Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 24 (2008) 232-239<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Khảo sát sự biến đổi dạng thức<br />
từ vựng trong “chat” trên Internet<br />
<br />
Nguyễn Minh Cường*<br />
<br />
Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Anh - Mỹ, Trường Đại học Ngoại ngữ,<br />
Đại học Quốc gia Hà Nội, Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam<br />
Nhận ngày 30 tháng 5 năm 2008<br />
<br />
<br />
Tóm tắt. Internet là một công cụ hữu hiệu đã tạo ra những thay đổi lớn trong mọi lĩnh vực của đời<br />
sống như kinh tế, văn hóa, giáo dục…; và ngôn ngữ không nằm ngoài ranh giới của những tác<br />
động đó. “Chat” là một hành vi giao tiếp rất phổ biến và thông dụng đối với các đối tượng sử<br />
dụng Internet và nó mang đầy đủ các chức năng của giao tiếp. Trong hình thức giao tiếp đặc biệt<br />
này, một thành tố quan trọng của ngôn ngữ - đó là từ vựng - chịu sự biến đổi nhiều nhất về dạng<br />
thức. Hiện tượng này xảy ra chủ yếu là do chủ quan của người “chat”. Những biến đổi đó giúp<br />
người “chat” tiến hành giao tiếp nhanh chóng nhưng đôi lúc gây ra sự khó hiểu hay hiểu lầm đối<br />
với người giao tiếp cùng. Bài báo này sẽ khảo sát, phân loại những biến đổi này, đồng thời cung<br />
cấp những nguyên nhân gây ra những biến đổi này.<br />
<br />
<br />
Ngôn ngữ là nhân tố quan trọng đánh hơn. Nó luôn vận động cùng với sự phát<br />
dấu sự phát triển của loài người, đồng thời triển của xã hội loài người. Và đương nhiên<br />
nó đóng vai trò to lớn trong mọi mặt của đời ngôn ngữ sẽ ngày càng phát triển trở nên<br />
sống. Mặt khác, với bản chất là một hiện phong phú, đa dạng hơn rất nhiều. Lẽ dĩ<br />
tượng xã hội, ngôn ngữ được xem là một nhiên, từ vựng sẽ không tránh khỏi quy luật<br />
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của phát triển này. Nói khác đi, từ vựng cũng<br />
con người. Và đây là chức năng trung tâm phải phát triển phù hợp với từng thời điểm<br />
của ngôn ngữ. Trong đó từ vựng là một trong xã hội hay môi trường xã hội.<br />
số hạt nhân không thể thiếu trong việc hình Vốn từ vựng của một ngôn ngữ hết sức<br />
thành và giúp thực hiện chức năng này một phức tạp. Vốn từ vựng của một ngôn ngữ<br />
cách đắc lực và hiệu quả.* luôn luôn được giàu thêm bằng những từ và<br />
Như đã biết, ngôn ngữ là một hiện tượng nghĩa mới. Cụ thể đó là sự biến đổi về dạng<br />
xã hội, do đó nó mang tính chất khách quan, thức thể hiện của từ vựng cũng như lớp<br />
chứ không phụ thuộc vào ý định chủ quan nghĩa của chúng. Và trong những môi trường<br />
của con người. Điều này có ý nghĩa là ngôn khác nhau thì dạng thức cũng như lớp nghĩa<br />
ngữ không hoàn toàn đứng yên một chỗ mà của từ vựng có những sự khác biệt.<br />
nó luôn vận động để ngày một hoàn thiện Môi trường “chat” trên Internet là môi<br />
______ trường giao tiếp hết sức đặc biệt. Trong môi<br />
*<br />
ĐT: 84-4-5521240 trường này chức năng giao tiếp chủ đạo của<br />
E-mail: minhcuonga10@yahoo.com ngôn ngữ là hàn huyên, chứ không chú trọng<br />
232<br />
Nguyễn Minh Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 24 (2008) 232-239 233<br />
<br />
<br />
<br />
vào việc tìm hiểu hay thu nhặt thông tin. 1. Từ vựng - chức năng của từ vựng<br />
Chính nhu cầu hàn huyên để giải tỏa một<br />
trạng thái tâm lý hay chỉ coi đó là một hình Trong kết cấu ngôn ngữ, từ vựng thuộc<br />
thức giải trí thư giãn. Và vì vậy họ mong vào ngoại biên về nghĩa vì nó trực tiếp gọi<br />
muốn có thể giao tiếp, hàn huyên với càng tên các sự vật hiện tượng của thực tế. Theo<br />
nhiều đối tượng giao tiếp càng tốt. Đây là GS. Nguyễn Thiện Giáp [1], từ vựng là “sưu<br />
nguyên nhân chính dẫn đến những biến đổi tập, tập hợp các từ của ngôn ngữ”. Còn theo từ<br />
về dạng thức từ vựng trong khi hành vi điển tiếng Việt (2002), từ vựng được định<br />
“chat” được thực hiện. Những biến đổi về nghĩa là “toàn bộ nói chung từ vị và các từ của<br />
dạng thức trong “chat” đa phần mang tính một ngôn ngữ” Tuy nhiên trong thực tế, nội<br />
chủ quan, đều do chính người thực hiện dung của khái niệm này rộng hơn. Điều này<br />
hành vi “chat” chủ động tạo ra nhằm thuận có ý nghĩa là từ vựng không chỉ bao gồm các<br />
tiện cho mình. Hiện tượng này ngày càng có từ mà còn cả các ngữ (những cụm từ có sẵn)<br />
xu hướng diễn ra nhiều. Điều này cũng có<br />
tương đương với từ. Mặc dù vậy, trong các<br />
nghĩa là họ cũng đã quen với những thay đổi<br />
đơn vị từ vựng, từ là đơn vị cơ bản. Khi xét<br />
đó và gần như không mấy làm lúng túng<br />
đến định nghĩa từ, hiện nay có hơn 200 định<br />
trong việc tiếp nhận những thông tin truyền<br />
nghĩa khác nhau, nhưng với tính cách là định<br />
tải mặc dù những phương tiện truyền tải, cụ<br />
nghĩa sơ bộ, có tính chất giả thiết, chúng ta có<br />
thể ở đây là từ vựng có những sự biến đổi<br />
thể chấp nhận định nghĩa sau: “Từ là đơn vị<br />
nhất định. Nói khác đi, những sự thông hiểu<br />
này một phần là do văn cảnh Internet - ở đây nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và<br />
chúng tôi gọi là “so-text Internet”. Đây là hình thức”.<br />
khái niệm khá mới mẻ đối với những người Do là một bộ phận cấu thành của ngôn ngữ<br />
nghiên cứu ngôn ngữ. Một cách cụ thể, “so- nên từ vựng giữ các chức năng khác nhau:<br />
text Internet” được coi la nơi diễn ra các - Mang chức năng định danh<br />
hành vi trao đổi thông tin bằng cách tận - Không mang chức năng định danh (số<br />
dụng những tiện ích của Internet, trong đó từ, thán từ, các từ phụ trợ)<br />
bao gồm cả hành vi “chat” mà chúng tôi - Biểu thị khái niệm<br />
đang đề cập đến. Đa phần hình thức trao đổi - Là dấu hiệu của những cảm xúc (thán từ)<br />
thông tin trong loại văn cảnh này diễn ra - Liên hệ với những sự vật hiện tượng<br />
dưới dạng văn viết (khi hình thức “chat ngoài thực tế<br />
voice” chưa phổ biến rộng rãi) - nghĩa là phải - Biểu thị những quan hệ trong ngôn ngữ<br />
sử dụng đến chữ viết. Điều này dẫn đến sự<br />
biến đổi dạng thức từ vựng như đã giới thiệu<br />
ở trên là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên với 2. Sự biến đổi dạng thức từ vựng<br />
sự linh hoạt, người “chat” đã tự hình thành<br />
cho mình những thói quen đọc và hiểu được Trong quá trình sử dụng ngôn ngữ, các từ<br />
những biến đổi đó. Nói một cách khác, họ tự luôn được tái hiện với tư cách là những đơn<br />
tạo ra một hình thức ngôn ngữ riêng cho vị có sẵn và một từ luôn được gặp trong<br />
mình sao cho tiện lợi nhất đối với hành vi những trường hợp sử dụng riêng biệt khác<br />
“chat” của họ. Trong khuôn khổ của bài báo nhau, trong những trường hợp tái hiện của<br />
này, chúng tôi chỉ xin bàn luận về những nó. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, không<br />
biến đổi bề mặt của từ vựng trong “chat” trên chỉ đơn thuần cách sử dụng của từ mà thậm<br />
Internet - đó là sự biến đổi dạng thức. chí cả dạng thức của từ cũng bị biến đổi.<br />
1 Nguyễn Minh Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 24 (2008) 232-239<br />
<br />
<br />
<br />
Theo quan niệm của chúng tôi, khi xét về mặt “chat” trên mạng Internet, các dấu này mất<br />
ngôn ngữ thì sự biến đổi dạng thức từ vựng đi, do vậy chúng ta có thể coi hiện tượng mất<br />
chính là sự thay đổi về hình thức bên ngoài hay dấu bất đắc dĩ này là một hình thức của lỗi<br />
nói cách khác chính là cái “vỏ” ngoài của từ so chính tả. Bởi nếu theo nguyên tắc chuẩn<br />
với những từ gốc có ý nghĩa tương đương. chính tả thì hình thức chữ viết phải đảm bảo<br />
đầy đủ về mặt âm vị, âm tiết, hình vị, hình<br />
thức bao gồm trong đó là dấu của từ và<br />
3. Một số biến đổi dạng thức từ vựng trong<br />
thanh điệu nếu có. Mặt khác, nhờ những dấu<br />
“chat” trên Internet<br />
của từ và dấu thanh điệu này mà chúng ta có<br />
Trong phạm vi tư liệu khảo sát, một số thể phân biệt được từ này với từ khác qua<br />
những sự biến đổi sau đây là phổ biến và xuất chính vỏ bên ngoài hay nói cách khác là hình<br />
hiện nhiều hơn cả. Những sự biến đổi này có thức của từ. Trong môi trường này, các dấu<br />
thể là sự thay đổi đối với một bộ phận cấu không được biểu hiện ra nên khiến cho người<br />
thành từ vựng, hay cũng có thể là sự biến dạng “chat” gặp phải nhiều tình huống hiểu nhầm<br />
hoàn toàn, ngoài ra còn có sự thay thế bằng hay hiểu sai lệch thậm chí không thể hiểu<br />
hình thức khác ví như các kí hiệu hay thậm chí thông tin truyền tải trong khi “chat”. Hiện<br />
bằng những từ có phiên âm tương ứng… tượng mất dấu của từ xuất hiện ở các kí tự chữ<br />
cái như “ư, ô, ơ, ă, â, ê, đ”; ngoài ra ngoài thanh<br />
3.1. Dạng thức từ vựng tiếng Việt không dấu không thì tất cả các thanh điệu của từ nếu có<br />
như thanh huyền “ \ ”, thanh sắc “ / ”, thanh hỏi<br />
Xét trong hệ thống tiếng Việt, dấu của từ “ ? ”, thanh ngã “ ~ ”, và thanh nặng “ . ” đều<br />
và dấu thanh điệu là một thành tố vô cùng mất khi truyền tải qua “chat”. Qua một số ví<br />
quan trọng trong việc cấu thành nên từ vựng dụ sau chúng ta có thể thấy rõ điều này.<br />
cũng như tạo nên ý nghĩa của từ vựng. Trong<br />
<br />
Dạng tiếng Việt không dấu Dạng gốc<br />
nhieu nhiều<br />
huong hương/hường<br />
nhung nhưng/nhung/những<br />
ra roi rã rời/ra rồi<br />
lung tung lung tung/ lúng túng<br />
khong quen không quen/ không quên<br />
boi bởi/bói<br />
da dạ/đá/đã<br />
hen du (không thể diễn giải)<br />
tham hien (không thể diễn giải)<br />
<br />
<br />
Ví dụ: “suot_doi_ben _anh” mặc dù hoàn cảnh ở đây<br />
Suot_doi_ben _anh: muon roi em phai ve day rất cụ thể để tham chiếu, suy diễn về mặt ý<br />
Bkboy: anh cung moi qua roi cung sap ra roi nghĩa của từ. “Ra roi” có thể có nghĩa “rã rời”<br />
roi day. bye nhe hay “ra rồi”. Khi dựa vào phần “anh cung<br />
Suot_doi_ben_anh: bye moi qua roi” (anh cũng mỏi quá rồi) thì từ<br />
Trong ví dụ trên, từ “ra roi” có thể rất “ra roi” được hiểu là “rã rời” sẽ chính xác<br />
khó hiểu đối với ngưới “chat” có nick hơn. Với ví dụ này, chúng ta thấy sự biến đổi<br />
Nguyễn Minh Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 24 (2008) 232-239 1<br />
<br />
<br />
<br />
dạng thức từ vựng có những ảnh hưởng trực dùng các kí hiệu trên bàn phím để thay thế<br />
tiếp tới ý nghĩa của những từ đó. Chính vì cho chính những từ thiếu dấu hay thanh điệu<br />
thế người “chat” sẽ gặp rất nhiều trường hợp này; hình thức này được gọi là cấu tạo dấu<br />
lúng túng trong việc tiếp nhận những thông và thanh điệu “giả”. Các ký hiệu được phân<br />
điệp truyền đạt. Đây là một trong số những loại như sau: “ ^ ” được dùng trong “â, ô, ê”,<br />
hạn chế của “chat” khi so với dùng các ký tự kí hiệu “ ’ ” cho “ư, ơ”, “ ? ” được dùng thay<br />
đầy đủ hay các phần mềm mã hóa tiếng Việt cho thanh hỏi, “ ~ ” cho dấu ngã, “ ` ” thay<br />
cũng như khi so với hình thức giao tiếp trên cho dấu huyền, “ / ” cho dấu sắc; tuy nhiên<br />
điện thoại. Trong hình thức này, người thực không có dấu nào thay thế hay dùng cho<br />
hiện hành vi giao tiếp có thể hiểu được thông “đ/ă”. Mặc dù vậy, cách thức tạo thanh điệu,<br />
tin truyền tải, và hầu như không có hiện dấu “giả” này vẫn bị coi là một hình thức<br />
tượng hiểu sai lệch hay không thể hiểu các biến đổi dạng thức từ vựng mang đậm tính<br />
thông tin vì mỗi từ được đặc trưng bởi một chủ quan, bởi thông thường các dấu của từ<br />
âm tiết, âm thanh khác nhau. cũng như các thanh điệu nhất thiết phải tuân<br />
theo độ chuẩn của chính tả, nghĩa là các dấu<br />
3.2. Dạng thức từ vựng tiếng Việt dùng dấu hay đó phải nằm đúng ở vị trí đã được quy định.<br />
thanh điệu “giả” Tuy vậy, ở đây, các dấu “giả” này được đặt ở<br />
vị trí cuối từ, bên ngoài từ chứ không nằm<br />
Để hạn chế được hiện tượng khó hiểu<br />
trên nguyên âm như quy định. Các ví dụ<br />
trong việc truyền đạt thông tin đối với những<br />
dưới đây sẽ phần nào giúp tường minh sự<br />
kí tự không dấu, thay vì sử dụng các phần<br />
biến đổi này:<br />
mềm mã hóa tiếng Việt, người “chat” đã<br />
<br />
Dạng dùng dấu, thanh điệu “giả” Dạng gốc<br />
da^u đâu<br />
vung~ tau` vũng tàu<br />
thuy? thủy<br />
tu’o’ng tu’ tương tư<br />
buo^`n buồn<br />
qua’ tro’`i quá trời<br />
thoai? mai’ thoải mái<br />
co`n la^u còn lâu<br />
o^ hay ô hay<br />
khong^ dòi nao` không đời nào<br />
<br />
3.3. Dạng thức từ vựng dùng sai bộ phận cấu thành tượng sai của các từ trong trường hợp này là<br />
một hay một số bộ phận cấu thành nên từ<br />
Một trong số những nguyên nhân nổi bật vựng có thể bị khuyết đi, những thành tố<br />
trong việc hình thành nên những biến đổi khác không phù hợp hay chỉ là yếu tố thừa<br />
trong dạng thức từ vựng trong “chat” đó là được thêm vào, hoặc đó là sự sai về vị trí sắp<br />
người thực hiện hành vi “chat” muốn giao đặt, cách bố trí các bộ phận cấu thành không<br />
tiếp với nhiều người. Do đó tốc độ gõ bàn đúng theo quy định, và tất cả những sai sót<br />
phím phải càng nhanh càng tốt và chính điều này đều khiến cho từ trở nên vô nghĩa. Đây<br />
này đã gây ra hiện tượng sai một hay nhiều có thể quy là một trong số các lỗi chính tả.<br />
bộ phận cấu thành nên từ. Nói khác đi, hiện Phạm vi xuất hiện hiện tượng này khá rộng bởi<br />
236 Nguyễn Minh Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 24 (2008) 232-239<br />
<br />
<br />
<br />
nó không đơn thuần chỉ xuất hiện ở một số từ hiển thị lên màn hình làm biến đổi dạng thức<br />
nhất định mà có thể xảy ra với mọi từ trong từ vựng.<br />
mọi hoàn cảnh. Những ví dụ điển hình dưới 3.3.3. Hiện tượng sắp xếp sai thành tố cấu<br />
đây một phần nào chứng minh cho điều này: tạo từ vựng<br />
3.3.1. Hiện tượng khuyết bộ phận cấu * Trong tiếng Việt<br />
thành nên từ vựng Dạng thức có thành tố sai vị trí Dạng gốc<br />
* Trong tiếng Việt cau của<br />
Dạng thức có bộ phận bị Dạng gốc nhugn nhưng<br />
khuyết pahi phải<br />
nguyn nguyên/nguyễn ngaoi ngu ngoại ngữ<br />
truog trường htay thấy<br />
chuen chuyện * Trong tiếng Anh<br />
Khah Hoa Khánh Hòa<br />
ngoi ngu ngoại ngữ Dạng thức có thành tố sai vị trí Dạng gốc<br />
e-mali e-mail<br />
* Trong tiếng Anh yoru your<br />
Dạng thức có bộ phận bị khuyết Dạng gốc bey bye<br />
univerty university htat that<br />
singapre singapore intrestign interesting<br />
beutifl beautiful Nói chung, hình thức biến đổi dạng thức<br />
tomorow tomorrow<br />
của từ vựng này khá phổ biến và hoàn toàn<br />
tranprtatton transportation<br />
nằm ngoài ý chủ quan của người “chat”. Mặc<br />
3.3.2. Hiện tượng thêm các thành tố khác dù trong một số hoàn cảnh nhất định thì<br />
vào từ vựng người “chat” khó có thể hiểu được những<br />
* Trong tiếng Việt thông tin truyền đạt, tuy nhiên đa phần người<br />
Dạng thức có thành tố thêm vào Dạng gốc “chat” vẫn có thể suy luận được ý nghĩa của<br />
ngoaio thuwong ngoại thương người cùng “chat” muốn truyền tải.<br />
khondfg không<br />
vaf và<br />
3.4. Dạng thức từ vựng dùng phiên âm thay thế<br />
yweru yêu<br />
binh thioungh bình thường Đây là một hình thức biến đổi mang tính<br />
* Trong tiếng Anh chủ quan. Cũng với một lý do là người<br />
“chat” mong muốn được giao tiếp với một số<br />
Dạng thức có thành tố thêm vào Dạng gốc<br />
lượng tối đa, người “chat” muốn tiết kiệm<br />
freshjman freshman<br />
frieunfd friend thời gian, nên đã chủ động tìm ra những cách<br />
yerah yeah thức ngắn nhất để đưa thông tin với người<br />
goosd good “chat” cùng. Một trong số cách thức đó là<br />
juniyor junior dùng những chữ cái hay từ có phiên âm<br />
Hiện tượng này xảy ra là bởi trong thời giống hay gần giống từ mà mình muốn<br />
gian ngắn với tốc độ gõ phím nhanh, người truyền tải. Hầu hết những từ, chữ cái này<br />
“chat” không để ý tới các ký tự lân cận thường rất ngắn gồm một hay hai kí tự, và<br />
những kí tự mà họ muốn gõ nên đã gõ nhầm đôi khi là những từ, chữ cái có số lượng kí tự<br />
và đương nhiên các kí tự này đồng thời được ít hơn từ muốn truyền đạt. Tuy nhiên phạm<br />
Nguyễn Minh Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 24 (2008) 232-239 237<br />
<br />
<br />
<br />
vi sử dụng của dạng thức này khá hẹp, thời gian trong “chat”. Do đó, họ cắt bớt hay<br />
không phổ biến như các hình thức nêu trên. tự lược bỏ một số phần, một số bộ phận cấu<br />
Trong trường hợp này, mức độ giống nhau thành. Nếu chỉ xét về bề mặt của sự biến đổi<br />
của các phiên âm giữa những từ, chữ hay này thì chúng ta có thể nhầm lẫn hay đồng<br />
thậm chí là các con số thay thế với nhau cũng nhất với dạng thức bị khuyết thành phần cấu<br />
khác nhau. Chúng được chia như sau: thành của từ vựng như đã bàn tới ở trên.<br />
3.4.1. Giống nhau 100% về mặt phiên âm Thực chất hai hình thức này hoàn toàn khác<br />
Dạng thức thay thế Dạng gốc Phiên âm<br />
nhau. Dạng thức từ vựng biến đổi do bị<br />
4 for khuyết một hay một số bộ phận cấu thành<br />
r are mang tính khách quan, trong khi đó hiện<br />
y why /wai/ tượng lược bỏ bộ phận cấu thành lại mang<br />
c see tính chủ quan. Hình thức này thường xảy ra<br />
no know<br />
đối với hình thức “chat” bằng tiếng Anh.<br />
3.4.2. Giống nhau 50% về mặt phiên âm * Trong tiếng Anh<br />
<br />
Dạng thức thay thế Dạng gốc Dạng thức có thành Dạng gốc<br />
cauz tố bị lược bỏ<br />
because<br />
ar are<br />
N /en/ and<br />
plz/pls please<br />
3.4.3. Giống nhau về vỏ phiên âm whr where<br />
Trong “chat”, người Việt chủ yếu dùng yr year<br />
hv have<br />
hình thức này bằng cách lấy một số từ, chữ<br />
Dd did<br />
cái tiếng Anh mà âm thanh phát ra có những wer were<br />
nét giống nhau. Điều này có nghĩa là trong fr/frm from<br />
giao tiếp hàng ngày, khi nói hay phát âm một gbye/gobye goodbye<br />
từ hay chỉ một chữ cái nào đó trong tiếng wht r u doing n? what are you doing now?<br />
Anh, người ta thấy gần giống như một số từ stu student<br />
<br />
được phát âm trong tiếng Việt, họ sử dụng * Trong tiếng Việt<br />
luôn trong khi thực hiện hành vi “chat”. Và<br />
Dạng thức có thành tố bị lược bỏ Dạng gốc<br />
đối với hệ thống tiếng Việt cũng xuất hiện<br />
ko^ không<br />
hiện tượng này. tr trường<br />
Dạng thức thay thế Dạng gốc<br />
Từ những ví dụ trên chúng ta thấy rằng,<br />
2 /hai1/ hi /hai/<br />
những yếu tố bị lược đi là một số yếu tố<br />
m /em/ em<br />
tu /tu1/<br />
không quan trọng và thường là các nguyên<br />
two<br />
âm, thậm chí một số phụ âm như các phụ âm<br />
ti /ti1/ three<br />
z /zed/ ret cuối. Do vậy, mặc dù những từ đó bị lược bỏ,<br />
bai /bai1/ bye /bai/ người “chat” vẫn có thể suy đoán được trong<br />
lớp love ngữ cảnh cụ thể thông tin truyền tải.<br />
<br />
<br />
3.5. Dạng thức từ vựng bị lược bỏ 3.6. Dạng viết tắt thay cho từ vựng<br />
<br />
Hình thức biến đổi này cũng xuất phát từ Hình thức này hoàn toàn mang tính chủ<br />
nguyên nhân là người “chat” muốn tận dụng quan. Chúng đều do chính người “chat” chủ<br />
238 Nguyễn Minh Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 24 (2008) 232-239<br />
<br />
<br />
<br />
động tạo ra. Hình thức viết tắt này cũng rất 3.7.1. Ghép song song hai yếu tố ngôn<br />
đa dạng và phong phú, nó không chỉ xuất ngữ tiếng Anh, tiếng Việt<br />
hiện trong “chat” bằng hệ thống tiếng Việt Dạng sáng tạo mới Nghĩa tương đương<br />
mà còn cả trong tiếng Anh. Trong “chat” I can/ xin you anh/tao…xin/can em/mày<br />
bằng tiếng Anh thì hiện tượng này xảy ra với Cono còn lâu<br />
tần số cao hơn. Hình thức này do người “chat” Oh` ồ<br />
nghĩ ra và được một cộng đồng “chat” chấp Ah` à<br />
sap out sắp ra khỏi mạng<br />
nhận, sau đó lan rộng và trở nên phổ biến.<br />
did chua đứt chưa (không thành<br />
* Trong tiếng Anh<br />
công/thất bại)<br />
Dạng thức viết tắt Dạng gốc<br />
3.7.2. Ghép các từ đơn lẻ tiếng Anh, hiểu<br />
A age<br />
L location theo ý của từng đơn vị từ ghép lại<br />
S sex Dạng sáng tạo mới Nghĩa tương đương<br />
B boy no star where không sao đâu<br />
G girl no table miễn bàn<br />
M male no 4 go vô tư đi<br />
F female I plz you anh/tao… xin em/mày…<br />
U university you stay me go ở lại nhé anh đi đây<br />
Y yes/ yeah me no go sorry anh/tao không đi xin lỗi<br />
N no/not sugar what đường nào<br />
* Trong tiếng Việt 3.7.3. Các cách sáng tạo mới khác<br />
Dạng thức viết tắt Dạng gốc Dạng sáng tạo mới khác Nghĩa tương đương<br />
nncg ngoại ngữ cầu giấy sipo hội cô đơn (single<br />
sv sinh viên people organization)<br />
bk bách khoa yrm/ yroma yêu rồi mà<br />
hs3 học sinh cấp 3 wq quá<br />
wen wen<br />
3.7. Các cấu tạo mới đối với dạng thức từ vựng makeno mặc kệ nó<br />
rìa lí really<br />
Trong quá trình “chat”, rất nhiều từ mới bo bo/ bi bi/pp/ bíp bo tạm biệt<br />
lạ xuất hiện; sự mới lạ ở đây không phải là về<br />
mặt nghĩa mà là về dạng thức biểu hiện của 3.8. Dùng các kí hiệu trên bàn phím, các icon<br />
nó. Thường hình thức này không phổ biến (biểu tượng) để thay thể cho từ vựng<br />
trong “chat” bằng tiếng Anh mà chủ yếu<br />
bằng tiếng Việt. Các sáng tạo này hầu hết Những kí hiệu hay biểu tượng được sử<br />
được thể hiện bằng cách dùng song song hai dụng để thay thế cho những từ vựng, thông<br />
yếu tố ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, hay điệp muốn truyền tải thường là: “( , ) , “ , ” ,<br />
dùng những từ đơn lẻ tiếng Anh ghép lại > , < , ? , / , \ , ! , ~ , @”. Các kí hiệu này có thể<br />
một cách phi ngữ pháp và được hiểu theo kết hợp với nhau để thay thế cho một từ hay<br />
nghĩa gốc của từng từ ghép lại. Các sáng tạo một cụm từ nhất định nào đó. Như vậy ở đây,<br />
này lúc đầu đều mang tính “cá nhân” nhưng dạng thức của từ không chỉ đơn thuần là sự<br />
sau đó trở thành “đại chúng”. Có thể chia biến đổi từ dạng chữ viết này sang dạng chữ<br />
hình thức này theo các dạng cấu tạo như sau: viết khác mà đã chuyển thành dạng kí tự khác.<br />
Nguyễn Minh Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 24 (2008) 232-239 239<br />
<br />
<br />
Các kí hiệu thay thế Nghĩa tương đương trong môi trường đặc biệt “chat” trên<br />
@ at Internet. Một điều đáng quan tâm là sự tác<br />
!!! trời ơi<br />
động của những biến đổi này đối với giới trẻ<br />
??? gì thế/gì vậy<br />
trong việc sử dụng ngôn ngữ. Họ đang dần<br />
that* thật sao<br />
*** sao? “chat hóa” ngôn ngữ tiếng Việt. Nói khác đi,<br />
: tay chia tay họ đang đưa chính những biến đổi này vào<br />
&^? còn ông/còn anh (thì sao) cuộc sống, vào vốn ngôn ngữ mẹ đẻ. Đây là<br />
☺/ : ) OK/đồng ý một thói quen không tốt vì nó làm mất đi sự<br />
/ : ( xin lỗi<br />
trong sáng của ngôn ngữ Việt.<br />
!? không hiểu<br />
có<br />
/ : | cũng được<br />
Tài liệu tham khảo<br />
|:)< con trai/ male/boy<br />
*:) con gái/ female/girl<br />
[1] Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt,<br />
Trên đây là những tìm hiểu, khảo sát của NXB Giáo dục, 2002.<br />
tôi về những biến đổi dạng thức của từ vựng<br />
<br />
<br />
A survey on changes in word forms in Internet chatting<br />
<br />
Nguyen Minh Cuong<br />
<br />
Department of English - American Language and Culture, College of Foreign Languages,<br />
Vietnam National University, Hanoi, Pham Van Dong Street, Cau Giay, Hanoi, Vietnam<br />
<br />
<br />
Internet proving as a useful tool has made great changes in all aspects of life like in<br />
economy, culture, education, etc.; linghusitics cannot lie beyond the boundary of these impacts<br />
by the Internet. “Chat” is considered a popular way of communication to the Internet users, and<br />
it bears all the communicative functions. As far as this special means of communication is<br />
concerned, one important linguistic component, the mophorlogy, has suffered most from the<br />
changes in the forms. This linguistic phenomenon is subjectively caused by the Internet users.<br />
These manmade changes are said to help speed up the communication process; however, at<br />
times, this entails great confusion or even misunderstanding to the chatting partners. Therefore,<br />
this article is expected to survey, classify these changes, and clarify the causes to these changes.<br />