Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk
lượt xem 57
download
Mục tiêu của khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk là nhằm đánh giá thưc trạng giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk; xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giảm nghèo tại thị trấn; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảm nghèo tại thị trấn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk” tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến: Toàn thể các thầy, cô giáo Trường Đại học Tây Nguyên nói chung, thầy cô giáo Khoa Kinh tế nói riêng đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức cơ sở lý luận rất quý giá giúp cho tôi nâng cao được nhận thức trong quá trình thực tập cũng như quá trình nghiên cứu. Đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn Cn. Nguyễn Đức Quyền đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, dìu dắt tôi trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành đề tài này. Tôi xin cảm ơn các bác, cô, chú, anh, chị ở UBND thị trấn Ea Súp và bà con trong thị trấn đã tận tình giúp đỡ tôi trong việc thu thập số liệu và áp dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn. Đắk Lắk, tháng 06 năm 2016 Sinh viên Lê Công Kiệm 1
- MỤC LỤC 2
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VIẾT TẮT NGUYÊN NGHĨA ANQP An ninh quốc phòng BHYT Bảo hiểm y tế BQ Bình quân CNH Công nghiệp hóa DTTS Dân tộc thiểu số ĐV Đơn vị tính ĐVT Đơn vị tính GDVH Gia đình văn hóa HĐH Hiện đại hóa HĐND Hội đồng nhân dân KHHGĐ Kế hoách hóa gia đình KHKT Khoa học kỹ thuật NHTG Ngân hàng thế giới NNNT Nông nghiệp nông thôn NTM Nông thôn mới PTNN Phát triển nông thôn PTSX Phương tiện sản xuất QCHQS Ban chỉ huy quân sự TB&XH Thương và binh xã hội TCTK Tổng cục thống kê UBND Ủy ban nhân dân XĐGN Xóa đói giảm nghèo 3
- DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
- PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Trong 30 năm qua, từ năm 1986 Việt Nam là một trong những nước thành công về quá trình phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới với thu nhập bình quân đầu người dưới 100 đô la Mỹ đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp, với thu nhập đầu người 1.200 đô la Mỹ như hiện nay. Để giảm tỷ lệ nghèo xuống mức thấp nhất, không còn tình trạng tái nghèo của người dân thì công tác giảm nghèo luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của nước ta, bởi vì giàu mạnh gắn liền với sự hưng thịnh của một quốc gia. Xóa đói giảm nghèo luôn là một trong những mục tiêu trọng tâm trong mối quan tâm của đảng, nhà nước, nhân dân việt nam đặc biệt là xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi nông thôn. Trong thực tế, hoạt động giảm nghèo đã đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng còn không ít khó khăn, thách thức cần vượt qua để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc mà việt nam đã cam kết. Thị trấn Ea Súp có Tổng diện tích tự nhiên 1.365 ha. Tổng số nhân khẩu trên địa bàn thị trấn: 12.492 khẩu với 2.833 hộ, dân tộc thiểu số: 668 hộ/3.338 kh ẩu, chi ếm 28,55% s ố dân trong toàn thị trấn gồm các dân tộc: Tày, Nùng, Ê Đê, Mườ ng, Chăm,… đượ c phân bố trên 5 tổ dân phố, 10 thôn, 5 buôn. Người dân ở đây sống chủ yếu là nhờ sản xuất nông nghiệp, cây trồng chủ yếu là cây lúa, ngô, …và các loại cây lương thực, hoa màu. Các ngành nghề thương mại và dịch vụ chiếm tỷ lệ không đáng kể làm cho đời sống ngườ i dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao (UBND thị trấn Ea Súp). Trong những năm qua thị trấn đã thực hiện nhiều chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo như: vay vốn NH chính sách xã hội cho người nghèo, các chương trình khuyến nông, hỗ trợ nhà ở cho người nghèo,…Đã đạt được nhiều kết quả lớn, số hộ nghèo đã giảm qua các năm, tỷ lệ hộ 5
- nghèo bình quân mỗi năm giảm 8% tính đến 2015 toàn thị trấn còn 194 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ là 11,96%. Số hộ nghèo đã giảm từ 256 hộ vào năm 2013 xuống còn 194 hộ vào năm 2015; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 24,2% vào năm 2013 xuống còn 11,96% vào năm 2015 (UBND thị trấn Ea Súp). Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như một bộ phận người nghèo chưa tiếp cận được với dịch vụ y tế, nhất là đối với những truờng hợp đi làm ăn xa và già yếu không tự đi lại được; tỷ lệ đối tượng cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế chưa cao; mức cho vay còn thấp đã hạn chế phần nào về quy mô sản xuất của hộ nghèo; công tác tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận thức về công tác giảm nghèo ở một số địa phương còn hạn chế, chưa được thường xuyên; một bộ phận hộ nghèo và cận nghèo còn mang tính ỷ lại, không tự lực vươn lên để thoát nghèo… Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk” 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Đánh giá thưc trạng giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk. 6
- PHẦN HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Nghèo đói Thực tế, thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái niệm đói nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo bốn khía cạnh là thời gian, không gian, giới và môi trường (Trần thị Hằng). Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống dưới mức "chuẩn" trong một thời gian dài, cũng có một số người nghèo khổ tình thế như những người thất nghiệp, những người mới nghèo do suy thoái kinh tế hoặc thiên tai địch họa, tệ nạn thị trấn hội, rủi ro… Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, nơi có phần lớn dân số sinh sống. Tuy nhiên, tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết ở các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng. Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới, nhiều hộ gia đình nghèo nhất do nữ giới là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ thì người phụ nữ vẫn khổ hơn nam giới. Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói, nghèo đều sống ở những vùng khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và xuống cấp của môi trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm. Khi đánh giá nước giàu, nghèo trên thế giới, giới hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP). Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng chỉ căn cứ vào thu nhập thì chưa đủ căn cứ để đánh giá, vì vậy bên cạnh chỉ tiêu này tổ chức hội đồng phát triển Hải ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng cuộc sống (PQLI) để đánh giá, bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản sau: Tuổi thọ Tỷ lệ xoá mù chữ Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. 7
- Quan điểm về nghèo hay nhận dạng nghèo của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo vẫn là mức thu nhập hay mức chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con ng ười về ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp thị trấn hội. Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng trên mọi phương diện (Trần thị Hằng). + Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế thị trấn hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đưa ra: + Nghèo tuyệt đối: là việc không thỏa mãn nhu cầu tối thiểu để nhằm duy trì cuộc sống của con người. + Nghèo tương đối: là tình trạng không đạt tới mức sống tối thiểu tại mộ thời điểm nào đó. 2.1.1.2. Hộ nghèo Khái niệm về hộ nghèo: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thỏa mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc s ống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phươ ng diện (Trần thị Hằng). Khái niệm về thị trấn nghèo và vùng nghèo: Thị trấn nghèo là thị trấn có đặc trưng như sau: + Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 40% số hộ của thị trấn. 8
- + Không có hoặc thiếu rất nhiều những công trình cơ sở hạ tầng như: Điện sinh hoạt, đường giao thông, trường học, trạm y tế và nước sinh hoạt. + Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ người mù chữ cao. Khái niệm vùng nghèo: là chỉ địa bàn tương đối rộng có thể là một số thị trấn liền kề nhau hoặc một vùng dân cư nằm ở vị trí rất khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận lợi (Trần thị Hằng). 2.1.1.3. Hộ tái nghèo, hộ thoát nghèo Hộ thoát nghèo là hộ nghèo trong năm trước năm báo cáo nhưng không còn là hộ nghèo trong năm báo cáo theo chuẩn nghèo cho một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm) trong đó có năm báo cáo. Hộ tái nghèo là hộ đã thoát nghèo nhưng trong năm báo cáo lại rơi vào hộ nghèo theo chuẩn nghèo cho một thời kỳ nhất định (thường là một năm), trong đó có năm báo cáo. 2.1.1.4. Chính sách giảm nghèo Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó củ chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế văn hóa thị trấn hội môi trường. Chính sách giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế thị trấn hội nhằm giải quyết vấn đề nghèo, thực hiện mục tiêu xoá giảm nghèo, từ đó xây dựng một thị trấn hội giàu đẹp (Trần thị Hằng). 2.1.2.Các quan điểm đánh giá nghèo Sẽ không có chuẩn nghèo nào chung cho tất cả các nước, vì nó phục thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội của từng vùng từng quốc gia. 9
- Phương pháp thông dụng để đánh giá mức độ nghèo là xác định mức thu nhập có thể đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của con người, sau đó xác định xem ở trong nước hay vùng có bao nhiêu người có mức thu nhập ở mức đó. Tuy nhiên phương pháp lượng hóa nhu cầu tối thiểu ở mỗi nước để biểu hiện đường ranh giới đói nghèo cũng khác nhau. Trên thế giới, các nước thường đưa ra những chỉ số thu nhập khác nhau của mình. Tuy nhiên thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ là một trong những căn cứ để đo mức độ phát triển chung của một số nước so với các nước khác. Chỉ số thu nhập có tính chất tương đối và có hạn chế nhất định, không phải chỉ số trung bình cao về thu nhập quốc dân (GDP) là hết đói nghèo. Thực tế trên thế giới không thiếu gì những quốc gia tư bản chủ nghĩa có trình độ phát triển cao, phải có thu nhập bình quân đầu người rất cao song cũng chính ở đó đang diễn ra cảnh đói nghèo và mất công bằng xã hội gay gắt. Cho đến nay, tiêu chuẩn thu nhập quốc dân bình quân đầu người đang được sử dụng ngày càng phổ biến để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. XĐGN là tìm con đường phát triển tốt nhất, là làm tăng lên không ngừng mức sống và chất lượng cuộc sống của dân cư theo mục tiêu công bằng xã hội. Để phân tích nước nghèo, nước giàu của quốc gia bằng mức thu nhập bình quân đầu người trên năm để đánh giá thực trạng giàu nghèo của các nước ở cấp độ sau: Nước cực giàu: Từ 20.000 25000 USD/người/năm. Nước khá giàu: Từ 10.000 20.000 USD/người/năm. Nước trung bình: Từ 2.500 10.000USD/người/năm. Nước cực nghèo: Từ 500USD/người/năm. Ở Việt Nam, Bộ Lao động thương binh và xã hội (LĐ TB&XH) là cơ quan thường trực thực hiện XĐGN. Cơ quan này đã đưa ra mức xác định khác nhau về nghèo đói tùy theo từng thời kỳ phát triển của đất nước. 10
- + Theo chuẩn nghèo, cận nghèo quy định tại Quyết định số 09/2011/QĐTTg ngày 30 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng chính phủ ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015: Bảng 2.1 : Tiêu chí phân loại hộ Thành thị Nông thôn Mức chuẩn nghèo
- vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương theo thời điểm nhất định. Ở thị trấn Ea Súp nói riêng và tỉnh Đắk Lắk nói chung đều lấy chuẩn nghèo theo quy định chung của bộ LĐ TB&XH đã quy định. 2.1.3. Nguyên nhân đói nghèo Theo đánh giá của Liên hợp quốc về nguyên nhân nghèo ở Việt Nam (Documents). Đặc trưng của hộ nghèo: + Sử dụng 70% thu nhập chi phí cho ăn uống. + Thu nhập bình quân
- chất và khoa học kỹ thuật hoặc có đầu tư nhưng mang tính được đến đâu hay đến đó, không có đánh giá tổng kết hiệu quả đầu tư nên dẫn đến một bộ phận nhân dân có thái độ trông chờ, ỷ lại, dẫn đến tình trạng nghèo càng nhiều hơn. Ngoài ra còn do chính sách đầu tư giữa các vùng – miền không đúng mức đã dẫn đến sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi, giữa dân tộc này với dân tộc khác. Nhìn chung, các nguyên nhân nghèo không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà chúng đan xen lẫn nhau. Vì vậy, nghèo phải được nhìn nhận theo quan điểm hệ thống. Trợ giúp cho đối tượng nghèo chỉ là giải pháp trước mắt, tạm thời. Muốn giảm nghèo bền vững cần phải có giải pháp đúng đắn. Nhóm 3. Các nguyên nhân kết hợp Do các hộ nghèo thường là đông con, thiếu việc làm, thiếu ruộng đất, thu nhập thấp, họ muốn đi làm thuê nhưng lại có những băn khoăn: Sợ không có người thuê, sợ không có bảo hiểm, sợ mang tiếng phải đi làm thuê, sợ không được trả công thoả đáng.... Hoặc là do trình độ hiểu biết thấp nên không biết làm ăn, sản xuất không có hiệu quả nhưng lại không thể tham gia các hoạt động giáo dục đào tạo của cộng đồng để nâng cao trình độ mà luôn mặc cảm, tự ty,.... Điều này khiến cho người nghèo không thể thoát nghèo được, nó thể hiện như một cái vòng luẩn quẩn mà người ta còn gọi là “Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói”. Nhóm 4. Do thị trường không ổn định Do thị trường không ổn định giá cả các mặt hàng nông sản tăng giá trượt giá và trượt giá liên tục đầu vào, sản phẩm nông nghiệp chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, bấp bênh và thường không có sức cạnh tranh trên thị trường dẫn đến họ nhiều thiệt thòi. Nhóm 5. Những tình huống đột xuất Đa số dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa bị cô lập về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội nên dẫn đến nghèo với họ và khó có thể giảm nghèo. 13
- Do bệnh thành tích, một số địa phương đã khống chế tỷ lệ nghèo thấp hơn so với thực tế dẫn đến trong thực tế vẫn còn một bộ phận người nghèo chưa được tiếp cận được các chính sách, dự án dành cho người nghèo, điều này gây ra những nhận thức sai lệch về chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước. 2.1.4. Một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác giảm nghèo Một là, xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Tính lâu dài của xóa đói giảm nghèo là do: Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là nội dung và nhiệm vụ cần thực hiện để bảo đảm công bằng xã hội. thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy sinh đói nghèo không phải do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế, địa lý mà do hoàn cảnh và đặc điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình. Những trường hợp này luôn có khả năng xuất hiện và việc xóa đói giảm nghèo mang tính thường trực. Thứ hai, chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là một định hướng chiến lược. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn có xu hướng phân hóa hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên, liên tục và lâu dài thì nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo cũng là vấn đè liên tục và lâu dài mới giải quyết được. Thứ ba, dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện mục tiêu này là một quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ. Xóa đói giảm nghèo vừa có tính cơ bản và cần thực hiện liên tục, lâu dài, lại là một công việc cần làm trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế xã hội là một bước cải thiện đời sống của nhân dân, bởi vì đây không chỉ là 14
- việc thực hiện truyền thống, đạo lý của dân tộc “thương người như thể thương thân” mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Hai là, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện xóa đói giảm nghèo nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối. Có người cho rằng, muốn xóa đói giảm nghèo trước hết phải đầu tư phát triển sản xuất để tăng trưởng kinh tế. Chỉ đến khi kinh tế đã phát triển đến giai đoạn nhất định sẽ hết đói nghèo, vì thế không nên đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu. Thực ra tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đến việc giả quyết vấn đề nghèo đói, bởi vì nguyên nhân chính yếu của đói nghèo nói chung là kinh tế chưa phát triển. Tuy nhiên, đói nghèo lại do nhiều nguyên nhân khác mang tính đặc thù, trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay chúng ta chấp nhận kinh tế nhiều thành phần cùng vận động, phát triển cũng là phải chấp nhận tình trạng giàu nghèo tương đối. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo không những là công việc cần thiết mà là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng. Chúng ta xác định sự phân hóa giàu nghèo không thể tránh khỏi, nên cũng quyết tâm không để xảy ra tình trạng làm giàu vô tội vạ trên lưng người khác, cũng như tình trạng “ kẻ ăn không hết, người lần không ra”, không để người nghèo bị bỏ rơi trước con mắt của công đồng. Ba là, xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội không có nghĩa là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không mang tính chất cào bằng. Kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu trước đây đã cho thấy, nếu đặt công bằng xã hội lên trên hết và tách rời với phát triển kinh tế thì trước hết dẫn tới sự triệt tiêu các động lực phát triển. Tuy nhiên, nếu đặt hiệu quả kinh tế là mục tiêu duy nhất thì sẽ làm tăng tình trạng phân hóa hai cực, làm tăng sự khốn đốn với không ít quần chúng nhân dân. Bởi vậy trong khi thực hiện bài toán phát triển đất nước, làm sao phải 15
- tạo mọi điều kiện và tăng nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo thành công việc thường xuyên, liên tục. Bốn là, xóa đói giảm nghèo là công việc của toàn xã hội. Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không dừng lại ở việc thực hiện chính sách xã hôi, không phải việc của riêng ngành lao động xã hội hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, mà là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả mọi cán bộ Đảng, chính quyền phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự tham gia của toàn thể cộng đồng. 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Hoạt động xóa đói giảm nghèo trên thế giới Đói nghèo là vấn đề đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới, nó trở thành vấn nạn trên toàn cầu. Trong lịch sử có nhiều nạn đói chết hàng triệu người dân châu Á, châu Phi. Thực trạng đói nghèo trên thế giới đang diễn ra theo chiều hướng rất đáng báo động. Theo một nghiên cứu của WB, nguy cơ đối với người nghèo đang gia tăng trên quy mô toàn cầu và tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm trong năm 2009 đã đẩy thêm 53 triệu người nữa rơi vào tình trạng nghèo đói, thêm vào con số 130 155 triệu người năm 2008, khi giá nhiên liệu và thực phẩm tăng cao. Ngày 15/5/2012, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra nghiên cứu năm 2012 về thị trường lao động, nhấm mạnh từ những năm qua, tình trạng nghèo khổ gia tăng không còn là vấn đề đáng lo ngại ở các nước phát triển. Từ khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng nổ, tỷ lệ nghèo khổ đã giảm mạnh ở 75% các nước đang phát triển, nhưng lại đang tăng lên ở 25 nước trong 36 nước phát triển. Đói nghèo đã trở thành thách thức lớn, đe dọa đến sự sống còn, ổn 16
- định và phát triển của thế giới và nhân loại. Sở dĩ như vậy bởi vì thế giới là một chỉnh thể thống nhất, và mỗi quốc gia là một chủ thể trong chính thể thống nhất.Toàn cầu hóa đã trở thành cầu nối liên kết giữa các quốc gia lại với nhau, các quốc gia có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, sự ổn định và phát triển của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác. Nghèo đói đe dọa đến sự sống của loài người bởi. “Nghèo đói đã trở thành một vấn đề toàn cầu có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng, nó là nhân tố có khả năng gây bùng nổ những bất ổn chính trị, xã hội và nếu trầm trọng hơn có thể dẫn tới bạo động và chiến tranh không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà là cả thế giới. Bởi những bất công và nghèo đói thực sự đã trở thành những mâu thuẫn gay gắt trong quan hệ quốc tế, và nếu những mâu thuẫn này không được giải quyết một cách thỏa đáng bằng con đường hòa bình thì tất yếu sẽ xảy ra chiến tranh. 2.2.2. Kinh nghiệm giảm nghèo của một số nước trên thế giới 2.2.2.1. Giải quyết đói nghèo ở Hàn Quốc Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Chính phủ Hàn Quốc không chú ý đến việc phát triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát triển ở các vùng đô thị, xây dựng vực nông thôn, cuộc sống nghèo đói, tuyệt đại đa số là tá điền, ruộng đất tập các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, thế nhưng 60% dân số Hàn Quốc sống ở khu trung vào sở hữu của giai cấp địa chủ, nhân dân sống trong cảnh nghèo đói tột cùng. Từ đó gây ra làn sóng di dân tự do từ nông thôn vào thành thị để kiếm việc làm, Chính phủ không thể kiểm soát nổi, gây nên tình trạng mất ổn định chính trị xã hội. Để ổn định tình hình chính trị xã hội, Chính phủ Hàn Quốc buộc phải xem xét lại các chính sách kinh tế xã hội của mình, cuối cùng đã phải chú ý đến việc điều chỉnh các chính sách về phát triển kinh tế xã hội ở khu vực 17
- nông thôn và một chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn được ra đời gồm 4 nội dung cơ bản: Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn bằng cách tăng số tiền cho hộ nông dân vay. Nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao. Thay giống lúa mới có năng suất cao. Khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc thành lập các hợp tác xã sản xuất và các đội ngũ lao động để sửa chữa đường xá, cầu cống và nâng cấp nhà ở. Với những nội dung này, Chính phủ Hàn Quốc đã phần nào giúp nhân dân có việc làm, ổn định cuộc sống, giảm bớt tình trạng di dân ra các thành phố lớn để kiếm việc làm. Chính sách này đã được thể hiện thông qua kế hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu nông thôn nhằm cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, từng bước đưa nền kinh tế phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn. Tóm lại: Hàn Quốc đã trở thành 1 nước công nghiệp phát triển nhưng Chính phủ vẫn coi trọng những chính sách có liên quan đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn, có như vậy mới xoá đói giảm nghèo cho nhân dân tạo thế ổn định và bền vững cho nền kinh tế (Documents). 2.2.2.2. Giải quyết đói nghèo ở Đài Loan Đài Loan là một trong những nước công nghiệp mới (NIES), nhưng là 1 nước thành công nhất về mô hình kết hợp chặt trẽ giữa phát triển công nghiệp với phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn đó là Chính phủ Đài Loan đã áp dụng thành công một số chính sách về phát triển kinh tế xã hội như: 18
- Đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện hình thành các trang trại gia đình với quy mô nhỏ, chủ yếu đi vào sản xuất nông phẩm theo hướng sản xuất hàng hoá. Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, mở mang thêm những nghành sản xuất kinh doanh ngoài nông nghiệp cũng được phát triển nhanh chóng, số trang trại vừa sản xuất nông nghiệp, vừa kinh doanh ngoài nông nghiệp chiếm 91% số trang trại sản xuất thuần nông chiếm 90%. Việc tăng sản lượng và tăng năng suất lao động trong nông nghiệp đến lượt nó lại tạo điều kiện cho các nghành công nghiệp phát triển. Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển nông thôn. Đài Loan rất coi trọng phát triển mạng lưới giao thông nông thôn cả về đường bộ, đường sắt và đường thuỷ. Trong nhiều thập kỷ qua, Đài Loan coi trọng việc phát triển giao thông nông thôn đều khắp các miền, các vùng sâu vùng xa, công cuộc điện khí hoá nông thôn góp phần cải thiện điều kiện sản xuất, điều kiện sinh hoạt ở nông thôn. Chính quyền Đài Loan cho xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp ngay ở vùng nông thôn để thu hút những lao đông nhàn rỗi của khu vực nông nghiệp, tăng thu nhập cho những người nông dân nghèo, góp phần cho họ ổn định cuộc sống. Đài Loan áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc đối với những người trong độ tuổi, do đó trình độ học vấn của nhân dân nông thôn được nâng lên đáng kể, cùng với trình độ dân trí được nâng lên và điều kiện sống được cải thiện, Tỷ lệ tăng dân số đã giảm từ 3,2%/năm (1950) xuống còn 1,5%/năm (1985). Hệ thống y tế , chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân cũng được quan tâm đầu tư thích đáng. Ngoài Hàn Quốc, Đài Loan còn 1 số nước ASEAN cũng có những chương trình phát triển kinh tế xã hội bằng con đường kết hợp giữa những ngành công nghiệp mũi nhọn với việc phát triển kinh tế nông thôn 19
- với mục đích xoá đói giảm nghèo trong dân chúng nông thôn. Điều đặc trưng quan trọng của các nước ASEAN là ở chỗ những nước này đều có nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, bước vào công nghiệp hoá có nghĩa là vào lúc khởi đầu của quá trình công nghiệp hoá. Tất cả các nước ASEAN (trừ Singapore) đều phải dựa vào sản xuất nông nghiệp, lấy phát triển nông nghiệp là một trong những nguồn vốn cho phát triển công nghiệp, điển hình là những nước như Thái Lan, Indonesia, Philippines và Malaysia. Tất cả những nước này phần lớn dân cư sống ở khu vực nông thôn, đời sống kinh tế nghèo nàn lạc hậu, thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy mà Chính phủ các nước này trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế xã hội họ đều rất chú trọng đến các chính sách nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn , giành cho nông nghiệp nông thôn những ưu tiên cần thiết về vốn đầu tư để tiến hành cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp. Tuy nhiên khi bước vào giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hoá, tất cả các nước ASEAN đều nhận thấy rằng không thể đi lên chỉ bằng con đường nông nghiệp mà phải đầu tư cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Chính vì lẽ đó mà các chính sách về phát triển nông nghiệp nông thôn cũng như các chương trình phát triển khác như chương trình xoá đói giảm nghèo không được chú trọng như ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy khoảng cách về thu nhập của những người giàu với những người nghèo là rất lớn. Sự phân tầng xã hội là rõ rệt gây mất ổn định về tình hình chính trị xã hội, từ đó làm mất ổn định trong phát triển kinh tế . Sự phồn vinh của Bangkok, Manila được xây dựng trên nghèo khổ của các vùng nông thôn như ở vùng Đông bắc Thái Lan, ở miền trung đảo Ludon. Cho đến nay sự bất bình đẳng về thu nhập ở Thái Lan vẫn tiếp tục gia tăng, các thành phố lớn, các khu cônh nghiệp vẫn có tỷ lệ tăng trưởng cao, năm 1981 Bangkok đóng góp 42% GDP, đến năm 1989 lên tới 48% cho GDP trong khi đó phần đóng góp cho GDP ở các vùng khác lại giảm xuống 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp khắc phục tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của ngân hàng Việt Nam
111 p | 505 | 111
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội - Nguyễn Văn Chiến
76 p | 486 | 107
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng marketing trong các công ty giao nhận vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam
78 p | 350 | 77
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng ứng dụng nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ nhằm phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
103 p | 239 | 63
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng công tác giảm nghèo huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh năm 2013
103 p | 295 | 57
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Ấn Độ
114 p | 219 | 42
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác kế toán doanh thu và xác định kết quả kinh doanh tại Công ty TNHH MTV Trường Phúc
92 p | 169 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và hướng phát triển của các cơ sở ươm tại doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam 2001-2010
103 p | 104 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động quản trị nguồn nhân lực tại Khách sạn Mường Thanh Luxury Quảng Ninh
82 p | 19 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ của bộ phận buồng phòng tại Flamingo Cát Bà Resort
99 p | 17 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín
82 p | 9 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp cho quản trị nguồn nhân lực tại Công ty CP Thương mại Dịch vụ Cổng Vàng
72 p | 14 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp mở rộng thị trường tại Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Ngọc Thảo Nguyên
69 p | 16 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng quản trị nhân lực tại khách sạn Nhật Hạ 3 (Nhat Ha L’Opera hotel)
76 p | 16 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp khai thác văn hóa ẩm thực Hải Phòng phục vụ hoạt động du lịch
104 p | 17 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ của nhà hàng Sao Mai - Hải Đăng Plaza
85 p | 18 | 4
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ tại khách sạn Đức Vượng – thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 12 | 4
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ của nhà hàng Sun – Flamingo Cát Bà Resort
98 p | 18 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn