CẤU TRÚC GIỚI TRONG GIA ĐÌNH VÀ CỘNG ĐỒNG<br />
Ở NÔNG THÔN TỈNH TIỀN GIANG<br />
ThS. Trần Khánh Hưng<br />
TÓM TẮT<br />
Quan hệ giới trong gia đình là chủ đề được quan tâm nghiên cứu đặc biệt<br />
trong lĩnh vực xã hội học và nhân học. Một dòng phân tích quan trọng trong<br />
chủ đề này là nhấn mạnh đến sự bất bình đẳng tồn tại khá dai dẳng giữa vợ và<br />
chồng trong các hộ gia đình ở Việt Nam. Với việc khảo sát mối quan hệ giới<br />
trong gia đình nông hộ ở ba xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (gồm 240<br />
bản hỏi đại trà, 10 cuộc phỏng vấn sâu và một cuộc thảo luận nhóm được thực<br />
hiện năm 2014 và 2015), bài viết lập luận rằng (1) mối quan hệ giới trong các<br />
trường hợp khảo sát là sự đối ngẫu các đặc tính xã hội của nam giới và nữ giới.<br />
(2) Sự đối ngẫu ở cấp độ nông hộ là cơ sở tạo nên diện mạo về giới của cộng<br />
đồng nông thôn tỉnh Tiền Giang. (3) Sự đối ngẫu này không phải là một cấu<br />
trúc cố định mà có những chuyển biến qua thời gian. Về phương pháp, bài viết<br />
cũng hàm ý rằng mối quan hệ giới có thể được hiểu tốt hơn bằng cách mở rộng<br />
phân tích ra các lãnh địa khác bên ngoài phạm vi gia đình.<br />
Từ khóa: cấu trúc giới, nông hộ, cộng đồng nông thôn.<br />
<br />
<br />
1. Giới thiệu<br />
Gia đình thường là đối tượng được quan tâm đặc biệt trong việc nghiên<br />
cứu xã hội dù với tư cách một định chế hay một đơn vị phân tích. Trong đó,<br />
mối quan hệ theo chiều ngang của vợ-chồng và theo chiều dọc giữa các thế hệ<br />
được xem là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại của gia đình. Khi xem xét các quan<br />
hệ này theo góc độ giới, người ta thường đặt trọng tâm vào mối tương quan<br />
giữa vai trò của người chồng và người vợ. Ở Việt Nam, một cách tiếp cận khá<br />
phổ biến và quan trọng đối với chủ đề này là nhấn mạnh đến tính bất bình đẳng<br />
trong vai trò của cả hai mà phần ưu thế thường nghiêng về phía người chồng.<br />
Việc quy giản mối quan hệ giữa vợ-chồng thành chỉ còn giữa nữ giới-nam giới<br />
tuy một mặt giúp nhấn mạnh khía cạnh giới trong phân tích, nhưng mặt khác có<br />
khả năng đưa đến việc xem xét hai vai trò này như hai thái cực đối lập, thậm<br />
chí mâu thuẫn nhau; tức là nhìn các vai trò như thể rất cố định và có tính cấp<br />
bậc. Ngoài ra, vì định chế gia đình gần như có tính phổ quát nên việc quá tập<br />
<br />
<br />
618<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
trung vào phạm vi gia đình khi phân tích mối quan hệ vợ-chồng có thể làm mờ<br />
đi những hệ quả về phương diện cộng đồng do mối quan hệ này tạo ra (hoặc<br />
ngược lại, những yếu tố cộng đồng định hình trở lại mối quan hệ vợ-chồng<br />
trong gia đình).<br />
Bài viết này là một sự nỗ lực nhằm bổ khuyết hai vấn đề trên. Dữ liệu<br />
của bài viết bao gồm các thông tin từ bản hỏi đại trà và phỏng vấn sâu được<br />
thực hiện tại ba xã nông nghiệp Phú Nhuận, Mỹ Thành Bắc và Phú Cường<br />
thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang vào năm 2014 và 2015 1. Qua các trường<br />
hợp được khảo sát, bài viết lập luận bước đầu rằng (1) mối quan hệ giới trong<br />
gia đình nông hộ tỉnh Tiền Giang là sự đối ngẫu các đặc tính xã hội của nam<br />
giới và nữ giới. (2) Sự đối ngẫu ở cấp độ nông hộ là cơ sở tạo nên diện mạo về<br />
giới của cộng đồng nông thôn tỉnh Tiền Giang. (3) Tuy nhiên, sự đối ngẫu này<br />
không phải là một cấu trúc cố định mà có những biến chuyển qua thời gian.<br />
<br />
<br />
2. Vài nét chính trong việc nghiên cứu mối quan hệ giới trong gia<br />
đình ở Việt Nam thời gian qua<br />
Trong khoảng 10 năm trở lại đây (2006-2016), mối quan hệ giới trong<br />
gia đình được nghiên cứu bài bản với nhiều cuộc khảo sát ở cấp độ địa phương<br />
hoặc có quy mô trên bình diện cả nước. Một trong những câu hỏi được quan<br />
tâm xuyên suốt là có hay không sự bất bình đẳng giới trong gia đình ở Việt<br />
Nam. Nhiều công trình chia sẻ quan niệm về bình đẳng giới như là sự ngang<br />
nhau giữa vợ và chồng về tiếng nói và quyền quyết định đối với những công<br />
việc của gia đình (Vũ Thị Cúc, 2007; Đỗ Thị Lệ Hằng, 2008; Trần Thị Cẩm<br />
Nhung, 2009; Vũ Thị Thanh, 2009; Lê Thị Hồng Hải, Phạm Thanh Vân, 2012;<br />
Lê Thị Thục, 2014) hay theo cách gọi khác là “làm chủ gia đình” (Lê Ngọc<br />
Văn, 2008; Lê Thi, 2009). Dù có nhiều tranh luận nhưng phần lớn các cuộc<br />
khảo sát cho rằng có tình trạng bất bình đẳng giới giữa vợ và chồng với phần<br />
ưu thế nghiêng về người chồng, nhưng tình trạng này đang có xu hướng được<br />
cải thiện với việc phụ nữ tham gia ngày càng nhiều và dần trở thành một trụ cột<br />
trong các hoạt động quan trọng của gia đình.<br />
<br />
<br />
Tác giả bài viết trân trọng cảm ơn PGS.TS. Trần Hữu Quang, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu<br />
1<br />
<br />
“Nhận diện những mô thức ứng xử kinh tế của nông hộ châu thổ sông Cửu Long ngày nay” do Quỹ<br />
Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) tài trợ (mã số I3.1-2012.13), đã cho phép<br />
tác giả sử dụng một phần dữ liệu của đề tài để phân tích trong bài viết này.<br />
<br />
<br />
619<br />
Cụ thể, mối quan hệ vợ-chồng thường được khảo sát theo ba tiêu chí có<br />
liên quan trực tiếp đến đời sống gia đình. Thứ nhất, sự phân công lao động dù<br />
vẫn còn phản ánh những khuôn mẫu truyền thống nhưng đã ngày càng bình<br />
đẳng hơn, thể hiện qua việc ranh giới phân định công việc giữa vợ và chồng đã<br />
không còn thật đậm nét (Lê Thị Thục 2014; Vũ Thị Thanh 2009; Lê Thi 2009).<br />
Thứ hai, việc đứng tên các tài sản quan trọng như bất động sản chủ yếu là nam<br />
giới đã làm hạn chế quyền quyết định của phụ nữ đối với những tài sản có giá<br />
trị trong nhà, từ đó làm giảm tiếng nói của họ trong gia đình (Trần Thị Hồng<br />
2009; Trần Thị Cẩm Nhung 2009; Trần Thị Hồng 2009; Lê Thị Hồng Hải,<br />
Nguyễn Hữu Minh, An Thanh Ly 2012). Thứ ba, về mức đóng góp kinh tế cho<br />
gia đình, nhiều công trình cho thấy cả vợ và chồng đều tham gia tạo thu nhập<br />
cho gia đình (Trần Thị Vân Anh 2007; Đỗ Thị Lệ Hằng 2008; Lê Ngọc Văn<br />
2008; Trần Thị Anh Thư 2010; Trần Thị Vân Anh 2007; Đỗ Thị Lệ Hằng<br />
2008). Dù có sự khác biệt trong nhận định các yếu tố tác động nhưng những<br />
công trình này gần như xem việc cải thiện mức đóng góp thu nhập cho phụ nữ<br />
là nền tảng để nâng cao vị thế của họ trong gia đình.<br />
Phần tổng quan mang tính sơ lược trên đây cho thấy khi khảo sát mối<br />
quan hệ giới trong gia đình ở Việt Nam, các công trình được dẫn ra chủ yếu tập<br />
trung khảo sát một số phương diện trong phạm vi đời sống gia đình, rồi xem xét<br />
tương quan giữa những phương diện này với các tiêu chí về nhân khẩu học.<br />
Trong khuôn khổ đánh giá về sự bất bình đẳng giới, dù đa phần không đề cập<br />
nhưng các công trình trên có khuynh hướng tiếp cận vấn đề theo thuyết phân bổ<br />
nguồn lực tương đối (relative resource theory), với luận điểm chủ yếu là người<br />
có đóng góp nguồn lực nhiều hơn, bao gồm trình độ học vấn, thu nhập, uy tín<br />
và loại nghề nghiệp, thường là người có quyền quyết định trong công việc gia<br />
đình và từ đó sẽ trội hơn trong tương quan quyền lực với những người còn lại<br />
(Trần Thị Cẩm Nhung 2009: 32).<br />
Cách tiếp cận phân bố nguồn lực tương đối về cơ bản đã giúp ích rất<br />
nhiều để trả lời cho câu hỏi có hay không sự bất bình đẳng giới trong mối quan<br />
hệ vợ-chồng trong gia đình. Tuy nhiên, với thao tác so sánh, cách tiếp cận này<br />
có nguy cơ quy giản mối quan hệ vợ-chồng thành hai cực cố định và đối lập<br />
nhau. Về mặt lý thuyết, cách tiếp cận phân bổ nguồn lực tương đối sẽ hoàn<br />
thiện hơn khi được bổ sung thêm cách nhìn về vai trò giới cũng như tính đến<br />
các “tư tưởng về giới” với tư cách là những yếu tố văn hóa của cộng đồng (Trần<br />
Thị Cẩm Nhung 2009: 33). Bởi nếu không, những nhận định của người nghiên<br />
<br />
<br />
620<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
cứu hoàn toàn độc lập với các quan niệm chung của cộng đồng, như việc người<br />
dân không nhận thấy tình trạng “bất bình đẳng giới” (Lê Thị Thục 2014: 23)<br />
hay “bạo hành gia đình” (Trần Thị Anh Thư 2010: 84) mà họ được cho là đang<br />
sống trong đó (xem thêm Trần Hạnh Minh Phương 2016). Việc xem xét các yếu<br />
tố văn hóa dẫn đến hệ quả về phương pháp là cấp độ phân tích cần được mở<br />
rộng từ gia đình ra cộng đồng. Bởi một vài yếu tố có thể có tương quan mạnh<br />
với quan hệ giới ở cấp độ gia đình nhưng lại không có vai trò đáng kể ở cấp độ<br />
cộng đồng (xem thêm Hoàng Bá Thịnh 2009); cũng như các quan hệ giới trong<br />
gia đình có thể chịu sự quy định từ những quan niệm mang tính cấu trúc về giới<br />
của cộng đồng (Silvasti 2003; dẫn theo Phạm Văn Bích 2011). Như thế, việc<br />
xem xét thêm các yếu tố văn hóa cũng như lồng ghép hai cấp độ phân tích gia<br />
đình và cộng đồng là một công việc có ý nghĩa, hứa hẹn mang lại những cách<br />
nhìn khác về mối quan hệ giới trong gia đình ở Việt Nam.<br />
3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu<br />
Bài viết này được thực hiện dựa vào việc khảo sát đời sống nông hộ tại<br />
ba địa bàn thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, bao gồm ấp Phú Thuận - xã<br />
Phú Nhuận, ấp 2 - xã Mỹ Thạnh Bắc và ấp 5 - xã Phú Cường 1. Ở cả ba địa<br />
phương này, trồng trọt là ngành kinh tế chính, trong đó lúa là cây trồng phổ<br />
biến nhất. Ngoài ra cây màu cũng là loại cây trồng quan trọng mang lại thu<br />
nhập cho các nông hộ, nhất là dưa hấu. Với nông nghiệp là ngành kinh tế chủ<br />
đạo, địa phận của ba địa phương này hoặc được bao quanh, hoặc bị chia cắt bởi<br />
các con sông và kênh. Ấp 2 - xã Mỹ Thành Bắc và ấp Phú Thuận - xã Phú<br />
Nhuận là địa bàn có mức độ chuyên canh cây lúa cao, trong khi ấp 5 - xã Phú<br />
Cường có mức độ trồng màu tương đối nhiều. Do mức độ chuyên canh cây lúa<br />
và cây màu khác nhau nên mức độ phát triển kinh tế của ba địa bàn cũng khác<br />
nhau; xã Phú Cường là địa phương khá hơn về kinh tế, kế đến là xã Phú Nhuận<br />
và sau cùng là xã Mỹ Thành Bắc.<br />
Các dữ liệu trong bài viết này được thu thập chủ yếu qua ba kĩ thuật<br />
chính là điều tra bản hỏi đại trà, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Việc điều<br />
tra bản hỏi đại trà được tiến hành vào tháng 9/2014, khoảng đầu vụ Đông-Xuân.<br />
Ở ba địa bàn này, 240 hộ đã được chọn theo nguyên tắc xác suất dựa theo danh<br />
<br />
1<br />
Dân cư của các địa bàn được chọn hầu hết là người Việt nhằm kiểm soát biến số tộc người<br />
trong quá trình phân tích. Diện tích ruộng đất của mỗi hộ tương đối nhỏ, việc luân canh cây lúa và<br />
màu tương đối phổ biến, cũng như việc hợp tác sản xuất giữa các hộ mang tính tự phát và phần nào<br />
còn gắn với cấu trúc cộng đồng (như bài viết này cố gắng chỉ ra).<br />
<br />
<br />
621<br />
sách dân cư của địa phương (mỗi địa bàn 80 hộ). Người thay mặt gia đình<br />
(không phải toàn bộ là chủ hộ) tham gia trả lời bản hỏi gồm 143 nam và 97 nữ,<br />
hầu hết đã lập gia đình và đang sống cùng vợ hoặc chồng mình (220 người). Đa<br />
phần các hộ sống nhờ vào nghề nông (197 hộ, chiếm 82%). Bên cạnh đó, tác<br />
giả bài viết cũng sử dụng tư liệu từ 10 cuộc phỏng vấn sâu và một cuộc thảo<br />
luận nhóm nam giới được thực hiện vào tháng 12/2014. Các mẫu phỏng vấn sâu<br />
được chọn ra có chủ đích từ mẫu khảo sát đại trà tùy theo đặc điểm của hộ, bao<br />
gồm 2 nữ và 8 nam 1. Việc phỏng vấn sâu cũng bao gồm kỹ thuật phỏng vấn hồi<br />
cố về những chi tiết liên quan đến lịch sử cộng đồng. Tên của những người này<br />
đã được thay bằng tên giả trong bài viết, nhưng các thông tin về nhân khẩu là<br />
xác thực để hỗ trợ cho việc phân tích. Kĩ thuật thảo luận nhóm được tiến hành ở<br />
ấp Phú Thuận - xã Phú Nhuận, gồm 5 người, là những người có ruộng liền kề<br />
nhau và cùng liên kết sản xuất với nhau 2. Do hộ trồng lúa trong tổng mẫu khảo<br />
sát đại trà cũng như phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm chiếm số lượng lớn nên<br />
việc phân tích trong bài được đặt trọng tâm vào những hộ này.<br />
<br />
<br />
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận<br />
4.1. Ba phạm vi phân tích được gợi ý từ thao tác phân tích nhân tố<br />
các mệnh đề<br />
Như đã chỉ ra ở trên, việc khảo sát mối quan hệ giới trong gia đình cần<br />
được liên hệ với các yếu tố văn hóa vốn là nguồn cung cấp ý nghĩa và cũng là<br />
không gian cho các thực hành về giới. Trong bài viết này, để xác định các yếu<br />
tố văn hóa có ảnh hưởng đến đời sống của các cộng đồng được khảo sát, chúng<br />
tôi đã tiến hành phân tích nhân tố đối với kết quả trả lời 28 mệnh đề trong bản<br />
khảo sát đại trà có liên quan đến quan niệm về kinh tế và đời sống nông thôn 3.<br />
<br />
1<br />
Mẫu phỏng vấn sâu ban đầu được chọn theo tiêu chí đặc điểm hộ gia đình, nhưng để ngỏ<br />
việc ai trong hộ sẽ tham gia trả lời phỏng vấn, việc này tùy vào hoàn cảnh và cách sắp xếp công việc<br />
của mỗi nhà. Kết quả là nam giới luôn là người thay mặt gia đình để tiếp phỏng vấn viên. Dù họ đi<br />
vắng, chỉ có vợ ở nhà thì họ cũng được gọi về để trả lời. Hai trường hợp nữ trên đây có một người<br />
góa chồng, còn một người có chồng đi làm xa vài ngày mới về nhà một lần. Đây là một chi tiết thú vị<br />
và quan trọng cho thấy phần nào cấu trúc giới ở ba cộng đồng được khảo sát.<br />
2<br />
Đáng tiếc chúng tôi đã không tổ chức một cuộc thảo luận nhóm cho nữ giới như là nhóm<br />
đối chứng. Khuyết điểm này phần nào được khắc phục bằng cách tận dụng các cuộc phỏng vấn sâu nữ<br />
giới và những cuộc trò chuyện với người dân tại địa bàn trong các đợt khảo sát.<br />
3<br />
Mỗi mệnh đề có ba lựa chọn trả lời là “không đồng ý”, “không ý kiến” và “đồng ý”. Các<br />
mệnh đề này trước tiên được kiểm tra độ tin cậy bằng cách tính hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể<br />
<br />
<br />
<br />
622<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Các mệnh đề này tuy không thể phản ánh toàn bộ các khía cạnh của đời sống<br />
nông thôn và chỉ là quan điểm của người trả lời, nhưng cũng gợi ra một số<br />
phương diện có ý nghĩa đối với các cộng đồng được khảo sát. Chúng tôi nhận<br />
thấy có ba nhân tố nổi bật nằm bên dưới các câu trả lời mà chúng tôi tạm gọi<br />
tên là quan niệm trọng nam, tính cố kết trong dòng họ-cộng đồng và niềm tin<br />
vào số phận. Cụ thể, nhân tố quan niệm trọng nam gồm các mệnh đề: nên để<br />
đàn ông quyết định hầu hết các công việc trong gia đình, người vợ phải phục<br />
tùng người chồng, phụ nữ không giỏi kinh doanh bằng nam giới, nếu vợ không<br />
nghe lời thì chồng có thể đánh vợ. Nhân tố cố kết trong dòng họ-cộng đồng<br />
gồm các mệnh đề: nên cưới hỏi với người cùng xã, cần có sự đồng ý của người<br />
trưởng họ đối với việc cưới gả trong gia đình, nên hợp tác làm ăn với người<br />
cùng dòng họ. Nhân tố niềm tin vào số phận gồm các mệnh đề: thành công hay<br />
thất bại là do số may rủi, giàu nghèo là do số phận, cần phải coi ngày và cúng<br />
kiếng để ăn nên làm ra (xem Bảng 1). Ba nhân tố này có thể được quy chiếu<br />
đến các chiều kích xã hội vốn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau là gia đình<br />
(quan niệm trọng nam), dòng họ-cộng đồng (tính cố kết trong dòng họ-cộng<br />
đồng) và đời sống tâm linh (niềm tin vào số phận). Theo đó, việc xem xét mối<br />
quan hệ giới gắn với các yếu tố văn hóa trong trường hợp này có nghĩa là đặt<br />
mối quan hệ giới trong các địa hạt phân tích vốn có ý nghĩa với đời sống ở<br />
nông thôn là gia đình, dòng họ-cộng đồng và đời sống tâm linh. Đồng thời, việc<br />
cần làm tiếp theo là tìm xem các đặc trưng trong mối quan hệ giới ở các chiều<br />
kích xã hội này có liên hệ gì với nhau; và nếu các đặc trưng ấy có sự tương<br />
đồng và chi phối lẫn nhau thì có thể đặt ra giả thuyết về tính cấu trúc trong mối<br />
quan hệ giới ở các địa bàn được khảo sát.<br />
Ngoài ra, tỉ lệ lựa chọn ở các mệnh đề phân theo giới tính cũng cung cấp<br />
một số gợi ý cho việc phân tích (xem bảng 2). Với nhân tố đầu tiên, cả hai<br />
nhóm nam và nữ đều có sự phân cực đối với quan niệm về quyền quyết định<br />
<br />
các mệnh đề, cũng như giữa từng mệnh đề với tổng thể. Kết quả có 15 mệnh đề đảm bảo đủ độ tin cậy<br />
(có điểm lớn hơn 0,3) để đưa vào phân tích nhân tố với hệ số Cronbach’s Alpha là 0,828. Thao tác<br />
phân tích nhân tố được thực hiện hai lần. Ở mỗi lần, những mệnh đề có hệ số tải nhân tố (factor’s<br />
loading) dưới 0,5 sẽ được loại ra. (Trong lần phân tích nhân tố đầu tiên, mệnh đề m8: “Thành công<br />
hay thất bại là do số may rủi của mỗi người” với hệ số tải nhân tố là 0,498 vẫn được giữ lại). Kết quả<br />
phân tích nhân tố còn lại mười mệnh đề, được nhóm thành ba nhân tố, đảm bảo điều kiện về hệ số tải<br />
nhân tố và sự thích hợp của thao tác phân tích nhân tố (hệ số KMO) là 0,826. Do ở kết quả ban đầu,<br />
các mệnh đề chỉ tập trung vào một nhân tố nên chúng tôi đã tiến hành xoay trục (Varimax with Kaiser<br />
Normalization) để có ba nhân tố với các mệnh đề được phân bố đồng đều hơn và phân tích dựa trên<br />
kết quả xoay trục này.<br />
<br />
<br />
623<br />
của nam giới trong nhà (m23). Trên thực tế, như sẽ được phân tích dưới đây,<br />
quyền quyết định này không tập trung ở người chồng hay người vợ mà đa số là<br />
cả hai cùng bàn bạc và ra quyết định, dù ở một vài lĩnh vực, vai trò của nười<br />
chồng có phần chiếm ưu thế hơn. Ở hai mệnh đề tiếp theo là người vợ phải<br />
phục tùng chồng (m17) và nữ giới không giỏi kinh doanh bằng nam giới (m21),<br />
nhóm nữ tỏ ra là những người bảo lưu quan niệm trọng nam nhiều hơn khi có tỉ<br />
lệ đồng ý cao hơn. Cuối cùng, cả hai nhóm cùng không đồng tình về việc chồng<br />
có quyền đánh vợ (m25) như là biểu hiện rõ nhất của bạo lực gia đình. Với<br />
nhân tố thứ hai, đa số ở cả hai nhóm đều không đồng ý với việc chỉ nên cưới<br />
hỏi với người cùng xã (m5); trong khi lại có sự phân cực với quan niệm chỉ nên<br />
hợp tác làm ăn với người cùng dòng họ (m10); cũng như phần lớn cho rằng cần<br />
có sự đồng ý của trưởng họ với việc cưới gả trong gia đình (m13). Như thế, tính<br />
cố kết dòng họ dường như nhấn mạnh đến quan hệ huyết thống hơn là quan hệ<br />
hôn nhân, và quan hệ dòng họ cũng là cơ sở cho việc hợp tác làm ăn trong cộng<br />
đồng. Còn đối với nhân tố niềm tin vào số phận (m1, m8, m18), tỉ lệ đồng ý của<br />
cả nam và nữ đều quá bán. Điều này cho thấy đời sống tâm linh là một phương<br />
diện tương đối quan trọng trong đời sống của các cộng đồng nông thôn.<br />
Bảng 1. Các nhân tốnổi bật trong đời sống của các cộng đồng nông thôn<br />
tỉnh Tiền Giang<br />
<br />
Nhân tố: Qu Tính Ni<br />
an niệmcố kết dòng ềm tin<br />
trọng họ-cộng vào số<br />
Nội dung các mệnh đề<br />
nam đồng phận<br />
<br />
m23. Hầu hết những quyết định trong gia đình ,86<br />
nên để đàn ông quyết định 0<br />
<br />
m17. Người vợ lúc nào cũng phải phục tùng ,68<br />
người chồng 4<br />
<br />
m21. Phụ nữ thường không giỏi kinh doanh ,58<br />
bằng nam giới 1<br />
<br />
m25. Nếu vợ không biết nghe lời chồng thì ,53<br />
không nên trách chồng đánh vợ 4<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
624<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
m5. Nên cưới hỏi với người cùng xã hơn là<br />
,735<br />
với người ngoài<br />
<br />
m13. Việc cưới gả trong gia đình cần phải<br />
,717<br />
được sự đồng ý của người trưởng họ (trưởng tộc)<br />
<br />
m10. Trong công việc làm ăn, chỉ nên hợp tác<br />
,568<br />
với người trong cùng dòng họ<br />
<br />
m8. Thành công hay thất bại là do số may rủi ,7<br />
của mỗi người 81<br />
<br />
,7<br />
m1. Giàu nghèo là do số phận<br />
66<br />
<br />
m18. Phải biết coi ngày và cúng kiếng thì mới ,5<br />
ăn nên làm ra 95<br />
<br />
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xử lý từ số liệu khảo sát năm 2014.<br />
Bảng 2. Tỉ lệ lựa chọn phân theo giới tính ở các mệnh đề của ba nhân tố<br />
(đơn vị: %)<br />
<br />
Kh Kh<br />
Đồ<br />
ông đồng ông ý<br />
ng ý<br />
ý kiến<br />
<br />
n 44, 54,<br />
m23. Hầu hết những quyết định trong am 8 0,7 5<br />
gia đình nên để đàn ông quyết định n 47, 1,0 51,<br />
ữ 4 5<br />
<br />
n 51, 45,<br />
m17. Người vợ lúc nào cũng phải phụcam 7 2,8 5<br />
tùng người chồng n 36, 2,1 61,<br />
ữ 1 9<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
625<br />
n 61, 32,<br />
m21. Phụ nữ thường không giỏi kinh am 5 6,3 2<br />
doanh bằng nam giới n 44, 7,2 48,<br />
ữ 3 5<br />
<br />
n 71, 23,<br />
m25. Nếu vợ không biết nghe lời chồngam 3 4,9 8<br />
thì không nên trách chồng đánh vợ n 61, 3,1 35,<br />
ữ 9 1<br />
<br />
n 76, 15,<br />
8,4<br />
m5. Nên cưới hỏi với người cùng xã am 2 4<br />
10,<br />
hơn là với người ngoài n 69, 20,<br />
3<br />
ữ 1 6<br />
<br />
n 37, 59,<br />
m13. Việc cưới gả trong gia đình cần<br />
am 1 3,5 4<br />
phải được sự đồng ý của người trưởng họ<br />
n 33, 6,2 60,<br />
(trưởng tộc)<br />
ữ 0 8<br />
<br />
n 49, 48,<br />
m10. Trong công việc làm ăn, chỉ nên am 0 2,8 3<br />
hợp tác với người trong cùng dòng họ n 41, 9,3 49,<br />
ữ 2 5<br />
<br />
n 39, 58,<br />
am 2 2,8 0<br />
m1. Giàu nghèo là do số phận<br />
n 27, 0,0 72,<br />
ữ 8 2<br />
<br />
n 26, 68,<br />
m8. Thành công hay thất bại là do số am 6 4,9 5<br />
may rủi của mỗi người n 14, 2,1 83,<br />
ữ 4 5<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
626<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
n 32, 62,<br />
m18. Phải biết coi ngày và cúng kiếng am 9 4,9 2<br />
thì mới ăn nên làm ra n 17, 7,2 75,<br />
ữ 5 3<br />
<br />
Nguồn: Số liệu khảo sát năm 2014.<br />
<br />
<br />
4.2. Mối quan hệ giới trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp ở khu vực<br />
nông thôn<br />
Tại ba địa bàn khảo sát, sản xuất nông nghiệp được xem là sinh kế chủ.<br />
Đời sống kinh tế của nông hộ chủ yếu xoay quanh việc trồng lúa, hoa màu và<br />
làm thuê nông nghiệp. Mỗi năm các nông hộ canh tác ba vụ, có thể hoàn toàn<br />
trồng lúa hoặc có xen canh cây màu. Sự đặc thù trong sinh kế của nông hộ như<br />
thế có ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ giới xét ở ba phạm vi gia đình,<br />
dòng họ-cộng đồng và đời sống tâm linh. Thông qua các số liệu thống kê và<br />
trường hợp phỏng vấn sâu, phần này của bài viết phác họa một vài phương diện<br />
cơ bản của mối quan hệ giới đặt trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp.<br />
4.2.1. Mối quan hệ giới trong phạm vi gia đình<br />
Đối với các nông hộ, quá trình sản xuất nông nghiệp gồm nhiều công<br />
việc cần phải được thực hiện hàng ngày. Ở từng khâu và loại hình công việc,<br />
các thành viên trong gia đình có sự phân công lao động với nhau, trong đó có<br />
tính đến khía cạnh giới. Nhìn chung, khi xem xét mức độ tham gia vào một số<br />
hoạt động sản xuất nông nghiệp cơ bản của gia đình, nam giới có phần chiếm<br />
ưu thế hơn so với nữ giới. Cụ thể trong lĩnh vực trồng trọt, nam giới nổi trội ở<br />
hầu hết các khâu như làm đất, gieo cấy, chăm sóc cây trồng, rải phân, phun<br />
thuốc, thu hoạch, với tỉ lệ chênh lệch ít nhất gần gấp đôi so với nữ giới. Thậm<br />
chí, ở những khâu cần phải thuê mướn máy móc như làm đất và thu hoạch, tỉ lệ<br />
thuê mướn cũng nổi trội hơn so với sự tham gia của lao động nữ. Nữ giới chỉ<br />
thực sự nổi bật trong hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm. Với các hoạt động<br />
hỗ trợ cho việc trồng trọt và chăn nuôi như vay vốn, bán sản phẩm, mua giống<br />
và vật tư, nam giới vẫn là người thực hiện nhiều hơn (xem Biểu đồ 1). Trên<br />
thực tế, gần 2/3 số nữ giới (207 trên 312 nhân khẩu đang lao động) của tất cả<br />
các hộ được khảo sát xem sản xuất nông nghiệp là nghề chính của mình. Số còn<br />
lại ngoài làm nội trợ thì tham gia vào các công việc phi nông nghiệp, như làm<br />
<br />
<br />
627<br />
công nhân, buôn bán nhỏ tại nhà (thường là bán tạp hóa), làm tiểu thủ công<br />
nghiệp như nấu rượu, may tụng, lột vỏ hạt điều. Trong đó, nội trợ và tiểu thủ<br />
công nghiệp là hai hoạt động nổi trội hơn rất nhiều so với nam giới. Ở đây, mức<br />
độ tham gia vào các hoạt động kinh tế trong gia đình giữa nam và nữ chưa thể<br />
nói lên tính chất bất bình đẳng giới, bởi họ đảm trách những công việc khác<br />
nhau góp phần tạo thu nhập cho hộ.<br />
Hơn nữa, khi xem xét quyền quyết định một số công việc trong gia đình -<br />
tiêu chí được xem là biểu hiện trực tiếp cho sự (bất) bình đẳng giới - bao gồm<br />
việc làm ăn, mua sắm đồ đạc, việc học hành của con cái và giao tế trong gia<br />
đình-họ hàng, kết quả thu được là số hộ mà cả hai vợ chồng cùng quyết định<br />
luôn chiếm tỉ lệ quá bán. Còn đối với những hộ mà có chỉ vợ hoặc chồng quyết<br />
định thì có sự phân công khá rõ ràng về lĩnh vực. Trong phần đông số nông hộ,<br />
người chồng sẽ quyết định công việc làm ăn cũng như giao tế trong gia đình-họ<br />
hàng. Còn người vợ phần nhiều sẽ lo việc học hành của con cái. Số hộ có chồng<br />
hoặc vợ quyết định việc mua sắm đồ đạc trong nhà là như nhau. Nam giới chỉ<br />
thực sự nổi bật trong việc giao tế với cộng đồng bên ngoài và là tỉ lệ cao nhất ở<br />
lựa chọn “chủ yếu là chồng” quyết định, chiếm 42% (xem Biểu đồ 2). Điều này<br />
dường như phù hợp với thái độ của nhóm nam và nữ khi được hỏi về quyền<br />
quyết định của nam giới trong gia đình cũng như việc vợ phải phục tùng chồng<br />
(xem lại Bảng 2).<br />
Ngoài việc đánh giá sự bình đẳng giới trong nông hộ, có thể điều đáng<br />
quan tâm ở đây là dường như có ranh giới nào đó ngăn cách nữ giới với lĩnh<br />
vực trồng trọt, ngay cả khi họ bị đặt vào tình huống phải đảm nhận công việc<br />
đồng áng. Sự ngăn cách này ít nhiều có liên hệ với nhân tố quan niệm trọng<br />
nam trong phạm vi gia đình. Ngoài các số liệu thống kê, có thể nhận biết điều<br />
này rõ hơn qua một trường hợp đặc biệt là bà Đào (sinh năm 1956, xã Mỹ<br />
Thành Bắc). Chồng bà mất sớm, hiện bà phải nuôi hai người con gái đang đi<br />
học và mẹ chồng đã lớn tuổi. Cuộc sống của gia đình phụ thuộc vào sáu công<br />
ruộng và việc nấu rượu của bà. Do nhà không có nam giới nên bà đã nhờ những<br />
người anh em trai của mình đỡ đần công việc trồng lúa. Người em trai út sống<br />
gần nhà bà thường giúp bà sạ lúa và ngủ lại ruộng để canh chừng thóc giống<br />
sau khi sạ, vì những công việc này có phần nặng nhọc và bất tiện với bà. Còn<br />
người em rể thứ tư sống ở xã bên cạnh giúp tư vấn cho bà việc phun thuốc và<br />
cũng nhờ người này mà bà biết cách bón phân. Hiện tại, mỗi lần cần phun thuốc<br />
hay bón phân, bà đều hỏi ý kiến người em này. Với các khâu như làm đất và thu<br />
<br />
<br />
628<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
hoạch, bà đều thuê mướn máy móc theo thỏa thuận với những hộ có ruộng gần<br />
kề. Thỉnh thoảng bà cũng thuê mướn nhân công để phun thuốc và sạ lúa. Dù có<br />
hoàn cảnh đặc biệt nhưng trường hợp bà Đào lại phản ánh một mẫu hình phổ<br />
biến ở địa phương rằng nam giới luôn là người chiếm ưu thế trong lĩnh vực<br />
trồng trọt. Hai người em của bà có thể đại diện cho hai kiểu diễn ngôn mà cộng<br />
đồng thường dùng để lý giải cho vị trí ưu thế của nam giới trong hoạt động<br />
nông nghiệp: nam giới có cơ thể khỏe mạnh hơn do đó có thể đảm đương những<br />
công việc đồng áng nặng nhọc hoặc được xem là bất tiện với phụ nữ; và nam<br />
giới là những người am hiểu, có thể vận dụng tốt các kĩ thuật canh tác để vụ<br />
mùa có năng suất cao. Diễn ngôn đầu có thể đã từng đúng theo cách thức canh<br />
tác truyền thống (từ sau năm 1975 đến cuối những năm 1990). Những công việc<br />
đòi hỏi sức khỏe như làm đất, gieo sạ, điều tiết nước tưới tiêu đều do nam giới<br />
đảm trách. Còn phụ nữ được cho là có tính tỉ mỉ và kiên nhẫn hơn, nên thường<br />
tham gia vào các khâu cấy giặm, làm cỏ và thu hoạch. Việc thuê mướn nhân<br />
công chỉ diễn ra lúc thu hoạch khi cần phải hoàn thành công việc trong thời<br />
gian ngắn. Từ cuối những năm 1990 - khi có sự cơ giới hóa cũng như việc sử<br />
dụng nhiều loại giống lúa, phân bón, thuốc trừ sâu, cũng như kể từ năm 2000 -<br />
khi việc trồng xen canh cây màu xuất hiện và trở nên phổ biến ở Tiền Giang<br />
cho đến nay, sự tham gia của nam giới vào hoạt động nông nghiệp vẫn chiếm<br />
ưu thế nhưng không hoàn toàn dựa vào sức lực cơ bắp. Bởi những khâu trước<br />
đây vốn cần nhiều sức lực như làm đất và thu hoạch thì nay đã có sự tham gia<br />
mạnh mẽ của phương tiện cơ giới; cũng như việc thuê mướn nhân công diễn ra<br />
ở hầu hết các khâu trong quá trình canh tác. Thay vào đó, nam giới lại thực sự<br />
nổi bật ở những khâu rải phân, phun thuốc, cũng như việc mua giống và vật tư,<br />
nhất là trong việc trồng màu vốn đòi hỏi quy trình kĩ thuật công phu hơn. Ở<br />
những khâu này, tỉ lệ tham gia của họ gấp 4-5 lần so với của nữ giới (xem Biểu<br />
đồ 1). Đây là những khâu được nhấn mạnh trong canh tác nông nghiệp hiện<br />
nay. Việc sử dụng giống lúa ngắn ngày, thay đổi cơ cấu cây trồng, cùng với<br />
việc rải phân, phun thuốc được xem là những biểu hiện cụ thể của việc áp dụng<br />
những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào canh tác nông nghiệp. Những hoạt động<br />
này cần sự hiểu biết lẫn kinh nghiệm thực hành nếu muốn đạt kết quả tốt, và<br />
nam giới được xem là gắn liền với những khả năng đó. Từ điểm này, giả thuyết<br />
có thể được đặt ra là về mặt biểu hiện, nam giới vẫn giữ vị trí ưu thế trong hoạt<br />
động nông nghiệp; còn về tính chất, vị trí của nam giới so với nữ giới đã có sự<br />
dịch chuyển trong những thập kỷ qua: từ lao động chính chủ yếu dựa vào sức<br />
mạnh thể lực sang lao động chính chủ yếu dựa vào việc làm chủ tri thức kĩ<br />
<br />
629<br />
thuật canh tác. Xét theo phương diện ngược lại, sự xuất hiện của tri thức và<br />
thực hành kĩ thuật canh tác hiện đại một mặt thay đổi tỉ lệ tham gia lao động<br />
của các thành viên nông hộ, mặt khác lại củng cố trật tự giới trong hoạt động<br />
canh tác của nông hộ 1.<br />
Ở một khu vực thuần nông, vị trí ưu thế của nam giới trong việc trồng<br />
trọt - dù là về thể lực hay khả năng làm chủ kĩ thuật canh tác - có lẽ cũng khiến<br />
người ta duy trì mong muốn sinh con trai để sớm có người đỡ đần gia đình<br />
trong việc đồng áng. Ngoài ra, theo cách tính phụ hệ, con trai sẽ là người được<br />
thừa kế ruộng đất từ ông bà cha mẹ. Việc tiếp nhận tài sản bất động sản như thế<br />
cũng có nghĩa là thừa hưởng cả nghề làm nông và những kinh nghiệm canh tác<br />
của các thế hệ trước. Những người con trai trong trường hợp này trở thành biểu<br />
tượng cho sự nối dài công việc làm nông của thế hệ cha mẹ. Bên cạnh đó, do<br />
các mảnh ruộng có vị trí nằm kề nhau tạo thành những cánh đồng có chung hệ<br />
thống thủy lợi và giao thông, nên việc thừa kế ruộng đất cũng đồng nghĩa với<br />
việc bắt đầu tham gia và duy trì mối quan hệ với những gia đình có ruộng liền<br />
kề vốn đã tồn tại từ nhiều thế hệ trước.<br />
Là hình ảnh của sức mạnh thể lực, tri thức kĩ thuật canh tác, sự nối tiếp<br />
nghề nông cũng như các quan hệ làng xóm, nam giới một mặt thường được gắn<br />
với vai trò chủ hộ, mặt khác được gắn với không gian bên ngoài của ruộng<br />
đồng. Còn nữ giới thường sẽ về nhà chồng sau khi kết hôn, và việc họ tham gia<br />
vào nông nghiệp là để duy trì công việc của gia đình chồng. Trong khi gia đình<br />
bên chồng cũng thực hiện những nguyên tắc nối nghiệp theo những người con<br />
trai, do đó không gian ruộng đồng có vẻ không dành cho nữ giới, dù là bên nhà<br />
cha mẹ ruột hay bên nhà chồng. Thay vào đó, họ được đặt vào không gian gia<br />
đình với vai trò là người coi sóc sự êm ấm trong nhà. Họ được khuyến khích<br />
làm những công việc mà họ có thể ở nhà hoặc gần nhà để chu toàn vai trò được<br />
gắn với phụ nữ. Nhưng điều này không hàm ý một nguyên tắc chia tách công<br />
việc giữa nam và nữ; bởi trên thực tế, cả hai đều tham gia vào các công việc<br />
nông nghiệp và phi nông nghiệp; nhưng là gắn họ với những tính chất khác<br />
<br />
<br />
Sự chuyển dịch này hàm ý việc nhấn mạnh vai trò nào hơn ở nam giới qua các giai đoạn,<br />
1<br />
<br />
sức mạnh thể lực hay việc làm chủ tri thức kĩ thuật canh tác. Bởi trước đây nông hộ vẫn có những kĩ<br />
thuật canh tác (như cho ruộng ngập nước và thả vịt vào để diệt rầy, hoặc dùng dây trâm bầu để rẩy<br />
một thứ nước chiết xuất từ các loại cây có độc tính để diệt sâu), cũng như thể lực vẫn rất cần trong<br />
việc sản xuất nông nghiệp hiện nay. Hơn thế, một thực tế nữa là cả hai loại diễn ngôn này vẫn cùng<br />
tồn tại và phổ biến ở các địa bàn vào thời điểm khảo sát.<br />
<br />
<br />
<br />
630<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
nhau và định hình những vai trò khác nhau của họ trong gia đình: nam giới<br />
được hướng ra bên ngoài cộng đồng, còn gia đình là nơi dành cho nữ giới.Theo<br />
đó, nam giới có ưu thế quyết định các công việc làm ăn và giao tế, trong khi nữ<br />
giới nổi trội trong gia đình như việc chăm lo học hành cho con cái (xem Biểu<br />
đồ 2); hoặc nam giới lo công việc sản xuất, còn nữ giới giữ tiền và quản lý việc<br />
thu chi của gia đình.<br />
Những phác họa bước đầu ở trên cho thấy mối quan hệ giới trong nông<br />
hộ không chỉ là sự phân chia vai trò theo giới giữa các thành viên trong gia<br />
đình với nhau, mà những vai trò này còn phần nào được tạo nên và duy trì bởi<br />
những diễn ngôn của cộng đồng. Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp là sinh<br />
kế chủ yếu, nam giới dường như có vị trí ưu thế trong đời sống của nông hộ.<br />
Tuy nhiên, sự ưu thế này chỉ là một mặt trong sự đối ngẫu với vị trí của nữ<br />
giới, như là sự đối ngẫu giữa không gian bên ngoài ruộng đồng và không gian<br />
bên trong gia đình.<br />
Biểu đồ 1. Phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp của nông hộ<br />
tỉnh Tiền Giang<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: Số liệu điều tra của đề tài năm 2014.<br />
Biểu đồ 2. Việc quyết định một số công việc trong gia đình của nông hộ<br />
tỉnh Tiền Giang<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
631<br />
Nguồn: Số liệu điều tra của đề tài năm 2014.<br />
4.2.2. Mối quan hệ giới trong phạm vi dòng họ-cộng đồng<br />
Những tính chất gắn với nam và nữ ngoài việc định hình vai trò của họ<br />
trong gia đình mà còn chi phối đến mạng lưới quan hệ xã hội của họ. Theo đó,<br />
sự đối ngẫu về vai trò của hai giới trong phạm vi gia đình ít nhiều cũng định<br />
hình tương quan giữa các nhóm xã hội theo giới trong phạm vi dòng họ-cộng<br />
đồng 1.<br />
Khi xem xét không gian sinh hoạt giữa nam giới và nữ giới nơi nhà ở,<br />
một điều có thể được quan sát thấy là khi giữa lối xóm có việc cần bàn và cuộc<br />
nói chuyện không quá trang trọng, người ta thường ngồi ở bàn trà (được đặt<br />
trước hiên hoặc cạnh bàn giữa trong gian khách của mỗi nhà) để trao đổi. Nếu<br />
cuộc nói chuyện mang tính trang trọng hơn, hoặc nhà không có bàn trà thì<br />
khách sẽ được mời vào ngồi bàn giữa. Điều này có một chút khác biệt trong<br />
cuộc nói chuyện giữa nam và nữ. Với cuộc nói chuyện thông thường, họ thường<br />
đứng trao đổi trước nhà; hoặc khách nam sẽ được mời ngồi vào bàn trà, còn nữ<br />
chủ nhà sẽ ngồi võng được mắc cạnh bên hoặc kéo ghế ngồi ra xa bàn trà một<br />
chút (như dấu hiệu của việc không ngồi chung bàn, việc này cũng tương tự với<br />
trường hợp nam chủ nhà tiếp khách nữ) và cuộc nói chuyện thường rất ngắn. Ở<br />
các tình huống trang trọng, khách nam (ít thấy khách nữ) sẽ được mời ngồi ở<br />
bàn giữa, còn nữ chủ nhà sẽ ngồi ở bộ phản được đặt cạnh bên để trao đổi. Đối<br />
<br />
<br />
Ở đây, cộng đồng được hiểu là mối quan hệ làng xóm tại những địa bàn được khảo sát. Ở<br />
1<br />
<br />
những nơi này, mối quan hệ dòng họ và mối quan hệ làng xóm thường chồng lấp vào nhau bởi việc<br />
con cái khi có gia đình và ra riêng, được thừa kế ruộng đất từ cha mẹ thì ở lại địa phương và sống<br />
gần kề nhau. Trong số 240 hộ được khảo sát, có đến 235 hộ sinh sống tại các địa phương từ lâu đời.<br />
Chỉ có 5 hộ chuyển đến từ nơi khác, hộ đến lâu nhất là vào năm 1976, còn gần đây nhất là vào năm<br />
2008.<br />
<br />
<br />
<br />
632<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ngược với không gian ở hiên nhà và gian khách, những nơi như gian bếp vốn<br />
gắn với công việc nội trợ và nhất là phòng ngủ vốn là biểu trưng hữu hình của<br />
đời sống vợ chồng là nơi rất hạn chế sự có mặt của khách nam. Bên ngoài ngôi<br />
nhà, nam giới có thể tụ họp ở nhiều địa điểm, từ nhà ở của những hộ khác, đồng<br />
ruộng, đến hàng ăn quán uống để thăm hỏi, thảo luận về những việc có liên<br />
quan đến sản xuất nông nghiệp, kinh nghiệm làm ăn. Trong khi nữ giới thường<br />
đến nhà của nhau để làm những việc tương tự hơn là tụ tập ở những không gian<br />
bên ngoài. Nếu có đi ăn ở hàng quán thì nữ giới thường đi với chồng và con<br />
cái, cũng như hạn chế ngồi lâu tán gẫu với những người xung quanh như ở nam<br />
giới. Tại những nơi này, thỉnh thoảng họ cũng trao đổi với lối xóm là nam giới<br />
về việc làm ăn, hỏi thăm khi nào thì làm việc gì trong mùa vụ để có thể thực<br />
hiện đồng loạt, hay về năng suất và giá cả đầu ra. Họ hiếm khi hỏi về các kĩ<br />
thuật gieo trồng, phun thuốc hay bón phân thuần túy. Một vài chi tiết kể trên<br />
cho thấy rằng không gian sinh hoạt của nam giới có vẻ trải rộng hơn so với của<br />
nữ giới. Những vị trí trong nhà gắn với việc giao tế với các mối quan hệ bên<br />
ngoài gia đình, như không gian trước nhà, bàn trà, bàn giữa, cũng như những<br />
không gian bên ngoài ngôi nhà được dành cho nam giới. Còn những vị trí mang<br />
tính tư riêng như võng, bộ phản, phòng ngủ, hoặc gắn với việc nội trợ như gian<br />
bếp được dành cho nữ giới. Như thế, tính chất hướng ra không gian bên ngoài<br />
ruộng đồng gắn với nam giới và tính chất hướng vào bên trong không gian gia<br />
đình gắn với nữ giới không chỉ hàm ý về những không gian vật lý dành riêng<br />
cho mỗi giới, mà có lẽ còn là một sự phân định về vai trò xã hội, bởi nó xảy ra<br />
ở bên ngoài lẫn bên trong ngôi nhà của nông hộ.<br />
Về quan hệ xã hội hay về nhân tố cố kết trong dòng họ-cộng đồng, giữa<br />
nam giới và nữ giới có xu hướng liên kết xã hội khác nhau. Mạng lưới xã hội<br />
của nam giới có xu hướng gắn với việc sản xuất nông nghiệp và rộng khắp<br />
trong cộng đồng. Những người mà họ xem là có uy tín và có thể tham khảo về<br />
kĩ thuật canh tác khá đa dạng, trong đó quan trọng nhất là lối xóm. Còn ở nữ<br />
giới, nguồn thông tin uy tín để họ tham khảo không đa dạng bằng, chủ yếu là<br />
người trong gia đình-dòng họ và lối xóm; theo đó, quan hệ lối xóm có vai trò<br />
quan trọng ngang bằng với các quan hệ gia đình-dòng họ. Về nơi ở của những<br />
người được xem là có uy tín, phạm vi những nguồn tin của nam giới có khuynh<br />
hướng trải rộng hơn, chủ yếu ở trong ấp và trong xã, một số ít ở tỉnh khác; còn<br />
nguồn tin của nữ giới có khuynh hướng tập trung hơn, phần đông là ở trong ấp,<br />
một số ít hơn trong xã và ở xã khác. Điều này cũng tương tự đối với những<br />
<br />
<br />
<br />
633<br />
nguồn thông tin mà thông qua đó cả hai giới học được kĩ thuật canh tác mới<br />
hoặc cách làm ăn mới. Nam giới có một danh sách các nguồn thông tin đa dạng<br />
hơn so với nữ giới, và ở mỗi nguồn thông tin, nam giới cũng có tỉ lệ tiếp cận<br />
cao hơn (trừ nguồn tin từ bà con họ hàng). Trong đó, ba nguồn tin có vai trò<br />
quan trọng ngang nhau là truyền hình, hàng xóm và hội thảo hay tập huấn của<br />
các công ty tại địa phương. Ngược lại, ở hầu hết các nguồn tin, nữ giới có tỉ lệ<br />
tiếp cận thấp hơn, chỉ có nguồn tin từ bà con họ hàng là cao nhất và nổi bật hơn<br />
so với nam giới. Ba nguồn tin quan trọng với nam giới thì cũng quan trọng đối<br />
với nữ giới, nhưng tỉ lệ tiếp cận với những nguồn tin này của họ không bằng<br />
của nam giới (xem Biểu đồ 3). Điều này một lần nữa minh họa cho hiệu lực của<br />
diễn ngôn rằng nam giới là hình ảnh của tri thức kĩ thuật canh tác, cũng như<br />
cho thấy hai xu hướng tiếp cận thông tin khác nhau ở cả hai giới.<br />
Một trong những mối quan hệ xã hội quan trọng của nam giới là mạng<br />
lưới của nhóm bạn kề ruộng. Mạng lưới này gồm những người có ruộng liền kề<br />
nhau nằm trong một cánh đồng, cùng dùng chung hệ thống tưới tiêu và đường<br />
giao thông và tự liên kết với nhau để có thể canh tác đồng loạt. Cách thức này<br />
được họ gọi là “hợp đồng”. Việc này giúp ích rất nhiều cho các nông hộ. Khi sử<br />
dụng cùng một loại giống lúa hay làm đất, gieo sạ và thu hoạch cùng thời điểm,<br />
các hộ có ruộng liền kề có thể dễ dàng thuê mướn máy móc để làm đất và gặt<br />
lúa; cũng như có thể chủ động thương lượng và hợp đồng với thương lái trong<br />
việc bán lúa. Ngoài ra, với lịch thời vụ giống nhau, họ có thể chủ động nguồn<br />
nước cũng như tăng hiệu quả trong việc phòng trừ sâu bệnh và các loài phá<br />
hoại. Tuy nhiên, nhóm bạn kề ruộng không phải là một mạng lưới quan hệ bình<br />
đẳng, mà quyền đại diện cho nhóm để quyết định các công việc mùa vụ thuộc<br />
về những hộ có nhiều ruộng đất nhất; hoặc am hiểu,vận dụng kĩ thuật canh tác<br />
hiệu quả nhất trong cánh đồng; hoặc có ruộng gần với trục giao thông (đường<br />
bộ hay đường sông) tùy tình huống, trong đó nhiều ruộng đất thường là tiêu chí<br />
quan trọng nhất. Những hộ có ít ruộng đất, hoặc lúa xấu, hoặc nằm cách xa các<br />
trục giao thông dù cũng được tham khảo ý kiến nhưng phần lớn họ tùy thuận<br />
theo quyết định của những hộ kia. Những hộ có nữ giới đứng chính trong việc<br />
làm ruộng thường cũng sẽ theo quyết định của những hộ khác trong cánh đồng,<br />
mà phần lớn là của nam giới. Khi xem xét nhóm bạn kề ruộng, điều cần lưu tâm<br />
là mạng lưới quan hệ này không chỉ là những mối quan hệ lối xóm của nam<br />
giới, nhưng cũng là những mối quan hệ mà họ được tiếp nhận cùng với việc<br />
thừa kế đất đai từ thế hệ trước. Theo đó, bên cạnh những khía cạnh về bất động<br />
<br />
<br />
<br />
634<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
sản, nghề nghiệp và các quan hệ xã hội, với những ưu thế từ diện tích và vị trí<br />
của đồng ruộng được thừa kế, nam giới cũng kế thừa luôn vị thế của hộ trong<br />
cộng đồng nơi cha mẹ họ và họ sinh sống, mà cụ thể là trong mạng lưới bạn kề<br />
ruộng.<br />
Do các địa bàn đều có sông và kênh bao quanh hoặc cắt qua, nên đồng<br />
ruộng ở đây thường ngập nước vào giữa vụ Thu-Đông và Đông-Xuân. Để khởi<br />
đầu cho vụ Đông-Xuân, vụ quan trọng nhất do luôn có sản lượng cao nhất trong<br />
năm, những hộ có ruộng cùng nằm chung trong một cánh đồng hợp tác với nhau<br />
thành những tổ bơm nước dưới sự điều phối của một nhóm gồm ba người (gần<br />
như hoàn toàn là nam giới) do các hộ trong cánh đồng bầu ra. Nhóm người điều<br />
phối sẽ lên danh sách những hộ có máy bơm nước trong cánh đồng; sắp xếp vị<br />
trí bơm nước và theo dõi số nhiên liệu hao tốn để rút hết nước trong cánh đồng;<br />
sau đó tính toán chi phí rồi chia bình quân lại cho các hộ theo diện tích đất và<br />
công góp máy (nếu có) để thu hoặc trả tiền cho hộ. Có một điểm tương đồng là<br />
những người trong nhóm điều phối thường cũng là người đại diện của chính<br />
quyền xã/ấp, và/hoặc là những người sản xuất giỏi của địa phương. Khi đó, với<br />
thẩm quyền và uy tín về kinh nghiệm sản xuất, họ có thể vận động và điều phối<br />
sự tham gia của những hộ khác. Ngoài ra, người dân ở các địa bàn khảo sát<br />
cũng được khuyến khích đi học nghề theo chủ trương của Chính phủ. Theo đó,<br />
những nông dân sản xuất giỏi của địa phương (và cũng là đại diện của chính<br />
quyền xã/ấp) chịu trách nhiệm về việc vận động người dân tham gia và quản lý<br />
các lớp học về kĩ thuật làm ruộng. Lớp kéo dài ba tháng, do các kỹ sư ở Phòng<br />
Nông nghiệp thị xã Cai Lậy dạy và học viên của các lớp này chủ yếu là nam<br />
giới. Như thế, dường như có sự liên hệ giữa hai kiểu quan hệ: mối quan hệ giữa<br />
những người nông dân (xét như là lối xóm, bạn kề ruộng) với quan hệ giữa đại<br />
diện chính quyền địa phương và người dân (xét trong việc tổ chức các tổ bơm<br />
nước và các lớp học nghề). Trong giới hạn của dữ liệu, có thể thấy sự liên hệ<br />
này theo kiểu sự thể chế hóa của mối quan hệ sau được dựa trên cơ sở của mối<br />
quan hệ trước, mà ở đó nam giới có vai trò nổi bật.<br />
Nếu các mối quan hệ của nam giới phần lớn tập trung vào việc sản xuất<br />
nông nghiệp thì nữ giới lại hình thành nên những nhóm hụi với mục tiêu tích<br />
lũy vốn và kiếm lời. Hẳn nhiên việc quyết định tham gia dây hụi nào xuất phát<br />
từ sự bàn bạc của hai vợ chồng trong các gia đình, nhưng phần nhiều nữ giới là<br />
người đảm nhận chính trong việc chơi hụi, cả ở vai trò người chơi lẫn người<br />
chủ hụi (còn được gọi là “đầu thảo”). Có nhiều hình thức hụi tại các địa phương<br />
<br />
<br />
635<br />
(như hụi tháng, hụi mùa), trong đó hụi mùa được nhiều người tham gia do gắn<br />
với chu kỳ sản xuất nông nghiệp của các nông hộ. Hụi thường được gom sau<br />
mỗi mùa vụ, khi các nông hộ đã bán nông sản. Mức đóng mỗi lần khoảng từ 1,5<br />
đến 2,5 triệu đồng. Tùy địa phương mà quy định của các nhóm hụi có sự khác<br />
nhau. Do ba tháng mới đóng một lần và tổng số người chơi thường trên 10<br />
người nên mỗi dây hụi phải kéo dài nhiều năm, thường từ ba đến năm năm và<br />
số tiền hốt được mỗi kỳ rất lớn. Với số tiền này, nông hộ có thể mua máy móc<br />
phục vụ sản xuất, dành dụm để mua thêm đất đai; hoặc sắm đồ dùng lâu bền<br />
trong nhà, xây sửa nhà cửa; hoặc đầu tư học hành cho con cái. Ở một số nông<br />
hộ, tiền hụi là khoản vốn dài hạn dành để đầu tư hoặc mở rộng công việc làm<br />
ăn 1, còn thu nhập từ vụ mùa - vốn là thành quả lao động của nam giới - lại chủ<br />
yếu dành cho các khoản chi tiêu trong ngắn hạn, bao gồm cả tái đầu tư cho vụ<br />
sau. Còn đối với những hộ không đủ điều kiện để vay vốn - công việc phần<br />
nhiều do nam giới thực hiện - thì hụi là một khoản đóng góp có ý nghĩa cho<br />
việc sản xuất và chi tiêu của họ. Như thế, dù không chiếm ưu thế trong công<br />
việc sản xuất, nhưng việc quản lý tài chính trong nhà bao gồm việc tham gia<br />
các nhóm hụi, đặc biệt là quản lý các khoản vốn dài hạn từ hụi mùa, phần nào<br />
khiến nữ giới có thể tham gia bàn bạc và ra quyết định cùng với nam giới ở hầu<br />
hết các công việc trong gia đình (xem lại Biểu đồ 2); hoặc cùng với nam giới<br />
dự trù những kế hoạch lớn trong tương lai, bao gồm cả những việc liên quan<br />
đến sản xuất nông nghiệp vốn là thế mạnh của nam giới. Với thời gian chơi hụi<br />
kéo dài, giá trị của dây hụi lớn và các hoạt động tín dụng trong dây hụi chủ yếu<br />
dựa trên sự tin cậy lẫn nhau, người đầu thảo có những tiêu chí để đánh giá khả<br />
năng tham gia của người chơi, và bản thân người chơi cũng đánh giá mức độ tin<br />
cậy của nhau. Tiêu chí đầu tiên là khả năng đóng hụi. Ngoài xét xem người<br />
chơi có từng nợ hụi ở những lần chơi trước hay không, người ta còn đánh giá<br />
thông qua số ruộng đất mà người chơi hụi đang có. Nếu không có đất thì ít nhất<br />
hộ đó phải có công việc tạo thu nhập cao hơn mức đóng hụi ở mỗi vụ. Như thế,<br />
<br />
<br />
Như hộ bà The (sinh năm 1964, xã Mỹ Thành Bắc), nhờ chơi hụi mùa và nhất là hụi vàng<br />
1<br />
<br />
mà bà mua được hai miếng đất, mỗi miếng năm công; mua được ghe để chồng và con trai lớn cùng đi<br />
chở hàng. Do thu nhập có được sau khi hốt hụi vàng không chỉ là khoản lời mà những người hốt<br />
trước bỏ ra, mà còn do giá vàng tăng liên tục trong thời gian bà chơi hụi. Hiện bà không còn chơi hụi<br />
vàng nhưng vẫn chơi hụi mùa. Dự định của bà là chơi hụi dành dụm để mua thêm ghe cho người con<br />
trai út (hiện vẫn còn là học sinh). Chiếc ghe hiện tại có thể để cho người con lớn. Nếu công việc làm<br />
ăn thuận lợi, bà còn dự định chơi hụi để xây sửa nhà cửa vì hiện tại nhà bà vẫn là nhà gỗ, lợp tole và<br />
khá nóng vào mỗi trưa nắng.<br />
<br />
<br />
<br />
636<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
KỶ YẾU HỘI THẢO<br />
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
việc có ít hay nhiều ruộng đất cũng có ảnh hưởng đến việc tham gia các mạng<br />
lưới tín dụng ở địa phương của nữ giới. Tiêu chí thứ hai là dây hụi cần có sự<br />
tham gia của những người khác trong dòng họ (và cũng thường là nữ giới).<br />
Việc những người tham gia có mối quan hệ dòng họ với nhau sẽ làm tăng mức<br />
độ tin cậy của dây hụi. Dù thế, nữ giới xem việc chơi hụi như là một công việc<br />
làm ăn hơn là nhấn mạnh khía cạnh tương trợ lẫn nhau.<br />
Có thể nhận ra một vài điểm khác biệt khi so sánh nhóm bạn kề ruộng<br />
(chủ yếu của nam giới) với nhóm hụi (chủ yếu của nữ giới), cũng như có thể<br />
nhận thấy mối quan hệ giới trong cộng đồng có phần tương đồng và ít