LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Nguyễn Duy,
tác giả khóa luận đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong khoa
Ngữ Văn, các thầy, cô trong tổ Văn học Việt Nam và đặc biệt là TS - GV.
La Nguyệt Anh - người đã tận tâm, chu đáo trong hướng dẫn tôi hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Tác giả khóa luận xin được bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân
trọng nhất tới các thầy cô.
Do năng lực nghiên cứu có hạn, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo, góp ý của các thầy, cô và các bạn
đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoài Thu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Khóa luận Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Nguyễn Duy là kết quả nghiên cứu
của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của những người đi trước, dưới sự giúp đỡ
khoa học của TS - GV. La Nguyệt Anh.
Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, công trình có sẵn nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoài Thu
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Đóng góp mới của khóa luận ..................................................................... 6
7. Cấu trúc của khóa luận............................................................................... 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 8
1.1. Giới thuyết chung về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật........................ 8
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật................................... 8
1.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ....................................................... 10
1.2. Nguyễn Duy và quá trình sáng tạo nghệ thuật...................................... 15
1.2.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Duy........................................................ 15
1.2.2. Quá trình sáng tạo nghệ thuật ........................................................ 18
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT THƠ
NGUYỄN DUY .............................................................................................. 24
2.1. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy giản dị, đời thường................................... 24
2.1.1. Kết hợp ngôn ngữ thơ ca dân gian và ngôn ngữ đời sống ............. 24
2.1.2. “Lạ hóa” ngôn ngữ đời thường...................................................... 33
2.2. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy giàu tính nhạc và tính tạo hình................. 37
2.2.1. Ngôn ngữ thơ giàu tính nhạc .......................................................... 37
2.2.2. Ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình..................................................... 44
iii
2.3. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy có sự kết hợp tài tình các thủ pháp
nghệ thuật .................................................................................................... 48
2.3.1. Thủ pháp liệt kê, trùng điệp ............................................................ 49
2.3.2. Thủ pháp so sánh, ẩn dụ ................................................................. 52
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ lâu, thơ ca đã ăn sâu vào tiềm thức, tâm hồn và cả lối sống của
người Việt Nam. Một trong những giá trị làm nên điệu tâm hồn Việt khiến thơ
ca gắn bó sâu sắc với con người và cuộc sống hàng ngày, đó chính là ngôn ngữ.
Thơ ca được xem là hiện tượng độc đáo của văn học ở cơ chế vận hành bộ máy
ngôn ngữ của nó. Khác với văn xuôi, thơ ca là thể loại chỉ dùng một lượng hữu
hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc sống bao gồm các sự
kiện tự nhiên và xã hội cũng như những điều thầm kín trong tâm hồn con
người. Để thực hiện sứ mệnh đó, từ hệ thống ngôn ngữ tự nhiên vô cùng phong
phú, người nghệ sĩ đã sáng tạo một thế giới ngôn từ mới. Đó cũng là căn
nguyên tạo nên biết bao cuộc tranh luận gay gắt và thú vị ở nhiều thời đại.
1.2. Trên thi đàn thơ Việt Nam hiện đại, Nguyễn Duy là một tiếng nói
quan trọng góp phần làm nên diện mạo riêng của thế hệ thơ trẻ thời kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Sau chiến tranh, trở về với đời thường, Nguyễn
Duy vẫn chứng tỏ được bút lực dồi dào của mình. Theo thời gian, sức sống
của thơ Nguyễn Duy dường như mỗi lúc một mãnh liệt và toả sáng, được bạn
đọc cũng như giới nghiên cứu - phê bình văn học quan tâm và đón nhận nồng
nhiệt hơn. Đặc biệt, những sáng tạo của ông về ngôn từ nghệ thuật luôn hấp
dẫn độc giả - những người thưởng thức và cả những người nghiên cứu về thơ
ca. Sẽ rất thiếu xót nếu chúng ta bỏ qua yếu tố ngôn từ nghệ thuật như một
sức sống tiềm ẩn trong thơ ca của Nguyễn Duy. Đi sâu tìm hiểu về ngôn ngữ
trong thơ ca Nguyễn Duy sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về nhà thơ
này. Đồng thời, phần nào thấy rõ hơn những giá trị đặc trưng của ngôn ngữ
thơ Việt Nam.
Mặt khác, thơ Nguyễn Duy đã được lựa chọn và đưa vào chương trình
giảng văn ở bậc phổ thông, vì vậy, việc tìm hiểu ngôn từ nghệ thuật trong thơ
Nguyễn Duy nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung nhằm đáp ứng nhu cầu
1
giảng dạy, học tập trong nhà trường, đặc biệt là những sáng tạo của nhà thơ
trên phương diện ngôn ngữ. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề
tài Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy.
2. Lịch sử vấn đề
Xuất hiện trên thi đàn Việt Nam từ những năm bảy mươi, Nguyễn Duy
đã trở thành đối tượng thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình
yêu thích thơ ông. Có thể nói người có công phát hiện và giới thiệu thơ
Nguyễn Duy đầu tiên là Hoài Thanh. Bằng con mắt “tinh đời” Hoài Thanh đã
nhận định: “Thơ Nguyễn Duy thể hiện được cái cao đẹp của những người
không tuổi, không tên”, đồng thời ông cũng nhận ra cái “chất quê đằm thắm”
từ những điều “quen thuộc mà không nhàm” của thơ Nguyễn Duy. Trải qua
hơn một phần tư thế kỷ, đã có nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ viết về
cuộc đời cũng như tác phẩm của Nguyễn Duy với quy mô và hướng tiếp cận,
nghiên cứu khác nhau. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ hệ
thống những ý kiến nổi bật, những nhận định quan trọng liên quan đến ngôn
từ nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy.
Viết về thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy, ngôn ngữ cũng được
xem là yếu tố quan trọng làm nên vẻ đẹp riêng trong thơ ca của ông, vì vậy,
có rất nhiều ý kiến đánh giá cũng như những bài viết, bài nghiên cứu có liên
quan đến ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy, mặc dù vẫn chưa có sự thống nhất hoàn
toàn. Theo Phạm Thu Yến: thơ Nguyễn Duy là sự kết hợp giữa “ngôn ngữ đời
thường” và “ngôn ngữ đậm màu sắc hiện đại” [31, tr.79], Nguyễn Quang Sáng
lại có ý kiến khác: “Thơ Nguyễn Duy đượm tính dân tộc và nhuần nhuyễn
ngôn ngữ dân gian” [19, tr.96]. Còn với Vương Trí Nhàn, thơ Nguyễn Duy là
“bản hợp xướng của những chữ lạ” [17, tr.283], Hồ Văn Hải thì khẳng định:
“Sáng tạo từ láy là điểm nổi bật nhất trong lục bát Nguyễn Duy” [10, tr.6].
Đặc biệt với sự xuất hiện của tập thơ Ánh Trăng (1985) - tập thơ đoạt
2
giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam - Nguyễn Duy mới thực sự được giới
nghiên cứu phê bình quan tâm tìm hiểu. Nguyễn Bùi Vợi nhận xét: “Viết về
ánh trăng mà để nói chuyện đời, chuyện tình nghĩa. Tác giả chọn một lối viết
giản dị, dễ hiểu. Đọc xong bài thơ, những người thích ngôn ngữ tân kỳ có thể
cho là không có gì, những người ưa loại văn trau chuốt, tỉa tót đến tinh xảo có
thể thất vọng, những người thích lối nói ồn ào đại ngôn có thể ngỡ ngàng”
[29, tr7]. Lê Quang Hưng trong bài Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng (tạp chí văn
học số 3/1986) có nhận xét đáng chú ý về nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn
Duy: “Nguyễn Duy muốn đứng giữa hôm nay và nhìn lại hôm qua từ tâm trạng
riêng, tiếng thơ anh như một lời cảnh tỉnh, lời nhắc nhở… Không chỉ qua thể
thơ, giọng điệu mà chất dân gian của thơ Nguyễn Duy ngấm trong cả cách cảm
lối nghĩ, trong quá trình “dàn dựng” hình tượng thơ. Tất cả những cái đó vừa
rất dân tộc, rất truyền thống lại vừa khá hiện đại, khá mới…” [12, tr.156]. Có
thể nói, sự ra đời của Ánh Trăng đánh dấu bước trưởng thành mang tính chất
quyết định trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy.
Vương Trí Nhàn trong bài viết Một bản sắc đã đến lúc định hình khẳng
định: “Sự tìm tòi kéo dài liên tục qua các tập thơ Ánh trăng (1984), Mẹ và em
(1987), Đường xa (1989), Qùa tặng (1990), và với tập thơ Về (1994), từ chỗ
pha giọng chập chững, mày mò nhà thơ đã đi tới một giọng điệu có nhiều phẩm
chất thuần nhất, dân dã mà hiện đại, từng trải dạn dày song lại run rẩy tinh tế,
cay đắng ngậm ngùi ngay trong khi cười cợt đắm say, lam lũ dông dài mà vẫn
có những nét cao sang riêng…” [17, tr.3]. Bài viết còn đề cập đến một vài đặc
điểm ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Duy: “Sự đắm đuối đi tìm những chữ lạ”, “ăn
chịu với truyền thống - thơ lục bát” [17, tr.8]… Từ Sơn trong bài Thơ Nguyễn
Duy vui mừng nhận thấy: “điều đáng mừng là thơ ông đã góp phần vào kho
tàng thơ Xã hội chủ nghĩa hiện đại những bài thơ hay mang dáng vẻ riêng,
nồng nàn hơi thở đời sống, giàu hương vị dân tộc và dào dạt một tình yêu cuộc
sống trong dáng hình bình dị, chân chất, dân dã…” [21, tr.2].
3
Nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy còn phải kể đến một bài viết rất công
phu của Chu Văn Sơn là Nguyễn Duy - Thi sĩ thảo dân, bài viết không chỉ
khám phá hành trình thơ Nguyễn Duy mà trên chặng đường ấy, Nguyễn Duy
đã tìm ra “trọn vẹn cái tôi của mình” - cái tôi “thảo dân chính hiệu”. Tác giả
còn cho rằng: “Duy phải lòng lục bát” nhưng “cây đàn này của Duy chơi điệu
mới, nhịp mới, hồn mới”. Duy còn thích “xài thứ ngôn từ hồn nhiên”, “khoái
lối ghẹo dân gian”, đặc biệt là sự dung nạp “thứ ngôn từ dính bụi mà lấp lánh
chất folklore” vào thơ [20, tr.38-53].
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết tìm hiểu thơ Nguyễn Duy qua phân tích,
bình giảng một tác phẩm cụ thể: Lê Trí Viễn khi nói về bài Tre Việt Nam trong
cuốn Đến với thơ hay [30, tr.289]. Hoàng Nhuận Cầm khi nói về bài Áo trắng
má hồng (Báo Tuổi trẻ hạnh phúc số 5/1996)… Một số bài viết nhỏ của các
tác giả như Trần Hòa Bình, Vũ Quần Phương, Tế Hanh… đã phát hiện nhiều
khía cạnh đặc sắc của thơ Nguyễn Duy.
Tổng quan về lịch sử nghiên cứu thơ Nguyễn Duy, chúng ta thấy đã có
một số bài viết nghiên cứu thơ ông dưới góc độ ngôn ngữ nhưng chưa phải là
nhiều. Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thơ Nguyễn Duy, chúng tôi nhận
thấy vấn đề về ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy còn nhiều vấn đề chưa được triển
khai, làm rõ. Trong phạm vi khóa luận tốt nghiệp này, chúng tôi mong muốn
tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy để thấy được nét riêng trong thơ
ông, khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của Nguyễn Duy trên thi đàn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đi sâu vào đề tài này, mục đích của chúng tôi là hướng vào tìm hiểu
những đặc điểm nổi bật về hình thức ngôn ngữ của thơ Nguyễn Duy, để từ đó
có được cái nhìn tổng quát về đặc trưng phong cách ngôn ngữ thơ ông, góp
phần vào việc khẳng định vị trí của Nguyễn Duy trên thi đàn.
4
So sánh đối chiếu ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy với ngôn ngữ thơ của các
tác giả khác, đặc biệt là các tác giả cùng thời với ông để tìm ra những đặc
điểm chung nhất và những đặc trưng riêng của thơ ca mỗi người.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ
thuật thơ.
- Tìm hiểu những nét chính về tác giả Nguyễn Duy và quá trình sáng
tạo nghệ thuật của ông.
- Tìm hiểu những đặc trưng nổi bật về ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ
Nguyễn Duy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ
Nguyễn Duy.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Các yếu tố ngôn ngữ đặc trưng trong thơ
Nguyễn Duy.
- Phạm vi tư liệu: Để thực hiện việc nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật
trong thơ Nguyễn Duy, chúng tôi chủ yếu khảo sát, nghiên cứu sáng tác của
ông trong tuyển tập Thơ Nguyễn Duy, Nxb Giáo dục, 1998.
Bên cạnh việc khảo sát chủ yếu ở tuyển thơ trên, chúng tôi sử dụng tư
liệu trong các tập khác của Nguyễn Duy. Khi cần thiết, khóa luận có so sánh,
mở rộng với thơ của các nhà thơ khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trên, chúng tôi vận dụng các phương
pháp chủ yếu sau đây:
5
5.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói
chung. Chúng tôi vận dụng phương pháp này để phân tích các câu thơ, khổ
thơ, đoạn thơ, bài thơ có tính chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các
luận điểm của khóa luận.
5.2. Phương pháp thống kê, so sánh
Phương pháp này giúp chúng tôi thống kê và phân loại các đặc điểm
ngôn từ nghệ thuật trong thơ của Nguyễn Duy, từ đó làm cơ sở để triển khai
các luận điểm cho khóa luận. Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng phương pháp so
sánh là để khẳng định nét độc đáo, đặc sắc của phong cách thơ Nguyễn Duy
trong mối tương quan so sánh với các tác giả, tác phẩm khác. Với việc sử
dụng phương pháp này chúng tôi có cơ sở để tìm hiểu, lí giải và xác định rõ
những giá trị cũng như đóng góp của thơ Nguyễn Duy trên nhiều bình diện
khác nhau.
5.3. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Ngôn từ nghệ thuật là một hệ thống cấu trúc bao gồm nhiều yếu tố có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Khóa luận chú trọng việc tìm ra những yếu tố cơ
bản để tạo nên những chỉnh thể thống nhất. Mặt khác, sử dụng phương pháp
này giúp chúng tôi tiếp cận một cách hệ thống các yếu tố cấu thành nên chỉnh
thể ngôn ngữ nghệ thuật thơ Nguyễn Duy. Mọi đối tượng, mọi vấn đề khảo sát
được chúng tôi đặt trong tương quan hệ thống, trong quy luật cấu trúc này.
6. Đóng góp mới của khóa luận
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống
về Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Nguyễn Duy.
Khóa luận đã tìm hiểu thơ Nguyễn Duy trên phương diện ngôn ngữ
nghệ thuật, những đặc điểm nổi bật về ngôn ngữ trong thơ ông, để từ đó
khẳng định bản sắc riêng độc đáo của ngòi bút Nguyễn Duy và vị thế của ông
6
trong tiến trình vận động và phát triển của thơ Việt Nam hiện đại.
Kết quả của khóa luận sẽ góp một phần vào việc nghiên cứu, giảng dạy,
học tập về thơ Nguyễn Duy trong nhà trường.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của khóa luận được triển khai gồm hai chương sau:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật thơ Nguyễn Duy.
7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Giới thuyết chung về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật
1.1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của
loài người, là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp của xã hội. Ngôn ngữ
bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, trong thời đại hiện nay, nó là công
cụ quan trọng nhất của sự trao đổi văn hoá giữa các dân tộc.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ là: “công cụ, là chất liệu
cơ bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ.
Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể
hiện cá tính sáng tạo, phong cách và tài năng của nhà văn, mỗi nhà văn lớn
bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân,
cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác” [9, tr.215].
Tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và tính biểu
cảm là những thuộc tính của ngôn ngữ văn học.
1.1.1.2. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ nghệ thuật là: “Ngôn ngữ
mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật
ngữ này có ý nghĩa rộng hơn, nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng
ngôn ngữ được dùng một cách chuẩn mực trong các văn bản nhà nước, trên
báo chí, đài phát thanh, trong văn học và khoa học” [9, tr.215].
Ngôn ngữ chính là cái vỏ của tác phẩm. Bạn đọc muốn khám phá thế
giới bên trong thì trước hết phải bóc tách được cái vỏ bên ngoài. Vì thế, khi
đến với bất kì một tác phẩm nào, khám phá ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm
8
chính là yêu cầu đầu tiên và tất yếu để bạn đọc đi sâu tìm hiểu những giá trị
nội dung, giá trị nghệ thuật và cả những giá trị thẩm mĩ mà tác giả gửi gắm.
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học
được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Bàn về ngôn từ trong văn học,
M.Gocki cho rằng: “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” [9, tr.310].
Ngôn ngữ trong tất cả tính chất thẩm mĩ của nó là chất liệu, là phương
tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Không có ngôn ngữ thì không
thể có tác phẩm văn học (phi ngôn ngữ bất thành văn). Trong tác phẩm văn
học, ngôn ngữ là phương tiện để cụ thể hóa và vật chất hóa sự biểu hiện chủ
đề và tư tưởng tác phẩm, tính cách nhân vật và cốt truyện… Nguyễn Tuân đã
định nghĩa về nghề văn như sau: “Nghề văn là nghề của chữ - chữ với tất cả
mọi nghĩa mà mỗi chữ phải có được trong một câu, nhiều câu. Nó là cái nghề
dùng chữ nghĩa mà sinh sự để sự sinh” [18, tr.68].
Ngôn ngữ nghệ thuật còn được gọi là ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ sử
dụng trong tác phẩm văn chương. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn
học là ngôn ngữ toàn dân đã được nghệ thuật hóa. Ngôn ngữ ấy đã được chọn
lọc, gọt rũa, trau chuốt,... và đặc biệt ngôn ngữ ấy phải đem lại cho người đọc
những cảm xúc thẩm mĩ, xúc cảm được nhận biết thông qua những rung động
tình cảm. Điều này khác hẳn với những xúc cảm khoa học - những rung động
thông qua suy lý và chứng minh.
Ngôn ngữ của tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật. Bất kỳ
một tác phẩm văn học nào cũng đều được viết hoặc được kể bằng lời (văn học
viết hoặc văn học dân gian - truyền miệng). Ở phương diện thể loại, văn học
có lời thơ, lời văn. Ở phương diện chức năng và các thành phần cấu tạo của
lời văn nghệ thuật có lời tác giả, lời nhân vật, lời trực tiếp, gián tiếp… nói
chung gọi là lời văn. Lời văn là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm
văn học.
9
Khác với các loại hình nghệ thuật khác, văn học sử dụng chất liệu là
ngôn từ (chất liệu phi vật thể). Sở dĩ văn học sử dụng chất liệu đó là do sự chi
phối của phương thức thể hiện, phương thức phản ánh đời sống. Như ta đã
biết, văn học phản ánh đời sống bằng hình tượng, thông qua hình tượng đó mà
tác giả thể hiện tâm tư, tình cảm, thái độ và cách đánh giá của mình đối với
đời sống.
Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là: tính hình
tượng, tính tổ chức cao, tính hàm súc, tính biểu cảm, tính chính xác... Nhờ
những thuộc tính đó mà văn học phản ánh cuộc sống theo đúng đặc trưng của
nó, không giống bất kì một loại hình nghệ thuật nào khác. Căn cứ chủ yếu để
phân biệt ngôn ngữ nghệ thuật với các hình thái của hoạt động ngôn ngữ
chính là ở chỗ, ngôn ngữ nghệ thuật là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý
nghĩa thẩm mĩ. Nó được sử dụng để phục vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng
hình tượng văn học và giao tiếp nghệ thuật. Vì vậy, tính hình tượng, tính thẩm
mĩ là thuộc tính bản chất, xuyên thấm vào mọi thuộc tính khác và quy định
những thuộc tính ấy.
Trên đây là vai trò của ngôn ngữ nghệ thuật đối với tác phẩm văn học.
Ngoài ra, nó còn đóng vai trò rất lớn đối với người nghệ sĩ. Bởi lẽ, việc phân
biệt rõ ràng về thơ văn của mỗi tác giả là nhờ vào hệ thống ngôn ngữ mà các
tác giả đã sử dụng. Như vậy, ta không thể phủ định vai trò to lớn của ngôn
ngữ nghệ thuật đối với sáng tạo nghệ thuật ngôn từ. Nó vừa là hình thức của
tác phẩm vừa là đối tượng mà người nghệ sĩ hướng tới. Vai trò của nó thể hiện
từ việc sáng tác và tiếp nhận tác phẩm đến chính phong cách của tác giả.
1.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ
Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người. Chính vì
vậy mà có một thời gian rất dài, thuật ngữ thơ được dùng chỉ chung cho văn học.
Từ thời cổ đại, Aristote trong công trình Nghệ thuật thơ ca đã tổng kết
10
kinh nghiệm nghệ thuật Hy Lạp và dành nhiều chương viết (chương XIX,
XX, XXI) bàn về “loại nghệ thuật mà chỉ dùng ngôn từ”, về “cách diễn đạt
bằng ngôn từ” [1, tr.82].
Trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, quan niệm về thơ đã
được đề cập từ rất sớm. Trong cuốn Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp đã đề cập
đến các phương diện cơ bản cấu thành nên một bài thơ là: “tình cảm, ý nghĩa
(tình văn), ngôn ngữ (hình văn) và âm thanh (thanh văn)”. Nhà thơ Bạch Cư
Dị cũng nêu lên các yếu tố then chốt tạo thành điều kiện tồn tại của thơ: “Cái
cảm hóa được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước
được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý
nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là
ý nghĩa”. Đây là một trong những quan niệm về thơ toàn diện và sâu sắc trong
nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa.
Ở Việt Nam, quan niệm về thơ cũng đã được các nhà nghiên cứu đề cập
đến với nhiều ý kiến, nhiều khuynh hướng khác nhau. Nhà thơ Tố Hữu quan
niệm: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống” [23, tr.73]. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc
lại gợi ra một trường nghiên cứu thơ hết sức rộng rãi: thơ không chỉ là hiện
tượng ngôn ngữ học thuần túy mà chủ yếu là hiện tượng giao tiếp nghệ thuật,
một phát ngôn trong ý nghĩa đầy đủ của từ này. Ông cho rằng: “Thơ là hình
thức tổ chức ngôn ngữ quái đản nhất” [16, tr.41].
Nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Thơ là hình thức sáng tác văn học
phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn
ngữ hàm súc giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [9, tr.310].
Có thể thấy, qua các định nghĩa về thơ, các tác giả đã rất coi trọng vị trí
của ngôn ngữ trong quá trình sáng tạo thơ. Ngôn ngữ nghệ thuật được xem là
yếu tố đầu tiên (“chẳng gì đi trước được ngôn ngữ”- Bạch Cư Dị), có hình
11
thức tổ chức đặc biệt (“thơ là hình thức tổ chức ngôn ngữ quái đản nhất” -
Phan Ngọc) và có đặc trưng riêng (“ngôn ngữ hàm súc giàu hình ảnh và nhất
là có nhịp điệu” - Nhóm tác giả Từ điển thuật ngữ văn học).
Ngôn ngữ nghệ thuật thơ là ngôn ngữ được dùng trong sáng tác nghệ
thuật, cụ thể là thơ. Vì thơ là hình thức văn học thể hiện cảm xúc, tâm trạng
nên ngôn ngữ nghệ thuật thơ là thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàm súc, gợi
cảm, có nhịp điệu.
Sóng Hồng cho rằng: “Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng
tượng” [17, tr.41]. Nhà thơ Hoàng Đức Lương đã rất đề cao nàng thơ: “Thơ là
sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị, không thể trông bằng mắt thường được,
chỉ có thi nhân trông thì mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon” [17, tr.41]…
Về lao động nghệ thuật thơ, Mai-a-côp-ski - nhà thơ Nga đã viết:
Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.
Không phải ngẫu nhiên Trần Dần lại gọi các nhà thơ là “phu chữ”. Các
nhà thơ đã lựa chọn từ ngữ để đưa vào bài thơ cho đúng lúc, đúng chỗ nhằm
chuyển tải được những cảm xúc, ý nghĩ của mình đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.
Một bài thơ hay không dễ gì ta cảm nhận được ngay, có khi chỉ bằng linh cảm
mà nhận ra. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, liên tưởng ta mới nhận ra thứ ánh
sáng, màu sắc, hương thơm man mát bên trong hình tượng thơ. Vì vậy để hiểu
được bài thơ hay, viết được bài thơ đẹp, nhà thơ không thể không khổ công đi
tìm ý, tứ, câu, chữ và bao yếu tố khác trong thơ và ngoài thơ.
Tìm hiểu về khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ, bên cạnh đó,
chúng tôi thấy được những đặc điểm khái quát và điển hình của ngôn ngữ
nghệ thuật trong thơ không chỉ có những điểm chung tương đồng mà bên
cạnh đó có sự khác biệt so với ngôn ngữ trong văn xuôi.
12
Cả thơ và văn xuôi đều dùng chất liệu chính là ngôn ngữ để xây dựng
tác phẩm. Trong kho tàng ngôn ngữ vô cùng phong phú của toàn dân, nhà thơ
hay nhà văn lựa chọn những từ ngữ cần thiết nhất để đưa vào tác phẩm. Đó là
quá trình khổ luyện, tìm tòi, tích lũy vốn sống... mới có được những chữ
“thần” để có thể “lóe sáng” lên ở câu thơ, câu văn làm cho tác phẩm “nổi
gió”, “cất cánh”. Song, do đặc trưng của mỗi thể loại trữ tình hay tự sự mà
ngôn ngữ văn học được các tác giả sử dụng khác nhau.
Ở văn xuôi, do nhà văn phải xây dựng nhân vật điển hình trong những
hoàn cảnh điển hình nên việc miêu tả ngoại hình, nội tâm nhân vật, bối cảnh
xã hội... thường phải cụ thể qua nhiều tình tiết, mâu thuẫn. Ở mỗi đoạn, mỗi
chương lại có sự phát triển tâm lý nhân vật một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Số câu chữ có thể giãn ra hay co lại theo ý dồ tác giả. Nhưng nhìn chung là nó
không có sự cô đúc như ngôn từ thơ ca.
Bàn về đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật thơ, Hữu Đạt nhận định: “Khác
với văn xuôi, thơ ca chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu
hiện cái vô hạn của cuộc sống bao gồm các sự kiện tự nhiên và xã hội cũng
như những điều thầm kín trong tâm linh con người” [6, tr.63].
Do vậy, ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ chính xác, hàm súc, giàu hình
tượng, biểu cảm và giàu sức tưởng tượng. Các yếu tố đó hòa quện vào nhau
tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ gợi hình, gợi
cảm góp phần tạo nên tính họa, tính nhạc trong thơ. Nó biến hóa qua nhiều
sắc thái ảo thực bất ngờ, thú vị.
Tính chính xác khiến mỗi từ ngữ trong câu thơ phải diễn tả được đúng
điều mà nhà thơ nhìn thấy, cảm thấy và những điều sẽ thấy. Lựa chọn được
một từ ngữ “đắt” để diễn đạt một ý không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Trong
một trường liên tưởng của từ ngữ có nhiều từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái
nghĩa..., người viết cần liệt kê vài từ để chọn. Tản Đà đã suy nghĩ rất nhiều
13
khi chọn từ “khô” để đưa vào câu thơ:
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
(Thề non nước)
Nếu như nhà thơ thay từ khô bằng từ tuôn, hay từ trôi thì hiệu quả sẽ
như thế nào? Cũng có khi những từ ngữ trong câu thơ là những hư từ hoặc từ
địa phương, từ khẩu ngữ rất bình thường nhưng được đặt đúng vào vị trí câu
thơ thì nó vẫn tỏa sáng, diễn tả được đúng ý định của nhà thơ, khắc họa rõ nét
nhân vật trữ tình.
Tính hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ
thuật dưới những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, được nhận thức trực
tiếp bằng cảm tính (chung cho các loại hình nghệ thuật). Ngôn ngữ mang tính
hình tượng là ngôn ngữ gợi hình cụ thể. Nhà thơ không nói bằng hạm trù của
tư duy logic như trong các môn khoa học tự nhiên mà thông qua hình ảnh cụ
thể để diễn đạt những ý niệm trừu tượng. Ví dụ, ở bài thơ Mười cô gái ở Ngã
ba Đồng Lộc, nhà thơ Đồng Đức Bốn đã có liên tưởng như các cô vẫn còn
sống đâu đây giữa cỏ cây, hoa lá:
Cầm cỏ thì thấy mồ hôi
Cầm đất thì thấy dấu môi vẫn hồng
Sông La tóc sóng bềnh bồng
Cầm mây, áo gái chưa chồng còn thơm.
Tính biểu cảm là sự bộc lộ cảm xúc trực tiếp hay gián tiếp qua mỗi từ
ngữ thơ với các cung bậc: ái, ố, hỉ, nộ của lòng người. Nhà thơ Vũ Cao đã nói
hộ người chiến sĩ nỗi đau xé ruột gan khi nghe tin sét đánh - người yêu mất:
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
(Núi Đôi)
14
Chế Lan Viên viết về nỗi nhớ một cách trực tiếp qua một loạt hình ảnh
so sánh trùng điệp gợi trường liên tưởng rộng:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
(Tiếng hát con tàu)
Tính biểu cảm của ngôn ngữ thơ trước hết phải xuất phát từ xúc cảm
chân tình, dào dạt của nhà thơ. Việc lựa chọn từ ngữ, hình ảnh để biểu đạt chỉ
là phương tiện, là chất liệu. Nếu cố tạo ra niềm vui hay nỗi buồn giả tạo thì
chỉ đánh lừa được những người không có năng lực thẩm định văn chương.
Tóm lại, đọc bài thơ hay, câu thơ hay ta như không còn thấy câu chữ
nữa. Cái hay nằm trong sự giản dị. Nếu cố làm duyên làm dáng, điểm phấn tô
son, đánh bóng ngôn từ sẽ sa vào xu hướng “vị nghệ thuật” thuần túy. Nguyễn
Du từng nói: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ”. Có xúc cảm tốt, tìm được tứ thơ mới lạ nhưng nếu vốn ngôn ngữ
nghèo nàn thì khó có được thơ hay. Có thơ hay toàn bài, có thơ chỉ hay ở một
câu, một chữ.
Song, có một điều không ai chối cãi là chất liệu đầu tiên, duy nhất để
làm nên bài thơ là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý báu và lâu
đời của dân tộc (Bác Hồ). Mỗi nhà thơ có cách tiếp cận, sử dụng riêng vốn
ngôn ngữ toàn dân để làm giàu có vốn ngôn từ của mình. Khi trở lại với con
người và cuộc sống thơ ca lúc này sẽ góp phần làm cho tiếng Việt ngày thêm
giàu có, trong sáng.
1.2. Nguyễn Duy và quá trình sáng tạo nghệ thuật
1.2.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Duy
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 07-12-1948 tại
15
Thanh Hóa. Tốt nghiệp Khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau
khi ra trường, ông về làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam
và là Trưởng Đại diện Báo văn nghệ phía Nam.
Nguyễn Duy làm thơ từ khi đang còn là học sinh trường cấp III Lam
Sơn - Thanh Hóa. Năm 1973, anh đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn
nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam trong tập
Cát trắng.
Nguyễn Duy viết nhiều thể loại nhưng nhiều nhất, tiêu biểu nhất vẫn là
thơ. Thơ Nguyễn Duy cũng nhiều loại từ thơ ngắn, tự do, lục bát đến thơ dài.
Những tập thơ chính gồm: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1978), Đãi cát tìm
vàng (1987), Mẹ và em (1987), Đường xa (1989), Quà tặng (1990), Về
(1994), Sáu & Tám (1994), Vợ ơi (1995), Tình tang (1995), Bụi (1997), Thơ
với tuổi thơ (2002), Thơ trữ tình (2004), 36 bài thơ (2007), Thơ Nguyễn Duy
(2010)…).
Nói về con người và thơ Nguyễn Duy, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nhận
xét: “Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là
thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó” [4, tr.82]. Hơn ai hết, Nguyễn Duy
có cái ngang tàng, cái chiêm nghiệm đi cùng sự điềm tĩnh trong thơ. Thơ
Nguyễn Duy, vì thế chăng, mang cái duyên riêng của thứ cây quý mọc tự
nhiên, khỏe khắn. Thơ ông cứ ngấm vào người đọc và có lúc khiến người ta
phải giật mình suy nghĩ. Nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre
Việt nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Ca
dao vọng về, Lời ru đồng đội, Sông Thao, Em ơi gió...
Bên cạnh thơ năm tiếng, xen kẽ giữa bảy và tám tiếng, thể bảy tiếng,
tám tiếng, thơ tự do, ai cũng biết Nguyễn Duy khá “ăn chịu” với thơ truyền
thống, thơ lục bát. Song có thứ lục bát của ca dao Bắc bộ nuột nà óng ả, lại có
thứ lục bát của câu đố, của xẩm, dông dài, tàng tễu, ở đó con người thường
16
thích cười cợt và chỉ thỉnh thoảng mới thoáng qua một chút rưng rưng để rồi
lại tự giấu đi rất nhanh sau tiếng cười. Thơ Nguyễn Duy chính là ngả sang
loại lục bát thứ hai này, nó hợp với cốt cách bình dân, bụi bặm của thơ ông,
mặt khác, lại tạo được cái vẻ đẹp kỳ dị mà chỉ thơ hiện đại mới chấp nhận.
Thơ lục bát - một thể thơ dễ viết nhưng viết được cho hay lại là việc rất
khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy có phong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng
túng lại vừa uyển chuyển chặt chẽ. Nhiều câu thơ lục bát của ông khiến người
đọc giật mình. Ngôn ngữ thơ ông vừa bình dân, hiện đại lại mang tính cách
tân đổi mới. Nguyễn Duy được giới phê bình đánh giá là người đã góp phần
làm mới thể thơ truyền thống này.
Phong cách thơ Nguyễn Duy là sự thống nhất của nhiều yếu tố đối lập:
mộc mạc, dân dã mà tinh tế sâu sắc, ngang tàng tếu táo mà thiết tha sâu lắng
nhân tình, tự nhiên ngẫu hứng mà trau chuốt công phu. Chiếc áo mộc mạc,
giản dị đã khiến sự ngang tàng tếu táo trong thơ ông không phải là biểu hiện
của cái tôi cá thể ngông nghênh mà nặng trĩu nỗi đau nhân thế, khiến chất
hiện đại trong thơ ông mang hơi thở của cuộc sống đời thường. Với phong
cách độc đáo ấy, Nguyễn Duy đã trở thành một trong những gương mặt tiêu
biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và thuộc
hàng ngũ các nhà thơ đi tiên phong trong công cuộc đổi mới, góp phần quan
trọng “làm thay đổi thi pháp của thơ, tạo nên gạch nối giữa thơ hậu chiến và
thơ hiện đại” và là “lực hấp dẫn” [24, tr.27] thúc đẩy ý thức cách tân ngày
càng mạnh mẽ hơn của thơ trẻ chúng ta hôm nay.
Tìm hiểu về ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy, tác giả khóa luận còn nhận
thấy Nguyễn Duy ngoài sáng tác thơ trữ tình, ông còn làm báo, viết tiểu
thuyết, phóng sự, sáng tác lịch thơ, tranh thơ, tổ chức những cuộc triển lãm
thơ “độc nhất vô nhị” tạo nên những hiện tượng văn hoá độc đáo. Đây cũng là
một phần quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy cần được tiếp
17
tục nghiên cứu để có cái nhìn toàn diện hơn về những đóng góp và vị thế của
ông trong nền thơ Việt Nam hiện đại.
1.2.2. Quá trình sáng tạo nghệ thuật
Để tìm hiểu ngôn từ nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy, không thể xem
xét từng tác phẩm của ông mà phải nhìn nhận sự nghiệp sáng tác của Nguyễn
Duy trong gần bốn mươi năm qua như một hành trình mà mỗi tác phẩm chỉ là
một sự kiện, một mắt xích, một cột mốc trong quá trình đó. Hướng tiếp cận
này sẽ cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tổng thể, là cơ sở quan trọng để đi
sâu khám phá sáng tạo trên phương diện ngôn từ nghệ thuật trong toàn bộ
sáng tác của nhà thơ.
Do sự tác động của hoàn cảnh lịch sử và sự vận động trong ý thức của
chủ thể nhà thơ, hành trình sáng tạo của Nguyễn Duy có thể chia làm hai giai
đoạn: trước 1975 và sau 1975. Sở dĩ chúng tôi phân chia như vậy là vì sau
những năm tám mươi, thơ Nguyễn Duy mới thực sự có những chuyển biến
đáng kể. Sự chuyển biến đó thể hiện ở tất cả các cấp độ: đề tài, hình tượng
nghệ thuật, thể loại, ngôn ngữ và giọng điệu, ở bài viết này, tác giả khóa luận
chỉ chú ý đến cấp độ ngôn ngữ, nhưng cũng xin lưu ý là: sự chuyển biến trong
sáng tác của Nguyễn Duy trước và sau năm 1975 chỉ là sự chuyển biến mang
tính tiếp nối, không phải là những bước ngoặt đưa thơ ông rẽ sang những
hướng đi khác, bởi về cơ bản, quan niệm nghệ thuật của ông luôn nhất quán
dưới sự chi phối mạnh mẽ của triết lý nhân sinh: “Ta là dân - vậy thì ta tồn tại”.
1.2.2.1. Giai đoạn trước 1975
Khi đang theo học năm thứ nhất tại Khoa Ngữ văn, trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội (1971-1972), Nguyễn Duy đã lọt vào “con mắt xanh” của
nhà phê bình Hoài Thanh và được ông chọn một chùm thơ giới thiệu trên
Tuần báo Văn Nghệ. Đó chính là chùm thơ sau này đã đoạt giải nhất cuộc thi
thơ 1972-1973 của Tuần báo Văn nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre
18
Việt nam (sau đó in trong tập Cát trắng), đã được đưa vào sách giáo khoa học
sinh phổ thông. Hoài Thanh đã nhận xét về thơ Nguyễn Duy: “…Thơ Nguyễn
Duy đưa ta về một thế giới quen thuộc. Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái
cao đẹp của những con người, những cuộc đời cần cù gian khổ, không tuổi
không tên. Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh hay cảm xúc, suy nghĩ trước những
chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác thì có thể chỉ là
chuyện thoáng qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường như đọng lại…” [25, tr.36]
(Báo Văn nghệ, ngày 14-4-1972). Lời nhận xét đó của Hoài Thanh vừa như là
nói ra cái đặc điểm của thơ Nguyễn Duy vừa như là một định hướng nghệ
thuật cho thơ của ông.
Nguyễn Duy chỉ có một tập thơ được xuất bản trong thời gian chiến
tranh, đó chính là tập Cát trắng (1973). Theo đó có thể chia thơ Nguyễn Duy
thành hai phần: phần viết về chiến tranh và phần viết về cuộc sống thời bình.
Trong chiến tranh, thơ ông luôn có mặt ở những nơi địa đầu tuyến lửa:
ngã ba Đồng Lộc, địa đạo Vĩnh Linh, thành cổ Quảng Trị, Khe Sanh, Đầu
Mầu... Dù “bom đạn thi nhau vằm mặt đất” nhưng “sâu trong lòng đất”
Nguyễn Duy vẫn làm thơ (Bên hàng rào Ai Tử), vẫn cao khúc hát “bài hát của
cây”, “bài hát của trời”, “bài hát của sông”,”bài hát của ta” (Lời ru trong
bão)... Nỗi khổ tâm lớn nhất của nhà thơ trẻ khoác áo lính khi ấy là:
Thần chiến thắng tung cánh bay phản lực
thần thi ca lóc cóc vó ngựa già
thơ hổn hển bơi theo dòng sự kiện
sự kiện khổng lồ nuốt chửng mọi lời ca
(Theo dòng thời sự)
Cũng như những nhà thơ cùng thế hệ trưởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ, thơ Nguyễn Duy giai đoạn này có những hạn chế nhất định, đó là
sự “bề bộn, ngồn ngộn chất liệu của hiện thực”, “có khi vì thế mà nó ôm đồm,
19
tham lam, thậm chí còn sống sượng, còn bê nguyên xi sự kiện nguyên mẫu
vào trong thơ như quặng chưa kinh qua lò luyện ở nhiệt độ cao” [3, tr.104].
Nhưng trong hoàn cảnh đối mặt với cái chết, hơn bao giờ hết, mỗi bài thơ của
Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh... thực sự “được bảo
đảm bằng máu” (Hữu Thỉnh, là “một sự dấn thân hết mình” [15, tr.45]. Sau
này, khi viết về Thế hệ những nhà thơ Cách mạng, Thanh Thảo đã tâm sự:
“Chiến tranh là một trải nghiệm khốc liệt mà chắc chắn không ai muốn,
nhưng rồi khi phải đối đầu với nó, phải ngập chìm trong nó, người ta có thể
coi những bài thơ rất bình thường viết được trong chiến tranh như những bát
cơm đã nuôi mình khi đói, như hớp nước cuối cùng trong bi đông mà mình đã
xẻ chia cùng đồng đội, lại như một ân sủng mà mình tình cờ nhận được” [16,
tr.4]. Tiếng nói của người trong cuộc giúp ta càng thấm thía hơn sự kiên trì
bền bỉ vượt lên bom đạn của những nhà thơ chiến sĩ và giá trị của những bài
thơ ra đời trong khói lửa chiến tranh.
Trong tập thơ viết về chiến tranh, Nguyễn Duy thiên về lối thơ chính
luận. Dù đã có nhiều sáng tạo và cũng để lại một số bài thơ đặc sắc (Tre Việt
Nam, Đò Lèn, Hơi ấm ổ rơm...) nhưng thơ Nguyễn Duy giai đoạn này có đặc
điểm là ngay ngắn, nghiêm túc, chuẩn mực, chưa thể hiện hiện đúng phong
cách đặc trưng của Nguyễn Duy. Ngay chính tác giả cũng không vừa ý với lối
thơ đó của mình: “Ta quàu quạu học đòi triết gia táo bón - những câu thơ
nhăn nhó nhọc nhằn” (Bao cấp thơ). Tuy vậy, ở giai đoạn này Nguyễn Duy
vẫn để lại dấu ấn rất riêng, đó là sức sống mãnh liệt của một hồn thơ luôn gắn
bó với đồng ruộng, cỏ cây và khả năng nhạy cảm đặc biệt trước cái đẹp.
1.2.2.2. Giai đoạn sau 1975
Chuyển sang thời bình, Nguyễn Duy phải đối mặt với một thử thách
khác: sự ngổn ngang, bề bộn, phức tạp của cuộc sống đời thường. Những câu
thơ sau của Nguyễn Duy đã ghi lại được phần nào những “ngày gian khổ” ấy:
20
Lương tháng thoảng qua một chút hương trời
đồng nhuận bút hiếm hoi gió lọt vào nhà trống
vợ chồng ngủ với nhau đắn đo như vụng trộm
không có cái sợ nào bằng cái sợ sinh con
(Bán vàng)
Nguyễn Duy không thuộc loại nhà thơ “ngợi ca” hay “im lặng”. Ông
không tiếp tục sống trong hào quang của chiến thắng vì ông quan niệm “tất cả
trôi xuôi - cấm lội ngược dòng”, nhưng ông cũng không thu mình vào cuộc
sống gia đình, lãnh đạm với thế sự bởi điều ông sợ nhất là “lòng trống trải
dửng dừng dưng...” (Từng trải). Ngược lại, với ông, người cầm bút không thể
“nhỏ giọt dòng thơ không dễ dãi” mà phải “đêm đêm thao thức như cây chổi
quét đường” (Mười năm bấm đốt ngón tay). Mà ngòi bút của Nguyễn Duy tựa
như cây chổi thật, bởi ông đã “quét” ra ánh sáng những sự thật đau lòng của
xã hội ta lúc bấy giờ:
con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng
thóc bỏ mục ngoài mưa thiếu xăng dầu vận chuyển
phà Cần Thơ lê lết người ăn xin
(Đánh thức tiềm lực)
Sau 1986, phương châm: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật” của Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo nên sự
chuyển động mới của văn học. Trong điều kiện mới ấy, thơ Nguyễn Duy lại
càng là “cây chổi” không mệt mỏi. Bài thơ Nhìn từ xa...Tổ quốc của ông thực
sự là những “câu thơ tuẫn tiết” vì đã tháo tung mọi ràng buộc, để sự thật đắng
cay trần trụi phơi bày trước mắt mọi người: “Xứ sở thông minh / sao thật lắm
trẻ con thất học / lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương / Tuổi thơ oằn vai
mồ hôi nước mắt / tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp / tuổi thơ bay
như lá ngã tư đường”.Nguyễn Duy đã viết nhiều những câu thơ như vậy ngay
21
trong thời buổi “tờ giấy mỏng manh che chở làm sao được / mỗi câu thơ
chống đỡ mấy mạng người” (Bán vàng). Đúng là ông đã lấy sinh mạng chính
trị của bản thân và gia đình để bảo đảm cho thơ.
Như vậy, quá trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Duy là một hành
trình kiên trì bền bỉ trước sau như một, luôn vượt lên mọi hoàn cảnh để sáng
tác. Một trong những yếu tố quan trọng giúp ông có được sự bền lòng ấy
chính vì ông luôn xác định vị thế của mình: “Cứ chìm nổi với đám đông”
(Bao cấp thơ), nghĩa là khi cất lên tiếng nói của người dân, ông luôn tin tưởng
vào sự tồn tại của đời mình, của thơ mình: “Ta là dân - vậy thì ta tồn tại”.
Quá trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Duy còn là cuộc hành trình
từ “xó bếp” đến thế giới hay hành trình của “giọt nước” ra “biển cả” (Dòng
sông Mẹ). Đó cũng là hành trình từ xứ lạ trở về với quê nhà hay hành trình
của “dòng nước trôi đi giọt nước lại rơi về” (Sông Thao). Vương Trí Nhàn gọi
đây là: “Cuộc trở về không ảo tưởng” - “trở về với giá trị cội nguồn” [17,
tr.262]. Ngay từ năm 1986, ông đã viết: “Giọt nước có biệt tăm ngoài biển cả
/ Ngày ngày / Làm mây bay về nguồn” (Dòng sông Mẹ). Nhưng trong và sau
những chuyến đi xa quê hương đất nước, môtíp “trở về” xuất hiện nhiều hơn:
“Thôi ta về với mình thôi / Chân trời đành để chim trời nó bay” (Đường xa);
“Rơm rạ ơi ta trở về đây” (Về đồng)… Cái đích trở về thì chỉ có một: gia
đình, quê hương, nhân dân, Tổ quốc, nhưng con đường trở về của mỗi người
thường không ai giống ai. Ở Nguyễn Duy, sự trở về ấy đã diễn ra như thế
nào? Muốn hiểu rõ hơn về một Nguyễn Duy trong Đường về, không thể
không bắt đầu từ một Nguyễn Duy trong Đường xa.
Bàn về quá trình sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, Nguyễn Duy - người làm
thơ ấy đã được biết tới rộng rãi trong những năm từ 1975 về trước, nhưng chỉ
đến giai đoạn sau, cái “tiềm lực” trong thơ Nguyễn Duy mới thực sự được
đánh thức. Đó là cái chất tài tử, chất bụi bặm, là khả năng điều khiển ngôn từ
22
như một diễn viên xiếc tài năng đang điều khiển cây gậy để lấy thăng bằng...
Nói như thế không có nghĩa rằng thơ Nguyễn Duy ở giai đoạn sau lại
kém chất triết lý, những câu thơ hay, còn lại với đời luôn bao hàm những ý
nghĩa triết lý sâu sắc, chỉ có điều những triết lý ấy không còn bộc lộ dưới
dạng trực tiếp, khô khan mà đã được chuyển hóa qua ngôn ngữ của đời
thường, nhiều khi mang vẻ nôm na nhưng vẫn không kém phần thâm thúy.
Đúng như người bạn vong niên của tác giả là nhà văn Nguyễn Quang Sáng
(trong bài viết in ở cuối tập Mẹ và em) đã nhận xét: “thơ Nguyễn Duy hồi ấy
còn non nớt, mà tác giả thì còn trong cơn trăn trở tìm tòi”. Cuộc tìm tòi này
kéo dài liên tục qua các tập Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987), Đường xa
(1990). Giờ đây, với tập Về từ chỗ pha giọng, chập chững, mày mò, nhà thơ
đã đi tới một giọng thơ có nhiều phẩm chất thuần nhất: Dân dã mà hiện đại,
từng trải dạn dày song lại run rẩy tinh tế, cay đắng ngậm ngùi ngay trong khi
cười cợt đắm say, lam lũ dông dài mà vẫn có những nét cao sang riêng, thơ
Nguyễn Duy từ sau những năm 90 gợi ra một bản sắc đã chín, đã định hình ở
đó có tất cả những phóng túng nồng nàn, lẫn những ngang trái khó chịu mà đã
yêu thơ Nguyễn Duy người ta phải biết chấp nhận.
23
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT THƠ
NGUYỄN DUY
2.1. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy giản dị, đời thường
2.1.1. Kết hợp ngôn ngữ thơ ca dân gian và ngôn ngữ đời sống
Như chúng ta đã biết, xét về phương diện ngôn ngữ, các nhà thơ trẻ
trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước vốn có nhiều tìm tòi và sáng tạo mới, họ
đã thực sự đóng góp cho sự phát triển ngôn ngữ thơ ca hiện đại Việt Nam.
Trong đó, ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy cũng là một hiện tượng nổi bật. Bàn về
ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy không thể không xét đến yếu tố giản dị, đời
thường trong thơ ông.
Có thể nói, những cách tân từ phong trào Thơ mới đã mở đường cho
thơ ca Việt Nam tiến đến gần gũi với ngôn ngữ đời thường, những giao tiếp
hàng ngày. Lời thơ không còn xa lạ, khoảng cách, mà ngược lại đã gần hơn
với văn xuôi, với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Nguyễn Duy đã
tiếp nhận lối nói của thơ ca dân gian, của đời sống để làm giàu có cho ngôn
ngữ thơ mình:
Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm
- Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ...
(Hơi ấm ổ rơm)
Trả về cho thơ cái giản dị của ngôn ngữ đời thường, Nguyễn Duy còn
giúp bạn đọc có thể hình dung ra cái tự nhiên, giản dị về một “biểu tượng” của
làng quê Việt:
Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
24
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu...
(Tre Việt Nam)
Đó là những câu thơ mang chất liệu của khẩu ngữ tự nhiên, nhưng
không hề thô, bởi lẽ, nó được kết nối chặt chẽ theo một tư tưởng chủ đạo của
nhà thơ. Nhờ có sự gia công nghệ thuật được thể hiện ở cách lập tứ thơ, ở
cách chọn lọc những hình ảnh tiêu biểu, điển hình, những câu thơ ấy đã
chuyển hóa thành ngôn ngữ thi ca thực sự. Đó không phải là những kiểu nói
nôm na thông thường, mà đằng sau những ngôn từ bình dị, tự nhiên ấy là cái
đẹp cao cả: sự gan dạ, kiên cường, dũng cảm bất chấp mọi khó khăn của tự
nhiên, nhưng những hàng tre ấy vẫn luôn kiên cường mãi xanh tươi, nên
thành, nên lũy và đằng sau “biểu tượng” của làng quê Việt ấy nhà thơ muốn
nói đến là vẻ đẹp cao cả của người dân Việt, cũng kiên cường, bất khuất như
chính lũy tre xanh kia.
Nguyễn Duy còn đưa vào thơ rất nhiều những ngôn ngữ của cuộc sống
hàng ngày, với lối diễn đạt khẩu ngữ và lối đối thoại trong thơ. Nhờ đặc điểm
này, thơ ông trở nên bình dị, mang nét khỏe khoắn, trong sáng, hồn nhiên gần
gũi với lối nói dân gian. Hơn nữa, nhờ đối thoại, thơ ông vừa tự nhiên, vừa có
chiều sâu tâm trạng. Trong rất nhiều bài thơ, Nguyễn Duy đã thể hiện được
đặc điểm này:
Chiều đang xanh thẳm một màu
tự dưng lộp độp ngang đầu - ồ mưa
...
tiếng em như tiếng gió lùa
(Mưa trong nắng, nắng trong mưa)
25
Lời đối thoại dùng cả khẩu ngữ đem lại cho bài thơ nét khỏe khoắn, tự
nhiên, giúp cho việc biểu lộ tâm trạng nhân vật trữ tình được sinh động. Trong
thơ Nguyễn Duy, có những bài thơ ông tạo ra những giọng nói khác nhau,
khiến cho thơ mang dáng dấp như những cuộc tranh cãi đối thoại hàng ngày ở
chính ngoài đời sống thực, tất nhiên trong thơ, nó thể hiện trong phạm vi ước
lệ của ngôn ngữ thơ. Nói như Nguyễn Quang Sáng: “Lời thơ đơn sơ, gần với
khẩu ngữ. Kỹ thuật trong nghệ thuật ngôn từ là ở chỗ… nó xuyên qua, bay
qua khoảng nhiễu xạ rối rắm của hình thức khoa trương, hoa mỹ và giả rỗng
để đạt tới sự giản dị trong sáng vốn là chuẩn mực”.
Nguyễn Duy đã kết hợp ngôn ngữ thơ ca dân gian xưa và ngôn ngữ đời
sống để tạo nên một bản ngôn từ mới, độc đáo, khác lạ nhưng phù hợp với cái
“xô bồ” đang diễn ra ở hiện tại. Đọc thơ Nguyễn Duy nhiều khi ta thấy ông
dùng lối nói dân gian đến độ chua ngoa:
Thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan...
(Nhìn từ xa...Tổ Quốc)
Trong ngôn ngữ dân gian xưa thường lựa chọn các hình ảnh tượng
trưng, dù là mạnh bạo cũng chỉ đến mức:
Hôm qua tát nước bên đình
bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
cũng lối nói ấy khi đưa vào trang thơ Nguyễn Duy thì không chỉ là mạnh bạo,
mà trở nên chua ngoa, đanh đá hơn. Cái lối nói chua ngoa đầy dân dã của
Nguyễn Duy cũng không phải bằng những ngôn từ truyền thống mà bằng
ngôn từ rất hiện đại. Có thể nói không ngoa rằng đó là lối nói của dân bụi, dân
@ thứ thiệt:
Lại đi đưa những đám ma từ ngữ
xác chữ chôn đầy nghĩa địa giấy vô hình...
(Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ)
26
Ngoài ra, Nguyễn Duy còn rất thích dùng lối ẩn dụ. Đôi khi, nói trực
tiếp không đem lại hiệu quả bằng cách nói ẩn dụ này của ông:
Thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bẩy nổi
khúc dân ca cũng bèo dạt mây trôi
hạt gạo nõn nà gày đi vì thiên tai...
(Đánh thức tiềm lực)
Các cụ ta xưa dùng lối nói ẩn dụ, mượn cây đào, cây mận để nói về tình
yêu một cách trang trọng và tế nhị nhưng không kém mượt mà tha thiết:
Bây giờ Mận mới hỏi Đào
vườn hồng đã có ai vào hay chưa.
Trong khi đó, Nguyễn Duy mượn cái bóng của mình để nói cái sợ hãi vô hình
theo gót, ám ảnh con người ta suốt những năm tháng muốn nói, muốn thét lên sự
thật mà không dám: “A… xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng/ bóng
máu bầm đen sõng soài nền nhà”. Rồi anh tự hỏi: “Ai? Không ai/ Vết bầm đen
ngửa mặt lên trời”… “Ai? Không ai/ Vết bầm đen tọa thiền”. Lối nói ẩn dụ của
Nguyễn Duy khác hẳn các cụ ta trước đây, nó bặm trợn, ngổ ngáo, mang hơi thở
của cuộc sống hiện đại: “Đêm huyền hoặc/ dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác/
mắt xanh lè lạnh toát lửa ma trơi” (Nhìn từ xa…Tổ Quốc).
Trong kho tàng ngôn ngữ thơ ca dân gian tồn tại nhiều cách nói, lối nói,
trong đó có kiểu nói ghẹo. “Ghẹo” vốn là một thể trong lối hát dân gian (hát
xoan, hát ghẹo), đi vào thơ Nguyễn Duy đã trở nên biến hóa lạ thường.
Trong cuộc sống lao động, lối hát ghẹo, nói ghẹo chính là tiếng cười tạo nên
sự lạc quan của con người. Còn gì vui vẻ hơn khi đang lao động mệt nhọc lại
được nghe những lời chòng ghẹo, đùa cợt ưỡm ờ rồi bật lên những tràng cười
sảng khoái. Nguyễn Duy cũng thế, cái lối nói “cà chớn” ấy ngấm vào ông,
ông đùa cợt với cả thánh thần, với cả những vật vô tri và cợt nhả với ngay
chính mình:
27
Ta chúi mũi hà hơi lên trang bản thảo
hô hấp nhân tạo những con chữ khó thở...
(Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ)
Có thể thấy rằng, lối nói cà chớn (ghẹo) của Nguyễn Duy đậm chất bụi
của thời đại. Ông đã làm cho tiếng Việt trở nên sống động, lạ lùng:
Sọ dừa gặp vấn đề trì trệ
tri thức nhồi vào tri thức cứ phòi ra
Mắt vấn đề tét tai vấn đề ù
bất an vấn đề giấc ngủ...
Hoặc trong bài Xẩm ngọng, trên cái nền nhạc “tưng tửng từng tưng”,
“tinh tỉnh tình tinh”, “tang tảng tàng tang” nửa như đùa cợt, nửa như phá
phách, Nguyễn Duy đã liệt kê mười lăm kiểu xúc phạm ngược đời: “Người
cười nói xúc phạm người ngậm tăm”, “Kẻ đi xúc phạm kẻ nằm dài lưng”,
“Người yêu nhau xúc phạm người ghét nhau”... Đó là sự khái quát, cách điệu
hiện thực xô bồ, phức tạp mà nhà thơ phải đối mặt. Không thể trần trụi, gay
gắt, mạnh mẽ quyết liệt như phóng sự ra đời trong những năm tám mươi của
thế kỷ XX, nhưng cũng không như các nhà thơ khác thường chú trọng đến nội
dung trữ tình, với những bài thơ trên, Nguyễn Duy đã làm sống lại, làm mới
lại loại lục bát tuyền thống thể hiện tinh thần phản kháng của ông cha ta thuở
trước, đem vào lục bát thời hiện đại một nội dung mới: nội dung thế sự, để
song hành cùng những ngôn từ rất “đời” kia là những vấn đề cũng rất “đời”.
Vận dụng ngôn ngữ thơ ca dân gian vào trong sáng tác của mình,
Nguyễn Duy không chỉ thể hiện tài tình ở các thể thơ 5 chữ, 7 chữ hay thể thơ
tự do, mà đặc biệt, ngòi bút của Nguyễn Duy đã sử dụng thành công khi đưa
ngôn ngữ dân gian kết hợp với thơ lục bát của ông.
Cũng như lục bát của Tản Đà, Huy Cận, Nguyễn Bính, Tố Hữu, lục bát
Nguyễn Duy cũng đậm đà chất ca dao dân ca. Cùng sinh ra từ nguồn cội ấy,
28
nhưng nếu lục bát Tản Đà chắt lọc chất ỡm ờ tình tứ, lục bát Huy Cận trở về
với âm điệu nhẹ nhàng trầm lắng, lục bát Nguyễn Bính thừa hưởng trọn vẹn
cả giọng than lẫn giọng ghẹo cùng cách đo đếm thời gian bằng thước đo “từ
trừu tượng đến... siêu hình” [18, tr.180] và cách đan chữ nhuần nhụy, lục bát
Tố Hữu kế thừa giọng tâm tình ngọt ngào thiết tha thì lục bát Nguyễn Duy
đậm đà chất ca dao bởi lối “tập ca dao” độc đáo. Qua cách mượn ý hoặc dùng
nguyên vẹn cả câu ca dao xưa, Nguyễn Duy đã trộn lẫn thơ ông vào ca dao,
tạo nên những ý thơ vừa quen thuộc vừa mới lạ: “Nhìn về quê mẹ xa xăm /
lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa / ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa / miệng nhai
cơm búng lưỡi lừa cá xương” (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa). Ông còn vận dụng
linh hoạt lối “nói ngược” của thơ ca dân gian vừa tinh nghịch vừa chua cay:
“Siêng làm xúc phạm phàm ăn / kẻ đi xúc phạm kẻ nằm dài lưng” (Xẩm
ngọng) và sử dụng phép trùng điệp vốn thường gặp trong ca dao để thể hiện
những xúc cảm mãnh liệt: “Rừng xanh chết trắng một thời / cây giơ xương
trắng lên trời mà ghê” (Giấc mộng trắng)... Như vậy, trong khi các nhà thơ
khác thường nghiêng về phía uyển chuyển, mềm mại, óng ả của ca dao thì
Nguyễn Duy lại có xu hướng chọn sự gai góc, táo bạo của ca dao truyền
thống để viết những Khúc dân ca của riêng mình. Nhưng với Nguyễn Duy, sự
trở về với cội nguồn chỉ là chiếc neo nối cánh diều lục bát Nguyễn Duy với
mặt đất truyền thống. Những cách tân độc đáo “cãi lại vẻ êm dịu mượt mà
vốn có của câu hát ru truyền thống” [2, tr.202] mới chính là yếu tố quan trọng
tạo nên nét riêng độc đáo của lục bát Nguyễn Duy.
Như vậy, việc vận dụng lối nói của thơ ca dân gian vào trong sáng tác
của mình, đặc biệt là đưa vào trong ca dao càng làm cho ngôn ngữ thơ
Nguyễn Duy trở về gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Điều
đó tạo nên chất thơ giản dị mà khỏe khoắn, tự nhiên.
Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Duy không những giản dị, đời thường mà
29
thậm chí có lúc trở nên táo bạo. Cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Duy vừa có
hiệu quả cao trong cách thể hiện lại vừa khẳng định tài năng của nhà thơ.
Những đại từ được dùng phổ biến trong cuộc sống hằng ngày như: mình, ta,
anh, em, ai, đó, đây… vốn xuất hiện nhiều trong ca dao nay lại được Nguyễn
Duy sử dụng. Các đại từ này vừa gần gũi lại khiến thơ ông in đậm dấu ấn làng
quê, tạo cho người đọc cảm giác như thấy nhà thơ đang trò chuyện với chính
mình, vừa giúp cho đối tượng được miêu tả trực tiếp có giá trị biểu hiện cao
hơn. Chẳng hạn các đại từ “anh”, “em”, “mình”, “ta” giúp nhà thơ thể hiện
tình cảm vợ chồng thủy chung, gắn bó, hương vị tình yêu say đắm, ngọt ngào:
...em vẫn nơi đầu trời
đợi anh nơi cuối đất
(Tình ca nơi cuối đất)
Trong thơ Nguyễn Duy, đại từ “ai” xuất hiện rất nhiều. Nó được dùng
cho cả đối tượng cụ thể và phiếm chỉ. Cụ thể như đại từ “ai” chỉ người lính:
Tôi giật mình
nghe
có ai nói ở cành me:
Sắp về!...
(Nghe tắc kè kêu trong thành phố)
“ai” là người dân:
Nhà tôi đó, không cổng và không cửa
ai ghé qua cứ việc hút thuốc lào
(Cầu Bố)
Ở một số bài thơ khác, “ai” lại được dùng với ý nghĩa phiếm chỉ:
Bưởi nhà ai nở sau vườn
gió bâng quơ thả làn hương giữa trời
(Xuồng đầy)
30
Có những đại từ xuất hiện với tần số tương đối cao, tuy nhiên, trong thơ
Nguyễn Duy cũng có những đại từ xuất hiện rất ít nhưng lại để được ấn tượng
vô cùng độc đáo:
Quán cơm âm phủ còn không
- cô gì hôm ấy lấy chồng hay chưa
(Hỏi thăm)
chỉ một đại từ “cô” xuất hiện nhưng đã thể hiện được nét hóm hỉnh, dân dã.
Như vậy, việc sử dụng nhiều đại từ trong thơ cũng là cách đưa thơ về gần với
lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân, nhờ đặc điểm này mà thơ Nguyễn
Duy trở nên dễ hiểu, bình dị mà sâu lắng.
Với Nguyễn Duy, hiện thực cuộc sống đất nước chính là chiếc nôi nuôi
dưỡng hồn thơ ông, cho ông vốn ngôn từ phong phú, đa dạng và trong sáng, đậm
đà màu sắc dân gian. Ông không những đưa vào trong thơ những lời ăn, tiếng
nói hàng ngày của nhân dân, mà còn tái hiện lại bức tranh đời sống bằng những
ngôn từ hết sức dân dã, đời thường.
Cùng với hướng tiếp cận đời sống và thể hiện cảm xúc, ta còn bắt gặp
trong thơ Nguyễn Duy những từ ngữ chỉ địa danh, những tên đất, tên sông,
tên làng,tên cầu, tên người… cụ thể: sông Lam, Bến Thủy, Cam Lộ, Long
Hưng, Đông Hà, Đò Lèn, Cầu Bố, Lam Sơn, mẹ Triệu Phong, cô gái Hải
Lăng… Thứ ngôn ngữ định danh này có sắc thái biểu cảm đặc biệt, người đọc
như được cùng hòa mình vào cảm xúc chung của dân tộc trên bao vùng đất.
Nói như Chế Lan Viên: “chỉ có cái tên thôi cũng đủ chấn động lòng rồi”.
Đó có khi là một Hà Nội uy nghiêm, cổ kính, thanh lịch, nhưng cũng có
lúc lại là một xứ Huế trầm tư, thơ mộng:
Tôi về xứ Huế mưa sa
Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa...
(Nhớ bạn)
31
Hay hình ảnh Đò Lèn trong thơ Nguyễn Duy hiện lên với bao nỗi vất
vả, nhọc nhằn, cơ cực của người bà và đã gợi lại trong độc giả một tuổi thơ
êm đềm của nhân vật trữ tình:
Bà mò cua bắt tép ở Đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại...
(Đò Lèn)
Chất văn xuôi trong thơ Nguyễn Duy cũng được gia tăng, tạo cho ngôn
ngữ thơ sắc thái mới, nói như Anh Ngọc: “Những câu thơ mấp mé văn xuôi
nhưng vẫn ở bên này ranh giới, mang theo đặc điểm thẩm mỹ riêng của hiện
thực lại vừa của chất thơ thi vị”. Trong thơ Nguyễn Duy lại có những bài thơ
được hình thành là do nội dung tình cảm quyết định. Đọc lên nghe thoải mái,
người đọc hình như lãng quên đi hình thức câu của câu thơ mà chỉ chăm chú
theo dõi sự diễn biến của cảm xúc trong đó. Phụ thuộc vào những cung bậc
tình cảm khác nhau, nên những câu thơ của ông có nhiều dạng thức và không
sa vào công thức. Có những bài thơ mang dáng dấp văn xuôi, nhưng đọc lên
người ta thấy vẫn chan chứa chất thơ. Bài Hơi ấm ổ rơm Nguyễn Duy với
cách kể nhẹ nhàng, tự nhiên, bài thơ tưởng như rất gần với văn xuôi nhưng
vẫn chan chứa chất thơ trong đó:
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm
Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng...
Tóm lại, bằng cách kết hợp ngôn ngữ thơ ca dân gian Nguyễn Duy đã
đưa vào thơ những ngôn ngữ rất gần gũi, giản dị, đời thường, những đại từ
xưng hô rất quen thuộc của lời ăn, tiếng nói hàng ngày. Từ đó tạo cho thơ khả
năng tái hiện hiện thực thật sinh động, phong phú và khơi nguồn cho những
giá trị dân tộc được phát huy. Nguyễn Duy đã đưa bạn đọc đến một thế giới
vừa bình dị, trong sáng, vừa sinh động, gợi cảm.
32
2.1.2. “Lạ hóa” ngôn ngữ đời thường
Sáng tạo ngôn ngữ thơ ca là sự phấn đấu không ngừng của mỗi nhà thơ
chân chính. Đồng thời đó cũng là một công việc vô cùng gian khổ. Nói như
Maiacopxki: quá trình sáng tạo ngôn ngữ thơ ca cũng giống như người lọc
quặng Radium lọc lấy tinh chất, tìm ra trong cái bề bộn của những tấn quặng
những từ đẹp, ánh sắc kim cương... Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ
luôn có ý thức trong việc sáng tạo ngôn ngữ thơ và thực sự ông đã có những
đóng góp nhất định đối với nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Thực tiễn sáng tạo ngôn ngữ thơ rất đa dạng và phong phú, nổi lên trong
thơ Nguyễn Duy là sự vận dụng những yếu tố truyền thống như thể thơ, giọng
điệu, các thủ pháp tu từ nghệ thuật... để làm mới cho thơ mình, nổi bật, đó là
sự sáng tạo làm “lạ hóa”, “thơ hóa” ngôn ngữ đời thường.
Khi nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy trong khoảng mười năm trở
lại đây, nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã rất chú ý đến sự cập nhật loại ngôn
ngữ có tính chất “cơm bụi”, “vỉa hè” trong thơ ông và cho rằng đây là một đột
biến mới lạ, thể hiện khuynh hướng “cơm bụi hoá” trong thơ. Thực ra đây
không phải là sự chuyển biến bất ngờ, mà chỉ là sự nối dài khuynh hướng đưa
ngôn ngữ thơ trở về gần với ngôn ngữ đời thường vốn đã xuất hiện trong thơ
ông từ những giai đoạn đầu của hành trình sáng tạo. Chỉ có điều, trước đây,
các yếu tố của ngôn ngữ đời thường xuất hiện trong thơ ông thường là những
thán từ: ơ hay, ơ kìa, chao...; những từ hô gọi: ai ơi, em ơi, tre ơi, lúa ơi,
người ơi...; những từ đưa đẩy: cho dù, là thế đấy, đã đành...; phương ngữ của
nhiều miền đất: siêng, ước chi, hà tiện, không răng, xả láng...; hoặc sự vận
dụng rất nhuần nhuyễn thành ngữ, ca dao:
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu
(Tre Việt Nam)
33
Và nhiều khi là nguyên vẹn những đối thoại đời thường:
- Răng mà khóc, con ơi
(Bà mẹ Triệu Phong)
- Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
(Hơi ấm ổ rơm)
Những năm sau này, ông lại tiếp tục đưa thơ về gần với cuộc sống đời
thường hơn nữa bằng việc cập nhật rất nhiều những từ ngữ mang tính chất
“bụi bặm”, “vỉa hè” như động cỡn: “vu vơ động cỡn tâm thần tâm linh” (Bao
cấp thơ), siêu: “yêu siêu cỡ đó trước sau mấy người” (Kính thưa Thị Màu), vô
tư: “vô tư thế chấp đời người” (Vô tư), ngoẻo: “loài Thánh ngoẻo lâu rồi”
(Thắp nhang và khấn), cực kỳ, cực nhớ, cực thèm, cực ngon, cực nhẹ (Cơm
bụi ca), miếng ăn chùa (Ngọt ngào)...Và có nhiều câu thơ của ông như là sự
lắp ghép ngôn ngữ đời thường bởi như còn giữ nguyên sự thô tháp, sống sít,
chua ngoa, sỗ sàng của thứ ngôn ngữ nơi vỉa hè, chợ búa:
Giường bụi vãng lai chợ đài thọ Chí Phèo yêu Thị Nở
Phản hàng thịt tênh hênh nhằng nhịt vết dao nhờn nhợn mỡ
(Liền anh đi chợ)
Với loại ngôn ngữ trên, thơ Nguyễn Duy không chỉ nằm trong khuynh
hướng chung “đưa ngôn ngữ thơ trở về gần với ngôn ngữ đời sống” (Trần
Đăng Suyền), “gần với tiếng nói hàng ngày tự nhiên, bình dị, sinh động”
(Nguyễn Văn Long) của thơ Việt Nam hiện đại mà ông còn đưa thơ về gần
hơn nữa với một lớp người vốn chiếm số lượng không nhỏ trong thời buổi
hiện nay đang lấm trong trong cuộc mưu sinh bên lề công cuộc đô thị hoá,
công nghiệp hoá. Họ là những nông dân ở vùng quê nghèo khó lên thành phố
thử vận may, những cư dân ở đô thị nhưng không chen chân vào ngạch công
chức, trong đó có không ít những cử nhân, tú tài thất cơ lỡ vận. Ngôn ngữ của
họ không hoàn toàn thuần nhất mà mang tính hỗn hợp : vừa quê mùa vừa phố
34
thị, vừa hài hước, ngang tàng ngổ ngáo vừa uyên thâm. Nếu Lê Đạt khổ công
săn tìm “bóng chữ”, thì Nguyễn Duy đã nhặt nhạnh chính thứ ngôn ngữ đời
thường ấy để viết nên những trang thơ.
Với Nguyễn Duy, đây không phải là trò chơi ngôn ngữ mà xuất phát từ
tâm niệm: “Với tôi, làm thơ là sự góp nhặt ngôn ngữ đời thường bởi vì một
trong những tiêu chuẩn của ngôn ngữ văn học là phải tự nhiên”. Đây cũng là
một hướng thử nghiệm kiên trì, bền bỉ:
Tôi nhặt nhạnh li ti bụi chữ
Đốt lò tâm linh chơi trò chơi luyện thơ
(Rơi và nhặt)
Em ạ người thơ chịu án khổ sai thơ
Nhạc hư ảo khiêu vũ từ ngữ
(Khiêu vũ)
Sự “góp nhặt”, trò chơi “luyện thơ”, cuộc “khiêu vũ với từ ngữ” ấy
thực chất chính là sự thơ hoá ngôn ngữ đời thường. Đây là loại ngôn ngữ rất
sinh động nhưng được sử dụng trong diện rộng nên dễ “đóng băng”, sớm trở
nên công thức, đơn điệu, và nếu nhà thơ không khéo léo trong việc dụng chữ,
lời thơ sẽ trở nên nôm na, dễ dãi, thậm chí còn trở thành trò đùa suồng sã khó
lòng được chấp nhận. Nhưng Nguyễn Duy đã vượt qua rào cản ấy bằng cách
tái tạo lại, cấp cho những từ ngữ đời thường ấy những nghĩa mới. Những từ
đưa đẩy vốn chỉ có chức năng tạo nét dư trong giao tiếp khi đi vào thơ
Nguyễn Duy bỗng trở nên nặng trĩu cảm xúc, suy tư:
Này em buồn mà làm gì
Thời trong leo lẻo lỡ đi qua rồi
Cái thời loang lổ đang trôi
Thôi thì thong thả tới thời trắng tinh
(Thời gian)
35
Nếu không có những từ “này em”, “thôi thì”, làm sao Nguyễn Duy có
thể tạo ra một giọng điệu tâm tình vừa điềm đạm vừa pha chút đắng cay tiếc
nuối khi ông chiêm nghiệm về thời gian. Đối với những ngôn ngữ có tính chất
“bụi bặm”, “vỉa hè”, Nguyễn Duy lại tiếp tục làm người đọc ngỡ ngàng vì
nhà thơ đã thổi vào tính “cực bụi” những cảm xúc “cực nghiêm” nhưng cũng
thật mãnh liệt, chân thành. Đó là sự giật mình sực tỉnh giữa cuộc vui:
Mải ham hố chén u mê
Hư vô chặn mất lối về như chơi
(Chút thu vàng)
Nguyễn Duy thực sự đã “thơ hoá” được ngôn ngữ “cơm bụi” trong
sáng tác của mình. Nhiều khi, ngôn ngữ ấy trở nên “đắc địa” đến mức dường
như không thể dùng từ ngữ nào khác để thay thế nó. Chẳng hạn như từ “quá
trời” trong câu:
Mùa đông đi để lại rùng mình
Em để lại tôi quá trời sương muối
(Vết thời gian)
Nếu thay từ “quá trời” bằng các từ khác như: quá nhiều, một trời, cả
trời...thì làm sao diễn tả được tiếng kêu bàng hoàng, thảng thốt, đau đớn của
người đàn ông thất tình.
Tuy nhiên, không phải lúc nào Nguyễn Duy cũng thành công trong vai trò
của nhà “luyện thơ” giàu kinh nghiệm và một vũ công tài hoa, bởi vì đã có lúc
thơ ông trở nên nôm na dễ dãi. Cũng có khi, vì bỏ qua mối quan hệ với ngữ
cảnh, nên cách nói năng đời thường ấy lại tạo nên một sự phản cảm đáng tiếc.
Có thể nhận thấy, sự “lạ hóa” ngôn ngữ đời thường nêu ở trên đã được
nhà thơ Nguyễn Duy vận dụng một cách sáng tạo, sự sáng tạo về ngôn ngữ
thơ ấy không những đem lại cho thơ ca Nguyễn Duy một cách nói mới mẻ,
độc đáo mà còn đem lại cho thơ ông mang đậm hơi thở của đời sống mới, phù
hợp với nhu cầu của thời đại.
36
2.2. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy giàu tính nhạc và tính tạo hình
Tác phẩm văn học là nghệ thuật ngôn từ, là một bản hòa tấu vang lên từ
các loại âm thanh của ngôn ngữ. Sinh thời, Hàn Mạc Tử từng tâm sự: “Tôi
làm thơ? Nghĩa là đã nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một
làn ánh sáng”. Trong công trình Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam
1945-1975, Vũ Duy Thông cũng khẳng định: “Thơ sở dĩ không phải là văn
xuôi, thơ là thơ bởi cách tổ chức ngôn ngữ của nó” [27, tr.129]. Sáng tạo ngôn
từ thuộc về tài năng nghệ thuật của tác giả, cho nên tìm hiểu thơ Nguyễn Duy
không thể không bàn đến tính nhạc và tính tạo hình trong sáng tạo ngôn ngữ
thơ ông.
2.2.1. Ngôn ngữ thơ giàu tính nhạc
“Nhạc điệu là một yếu tính của thi ca. Thiếu nhạc tính thơ trở thành văn
xuôi” (Bằng Giang). Ngôn ngữ thơ là một phương tiện hình thức luôn được
coi trọng, là một giá trị không thể phủ nhận trong yếu tính thơ, vì “thơ tức là
phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện
tập trung nhất tính hàm xúc phong phú của ngôn ngữ, vừa giàu hình ảnh, sắc
màu (tính họa) vừa giàu nhạc điệu (tính nhạc). Các đặc điểm trên hòa quyện
với nhau tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa.
Nếu ngôn ngữ và hình ảnh là những yếu tố song hành thì âm điệu cũng
là yếu tố đồng hành với tính nhạc. Nói một cách khác, nếu ngôn ngữ là sợi
dây đàn thì nhạc tính và âm điệu là những cung bậc thanh âm ngân lên từ sợi
dây đàn ấy. Việc kiến tạo âm điệu trong thơ cũng chính là kiến tạo nhạc tính.
Và âm điệu cũng là chiếc cầu nối thơ với người đọc, dẫn dắt người đọc đi vào
thế giới màu nhiệm của thơ ca. Là một nhà thơ ngay từ khi mới cầm bút đã
khao khát muốn giãi bày những “cảm xúc và suy nghĩ trước những chuyện
lớn chuyện nhỏ quanh mình”, trước những điều “người khác có thể cho là
chuyện thoáng qua thì ở anh nó lắng sâu và dường như chưa dừng lại” (Hoài
37
Thanh) và luôn tâm niệm thơ mình phải như tiếng đàn bầu gẩy lên “những
tâm tình ở đằng sau tâm tình” (Đàn bầu), nên mặc dù ngôn ngữ trong thơ
Nguyễn Duy chứa đựng nhiều từ ngữ mang tính chất “bụi bặm”, “vỉa hè” thì
ngôn ngữ thơ ông vẫn tràn trề tính nhạc.
Các câu thơ của Nguyễn Duy sở dĩ “đầy nhạc” chính vì sự tập trung với
mật độ cao của các “từ láy”. Nguyễn Duy đã dung hợp vào lục bát những từ
láy ba, láy tư “kềnh càng” như: ngấp nga ngấp ngoáng, phấp pha phấp phới,
xất bất xang bang, tưng tửng từng tưng, ngứa nga ngứa ngáy, thất tha thất
thểu, toác toàng toang, mòm mom móm, xỉnh xình xinh, ễnh ềnh ệnh... nhiều
từ khiến Vương Trí Nhàn hồ nghi “không rõ tác giả bịa ra hay nhặt ở đâu
không biết”:
Ðàn kêu tưng tửng từng tưng
con trâu xúc phạm sợi thừng cột trâu...
Ðàn kêu tinh tỉnh tình tinh
(Xẩm ngọng)
Từ láy trong thơ Nguyễn Duy xuất hiện rất nhiều, có khi một câu thơ mà
dùng tới ba từ láy:
Dùng dằng gió dập dềnh sương
tửng tưng xe điện giật chuông cà tàng
Cách dùng từ láy của Nguyễn Duy rất đặc biệt, bên cạnh những từ láy thường
xuất hiện trong văn tả cảnh (lơ thơ, bùi ngùi...), Nguyễn Duy rất ưa dùng
những từ láy “bụi”: thong thẹo, léng phéng, phều phào,... Ngay cả khi diễn tả
những tâm trạng tưởng như không lấy gì làm vui, Nguyễn Duy vẫn có thể
“chèn” vào đó những từ láy rất “nghịch”:
Gió chi chợt lạnh toát trời
chợt khành khạch khóc, chợt cười hu hu
(Washington, 12.7.1995)
38
Có thể thấy từ láy trong thơ Nguyễn Duy không những xuất nhiều, mà
những từ láy ấy còn luôn vận động, cựa quậy, có lúc tả cảnh, lúc lại tả tình
làm cho cả cảnh và tình đều hiện lên trước mắt bạn đọc thật hấp dẫn, sinh
động, thiên nhiên trong thơ dường như có linh hồn:
Ban ngày chiếc lá màu xanh
bóng đêm nhuộm chiếc lá thành màu đen...
Trăng đầy ăm ắp không trung
cành cong tí tách rơi từng giọt trăng
(Trăng)
Phối hợp với các từ láy đó là một loạt điệp âm ở nhiều cấp độ: “ú ơ ú ớ
ù ờ” (Tập ru con), “tâm toang hoác rỗng rối tinh hình hài” (Mỗi), “trời lao
đao đất lao đao lờ đờ” (Thuốc lào), “yêu lăn yêu lóc la đà đã chưa” (Được
yêu như thể ca dao)... Những từ láy và điệp âm ấy đã phá vỡ sự ngắt nhịp,
phối thanh vốn cân đối hài hoà của thể thơ lục bát, khiến nhịp thơ lướt qua cả
điểm dừng ngữ pháp lẫn ngữ lưu tạo nên một sự “phá phách” vỏ bọc âm luật
truyền thống, in đậm dấu ấn sáng tạo hiện đại.
Như vậy, sử dụng các từ láy trong thơ, Nguyễn Duy bằng cảm nhận
tinh tế của mình, ông đã lắng nghe được hơi thở của thiên nhiên, nắm bắt
được nhịp điệu của cuộc sống, vận dụng khéo léo, tài tình những vật liệu, hình
ảnh, âm thanh... để viết nên những vần thơ, câu thơ giàu hàm súc, giàu tính
nhạc và đặc biệt giàu sức truyền cảm.
Tiếng Việt vốn rất giàu nhạc tính. Trong nhiều yếu tố quan trọng tạo
nên âm hưởng nhạc điệu trong thơ phải kể đến vần, thanh và nhịp. Trong câu
thơ cũng như toàn bộ bài thơ vần, thanh và nhịp giữ một vai trò quan trọng, là
biểu hiện rất đặc thù của thơ: “Thơ là sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và ý
nghĩa” (Valery - nhà thơ Pháp).
Thơ ca sử dụng vần lưng và vần chân, thanh bằng, thanh trắc và nhịp
39
chẵn, lẻ… nên thể hiện được sinh động tình cảm tha thiết, ngọt ngào của chủ
thể trữ tình. Điều quan trọng là qua việc tổ chức lời thơ, tác giả thể hiện được
phong cách riêng và khẳng định bản sắc của cá nhân cũng như của dân tộc
mình. Nguyễn Duy bằng cảm nhận tinh tế đã lắng nghe hơi thở của thiên
nhiên, nắm bắt được sự vận động của cuộc sống nên thơ ông có nhịp điệu rất
riêng, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Đó có thể là vần lưng với lời thơ
nhẹ nhàng, uyển chuyển trải dài theo vần thơ, khiến người đọc cảm nhận được
một nỗi buồn dịu nhẹ mà sâu lắng:
Tôi gửi lại đây cái buồn vô cớ
Để mang về nỗi nhớ bâng quơ
(Sông Thao)
Có khi đó là vần chân với cách ngắt nhịp câu thơ và lối gieo vần truyền
thống, tạo được điểm nhấn cho toàn bài:
Vẫn là em... cứ chậm chậm mà thân
Vẫn là em... cứ lạ lạ mà gần
(Làm quen)
Có khi nhà thơ kết hợp cả vần lưng và vần chân:
Tuổi thơ nào cũng sẽ hiện ra thôi
dầu chúng ta cứ việc già nua tất
xin thương mến đến tận cùng chân thật
(Tuổi thơ)
Nhờ cách gieo vần linh hoạt này mà tuổi thơ của bao bạn đọc như từng
bước được hiện ra, trỗi dậy, đầy gợi cảm. Cách gieo vần như thế làm chất dân
gian trong thơ Nguyễn Duy trở nên sâu đậm hơn.
Ngoài ra, Nguyễn Duy sử dụng hệ thống thanh điệu vào trong sáng tác
của mình một cách nhuần nhuyễn, khiến giọng thơ trở nên mênh mang, nhẹ
nhàng. Đó có khi là thanh bằng:
40
Nước chè tươi rót vàng mơ
Đôi khi hạnh phúc đơn sơ vô cùng
(Thuốc lào)
Nhưng đôi khi thanh trắc cũng được sử dụng nhiều, tạo cảm giác mạnh, nhạc
điệu cao đầy ấn tượng:
Vợ ta càu nhàu con ta chán học
Nước mắm gắt góc bếp ám khói
(Nhớ nhà)
Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ luôn trăn trở và luôn tìm cách
đổi mới giọng điệu để thích hợp với thời đại. Trên con đường tìm kiếm câu trả
lời cho vấn đề hiện đại hóa thơ ca, ông đã tìm ra được hướng đi riêng của
mình, khẳng định được phong cách cá nhân giữa bối cảnh thơ ca khá phức tạp
hiện nay. Nhà thơ ý thức sâu sắc tầm quan trọng của bản sắc dân tộc trong
thời đại toàn cầu hóa. Chính vì vậy, bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ, chất liệu
hình ảnh gần gũi, nhà thơ còn tìm về lục bát - một thể thơ truyền thống của
dân tộc, ông nâng niu và biến lục bát thành “thương hiệu riêng” của mình.
Nguyễn Duy thổi vào nó tính nhạc để tạo sự hấp dẫn riêng đối với từng câu
thơ, từng con chữ.
Những câu thơ lục bát ấy có sự phối hợp hài hòa giữa dòng 6 chữ và
dòng 8 chữ. Sự dung dị, mềm mại và khả năng dung nạp được cùng lúc nhiều
nội dung đa dạng của đời sống đã khiến cho thể thơ này có sức sống trường
tồn. Chỉ hai câu lục bát, cũng đã là một câu chuyện hoàn chỉnh:
Hồn tôi như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bay đầy áo em...
(Nguyễn Bính)
Về nhịp - vốn được xem là một yếu tố rất quan trọng trong sáng tạo thơ
ca, đặc biệt là thể thơ lục bát. Việc can thiệp, thay đổi nhịp lục bát truyền
41
thống có thể tạo ra tiết tấu mới lạ, đồng thời tạo hiệu quả làm nên tính nhạc
cho thơ ca. Chuyển đổi nhịp linh hoạt: câu lục thường dùng nhịp 3/3 hoặc 2/4
nhưng câu bát có thể ngắt theo nhiều cách: 4/4 “biệt tăm con cá/ lông nhông
thuyền chài”, nhịp 3/3/2 “vài tia nắng/ gãy loe ngoe/ góc vườn”, nhịp 2/6
“nằm nghe/ chim lả lơi cây tiêu huyền”, hay nhịp 3/2/3 “người xa quê/ léng
phéng/ người xa quê”… Có khi trong một đoạn thơ 8 câu, nhịp điệu thay đổi
liên tục:
Em đi / bỏ lửng sân đình
trống chèo / ngắc ngoải / thùng thình / gọi ai
Chòng chành / kiếp nón không quai
hai mà một / một mà hai / một mình...
(Mỗi)
Với cách phối thanh và ngắt nhịp trên, lục bát Nguyễn Duy phần nào đã
phá vỡ âm hưởng nhịp nhàng, mềm mại của lục bát truyền thống, gửi vào đó
yếu tố nhạc tính tạo nên âm hưởng mới phù hợp với xu thế hiện đại.
Nói đến yếu tố tạo tính nhạc cho thơ phải kể đến vai trò của nhịp điệu,
âm luật. Maiacopxki từng khẳng định: “Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng
lượng cơ bản của câu thơ”. Câu thơ và vần có một cái duyên mà thậm chí khi
lời, ý dở, nhà thơ vẫn quyến rũ người nghe bằng nhịp điệu và sự cân đối”.
Theo giáo sư Hà Minh Đức: “Nhịp điệu là kết quả của một sự chuyển động
nhịp nhàng, sự lặp lại đều đặn những âm thanh nào đó ở trong thơ” [7, tr.45].
Nhịp thơ có thể dài, ngắn, đọc lên có thể nhanh hay chậm phụ thuộc vào trạng
thái cảm xúc:
Có gì đâu, / có gì đâu
Mỡ màu ít, / chắt dồn lâu / hoá nhiều.
Rễ siêng / không ngại đất nghèo...
(Tre Việt Nam)
42
Không biết đây là lời của tác giả hay chính là lời của tre. Có thể là
những suy tư của tác giả về sức tre mãnh liệt, cũng có thể là lời tâm tình của
tre. Câu thơ lục bát ở khổ thơ đầu theo nhịp 2/2, đến khổ thơ này đổi thành
nhịp 3/3 (Có gì đâu... hoá nhiều). Nhịp điệu có vẻ như gấp gáp cùng với việc
lặp lại: Có gì đâu / có gì đâu thể hiện phần nào đức tính khiêm nhường và lạc
quan của tre.
Trong hành trình sáng tạo của mình, Nguyễn Duy sử dụng thành công
các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa... để “làm mới” ngôn ngữ.
Bằng phương thức so sánh hay ẩn dụ, Nguyễn Duy đã góp thêm vào kho tàng
ngôn ngữ dân tộc những từ mới như “bầu trời vuông”: mái tăng, “võng
trăng”: võng của bộ đội Trường Sơn; bổ sung thêm những nét nghĩa mới cho
những từ vốn trở nên quá quen thuộc như cây tre:
Lưng trần phơi nắng phơi sương
có manh áo cộc tre nhường cho con
(Tre Việt Nam)
hay cây ngô:
Cây ngô đứng nắng vẹo hông
Cho con bát nước ngon lành mẹ ơi
(Bát nước ngô của bà mẹ Việt ở Cam Lộ)
và tạo nên những kết hợp từ lạ như: mưa dùng dằng” (Sông Thao), “lục bình
trôi mộng du” (Trăng sông Tiền), “tiếng chuông chùa đi thủng thỉnh”
(Gửi Huế)... thể hiện một trí tưởng tượng thật phong phú, bay bổng của
Nguyễn Duy, ông đã đem đến cho thơ những kết hợp từ thật lạ, cấp cho từ
“những nghĩa mới, thoát ra khỏi sự ràng buộc về mặt vật chất (chữ) và chứa
đựng, toả ra những lớp nghĩa mang tính biểu trưng” [11, tr.86] giúp người đọc
nắm bắt được những cái vô hình quanh họ với một cái nhìn mới, lãng mạn
hơn, tinh tế hơn.
43
Tóm lại, có thể khẳng định rằng, tính nhạc là một đặc điểm quan trọng
của ngôn ngữ thơ ca. Ngyễn Duy đã vận dụng thành công việc đưa từ láy, sử
dụng cách ngắt nhịp, âm điệu để làm mới ngôn ngữ thơ của mình, khiến thơ
ông lúc nào cũng bay bổng, tràn đầy nhạc tính. Chính vì đặc điểm này mà rất
nhiều trường hợp các nhạc sĩ sử dụng ngay những bài thơ có sẵn làm chất liệu
sáng tác cho bài hát của mình. Vô số những bài thơ phổ nhạc được nhiều
người yêu thích và có sức sống khá bền lâu như: Vàm cỏ đông (Thơ Hoài Vũ),
Tình ca Tây Bắc (thơ Cẩm Giàng), Tiếng đàn bầu (Thơ Lữ Giang), Bóng cây
kơnia (dịch thơ dân tộc Hrê)…
2.2.2. Ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình
Quan trọng không khác gì tính nhạc, trong ngôn ngữ thơ người ta cũng
thường chú ý nhiều đến tính tạo hình. Tính tạo hình làm cho cảm xúc trong
thơ trở thành một thế giới các hình ảnh có đủ sắc màu, hình khối đang vận
động, cựa quậy trước mắt chúng ta. Nhờ thế mà ta có thể tri giác được màu
thời gian hư ảo trong thơ Đoàn Phú Tứ:
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Hơn hết, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ giàu hình ảnh, sắc màu. Hình ảnh
thơ bao giờ cũng là sự kết tinh của việc sử dụng ngôn ngữ. Vì thế hình ảnh
thơ luôn có ý nghĩa trong việc tạo hiệu ứng nghệ thuật, góp phần khẳng định
sự hiện hữu của thơ. Vì thơ là biểu tượng, là hình ảnh. Thơ tạo dựng một vũ
trụ qua trung gian biểu tượng một vũ trụ phi thực, một vũ trụ chỉ có ý nghĩa
trong tính cách phi thực, một vũ trụ chỉ có ý nghĩa trong tính cách phi thực
của nó. Hơn đâu hết, biểu tượng hình ảnh là điều kiện của thơ, lý do tồn tại
của thơ, biểu tượng chính của thơ.
44
Nhà thơ Tố Hữu viết về bốn mùa (đông, xuân, hè, thu) ở Việt Bắc bằng
ngôn ngữ giàu tính họa (có người gọi đây là bức tranh tứ bình):
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang...
Nguyễn Duy là một trong số những nhà thơ sử dụng những từ ngữ chỉ
hình ảnh, màu sắc rất đa dạng, phong phú. Ông sử dụng nhiều từ ngữ giàu
tính tạo hình. Việc làm mới cho ngôn từ thơ ca của mình, điều này khẳng định
khẳ năng tìm tòi, khám phá của Nguyễn Duy trong biển ngôn ngữ dân tộc,
mặt khác chứng tỏ nhà thơ đã có công đưa vốn từ này lên vị trí xứng đáng
trong nền văn học nước nhà với sức sống tiềm tàng, lớn lao của nó.
Trước hết đó là những từ ngữ chỉ màu sắc, có giá trị lớn trong việc cụ thể
hóa những đặc điểm riêng của thiên nhiên, con người. Đó là hình ảnh cụ thể
hóa, khắc sâu vào tâm trí con người:
Mẹ tôi gồng gánh thay chồng
da bánh mật mòn tre bánh tẻ
(Dòng sông mẹ)
Rơm rạ ơi ta trở về đây
gió sùng sục mùi bùn nằng nặng ngấu
mộc mạc tím cánh hoa bìm bờ dậu
(Về đồng)
Các từ ngữ chỉ màu sắc cũng rất đa dạng. Có những từ miêu tả màu sắc
ở mức độ biểu cảm trung hòa:
Đất bày biện phơi - cỏ xanh - hoa thắm - cành chồi
(Tí tẹo Bắc Âu)
Hoặc đó là màu sắc trong tâm tưởng:
45
Hồ gươm xanh màu xanh cổ tích
(Một góc chiều Hà Nội)
Các màu sắc ở đây không chỉ miêu tả màu sắc của cảnh vật tôn vẻ đẹp của
thiên nhiên, con người mà còn bộc lộ tình cảm của con người trong đó. Thơ
Nguyễn Duy có cốt cách của thơ ca Phương Đông nói chung và Việt Nam nói
riêng: “thi trung hữu họa”, “ý tại ngôn ngoại”. Việc kiệm lời, kiệm chữ là một
yêu cầu tối quan trọng đối với nhà thơ. “Thơ cốt ở ý, ý cốt sâu sa thì thơ mới
hay. Không phải bất cứ điều gì phải nói ra bằng lời thì mới là thơ có giá trị. Ý
hết mà lời dừng là cái lời hết mực song lời dừng mà ý chưa hết thì lại càng
hay tuyệt” (Hải Thượng Lãn Ông).
Mỗi từ ngữ trong câu thơ phải diễn tả được đúng điều mà nhà thơ nhìn
thấy, cảm thấy và những điều sẽ thấy. Lựa chọn được một từ ngữ “đắt” để
diễn đạt một ý không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Nói như Maiacôpxki, quá
trình sáng tạo ngôn ngữ thơ ca cũng giống như người lọc quặng radium:
Lấy một gam phải mất hàng năm lao lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ
Chính vậy nên thơ ca Nguyễn Duy không cần cầu kì, trang trọng, chỉ ít lời
mà nói lên được tâm trạng cũng như cảm xúc cùa nhà thơ - nhân vật trữ tình.
Màu sắc trong thơ ông có khi diễn tả tâm trạng, tinh thần lạc quan, tin tưởng của
người chiến sĩ:
Mặt trời mọc trong lòng tay đỏ rực
từ gương mặt hồng hào bụi đất
nắng lên lấp ló sau hàng mi
những dải tóc dính bết...
(Chiến hào)
Ngoài từ ngữ chỉ màu sắc, Nguyễn Duy sử dụng các từ ngữ để khắc sâu
khoảng không gian, thời gian. Qua đó nhà thơ bày tỏ được tâm trạng cũng
46
như nỗi nhớ với quê nhà:
Đường ta xa lắc xa lơ
đường người ảnh ảo bến bờ mờ xa
(Đường xa)
Ngoài làm giàu tính nhạc, Nguyễn Duy còn sử dụng nhiều từ láy giàu
tính tạo hình. Nhà thơ sử dụng từ láy đặc tả, xuất hiện trong đời sống hàng
ngày: Lép kẹp, lưa thưa, lờ đờ… ông còn sáng tạo ra các từ láy phái sinh như:
Phấp pha phấp phới, thấp tha thấp thoáng… để nhấn mạnh các đặc điểm,
trạng thái, hành động của đối tượng:
Thất tha thất thểu văn chương
Kẽo cà kẽo kẹt tai ương đường dài
(Xin đừng buồn em nhé)
Từ láy có khi tả cảnh, có khi tả tình:
Cành cong tý tách rơi từng giọt trăng
(Trăng)
Nhà thơ còn khắc họa hình ảnh, tính cách con người qua những từ láy
tạo hình rất đặc sắc:
Cha ta cầm cuốc trên tay
Nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa
Lưng trần bạc nắng thâm mưa
Bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì...
(Về làng)
Ngoài ra Nguyễn Duy sử dụng chất tạo hình của khẩu ngữ có vẻ “xô
bồ”, “bụi bặm”, nhưng lại rất “lạ”. Nhiều bài thơ là một bản hợp xướng của
những chữ lạ: "ngấp nga ngấp ngoáng kêu ma", "đàn kêu tang tảng tàng
tang", "ỡm ờ dở dói dồn ghe dạt bèo", "Phang anh xất bất xang bang sao
đành" v.v... Có nhiều bài thơ như các bài: Nợ nhuận bút, Trở gió, Em đi, Gió...
47
gần như câu nào cũng có một chữ lạ đặc kiểu Nguyễn Duy như vậy. Đã bao
nhiêu người tả “gió”, nhưng đến Nguyễn Duy, người ta mới bắt gặp một thứ
"hội hóa trang" của gió, hết gió cong queo lại gió tuây huây, gió loang toang,
gió vùng vằng, rồi đến gió rờn rợn và cả gió tâm thần nữa. “Ngày” trong thơ
ông là ngày ngun ngủn, “trăng” là trăng rỗng tuếch (trong một câu thơ đẹp
một vẻ đẹp cổ điển Đêm suông rỗng tuếch trăng tà), “mây” là thứ mây tướp,
“thời gian” thì trôi thườn thượt và con người nếu không là rơm rạ, không hóa
đá, thì cũng lẫn với ma, cùng là các loại người đi như xác chết trôi giữa
đường... Đến đây, lại càng thấy rõ trong một nền thơ, cuộc khiêu vũ ngôn từ
trải ra trên cả một vũ trường hết sức rộng rãi, có người chỉ nhảy theo nhịp cổ
điển, có người thích lao vào những thể nghiệm hoàn toàn mới. Về phần mình,
Nguyễn Duy ở vào giữa hai đám chúng sinh đó. Tìm đến đâu ông vận dụng
ngay đến đó. Sở dĩ đôi khi ông đưa ra những chữ lạ, không phải vì ông bị
chúng quyến rũ, hoặc ham chơi quá, sẵn sàng "thể nghiệm để thể nghiệm", mà
đơn giản chỉ vì phải những chữ ấy mới diễn tả hết cái vẻ riêng của thế giới
ông quen hình dung. Chữ vẫn trong tay ông sai khiến.
Tóm lại thơ Nguyễn Duy rất giàu tính tạo hình, dù sử dụng từ láy hay
các tính từ khác thì cái đích cuối cùng cũng là để giúp nhà thơ bộc lộ tư tưởng
thẩm mĩ của mình. Có thể nói rằng, chính lời ăn tiếng nói dân tộc đã tạo nên
trong thơ Nguyễn Duy sự sinh động, phập phồng hơi thở dân gian.
2.3. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy có sự kết hợp tài tình các thủ pháp
nghệ thuật
Ở phương diện ngôn ngữ, tài năng của nhà thơ không phải chỉ thể hiện
ở sự dung hợp nhiều phương tiện ngôn ngữ thuộc nhiều phong cách chức
năng khác nhau, mà quan trọng hơn là nhà thơ phải tái tạo ngôn ngữ để “cống
hiến thêm vào cho biểu tượng của người đọc một sự thật mới, một hiện thực
mới qua một ngôn từ nghệ thuật mới có sức biểu hiện cao” (Hoàng Trinh), bởi
48
vì “xét cho cùng, lao động của nhà thơ chính là lao động kiếm chữ tìm từ, chế
tác ngôn ngữ, tạo nghĩa mới” [14, tr.28-29]. Để tái tạo lại ngôn ngữ, tuỳ theo
hoàn cảnh sáng tác, sở thích, đặc điểm tâm lý... mỗi nhà thơ thường chọn cho
mình những phương thức nghệ thuật nhất định. Trong hành trình sáng tạo của
mình, những phương thức cơ bản thường được Nguyễn Duy sử dụng để “làm
mới” ngôn ngữ là: phương thức tự sự hóa và phương thức so sánh, ẩn dụ và
trùng điệp.
2.3.1. Thủ pháp liệt kê, trùng điệp
Trước hết để phản ánh cái hiện thực nghiệt ngã mà nhân dân đang gánh
chịu, Nguyễn Duy dùng thủ pháp liệt kê để nhằm phơi bày hiện thực xã hội
ấy. Ông từng kể:
Tôi lớn lên trên bờ bãi sông Hồng
trong màu mỡ phù sa và máu loãng
giặc giã từ con châu chấu con cào cào...
Nguyễn Duy dùng lối điệp ngữ để kể và nhấn mạnh cái ý “Tiềm lực còn ngủ
yên” đến tám lần. Mỗi lần Nguyễn Duy lại chỉ ra một nguyên do để cho tiềm
lực của đất nước bị lãng quên. Thực chất đó là những tội lỗi được ông gọi
tên, chỉ mặt. Rồi sau khi chỉ ra nguyên nhân để cho đất nước lâm vào cành
nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân đói khổ, ông lại cảnh giác chỉ ra bằng một loạt
sự “Cần lưu ý”:
Cần lưu ý lời nói thật thà có thể bị buộc tôi
Cần lưu ý cái miệng làm chức năng cái bẫy...
Cần lưu ý có lắm sự nhân danh lạ lắm
mượn áo thánh thần che lốt ranh ma...
Trong “Nhìn từ xa... Tổ quốc”, Nguyễn Duy đau đớn ngẫm về đất nước, về
nhân dân. Ông liệt kê ra sáu xứ xở quê nhà: Xứ xở nhân tình sao lắm thương
binh đi kiếm ăn đủ kiểu /nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng... Xứ xở linh thiêng
49
sao lắm đình chùa làm kho hợp tác... thiện ác nhập nhằng /công lý lênh
phênh... Xứ xở thông minh sao lắm trẻ con thất học...
Thủ pháp liệt kê cho phép người viết kể được nhiều, nói được nhiều
những điều mắt thấy tai nghe. Bên cạnh đó còn có thể bình luận thể hiện sự đánh
giá, nhận xét của mình trước những điều đã thấy đó. Cái khác biệt ở đây là
Nguyễn Duy đã dùng sự đối lập của ngôn từ và hình ảnh để nói về cái lầm than,
cái chua xót khi liệt kê. Câu thơ đọc lên như “nhát dao cứa vào lòng” vậy.
Một thủ pháp nổi bật khác trong nghệ thuật mà Nguyễn Duy hay sử
dụng đó chính là thủ pháp trùng điệp.
Trùng điệp là sự luân phiên, lặp lại của một số đơn vị ngôn ngữ nhằm thể hiện
dụng ý nghệ thuật. Thơ Nguyễn Duy dùng rất nhiều biện pháp trùng điệp trên
các cấp độ: điệp thanh, điệp phụ âm đầu, điệp vần, điệp từ, điệp ngữ… tạo
nên những cách kết hợp độc đáo. Trong bài “Nhìn từ xa…Tổ Quốc”, ông dùng
30 lần chữ “Ai”, bài “Đánh thức tiềm lực” trong một đoạn gồm 15 câu thì có
đến 6 câu “Tiềm lực còn ngủ yên”, bài “Với đồng bằng” bài thơ có 8 câu thì
chiếm 3 câu “… cúi lom khom tìm gì trong đất kia” và 3 câu “tìm hột gạo”…
Những từ ngữ lặp lại này đã giúp nhà thơ thể hiện một ý nhấn mạnh nào đó
hay có khi diễn tả một sự băn khoăn, trăn trở, day dứt… trong tâm trạng tác
giả hoặc nhân vật trữ tình.
Nhưng có lẽ sáng tạo từ láy mới là điểm nổi bật nhất trong sáng tác của
Nguyễn Duy khi sử dụng biện pháp trùng điệp.
Cũng như các nhà thơ khác, khi sử dụng từ láy, Nguyễn Duy đã khai thác triệt
để tính chất tượng hình và tượng thanh của từ láy để thể hiện thái độ, cảm
xúc. Bên cạnh những từ quen thuộc như: rung rinh, thì thầm, ngỡ ngàng…
ông còn tạo ra nhiều từ khá mới lạ như: lênh thênh, long thong, nhỏng
nhảnh,ngấp nga ngấp ngoáng, xất bất xang bang…
Không chỉ dừng lại ở việc khéo léo tạo nên những từ láy mới lạ,
50
Nguyễn Duy còn sử dụng phối hợp phép trùng điệp ở nhiều cấp độ. Tiêu biểu
cho đặc điểm độc đáo này là dòng thơ: “Muối lung linh cùng nắng lung linh
trắng lấp cái nhìn” (Muối trắng). Cả dòng thơ gồm mười một chữ, nhưng từ
láy “lung linh” được sử dụng hai lần, phụ âm “l” được lặp lại năm lần, khi
đọc lên, sự trùng điệp ấy như lần lượt hắt lên cái lấp lánh của muối trắng dưới
ánh mặt trời, giúp người đọc như nhận ra nét duyên thầm của muối trắng.
Ngoài ra, Nguyễn Duy còn mượn hình thức phổ biến trong dân gian là
dùng từ láy phụ âm đầu để thiết lập nên những phát ngôn có nghĩa:
Hớ hênh hau háu hao hao
hung hăng hừng hực hồng hào hân hoan...
(Thử chơi xem sao)
Tất cả sự trùng điệp đó biến các câu thơ thành một dòng âm thanh kết dính,
phá vỡ nhịp điệu hài hòa vốn có của thể lục bát nhưng lại diễn tả tài tình trạng
thái phấn khích của nhân vật trữ tình.
Trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến và rất nhiều nhà thơ khác những
tổ hợp từ trùng điệp kiểu như: “lửa lựu lập lòe”, “lóng lánh ánh trăng loe”…
xuất hiện thật hiếm hoi thì trong thơ Nguyễn Duy chúng lại xuất hiện với tần số
khá cao. Ngoài ra, ta còn bắt gặp trong thơ ông những kết hợp khác như:
Ngắn ngun ngủn ngày người
Gió chi mà gió thế
(Trở gió)
Khi bắt gặp những câu thơ ấy của ông, người đọc vừa có cảm giác như
Nguyễn Duy đang hồn nhiên chơi trò ghép chữ, lại vừa nhận thấy đây là sự
thể nghiệm công phu của nhà thơ, cứ như ông đang xáo tung cả kho ngôn ngữ
lên, sắp xếp lại theo ngẫu hứng của mình để tạo nên những tiếng vang bên
trong chữ. Sử dụng những phép điệp này còn đem đến cho thơ Nguyễn Duy
một nhạc điệu thật lạ, các âm các từ như dính vào nhau, ngân nga theo một
51
âm hưởng chủ đạo, nếu âm, từ được láy lại có âm điệu nhẹ nhàng, thanh
thoát, thì câu thơ có nhạc điệu du dương, mềm mại:
Gió chiều náo động trong tôi
long lanh ánh lá lặng rồi lại lay
(Người đang yêu)
Có thể thấy, Nguyễn Duy trong việc sử dụng thành công các thủ pháp
nghệ thuật ngôn từ không chỉ khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà thơ, mà
còn thấy được một giọng điệu rất riêng, rất độc đáo của ông và tạo nên sự
khác lạ cho phong cách thơ Nguyễn Duy.
2.3.2. Thủ pháp so sánh, ẩn dụ
So sánh là phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa
trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có những dấu hiệu tương đồng nhằm làm
nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm, thuộc tính của
hiện tượng kia. So sánh tạo nên sức mạnh nhận thức và phát hiện. Nhận thức
ở đây được hiểu là những hiểu biết mới, những cách nhìn mới về sự vật, hiện
tượng thông qua thao tác liên tưởng, đối chiếu giữa chúng với nhau. Cho nên,
vẫn cùng là so sánh, nhưng ở mỗi nhà thơ cách biểu hiện, cách khai thác lại
có những dáng vẻ khác nhau.
Đọc những bài thơ của Nguyễn Duy, ta thấy ông hay dùng thủ pháp
nghệ thuật này nhưng với lối diễn đạt khá mới lạ:
Mắt em trong đến ngây thơ
trong như nắng giữa mịt mù mưa giăng
(Mưa trong nắng nắng trong mưa)
ở câu thứ nhất, người đọc đang hình dung nhân vật “em” có đôi mắt với ánh
nhìn trong trẻo, ngây thơ chợt phải khựng lại, suy tư trước cách so sánh của
tác giả ở câu thứ hai: “trong như nắng giữa mịt mù mưa giăng”. “Trong như
nắng” thì có thể hình dung được cụ thể “độ trong” của mắt, nhưng khi nói
52
“nắng giữa mịt mù mưa giăng” tính chất của nó lại khác: nhòe ướt và không
phải là không biết ưu tư, trăn trở. Còn trong bài “Âm thanh bàn tay”, Nguyễn
Duy cũng có cách so sánh khá bất ngờ:
Tôi lớn lên với ruộng với đồng
Nghe giao hưởng khác nào nghe xay thóc
Em dạy nhạc cho tôi khác nào đi vỡ đất
Hình ảnh được đem ra so sánh thật giản dị đến ngỡ ngàng. Dường như nó đi
theo cái chiều ngược lại của lối so sánh thông thường. Nhưng chính vì thế mà
nó đọng lại trong tâm trí người đọc bởi sự chân thành trong cảm xúc, suy nghĩ
của cái tôi trữ tình.
Bước chân vào cuộc chiến đấu, những người lính đã phải đối mặt với
bao chông gai thử thách, khó khăn gian khổ và cũng từng ít nhất một lần bị
cơn sốt rét rừng hành hạ, dày vò, tàn phá cơ thể, Nguyễn Duy đã cảm sâu sắc
điều này khi viết:
Oái oăm sốt rét rừng già
Trong lòng gió bấc ngoài da gió lào
(Người đang yêu)
Bằng các hình ảnh so sánh “gió bấc” và “gió lào”, nhà thơ đã nói được
đầy đủ nhất cái cảm giác oái oăm, khổ sở mà người lính phải chịu đựng của
những cơn sốt rét nơi rừng già.
Lối ví von so sánh tạo liên tưởng này ta còn gặp khá nhiều trong thơ
Nguyễn Duy: “được yêu như thể ca dao, thực hư như thể con đường trong
mơ, chìa ra như thể thừa ra bên đường...” đã tạo ra nét độc đáo cho thơ ông.
Nguyễn Duy cũng hay dùng biện pháp ẩn dụ để tạo nên những kết hợp
từ lạ như: “mưa dùng dằng” (Sông Thao), “lục bình trôi mộng du” (Trăng
sông Tiền), “tiếng chuông chùa đi thủng thỉnh” (Gửi Huế), “râm ran gió kể
chuyện” (Võng trăng)... khiến các sự vật, hiện tượng được nhân hóa trở nên
53
sống động, có hồn. Phương thức này còn được ông sử dụng để bổ sung thêm
những nét nghĩa mới cho những từ vốn trở nên quá quen thuộc như cây tre,
cây ngô:
Lưng trần phơi nắng phơi sương
có manh áo cộc tre nhường cho con
(Tre Việt Nam)
Cây ngô đứng nắng vẹo hông
cho con bát nước mát lòng mẹ ơi!
(Bát nước ngô)
Từ việc sử dụng một cách tài tình thủ pháp nghệ thuật so sánh và ẩn dụ,
không chỉ cho ta thấy một trí tưởng phong phú, nhạy cảm, tinh tế của hồn thơ
Nguyễn Duy. Mặt khác, nhà thơ đã tạo ra một thứ ngôn ngữ sinh động để
dựng lên trước mắt bạn đọc những tình, những cảnh, những chi tiết ở hình
thái trực tiếp và gợi cảm.
Có thể thấy, Nguyễn Duy trong việc sử dụng thành công các thủ pháp
nghệ thuật ngôn từ không chỉ khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà thơ, mà
còn thấy được một giọng điệu rất riêng, rất độc đáo của ông và tạo nên sự
khác lạ cho phong cách thơ Nguyễn Duy.
54
KẾT LUẬN
1. Là một thành tố văn học, ngôn ngữ văn chương đã tồn tại như một
phương tiện bảo tồn gìn giữ và sáng tạo văn hoá hữu hiệu. Thơ Nguyễn Duy
được bắt nguồn từ ngôn ngữ trong văn hoá dân gian miền Trung Bắc Bộ. Qua
lăng kính chủ quan của mình, Nguyễn Duy đã không bộc lộ khuynh hướng
theo đuổi những vấn đề mang tính chất nghề nghiệp thuần túy, như đào sâu,
trau dồi việc thực hiện ngôn ngữ, không mê mải với những cách tân siêu thực,
tượng trưng… Ông chọn cho thơ mình một lối cảm hứng bám sát hiện thực
đời thường, bám sát thời cuộc, với những vấn đề tâm lý “nóng bỏng” của toàn
xã hội cũng như những day dứt và trưởng thành của mỗi cá nhân. Xuất phát từ
việc tìm hiểu giới thuyết chung về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật, tác giả
khóa luận đã vận dụng vào thơ Nguyễn Duy để thấy được những đặc trưng cơ
bản về phương diện ngôn ngữ trong thơ ca của ông.
2. Trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Duy, triết lý nhân sinh: “Ta
là dân - vậy thì ta tồn tại” (Nhìn từ xa...Tổ quốc) có ý nghĩa như một “mẫu
gốc”. Quan niệm đó của ông không chỉ thể hiện tư tưởng trọng dân, tình cảm
gắn bó máu thịt với nhân dân lao động mà còn thể hiện hướng đi trong sáng
tạo nghệ thuật: Hoà mình vào nhân dân, cất lên tiếng nói của chính họ trong
cuộc đời - đấy chính là yếu tố quyết định sự tồn tại của ngòi bút thơ Nguyễn
Duy. Triết lý nhân sinh này đã được chuyển hoá nhuần nhuyễn vào quan niệm
thẩm mỹ và quan niệm sáng tác của ông. Ông đã hiện thực hoá quan niệm
nghệ thuật ấy của mình qua quá trình sáng tạo nghệ thuật. Một trong những
thành tố được Nguyễn Duy áp dụng quan niệm nghệ thuật trên đó chính là
ngôn ngữ. Vì vậy, tìm hiểu những đặc trưng ngôn ngữ trong thơ ca Nguyễn
Duy không thể không xét đến yếu tố “giản dị, đời thường” trong thơ ông. Để
đưa thơ về gần hơn với đời sống, nhà thơ đã vận dụng sự “kết hợp ngôn ngữ
55
thơ ca dân gian với ngôn ngữ đời sống”, và yếu tố “lạ hóa” ngôn ngữ đời
thường. Nhờ đặc điểm này mà ngôn ngữ thơ ông dễ hiểu, bình dị, những ngôn
từ gắn với lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy là ngôn ngữ giản dị, được chắt lọc từ ngôn ngữ
đời thường, dân dã của nhân dân nhưng lại không hề khô khan, cộc lốc mà
ngược lại rất bay bổng, sinh động, phập phồng hơi thở dân gian, đó là nhờ
tính nhạc và tính tạo hình trong ngôn ngữ thơ. Nhờ thế mà bạn đọc như tìm
thấy tiếng nói của mình trong đó, đồng thời vẫn nhận ra những điều mới mẻ,
thú vị qua những dòng triết lý, chiêm nghiệm của chủ thể trữ tình.
3. Để vượt lên những lối mòn ngôn ngữ, Nguyễn Duy đã sử dụng kết
hợp nhiều phương thức nghệ thuật độc đáo, nổi bật là phương thức: tự sự hóa
và phương thức so sánh, ẩn dụ, trùng điệp. Với vai trò của người kiên trì
“luyện thơ” từ “bụi chữ” (Rơi và nhặt) đồng thời cũng là một vũ công tài hoa
“khiêu vũ từ ngữ” (Khiêu vũ), Nguyễn Duy đã giữ được ngôn ngữ thơ ở giới
hạn cheo leo giữa các đối cực: mộc mạc và tinh tế, bỡn cợt và nghiêm túc, nhẹ
nhàng và sâu cay...
Tuy nhiên, Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Nguyễn Duy còn chứa đựng
nhiều yếu tố mà người viết trong khuôn khổ khóa luận chưa có điều kiện đi
sâu khai thác một cách triệt để. Vì vậy khóa luận khó tránh khỏi những thiếu
sót. Tác giả khóa luận hi vọng khi có điều kiện sẽ trở lại vấn đề này để có cái
nhìn đầy đủ hơn về ngôn ngữ nghệ thuật thơ Nguyễn Duy.
56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arixtot - Lưu Hiệp (1961), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa - Nghệ thuật,
Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1986), “Tìm giọng nói thích hợp với thời mình”, Báo văn
nghệ, (15), tr.11.
3. Lại Nguyên Ân (2004), “Nhà quê” và thơ lục bát”, Báo văn nghệ, (1+2),
tr29.
4. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ văn hóa thông tin
và thể thao, Hà Nội.
5. Nguyễn Duy, (Bản thảo), Tuyển tập thơ Nguyễn Duy
6. Hữu Đạt, (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Hà Minh Đức (1999), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Hồ Thế Hà (2005), “Nghĩ về tính triết lý trong thơ”, Nghiên cứu văn học
(9), tr.110.
9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007) Từ điển Thuật ngữ
Văn học, Nxb Giáo dục.
10. HồVăn Hải (2001), “Từ láy trong lục bát Nguyễn Duy”, Ngôn ngữ và đời
sống, (4), tr.6-8.
11. Bùi Công Hùng (2000), Quá trình sáng tạo thơ ca, Nxb Văn hóa- Thông
tin, Hà Nội.
12. Lê Quang Hưng (1986), “Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng”, Tạp chí Văn
học, (3), tr.155.
13. Tố Hữu (1973), Xây dựng một nển văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân
ta, thời đại ta, Nxb Văn học, Hà Nội.
14. Mã Giang Lân (1986), “Thơ hôm nay”, Tạp chí văn học (1), Hà Nội.
15. Phương Lựu (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
16. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
17. Vương Trí Nhàn (2001), Cánh bướm và đóa hướng dương, Nxb Văn
nghệ TP. Hồ Chí Minh.
18. Nhiều tác giả (1985), Thơ Việt Nam 1945 - 1985, Nxb Giáo dục.
19. Nguyễn Quang Sáng (1987), Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy, Nxb
Thanh Hóa.
20. Chu Văn Sơn (2003), Ba đỉnh cao mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Từ Sơn (1985), “Thơ Nguyễn Duy”, Báo Văn nghệ (30), tr.2.
22. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình Thi pháp học, Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh.
23. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục.
24. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chương - cảm và luận, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
25. Hoài Thanh (1972), Chuyện thơ, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội
26. Nguyễn Đức Thọ (2003), “Nguyễn Duy - Thi sĩ đồng quê”, Nhà văn
trong mắt nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.82- 90.
27. Vũ Duy Thông (1998), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 -
1975, Nxb Giáo dục
28. Lê Quang Trang, Đọc Ánh trăng, Báo Nhân dân, 26-3-1985.
29. Nguyễn Bùi Vợi (1986), “Ánh Trăng”, Báo Văn nghệ (16), tr.7.
30. Lê Trí Viễn (1997), Đến với thơ hay, Nxb Giáo dục.
31. Phạm Thu Yến (1998), “Ca dao vọng về trong thơ Nguyễn Duy”, Tạp chí
văn học, (7), tr.76-82.