intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khảo sát nhu cầu đào tạo của các tổ chức xã hội dân sự: Phát triển tổ chức và huy động sự tham gia của cộng đồng xây dựng chính sách ở Việt Nam

Chia sẻ: Zing Zing Nè | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

48
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo cáo đánh giá khảo sát này là một trong những hoạt động đầu tiên do Quỹ Châu Á tiến hành phối hợp với ba tổ chức tại Việt Nam (Viện nghiên cứu xã hội – ISS; Viện Môi trường và Phát triển bền vững – VESDI; và Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao năng lực cho phụ nữ – CEPEW) làm tiền đề cho việc xây dựng chương trình đào tạo trong khuôn khổ dự án cho các VNGO về lĩnh vực quản trị nội bộ và vận động chính sách. Báo cáo được chia làm bốn phần.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khảo sát nhu cầu đào tạo của các tổ chức xã hội dân sự: Phát triển tổ chức và huy động sự tham gia của cộng đồng xây dựng chính sách ở Việt Nam

  1. Khảo sát Nhu cầu Đào Tạo của các Tổ Chức Xã Hội Dân Sự: • Phát Triển Tổ Chức và Huy Động sự Tham gia của Cộng Đồng Xây Dựng Chính Sách ở Việt Nam • Dự Án “Nâng Cao Năng Lực Cho Các Tổ Chức Xã Hội Dân Sự Tham Gia Vào Quá Trình Xây Dựng Chính Sách ở Việt Nam” HÀ NộI, THÁNG 11 NăM 2008
  2. Báo cáo được Quỹ Châu Á hoàn thành với sự đóng góp của TS. Nguyễn Thị Thu, tư vấn độc lập; TS. Vương Thị Hanh và Ngô Thu Hà, Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao Năng lực cho Phụ nữ (CEPEW); GS. Lê Thạc Cán và Nguyễn Đức Tùng, Viện Môi trường và Phát triển Bền vững (VESDI); và Đặng Thanh Thảo và Dương Thị Nga, Viện Nghiên cứu Xã hội (ISS).
  3. Mục lục Tóm tắt báo cáo ................................................................................................................................. iv Phần 1. Giới thiệu................................................................................................................................1 Phần 2. Bối cảnh. ................................................................................................................................3 1. Môi trường chính sách liên quan đến các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam ................................... 3 2. Nhu cầu hỗ trợ và nâng cao năng lực của các tổ chức XHDS tại Việt Nam ........................................ 7 Phần 3. Phương pháp khảo sát đánh giá ...................................................................................10 1. Mục tiêu ........................................................................................................................................................... 10 2. Đối tượng, phạm vi khảo sát đánh giá....................................................................................................... 10 2.1. Đối tượng khảo sát và đánh giá .......................................................................................................... 10 2.2. Phạm vi đánh giá khảo sát ................................................................................................................... 11 3. Phương thức và công cụ khảo sát đánh giá............................................................................................. 11 Phần 4. Kết quả khảo sát và đánh giá .........................................................................................13 1. Thực trạng tổ chức và trình độ của các VNGO trong việc củng cố và phát triển tổ chức ............... 13 1.1. Về cơ sở vật chất và cơ cấu tổ chức ................................................................................................. 13 1.2. Mục tiêu và lĩnh vực hoạt động của các VNGOs:............................................................................ 15 1.3. Thực trạng nguồn nhân lực của các VNGO ..................................................................................... 16 2. Thực trạng năng lực của đội ngũ cán bộ các VNGO và công tác đào tạo nâng cao năng lực cho các VNGO ........................................................................................................................................................... 18 2.1.Thực trạng năng lực của đội ngũ cán bộ các VNGO ....................................................................... 18 2.2. Công tác đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ các VNGO ......................................... 20 3. Thực trạng năng lực của các VNGO trong công tác vận động chính sách và huy động cộng đồng tham gia xây dựng chính sách......................................................................................................................... 22 3.1. VNGOs với việc tham gia vận động chính sách .............................................................................. 22 3.2. Ý kiến của các VNGO nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động chính sách ...................... 28 3.3. Một số khoá tập huấn về phát triển tổ chức và vận động chính sách đã thực hiện.................. 29 4. Nhu cầu đào tạo của các VNGO ............................................................................................................... 30 4.1. Nhu cầu đào tạo - chủ đề đào tạo....................................................................................................... 30 4.2. Ý kiến của các VNGO về công tác tổ chức đào tạo ........................................................................ 31 5. Đánh giá chung về năng lực và công tác nâng cao năng lực của các VNGO tham gia khảo sát.. 32 5.1. Về năng lực và nâng cao năng lực trong lĩnh vực củng cố và phát triển tổ chức ..................... 32 5.2. Về năng lực và nâng cao năng lực trong lĩnh vực vận động chính sách ................................... 34 5.3. Đề xuất nhằm nâng cao năng lực cho các tổ chức VNGO trong công tác PTTC và VĐCS ... 35 Phụ lục .................................................................................................................................................43 Phụ lục 1: Tài liệu tham khảo .......................................................................................................................... 43 Phụ lục 2: Danh sách cán bộ và VNGO tham gia điền phiếu điều tra và phỏng vấn. .......................... 45 Phụ lục 3: Phiếu khảo sát Dự án “Nâng cao năng lực cho các tổ chức xã hội dân sự tham gia vào quá trình xây dựng chính sách ở Việt Nam” ................................................................................................. 51 Phụ lục 4: Một số khóa học có cán bộ của VNGO tham gia...................................................................... 61 Phụ lục 5: Các tổ chức/cá nhân đào tạo tiềm năng..................................................................................... 63 Phụ lục 6: Danh sách các VNGO đăng ký theo Nghị định 81 ................................................................... 72 Phụ lục 7: Danh sách các mạng lưới VNGO hiện có .................................................................................. 80 Bảng Bảng 1: Lịch sử của tổ chức và hiện trạng sử dụng trang web................................................. 13 Bảng 2: Lĩnh vực hoạt động của các VNGO............................................................................ 15 Bảng 3: Số lượng và độ tuổi của cán bộ trong các VNGO....................................................... 16 Bảng 4: Trình độ chuyên môn của cán bộ trong các VNGO.................................................... 17 Bảng 5: Trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo tham gia khảo sát .................................... 17 i
  4. Bảng 6: Độ tuổi và kinh nghiệm làm việc trong tổ chức VNGO của cán bộ lãnh đạo tham gia khảo sát ..................................................................................................................................... 17 Bảng 7: Sự quan tâm của các VNGO đến công tác vận động chính sách ................................ 23 Bảng 8: Nhu cầu đào tạo của các VNGO trong khuôn khổ nghiên cứu................................... 30 Bảng 9: Kế hoạch đào tạo......................................................................................................... 41 ii
  5. Các từ viết tắt CDG Nhóm Hợp tác Phát triển CIFPEN Nhóm các Tổ chức Xã hội Dân sự vì An ninh Lương thực và Giảm nghèo GENCOMNET Nhóm Giới và Phát triển Cộng đồng INGO Tổ chức phi chính phủ quốc tế LHHVN Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam MFWG Nhóm Công tác Tài chính Vi mô Việt Nam PTCĐ Phát triển cộng đồng PTTC Phát triển tổ chức TOT Đào tạo huấn luyện viên VĐCS Vận động chính sách VNGO Tổ chức phi chính phủ Việt Nam VNGOG Nhóm các tổ chức phi chính phủ Việt Nam VNWP Mạng lưới Cộng tác vì Nước của Việt Nam VRN Mạng lưới về Sông ngòi và Phát triển Bền vững Việt Nam XĐGN Xoá đói giảm nghèo XHDS Xã hội dân sự iii
  6. Tóm tắt báo cáo Trong những năm gần đây, số lượng các tổ chức phi chính phủ Việt Nam (VNGO) đang ngày càng tăng, tạo ra bộ mặt mới cho xã hội dân sự ở Việt Nam. Các tổ chức này có thế mạnh là hiểu rõ nhu cầu của cộng đồng tại địa phương và có khả năng tiến hành các giải pháp phù hợp với cộng đồng, từ đó góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững của Việt Nam, tăng cường chất lượng các dịch vụ công đến những vùng sâu vùng xa nơi Nhà nước chưa có điều kiện với tới. Tuy nhiên, thiếu khuôn khổ pháp lý hỗ trợ, thiếu nguồn tài chính bền vững, và hạn chế về năng lực tổ chức là những yếu tố kìm hãm sự phát triển của khu vực phi lợi nhuận, phi chính phủ này. Do đó tiếng nói của người dân đối với những chính sách và quyết định ảnh hưởng tới quyền lợi của họ chưa đến được với các cơ quan hoạch định chính sách. Nhận thức được vai trò to lớn cũng như những khó khăn thách thức của các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam, Quỹ Châu Á phối hợp với Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) và một số tổ chức liên quan khác thực hiện dự án “Nâng cao năng lực cho các tổ chức xã hội dân sự tham gia vào quá trình xây dựng chính sách ở Việt Nam” trong thời gian 3 năm nhằm hướng tới 3 mục tiêu: (i) Tăng cường kỹ năng quản trị nội bộ các tổ chức phi chính phủ và xây dựng mạng lưới liên kết các tổ chức này; (ii) Xây dựng năng lực cho các tổ chức phi chính phủ về kỹ năng huy động cộng đồng tham gia hiệu quả trong quá trình xây dựng chính sách và ra quyết định; và (iii) Tăng cường sự liên kết giữa các tổ chức phi chính phủ với Quốc hội. Báo cáo đánh giá khảo sát này là một trong những hoạt động đầu tiên do Quỹ Châu Á tiến hành phối hợp với ba tổ chức tại Việt Nam (Viện nghiên cứu xã hội – ISS; Viện Môi trường và Phát triển bền vững – VESDI; và Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao năng lực cho phụ nữ – CEPEW) làm tiền đề cho việc xây dựng chương trình đào tạo trong khuôn khổ dự án cho các VNGO về lĩnh vực quản trị nội bộ và vận động chính sách. Báo cáo được chia làm bốn phần. Phần 1 giới thiệu chung. Phần 2 nêu ra bối cảnh bao gồm môi trường chính sách liên quan đến các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam và nhu cầu hỗ trợ nâng cao năng lực của các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam. Phần 3 giới thiệu phương pháp khảo sát với đối tượng khảo sát được lựa chọn từ hai loại hình tổ chức xã hội dân sự là các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam thành lập theo Nghị định 81 và các tổ chức Hội thành lập theo Nghị định 88. Phương pháp khảo sát áp dụng là thu thập và nghiên cứu tài liệu có sẵn, sử dụng bảng câu hỏi, và phỏng vấn trực tiếp. Phần 4 tổng hợp kết quả khảo sát đánh giá và đưa ra các kiến nghị. Kết quả đánh giá khẳng định những thông tin đã được dự đoán trước và cũng cung cấp một số thông tin mới hữu ích cho hoạt động đào tạo tiếp theo của dự án. Dưới đây là một số kết quả đáng chú ý: 1) Thực trạng tổ chức và trình độ của các VNGO trong việc củng cố và phát triển tổ chức: • Hầu hết các VNGO đang trong tình trạng khó khăn về cơ sở vật chất và trang thiết bị. Khoảng 80% số tổ chức khảo sát phải đi thuê văn phòng, số tổ chức còn lại dùng nhà riêng để hoạt động bởi không có kinh phí để thuê nhà. • Số lượng các VNGO mới thành lập trong vòng 10 năm trở lại đây chiếm 68,2% trong tổng số tổ chức khảo sát (55/79), phản ánh sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các tổ chức VNGO trong những năm gần đây. iv
  7. • Số tổ chức VNGO chưa có trang web riêng chiếm tới 64,5% (51/79), trong đó 13/51 tổ chức thành lập trên 10 năm, 22/51 tổ chức thành lập từ 6-10 năm và 16/51 tổ chức mới thành lập 5 năm trở lại đây, cho thấy việc đã hoặc chưa sử dụng trang web riêng không phụ thuộc vào số năm kinh nghiệm của tổ chức. • Các tổ chức cùng lúc có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. 80% số tổ chức được khảo sát (61/76) hoạt động từ 3 đến 11 lĩnh vực, trong đó đại đa số tập trung vào lĩnh vực xóa đói giảm nghèo (XĐGN) và phát triển cộng đồng (PTCĐ) chiếm 72,3% (55/76), môi trường và tài nguyên 63,1% (48/76), và nông lâm thuỷ sản 53,9% (41/76). Công tác vận động chính sách đã được các VNGO rất quan tâm, thể hiện ở việc có tới 42,1% số tổ chức đã có hoạt động về lĩnh vực này. • Đội ngũ nhân sự trong các VNGOs khá dồi dào và đang được trẻ hóa với số cán bộ dưới 30 tuổi chiếm 45,2%, trình độ chuyên môn và bằng cấp học vị khá cao với 88,9% có bằng đại học trở lên. • Tuy nhiên, độ tuổi của đội ngũ lãnh đạo trong các VNGO khá cao (68% trên 50 tuổi), trong đó có 16/51 người ở độ tuổi từ 70 trở lên, cho thấy sự cần thiết phải có động tác chuẩn bị để đào tạo bồi dưỡng một đội ngũ lãnh đạo kế cận trong những năm tới. 2) Thực trạng năng lực của đội ngũ cán bộ các VNGO và công tác đào tạo nâng cao năng lực cho các VNGO • Lãnh đạo các VNGO cho rằng nhiệm vụ vận động và tìm kiếm tài trợ là một nhiệm vụ quan trọng nhưng cũng rất thách thức đối với đại đa số các VNGO hiện nay, bằng chứng là 50% lãnh đạo được phỏng vấn cho rằng họ mới hoàn thành nhiệm vụ này ở mức độ 3 (tức là hoàn thành hơn một nửa nhiệm vụ), và chỉ khoảng 30% đánh giá ở mức độ 4 (có thể hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ nhưng mất nhiều thời gian) và mức độ 5 – mức độ cao nhất chỉ chiếm 20% (có thể hoàn thành nhiệm vụ theo yêu cầu đặt ra). • Trong khi đó, thách thức đối với các cán bộ dự án lại nằm ở nhiệm vụ viết đề xuất dự án với khoảng 40% cán bộ được hỏi cho rằng mình chỉ hoàn thành nhiệm vụ này ở mức độ 1 hoặc 2 (tức là không thể hoàn thành bất kỳ một phần nào của công việc hoặc chỉ hoàn thành một nửa nhiệm vụ). • Mặc dù nhận thức rất rõ tầm quan trọng của công tác đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ, các VNGO vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc cử cán bộ đi tham dự các khóa tập huấn, phần vì nguồn tài chính hạn chế, phần vì công việc nhiều, địa bàn hoạt động ở nơi vùng sâu vùng xa. Trên 30% số tổ chức được khảo sát trả lời rằng chưa được tham gia bất kỳ khoá học nào, tập trung ở các VNGO mới thành lập và ở các VNGO khảo sát tại TP.Huế và TP.Hồ Chí Minh. Trong số các tổ chức đã từng được tham gia các khoá học, trên 70% số tổ chức trả lời chưa được tham gia các khoá học về lĩnh vực phát triển tổ chức và vận động chính sách. 3) Thực trạng năng lực của các VNGO trong công tác vận động chính sách và huy động cộng đồng tham gia xây dựng chính sách • Vận động chính sách tuy nhìn từ góc độ lý luận còn là một khái niệm khá mới mẻ song trên thực tế đã tồn tại từ khá lâu như một biểu hiện tất yếu của xã hội. 68,3% số tổ chức được hỏi trả lời có quan tâm đến công tác vận động chính sách, và trên thực tế, đã có những VNGO chính thức tham gia vào việc xây dựng các luật, quy định quan v
  8. trọng của nhà nước và phản ánh ý kiến của các cộng đồng nhân dân về các dự thảo luật, các quy định này. • Một số khóa tập huấn về phát triển tổ chức và vận động chính sách được thực hiện với các mục tiêu cụ thể, nội dung đào tạo đáp ứng cả về mặt kiến thức cũng như kỹ năng để có thể áp dụng trong thực tế, và phương pháp đào tạo lấy học viên làm trung tâm. Tuy nhiên, điểm hạn chế của các khóa tập huấn này là nội dung và tài liệu đào tạo chưa được chuẩn hóa, hình thức trình bày còn sơ sài chưa thu hút được học viên, các khóa học còn thiên nhiều về lý thuyết, các mô hình nghiên cứu điển hình nếu có cũng đều của nước ngoài, và đặc biệt là sau tập huấn không có nguồn lực cho hoạt động tiếp theo để áp dụng kiến thức, kỹ năng vào thực tế. 4) Nhu cầu đào tạo của các VNGO • Nhu cầu đào tạo của các VNGO rất lớn. Chỉ trong khuôn khổ của 79 VNGO được khảo sát đã có 1.370 lượt người có nhu cầu tham gia các khoá học ở cả 5 nội dung. Trong đó lĩnh vực về phát triển tổ chức và đào tạo huấn luyện viên cho phát triển tổ chức có nhu cầu cao nhất chiếm 47,5% (651/1370), tiếp theo là lĩnh vực về đào tạo huấn luyện viên cho kỹ năng huy động sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng chính sách chiếm 41,1%, chứng tỏ các VNGO có nguyện vọng sau khoá học có thể đào tạo lại cho đồng nghiệp trong tổ chức hoặc cho các tổ chức khác khi có nhu cầu. • Về công tác tổ chức đào tạo, các VNGO có ý kiến như sau: nội dung nên được kết cấu logic theo từng phần và phân chia các phần theo từng đợt tập huấn; phân chia lãnh đạo và cán bộ học riêng từng lớp; khóa học dành cho lãnh đạo thời gian ngắn từ 1- 2 ngày/đợt là tối đa, vì lãnh đạo bận nhiều việc không thể tham gia lâu hơn, trong khi đối với cán bộ, thời gian học tối đa là 4 ngày/đợt; về phương pháp đào tạo, nên dành nhiều thời gian cho thực hành, thông qua làm bài tập và thảo luận nhóm, với các mô hình nghiên cứu điển hình gần gũi với người học, cộng thêm hỗ trợ kinh phí sau tập huấn cho hoạt động tiếp theo để áp dụng kiến thức vào thực tế; mỗi lớp học không nên quá 30 học viên. Căn cứ vào kết quả của hoạt động đánh giá nhu cầu đào tạo, nhóm nghiên cứu đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao năng lực cho các tổ chức VNGO trong công tác phát triển tổ chức và vận động chính sách như sau: tạo ra môi trường chính sách thuận lợi để tăng cường tổ chức VNGO và nâng cao năng lực cho các VNGO thông qua đào tạo. Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất một chương trình đào tạo về lĩnh vực phát triển tổ chức và vận động chính sách trong khuôn khổ của dự án cho giai đoạn tiếp theo. vi
  9. Phần 1. Giới thiệu Nhiều thập kỷ qua, nhà nước phổ biến thông tin, chính sách, cung cấp các dịch vụ kinh tế xã hội cơ bản, cũng như tham vấn ý kiến công chúng qua hệ thống các tổ chức chính trị xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc như: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, và Liên đoàn Lao động. Mặc dù hệ thống các tổ chức chính trị xã hội vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền và phổ biến thông tin, chính sách và cung cấp các dịch vụ đến đông đảo người dân, các tổ chức này chưa thực sự hiệu quả trong việc tăng trách nhiệm giải trình về quản trị nhà nước. Các tổ chức này cũng chưa thực sự năng động trong việc tham vấn và tập hợp ý kiến người dân trong quá trình hoạch định và xây dựng chính sách trong bối cảnh phát triển kinh tế nhanh kéo theo các thay đổi về xã hội tại Việt Nam. Số lượng các tổ chức phi chính phủ Việt Nam (VNGO) trong nước tuy còn ít nhưng đang ngày càng tăng. Hiểu rõ nhu cầu của cộng đồng tại địa phương và tiến hành các giải pháp phù hợp với cộng đồng là thế mạnh của họ. Tuy nhiên, thiếu khuôn khổ pháp lý hỗ trợ, thiếu nguồn tài chính bền vững, và hạn chế về năng lực tổ chức là những yếu tố kìm hãm sự phát triển của khu vực phi lợi nhuận, phi chính phủ hiện nay. Do đó họ chưa có tiếng nói trong quá trình xây dựng chính sách. Một số tổ chức phi chính phủ Việt Nam khác có kinh nghiệm hơn đã bắt đầu cộng tác với những cộng sự cùng chí hướng từ các tổ chức quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội, để huy động kinh nghiệm, kiến thức, và có cách tiếp cận chính thức để đưa những phản biện và phân tích chính sách đa chiều đóng góp vào quá trình xây dựng cơ chế và chính sách của chính phủ. Tuy nhiên những nỗ lực này vẫn còn ít, mang tính chất ngắn hạn và vẫn còn cá biệt. Các đánh giá từ trước đến nay về xã hội dân sự (XHDS) tại Việt Nam do các tổ chức tiến hành, cho thấy xã hội dân sự có tiềm năng tổ chức sự tham gia của các cá nhân vào công cuộc phát triển vì một xã hội tốt đẹp hơn. Nhưng sự manh mún của XHDS hiện nay là một bất lợi hạn chế khả năng đóng góp và tham gia của họ. Điều này chỉ có thể được cải thiện nếu xã hội rộng mở hơn với các tổ chức XHDS, và bản thân các tổ chức và các nhóm cần liên kết với nhau một cách mạnh mẽ hơn và cần có sự phân công lao động rõ ràng hơn để từng nhóm có thể tập trung vào những lĩnh vực mà nhóm có thể hoạt động hiệu quả nhất. Đồng thời, các nhóm cần tiếp tục để tăng cường hơn nữa vai trò và trách nhiệm của hội viên của mình1. Trong bối cảnh Việt Nam, với mạng lưới các tổ chức quần chúng rộng khắp có vai trò mạnh mẽ trong quá trình xây dựng và ra quyết định chính sách, cần nghiên cứu và đề xuất cơ chế hợp tác, phối hợp và liên kết hiệu quả giữa các tổ chức XHDS và các tổ chức quần chúng vì sự phát triển bền vững của đất nước. Nhận thức được vai trò to lớn cũng như những khó khăn thách thức của các tổ chức XHDS Việt Nam, Quỹ Châu Á đang phối hợp với Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) và một số tổ chức liên quan khác thực hiện dự án “ Nâng cao năng lực cho các tổ chức xã hội dân sự tham gia vào quá trình xây dựng chính sách ở Việt Nam” trong thời gian 3 năm nhằm hướng tới 3 mục tiêu: (i) Tăng cường kỹ năng quản trị nội bộ các tổ chức phi chính phủ và xây dựng mạng lưới liên kết các tổ chức này; (ii) Xây dựng năng lực cho các tổ chức phi chính phủ về kỹ năng huy động cộng đồng tham gia hiệu quả trong quá trình xây dựng chính sách và ra quyết định; và (iii) Tăng cường sự liên kết giữa các tổ chức phi chính phủ với Quốc hội. 1 Nordlund, Irene và Đặng Ngọc Dinh. “Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại Việt Nam.” CIVICUS, VIDS, SNV, và UNDP (Tháng 3 năm 2006). 1
  10. Để đạt được các mục tiêu trên, Quỹ Châu Á sẽ tiến hành những hoạt động sau: • Thiết lập một hệ thống dữ liệu về các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam và đánh giá nhu cầu nâng cao kỹ năng quản trị nội bộ và kỹ năng vận động chính sách, huy động sự tham gia của cộng đồng trong việc hoạch định chính sách ở Việt Nam của các tổ chức phi chính phủ Việt Nam. • Hỗ trợ và tăng cường hợp tác, liên kết các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam. • Tổ chức các lớp tập huấn cho các tổ chức phi chính phủ Việt Nam về kỹ năng quản trị nội bộ và huy động sự tham gia của cộng đồng và vận động chính sách cho một số tổ chức phi chính phủ Việt Nam được lựa chọn. • Hỗ trợ trao đổi thông tin và hợp tác giữa các tổ chức phi chính phủ Việt Nam và Quốc hội trong việc xây dựng chính sách. • Lồng ghép các thông tin về sự tham gia của người dân và vai trò của các tổ chức phi chính phủ Việt Nam trong quá trình soạn thảo luật vào các chương trình đào tạo của Quốc hội. Báo cáo đánh giá khảo sát này là một trong những hoạt động đầu tiên do Quỹ Châu Á tiến hành phối hợp với ba tổ chức tại Việt Nam (Viện Nghiên cứu Xã hội – ISS; Viện Môi trường và Phát triển bền vững – VESDI; và Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao Năng lực cho Phụ nữ – CEPEW). Kết quả khảo sát và đánh giá này sẽ được dùng làm cơ sở để xây dựng chương trình đào tạo trong khuôn khổ dự án cho các VNGO về lĩnh vực quản trị nội bộ và vận động chính sách. Kết quả khảo sát được trình bày trong phần 4 bao gồm: đánh giá thực trạng năng lực của tổ chức trong việc củng cố phát triển tổ chức cũng như năng lực vận động chính sách, khảo sát đánh giá nhu cầu đào tạo của cán bộ thông qua việc xác định chức năng nhiệm vụ và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân để qua đó xác định những kiến thức kỹ năng thiếu hụt cần bổ sung. Phần 5 đưa ra những đánh giá chung về năng lực và công tác đào tạo nâng cao năng lực, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển tổ chức và vận động chính sách. Phần 6 nêu lên những đề xuất làm thế nào để nâng cao năng lực cho các tổ chức VNGO trong lĩnh vực quản trị nội bộ và vận động chính sách. Những đề xuất trong phần này bao gồm: tạo ra môi trường, thể chế thuận lợi để tăng cường củng cố các tổ chức phi chính phủ Việt Nam, đề xuất một chương trình đào tạo về lĩnh vực phát triển tổ chức và vận động chính sách trong khuôn khổ của dự án cho giai đoạn tiếp theo. 2
  11. Phần 2. Bối cảnh 1. Môi trường chính sách liên quan đến các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam Từ cuối những năm 1986, quyết định đi theo con đường phát triển và tăng trưởng theo định hướng thị trường của Việt Nam đã dẫn tới một số cải cách về thể chế và môi trường pháp lý liên quan đến phát triển kinh tế và khu vực kinh tế tư nhân. Giai đoạn phát triển mới của Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu đòi hỏi những bước cải cách thể chế mạnh hơn nữa để tăng cường đổi mới đưa ra các giải pháp đúng đắn để tận dụng các cơ hội và đối đầu với thách thức nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Một xã hội muốn phát triển được phải dựa vào sự phát triển của ba khu vực Xã Hội Dân Sự (XHDS), khu vực Nhà Nước, và khu vực thị trường.2 Nếu xã hội dân sự được phát triển trong mối quan hệ hài hòa với nhà nước và thị trường thì sẽ làm tăng sức mạnh quốc gia.3 Xã hội dân sự hiện đang là vấn đề được cả giới nghiên cứu khoa học lẫn các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Khái niệm "xã hội dân sự” xuất hiện khá sớm ở Châu Âu. Các định nghĩa phổ biến về "xã hội dân sự” hiện nay đều nhấn mạnh tới tinh thần tự nguyện của công dân trong việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và giá trị của mình4. Chính vì vậy những đặc điểm cơ bản nổi bật của các tổ chức XHDS là (i) được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, (ii) không nằm trong hệ thống bộ máy nhà nước, và (iii) hoạt động không vì mục đích lợi nhuận5. Theo đó, XHDS được tạo lập bởi các đoàn thể nhằm kết nối giữa những nhóm quyền lợi hiện đại và những tổ chức truyền thông, giữa các tổ chức chính thức và phi chính thức với 3 hình thức cơ bản sau: (i) Các hội là các tổ chức XHDS có thành viên (Hội có thể thành lập nhằm mục tiêu phục vụ cho xã hội hoặc trực tiếp phục vụ cho lợi ích của các thành viên), (ii) Các quĩ là các tổ chức XHDS không có thành viên được quản lý bởi hội đồng quản trị do người sáng lập chỉ định (Quĩ chủ động hoạt động theo điều lệ và chiến lược, kế hoạch đặt ra. Các quĩ thường là các tổ chức có chức năng cung cấp các nguồn tài trợ theo mục tiêu đặt ra), và (iii) Các tổ chức phi chính phủ (NGOs) là loại hình các tổ chức xã hội dân sự chủ yếu cung cấp dịch vụ công, vận động tài trợ và có thể làm các dịch vụ để có các khoản thu nhập cho hoạt động của mình (Các tổ chức này không có thành viên, thường được thành lập bởi một hoặc một nhóm các cá nhân có mục tiêu phục vụ xã hội6.) Vai trò của các tổ chức XHDS là cùng với nhà nước giải quyết những vấn đề chung của xã hội thể hiện ở cả 3 khía cạnh: xã hội, kinh tế và chính trị, mà cụ thể là tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào tổ chức của mình, cùng tham gia giải quyết các vấn đề của xã hội; tổ chức cung cấp, chuyển giao công nghệ, phổ biến kiến thức quản lý, kỹ thuật cho cộng đồng thông qua việc tổ chức các dịch vụ tới vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn mà các tổ chức vì lợi nhuận không muốn triển khai, nhà nước chưa đủ điều kiện để với tới; là cầu nối giữa Đảng, nhà nước với người dân thông qua việc khuyến khích sự tham gia của người dân 2 Đoàn Thanh Liêm. “Xã hội Dân sự: Đối tác và Đối trọng của Nhà nước.” Đàn Chim Việt (28 tháng 8 năm 2008). 3 Lê Bạch Dương. “Xã hội Dân sự khỏe, Nhà nước khỏe.” Xa lộ Tin tức (23 tháng 4 năm 2008). 4 Bùi Quang Dũng. “Xã hội Dân sự - Khái niệm và các vấn đề”. Tạp chí Triết học (15 tháng 4 năm 2007). 5 Nguyễn Mạnh Cường. “Sổ tay hướng dẫn thành lập và quản trị các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam.” 2008. 6 Nguyễn Mạnh Cường. “Sổ tay hướng dẫn thành lập và quản trị các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam.” 2008. 3
  12. vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách phát triển đất nước, giám sát việc thực hiện và thực hiện phản biện xã hội7. Thực tiễn cho thấy, các tổ chức XHDS ở Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm. Tuy nhiên, chỉ từ sau khi thực hiện công cuộc đổi mới 1986, cùng với sự đổi mới về kinh tế là sự phát triển trong lĩnh vực xã hội, đặc biệt từ nửa đầu thập niên 1990 đến nay các tổ chức xã hội dân sự không ngừng gia tăng về sức mạnh và tổ chức. Ở Việt Nam, cho đến nay, mặc dù các văn kiện Đảng và Nhà nước chưa trực tiếp nêu khái niệm “xã hội dân sự” hay “xã hội công dân”, song trên thực tế, ở mức độ nhất định, Đảng và Nhà nước đã bước đầu chú ý đến việc xây dựng các thể chế và cơ sở pháp lý của xã hội dân sự. Ngay từ giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, hàng loạt những chính sách của Đảng và nhà nước đã khuyến khích sự ra đời của các loại hình tổ chức. Nghị quyết 8B-NQ/HNTW (khoá VI) Đảng đã nêu rõ: "trong giai đoạn mới cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân tương ái. Các tổ chức này được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật". Nghị quyết Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định: "mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện, nhân đạo" và "hỗ trợ và khuyến khích các hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân. Những tổ chức này được nhà nước uỷ quyền thực hiện một số nhiệm vụ cung ứng một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng. Thông qua đó nhà nước có thể tập trung sức lực để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng hơn". Thực hiện chủ trương của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp quy tạo điều kiện cho các loại hình tổ chức của dân ra đời: Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Nghị định 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động và quản lý quỹ, Nghị định 81/2003/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật khoa học công nghệ, Nghị định 25/CP ngày 1/5/2001 của Chính phủ ban hành quy chế thành lập và hoạt động của cơ sở bảo trợ xã hội, Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao, Nghị định số 53/NĐ-CP ngày 25/5/2006 về việc khuyến khích các tổ chức dịch vụ ngoài công lập hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, khoa học, thể dục thể thao. Kết quả là nhiều tổ chức xã hội mới đã hình thành, bên cạnh các tổ chức quần chúng và hội nghề nghiệp, các tổ chức mới đã xuất hiện dưới hình thức phi chính phủ và nhóm cộng đồng. Các tổ chức XHDS đề cập trong báo cáo này là các tổ chức đăng ký hoạt động, dưới ba dạng: tổ chức phi chính phủ theo Nghị định 81/2002, các hội theo Nghị định 88/2002, và quĩ phi chính phủ theo Nghị định 148/2007 (xin xem chi tiết dưới đây).8 A. Các tổ chức xã hội dân sự theo Nghị định 81/TTg-2002 Các tổ chức XHDS ở Việt Nam được thành lập và hoạt động theo Nghị định 81/2002/NĐ-CP, là loại hình tổ chức phi chính phủ, không có thành viên, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Theo dữ liệu hiện có, có 222 tổ chức đăng ký dưới dạng này tại Việt Nam (xem thêm Phụ lục 6: Danh sách các VNGO đăng ký theo Nghị định 81). Vì mục tiêu phục vụ cho xã hội và cộng đồng, nên theo quy định hiện hành, các tổ chức này được hưởng một số các ưu đãi của nhà nước như sau: 7 Nguyễn Ngọc Lâm. “Hoạt động của các tổ chức nhân dân ở Việt Nam.” SIDA (Tháng 8 năm 2008). 8 Nguyễn Mạnh Cường. “Sổ tay hướng dẫn thành lập và quản trị các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam.” 2008. 4
  13. • Miễn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản thu lấy từ ký kết các hợp đồng khoa học công nghệ, từ việc thực hiện đề tài dự án. • Không chịu thuế nhập khẩu đối với việc nhập khẩu máy móc thiết bị tài liệu mà trong nước không làm được. • Ưu đãi tín dụng khi vay đầu tư khoa học và công nghệ từ Quĩ hỗ trợ phát triển. • Ưu đãi tiếp cận và sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA). • Được hưởng mức ưu đãi cao nhất về tiền thuê đất và mức thấp nhất về thuế sử dụng đất theo pháp luật qui định. • Có quyền tiếp cận các nguồn tài trợ phi chính phủ và tham gia các hoạt động giao lưu quốc tế và các mạng lưới quốc tế. • Ngoài ra nếu các tổ chức này thuộc các hội như hội luật gia, hội vật lý và toán học, hay dưới LHHVN, đều được hưởng các quyền lợi như các hội và thông qua hội như quyền tư vấn phản biện và giám định xã hội đối với các chính sách và dự án phát triển của nhà nước theo Quyết định 22/TTG/2002. Quyết định này cho phép LHHVN được tư vấn phản biện và giám định xã hội các dự án và các chính sách của nhà nước, cho nên các tổ chức thành viên của LHHVN dưới dạng các đơn vị này cũng được hưởng các quyền theo quyết định này. Trên thực tế các tổ chức XHDS thành lập dưới dạng này đã có khả năng tiếp cận qui mô lớn các nguồn tài trợ nước ngoài, và không phải nộp thuế đối với các hoạt động phi lợi nhuận, bên cạnh đó có nhiều điều kiện ưu đãi khác hẳn so với doanh nghiệp. B. Các hội thành lập theo Nghị định 88/2002/NĐ-CP Các hoạt động của hội chủ yếu trên cơ sở Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Thông tư số 01/2004/TT-BNV ngày 15/1/2004 của Bộ Nội vụ hướng dẫn một số điều của Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Theo các văn bản này, hội là các tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản pháp luật có liên quan. Hội có thể có các tên gọi khác nhau: Liên hiệp, Tổng hội, Liên đoàn, Hiệp hội, Câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật. Các hội thành lập theo nghị định này có các quyền lợi sau: • Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội và hội viên. • Tổ chức, phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của hội; hoà giải tranh chấp trong nội bộ hội. • Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên; cung cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của pháp luật. 5
  14. • Tư vấn, phản biện các vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của hội theo đề nghị của các tổ chức, cá nhân. Các hội có thể liên kết với các hội khác và dưới sự hỗ trợ của LHHVN để tiến hành các đề tài nghiên cứu và phản biện xã hội đa ngành. • Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của hội theo qui định của pháp luật. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển hội và lĩnh vực hội hoạt động. • Được gây quĩ hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí hoạt động. • Được nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. • Hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh được gia nhập làm hội viên của các hội quốc tế và khu vực theo quy định tại Nghị định số 20/2002/NĐ-CP ngày 20/02/2002 của Chính phủ về ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức chính trị - xã hội, và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Theo số liệu năm 2007 – 2008 do Vụ Tổ chức Phi chính phủ, Bộ Nội vụ, cung cấp, cho đến nay, chính phủ đã cho phép thành lập 389 Hội có phạm vi toàn quốc (bao gồm các Hội nghề nghiệp và Hội nhân đạo từ thiện), và hơn 6.500 Hội có phạm vi hoạt động tại địa phương (chưa kể hàng vạn hội được thành lập hoạt động tại các xã phường, thị trấn, huyện). C. Các quĩ phi chính phủ thành lập theo Nghị định 148/ND-CP/2007 Quỹ là tổ chức phi chính phủ có tư cách pháp nhân do một hoặc nhiều cá nhân, tổ chức tự nguyện dành một khoản tài sản nhất định để thành lập hoặc thành lập thông qua hợp đồng, hiến tặng, di chúc, nhằm mục đích hỗ trợ văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, khoa học, từ thiện, nhân đạo và các hoạt động vì lợi ích cộng đồng, không vì mục đích lợi nhuận; quĩ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập, công nhận Điều lệ. Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, hiện nay có hàng ngàn tổ chức đăng ký hoạt động dưới dạng này tại Việt Nam (tuy nhiên không có số liệu cụ thể cung cấp khi tiến hành khảo sát này). Quyền lợi của các quĩ thành lập theo Nghị định 148/ND-CP/2007 cụ thể như sau: • Vận động quyên góp, vận động tài trợ cho quĩ; tiếp nhận tài sản do các cá nhân, tổ chức trong nước và ngoài nước theo đúng tôn chỉ, mục đích của quĩ và theo quy định của pháp luật. • Thực hiện tài trợ đúng theo sự ủy quyền của cá nhân, tổ chức đã uỷ quyền và đúng tôn chỉ, mục đích của quĩ. • Được tổ chức các dịch vụ và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật để bảo tồn và tăng trưởng tài sản quĩ. • Các doanh nghiệp tài trợ cho quĩ đều được khấu trừ vào thuế thu nhập doanh nghiệp, theo đó nhà nước khuyến khích khu vực thị trường thúc đẩy hoạt động từ thiện, xã hội và phi lợi nhuận. Cùng với những chính sách tạo điều kiện cho các tổ chức VNGO ra đời và hoạt động với số lượng lớn, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích sự tham gia của người dân 6
  15. cũng như tổ chức xã hội vào các hoạt động phát triển của cộng đồng. Nghị định dân chủ ở cơ sở năm 1998 và được sửa đổi bổ sung thành Pháp lệnh Dân chủ cơ sở năm 2003 đã thực sự khuyến khích và tạo cơ hội cho người dân và các tổ chức xã hội tham gia ngày càng nhiều vào quá trình ra quyết định ở cấp cơ sở. Nhờ có pháp lệnh này, người dân đã tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước ở cấp cơ sở. Chiến lược phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 đã bắt đầu khuyến khích sự tham dự của người dân trong mọi mặt đời sống kinh tế chính trị và xã hội. Khẩu hiệu: “Dân biết, dân bàn, dân làm, và dân kiểm tra" đã dần dần có tác động đến hệ thống kinh tế chính trị xã hội ở từng cấp độ khác nhau. Các cơ hội cho người dân thông qua các tổ chức xã hội dân sự tham gia cung cấp dịch vụ công và phản biện chính sách dần dần được mở ra. Quyết định 22/TTG/2002 cho phép LHHVN được quyền tư vấn phản biện và giám định xã hội các dự án và các chính sách của Nhà nước, các tổ chức thành viên của LHHVN cũng được hưởng các quyền theo quyết định này9. Trong việc chuyển tải kiến thức và kỹ thuật (ví dụ: cách làm ăn mới) đến người dân, các tổ chức XHDS và một số Hội đã có những hoạt động rất gần gũi dân. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động của các hội này mới giới hạn trong chừng mực nhất định, trong khi họ có nhiều tiềm năng trí tuệ, khả năng tổ chức quản lý điều hành, có nhiều mối quan hệ đối nội và đối ngoại trong nước và quốc tế. Vì vậy, cần tranh thủ cũng như tạo điều kiện khuyến khích sự tham gia của họ vào công cuộc phát triển ngay từ cấp cộng đồng. Điều này đòi hỏi các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các thành viên, đặc biệt là lãnh đạo cấp xã, phường, thị trấn phải quan tâm đúng mức, đúng tầm mới đạt được yêu cầu mong đợi, mà trước tiên là đổi mới tư duy về sự tham gia và đóng góp một cách tích cực và hiệu quả của các tổ chức XHDS. 2. Nhu cầu hỗ trợ và nâng cao năng lực của các tổ chức XHDS tại Việt Nam Trong những năm gần đây đã có một số nghiên cứu về các tổ chức XHDS ở Việt Nam nhằm giúp người dân Việt Nam hiểu biết thêm về XHDS ở Việt Nam cũng như làm rõ vai trò, vị trí, cơ chế chính sách nhằm phát huy hơn nữa tính tích cực của người dân, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những nghiên cứu đó phải kể đến nghiên cứu ”Đánh giá ban đầu về XHDS ở Việt Nam” do CIVICUS hợp tác cùng với Viện Những vấn đề Phát triển (VIDS), một tổ chức phi chính phủ của Việt Nam, thực hiện trong năm 2006. Báo cáo nghiên cứu này đã chỉ ra một thực trạng của các tổ chức XHDS tại Việt Nam trên 4 bình diện: cấu trúc của XHDS, môi trường kinh tế - xã hội đối với XHDS, các giá trị của XHDS, và tác động của các hoạt động XHDS. Báo cáo cũng chỉ ra rằng XHDS là khái niệm rất mới đối với Việt Nam, nhưng nội hàm của vấn đề đã tồn tại, phát triển và có những ảnh hưởng tích cực đối với đời sống chính trị, xã hội nước ta. XHDS Việt Nam có cấu trúc xã hội rộng nhưng không sâu, môi trường pháp lý để XHDS phát triển đã được xác lập nhưng những yếu tố khích lệ, phát huy sự tham gia của xã hội dân sự đến xã hội còn yếu. Tuy nhiên, những giá trị mà xã hội dân sự mang lại là rất lớn, như vận động chính sách cho người nghèo, tham gia vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, bình đẳng giới, xoá mù chữ, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế cho người dân, bảo vệ môi trường, giám sát xã hội, v.v. Song song với công trình nghiên cứu đánh giá ban đầu này, một hội thảo “Tăng cường năng lực và đẩy mạnh sự tham gia của các VNGO vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam” cũng đã được tổ chức vào ngày 9/11/2006 nhằm xác định những thách thức mà các 9 Nguyễn Mạnh Cường. “Sổ tay hướng dẫn thành lập và quản trị các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam.” 2008. 7
  16. VNGO đang phải đối mặt và thảo luận các phương thức để các bên liên quan hỗ trợ tạo dựng môi trường thuận lợi cho các VNGO và mạng lưới của họ, đồng thời tăng cường năng lực của các tổ chức này. Hội nghị đồng thuận rằng các VNGO đóng vai trò quan trọng như những lực lượng hoạt động tăng cường cho Chính phủ và thị trường, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ. Nghiên cứu mới đây do Bùi Thế Cường và Thaveeporn Vasavakul (tháng 11 năm 2008) thực hiện cho Cơ quan Hợp tác và Phát triển Thuỵ Sỹ (SDC), tên tạm dịch là “Cơ chế chính thức cho đối thoại giữa các cơ quan Nhà nước, Quốc hội, và các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam”, đã chỉ ra rằng các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam không thoả mãn được các tiêu chí của các tổ chức phi chính phủ trong khái niệm của xã hội dân sự. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu nhận thấy vai trò tiềm năng của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam và coi những điểm còn thiếu sót này là cơ sở để thoả hiệp giữa các tổ chức xã hội dân sự với Nhà nước, cũng như giữa các tổ chức xã hội dân sự với nhau. Nghiên cứu lý luận rằng việc ứng dụng khuôn khổ pháp lý chính là nền tảng cho việc hiện thực hoá cơ chế đối thoại, mà điều này lại phụ thuộc chủ yếu vào việc các cơ quan Chính phủ và Quốc hội nhìn nhận về các tổ chức xã hội dân sự và vai trò của các tổ chức này như thế nào, cũng như việc các tổ chức xã hội dân sự tận dung cơ chế sẵn có cho mục đích đối thoại ra sao. Nghiên cứu cho biết các cơ quan Chính phủ về cơ bản vẫn chưa sử dung triệt để cơ chế đối thoại trong trao đổi với các tổ chức xã hội dân sự. Trong khi đó, các tổ chức xã hội dân sự hiện vẫn còn yếu về năng lực nội tại cũng như khả năng kết nối với các tổ chức/mạng lưới có cùng mối quan tâm để tăng cường tiếng nói của mình. Báo cáo đưa ra năm nhóm vấn đề chủ yếu trong cơ chế đối thoại giữa các cơ quan Chính phủ, Quốc hội, và các tổ chức xã hội dân sự, cũng là những khoảng trống cho các đề xuất hỗ trợ của SDC. Một nghiên cứu đáng chú ý nữa của nhóm nghiên cứu Ben Kerkvliet, Nguyễn Quang A, và Bạch Tân Sinh thực hiện cho Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương Quốc Anh (DFID) (tháng 12 năm 2008) có tựa đề (tạm dịch) là “Các hình thức cam kết/hợp tác giữa các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ hợp tác giữa các nhóm xã hội dân sự và cơ quan Nhà nước tiến triển theo thời gian nhờ sự cải thiện của môi trường chính trị và pháp luật nói chung. Càng ngày việc thành lập và đạt được tư cách pháp nhân càng trở nên dễ dàng hơn đối với các tổ chức. Thông qua quá trình hợp tác cởi mở, các nhóm dân sự và chính quyền phát triển các mối quan hệ đem lại hiệu quả cao, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ. Lĩnh vực này thường bao gồm việc các tổ chức xã hội dân sự hỗ trợ tiến hành các chương trình của Nhà nước nhằm đem lại lợi ích cho người dân, cung cấp các dịch vụ công mà Nhà nước chưa có cơ hội hoặc không có điều kiện cung cấp, vận động chính sách, và giám sát các hoạt động của Nhà nước. Báo cáo nghiên cứu đưa ra các đề xuất nhằm phát triển hợp tác giữa khối Nhà nước và khối xã hội dân sự, tập trung vào 3 nhóm sau: (i) cải thiện môi trường thể chế và điều tiết, (ii) phổ biến quan hệ hợp tác và các hoạt động của khối xã hội dân sự, và (iii) tăng cường hợp tác giữa khối Nhà nước và khối xã hội dân sự qua bốn hình thức cụ thể là cung cấp dịch vụ, hoạch định luật pháp và chính sách, giám sát và tăng cường chịu trách nhiệm, và định hướng các mối quan tâm của người dân. Điểm mạnh của các VNGO là có đội ngũ nhân viên nhiệt tình và kinh nghiệm đa lĩnh vực, phương pháp làm việc có sự tham gia, tiềm năng đóng góp của các VNGO còn rất lớn. Tuy nhiên bên cạnh đó các VNGO còn gặp nhiều thách thức, đó là thiếu khuôn khổ pháp lý toàn diện, khó khăn trong việc tiếp cận nguồn tài chính, trong khi đó bản thân hoạt động của hầu hết các VNGO chưa có bản sắc, vai trò rõ rệt, và có ảnh hưởng rõ nét trong xã hội. Tầm nhìn, chiến lược tham gia, và định hướng tương lai của các tổ chức cũng vẫn còn mơ hồ. Từ những thực trạng nêu trên, một số khuyến nghị cũng đã đề xuất với các bên liên quan như sau: về phía nhà nước cần cải thiện môi trường xã hội chính trị để củng cố XHDS, đảm bảo sự bình 8
  17. đẳng hơn đối với các tổ chức XHDS, giữa các tổ chức quần chúng với các tổ chức VNGO và khuyến khích các VNGO tham gia nhiều hơn nữa vào việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đối với các nhà tài trợ và tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO) nên hỗ trợ việc thiết lập mạng lưới VNGO và tận dụng các VNGO nhiều hơn nữa để thực hiện các chương trình phát triển thông qua việc nâng cao năng lực và phát triển tổ chức thông qua đào tạo và đánh giá nhu cầu của tổ chức và đối thoại với các tổ chức VNGO. Các tổ chức XHDS nên tích cực hơn trong việc tăng cường giải trình, minh bạch và tính hợp pháp với tư cách là đại diện của nhân dân, tận dụng các cơ hội sẵn có để thiết lập mạng lưới và hợp tác tốt hơn giữa các tổ chức và với các nhà tài trợ, các INGO, xây dựng mối liên kết cụ thể với cộng đồng ở cấp cơ sở. Nói một cách khác, để phát huy vai trò của mình cùng với sự hỗ trợ của chính phủ, nhà tài trợ và các INGO, VNGO cần phải tăng cường năng lực tổng thể nội bộ của tổ chức, xây dựng những chiến lược dài hạn với tầm nhìn rõ ràng hơn, chú trọng tập trung vào phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Việc thành lập Viện Nghiên cứu Xã hội (ISS) năm 2008 là điều kiện thuận lợi để tăng cường năng lực cho các VNGO, qua đó các nhà tài trợ và các INGO có thể cung cấp tài chính và kỹ thuật nhằm hỗ trợ cho việc tăng cường năng lực cho các VNGO. Các tổ chức này trước hết cần tăng cường năng lực về quản trị điều hành nội bộ để có thể tiến hành các hoạt động hiệu quả trong những lĩnh vực của mình và về lâu dài có đủ khả năng tham gia vào quá trình hoạch định chính sách ở Việt Nam. Khảo sát đánh giá này được thực hiện với sự hợp tác và hỗ trợ của Viện ISS và một số tổ chức phi chính phủ khác, nhằm xác định nhu cầu đào tạo của các tổ chức XHDS, đồng thời cung cấp một số thông tin và dữ liệu ban đầu về các tổ chức XHDS tại Việt Nam, các mạng lưới VNGO hiện có đang hoạt động với mục đích phát triển của Việt Nam. Đánh giá chú trọng đến nhu cầu đào tạo từ phía các VNGO liên quan đến phát triển tổ chức và vận động chính sách. Dựa trên các thông tin và dữ liệu cơ bản ban đầu này, ISS sẽ tiếp tục tiến hành thu thập thêm thông tin số liệu cần thiết khác để có thể có một cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh hơn về các tổ chức XHDS tại Việt Nam. Đặc biệt, ISS sẽ tiến hành xây dựng một danh mục các tổ chức VNGO đang hoạt động tích cực và hiệu quả trong các lĩnh vực như đã đăng ký. Việc xây dựng danh mục này tạo điều kiện cho các tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực liên quan trao đổi thông tin kinh nghiệm, tăng cường hiểu biết của các tổ chức ở khu vực tư nhân và nhà nước về các hoạt động và đóng góp của các tổ chức VNGO, và khuyến khích sự hợp tác trong tương lai. 9
  18. Phần 3. Phương pháp khảo sát đánh giá 1. Mục tiêu Mục tiêu tổng quát: Khảo sát đánh giá nhu cầu đào tạo làm cơ sở để phát triển chương trình nâng cao năng lực cho cán bộ và tổ chức VNGOs tham gia vào quá trình xây dựng chính sách ở Việt Nam. Mục tiêu cụ thể: (i) Tìm hiểu tổ chức và hoạt động của các VNGO; (ii) Đánh giá thực trạng năng lực của các VNGO về phát triển tổ chức và huy động sự tham gia của cộng đồng trong quá trình xây dựng chính sách; (iii) Đánh giá năng lực thực thi nhiệm vụ của các cán bộ trong các VNGO nói chung và tham gia vào quá trình xây dựng chính sách ở Việt Nam nói riêng; (iv) Xác định nhu cầu đào tạo của các VNGO về phát triển tổ chức và huy động sự tham gia của cộng đồng trong quá trình xây dựng chính sách ở Việt Nam; (v) Đề xuất chương trình đào tạo cho các VNGO về phát triển tổ chức và kỹ năng huy động sự tham gia của cộng đồng trong quá trình xây dựng chính sách ở Việt Nam. 2. Đối tượng, phạm vi khảo sát đánh giá 2.1. Đối tượng khảo sát và đánh giá Việc lựa chọn đối tượng khảo sát đã được nhóm đánh giá phân tích, thảo luận, và lựa chọn kỹ càng nhằm xác định đối tượng tổ chức và đối tượng cá nhân trong tổ chức để tiến hành khảo sát, từ đó đạt được các mục tiêu như đã nêu ở trên với thời gian và kinh phí có hạn. Về tổ chức: Dựa vào danh sách các tổ chức XHDS đăng ký theo ba loại hình như đã nêu ở phần 2.1., nhóm đánh giá thống nhất chọn các tổ chức đăng ký hoạt động trong các lĩnh vực liên quan đến: giáo dục, đào tạo và y tế; khoa học và công nghệ; môi trường và tài nguyên; kinh tế xã hội (theo Nghị định 53/2006/NĐ/CP). Theo đó, khảo sát tập trung vào 2 loại hình tổ chức XHDS, bao gồm: (i) Các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam thành lập theo Nghị định 81 (trước đây là Nghị định 35). Các tổ chức này chủ yếu cung cấp dịch vụ công, vận động tài trợ. Hầu hết các tổ chức thuộc nhóm này mới ra đời còn non trẻ so với các nhóm XHDS khác vì vậy rất cần được quan tâm, đặc biệt là nâng cao năng lực thông qua đào tạo, liên kết mạng lưới để có thể đáp ứng được vai trò trong tình hình mới. Đây cũng là một lý do các tổ chức này được lựa chọn để tiến hành khảo sát; và (ii) Một số tổ chức Hội thành lập theo Nghị định 88, chỉ tập trung vào một số Hội đảm bảo các tiêu chí đã nêu trên và đặc biệt có hoạt động gần giống tổ chức phi chính phủ. Dựa trên danh sách các Hội và các VNGO đã thu thập được, nhóm đã lựa chọn ra 110 tổ chức và tiến hành gửi công văn đề nghị hợp tác kèm theo phiếu điều tra. Các tổ chức được lựa chọn có văn phòng đóng tại 3 thành phố lớn: Hà Nội, Huế, TP HCM và một số tỉnh như: Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Cạn và Thái Nguyên (Danh sách các đơn vị tham gia khảo sát và phỏng vấn trong phụ lục 2). Với mỗi tổ chức, nhóm khảo sát tiến hành phỏng vấn trực tiếp cá nhân 01 cán bộ lãnh đạo và 01 cán bộ phụ trách chương trình/ dự án. Phỏng vấn trực tiếp được tiến hành tại: Tp Hà Nội đại diện cho khu vực phía Bắc, Tp. Huế đại diện cho khu vực miền Trung, và Tp. Hồ Chí Minh đại diện cho khu vực phía Nam cùng với các đơn vị có phản hồi khi khảo sát qua bảng hỏi. 10
  19. 2.2. Phạm vi đánh giá khảo sát Để làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình đào tạo cho các tổ chức VNGO, nhóm đánh giá tập trung khảo sát thu thập, phân tích thông tin liên quan đến năng lực của tổ chức cũng như năng lực cá nhân (lãnh đạo, nhân viên) của các tổ chức VNGO trong lĩnh vực củng cố phát triển tổ chức và vận động chính sách, bao gồm: Thực trạng năng lực của các VNGO trong việc củng cố và phát triển tổ chức: Khảo sát tập trung vào các khía cạnh liên quan đến cơ cấu tổ chức, nguồn nhân lực, điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị và đặc biệt là nguồn tài chính để đảm bảo cho các VNGO hoạt động một cách chuyên nghiệp. Nghiên cứu tập trung tìm hiểu về kỹ năng xây dựng chiến lược, sứ mệnh, tầm nhìn, chức năng nhiệm vụ, đối tượng can thiệp và các hoạt động can thiệp chủ yếu của tổ chức cho đến nay. Thực trạng năng lực của các VNGO trong lĩnh vực vận động chính sách: Khảo sát về mức độ quan tâm của các VNGO với công tác vận động chính sách, các lĩnh vực và hình thức vận động chính sách hiện nay của các VNGO; những cơ sở pháp lý hiện nay để các VNGO tham gia hoạt động hoạch định chính sách ở Việt Nam; hiện trạng xây dựng mạng lưới và cách thức hoạt động của các mạng lưới VNGO trong hoạt động vận động chính sách. Nhu cầu đào tạo của các NGO về lĩnh vực phát triển tổ chức và vận động chính sách: Đánh giá thực trạng công tác đào tạo nâng cao năng lực của các VNGO nói chung và lĩnh vực phát triển tổ chức, vận động chính sách nói riêng. Xác định nhu cầu đào tạo từ phía các tổ chức VNGO đối với lĩnh vực phát triển tổ chức và vận động chính sách. 3. Phương thức và công cụ khảo sát đánh giá Các phương pháp sau được nhóm nghiên cứu sử dụng: Thu thập và nghiên cứu tài liệu có sẵn: Nhóm nghiên cứu đã thu thập các báo cáo nghiên cứu về XHDS Việt Nam, các báo cáo về hoạt động vận động chính sách từ các nhóm, mạng lưới VNGO, danh sách các VNGO và các Hội hiện có từ các Liên hiệp hội, Hội, Bộ, Ngành, tỉnh, các tài liệu hướng dẫn, các tài liệu đào tạo liên quan, các tài liệu tham khảo trên Internet liên quan đến nội dung khảo sát. Bảng câu hỏi (phiếu điều tra): Bộ bảng hỏi được xây dựng căn cứ vào mục tiêu và nội dung cần khảo sát và thu thập thông tin, ngoài ra tham khảo một số mẫu bảng hỏi từ một số nghiên cứu khảo sát nhu cầu đào tạo của hợp phần nâng cao năng lực cho các VNGO thuộc dự án “Nâng cao hiệu quả hợp tác và học hỏi các tổ chức phi chính phủ Việt Nam – ENABLE“. Bảng câu hỏi được xây dựng cho 2 nhóm đối tượng: (i) năng lực của tổ chức: sử dụng mẫu phiếu số 1 điều tra về năng lực tổ chức của các VNGO; (ii) năng lực cá nhân: sử dụng mẫu phiếu số 2 điều tra năng lực của cán bộ lãnh đạo, cán bộ dự án trong các VNGO. Phiếu điều tra gửi tới 110 tổ chức đã được lựa chọn tham gia khảo sát. Tuy nhiên chỉ có 79 tổ chức phản hồi ý kiến bằng phiếu (phỏng vấn trực tiếp được tiến hành với các cán bộ và lãnh đạo của 79 tổ chức này), 31 tổ chức còn lại không có sự phản hồi, mặc dù nhóm nghiên cứu đã cố gắng liên hệ (nội dung các mẫu phiếu trong bộ bảng hỏi tại phụ lục 3). Phỏng vấn: Phỏng vấn được tiến hành tại 79 tổ chức với 2 nhóm đối tượng: Cán bộ lãnh đạo và cán bộ chương trình/dự án của các tổ chức (nội dung hướng dẫn phỏng vấn trong phụ lục 3). Tại 79 tổ chức, nhóm phỏng vấn 75 Giám đốc/Phó Giám đốc các Trung tâm, Viện trưởng/ Viện phó các Viện và Chủ tịch/Phó chủ tịch các Hội, và 56 cán bộ phụ trách chương trình và 11
  20. dự án. Thông tin thu thập từ cán bộ lãnh đạo bao gồm năng lực của tổ chức cũng như những thách thức liên quan đến việc củng cố, phát triển tổ chức và tiến hành hoạt động vận động chính sách ở Việt Nam. Kết hợp với việc tìm hiểu thông tin về tổ chức, nhóm cán bộ lãnh đạo còn được phỏng vấn sâu về năng lực cá nhân họ với tư cách là lãnh đạo của tổ chức. Thông tin thu thập từ nhóm cán bộ bao gồm: năng lực cá nhân thực thi công việc nói chung và đặc biệt trong việc huy động người dân tham gia vào quá trình hoạch định chính sách tại các địa bàn dự án cũng như nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực trong lĩnh vực này. (Danh sách các tổ chức và cán bộ trả lời phỏng vấn trong phụ lục 2). 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1