớm [Trần Văn Trị  và nnk.,  1977; Lê Duy Bách  và nnk., 1985]; Devon  muộn­Carbon sớm [Gatinski, 1986]; Trias [Chung  et al., 1998; Lepvrier et al., 2004,  2008]. Tuy nhiên, với những tài liệu thực tế, như sự giống nhau giữa các đá trầm  tích chứa hoá thạch bám đáy Silur muộn  ở  Quảng Bình (Trường Sơn), lưu vực  sông Đà (Tây Bắc Bộ), Kiến An (Đông Bắc Bộ) [Đovjikov  và nnk., 1965; Tống  Dzuy Thanh  et al.,  2001], cũng như  trầm tích lục nguyên­carbonat chứa Bọ  ba  thuỳ, Tay cuộn Cambri­Ordovic  ở Tây Bắc Bộ, Việt Bắc và Hoa Nam, cũng như  các giai đoạn magma và nhiệt kiến tạo nêu trên có thể  cho rằng các địa khu liên   hợp Việt­Trung và Indosinia ghép nối với nhau vào Neoproterozoi muộn­Cambri   sớm. Tài  liệu thực  tế   ở  Tây  Bắc  Bộ  xác  nhận sự   gián đoạn  địa  tầng vào  cuối   Cambri sớm, Ordovic giữa­muộn, Silur muộn, v.v., với các trầm tích lục nguyên,  silic,   carbonat   lẫn   phun   trào   mafic   Neoproterozoi­Cambri,   và   cả   lớp   phủ   nền  Cambri trung­Ordovic hạ, cũng như  các sự  kiện nhiệt­kiến tạo phản ánh qua các  giá trị tuổi đồng vị  trong khoảng Neoproterozoi­Silur, Permi­Trias. Cho nên có thể  cho rằng khu vực Tây Bắc Bộ là phần rìa phía nam của craton Yangtze, tiếp giáp  với phức hệ bồi kết vào cung rìa lục địa  giữa các địa khu liên hợp Việt­Trung và  Indosinia   trong   Neoproterozoi­Cambri   sớm   (Pan­Africa),   tái   biến   cải   trong   Phanerozoi, đặc biệt là Permi muộn­Trias sớm có tuổi biến chất tái xác lập phổ  biến dọc đới khâu Sông Mã. 4.2.2.3. Tổ  hợp thạch­kiến tạo rìa lục địa thụ  động Cambri giữa­Ordovic   sớm: Nằm không chỉnh hợp song song trên hệ tầng Nậm Cô là cuội kết thưa thớt,   đá phiến thạch anh­sericit, đá phiến đen xen kẽ đá phiến lục, metabasalt, đá phiến  silic ở phần dưới và chuyển dần lên đá phiến sericit­vôi, đá vôi phân lớp mỏng và  trung bình chuyển lên cát bột kết vôi có bề  dày khoảng 2000 m. Tập hợp đá này   được xếp vào các hệ tầng Sông Mã (ε2), Hàm Rồng (ε3), Đông Sơn (O1), Bến Khế  18
  19. (ε2­O1)   thường   phân   bố   dọc   hai   cánh  của   phức   nếp   lồi   Nậm  Cô   và   nếp  uốn   nghiêng vòng  ở  rìa  ĐN vòm Mường Lát (Thanh Hoá). Một điều đáng chú ý là đá   vôi, dolomit phân lớp mỏng xen kẽ đá phiến sét­vôi chứa phức hệ Bọ ba thùy thuộc  các   họ   Damesellidae,   Saukiidae,   Ptychaspidae   có   tuổi   Cambri   giữa­muộn   và  Asaphopsis Ordovic sớm, phân bố nhiều nơi  ở  Thanh Hóa, Sơn La thuộc Tây Bắc   Bộ giống hoàn toàn với các đá và hóa thạch cùng tuổi ở Hà Giang, Lào Cai cũng như  Vân Nam (Trung Quốc) [Phạm Kim Ngân và nnk., 2008]. Điều đó có nghĩa rằng lớp  phủ  nền Paleozoi hạ  của craton Yangtze còn kéo dài đến giáp đới khâu Sông Mã  [Trần Văn Trị  và nnk., 1977, 1986; Ren & Jin, 1995; Nguyễn Đình Hoè, Rangin,  1999].  4.2.2.4. Tổ hợp thạch­kiến tạo kiểu tạo núi nội lục Ordovic muộn­Silur: Tổ  hợp này gồm cuội kết đáy hỗn tạp, có độ chọn lọc và mài tròn kém, cát kết arkos,  bột kết vôi, chuyển lên đá phiến sét vôi xen kẽ đá vôi phân lớp không đều, có bề  dày gần 1000 m, được xếp vào các hệ tầng Sinh Vinh (O 3­S2) và Bó Hiềng (S3­4),  phân bố  ở  Lai Châu kéo xuống Sơn La đến Hoà Bình, nằm không chỉnh hợp trên   trầm tích lục nguyên dạng flysh của hệ tầng Bến Khế ( ε2­O1) cũng như các thành  tạo cổ  hơn. Các trầm tích này tạo thành cánh đông của các nếp uốn hẹp, không  đối xứng, kéo dài phướng á kinh tuyến >60 km qua vùng Sìn Hồ. Công tác đo vẽ  bản đồ  1:50.000 gần đây đã giúp phát hiện trầm tích lục nguyên­silic dạng flysh   chứa Bút đá Silur sớm được xếp vào hệ  tầng Kết Hay [Lê Thanh Hựu, 2005] có  thể là một mảnh của hệ tầng Sông Cả (O 3­S2) ở phía nam đới khâu Sông Mã được  tách ra và chêm vào hệ tầng Nậm Cô (NP­ε1) dưới dạng nêm kiến tạo. 4.2.2.5. Tổ hợp thạch­kiến tạo thềm lục địa thụ  động Devon­Permi:  Nằm  không chỉnh hợp trên các đá cổ hơn, tổ  hợp này phân bố  rải rác dọc hai bên cánh   phức nếp lồi Nậm Cô gồm hai dãy. Dãy Devon gồm cuội­sạn kết, cát kết chuyển   lên đá phiến sét vôi, đá vôi có bề dày ~1200 m nằm không chỉnh hợp trên trầm tích  Ordovic thượng­Silur trung của hệ  tầng Sinh Vinh, trên các trầm tích Cambri­ Ordovic hạ   ở  các vùng Bá Thước, Cẩm Thủy (Thanh Hóa), nhìn chung chúng có  thế nằm tương đối bình ổn, cá biệt như vùng phía tây đới đứt gãy Lai Châu­Điện  Biên có những nếp uốn đảo chờm nghịch. Tiếp trên là dãy Carbon­Permi trung  gồm trầm tích carbonat thềm có bề dày khoảng 600 m, nằm không chỉnh hợp trên   trầm tích Devon, lộ ra nhiều nơi ở Lai Châu, Sơn La, Thanh Hóa, chủ yếu là cánh   ĐB của phức nếp lồi. Hệ rift nội lục Permi­Trias Sông Đà­Tú Lệ nằm chồng gối  dọc đai tạo núi nội lục Paleozoi sớm Tây Bắc Bộ.  4.2.3. Phân hệ tạo núi đa kỳ Paleozoi giữa­Mesozoi sớm Đông Dương Nằm kẹp giữa hai địa khu biến chất cao Kon Tum ở phía nam và Phu Hoạt­Nậm   Sư Lư cùng đới khâu Sông Mã ở phía bắc, phân hệ tạo núi này gồm các đai tạo núi   Paleozoi   giữa   Đà   Nẵng­Sê   Kông,   Paleozoi   muộn­Mesozoi   sớm   Trường   Sơn   và  Indosini (P3­T) Mekong, trong đó hoạt động kiến tạo Indosini diễn ra mạnh mẽ, ghép   nối với nhau tạo thành địa khu liên hợp Đông Dương. 4.2.3.1. Đai tạo núi Paleozoi giữa Đà Nẵng­Sê Kông Đai này có dạng uốn cong tiếp giáp với đai tạo núi Trường Sơn qua đới đứt   gãy Huế­Hương Hoá  ở  phía bắc và địa khu Kon Tum qua đới đứt gãy Tam Kỳ­ Phước Sơn ở phía nam. Trong kiến sinh Indosini hoặc Himalaya, nó bị bẻ gập lại   tạo thành hai cánh: cánh Đà Nẵng phương TB­ĐN phân bố   ở  phía tây các tỉnh   Quảng Trị, Thừa Thiên Huế  và thành phố  Đà Nẵng; cánh Sê Kông phương kinh   tuyến nằm dọc vùng biên giới Việt­Lào giáp Tây Nguyên. Về địa hình, đai tạo núi  này chiếm một phần dãy Trường Sơn có những đỉnh núi cao trên 2000 m, với   sườn đông khá dốc thấp dần xuống vùng đồng bằng ven biển Bình­Trị­Thiên và  19
  20. Quảng Nam, còn sườn tây đổ  thoải hơn về  tả  ngạn sông Mekong, trải rộng trên  địa bàn các tỉnh ở Hạ Lào và ĐB Campuchia. Tham gia vào đai tạo núi này có các  yếu tố sau: ­   Tổ   hợp   thạch­kiến   tạo   rìa   lục   địa   rift   sinh   (rifted   continental   margin)   Neoproterozoi­Ordovic sớm: Tổ hợp này gồm đá phiến thạch anh­mica, quarzit, đá  hoa, đá phun trào mafic biến đổi được xếp vào phức hệ Khâm Đức­Núi Vú (NP­ε1  nv) và hệ  tầng A Vương (ε2­O1 av) có bề  dày chung khoảng 4000 m, lộ ra  ở các  dải phương BTB vùng A Lưới kéo về  phía TN đứt gãy Đà Nẵng­Khe Sanh, dải   phương kinh tuyến  ở rìa tây tỉnh Kon Tum, và dải phương vĩ tuyến  ở  các huyện   Tây Giang, Đông Giang (Quảng Nam) và thành phố Đà Nẵng. Ngoài ra, nó còn lộ  rải rác bên dưới hệ tầng Long Đại (O2­S2) ở các tỉnh Bình­Trị­Thiên. Tổ hợp này  chủ yếu là trầm tích lục nguyên các tướng thềm, sườn và chân lục địa với những   quạt olistostrom. Trầm tích carbonat xuất hiện ít như  những lớp mỏng rải rác  ở  phần tương đối thấp và có chỗ tạo thành tập dày ở phần cao của dãy. Trong phần  dưới của dãy phổ  biến các vỉa metabasalt đi kèm với các xâm nhập mafic loạt  tholeiit (các khối A Pei, Hiên, Bol Kol,…). Nói chung, các đá đều bị biến vị mạnh  và bị biến chất không đều, có nơi đến tướng amphibolit, nhưng phần lớn ở tướng   đá phiến lục. Chúng được luận giải là hình thành trong bối cảnh rìa lục địa thụ  động rift sinh. Trong hệ  tầng A Vương gặp rải rác các tập hợp Acritarcha tuổi   NP­ε. Phần trên của loạt chứa các Bút đá Ordovic sớm. Tuổi Rb­Sr của gabbro   khối A Pei ứng với Neoproterozoi.  ­ Tổ hợp thạch­kiến tạo cung rìa lục địa Ordovic giữa­Silur: Tổ hợp này bao  gồm hệ tầng Long Đại (O2­S2), phân bố rộng rãi  ở các tỉnh Bình­Trị­Thiên và tây  bắc Quảng Nam. Các trầm tích tương tự cũng phổ biến ở cánh Sê Kông thuộc Hạ  Lào, ở  rìa tây tỉnh Kon Tum.  Ở các mặt cắt suối Con Tôm (tây Thừa Thiên Huế)   và suối Cát, tây Quảng Nam, dãy trầm tích này đều bắt đầu bằng một tập cuội  kết cơ sở, cát kết hạt thô khá dày (80­90 m) nằm không chỉnh hợp góc lên loạt A  Vương [Nguyễn Thành Tín  và nnk., 1997]. Dãy gồm chủ  yếu là trầm tích lục  nguyên   dày   trên   3000   m,   có   dạng   phân   nhịp   xen   đá   phiến   sét   đen,   lớp   mỏng   andesit­dacit đi kèm với vật liệu nguồn núi lửa trong cát kết, chứa hoá thạch Bút  đá O2­S2. Phần lớn các trầm tích của dãy này bị  biến chất nhẹ  ở  tướng đá phiến  lục. ­ Tổ  hợp thạch­kiến tạo cung rìa lục địa Silur: Tham gia tổ  hợp này có các  xâm nhập kiềm­vôi Silur, thường được xếp vào các phức hệ Trà Bồng hoặc Diên  Bình với các pha diorit, granodiorit, granit, hầu hết có dạng gneis (các khối Làng  Xoa, A Tium, …), xuyên lên các dãy trầm tích­núi lửa Neoproterozoi­Cambri hạ,   Cambri­Ordovic hạ  và cả  Ordovic trung­Silur hạ.   Chúng được xem là thành tạo  trên một cung magma rìa lục địa ở phía trước bể sau cung Long Đại nói trên.  ­ Tổ hợp thạch­kiến tạo đồng va chạm Silur muộn­Devon sớm:  Các thể xâm  nhập granit­gneis dạng mắt nguồn gốc vỏ, phát triển thành các dải kéo dài dọc theo  đứt gãy trượt bằng phương BTB Đà Nẵng­Khe Sanh và đứt gãy cắt trượt phương  vĩ tuyến Prao­Đà Nẵng. Các thể  granit thuộc phức hệ  Đại Lộc này có tuổi U­Pb   (TIMS) là 418±8, 407±11, 406 Tr.n. [Carter et al., 2001], phần lớn là các đá mylonit  ban biến dư  (porphyroblasto­mylonite), có liên quan mật thiết với các đứt gãy cắt   trượt nói trên và được coi là sản phẩm tạo núi nội mảng Silur muộn­Devon sớm,   tương ứng với Caledoni muộn. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2