Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
KHẢO SÁT NGUYÊN NHÂN CỦA SẨY THAI LIÊN TIẾP<br />
VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ SẨY THAI LIÊN TIẾP KHÔNG RÕ NGUYÊN NHÂN<br />
TẠI KHOA HIẾM MUỘN BV ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP HỒ CHÍ MINH<br />
Phạm Văn Đức*, Âu Nhựt Luân*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Khảo sát các nguyên nhân, đánh giá hiệu quả điều trị tùy theo nguyên nhân được tìm thấy và<br />
phác đồ điều trị sẩy thai không rõ nguyên nhân.<br />
Thiết kế nghiên cứu: Báo cáo hàng loạt trường hợp.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thu thập các trường hợp sẩy thai ≥ 2 lần tại BV ĐHYD từ 1/2009<br />
đến 5/2011. Các trường hợp này đều khảo sát nội tiết căn bản ngày 2 chu kỳ (FSH, LH, E2, prolactin), chức<br />
năng tuyến giáp (FT3, FT4, TSH), huyết thanh chẩn đoán (HIV, HbsAg, TPHA, C.trachomatis, TORCH,<br />
EBV), nhóm máu, Rh, RAI, Coom’s test, đường huyết (đói, 2giờ sau ăn), HbA1C, karyotype cả hai vợ chồng,<br />
miễn dịch (ANA, LE cell, anti CardioLipin (aCL), antiphospholipid IgG, IgM), siêu âm và theo dõi phát triển<br />
nang noãn ở một chu kỳ tự nhiên. Các khảo sát nâng cao ví dụ như MRI khi prolactin tăng cao. Điều trị tùy<br />
thuộc vào nguyên nhân được tìm thấy, trong trường hợp không rõ nguyên nhân chúng tôi tiến hành điều trị<br />
kích trứng với FSH, hỗ trợ sau rụng trứng với Prednisone, progesterone và tiếp tục duy trì nếu bệnh nhân có<br />
thai có kèm thêm heparin trọng lượng phân tử thấp (Lovenox®) đến thai trên 12 tuần vô kinh.<br />
Kết quả: Chúng tôi có 45 trường hợp sẩy thai ≥ 2 lần được khảo sát trong khoảng thời gian trên, trong đó<br />
có 3 trường hợp u tuyến yên nhỏ (microadenoma), 2 trường hợp tổn thương buồng tử cung do thuyên tắc động<br />
mạch tử cung (UAE), 5 trường hợp có hội chứng kháng phospholipid, 2 trường hợp hội chứng thất bại tự miễn<br />
sinh sản (RAFS), 4 bất thường karyotype, 1 trường hợp rối loạn đường huyết, và 2 bệnh nhược giáp, bất<br />
thường nội tiết 6 trường hợp (13,3%), còn lại 21 trường hợp không rõ nguyên nhân chiếm 47%. Kết quả điều<br />
trị có 6/21 trường hợp thai tiến triển trên 12 tuần ở đối tượng không rõ nguyên nhân.<br />
Kết luận: Hơn 50% các trường hợp sẩy thai liên tiếp có nguyên nhân, hiệu quả điều trị tùy thuộc nguyên<br />
nhân. Trong trường hợp không rõ nguyên nhân việc điều trị còn nhiều tranh cãi.<br />
Từ khóa: Recurrent miscarriage, heparin, aspirin, progesterone, prednisone, reproductive autoimmune<br />
syndrome.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
RESULTS OF A CAUSAL STUDY FOR RECURRENT PREGNANCY LOSS AND EFFECTIVENESS OF<br />
TREATMENT FOR IDIOPATHIC PREGNANCY LOSS AT INFERTILITY CONSULTING ROOM,<br />
UNIVERSITY HOSPITAL, HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY<br />
(HCMCUMP)<br />
Pham Van Đuc, Au Nhut Luan<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 185 - 197<br />
Objectives: To study the causes of recurrent pregnancy loss, effects of etiology-driven treatment and effects<br />
of treatment for idiopathic recurrent pregnancy loss.<br />
Study design: A case series study. Study subjects were patients who came to University hospital,<br />
*Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP. HCM<br />
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Văn Đức<br />
<br />
Sản Phụ Khoa<br />
<br />
ĐT :<br />
<br />
0914240740<br />
<br />
Email :phamvanduc1998@gmail.com<br />
<br />
185<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
HCMCUMP, from January 2009 to May 2011, because of ≥2 recurrent consecutive pregnancy losses. Tests<br />
performed for all cases included basic endocrine quantitative determinations (FSH, LH, E2, prolactin) on 2nd day<br />
of menstrual cycle, thyroid function (TSH, free-T3, free-T4), diagnostic serology for infectious diseases (HBsAg,<br />
anti-HCV, anti-HIV, RPR-TPHA, Chlamydia trachomatis, TORCH, EBV), blood group (ABO, Rhesus,<br />
abnormal antibodies RAI screening tests), blood biology (HbA1c, direct and indirect Coombs’ tests), blood glucose<br />
(fasting and 2-hour postprandial), couples’ karyotype, immunology (antinuclear antibodies, LE cell, antiCardiolipin IgG and IgM, anti-Phospholipid IgG and IgM), monitoring of ovular cyst development during<br />
natural cycles, MRI if suspected of pituitary microadenomas. In later phase of the study, coagulation tests were<br />
added to causal screening bilan for recurrent pregnancy loss (total coagulation tests, quantifications of coagulant<br />
factors III, IV, VII, VIII). Treatments were based on the discovered causes. For idiopathic cases, we carried out the<br />
optimizing process for ovular cyst development with recombinant FSH, luteal support with high-dose<br />
dydrogesterone, immunosuppression with prednisone in luteal phase and when pregnant, anticoagulation with<br />
low molecular weight heparin (enoxaparin) when hCG test was positive and maintaining it until amenorrhea<br />
pregnancy reached 12th week.<br />
Results: In the study period, a total of 45 cases with 2 or more consecutive miscarriages were collected. The<br />
causes of recurrent pregnancy loss were identifiable in 24 patients (53%), among them 3 had small pituitary<br />
microadenomas, 2 uterine cavity injury after fibroid embolization, 5 anti-phospholipid antibody presence, 2<br />
reproductive autoimmune failure syndrome (RAFS), 4 abnormal karyotypes, 1 impaired glucose tolerance, 2<br />
subclinical hypothyroidism, 6 endocrine disorders (permanently high LH). Causes in other 21 patients remained<br />
unknown despite all the above-mentioned explorations (47%). There were totally 6 post-treatment progressing<br />
pregnancies in these 21 idiopathic cases.<br />
Conclusion: More than half of recurrent pregnancy loss cases had identifiable causes, and treatment effects<br />
were cause-dependent. For idiopathic cases, treatment options remained controversal.<br />
Key words: trichomoniasis, bacterial vaginosis, candidiasis, married women, Can Gio district<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
Sẩy thai liên tiếp được định nghĩa là sẩy thai<br />
≥ 3 lần ở tuổi thai trước 24 tuần vô kinh(36), định<br />
nghĩa này loại trừ các trường hợp thai sinh hóa<br />
(chỉ có hCG dương tính mà chưa quan sát thấy<br />
túi) hay thất bại làm tổ. Nguyên nhân của sẩy<br />
thai liên tiếp rất đa dạng, nhưng chủ yếu là do<br />
bệnh lý tự miễn chống lại bào thai và nguyên<br />
nhân bất thường di truyền(8).<br />
<br />
Mục tiêu<br />
Khảo sát các nguyên nhân, đánh giá hiệu<br />
quả điều trị tùy theo nguyên nhân được tìm thấy<br />
và phác đồ điều trị sẩy thai không rõ nguyên<br />
nhân.<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Thai kỳ nhận biết được bằng siêu âm đầu<br />
dò âm đạo sẽ có sẩy thai tự nhiên trong<br />
khoảng 15-20% các trường hợp và thường chỉ<br />
là biến cố duy nhất ở phụ nữ lứa tuổi sinh<br />
sản. Tuy nhiên, tần suất sẩy thai liên tiếp chỉ<br />
ảnh hưởng 0,5-1% phụ nữ(8), và khoảng 1-2%<br />
sẩy ra ở tam cá nguyệt thứ nhì.<br />
<br />
Một báo cáo hàng loạt trường hợp lâm sàng<br />
được thực hiện tại bệnh viện Đại học Y Dược TP<br />
Hồ Chí Minh trong khoảng 3 năm từ 2009-2011.<br />
Chọn các đối tượng có sẩy thai liên tiếp ≥ 2 lần<br />
sẩy thai mà được xác định có túi thai trong lòng<br />
tử cung bằng siêu âm đầu dò âm đạo, với tuổi<br />
thai xác định dưới 13 tuần vô kinh và loại trừ<br />
khỏi mẫu nghiên cứu tất cả các trường hợp có<br />
thai sinh hóa, thất bại làm tổ hay sẩy thai quí II.<br />
<br />
Với tiến bộ của kỹ thuật chẩn đoán và am<br />
hiểu bệnh sinh giúp thầy thuốc lâm sàng tiếp cận<br />
bệnh nhân sẩy thai liên tiếp một cách có hệ thống<br />
và điều trị tùy thuộc nguyên nhân.<br />
<br />
Tất cả các đối tượng đều khảo sát bilan sẩy<br />
thai liên tiếp và trong quá trình định bệnh không<br />
cho bệnh nhân mang thai trước khi có quyết định<br />
điều trị bao gồm:<br />
<br />
186<br />
<br />
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
Xét nghiệm nội tiết vào ngày 2 của chu kỳ<br />
kinh: FSH, LH, E2, prolactine, testosterone<br />
Xét nghiệm chức năng giáp: TSH, FT3, FT4,<br />
nếu có tình trạng cường hay nhược năng giáp<br />
được gửi đến trung tâm điều trị tuyến giáp để tìm<br />
các kháng thể kháng giáp trạng và có thể phối<br />
hợp điều trị.<br />
Xét<br />
nghiệm<br />
miễn<br />
nhiễm:<br />
Rubella,<br />
Toxoplamosis, HSV, CMV, EBV, C. trachomatis<br />
Dung nạp đường: đường huyết đói, 2 giờ sau<br />
ăn, HbA1C<br />
Máu: nhóm máu, Rh cả vợ chồng, Test<br />
Coomb’s, RAI<br />
Karyotype cả vợ và chồng<br />
Miễn dịch: ANA, Le Cell, Anticardiolipin<br />
(IgG, IgM), antiphospholipid (IgG, IgM)<br />
Theo dõi 1 chu kỳ phát triển noãn tự nhiên,<br />
đánh giá chất lượng của pha hoàng thể<br />
<br />
KẾT QUẢ-BÀN LUẬN<br />
Đặc điểm của đối tượng trong nhóm nghiên<br />
cứu<br />
Đặc điểm<br />
Nhóm tuổi trung bình<br />
Số năm lặp gia đình<br />
Số lần sẩy thai<br />
Chỉ số khối cơ thể (BMI)<br />
Chu kỳ kinh<br />
<br />
Trị số trung bình<br />
34,3 ± 4,1 tuổi (từ 23-41 tuổi)<br />
6,7 ± 3,3 năm (từ 2-13 năm)<br />
2,7 ± 1,0 lần (từ 2-7 lần)<br />
21,6 ± 2,3 (từ 18-28)<br />
31,3 ± 6,0 ngày (28-60 ngày)<br />
<br />
Kết quả cho thấy nhóm tuổi của đối tượng sẩy<br />
thai liên tiếp trong nghiên cứu được tiếp cận xác<br />
định nguyên nhân thường muộn khoảng 34 tuổi<br />
và thời gian khoảng 6,7 năm sau lập gia đình,<br />
thường 3 lần sẩy thai liên tiếp bệnh nhân mới tiếp<br />
cận xác định nguyên nhân. Ở thời điểm muộn<br />
thường bệnh nhân lớn tuổi ngoài nguyên nhân<br />
gây sẩy thai liên tiếp còn bị ảnh hưởng bất lợi do<br />
tuổi. Do đó, chúng tôi đề nghị nên khảo sát tìm<br />
nguyên nhân sẩy thai liên tiếp nếu bệnh nhân có<br />
sẩy thai liên tiếp 2 lần.<br />
Tuổi và tiền sử số lần sẩy thai liên tiếp là hai<br />
yếu tố độc lập ảnh hưởng đến lần sẩy thai tiếp<br />
theo, và cả tuổi người chồng cũng là yếu tố nguy<br />
cơ. Tuổi mẹ càng cao thì càng kết hợp với suy<br />
<br />
Sản Phụ Khoa<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
giảm cả số lượng và chất lượng của nang noãn<br />
còn lại. Trong một nghiên cứu hồi cứu cho thấy:<br />
nhóm 12-19 tuổi tỷ lệ sẩy thai là 13%, 20-24 tuổi<br />
là 11%, 25-29 tuổi là 12%, 30-34 tuổi là 15%, 35-39<br />
tuổi là 25%, 40-44 tuổi là 51%, và trên 45 tuổi là<br />
93%. Nguy cơ cao nhất là những đôi mà người<br />
vợ trên 35 tuổi và chồng trên 40 tuổi(36).<br />
Tiền sử sẩy thai là một yếu tố tiên đoán độc<br />
lập cho dư hậu thai kỳ tiếp theo, nguy cơ sẩy thai<br />
tiếp theo càng tăng sau mỗi lần sẩy thai liên tiếp,<br />
khoảng 40% sẩy thai tiếp nếu sau 3 lần sẩy thai<br />
liên tiếp và tiên lượng càng đen tối nếu kèm với<br />
tăng tuổi mẹ. Tiền căn sanh con sống thì không<br />
loại trừ khả năng sẩy thai liên tiếp sau đó(36).<br />
Các nghiên cứu hồi cứu đã cho thấy béo phì<br />
tăng cả nguy cơ sẩy thai liên tiếp và rời rạc(36).<br />
<br />
Đặc điểm nội tiết tố ngày 2 của chu kỳ kinh<br />
FSH<br />
LH<br />
E2<br />
Prolactine<br />
<br />
Trị số trung bình<br />
7,0 ± 2,3 (1,39-13)<br />
5,1 ± 1,9 (1,6-10,5)<br />
37,6 ± 31,6 (10-225)<br />
22 ± 24 (6,6-120)<br />
<br />
Kết quả xét nghiệm ngày 2 cho thấy tình<br />
trạng nội tiết tương đối bình thường, các rối loạn<br />
nội tiết chủ yếu nhẹ và thứ phát do các bệnh lý<br />
khác ảnh hưởng đến trục hạ đồi yên như: nhược<br />
giáp, u tuyến yên tăng tiết prolactin kéo dài, tình<br />
trạng không phóng noãn thường xuyên… Các<br />
rối loạn nội tiết toàn thân của người mẹ như tiểu<br />
đường, bệnh tuyến giáp kết hợp với nguy cơ sẩy<br />
thai. Phụ nữ tiểu đường có bất thường HbA1C ở<br />
quí I của thai kỳ tăng nguy cơ sẩy thai và thai dị<br />
dạng. Tuy nhiên, đường huyết điều chỉnh tốt<br />
cũng như điều trị bệnh tuyến giáp không làm cải<br />
thiện kết cục vì tần suất bệnh tiểu đường và tuyến<br />
giáp ở phụ nữ sẩy thai cũng tương tự với nhóm<br />
dân số chung(5,27).<br />
Các rối loạn này chủ yếu điều chỉnh<br />
nguyên nhân sinh bệnh, kết quả cho thấy tình<br />
trạng phóng noãn tự nhiên sau khi đã điều trị<br />
bệnh nguyên nhân và thai kỳ được đặt dưới<br />
progesterone. Hiện tại, chưa đủ chứng cứ đánh<br />
giá hiệu quả của progesterone sử dụng trong<br />
thai kỳ để dự phòng sẩy thai ở bệnh nhân sẩy<br />
thai liên tiếp (khuyến cáo B)(36). Tuy nhiên,<br />
<br />
187<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
<br />
trong một phân tích gộp dựa trên 3 thử nghiệm<br />
lâm sàng nhỏ cho thấy hiệu quả của<br />
progesterone trên kết cục sẩy thai ở bệnh nhân<br />
sẩy thai liên tiếp (OR 0,38; 95% CI 0,2-0,7) khi<br />
so với nhóm không điều trị hay dùng giả<br />
dược, tuy nhiên kết quả nghiên cứu không cho<br />
thấy cải thiện kết cục trẻ sinh sống(16).<br />
Có 6 trường hợp rối loạn nội tiết trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi là hệ quả của rối loạn<br />
phóng noãn, tình trạng không phóng noãn<br />
thường xuyên mà nguyên nhân do u tuyến yên<br />
nhỏ (có 3 trường hợp microadenoma), nhược<br />
giáp (2 trường hợp nhược giáp dưới lâm sàng),<br />
và 1 trường hợp PCOS. Tuy nhiên, các nguyên<br />
nhân này chưa đủ giải thích nguyên nhân sẩy<br />
thai liên tiếp ngoại trừ u tuyến yên, nhưng việc<br />
điều trị bệnh nguyên nhân giúp cải thiện tình<br />
trạng ức chế trục hạ đồi-tuyến yên, làm cải thiện<br />
phóng noãn tự nhiên, chất lượng noãn và hoàng<br />
thể. Kể cả việc điều trị hỗ trợ pha hoàng thể ở<br />
bệnh nhân có rụng trứng hay PCOS cũng chưa<br />
được chứng minh cải thiện kết cục thai kỳ<br />
(khuyến cáo A)(36). Do đó, điều trị bệnh nguyên<br />
nhân gây ra tình trạng rối loạn nội tiết là quan<br />
trọng chứ không phải điều trị hỗ trợ chúng.<br />
Có 1 trường hợp có rối loạn dung nạp đường<br />
kèm béo phì (BMI: 28) nằm trong bệnh cảnh<br />
PCOS, bệnh nhân khuyên giảm cân kết hợp<br />
metformin 1000mg/ngày sau khoảng 6 tháng.<br />
Sau đó bệnh nhân có kinh và thai kỳ tự nhiên<br />
được bảo vệ dưới progesterone có kèm<br />
metformin đến 12 tuần vô kinh. Một số tác giả<br />
nhận thấy có 36-56% phụ nữ có sẩy thai liên tiếp<br />
có PCOS được chẩn đoán trên siêu âm, tuy nhiên<br />
các bằng chứng hiện tại cho thấy PCOS ở phụ nữ<br />
có sẩy thai liên tiếp thì dự hậu thai kỳ sau đó thì<br />
không có xấu hơn ở phụ nữ có sẩy thai liên tiếp<br />
mà không kèm PCOS(24). Các báo cáo cho thấy<br />
tần suất sẩy thai ở phụ nữ có PCOS giảm sau sau<br />
đốt điểm buồng trứng và khi điều trị tình trạng<br />
đề kháng Insulin như metformin với giả thuyết<br />
là nồng độ cao androgens và hoặc LH làm tăng<br />
nguy cơ sẩy thai(8). Tuy nhiên, hiện tại chưa đủ<br />
chứng cứ để đánh giá hiệu quả của metformin<br />
<br />
188<br />
<br />
trong dự phòng sẩy thai ở phụ nữ có tiền căn sẩy<br />
thai liên tiếp (khuyến cáo C)(36).<br />
Trong đó có 3 trường hợp phát hiện tăng<br />
prolactin máu, kết quả chụp MRI sọ não cho<br />
thấy có u tuyến yên nhỏ (microadenoma). Được<br />
điều trị bằng parlodel 2,5mg theo phác đồ liều<br />
thấp tăng dần và duy trì cho khi nồng độ<br />
prolactin máu ổn định < 30 ng/ml và không còn<br />
tiết sữa, chu kỳ kinh bình thường có phóng noãn<br />
và tiếp tục duy trì khi có thai đến hết 36 tuần vô<br />
kinh. Kết quả chúng tôi đang có 2 thai kỳ tiến<br />
triển khoảng 20 tuần vô kinh với liều parlodel<br />
khoảng 10mg/ngày.<br />
Có 2 trường hợp nhược năng tuyến giáp dưới<br />
cận lâm sàng, được điều trị hormone giáp trạng<br />
cho đến bình giáp và có phóng noãn trở lại. Đã<br />
có 1 trường hợp thai tự nhiên được bảo vệ dưới<br />
prednisone, progesterone và Lovenox® liều thấp<br />
đến 12 tuần vô kinh. Vì nhược giáp dưới lâm<br />
sàng chưa đủ giải thích nguyên nhân sẩy thai<br />
liên tiếp và có thể liên quan bệnh miễn dịch do<br />
có kháng thể kháng giáp, do đó trong các trường<br />
hợp này chúng tôi xử trí giống trường hợp sẩy<br />
thai không rõ nguyên nhân.<br />
Kháng thể kháng giáp đã được biết liên quan<br />
đến tình trạng sẩy thai liên tiếp. Tuy nhiên, trong<br />
một nghiên cứu bệnh chứng từ năm 1998 cho<br />
thấy nồng độ kháng thể trong tuần hoàn ở nhóm<br />
có sẩy thai liên tiếp không khác biệt với nhóm<br />
không có sẩy thai(10). Một nghiên cứu tiến cứu<br />
cho thấy hiện diện kháng thể kháng giáp ở bệnh<br />
nhân bình giáp có tiền sử sẩy thai liên tiếp không<br />
ảnh hưởng tương lai sản khoa(40).<br />
Kết quả nhiễm sắc thể đồ phát hiện có 4<br />
trường hợp bất thường NST<br />
Kết quả NST đồ có 4/45 trường hợp có bất<br />
thường NST, chủ yếu mất và đảo đoạn cân bằng<br />
trên NST thường. Các trường hợp sẩy thai liên<br />
tiếp nhiều lần kèm karyotype có mất đoạn,<br />
chuyển đoạn NST lớn chúng tôi khuyên bệnh<br />
nhân xin trứng hay xin con nuôi (trường hợp 2,<br />
3). Còn các trường hợp chuyển đoạn tương hỗ ở<br />
nhánh ngắn, do nguyên nhân nam và bệnh nhân<br />
trẻ tuổi, đã có con thì chúng tôi thực hiện kích<br />
<br />
Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br />
noãn dưới FSH ngoại sinh, hỗ trợ pha hoàng thể<br />
progesterone, prednisone, nếu có thai (Qs +) thai<br />
kỳ được bảo vệ dưới các thuốc trên và Lovenox®<br />
liều thấp đến 12 tuần vô kinh.<br />
Các yếu tố di truyền cũng góp phần trong các<br />
nguyên nhân sẩy thai liên tiếp, chuyển đoạn cân<br />
bằng giữa mẹ và cha được quan sát trong 2-5%(18).<br />
Mặc dù, người bình thường mang bất thường<br />
chuyển đoạn cân bằng, nhưng thai kỳ của họ lại<br />
tăng nguy cơ sẩy thai và con họ khi sinh ra có thể<br />
mang đa dị tật và hoặc thiểu năng trí tuệ là kết<br />
quả của tái sắp xếp các NST không cân bằng.<br />
Nguy cơ sẩy thai bị ảnh hưởng bởi kích thước và<br />
số lượng gen chứa trên đoạn NST tái sắp xếp lại<br />
từ vốn di truyền của bố mẹ(36). Phả hệ gia đình bị<br />
sẩy thai liên tiếp cũng được mô tả, gợi ý một<br />
thành tố di truyền cho tình trạng này, có liên<br />
quan đến lệch NST X dẫn đến bất hoạt NST này<br />
hay tình trạng bất thường HLA (human<br />
leukocyte antigen) liên quan đến việc mở và hoạt<br />
hóa các mật mã di truyền đến từ tinh trùng và<br />
noãn sau thụ tinh để biệt hóa cơ quan bào thai.<br />
Ngoài ra, khiếm khuyết đơn gen ví dụ như đột<br />
biến và đa hình gen, hệ thống HLA, con đường<br />
chuyển hóa acid folic và quá trình đông máu<br />
cũng được mô tả kèm theo sẩy thai liên tiếp(8).<br />
Các cặp vợ chồng có chuyển đoạn cân bằng hay<br />
đảo đoạn NST nên khảo sát di truyền chẩn đoán<br />
tiền thai bởi vì có tăng nguy cơ bất thường NST<br />
trong bào thai. Tuy nhiên, việc khảo sát này trên<br />
mô sẩy thai hay sản phẩm từ bào thai thì không<br />
cần thiết ngoại trừ mục tiêu nghiên cứu khoa học.<br />
Ở những người sẩy thai liên tiếp, bất thường NST<br />
của phôi thai chiếm 30-57% ở lần sẩy thai tiếp<br />
theo và tăng theo tuổi của người mẹ(36). Các bằng<br />
chứng hiện tại đã chưa đủ bằng chứng để chứng<br />
minh một tình trạng không lệch bội của bào thai<br />
có thể loại trừ các nguyên nhân di truyền từ bố<br />
mẹ hay việc thay đổi điều trị có có ảnh hưởng kết<br />
cục của họ, cũng như giá trị tiên lượng của di<br />
truyền bào thai vẫn còn tranh cải. Vì còn có cơ<br />
chế tự sửa đổi tự nhiên trên các khiếm khuyết<br />
NST di truyền của bố mẹ cũng như di truyền<br />
ngoài nhân như ty thể từ mẹ ảnh hưởng cơ chế<br />
bảo vệ hay thải trừ của bào thai(8).<br />
<br />
Sản Phụ Khoa<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Thực hiện NST đồ cả vợ lẫn chồng đối với<br />
các trường hợp sẩy thai liên tiếp nhất là khi<br />
khảo sát sản phẩm thụ thai có bất thường cấu<br />
trúc NST không cân bằng (khuyến cáo D). Khi<br />
tìm thấy các bất thường trên karyotype của bố<br />
mẹ cần chuyển đến chuyên gia tư vấn về di<br />
truyền (khuyên cáo D)(36).<br />
Nên phân tích di truyền các sản phẩm thụ<br />
thai sau lần thứ 3 và sẩy thai liên tiếp (khuyến<br />
cáo D)(36), vì những hiểu biết kết quả này giúp<br />
tiên lượng thai kỳ tiếp theo, nếu karyotype thai<br />
bình thường thì có tiên lượng tốt ở thai kỳ tiếp<br />
sau, nguy cơ càng cao nếu số lần lệch bội trước<br />
đây càng tăng(29).<br />
Chẩn đoán tiền làm tổ (PGD) được đề xuất<br />
như một lựa chọn điều trị ở những đôi có chuyển<br />
đoạn hay bất thường NST khi thực hiện<br />
IVF/ICSI(30,41), nhưng chủ trương này bị vấp phải<br />
chi phí cao cho một trẻ sinh sống khỏe mạnh<br />
trong tổng số chu kỳ IVF có thực hiện PGD và tỷ<br />
lệ trẻ sinh sống chỉ 30% và không khác biệt so với<br />
nhóm chứng(25), trong khi thai kỳ tự nhiên có tần<br />
suất trẻ sinh sống thành công 50-70%(38,42,11). Tầm<br />
soát khảo sát gen tiền làm tổ (PGS) với IVF/ICSI<br />
ở phụ nữ sẩy thai liên tiếp không rõ nguyên<br />
nhân cũng không cải thiện trẻ sinh sống (khuyến<br />
cáo C)(36), các báo cáo cho thấy tần suất trẻ sinh<br />
sống ở thai kỳ tự nhiên cao hơn nhóm sau tầm<br />
soát tiền làm tổ (PGS)/IVF 20-30%(12).<br />
Trong điều kiện hiện tại Việt Nam, chúng tôi<br />
khảo sát các bất thường NST bố mẹ chỉ có mục<br />
tiêu tham khảo, các phân tích gen chưa được<br />
đánh giá cũng như mức độ ảnh hưởng bất thường<br />
NST của bố mẹ chưa được chứng minh. Trong bối<br />
cảnh này, nếu có bất thường mất đoạn lớn NST,<br />
hay có chuyển đoạn không cân bằng từ người nữ<br />
chúng tôi khuyên bệnh nhân nên xin trứng hay<br />
xin con nuôi. Còn các chuyển đoạn nhỏ và cân<br />
bằng, bất thường ở người nam chúng tôi tối ưu<br />
hóa phát triển nang noãn với FSH ngoại sinh và<br />
thai kỳ dưới progesterone kết hợp Lovenox® liều<br />
thấp đến 12 tuần vô kinh.<br />
<br />
Đặc điểm miễn nhiễm<br />
Dương tính<br />
<br />
âm tính<br />
<br />
189<br />
<br />