ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
GIÀNG A ĐẠI
Tên đề tài:
TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC MÔNG TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ HUỔI MỘT,
HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : Kinh tế & PTNT
Hướng : Nghiên cứu
Khóa học : 2015 - 2019
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Vũ Thị Hải Anh
THÁI NGUYÊN – 2019
i
LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế và
Phát triển nông thôn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sau khi hoàn thành
khóa học ở trường tôi đã tiến hành thực tập tốt nghiệp tại UBND xã Huổi Một, huyện
Sông Mã, tỉnh Sơn La với đề tài: “Tìm hiểu vai trò của phụ nữ dân tộc Mông trong
phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La”.
Khóa luận được hình thành nhờ sự quan tâm giúp đỡ của thầy cô, cá nhân, cơ
quan và nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nơi đào tạo,
giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.SVũ Thị Hải Anh, giảng viên khoa Kinh
tế và PTNT, ngừời đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình tôi trong quá trình thực
hiện đề tài. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa đã tạo
mọi điều kiện giúp đỡ tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của UBND xã Huổi Một, các ban ngành
cùng nhân dân trong xã đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề
tài.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019
Sinh viên
Giàng A Đại
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Sự khác nhau về đặc trưng cơ bản giữa giới và giới tính ............................. 6
Bảng 3.1. Kết quả chọn mẫu theo số liệu điều tra năm 2019 ..................................... 27
Bảng 3.2. Thông tin cần thu thập và nguồn cung cấp thông tin ................................. 28
Bảng 4.1: Tình hình phân bố và sử dụng đất xã Huổi Một giai đoạn 2016 - 2018 .... 34
Bảng 4.2: Diện tích, năng xuất, sản lượng cây trồng chính của xã Huổi Một
năm 2016-2018 ........................................................................................................... 36
Bảng 4.3. Số lượng gia súc, gia cầm của xã Huổi Một giai đoạn 2016 – 2018 .......... 38
Bảng 4.4. Tình hình dân số và lao động giai đoạn 2016 -2018 ................................. 39
Bảng 4.5. Cơ cấu dân số phân theo dân tộc và giới tính ............................................. 40
của xã Huổi Một tính đến tháng 5 năm 2019 .............................................................. 40
Bảng 4.6. Phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp đảng ủy, chính quyền ................................. 41
và đoàn thể 2019 ......................................................................................................... 41
Bảng 4.7. Trình độ của cán bộ nữ tham gia hội đoàn thể nhiệm kỳ 2016 – 2018 ...... 42
Bảng 4.8. Thông tin chung về các nhóm hộ điều tra .................................................. 47
Bảng 4.9. Thông tin về phụ nữ ở các hộ điều tra ........................................................ 49
Bảng 4.10. Phân công lao động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp tính đến tháng
5 năm 2019 .................................................................................................................. 51
Bảng 4.11. Phân công lao động trong hoạt động buôn bán, dịch vụ .......................... 53
của các hộ điều tra ....................................................................................................... 53
Bảng 4.13. Tình hình quản lý vốn vay của hộ điều tra ............................................... 55
Bảng 4.14. Phân công lao động trong hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái ........... 57
iii
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
: Đơn vị tính ĐVT
: Kế hoạch hóa gia đình KHHGĐ
: Khoa học kỹ thuật KHKT
: Trung học cơ sở THCS
: Uỷ ban nhân dân UBND
: Cơ cấu CC
CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
: Kế hoạch KH
: Công nhân viên chức CNVC
: Thể dục, thể thao TDTT
: Thông tin ,Thị trấn TT
: Dân tộc thiểu số DTTS
NQ/TW : Nghị quyết/Trung ương
: Dân tộc Mông DTM
: Dân tộc DT
: Dân tộc thiểu số DTTS
: Thu nhập bình quân GDP
: Đơn vị tính ĐVT
GAD : Gender and development : Giới và phát triển
WAD : Women and development : Phụ nữ và phát triển
WID : Women in development : Phụ nữ trong phát triển
BQ : Bình quân
KHKT : Khoa học kỹ thuật
TT : Thị trường
KHHGĐ : Kế hoạch hóa gia đình
TC - CĐ – ĐH : Trung cấp - Cao đẳng - Đại học
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................i
DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................................................... ii
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT ........................................................................... iii
MỤC LỤC ...................................................................................................................iv
Phần 1 MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết thực hiện nội dung thực tập ............................................................ 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài..................................................................................... 2
1.2.1. Mục tiêu chung .................................................................................................. 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể .....................................................................................................................2
1.3. Ý nghĩa của đề tài .................................................................................................. 3
1.3.1. Ý nghĩa khoa học .................................................................................................................3
1.3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn ....................................................................................................3
Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................................. 4
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài .......................................................................................... 4
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản ....................................................................................................4
2.1.2. Khái niệm về hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình ...................................................... 10
2.1.3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về
giải phóng phụ nữ: ...................................................................................................... 11
2.1.4. Quan điểm về nâng cao vai trò của phụ nữ: ............................................................... 12
2.2.Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................... 13
2.2.1. Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ ở một số nước trên thế giới ...... 13
2.2.2. Vai trò của phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam .... 14
2.2.3. Kinh nghiệm trong phát huy vai trò của phụ nữ dân tộc Mông ở Việt Nam .... 19
2.2.4. Những chính sách trong phát triển phụ nữ dân tộc ở Việt Nam ........................... 20
2.2.5. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc Mông ............................................. 21
Phần 3.ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 26
3.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................... 26
3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 26
3.3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................................ 26
v
3.4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 26
3.4.1. Phương pháp điều tra chọn mẫu .................................................................................... 26
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu ......................................................................................... 28
3.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu ............................................................ 29
Phần 4.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .............................................. 30
4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu............................................................................... 30
4.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................................. 30
4.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội xã Huổi Một ....................................................................... 35
4.2. Thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh tế hộ gia đình
xã Huổi Một ................................................................................................................ 46
4.2.1. Thông tin chung về các hộ điều tra .............................................................................. 46
4.2.2. Phụ nữ dân tộc Mông trong các hoạt động sản xuất ................................................ 50
Bảng 4.12. Nguồn vay vốn của các hộ điều tra .......................................................... 53
4.2.3. Phụ nữ dân tộc Mông đối với vai trò tái sản xuất ............................................. 56
4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh
tế hộ gia đình ............................................................................................................... 58
4.3.1. Những yếu tố khách quan ............................................................................................... 58
4.3.2. Những yếu tố thuộc về bản thân phụ nữ ..................................................................... 61
4.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc Mông trong
phát triển kinh tế hộ gia đình ...................................................................................... 63
4.4.2. . Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh
tế hộ gia đình tại xã Huổi Một ................................................................................................... 63
Phần 5.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................ 69
5.1. Kết luận ................................................................................................................ 69
5.2. Kiến nghị .............................................................................................................. 70
5.2.1. Đối với Đảng và Nhà nước ............................................................................................. 70
5.2.2. Đối với các cấp chính quyền và đoàn thể địa phương ............................................ 71
5.2.3.Đối với bản thân người phụ nữ dân tộc Mông ........................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 72
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết thực hiện nội dung thực tập
Phụ nữ có vai trò quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động
trong xã hội. Bằng lao động sáng tạo của mình, họ đã và đang đóng góp phần làm
giàu cho xã hội hội, làm phong phú cuộc sống con người. Phụ nữ luôn thể hiện vai
trò của mình trên các lĩnh vực đời sống xã hội, cụ thể về lĩnh vực hoạt động vật chất,
phụ nữ là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải để nuôi sống con người. Không chỉ
sản xuất ra của cải vật chất, phụ nữ còn tái sản xuất ra con người để duy trì và phát
triển xã hội. Phụ nữ cũng không ngừng làm phong phú nền văn hóa văn hóa nhân
loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nơi nào, dân tộc nào cũng có sự tham gia bằng
nhiều hình thức của đông đảo phụ nữ.
Ở Việt Nam phụ nữa chiếm 50% dân số cả nước, họ tham gia vào tất cả các
lĩnh vực kinh tế chính trị(27,31%), văn hoá(74%), xã hội an ninh quốc phòng và càng
ngày càng thể hiện được vị trí vai trò của mình trong xã hội. Trong suốt chặng đường
dựng nước và giữ nước và xây dựng đất nước, lịch sử Việt Nam đã ghi nhận những
cống hiến to lớn của phụ nữ. Trong công cuộc đổi mới đất nước của Đảng, họ luôn
giữ và phát huy nêu cao tinh thần yêu nướcđoàn kết và lao động sáng tạo, khắc phục
mọi khó khăn để vươn lên trong học tập, lao động phấn đấu đạt được những thành
tích xuất sắc trên mọi lĩnh vực. Trong gia đình mỗi phụ nữ đều là con dâu, người vợ,
người mẹ, người thầy của các con, người thầy của gia đình.
Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội,
tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh, quốc phòng... Ở khu vực nông thôn, cùng với việc tích cực tham gia
vào quá trình phát kinh tế gia đình mỗi phụ nữ còn tham gia nhiều hoạt động xã hội,
ổn định an ninh quốc phòng địa phương làm thay đổi diện mạo khu vực nông thôn
Việt Nam.
Sông Mã là huyện vùng cao biên giới nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Sơn
Lacách trung tâm Thành phố khoảng 103km. Có 19 xã và thị trấn Sông Mã: Mường
2
Sai, Chiềng Cang, Chiềng Khoong, Chiềng Sơ, Nậm Mằn, Chiềng En, Mường Lầm,
Bó Sinh, Chiềng Phung, Chiềng Khương, Mường Hung, Nà Nghịu, Huổi Một, Yên
Hưng, Đứa Mòn, Pú Bẩu, Mường Cai, Nậm Ty và thị trấn Sông Mã.
Huổi Một là xã khu vực III, vùng đặc biệt khó khăn của huyện nằm ở phía Tây
huyện Sông Mã, với 4 dân tộc (DT) cùng sinh sống gồm: Thái, mông, Sinh Mun, Khơ
Mú,các dân tộc trong xã sốngxen kẽ, đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, thực
hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, nhưng trình độ
dân trí còn khá thấp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.
Quá trình phát triển kinh tế ở vùng nông thôn nói riêng và nền kinh tế đất nước
nói chung nhiều câu hỏi được đặt ra rằng: Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế
nông thôn hiện nay như thế nào? Thực trạng vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh
tế nông thôn hiện nay ra sao? Giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong qua trình
phát triển và nâng cao năng lực cho phụ nữ? Vì vậy, nghiên cứu về vai trò của phụ
nữ nông thôn xã Huổi Một trong việc phát triển kinh tế hộ (KTH) được đặt ra như
một yêu cầu cấp bách, từ đó đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy
hơn nữa vai trò của lực lượng này, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh
tế địa phương và nâng cao vị thế của phụ nữ tại địa phương: “Tìm hiểu vai trò của
phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Huổi Một, huyện
Sông Mã, tỉnh Sơn La.”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu được thực trạng vai trò của phụ nữ DT Mông trong phát triển KTH
nông nghiệp trên địa bànxã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Từ đó, đưa ra
những giải pháp nhằm phát huy vai trò của phụ nữ DT Mông trong các hoạt động
tăng thu nhập cải thiện đời sống gia đình, đồng thời, góp phần phát triển KTXH của
địa phương
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng vai trò của phụ nữ DT Mông trong phát triển KTH
ở xã Huổi Một huyện Sông Mã tỉnh Sơn La.
- Phân tích được các yếu tố ảnh hường đến vai trò của phụ nữ DT Mông trong
3
phát triển KTH tại xã Huổi Một huyện Sông Mã tỉnh Sơn La.
- Đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ DT Mông
trong phát triển KTH gia đình tại xã Huổi Một huyện Sông Mã tỉnh Sơn La.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Củng cố kiến thức đã học với thực tiễn trong quá trình đi thực tập tại cơ sở.
- Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập, xử lý thông tin kỹ năng nghề nghiệp.
- Là tài liệu tham khảo cho nhà trường, cho khoa và các sinh viên khóa tiếptheo.
1.3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nhìn nhận đúng hơn về vai trò của
người phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu
có thể góp phần là tài liệu tham khảo cho các cán bộ, ban ngành liên quan có thêm
những căn cứ để xây dựng các chương trình dự án nhằm thúc đẩy vai trò phụ nữ trong
sản xuất phát triển nông nghiệp, nông thôn.
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Khái niệm về phụ nữ, giới, giới tính
* Khái niệm phụ nữ
- Phụ nữ là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người hay toàn
bộ những người trong xã hội mà một cách tự nhiên, mang những đặc điểm giới tính
được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ thể họ hoàn thiện và
chức năng giới tính hoạt động bình thường.
- Phụ nữ, phân biệt với đàn ông/nam giới, là một trong hai giới tính truyền
thống, cơ bản và đặc trưng của loài người.
- Phụ nữ chỉ một, một nhóm hay tất cả các nữ giới đã trưởng thành, hoặc được
cho là đã trưởng thành về mặt xã hội. Nó cho thấy một cái nhìn ít nhất là trung lập,
hoặc thể hiện thiện cảm, sự trân trọng nhất định từ phía ngừời sử dụng. Nó đề cập
đến, hoặc hướng người ta đến những mặt tốt, hoặc ít nhất là không xấu, đến những
giá trị, những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực từ những nữ giới này [6].
- Phụ nữ xét về mặt sinh học thuộc giống cái (phân biệt đối lập với giống đực)
xét về mặt khoa học tự nhiên, nếu ở góc độ khoa học xã hội thì liên quan đến nam
giới và nữ giới [6].
*Khái niệm về giới
Khái niệm về “Giới” được xuất hiện ban đầu là ở các nước nói tiếng Anh, vào
khoảng những năm 60 của thế kỷ XX cho đến những thập kỷ 80 nó được xuất hiện
tại Việt Nam. Có nhiều khái niệm về giới, sau đây là khái niệm của một số tác giả
khác nhau:
Giới trước hết không phải là phụ nữ. Giới liên hệ đến vai trò của nam và nữ
do xã hội hoặc do một nền văn hóa xác lập nên. Giới có thể khác nhau giữa nơi này
với nơi khác, giữa nền văn hóa này so với nền văn hóa khác và có thể thay đổi theo
thời gian ( Feldstein H.S và Jinggins J. 1994)[6].
Giới không nói đến nam hay nữ mà chỉ mối quan hệ giữa họ. Giới không phải
5
là sự xác định sinh học - như kết quả của những đặc điểm về giới tính của nam hay
nữ, mà giới là do xã hội xác lập nên. Nó là một nguyên tắc tổ chức xã hội có thể kiểm
soát tiến trình sản xuất, tái sản xuất, tiêu thụ và phân phối (FAO,1997)[6].
Giới là sự khác biệt giữa nam và nữ về góc độ xã hội, các đặc điểm khác nhau
do xã hội quyết định, các mối quan hệ giữa nam và nữ do xã hội lập nên. Các vai trò
của giới được xác định bởi các đặc tính xã hội, văn hóa và kinh tế, được nhận thức
bởi các thành viên trong xã hội đó. Do đó, vai trò của giới có sự biến động và thay
đổi qua các thời gian và không gian (Trần Thị Quế,1999 và Nancy J. Hafkin,2002)[6].
- Nguồn gốc giới
Trong gia đình, từ khi sinh ra đứa trẻ đã được đối xử và dạy dỗ khác nhau tùy
theo nó là trai hay gái. Đó là sự khác biệt về trang phục, hành vi, cách ứng xử mà cha
mẹ, gia đình, nhà trường và xã hội trông chờ ở con trai và con gái. Đồng thời họ cũng
hướng dẫn, dạy dỗ trẻ trai và gái theo những quan điểm riêng và cụ thể. Đứa trẻ phải
học để trở thành con trai hay con gái và phải luôn điều chỉnh hành vì sao cho phù hợp
với khuôn mẫu cụ thể của mỗi giới đã được quy định. Sau khi đã hình thành các đặc
điểm như vậy, nhà trường và các tập quán xã hội lại tiếp tục củng cố các khuôn mẫu
cụ thể của mỗi giới (ví dụ: nam thì học thêm các môn kỹ thuật, xây dựng; nữ thì học
thêm các môn nữ công, may thêu...). Các thể chế xã hội như: chính sách, pháp
luật,...cũng có ý nghĩa làm tăng hoặc giảm sự khác biệt giữa hai giới (ví dụ: ưu tiên
nữ trong các nghề y tá, thư ký...,nam trong nghề lái xe, cảnh sát...).
* Khái niệm về giới tính
Giới tính là một thuật ngữ được các nhà khoa học xã hội và các nhà sinh học
dùng để chỉ một phạm trù sinh học, trong ý nghĩa đó nam và nữ khác nhau về mặt
sinh học, tạo nên hai giới tính: nam giới và nữ giới. Hay nói cách khác:
Giới tính là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ. Giới tính là
những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và không thể thay đổi được.
Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất con người và di
truyền nòi giống. Ví dụ như: sự khác nhau về hình dạng cơ thể bên ngoài (nam giới
cao to hơn, nặng hơn, giọng nói trầm hơn, ...), khác nhau về cấu tạo NST,
hormone,..khác nhau về chức năng sinh học, tạo nên vai trò của giới tính (phụ nữ
6
mang thai, sinh con và cho con bú; nam giới sản xuất ra tinh trùng để thụ thai ). Những
đặc trưng mang tính sinh học này có ngay từ khi con người được sinh ra, chúng ổn
định và hầu như không biến đổi ở cả nam và nữ.
* Phân biệt giữa giới và giới tính
Bảng 2.1. Sự khác nhau về đặc trưng cơ bản giữa giới và giới tính
Giới Giới tính
Giới mô tả chúng ta thể hiện nam tính và Giới tính mô tả chúng ta là nam hay
nữ tính nữ
Giới là:
- Được xây dựng bởi nên xã hội: nó là Giới tính:
những vai trò, trách nhiệm và hành vi mong - Sinh học: đó là những đặc tính thể
đợi ở nam và nữ trong một văn hóa hoặc xã chất đã có từ khi chúng ta sinh ra.
hội cụ thể. - Phổ biến: những đặc tính về tình
- Văn hóa: những yếu tố của giới khác dục giống nhau trên toàn thế giới, nam
nhau giữa các nền văn hóa và bên trong các giới có dương vật và phụ nữ có âm
nền văn hóa. đạo ở tất cả các nước.
- Những vai trò của giới là được học tập:
chúng phát triển và thay đổi theo thời gian - Bạn được sinh ra với giới tính của
bạn: điều này không thể thay đổi.
(Nguồn: Peter Chown, 2008) [6].
2.1.1.2 Đặc trưng, nguồn gốc, sự khác biệt về giới
Đặc trưng cơ bản về giới
- Do dạy và học mà có
- Đa dạng
- Luôn biến đổi
- Có thể thay đổi được
Phụ nữ được xem là phái yếu vì một mặt thể lực họ yếu hơn nam giới, họ sống
thiên về tình cảm. Vì vậy phân công lao động giữa hai giới cũng có sự khác biệt.
Người phụ nữ có thiên chức là làm vợ, làm mẹ, chăm sóc con cái và gia đình. Còn
7
nam giới được coi là phái mạnh, là trụ cột gia đình. Họ có thể lực tốt hơn phụ nữ,
cứng rắn, nhanh nhẹn hơn trong công việc. Đặc trưng này khiến nam giới ít bị ràng
buộc bởi con cái và gia đình, họ tập trung hơn vào công việc tạo ra của cải vật chất
và các công việc xã hội. Chính điều này đã làm tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa
phụ nữ và nam giới trong xã hội. Hơn nữa do các tác động của định kiến xã hội, hệ
tư tưởng, phong tục tập quán đối với mỗi giới khác nhau nên phụ nữ thường ít có cơ
hội tiếp cận cái mới, trong học tập và tìm kiếm việc làm. Mặt khác, phụ nữ thường bị
ràng buộc bởi gia đình và con cái do đó họ ít có cơ hội tham gia các công việc xã hội
và cơ hội thăng tiến trong công việc. Sự khác biệt về giới tạo nên khoảng cách giữa
hai giới trong xã hội [6].
* Vai trò của giới
- Vai trò sản xuất: là những hoạt động do phụ nữ và nam giới thực hiện để làm
ra của cải vật chất hoặc tinh thần đem lại thu nhập hoặc để tự tiêu dùng. Ví dụ: trồng
lúa, nuôi gà, dạy học,…
- Vai trò tái sản xuất ( còn gọi là công việc gia đình): như sinh con, nuôi dưỡng
trẻ nhỏ, làm công việc nội trợ, chăm sóc người già, người ốm.
- Vai trò cộng đồng:
+ Những hoạt động tự nguyện mang lại phúc lợi cho cộng đồng như: dọn
đường xá cho sạch sẽ, bảo vệ nguồn nước sạch, hoạt động từ thiện,…
+Hoạt động lãnh đạo ra quyết định như: tham gia cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, lãnh đạo đoàn thể,…[6].
* Lồng ghép giới trong các chương trình, dự án
Lồng ghép là tập hợp những ý tưởng, các giá trị, các cách làm, các thể chế và các tổ
chức nổi trội có mối quan hệ tương tác lẫn nhau để quyết định “ai được cái gì” trong
xã hội. Các ý tưởng và thực tế trong việc lồng ghép phản ánh và củng cố lẫn nhau,
qua đó đưa ra luận chứng cho bất kỳ sự phân bố các nguồn lực và cơ hội nào của xã hội
- Lồng ghép giới được hiểu là
Lồng ghép giới là một quá trình hay chiến lược hướng tới mục đích bình đẳng
giới. Đây là một quá trình diễn ra liên tục.
8
Nó là một phương pháp để quản trị nhằm làm cho các mối quan tâm và kinh nghiệm
của phụ nữ và nam giới trở thành một bộ phận không thể thiếu trong quá trình thiết
kế, thực hiện kiểm tra và đánh giá các chính sách và chương trình trong tất cả các lĩnh
vực của xã hội.
Lồng ghép giới liên quan đến việc thay đổi các chính sách và thể chế nhằm thúc đẩy
bình đẳng giới một cách tích cực hơn. Đó là một quá trình chuyển đổi lâu dài nhằm
xem xét lại các giá trị văn hóa – xã hội và các mục tiêu phát triển[6].
- Đối tượng để thực hiện lồng ghép giới
Dòng chảy chủ đạo là một tập hợp mang tính chi phối, bao gồm các ý tưởng,
giá trị, quan niệm, thái độ, mối quan hệ và cách thức tiến hành mọi việc trong xã hội.
Dòng chảy chủ dạo bao trùm các thể chế chính của xã hội (gia đình, nhà trường, chính
quyền, tổ chức xã hội…) quyết định ai được coi trọng và cách thức phân bổ nguồn
lực, quyết định ai được làm gì và ai nhận được gì trong xã hội, và cuối cùng quyết
định chất lượng cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội[6].
- Tại sao lồng ghép giới lại quan trọng?
Lồng ghép giới là một khía cạnh quan trọng trong quản trị hữu hiệu. Nó đảm
bảo rằng các thể chế, chính sách và chương trình đều đáp ứng các nhu cầu và mối
quan tâm của phụ nữ cũng như nam giới và phân bố các lợi ích một cách công bằng
giữa phụ nữ và nam giới. Lồng ghép giới sẽ góp phần vào sự tiến bộ xã hội, kinh tế,
văn hóa, mang lại sự công bằng hơn cho phụ nữ và nam giới, qua đó nâng cao trách
nhiệm nhiệm của chính quyền nhằm mang lại thành tựu cho mọi công dân[6].
* Nhu cầu, lợi ích và bình đẳng giới và phát triển giới
- Nhu cầu giới thực tế
Là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới cần được đáp ứng để thực hiện tốt
các vai trò được xã hội công nhận. Nhu cầu này nảy sinh trong đời sống hằng ngày,
là những thứ nhìn thấy được, thiết thực, cụ thể. Có liên quan đến trách nhiệm và
nhiệm vụ gắn với các vai trò truyền thống. Khác với nhu cầu giới chiến lược, nhu cầu
giới thực tế được chính người phụ nữ đưa ra từ vị trí của họ chứ không phải qua can
thiệp từ bên ngoài. Ví dụ: phụ nữ có nhiều nhu cầu giới gắn với vai trò nuôi dưỡng
của mình như củi, nước, thực phẩm, thuốc men...nếu những nhu cầu này được đáp
9
ứng thì họ sẽ làm tốt hơn vai trò của mình.
- Lợi ích giới (nhu cầu giới chiến lược)
Là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về địa vị
xã hội của họ. Những lợi ích này khi được đáp ứng sẽ thay đổi vị thế của phụ nữ và
nam giới theo hướng bình đẳng. Nhu cầu giới chiến lược được xác định để khắc phục
tình trạng thấp kém hơn của mỗi giới, chúng có thể thay đổi theo hoàn cảnh xã hội,
chính trị và văn hóa cụ thể[6].
- Công bằng giới
Là sự đối xử công bằng với cả nam giới và phụ nữ. Để bảo đảm có sự công
bằng, luôn phải có nhiều biện pháp để điều chỉnh những khuyết thiếu của lịch sử và
xã hội mà đã cản trở phụ nữ và nam giới tham gia vào các hoạt động xã hội dưới hình
thức này hay hình thức khác. Công bằng sẽ dẫn tới sự bình đẳng[6]
- Bình đẳng giới
Là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới xuất phát từ sự chênh lệch về địa vị xã
hội của họ. Những lợi ích này khi được đáp ứng sẽ thay đổi vị thế của phụ nữ và nam
giới theo hướng bình đẳng.
Nhu cầu giới chiến lược được xác định để khắc phục tình trạng thấp kém hơn của mỗi
giới, chúng có thể thay đổi theo hoàn cảnh xã hội, chính trị và văn hóa cụ thể.[6].
- Bất bình đẳng giới
Là một trong những cản trở to lớn trong sự phát triển của từng nước và toàn
cầu. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra đói nghèo, mù chữ. Nó là hiện tượng
không thể chấp nhận được trong thế giới văn minh, vì quyền và hạnh phúc của con
người. Vì sự bất bình đẳng giới còn thể hiện trong các phong tục tập quán, lối sống
của người dân với những định kiến giới từ hàng ngàn năm để lại. Phụ nữ là nhưng
người coi là có số xấu, đêm lại không mây cho người khác như quan niệm “Ra ngõ
gặp gái”. Họ bị coi là ngu dốt, thiếu kiến thức, suy nghĩ nông cạn:” Và họ được coi
là những người có giá trị thấp: “Một trăm con gái không bằng cái con trai,” “Đàn
ông rộng miệng thì sang. Đàn bà rộng miệng thì tan hoang của nhà.” Trong hoàn
cảnh như vậy thì người phụ nữ sẽ không đủ tự tin và diều kiện để vươn lên như nam
giới và sự cam chịu của nhiều phụ nữ khác. Nhóm các học giả lý thuyết phát triển
10
cho rằng: “ Hộ là một hệ thống các nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế
riêng nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận và quan niệm về hộ không giống nhau. Tuy nhiên,
trong đó cũng có những nét chung để phân biệt về hộ, đó là:
+ Chung hay không cùng chung huyết tộc ( huyết thống và quan hệ hôn nhân);
+Cùng chung sống dưới một mái nhà;
+Cùng chung một nguồn thu nhập (ngân quỹ);
+Cùng ăn chung;
+Cùng tiến hành sản xuất chung.
* Khái niệm “gia đình”
Gia đình là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hôn nhân và quan hệ
huyết thống, những thành viên trong gia đình có sự gắn bó và ràng buộc với nhau về
trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo
vệ [3].
2.1.2. Khái niệm về hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình
Có rất nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa thế nào là hộ có thể nêu một số
quan điểm cần quan tâm khi nhận định hộ.
* Khái niệm “hộ gia đình”
Hộ gia đình được dùng để biểu thị các thành viên của nó có chung huyết tộc,
quan hệ hôn nhân và có chung một cơ sở kinh tế. Các thành viên cùng đóng góp công
sức, tài sản chung để hợp tác kinh tế chung trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp hoặc trong một số lĩnh vực kinh doanh khác do pháp luật quy định; là chủ thể
trong các quan hệ dân sự đó ( Điều 107. Dự thảo luật dân sự). [3].
*Khái niệm kinh tế “hộ gia đình”
Theo Frank Ellis (1988), kinh tế hộ nông dân là “các nông hộ thu hoạch các
phương tiện sống từ đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình trong sản xuất nông trại,
nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham
gia một phần thị trường hoạt động với một tốc độ không hoàn chỉnh”.
“Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã
hội trong đó có các nguồn lực như: đất đai, lao động, tiền vốn, và tư liệu sản xuất
11
được coi là của chung để tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà,
ăn chung, mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tùy thuộc vào chủ
hộ được Nhà nước thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển” [3].
2.1.3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về
giải phóng phụ nữ:
* Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng phụ nữ
Phụ nữ là phân nửa dân số không thể thiếu được trong đời sống xã hội . Phụ
nữ là một bộ phận cấu thành quan trọng có ý nghĩa quyết đinh việc tái sản xuất lực
lượng sản xuất, góp phần quan trọng vào sự phát triển xã hội bền vững.
Theo ông: “Trong lịch sử nhân loại, không có một phong trào to lớn nào của
những người áp bức mà lại không có phụ nữ lao động tham gia, phụ nữ lao động là
những người bị áp bức nhất trong tất cả những người bị áp bức”, chính vì vậy mà họ
chưa bao giờ và không bao giờ đứng ngoài các cuộc đấu tranh giải phóng. V.I Lênin
nhìn rõ thực trạng bất bình đẳng mà phụ nữ phải gánh chịu đó còn là sự BBĐ trong
cuộc sống gia đình, thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói buộc, vì toàn bộ công việc gia đình
đều trút lên vai phụ nữ. Để xóa bỏ vĩnh viễn tình trạng BBĐ, cần sự nỗ lực to lớn của
Đảng, Nhà nước, toàn xã hội, nhưng trước hết và quyết định nhất là sự nỗ lực của
chính phụ nữ. “Việc giải phóng phụ nữ lao động…phải là việc của bản thân phụ nữ
lao động”.
Trong lĩnh vực chính trị, V.I Lênin quan tâm trước hết đến việc “làm cho phụ
nữ tham gia nhiều hơn nữa vào công cuộc bầu cử vì đó là cơ hội tốt nhất để họ lựa
chọn những người đại diện cho quyền lợi của họ, nhất là những người đại diện cho
quyền lợi của họ, nhất là những người đại diện là phụ nữ. Tạo điều kiện cho phụ nữ
tham gia vào các lĩnh vực công tác xã hội. Trong lĩnh vực công tác Đảng, công tác
Nhà nước cũng cần có sự tham gia của phụ nữ, hơn nữa trong công tác đó, phụ nữ
phải giữ một vai trò chủ yếu và chắc chắn là phụ nữ giữ vai trò ấy [20].
*Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ
Kế thừa và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác -Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
là một trong những người đầu tiên tìm hiểu và đặc biệt quan tâm đến tiềm năng, vai
trò, vị thế của người phụ nữ trong phong trào cách mạng thế giới nói chung và sự
12
nghiệp cách mạng của Việt Nam nói riêng. Có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải phóng phụ nữ ở những luận điểm sau:
Thứ nhất: Giải phóng phụ nữ là một mục tiêu tất yếu của cách mạng vô
sản.Trong quá trình tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh khẳng định, quá trình thực
hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình thực sự giải phóng phụ nữ[20].
Thứ hai: Giải phóng phụ nữ - bản thân nó cũng là một cuộc cách mạng. Phụ
nữ có vai trò quan trọng trong xã hội, nhưng dưới chế độ thực dân phong kiến phụ nữ
là đối tượng bị bóc lột, đè nén nặng nề nhất. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh giải phóng
phụ nữ - bản thân nó cũng là một cuộc cách mạng [20].
Thứ ba: Giải phóng phụ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của toàn
thể xã hội. Theo Hồ Chí Minh giải phóng phụ nữ không chỉ là trách nhiệm của Đảng
và chính quyền mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội [20].
Thứ tư: Giải phóng phụ nữ là trách nhiệm của bản thân người phụ nữ. Sự tự thân vận
động, sự nỗ lực vươn lên trong học tập và công tác của chính chi ̣em mới có thể đưa
đến sự thành công của công cuộc giải phóng phụ nữ [20].
*Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới
Ngay từ năm 1930, Chánh cương vắn tắt của Đảng ta đã nêu rõ: về phương
diện xã hội thì thực hiện “nam, nữ bình quyền”. Luận cương chính trị của Đảng cũng
ghi: một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là “nam, nữ
bình quyền”. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng tiếp tục ban hành các Chỉ thị, Nghị
quyết lãnh đạo công tác phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường
công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới. Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994
của Ban Bí thư về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới Nghị quyết
số 11-NQ/TW ngày 27/04/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất trong tất cả các lĩnh vực, và giải quyết vấn
đề bất BĐG.
2.1.4. Quan điểm về nâng cao vai trò của phụ nữ:
* Quan điểm “Phụ nữ trong phát triển” (WID)
Quan điểm này ra đời vào những năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ 20 tại Ủy
ban phụ nữ thuộc tiểu ban xã hội Washington. Quan điểm này đặt trọng tâm vào phụ
13
nữ, trên cơ sở giải quyết các vấn đề của phụ nữ nảy sinh trong quá trình phát triển.
Cách tiếp cận WID đòi hỏi công bằng xã hội và quyền lợi cho phụ nữ. Quan điểm
WID đã chú trọng đến vai trò sản xuất của phụ nữ, chủ trương đưa phụ nữ vào hòa
nhập nền kinh tế đất nước, coi việc tiếp cận với cơ hội có việc làm trong sản xuất và tham
gia công tác xã hội là biện pháp nâng cao vai trò, địa vị của phụ nữ [14].
* Quan điểm “Phụ nữ và phát triển” (WAD)
WAD ra đời vào nửa sau những năm 1970, với mục đích khắc phục những
nhược điểm của WID. Quan điểm này đã thừa nhận phụ nữ là chủ thể quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế, vì thế phụ nữ đương nhiên là một bộ phận cốt yếu
của quá trình phát triển. Mục tiêu chính của WAD là giải quyết mối quan hệ giữa phụ
nữ và phát triển [14].
* Quan điểm “Giới và phát triển” (GAD)
Quan điểm này ra đời vào những năm 1980. Khắc phục nhược điểm của 2
quan điểm trên, GAD tập trung vào mối quan hệ giới chứ không chỉ riêng phụ nữ,
quan tâm đến sự phát triển bền vững, tập trung vào cân bằng giới và các chương trình
phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của cả nam và nữ. Quan điểm GAD cung cấp cơ sở
lý luận cho việc xem xét vai trò của phụ nữ trong mối tương quan với vai trò của nam
giới trong phát triển cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau [12].
2.2.Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ ở một số nước trên thế giới
Tại Châu Phi, Châu Á, Thái Bình Dương, trung bình một tuần phụ nữ làm việc
nhiều hơn nam giới 12-13 giờ và có ít thời gian để nghỉ ngơi hơn. Hầu hết mọi nơi
trên thế giới phụ nữ được trả công thấp hơn nam giới cho cùng một loại công việc.
Thu nhập của phụ nữ bằng khoảng 50% - 90% thu nhập của nam giới [1].
*Phụ nữ chiếm một tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động: Tỷ lệ nữ tham gia các hoạt
động kinh tế theo các nhóm tuổi rất cao.
Tại Bangladesh: Có 67,3% phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động so
với 82,5% nam giới. Tỷ lệ này của phụ nữ nông thôn cao gấp 2 lần phụ nữ thành thị
(28,9%). Theo nhóm tuổi tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nhiều nhất ở độ tuổi 30-
49, tiếp đó là các nhóm tuổi 25-29, 50-54. Đáng chú ý rằng gần 61% phụ nữ nông
thôn ở độ tuổi 60-64 vẫn tham gia lực lượng lao động, cao gần gấp 2 lần phụ nữ thành
14
thị cùng nhóm tuổi . Đặc biệt phụ nữ nông thôn trên 65 tuổi vẫn có 36% tham gia lực
lượng lao động [2].
Tại Trung Quốc: Nhóm phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động cao
nhất từ 20-29 tuổi, tiếp đó là nhóm 30-39 tuổi và giảm dần theo các nhóm tuổi cao
hơn. Giống như ở Bangladesh, ở nông thôn Trung Quốc phụ nữ ở độ tuổi 60-64 vẫn
còn 32,53% tham gia lực lượng lao động , con số này cao gấp 2 lần phụ nữ thành thị
cùng nhóm tuổi [2].
*Trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp: Quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo
hướng thị trường trong những năm gần đây đã thực hiện giải phóng lao động và đặc
biệt là lao động nữ ở nông thôn thoát ra khỏi những ràng buộc của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, nhưng chưa thực sự giải phóng họ khỏi những ràng buộc của thể chế
và tập quán của nền kinh tế truyền thống, cùng với thiếu hụt về cả năng lực và điều
kiện của lao động nữ trong sản xuất, kinh doanh. Sự nghiệp công nghiệp nông nghiệp
nông thôn không thể thành công nếu người dân ở nông thôn chỉ có kinh nghiệm được
tích lũy theo năm tháng mà thiếu hiểu biết về khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.
Với phụ nữ nông thôn hiện nay, trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ có một quan
điểm nổi bật là sự khéo léo, sự tính toán giỏi giang và thành đạt chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm cá nhân của mỗi người, số thành công do được học hành, đào tạo chưa nhiều.
Nhược điểm này sẽ là một hạn chế không nhỏ trong việc phát huy nguồn nhân lực nữ
để phát triển nông thôn.
*Bất BĐG mang tính phổ biến:bất BĐG tồn tại ở hầu hết các nước đang phát
triển. Điều đó bắt nguồn từ tình trạng phụ nữ có trình độ học vấn thấp. Một nguyên
nhân khác không kém phần quan trọng là những đinh kiến xã hội không coi trọng phụ
nữ đã được hình thành ở hầu hết các nước đang phát triển. Do vậy ngay cả khi phụ
nữ có bằng cấp cao và kỹ năng tốt thì những công việc họ làm vẫn không được ghi
nhận một cách xứng đáng[2].
2.2.2. Vai trò của phụ nữ dân tộc trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam
Là một nước có nền nông nghiệp chưa phát triển, Việt Nam hiện có khoảng
80% số người trong độ tuổi lao động sống ở nông thôn, trong đó phụ nữ chiếm 50%,
nhưng họ là người yếu thế và thiệt thòi nhất trong xã hội, không được như đội ngũ
công nhân, trí thức, phụ nữ nông thôn bị hạn chế bởi trình độ nhận thức. Nhưng họ
15
lại là lực lượng chính tham gia vào hầu hết các khâu sản xuất nông nghiệp như: cấy
lúa, nhổ mạ, chăm sóc lúa, sát gạo...
Hiện tượng tăng tương đối của lực lượng lao động nữ trong nông thôn những
năm gần đây là do một số nguyên nhân chính sau:
Do sự gia tăng tự nhiên só người trong độ tuổi lao động, hiện nay hàng năm
nước ta có khoảng 80- 90 vạn người bước vào tuổi lao động, trong đó: lao động nữ
chiếm 55%.
Do quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của
các ngành doanh nghiệp, đa số lao động nữ ở các cơ quan, xí nghiệp bị giảm biên chế,
không có việc là phải quay về nông thôn làm việc.
Do sự tan rã của thị trường Đông Âu, Nga vào những năm 90, khiến cho các
nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Việt Nam mất đi nguồn tiêu thụ hàng hóa, đa
số phụ nữ làm nghề này lại chuyển về làm nghề nông nghiệp.
Ngoài ra, cơ chế thị trường, do sức cạnh tranh nên nhiều hợp tác xã lâm thủ
công nghiệp trên địa bàn nông thôn cũng lâm vào tình trạng phá sản. Kết quả là công
nhân chủ yếu là nữ công nhân thuộc các hợp tác xã thủ công này phải trở về nông.
* Vai trò làm vợ,làm mẹ
Để đánh giá đúng về vai trò của người phụ nữ trong xã hội hiện nay, chúng ta
không thể không nói đến vai trò của người phụ nữ trong gia đình, bởi gia đình là tế
bào của xã hội, gia đình mạnh khỏe-hạnh phúc là nền tảng để xây dựng một xã hội
phát triển.
Có thể nói con, người là hoa của đất và phụ nữ là hương hoa của cuộc đời. Khi
tạo dựng nên con người, tạo hóa ban cho nam giới và phụ nữ những đặc điểm, những
cá tính, những khả năng khác nhau để giao cho họ những trọng trách khác nhau. Tạo
hóa đã ban cho người phụ nữ một cơ thể đặc biệt để mang thai và sinh con. Điều đó
có nghĩa ban cho họ một thiên chức vô cùng quan trọng và cao quý, ấy là làm vợ và
làm mẹ.
* Với vai trò làm vợ
Với vai trò làm vợ, người phụ nữ là người “nâng khăn, sửa túi” mỗi khi chồng ra
khỏi nhà và lo sao“cơm ngon, canh ngọt” mỗi khi chồng trở về sau một ngày làm
16
việc mệt nhọc. Làm vợ, người phụ nữ biết rõ sở thích và tâm lí của người chồng, luôn
quan tâm để hiểu được công việc của chồng, chủ động thu xếp công việc gia đình để
chồng có thời gian và yên tâm công tác; động viên, khích lệ, tạo điều kiện cho chồng
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Thậm chí, nhiều người phụ nữ còn trở thành cách
tay đắc lực của chồng.
* Với vai trò làm mẹ
Trước hết phải nói đến tình cảm của người mẹ, phụ nữ là người chăm sóc và
giáo dục con cái chủ yếu, với tình yêu thương vô bờ bến là hơi ấm, là nguồn sữa để
nuôi con khuôn lớn, là chỗ dựa to lớn đối với mỗi đứa con. Ngoài ra thể lực, trí lực,
phẩm chất đạo đức, nhân cách của người mẹ đã tác động ảnh hưởng to lớn đến sự
hành thành thể lực, trí lực, phẩm chất, nhân cách của những đứa con. Châm ngôn ta
đã có câu “Con nhà tông không giống lông giống cánh”, hay là “con hư tại mẹ, cháu
hư tại bà”, “mẹ nào con nấy”... điều đó cho thấy vai trò ảnh hưởng to lớn của người
mẹ đối với con. Là những người mẹ hết lòng vì con, họ thật sự là những tấm gương
cho con cái noi theo. Ngày mẹ ngày nay còn là một người bạn lớn luôn ở bên con để
hướng dẫn, động viên kịp thời.
* Vai trò người thầy đầu tiên của con người
Con người, ai cùng cần được giáo dục. Các nhà khoa học đã khẳng định, con
người ngay từ khi sinh ra mà không được giáo dục thì lớn lên chảng khác gì cây
hoang, cỏ dại bên đường, cũng chẳng khác mấy các loài động vật.
Trong gia đình, người mẹ là người thầy đầu tiên của mỗi con người, giáo dục
theo dõi sự trưởng thành của con. Các quan niện “cha sinh không tày mẹ dưỡng”,
“phúc đức tại mẫu” của người Việt Nam đã tôn vinh vai trò của người phụ nữ trong
nuôi dạy con cái.
Thực tế cho thấy, ngay từ khi con trong bụng mẹ đứa trẻ đã chịu sự giáo dục,
rèn luyện của người mẹ: từ chế độ ăn uống, nghỉ ngơi đến những thói quen sinh hoạt,
những suy nghĩ, niềm vui, nỗi buồn điều ảnh hưởng đến đứa con. Khi con cất tiếng
khóc chào đầu người mẹ là người dạy con đầu tiên và biết lắng nghe, biết biểu lộ cảm
xúc khi giao tiếp với mẹ theo kiểu người. Lớn hơn một chút mẹ dạy con cách đứng
và chập chững bước đi, dạy con cách cần thía và sử dụng đồ vật, các công cụ theo
người. Khi con lớn hơn mẹ dạy con các hành vi đạo đức, cách ứng sự theo chuẩn mực
17
xã hội.
* Vai trò người lao động tạo thu nhập cho gia đình
Theo quan niệm truyền thống người chồng là “trụ cột” trong gia đình, chịu
trách nhiệm chính trong việc tạo thu nhập chính cho gia đình. Người vợ, chủ yếu lo
thu vén nhà cửa, nuôi dạy con cái, làm việc nhà, chăm sóc sức khỏe, bữa ăn, giấc ngủ
cho chồng con. Tục ngữ Việt Nam có câu: “đàn ông cái nhà, đàn bà cái bếp”.
Vai trò của người phụ nữ không chỉ giới hạn ở việc bếp núc mà phụ nữ ngày
nay khẳng định vai trò là “trụ cột” thứ hai trong gia đình, cùng với nam giới chia sẻ
trách nhiệm kinh tế, tổ chức tốt cuộc sống vật chất cho gia đình. Trong xã hội hiện
đại, vai trò của người phụ được đánh giá ngang bằng với nam giới đó là: “đàn ông
xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”.
Vai trò “trụ cột” của người phụ nữ trong kinh tế gia đình thể hiện ở hai khía
cạnh: trực tiếp lao động sản xuất tạo thu nhập và quản lý các nguồn lực của gia
đình.
* Phụ nữ là người trực tiếp lao động sản xuất, tạo thu nhập
Những hoạt động tạo thu nhập mà phụ nữ tham gia để cùng chồng chia sẻ gánh
nặng kinh tế gia đình rất đa dạng, phong phú, đó là: làm công ăn lương; trồng trọt,
chăn nuôi, kinh doanh buôn bán, dịch vụ, sản xuất thủ công …Không chỉ lao động
tại chỗ, hàng vạn phụ nữ nông thôn đã phải xa quê hương, xa chồng con, di cư tới
những vùng kinh tế phát triển hơn, cả trong nước và ngoài nước, chịu đựng những
khó khăn, thiếu thốn về vật chất và tinh thần để lao động kiếm sống nhằm cải thiện
đời sống gia đình. Trước những diễn biến phức tạp nền kinh tế thị trường, của thời
tiết, của dịch bệnh…phụ nữ vẫn tích cực và chủ động trong các hoạt động tạo thu
nhập, đóng góp vào kinh tế gia đình, góp phần xoá đói giảm nghèo; nâng cao thu
nhập cho gia đình, làm giàu chính đáng.
* Vai trò người chăm sóc sức khỏe các thành viên trong gia đình
Chăm sóc sức khỏe, lao động nội trợ, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng-là những
hoạt động nhằm bảo đảm cho những người người già, trẻ em, người đau ốm và tất cả
các thành viên trong gia đình có được sức khỏe tốt. Thiếu sự chăm sóc và nuôi dưỡng,
trẻ em sẽ không thể phát triển, người cao tuổi sẽ không sống lâu, sống khỏe mạnh.
Thiếu sự chăm sóc, bao hàm cả chăm sóc về thể chất lẫn tinh thần, người lớn sẽ không
18
đủ sức khỏe để học tập và lao động tốt.
Mặc dù thời gian tham gia lao động sản xuất, tỉ lệ đóng góp cho thu nhập gia
đình, được coi là bằng chứng chứng tỏ vai trò ngày càng lớn của phụ nữ trong việc
thực hiện chức năng kinh tế của gia đình, thì việc phụ nữ đóng vai trò chính trong lao
động gia đình vẫn được coi là biểu hiện rõ rệt nhất của bất bình đẳng giới trong gia
đình.
Thời gian lao động sản xuất và làm việc nhà một cách quá tải của phụ nữ dẫn
đến tình trạng khá phổ biến là thời gian nghỉ ngơi của phụ nữ luôn hạn chế hơn nam
giới. Kết quả điều tra cho thấy ở tất cả các nhóm có thời gian nghỉ ngơi từ 2 tiếng trở
lên một ngày, tỉ lệ nam giới đều cao hơn nhiều so với phụ nữ, và ngược lại ở các
nhóm có thời gian nghỉ dưới 2 tiếng một ngày, tỉ lệ phụ nữ cao hơn hẳn nam giới.
* Quản lý các nguồn lực của gia đình
Ngoài việc trực tiếp tham gia lao động sản xuất tạo thu nhập, phụ nữ còn là
người tổ chức, động viên, tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình tham gia
hoạt động kinh tế, tăng thu nhập cho gia đình và đảm nhiệm vai trò của người giữ
“tay hòm chìa khóa” cho gia đình.
Trong bối cảnh giá cả sinh hoạt leo thang mà thu nhập khiêm tốn của người
lao động chưa được cải thiện, công việc nội trợ trở nên khó khăn hơn bởi nó đòi hỏi
người phụ nữ phải cân đối các khoản thu chi, tính toán một cách khoa học và cũng
rất cần nghệ thuật bếp núc để luôn đảm bảo cơm dẻo canh ngọt, đủ dưỡng chất cho
cả nhà, quần áo mới cho con đến trường…
*Vai trò người chăm lo đời sống tinh thần của gia đình
Người phụ nữ là người giữ hoà khí trong gia đình, tạo dựng và dung hòa các
mối quan hệ: Mối quan hệ vợ - chồng; Mối quan hệ giữa mẹ chồng- nàng dâu, mẹ vợ
với chàng rể; Mối quan hệ giữa các anh chị em, mối quan hệ giữa ông bà, cha mẹ với
con...
Với vai trò người chăm lo đời sống tinh thần của gia đình, người phụ nữ thường
xuyên gần gũi, yêu thương tất cả các thành viên khác, nhưng đối với bản thân họ thì
chính tình cảm sắt son chung thủy của người chồng lại là chỗ dựa tinh thần, nâng đỡ
và tiếp thêm nghị lực cho họ vượt qua muôn ngàn gian khó, hăng say lao động sản
19
xuất, chèo chống đảm đang để chăm sóc nuôi dưỡng cả gia đình và dạy dỗ con cái
nên người. Vì thế, người phụ nữ bao giờ cũng đề cao tình cảm yêu thương, sự cảm
thông, quan tâm và chia sẻ của người chồng [9].
*Vai trò người giữ gìn, tái tạo và sáng tạo các giá trị văn hóa gia đình
Trong gia đình, phụ nữ vừa là người giữ gìn, phát huy những gia trị truyền
thống của gia đình, vừa là người tiếp thu và sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới,
góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mà trước hết đó là
xây dựng gia đình văn hóa. Vai trò đó thể hiện ở:
Người phụ nữ là người giữ gìn tôn ti trật tự trong gia đình, giữ gìn truyền thống
trên kính dưới nhường, kính lão đắc thọ qua việc giáo dục con cái các chuẩn mực đạo
đức, hướng dẫn con cái thực hiện các qui tắc ứng xử trong gia đình.
Người phụ nữ là người giữ gìn, tái tạo và sáng tạo các làn điệu dân ca, các câu
ca dao, tục ngữ, các bài hát, bài thơ. Bằng lời ru, tiếng hát dân ca mượt mà, thắm
đượm tình yêu thương, người mẹ, người bà trong gia đình truyền lại cho con cháu
vốn văn hóa dân tộc; đem lại cho con cháu trong nhà không chỉ là tình yêu thương,
mà còn là những bài học về đạo lí làm người [9]
2.2.3. Kinh nghiệm trong phát huy vai trò của phụ nữ dân tộc Mông ở Việt Nam
Từ xưa, trong gia đình người Mông, người chồng luôn giữ vai trò quan trọng
và quyết định mọi việc nên phụ nữ Mông chịu rất nhiều thiệt thòi. Các bé gái người
Mông không được đi học bởi quan niệm hà khắc: Con gái không cần học, lớn lên đi
lấy chồng là thành người nhà khác, học cũng chỉ để phục vụ nhà chồng. rồi các em
lớn lên, lấy chồng theo tục bắt vợ khi đang ở tuổi vị thành niên, cơ thể chưa phát triển
hoàn thiện để sẵn sàng làm vợ, làm mẹ. Nếu những đứa trẻ cùng trang lứa ở vùng
xuôi đang tuổi cắp sách đến trường thì trên khắp các bản làng heo hút núi, những bé
gái không biết đến tình yêu ấy đã “Một nách ba con”, cuộc sống lại quẩn quanh với
nương rẫy và đói, nghèo.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, sự giao thoa về văn hóa và đặc
biệt là sự quan tâm của Đảng , Nhà nước, chính quyền địa phương đối với đồng bào
dân tộc thiểu số bằng nhiều chính sách thiết thực, ý nghĩa, người Mông có thêm nhiều
điều kiện để vươn lên trong cuộc sống. Từ đây, phụ nữ Mông vượt qua rào cản về
những hủ tục lạc hậu, con gái Mông đã được đến trường như các bạn nam, nhiều chị
20
đã nỗ lực vươn lên học tập, trở thành cán bộ trong các cơ quan nhà nước hay phát
triển kinh tế giỏi với thu nhập từ hàng chục đến hàng trăm triệu đồng mỗi năm và
được các cấp khen thưởng[12].
2.2.4. Những chính sách trong phát triển phụ nữ dân tộc ở Việt Nam
sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng đến việc giải phóng phụ nữ.
Bác nhấn mạnh: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng được một nửa
loài người”. Người cho rằng, muốn giải phóng phụ nữ trước hết phải giải phóng họ
ra khỏi sự trói buộc của tư tưởng trọng nam khinh nữ, ra khỏi sự bất công trong gia
đình cũng như xã hội, đồng thời nâng cao vị thế của họ trong xã hội. Thế nên, người
đã yêu cầu các ngành, các địa phương phải tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào mọi lĩnh
vực của cuộc sống, để phụ nữ phát huy quyền và khả năng công dân của mình.
Tiếp tục kế thừa và phát huy tư tưởng của người, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành và thực hiện không ít những quyết sách mang tính chiến lược đối với vấn đề
phụ nữ như: Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12/4/1993 của Bộ Chính trị “Về đổi mới
và tăng cường vận động phụ nữ trong tình hình mới”, Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày
16/5/1994 của Ban Bí Thư Trung ương Đảng khóa VII “về một số vấn đề công tác
các cán bộ trong tình hình mới”. Năm 1995, tại Hội nghị lần thứ IV của phụ nữ liên
Hiệp Quốc tổ chức tại Bắc Kinh ( Trung Quốc ), các quốc gia đã nhất trí thông qua
Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000, nhằm thúc đẩy sự tiến
bộ và tăng cường quyền lực cho phụ nữ trên toàn thế giới. Mỗi quốc gia xây dựng
chiến lược của nước mình nhằm thực hiện Cương lĩnh Bắc Kinh. Tại Hội nghị này,
chính phủ Việt Nam đã công bố chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam đến năm 2000 với 10 mục tiêu. Tiếp đó, tiếp đó Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg, ngày 21/01/2002 về phê duyệt Chiến lược và
kế hoạch hành động quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2001-2010
với mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ; tạo
mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ
nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Báo cáo Chính
trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) cũng đã khẳng định: đói với
phụ nữ thực hiện tốt pháp luật và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề
nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều
21
vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ làm tốt nhiệm vụ của người vợ, người
mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc.
Cùng phụ nữ cả nước, phụ nữ nông thôn đang đóng góp sức lực, trí tuệ cho
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.Sự ra đời của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ các
cấp đã giúp đỡ, khuyến khích động viên phụ nữ làm tốt vai trò, vị trí của mình [13].
2.2.5. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc Mông
Là một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Mông
(Hmôngz) có hơn 80 vạn người, đứng hàng thứ 8, chiếm 1% so với dân số chung của
cả nước. Dân tộc Mông có 5 ngành chính là Mông Trắng (Hmôngz Đơưz); Mông Hoa
(Hmôngz Lênhk); Mông Đỏ (Hmôngz Siz); Mông Đen (Mông Đuz) và Mông Xanh
(Mông Sua). Dân tộc Mông cư trú trên địa bàn 16 tỉnh trong cả nước, trong đó 6 tỉnh
có đông người Mông cư trú nhất là: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái,
Cao Bằng và Điện Biên. Còn lại hơn 10 tỉnh khác như: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Phú Thọ, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Gia Lai, Lâm Đồng và Lạng Sơn
đều có cư dân Mông.
Trong số hơn 77 huyện thị có người Mông cư trú thì có 12 huyện thị người
Mông chiếm tới 50% dân số trở lên. Tỉnh Hà Giang có 10 huyện thì đều có dân tộc
Mông, tỷ lệ dân cư Mông trong 4 huyện vùng cao núi đá của tỉnh Hà Giang như sau:
Đồng Văn 90%; Mèo Vạc 77,7%; Yên Minh 54% và Quản Bạ 58%. Tỉnh Lào Cai có
9 huyện thành phố thì đều có cư dân Mông mà đông nhất là Bắc Hà 64%, tiếp đến là
huyện Sa Pa 51,6%. Bảy trong số chín huyện thị của tỉnh Lai Châu (cũ) có cư dân
Mông trong đó huyện Tủa Chùa chiếm 71%, huyện Sình Hồ 75%. Tỉnh Sơn La có 9
huyện trong 10 huyện thị có cư dân Mông, huyện Bắc Yên trên 90% là cư dân Mông.
Tỉnh Yên Bái thì 7 trong số 8 huyện thị có cư dân Mông mà đông nhất là hai huyện
Mù Căng Chải 71%, huyện Trạm Tấu 73%. Tỉnh Thanh Hoá 3 huyện có cư dân Mông
là Mường Lát, Quan Hoá và Quan Sơn. Tỉnh Nghệ An có 3 huyện có người Mông là:
Kỳ Sơn, Quế Phong và Quỳ Hợp. Tỉnh Bắc Kạn có 8 huyện thị trong đó 7 huyện có
người Mông sinh sống. Người Mông Bắc Kạn di cư từ Cao Bằng, Yên Bái, Hà Giang
xuống và có nhiều nhánh như: Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông
22
Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán).
Đối với người Mông thì thiết chế dòng họ đóng vai trò rất quan trọng. Trong
một họ bao giờ cũng có một người trưởng họ, mỗi khi có vấn đề gì xảy ra trong làng
thì người ta có thể tìm đến người trưởng họ là người am hiểu luật lệ, lí lẽ nhất trong
họ đó. Mỗi họ lại có quy định, luật lệ khác nhau, mọi người trong họ phải tuân theo
quy định, luật lệ đó.
Người Mông cho rằng mọi vật đều có linh hồn và ngôi nhà cũng như vậy. Trong ngôi
nhà có thần cửa, thần cột, thần bếp, ma nhà để bảo vệ người Mông trước mọi thế lực.
Khi đã ra khỏi nhà thì không có các thần trong ngôi nhà bảo vệ nữa thì thường dễ gặp
phải rủi ro, bất trắc hoặc có thể bị ma quỷ hãm hại. Vì vậy, khi ra khỏi nhà, người ta
phải có một vật gì đó đem theo mình như thứ bùa để bảo vệ họ khỏi ma quỷ [12].
* Đặc điểm kinh tế
Do cư trú chủ yếu trên những vùng núi của các cao nguyên: Đồng Văn, Bắc Hà, Than
Uyên, Phong Thổ và Mộc Châu dọc theo biên giới Việt - Trung, Vịêt - Lào hoặc một
số vùng sâu, vùng xa hẻo lánh của các miền núi, trung du nội địa, kinh tế của dân tộc
Mông chậm phát triển. Với nền kinh tế độc canh một vụ, phụ thuộc thiên nhiên, năng
suất cây trồng vật nuôi thấp, đa phần đồng bào Mông lâm vào cảnh đói nghèo triền
miên. Thực trạng kinh tế này của dân tộc Mông nói riêng và của đồng bào các dân
tộc thiểu số sống ở vùng cao nói chung đã được cảnh báo từ thập kỷ 70 của thế kỷ
XX. Đầu thập kỷ 90, với những quyết sách mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra các
chương trình dự án nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế miền núi vùng cao, bước đầu
tạo được một số khởi sắc về kinh tế từ cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu và
chăn nuôi gia súc... Song sự khởi sắc kinh tế đó còn đang trong phạm vi hẹp và chưa
ổn định. Nền kinh tế tiểu nông manh mún tự túc tự cấp cùng với điều kiện tự nhiên
ngày càng khắc nghiệt đã khiến đời sống của đại bộ phận người Mông trở nên rất khó
khăn[12].
* Văn hóa
Về nhạc cụ có Khèn và đàn môi là hai loại nhạc cụ độc đáo nhất của người Mông.
Có thể nói văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của dân tộc Mông (Hmôngz)
rất phong phú và đa dạng. Niềm tin hư vô của dân tộc Mông là đa thần mà hình thức
23
tôn giáo nổi bật là thờ cúng tổ tiên, thứ đến là: thần tài, thần thuốc, thần thổ địa...
Bằng phương pháp nhập tâm truyền khẩu của các thế hệ kế tiếp nhau, qua hàng ngàn
năm dân tộc Mông đã giữ được hai thiên trường ca bất hủ đó là: "Trường thán ca"
(Kruaz cêr) và "Trường hỷ ca" (Jax yôngz). Bên cạnh đó còn có các làn điệu dân ca
phong phú như: Tiếng hát làm dâu (Gâux ua nhaz), tiếng hát mồ côi, tình ca giao
duyên... cộng với kho tàng văn học dân gian như thần thoại, cổ tích, tục ngữ, thành
ngữ... làm tăng thêm chất lượng cuộc sống, văn hoá, tinh thần của dân tộc Mông [12].
* Xã hội
Dân tộc Mông là một dân tộc thông minh, dũng cảm, cần cù, hiếu học, trọng
tín nghĩa, có bề dày truyền thống đoàn kết gắn bó trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Trải dài theo năm tháng, người dân tộc Mông đã đóng góp sức người, sức của
trong quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng Tổ quốc. Giai đoạn cách
mạng dân tộc dân chủ, nhiều vùng cư trú của dân tộc Mông là căn cứ cách mạng và
kháng chiến.
Tuỳ thuộc vào điều kiện địa hình, dân tộc Mông thường sống quần tụ thành
từng thôn bản từ vài ba đến vài chục nóc nhà, thậm chí đến hàng trăm nóc nhà của
nhiều dòng họ. Dân tộc Mông ở nhà trệt, thường là cột kê, ba gian hai trái; có nơi làm
nhà trình tường như vùng Hà Giang, Lào Cai; có nơi làm nhà thưng ván như vùng
Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Hoà Bình, Thanh Hoá và Nghệ An, Bắc Kạn.
Kiến trúc nhà của người Mông thường có 2 cửa ra vào: Cửa chính ở phía trước,
cửa sau mở ra phía trái đầu hồi. Cũng có nơi cửa phụ thông từ gian có bếp lò ra phần
chái nhà, đây là nơi sinh hoạt của phụ nữ. Ở một số nơi, ngoài cửa chính và cửa phụ
còn có cửa bí mật dành riêng cho con gái chưa chồng ra vào. Phần hiên trước nhà và
hai bên đầu hồi là nơi để nông cụ. Chuồng ngựa, trâu, gà, lợn, bò thường đặt ở phía
trước nhà hoặc đầu hồi sau.
Dân tộc Mông rất coi trọng và tuân thủ luật tục của dòng họ. Người cùng họ
là anh em cùng chung huyết thống không được hôn phối với nhau, nhưng có thể chết
ở nhà nhau. Họ rất coi trọng người cao tuổi, người có hiểu biết rộng và có đạo đức
trong sáng. Để điều chỉnh các mối quan hệ trong thôn bản, trước kia người Mông
thường đề ra những quy ước chung cùng những hình phạt rất nghiêm khắc cho các
24
tội danh như: nói dối, lừa đảo, trộm cắp, hủ hoá, đánh nhau, giết người và đốt
nhà…Trong mỗi thôn bản của người dân tộc Mông mối quan hệ các dòng họ được
gắn bó qua việc cúng thờ, cúng chung thổ thần của thôn bản. Gia đình dân tộc Mông
là gia đình phụ hệ, cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai được coi là
người thuộc dòng họ nhà chồng[12].
* Trang phục
Trang phục của người Mông rất cầu kì, mỗi nhánh phụ nữ người Mông có trang phục
khác nhau. Trang phục cổ truyền của phụ nữ Mông gồm có váy, áo xẻ ngực, tạp dề
trước và sau, xà cạp quấn chân. Áo của phụ nữ Mông không có cổ mà là một miếng
vải được thêu sặc sỡ trên bả vai, váy của họ mở nếp xòe rộng. Ngoài váy và áo, bộ
trang phục của nữ giới người Mông Bắc Kạn còn có khăn, thắt lưng, xà cạp, nhiều
nơi còn có thêm tạp dề và đồ trang sức như vòng cổ, nhẫn, vòng tai, bộ xà tích bằng
bạc hoặc bằng nhôm, giày vải, ô, và dép nhựa hoặc có nơi phụ nữ bịt răng vàng, đeo
đồng hồ. Nam giới người Mông mặc quần áo màu đen, cắt may theo kiểu truyền
thống. Tuy nhiện hiện nay theo xu thế của thời đại, một số người dân tộc Mông ở các
huyện vùng thấp trang phục của họ theo âu phục như người dân tộc Kinh[12].
* Thờ cúng
Dân tộc Mông thờ cúng bốn đời Tổ tông vì họ coi đó là những đấng thiêng
liêng phù hộ độ trì cho con cháu khoẻ mạnh, ăn nên làm ra. So với các dân tộc khác
như dân tộc Dao, Tày, Nùng, Thái... thì dân tộc Mông trong một năm có rất ít lễ hội,
chỉ duy trì lễ kết thúc năm, hội xuân (hội sải sán), tết rằm tháng Giêng (tết hái lộc) và
tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng 5).
Người Mông ghi nhớ công lao của tổ tiên bằng việc trong mỗi gia đình bằng
việc dán giấy bản hay lập bàn thờ làm nơi thờ cúng tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên được
người Mông rất coi trọng. Nơi thờ hay bàn thờ là nơi ngự của tổ tiên trong những
ngày lễ, tết, đám cưới, lễ đặt tên, lễ vào nhà mới, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thịnh
suy của cả gia đình.
* Hôn nhân và gia đình
Người Mông sống gắn bó, thủy chung, nên gia đình ít bị tan vỡ. Vợ chồng con
25
cái luôn ở bên nhau, trong nhà ngoài nương, khi đi chợ phiên hay nhà thờ, họ thường
đi cả gia đình. Các em bé sơ sinh thì được mẹ địu trên lưng hay trước ngực, lớn hơn
một chút sẽ được bố cõng hay dắt tay. Sự gắn bó còn được thể hiện qua việc cả gia
đình chỉ có một chiếc giường, cha mẹ con cái chen chúc trên đó; bữa cơm không có
chuyện kẻ trước người sau, mà cả nhà cùng ăn. Cuộc sống túm tụm quây quần, không
ai chịu đi xa. Họ chấp nhận thà nghèo khổ mà có nhau, còn hơn giàu có mà xa nhau.
Trong gia đình có tôn ti trật tự, chồng có ưu thế hơn vợ, con cái vâng nghe cha mẹ,
anh có quyền hơn em; nơi bản làng cũng thế, người trưởng bản được mọi người tuân
phục răm rắp.
Bản chất người Mông ít nói, hiền lành, dễ thương, không cãi cọ, ẩu đả. Trong gia
đình, vợ chồng nhịn nhục chịu đựng nhau nên hiếm khi xảy ra bạo lực. Người chồng
lãnh việc nặng, nhà hết gạo ăn, người vợ chờ chồng về xay lúa. Vợ thường để chồng
quyết định mọi việc, chịu thương chịu khó và chịu đựng là nét nổi bật nơi phụ nữ
Mông. Trên đường từ chợ phiên trở về, nếu chồng say rượu ngã vật xuống, người vợ
nhẫn nại cầm ô đứng cạnh che nắng, chẳng xấu hổ gì, chờ khi chồng tỉnh thì lại đi
tiếp[13].
26
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là phụ nữ DT Mông trong các HGĐ trên địa bàn xã
Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu được triển khai từ ngày
20/02/2019đến ngày 20/05/2019.
Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Huổi Một,
huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại địa bàn xã Huổi Một.
- Thực trạng hoạt động và vai trò của phụ nữ DT Mông trong phát triển kinh tế HGĐ
trên địa bàn xã Huổi Một.
- Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò phụ nữ DT Mông trong phát triển kinh tế hộ.
-Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của phụ nữ DT Mông
trong phát triển kinh tế HGĐ.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp điều tra chọn mẫu
* Chọn điểm nghiên cứu
Huổi Một là xã của huyện Sông Mã. Địa hình của xã dốc,chủ yếu là đồi núi,
các bản cách xa nhau phụ thuộc vào nguồn nước tự nhiên. Căn cứ vào địa hình, điều kiện
phát triển KTXH của địa phươngtôi tiến hành lựa chọn ra 3 bản mà có số người dân tộc
Mông sinh sống nhiều nhất: bản Hợp tiến, bản Khua họ và bản Noong ke, để nghiên cứu.
- Bản Hợp Tiến: cách trung tâm xã 3km, có 28 hộ là người DT Mông sinh
sống, địa hình núi cao và dốc, đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn,trình
độ học vấn còn thấp, nên người dân nơi đây chủ yếutrồng các loại cây lâu nămnhãn,
xoài,... Có QL 4G chạy qua địa bàn nó còn mang một ý nghĩa rất quan trọng trong
việc thúc đẩy nền KTXH của xã phát triển.
- Bản Khua Họ: cách trung tâm xã 11km, có 60 hộ dân là người DT Mông đang
27
sinh sống, có địa hình cao và dốc bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao và thung lũng dốc
tụ người dân nơi đây chủ yếu sống bằng ngành nông nghiệp như: ngô, lúa, sắn và các
loại cây lâu năm như: nhãn, xoài. Do có đường QL 4G chạy qua nên đời sống KTXH
của nhân dân từng bước đi vào ổn định và có phần được cải thiện.
- Bản Noong Ke: cách trung tâm xã 15km, có 45 hộ dân người DT Mông đang
sinh sống, do có địa hình cao và dốc và vào mùa mưa giao thông đi lại gặp nhiều khó
khăn nên cuộc sống người dân nơi đây chưa được cải thiện, người trông các loại cây như:
ngô, lúa,sắn..., các loại cây lâu năm như: xoài, nhãn, mận, chanh leo.
* Chọn hộ nghiên cứu
Sau khi lựa chọn vùng nghiên cứu, tiến hành chọn ngẫu nhiên ra 40 hộ nghiên
cứutừ danh sách các hộ gia đình, đảm bảo đủ các hộ thuộc 3 nhóm giàu-khá, trung
bình, nghèo.
Kết quả chọn mẫu:
Bảng 3.1. Kết quả chọn mẫu theo số liệu điều tra năm 2019
Phân theo mức sống
Tổng số hộ
Các bản
(hộ)
Giàu-khá
Trung bình
Nghèo
11
3
3
5
Hợp Tiến
Khua Họ
12
3
4
5
17
4
5
8
Noong Ke
40
10
12
18
Xã Huổi
Một
(Nguồn: Số liệu thu thập của phiếu điều tra, 2019)
Điều tra trình độ nhận thức của người dân trên địa bàn xã Huổi Một về vai trò
của người phụ nữ trong phát triển kinh tế, mẫu nghiên cứu là 40 hộ, sử dụng phương
pháp phân tầng theo các tiêu chí:
+Là người dân tộc Mông, có hộ khẩu trên địa bàn xã Huổi Một.
+ Nam giới thuộc nhóm tuổi từ 18 đến dưới 50 tuổi và trên 50 tuổi.
+ Nữ giới thuộc nhóm tuổi từ 18 đến dưới 50 tuổi và trên 50 tuổi.
28
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
* Thu thập số liệu thứ cấp
Các thông tin thứ cấp được thu thập từ internet, sách báo, các báo cáo đã được
tổng hợp của xã.
Các thông tin thứ cấp cần thu tập và các nguồn cung cấp thông tin cụ thể như sau:
Bảng 3.2. Thông tin cần thu thập và nguồn cung cấp thông tin
Thông tin cần thu thập
Nguồn cung cấp Phương pháp thu thập
Cơ sở lý luận, cơ sở thực
Các nghiên cứu,
Tra cứu tài liệu, chọn
tiễn của đề tài.
bài báo, giáo trình,
lọc thông tin.
Internet,…
Vị trí địa lý, tình hình sử
Địa chính xã
Thu thập từ các số liệu
dụng đất đai
của Ban Địa chính xã
Tình hình phát triển KTXH,
UBND xã
Thu thập từ các báo cáo
dân cư và nguồn lao động.
của UBND xã.
(Nguồn: Số liệu thu thập của số liệu điều tra, 2019)
* Thu thập số liệu sơ cấp
* Nguồn số liệu: Trên cơ sở các mẫu điều tra 40 hộ đã chọn, thu thập thông tin
bằng cách tiến hành phỏng vấn trực tiếp.
Thu thập thông tin sơ cấp là các thông tin được thu thập trực tiếp thông qua
các cuộc điều tra, phóng vấn các cán bộ, người lao động. Thu thập các thông tin này
giúp cho ta thấy được nguyên nhân của những tồn tại, và những các ứng phó của địa
phương giúp ta phân tích rõ từ đó đề xuất kiến nghị và có những biện pháp kịp thời.
* Phương pháp phỏng vấn vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi: Thu thập các
số liệu bằng hệ thống các câu hỏi đã được soạn thảo trước.
- Câu hỏi được soạn thảo bao gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở
- Nội dung các câu hỏi phục vụ cho đề tài nghiên cứu được thiết kế theo các
nhóm thông tin sau:
1. Nhóm thông tin chung về hộ gia đình
2. Nhóm thông tin về ngành nghề phân loại hộ và vốn vay của hộ
3. Nhóm thông tin về vai trò phụ nữ trong hoạt động sản xuất
29
4. Nhóm thông tin về vai trò phụ nữ trong hoạt động cộng đồng
5. Nhóm thông tin về tiếp nguồn tiếp cận thông tin của phụ nữ
6. Nhóm thông tin về vai trò phụ nữ trong hoạt động khác: Tái sản xuất, khinh
doanh hàng hóa, dịch vụ.
7. Nhóm thông tin về một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao vị thế và vai trò
của phụ nữ.
3.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
- Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu: số liệu được tổng hợp và phân tích
trên bảng tính Excel, sau đó được thống kê và phân tích theo phương pháp so sánh.
- Phương pháp so sánh: các số liệu được so sánh qua các năm, các nhóm hộ
giàu, khá, trung bình, nghèo để thấy được sự khác nhau về thực trạng vai trò của
người phụ nữ qua các năm cũng như trong từng nhóm hộ. Từ đó có thể đưa ra những
nhận xét.
30
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1.Vị trí địa lí
- Huổi Một là một xã vùng III, nằm ở phía Tây huyện Sông Mã, cách trung
tâm huyện 10 km. Xã có tổng diện tích tự nhên là 13.698,31 ha, gồm 24 bản, có vị trí
giáp ranh như sau:
- Phía Đông giáp xã Chiềng Khoong;
- Phía Tây giáp xã Nậm Mằn, huyện Sông Mã và huyện Sốp Cộp;
- Phía Nam giáp xã Mường Cai, huyện Sông Mã và huyện Sốp Cộp;
- Phía Bắc giáp xã Nậm Mằn và xã Nà Nghịu;
- Tuy là xã vùng III nhưng xã Huổi Một có một thế mạnh do có đường QL 4G
đi qua, chạy qua địa bàn xã với chiều dài 23 km.
- Xã Huổi Một có địa hình cao và dốc bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao và
thung lũng dốc tụ. Độ cao trung bình 900 m so với mặt nước biển, điểm cao nhất là đỉnh Pu
Hua với 1.737,7 m, điểm thấp nhất 378,1 m. Xã có các dạng địa hình như sau:
- Địa hình núi cao và dốc: Có độ cao từ 800-1700 m so với mực nước biển dạng
địa hình này phân bố ở phía Nam của xã giáp huyện sốp cộp và chia cắt mạnh bởi các
con suối và khe sâu.
- Địa hình núi trung bình: Có độ cao trung bình từ 400-700 m so với mực nước
biển, địa hình phổ biến là núi trung bình xen kẽ là các phiêng bãi nhỏ hẹp, dạng địa
hình này phân bố ở các bản dọc tuyến đường QL 4G [13].
4.1.1.2.Điều kiện khí hậu và tài nguyên
* Đặc điểm khí hậu, thời tiết
- Khí hậu xã mang đặc điểm chung của vùng núi Tây Bắc chịu ảnh hưởng của
khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều, mùa đông khô lạnh ít mưa.
Có hai mùa rõ rệt trong năm:
- Mùa mưa: Nóng ẩm mưa nhiều bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, mưa tập trung
chủ yếu vào các tháng 6,7,8 với lượng mưa chiếm khoảng 87% tổng lượng mưa cả
31
năm. Trong thời kỳ này độ ẩm cải thiệt thuận lợi cây trồng phát triển và sinh trưởng
tuy nhiên do độ che phủ thấp, địa hình dốc nên gây ra hiện tượng sói mòn, rửa trôi,
lũ quét… gây thiệt hại đến sản xuất, tài sản và đời sống của nhân dân.
- Mùa khô: Kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau, lượng mưa
vào mùa khô chỉ chiếm một lượng nhỏ 13% tổng lượng mưa cả năm.
Vào mùa khô lượng bốc hơi nước lớn nên thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt của
người dân trên địa bàn xã.
- Theo số liệu của trạm khí tượng thủy văn huyện Sông Mã các yếu tố thời tiết
được tổng hợp như sau:
- Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình trong năm là 21, nhiệt độ cao nhất là 34, thấp
nhất là 10.
+ Mùa đông: Nhiệt độ trung bình từ 16 - 20, thấp nhất vào tháng 12, tháng 1
từ 10 - 12.
+ Số nắng trung bình mùa hè từ 6-7 giờ/ngày, mùa đông từ 4-5 giờ/ngày.
Tổng giờ nắng trung bình năm 1.641 giờ/ngày.
* Thủy văn.
- Huổi Một có một hệ thống thủy văn phân bố khắp trên địa bàn xã bao gồm
các con sông, suối lớn như :
- Dòng Sông Mã chảy qua địa bàn xã với chiều dài là 1,5 km.
Suối Nậm Công chạy qua địa bàn xã với chiều dài 17km, chảy qua các bản Nậm Pù
A, Co Kiểng, Bằng Búng, Nà Hạ, Hợp Tiến, Pá Công.
Suối Nậm Mằn chảy qua địa bàn xã với chiều dài khoảng 6 km, chảy qua bản
Nà Nghèo với Pá Mằn.
Suối Nậm Pù Chảy qua các bản Nong Ke, Nậm Pù B ngoài ra còn nhiều các con suối
vừa và nhỏ khác như: suối Pa Tết, suối Co Kiểng, Huổi Pản, Phá Thóng…[12]
* Các nguồn tài nguyên
Tài nguyên đất:
Theo kết quả tổng hợp từ bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Sơn La tỷ lệ 1/100.000, trên
địa bàn xã Huổi Một có loại đất chính như sau:
+ Đất vàng nhạt trên đá cát (FK) có diện tích khoảng 6.184 ha chiếm 45% diện
32
tích tự nhiên, tầng đất dày trung bình, độ phì kém, thường bạc màu không thích hợp
cho sản xuất nông nghiệp.
+ Loại đất feralitmùnvàng trên đá a xít ( FHq) có diện tích khoảng 3.537 ha,
chiếm 26% diện tích tự nhiên, đất có tầng và độ phù cao, tỉ lệ mùn lớn thích hợp cho
cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả.
+ Đất đỏ trên đá mác ma trung tính và bazic (Fk) diện tích khoảng 2.199 ha,
chiếm 16 % diện tích tự nhiên. Đây là loại đất giầu mùn, trung tính hoặc kiềm, kết
cấu tốt, đất này khá phù hợp cho cây lương thực.
+ Loại đất feralit trên đá cát (FHq) có diện tích khoảng 1,787 ha, chiếm 13%
diện tích tự nhiên, có tầng đất dầy và độ phì cao, tỉ lệ mùn lớn, thích hợp cho các loại
cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày.
Tài nguyên rừng:
+ Là xã có diện tích đất lâm nghiệp lớn với 8.334,0 ha chiếm tới 80,53% diện
tích đất nông nghiệp, chiếm 60,64% tổng diện tích đất tự nhiên (DTTN), độ che phủ
của rừng đạt tới 60,64% có điều kiện để xây dựng hệ thống rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng và rừng kinh tế. Tài nguyên rừng khá phong phú với nhiều loại cây quý hiếm
như: Trò chỉ, Nghiến, Lát,… các loại tre và dược liệu. Động vật có các loài gấu, lợn
rừng, hoãng, các loài bò sát như trăn rắn và hàng nghìn loài côn trùng tạo nên một
quần thể sinh học khá đa dạng. Tuy nhiên do việc phá rừng làm nương rẫy đã làm
cho tài nguyên rừng và tài nguyên sinh vật xã nghèo đi, chất lượng rừng bị giảm[14].
Tài nguyên nước:
+ Nguồn nước phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân trong xã được lấy
từ hai nguồn sau:
+ Nguồn nước mặt: Nguồn nước mặt của xã phong phú với các con suối lớn như
Nậm Công, Nậm Mằn và các con suối nhỏ phân bố khắp địa bàn xã là nguồn cung
cấp nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong xã và các xã lân cận như
Chiềng Khoong, Nà Nghịu. Việc khai thác nguồn nước mặt phục vụ sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn xã chủ yếu là đập dâng trên suối Nậm Công để cung cấp nước
tưới cho các cánh đòng bản Pản, bản Pá Công, bản Kéo.
+ Nước ngầm: Nguồn nước ngầm hiện tại chưa có điều kiện thăm dò, khảo sát
33
đầy đủ. Song trong thực tế cho thấy nguồn nước ngầm rất hạn chế. Vì vậy để đảm
bảo có đủ nước phục vụ cho đời sống nhân dân cần quan tâm sử dụng các biện pháp
trữ nước mặt kết hợp với các biện pháp khoanh nuôi bảo vệ và trồng rừng ở các đầu
nguồn để giữ nước[13].
Tài nguyên khoáng sản:
Trên địa bàn xã chưa được điều tra khảo sát về nguồn tài nguyên khoáng sản.
Song thực tế cho thấy xã chỉ có một số nguyên vật liệu phục vụ xây dựng thông
thường như là: cát, sỏi, đá… Trữ lượng khai thác nhỏ chưa đáp ứng được nhu cầu
cung cấp vật liệu cho xây dựng và làm đường giao thông, thủy lợi trên địa bàn[12].
Tài nguyên nhân văn:
Theo số liệu điều tra năm 2010 trên địa bàn xã có 5 dân tộc anh em cùng chung
sống gồm các dân tộc: Kinh, Mông, Khơ Mú, Sinh Mun và dân tộc thái.
+ Cộng đồng dân tộc trong xã sống hòa thuận, đoàn kết, gắn bó với nhau từ
rất lâu đời gắn liền với truyền thống văn hóa đặc sắc làm cho nền văn hóa của địa
phương ngày trở nên đa dạng và phong phú. Các điệu múa, hát, các hoạt động sinh
hoạt cộng đồng, các nghề thủ công truyền thống như : rèn đúc công cụ, đan lát, rệt
thổ cẩm… vẫn được lưu giữ.
+ Ngày nay kế thừa và phát huy truyền thống cần cù sang tạo, tự lực tự cường,
Đảng bộ và nhân dân xã cùng nhau vượt khó, ra sức phấn đấu xây dựng quê hương
ngày càng đổi mới với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh”[12].
34
Bảng 4.1: Tình hình phân bố và sử dụng đất xã Huổi Một giai đoạn 2016 - 2018
2016
2017
2018
So sánh %
Chỉ tiêu
SL
CC(%)
SL
CC(%)
SL
CC (%)
2017/2016
2018/2017 Bình quân
Tồng diện tích tự
13.698,31
100,00
13.698,31
100,00
13.698,31
100,00
100,00
100,00
100,00
nhiên
I Đất nông nghiệp
76,32
10.653,73
77,77
10924,08
79,74
101,90
102,54
100,63
10.454,94
1.Đất sản xuất NN
1937,8
18,53
2127,15
19,97
2547,9
23,32
109,77
119,78
109,12
- Đất trồng cây hàng
1654,51
15,82
1737,41
16,31
1937,38
14,14
105,01
111,51
106,19
năm
- Đất trồng cây lâu
283,29
2,71
389,73
3,66
610.52
5,59
137,57
156,65
113,87
năm
2.Đất lâm nghiệp
6579,34
62,93
6399,44
60,07
5828,28
53,35
97,26
91,07
93,64
II.Đất phi nông
294,09
2,14
294,56
2,15
298,30
2,18
100,15
101,27
101,12
nghiệp
III.Đất chưa sử dụng
2949,28
21,53
2750,02
20,07
2466,93
18,00
93,24
89,71
96,21
(Nguồn:Ban địa chính xã Huổi Một, 2016-2018)
35
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã qua 3 năm (2016-2018) không thay đổi tuy
nhiên trong từng loại đất cụ thể lại có sự thay đổi như sau:
* Đất nông nghiệp:
-Diện tích đất nông nghiệp chiếm diện tích lớn nhất trong tổng diện tích đất
của toàn xã. Qua 3 năm diện tích đất nông nghiệp tăng nhưng không đáng kể. Năm
2016 diện tích đất nông nghiệp đạt 10.454,94 ha chiếm 76,32%. Đến năm 2018 diện
tích đạt 10.924,08 ha chiếm 79,74% tổng diện tích đất tự nhiên. Đất trồng cây lâu
năm có sự thay đổi. Diện tích năm 2016 là 283,29ha chiếm 2,71% tổng diện tích đất
tự nhiên. Năm 2017 tăng lên đạt 389,73 ha chiếm 3,66% đến năm 2018 diện tích tăng
lên đáng kể so với diện tích 2016 là 610,52 ha và chiếm 5,59% vì một số gia đình
chuyển đổi mục đích sử dụng nên mỗi năm tăng khoảng 5,98%[13].
* Đất lâm nghiệp:
- Chiếm diện tích thứ 2 trong tổng diện tích đất tự nhiên, nhưng qua 3 năm đất
lâm nghiệp có xu hướng giảm cụ thể như sau: Năm 2016 diện tích đất lâm nghiệp
6579,34 ha chiếm 62,93% tổng diện tích đất tự nhiên. Đến năm 2018 diện tích này
giảm xuống là 5828,28 ha chiếm 53,35% diện tích đất tự nhiên[12].
* Đất phi nông nghiệp:
Đất phi nông nghiệp có xu hướng tăng qua các năm nhưng tăng không đáng
kể. Năm 2018 có diện tích 298,30 ha chiếm 2,18% tổng diện tích đất tự nhiên. Do
diều kiện vật chất giao thông đi lại của xã chưa ổn định hàng năm vẫn phải mở rộng
cơ sở hạ tầng, các trường tiểu học, mầm non và do sự gia tăng dân số của xã nên nhu
cầu về nhà ở tăng lên[12].
* Đất chưa sử dụng:
Diện tích này vẫn còn cao năm 2016 với diện tích 2949,28 ha chiếm 21,53 %
tổng diện tích đất tự nhiên. Nhưng đến năm 2018 diện tích đất chưa sử dụng có xu hướng
giảm từ 2.949,28 ha xuống2.466,93 ha và chỉ còn 18,00 % Diện tích đất tự nhiên.[13]
4.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội xã Huổi Một
4.1.2.1. Tình hình kinh tế
-Về trồng trọt:
Trong toàn xã thì đóng góp của nền sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn
cho kinh tế địa phương. Với những loại cây trồng phong phú cùng với sự chăm sóc
36
của bà con nhân dân mà năng suất không ngừng được nâng cao. Có thể nhận thấy sự
biến đổi của sản lượng cây trồng trong giai đoạn từ năm 2018 của xã Huổi Một được
thể hiện trong bảng sau:
Bảng 4.2: Diện tích, năng xuất, sản lượng cây trồng chính
của xã Huổi Một năm 2016-2018
2017 Chỉ tiêu
Đơn vị Ha Ha Tạ/ha Tấn Ha Tạ/ha Tấn Ha Tạ/ha Tấn Ha Tạ/ha Tấn Ha Tạ/ha Tấn Ha Tạ/ha Tấn Ha Tạ/ha Tân 2016 2.374,83 376,60 54,60 2056,2 870,20 44,10 3837,5 676,40 64 4328,9 5,12 21,00 10,7 421,28 48,00 2022,1 18,35 51 93,5 12,00 70,00 84 2.436 371,3 55,2 2049,5 842,5 43 3622,7 710,44 63,5 4511,2 5,63 22,10 12,4 467,28 51 2383,1 25,35 56 149,1 13,5 73 98,5 2018 2.494,72 421,7 58,7 2475,3 628,4 42,6 2676,9 880,5 63,2 5564,7 6,82 23,38 15,9 513,28 53 2720,3 30,35 60 182,1 13,67 75 102,5 Tổng diện tích gieo trồng Lúa Diện tích Năng suất Sản lượng Ngô Diện tích Năng suất Sản lượng Sắn Diện tích Năng suất Sản lượng Lạc Diện tích Năng suất Sản lượng Nhãn Diện tích Năng suất Sản lượng xoài Diện tích Năng suất Sản lượng Cam, quýt Diện tích Năng suất Sản lượng
( Nguồn: Phòng NN&PTNT, năm 2018)
37
Từ bảng trên ta thấy: Cây trồng chủ yếu trên toàn huyện là: Lúa, ngô, lạc,
sắn. Một số cây lâu năm nhãn, xoài, cam,quýt.
Cây lúa : Do xã có nhiều sông suối và điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi
tạo điều kiện cho cây lúa phát triển. Qua 3 năm ta thấy diện tích trồng lúa của toàn xã
Huổi Một có xu hướng tăng lên, năm 2016 là 376,6 ha đạt 54,6 tạ/ha thì đến năm
2018 với diện tích là 421,7 ha và đạt 58,7 tạ/ha.
Cây ngô: Do điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi tạo điều kiện cho cây ngô
phát triển. Phòng nông nghiệp phối hợp trạm khuyến nông huyện giới thiệu và khuyến
khích người dân sử dụng các giống ngô lai có năng suất cao có khả năng chống chịu
bệnh tốt như DK8868, NK66BT/GT, NK4300Bt/GT. Năm 2017 diện tích trồng
ngôgiảm kéo theo sản lượng giảmtấn so với năm 2016.
Cây lạc: Tổng diện tích gieo trồng năm 2017 so với năm 2016 tăng 1,1 ha,
năng suất bình quân năm 2017 đạt 21 tạ/ha, sản lượng tăng 1,7 tấn so với 2016.
Cây sắn : Do điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi tạo điều kiện cho cây sắn
phát triển. Phòng nông nghiệp phối hợp trạm khuyến nông huyện giới thiệu và khuyến
khích người dân sử dụng và trồng sắn có năng suất cao có khả năng chống chịu bệnh
tốtdiện tích trồng sắn qua 3 năm tăng lên đáng kể, năm 2016 là 676,4 ha đạt 64 tạ/ha
nhưng đến năm 2018 tăng lên 880,5 ha đạt 63,2 tạ/ha.
Cây nhãn: Là xã có diện tích đất lâm nghiệp lớn điều kiện khí hậu thời tiết
thuận lợi nên cây nhãn là cây lâu năm được người dân ở địa phương trồng với số
lượng lớn, qua 3 năm diện tích trồng nhãn có xu hướng tăng lên năm 2016 là 421,28
ha, đạt 48 tạ/ha với sản lượng là2022,1tấn. Đến năm 2018 với diện tích 513,28ha , đạt
53 tạ/ha với sản lượng đạt 2720,3 tấn.
Cây xoài: xoài qua 3 năm có xu hướng tăng lên năm 2016 18,35 ha đạt 51tạ/ha,
năm 2018 với diện tích gieo trồng được cải thiện thì toàn xã có 30,35 ha xoài với
năng suất là 60 tạ/ha, sản lượng đạt 182,1 tấn.
38
Bảng 4.3. Số lượng gia súc, gia cầm của xã Huổi Một giai đoạn 2016 – 2018
(ĐVT:con)
Chỉ tiêu 2016 2017 2018
Đàn Trâu 805 745 802
Đàn lợn 2618 2784 2634
Đàn bò 1954 1876 2013
Đàn gia cầm 69.583 71.312 72.710
Đàn dê 1296 1432 1643
(Nguồn: Phòng NN&PTNT, năm 2016-2018)
Qua bảng trên ta thấy:
- Đối với Trâu, Bò: Qua các năm đều có sự tăng nhẹ, năm 2017 tổng đàn trâu
trên toàn xã là 745 con giảm 60 con so với (năm 2016). Nguyên nhân là do đầu vụ
xuân thời tiết rét hại và sét đánh làm chết 35 con trâu trên địa bàn xã, và do điều kiện
kinh tế gia đình nên một số hộ đã bán để mua máy cày, máy bừa áp dụng cơ giới hóa
vào sản xuất nông nghiệp. Đến năm 2018 tổng đàn trâu đã tăng lên. Tổng đàn bò trên
toàn xã từ năm 2016 đến 2018 có sự tăng giảm qua các năm là do nhân dân dần
chuyển từ chăn nuôi bò sang chăn nuôi một số con khác.
- Đối với Dê: Tổng đàn Dê năm 2016 trên địa bàn huyện là 1296 con, đến năm
2017 và 2018 thì tổng đàn Dê đã tăng 347 con. Do còn phụ thuộc vào điều kiện, khu
vực chăn thả nên một số xã có điều kiện thuận lợi cho phát triển chăn nuôi Dê tập
chung ở bản Noong ke, Bản kéo, Huổi vảng và Bản Pản.
- Đối với Lợn: Năm 2016 số lợn của xã là 2618 con đến năm 2017 đàn lợn
có 2784 con tăng 256 con so với năm trước, nhưng đến năm 2018 thì đàn lợn giảm
còn 2534 con, tổng đàn lợn giảm là do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp nên
giá lợn bị giảm mạnh vậy nên người dân không muốn đầu tư nhiều sợ rủi ro, thiệt
hại nhiều.
- Đối với Gia cầm: Có sự tăng nhẹ qua từng năm, do xã có triển khai một số
mô hình chăn nuôi gà, vịt với quy mô lớn, dẫn đến một số hộ gia đình đã thay đổi
nhận thức chuyển từ hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ sang hình thức chăn nuôi với quy mô
lớn hơn, chăm sóc chuồng trại một cách khoa học, phòng bệnh và trị bệnh cho gia
39
cầm đúng cách, có thị trường tiêu thụ tốt và ổn định, giá cả ổn định cũng như thu
nhập của người dân cũng ổn định hơn.
- Qua những nhận xét trên đã khẳng định vai trò quan trọng của cán bộ phụ
trách lĩnh vực chăn nuôi trong việc chuyển giao các giống vật nuôi tốt, các kỹ thuật
chăm sóc và công tác thú y cho người dân giúp người dân tích cực chăn nuôi đúng
cách để nâng cao chất lượng cuộc sống. Và một vài năm gần đây chăn nuôi trên địa
bàn huyện đã chuyển từ chăn nuôi với quy mô hộ gia đình đã chuyển sang chăn nuôi
tập trung làm cho sự phát triển chăn nuôi của toàn huyện phát triển bền vững.
4.1.2.2. Dân số, lao động
Bảng 4.4. Tình hình dân số và lao động giai đoạn 2016 -2018
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Chỉ tiêu
ĐVT
CC
CC
SL
SL
CC (%)
SL
(%)
(%)
Khẩu
7317
100,00 7.465
100,00
7.172
100,00
1. Tổng số nhân khẩu
1375
100,00 1.381
100,00
1.381
100,00
Hộ
2. Tổng số hộ
Hộ nông nghiệp
872
63,42
854
61,84
843
61,04
Hộ
Hộ phi nông nghiệp
453
32,94
470
34,03
475
34,40
Hộ
Hộ kiêm
50
3,64
57
4,13
63
4,56
Hộ
6.867
100,00 6.988
100,00
6.872
100,00
Người
3. Tổng số lao động
Lao động nam
3.473
47,47
3.436
46,03
3.568
49,75
Người
Lao động nữ
3.394
46,39
3.552
47,58
3.604
50,25
Người
Lao động nông nghiệp
4.326
62,30
4262
60,70
4.123
60,00
Người
Lao động phi nông nghiệp Người
2541
37,70
2726
39,30
2749
40,00
4. Một số chỉ tiêu BQ
BQ nhân/hộ
Khẩu/hộ
5,3
_
5,4
_
5,2
_
BQ lao dộng/hộ
Khẩu/hộ
5,0
_
5,0
_
4,98
_
(Nguồn: UBND xã Huổi Một)
Tổng số lao động trong toàn Xã năm 2018 là 6.872 người, chiếm 95,81% dân
số. Trong đó lao động nông nghiệp là 4.123 người chiếm 60% lao động của xã. Lao
động phi nông nghiệp là 2.749 người chiếm 40% lao động của xã.
Xã Huổi Một sản xuất nông nghiệp là chủ yếu nên các hộ phi nông nghiệp, hộ
40
kiêm chiếm tỷ lệ nhỏ, qua các năm hộ phi nông nghiệp có xu hướng giảm xuống. Số
hộ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu nên lao động nông nghiệp chiếm đa số trong tổng
số lao động trong xã.
Đa số dân cư trong xã đều sống bằng nghề nông, do sản xuất nông nghiệp
mang tính chất thời vụ nên có hiện tượng dư thừa lao động theo thời vụ. Do đó chủ
trương của xã đang khuyến khích phát triển ngành nghề tại xã, tạo công ăn việc làm
cho lao động tại địa phương, góp phần tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống vật
chất cũng như tinh thần cho người dân trong địa phương.
4.1.2.3. Phụ nữ tham gia công tác xây dựng Đảng và chính quyền
Xã có 24 bản, 1.381 hộ với 7.172 khẩu gồm có 5 dân tộc cùng chung sống
trong đó dân tộc Mông 549 hộ có 3.819 nhân khẩu chiếm 53,22% dân số toàn xã; dân
tộc Thái 427 hộ có 1945 nhân khẩu chiếm 27,97 dân số toàn xã; dân tộc Khơ Mú 178
hộ có 817 nhân khẩu chiếm 11,53% dân số toàn xã; dân tộc Sinh Mun 117 hộ có 486
nhân khẩu chiếm 7%; dân tộc Kinh 19 hộ có 75 nhân khẩu chiếm 0,8% dân số toàn
xã.
Bảng 4.5. Cơ cấu dân số phân theo dân tộc và giới tính
của xã Huổi Mộttính đến tháng 5 năm 2019
Giới tính
Nam Nữ STT Dân tộc Số lượng Số lượng CC (%) CC (%) (người) (người)
1 Mông 25,98 1.986 27,69 1.863
2 Thái 12,87 1.022 14,24 923
3 Khơ Mú 5,28 438 6,10 379
4 Sinh Mun 3.10 263 3,66 223
5 Kinh 0,61 31 0,43 44
3740 3432 Tổng cộng
(Nguồn:UBND xã Huổi Một, 2019)
Hiện nay, người phụ nữ ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong xã
hội, ở các cấp, các ngành lực lượng cán bộ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo ngày
41
một tăng lên. Tuy nhiên xã Huổi Một, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo ở các cấp,
các ngành còn chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của địa phương cũng như quá trình
phát triển của nền kinh tế đất nước. Bảng 4.6 ở trên cho thấy cán bộ nữ tham gia lãnh
đạo chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Bảng 4.6.Phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp đảng ủy,
chính quyền và đoàn thể 2019
Các chức danh Tổng số Nữ Nữ dân tộc
( người) Số lượng CC Số lượng CC
(người) (%) (người) (%)
Lãnh đạo cấp Uỷ Đảng 2 - - - -
Lãnh đạo UBND xã 3 - - - -
Tham gia ban chấp hành Đảng 11 1 9 1 9
ủy xã
Số Đảng viên 281 40 14,23 40 14,23
Hội đồng nhân dân 28 9 32,14 9 32,14
(Nguồn: Thu thập số liệu của tác giả, 2019)
Tổng số phụ nữ tham gia lãnh đạo các cấp Uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể
không có. Tham gia hội đồng nhân dân có 32,14% còn lại trong các chức danh khác
không có mặt của phụ nữ. Xã Huổi Một có 24 bản, tuy nhiên trưởng các bản 100% là
nam giới. Nguyên nhân của tình trạng này do nhiều yếu tố mang lại như: Nhận thức
của các cấp ủy, chính quyền về BĐG, về vai trò, năng lực của phụ nữ còn hạn chế;
hoặc do áp lực công việc gia đình khiến người phụ nữ không làm tốt nhất công việc
của mình, do đó bị đánh giá sai năng lực... Để tăng tỷ lệ nữ tham gia vào hoạt động
lãnh đạo ở các cấp, chính quyền các cấp cần quan tâm hơn nữa tới công tác bồi dưỡng
cán bộ nữ, nhận thức đầy đủ hơn về năng lực và vai trò của cán bộ nữ; gia đình cần
động viên, ủng hộ họ tham gia vào công tác lãnh đạo và hơn hết, người phụ nữ phải
nâng cao trình độ bản thân và nhận thức đúng về vị thế của mình trong hoạt động
đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
42
Bảng 4.7. Trình độ của cán bộ nữ tham gia hội đoàn thể nhiệm kỳ 2016 – 2018
Trình độ Số lượng CC
(người) (%)
2 50 THPT
1 25 Trung cấp
- - Cao đẳng
1 25 Đại học
4 100 Tổng cán bộ nữ
(Nguồn: Thu thập số liệu của tác giả, 2019)
Cán bộ các hội, đoàn thể là nguồn lực quan trọng trong sự phát triển của hội
nói chung và và sự phát triển của các hội viên các hội, đoàn thể nói riêng. Đây là lực
lượng chủ chốt lĩnh hội các kiến thức về các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, triển khai các chương trình phát triển kinh tế xã hội, xây dựng gia
đình ấm no, hạnh phúc, có lối sống lành mạnh và các chương trình nâng cao nhận thức
cho các hội viên trong tổ chức hội.
Qua bảng 4.7 có thể thấy trình độ của cán bộ hội đoàn thể chưa cao. Các cán
bộ hội, đoàn thể chủ yếu là trình độ trung cấp và trình độ Đại học chiếm 25%, Hoạt
động chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, sự năng động sáng tạo trong công việc
còn thiếu. Điều này là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động của hội, đoàn
thể bị yếu kém, công tác tổ chức, vận động và tuyên truyền các kiến thức, chương
trình, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan trực tiếp đến các hội
viên phần nào bị hạn chế. Vì vậy, để phát huy hơn nữa vai trò của các hội, đoàn thể
tới các hội viên thì chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào
tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ địa phương mình.
4.1.2.4. Cơ sở hạ tầng
Để phát triển kinh tế nông thôn thì cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước, cơ
sở vật chất, hạ tầng cũng là điều kiện phát triển kinh tế. Vì thế, trong những năm qua,
được sự quan tâm sát sao của Đảng ủy, UBND thành phố Sơn La; UBND phường và
nhân dân đã cơ bản hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng của xã bao gồm các công trình: Điện,
đường, trường, trạm.
43
* Giao thông
Hệ thống đường giao thông của xã bao gồm các tuyến đường chính sau:
- Xã có QL 4G chạy qua địa bàn với chiều dài 23 km, nó không chỉ là đường
chính nối với một số bản trong xã, mà nó còn mang một ý nghĩa rất quan trọng trong
việc thúc đẩy nền kinh tế xã hội của xã phát triển.
- TL 4G đi xã Nậm Mằn dài 7 km (nền đường đất)
-TL 4G đi bản Nong Ke 12 km được nâng cấp mở rộng (nền đường đất)
- TL 4G đi bản Túp Phạ A trên 5km được nâng cấp và mở rộng (nền đường
đất)
Ngoài các đường kể trên còn 39,9 km đường trục thôn nối liền giữa các bản,
26,65 km đường ngõ xóm của 24 bản 57,2 km đường trục nội đồng. Nhìn chung chất
lượng đường của xã còn thấp chủ yếu là đường đất bề rộng từ 2- 4 m, vào mùa mưa
việc đi lại của một số bản còn gặp nhiều khó khăn.
* Điện
- Trên địa bàn xã có các công trình thủy điện dọc theo suối Nậm Công đó là :
Thủy lợi, thủy điện Nậm Công I, thủy điện Nậm Công III, thủy điện Nậm Công IV,
thủy điện Nậm Công V và thủy điện Tà Cọ. Tuyến kênh mương thủy lợi Hải Sơn,
Hương Sơn và hệ thống các suối đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nước
cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân trong xã cũng như các xã lân cận như: Chiềng
Khoong, Nà Nghịu.
- Ngoài ra trên địa bàn xã còn có 21 công trình thủy lợi khác nhau, trong đó có
4 phai được xây dựng kiên cố đó: Phai Lòng Mòn (bản Lòng Mòn), phai Co Kiểng
(bản Co Kiểng), phai Lạng Băng (bản Co Kiểng) và thủy lợi - thủy điện Nậm Công I
(bản Hợp Tiến) với tổng số km kênh mương là 26,44 km (trong đó số km kênh mương
được xây dựng kiên cố là 10,37 km, kênh đất là 14,6 km, đường ống là 1,47 km) phục
vụ tưới tiêu cho 44 ha hoa màu và cung cấp nước cho mục đích nuôi trồng thủy sản.
17 phai gỗ tạm với tổng chiều dài kênh mương là 21,6 km (100% là kênh đất) phục
vụ tưới tiêu cho 55,16 ha hoa màu và cung cấp nước cho nuôi trồng thủy sản. Nhìn
chung số lượng các công trình thủy lợi phần nhiều chưa được xây dựng kiên cố vì
vậy các tuyến kênh mương này thường bị sạt lở vào mùa mưa.
44
* Bưu chính viễn thông
- Về năng lượng: Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước hệ thống điện lưới
quốc gia đã và đang được đầu tư, thực hiện. Hiện tại chỉ có 3 bản chưa được cấp điện
lưới quốc gia. Việc đưa điện lưới quốc gia vào sử dụng đã tạo điều kiện nâng cao hiệu
quả sản xuất cugx như đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân.
- Về bưu chính viễn thông: Hệ thống bưu chính viễn thông của xã đã và đang
trên đà phát triển với hệ thống dịch vụ công nghệ tiên tiến, cả 24/24 bản trong xã đã
được phủ song điện thoại di động.
4.1.2.5. Văn hóa, giáo dục
* Văn hóa:
- Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được quan tâm chỉ đạo,
các hoạt động diễn ra sôi nổi đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần và
sức khỏe cho nhân dân. Toàn xã có 01 nhà văn hóa xã, 8/24 bản có nhà văn hóa.
20/24 bản có đội văn nghệ quần chúng, 15 đội bóng đá, 12 đội bóng chuyền thường
xuyên tổ chức thi đấu giao lưu nâng cao trình độ dân trí và góp phần nâng cao đời
sống nhân dân.
- Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai
rộng rãi trên địa bàn, góp phần phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp, ngăn chặn đẩy lùi
các tệ nạn xã hội. Năm 2015 số bản đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt 51,82% 43,66 số hộ
đạt gia đình văn hóa. Các hoạt động thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng từ huyện tới cơ sở được tổ chức tốt, các chủ chương của Đảng,
chính sách pháp luật được phổ biến kịp thời tới nhân dân. Phong trào xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
* Giáo dục:
- Chỉ đạo 04 đơn vị trường học trên địa bàn xã thực hiện tốt công tác kế hoạch
năm học, thực hiện tốt việc duy trì dạy và học, đảm bảo sĩ số học sinh đến lớp cụ thể
từng trường như sau: năm học 2017-2018;
- Trường phố thông dân tộc bán trú THCS tổng số lớp học 14 lớp; tổng số học
sinh 530 em. Kiểm tra chuyển lớp và tốt nghiệp THCS 124/124 em đạt 100%.
- Trường Tiểu học xã Huổi Một tổng số lớp học 18 lớp; tổng số học sinh 505
em. Kiểm tra chuyển lớp 5 lên lớp THCS 92/110 em đạt 82,6%
45
- Trường Tiểu học Nậm Công tổng số lớp học 17 lớp; tổng số học sinh 453
em. Kiểm tra chuyển lớp 5 lên lớp 6 THCS 53/66 em đạt 80,3 %
- Trường Mầm non Ban mai tổng số lớp học 22 lớp; tổng số học sinh 635 em.
+ Công tác tổ chức nấu ăn cho học sinh bán trú.
Các trường đã thực hiện tốt chính sách đối với học sinh con hộ nghèo theo Quyết định
112/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ. Tổ chức tốt nấu ăn tập trung cho học sinh
bán trú tại trường PTDTBTTHCS với tổng số học sinh 343 em; Trường Tiểu học
Huổi Một với tổng số học sinh 218 em; Tiểu học Nậm Công 102 em.
Các trường đã tổ chức kiểm kê tài sản nhà trường và có kế hoạch bảo vệ, xây dựng,
tu sửa trường lớp học trong thời gian nghỉ hè.
* Y tế:
- Trạm y tế xã gồm 5 giường bệnh với 7 cán bộ y tế gồm: 01 bác sĩ, 01 y sỹ, 3
điều dưỡng, 2 nữ hộ sinh. Trong những năm qua trạm y tế đã làm tốt công tác tuyên
truyền vận động nhân dân phòng chống dịch bệnh. Phát triển và điều trị kịp thời các
trường hợp mắc bệnh không để xẩy ra dịch bệnh trên địa bàn xã. Công tác dân số kế
hoạch hóa gia đình được đẩy mạnh. Trong năm 2014 đã khám chữa bệnh cho3.367
lượt người, điều trị nội trú, ngoại trú cho 2.316 lượt. Bệnh nhân chuyển lên tuyến
huyện 1.019 lượt người. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm 24% từ năm 2010 đến nay.
Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đạt 87%. Tỷ lệ tăng dân số giảm còn 1,4%.
- Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được quan tâm chỉ đạo không có
dịch bệnh xảy ra. Thực hiện tốt việc khám chữa bệnh cho nhân dân, các đối tượng
thuộc Quyết định số: 139/QĐ-CP của Thủ Tướng Chính phủ và trẻ em dưới 6 tuổi. Y
tế bản đã vận động nhân dân vệ làng bản, ăn chín, uống sôi, ngủ mắc màn và cách
phòng trừ dịch bệnh. Sáu tháng đầu năm đã khám chữa bệnh được 417 bệnh nhân;
tiêm chủng đầy đủ được 29 cháu;tiêm phòng uốn ván được 23 người, trẻ em được
uống VitaminA 845 trẻ, trẻ được uống thuốc tẩy giun 845 trẻ.
- Thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình sử dụng các biện pháp
trách thai 23 người đăng ký mới 6 tháng đầu năm. Tổng sinh 6 tháng đầu năm 39
người trong đó nam 25, nữ 14 tỷ lệ giới tính nam 1,7/1 nữ. Sinh con thư 3 - 4 có 4
cặp vợ chồng chiếm 10,2%.
* Công tác khuyến nông, khuyến lâm:
46
Hệ thống công tác khuyến nông – khuyến lâm được củng cố, hoạt động có
hiệu quả. Thường xuyên phối hợ với các tổ chức đoàn thể trong việc áp dựng KHKT
vào sản xuất, chủ động thông báo và đăng ký những loại giống ngô, lúa, phân bón,…
đáp ứng đủ và kịp thời vụ cho nhân dân.
4.1.2.6. An ninh trật tự:
Thực hiện Kế hoạch số 136-KH/HU, Quyết định số 357-QĐ/HU ngày
22/12/2017 của huyện ủy Sông Mã và Kế hoạch số 02-KH/TTr-VD ngày 02/3/2018
của Ban dân vận huyện ủy Sông Mã về việc triển khai cuộc vận động toàn dân tham
gia chuyển hóa địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh trật tự tại xã Huổi Một đã tổ
chức hội nghị triển khai 24/24 bản, số người dân đại diện hộ gia đình tham dự hội
nghị 1.369/1.381 người đạt tỷ lệ 99,1% có một số hộ vắng có lý do; những dự hội
nghị đã ký bản kết không vi phạm pháp luật và ghi phiếu phát giác, tố giác tội phạm
đạt 100%.
Tình hình an ninh chính trị trật tự an toàn xã trên địa bàn xã được đảm bảo,
lực lượng chức năng tăng cường các hoạt động bám nắm địa bàn, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền phòng, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội, nắm chắc các đối tượng tiền
án, tiền sự, các đối tượng đến tạm trú, tạm vắng.
4.2.Thực trạng vai trò của phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh tế hộ gia
đình xã Huổi Một
4.2.1.Thông tin chung về các hộ điều tra
4.2.1.1. Một số thông tin cơ bản của các nhóm hộ điều tra
Người phụ nữ nông thôn nói chung và phụ nữ dân tộc Mông nói riêng bao giờ
cũng là trung tâm của các gia đình. Họ là một trong hai chủ thể chính tạo nên sức
sống cả về vật chất và tinh thần của một gia đình. Thực trạng đời sống của một gia
đình là sự thể hiện thực tại vai trò và địa vị của người phụ nữ. Hiện nay, cùng với sự
đi lên của nền kinh tế, bộ mặt KTXH nông thôn cũng đang từng bước chuyển mình
theo hướng tích cực trên mọi phương diện: kinh tế, văn hóa, xã hội, kể cả năng lực
của người phụ nữ. Để có cái nhìn tổng quát về hộ gia đình và thực trạng vai trò của
phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển kinh tế hộ, em tiến hành điều tra 40 hộ dân tộc
Mông để có được các thông tin cần thiết phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
47
Bảng 4.8. Thông tin chung về các nhóm hộ điều tra
Tổng Chỉ tiêu ĐVT CC (%) SL
100 Hộ 40 Tổng số hộ điều tra
1.Giới tính chủ hộ
Nam chủ hộ Hộ 37 92,5
Nữ chủ hộ Hộ 3 7,5
2.Loại hộ
Nông nghiệp Hộ 27 67,5
Phi nông nghiệp Hộ 9 22,5
Hộ kiêm Hộ 4 10,0
3.Kinh tế của hộ
Khá - giàu Hộ 10 25,0
Trung bình Hộ 12 30,0
Nghèo Hộ 18 45,0
Người 225 100 4.Số nhân khẩu
Số nhân khẩu bình quân/hộ Người/hộ 5,62 -
Người 151 100 5.Số lao động
Số lao động bình quân/hộ LĐ/hộ 3,77 -
6. Trình độ học vấn của chủ hộ
Không học Người 17 42,5
Tiểu học Người 9 22,5
THCS Người 7 17,5
THPT Người 3 7,5
TC -CĐ - ĐH Người 4 10,0
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, 2019)
Qua bảng 4.8, ta thấy: trong gia đình, phần lớn các chủ gia đình đều là nam
giới (chiếm 92,5%), tỉ lệ phụ nữ làm chủ hộ thấp, chỉ chiếm 7,5%. Phụ nữ Mông có
vai trò quan trọng trong gia đình nhưng với cương vị người chủ quyền quyết định
công việc lại mờ nhạt, quyền hạn đó không vượt qua việc mua bán lương thực và các
48
nhu cầu cơ bản của các thành viên, công việc chăm sóc con cái trong gia đình. Các
hộ có nữ giới làm chủ hộ hầu hết là do chồng mất hoặc không có chồng, qua đó cho
thấy những hộ này, người phụ nữ thật vất vả và phải tự nuôi con một mình.
Tỷ lệ hộ phi nông nghiệp rất thấp, chiếm 22,5%, đa phần các hộ làm nông
nghiệp, chiếm tỷ lệ cao nhất 67,5%, chỉ có một số ít là hộ kiêm.
Nhóm hộ khá-giàu chiếm tỷ lệ thấp 25%. Phần lớn, nhóm hộ khá -giàu thường rơi
vào các hộ kiêm, hộ phi nông nghiệp, hộ thuần nông chiếm tỷ lệ thấp hơn. Hộ trung
bình chiếm tỷ lệ (30%), chủ yếu là các hộ làm nông nghiệp. Những hộ này chủ yếu
là các hộ đã biết chi tiêu một cách có kế hoạch, am hiểu và chăm chỉ làm ăn, ngoài
thời gian nông nhàn, những hộ này chủ yếu có chồng làm thêm nghề hoặc dịch vụ
giúp tăng thêm thu nhập cho gia đình, người vợ mạnh dạn áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật vào trồng trọt, chăn nuôi.
Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 45%. Những hộ nghèo trong nhóm hộ điều tra, theo em
do nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng nghèo, song
chủ yếu vẫn là nguyên nhân chủ quan. Họ chi tiêu không có kế hoạch, không có sự
tích lũy, cộng với ốm đau bệnh tật và sinh đẻ không có kế hoạch, thiếu đất, thiếu vốn
sản xuất. Một số hộ không có chồng hoặc chồng không minh mẫn nên người vợ phải
gánh vác phần lớn công việc trong gia đình. Nhưng nguyên nhân chính dẫn đến nghèo
là do bệnh tật, thiếu lao động. Do đó, mà xã cần có các chương trình hỗ trợ, động viên
để những hộ này vươn lên làm giàu.
Sản xuất nông nghiệp cũng đòi hỏi rất nhiều về khoa học kỹ thuật. Vì thế, kiến thức
hay trình độ học vấn của chủ hộ cũng và các thành viên trong gia đình cũng ảnh
hưởng đến nền kinh tế gia đình nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
Học vấn của các hộ điều tra tương đối đồng đều, có 9hộ học tiểu học chiếm
22,5%,Số hộ học THCS là 7 người chiếm 17,5%. số hộ học THPT có 3 người chiếm
tỷ lệ 7,5%. và 4hộ học TC-CĐ-ĐH, chiếm 10%. Từ bảng 4.8 cho ta thấy tỷ lệ mù chữ
ở vùng sâu vùng xa vẫn còn ở mức độ cao trong 40 hộ điều tra có tới 17 hộ không có
trình độ học vấn chiếm 42,5%.
Một điểm giống nhau ở cả 3 nhóm hộ là số lao động nữ nhiều hơn lao động nam,
chiếm trên 50% tổng số lao động, điều đó chứng tỏ, các công việc trong gia đình đều
49
do phái nữ đảm nhiệm. Vậy vấn đề đặt ra là phải làm sao giảm bớt gánh nặng công
việc cho người phụ nữ để họ có điều kiện học tập và nghỉ ngơi.
4.2.1.2. Những thông tin cơ bản về phụ nữ ở các hộ điều tra
Phụ nữ có vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống. Trình độ học vấn, độ
tuổi của phụ nữ sẽ phần nào phản ánh khả năng tiếp thu KHKT hay khả năng thực
hiện các công việc trong gia đình. Những thông tin cơ bản về phụ nữ ở các nhóm hộ
được thể hiện qua bảng 4.9.
Bảng 4.9. Thông tin về phụ nữ ở các hộ điều tra
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra,2019)
Tổng Chỉ tiêu SL (người) CC (%)
Tổng số phụ nữ trong nhóm hộ điều tra 77 100,00
1.Theo độ tuổi
18 - 50 tuổi 62 80,52
>=50 tuổi 15 19,48
2. Theo trình độ
Không học 36 46,75
Tiểu học 10 13,00
THCS 13 16,88
THPT 14 18,18
TC – CĐ - ĐH 4 5,19
Về cơ cấu nhóm tuổi: Trong số 77 phụ nữ được điều tra thì chỉ có 15 phụ nữ
≥ 50 tuổi (chiếm 19,48%), còn lại 62 phụ nữ trong độ tuổi từ 18-50 tuổi (80,52%).
Đây là độ tuổi mà khả năng lao động vẫn còn tốt, hiệu quả cao.
Về trình độ học vấn:
Ta thấy rằng ở vùng sâu vùng xa tình trạng mù chữ vâng còn cao cụ thể: Tỷ lệ
mù chữ 36 người chiếm 46,75%.Do hoàn cảnh cò nhiều khó khăn nên phụ nữ dân tộc
Mông từ bé không được đến trường phải ở nhà trong em, phụ giúp bố mẹ công việc
trong gia đình.
Có 13,0% người có trình độ tiểu học, có 16,88% người có trình THCS. Số
người có trình độ THPT là 14 người, chiếm 18,18% và TC-CĐ-ĐH là 4 người, chiếm
50
5,19%. Có thể thấy, khả năng tiếp thu những cái mới, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất và đời sống của chị em là khá thấp.
4.2.2. Phụ nữ dân tộc Mông trong các hoạt động sản xuất
Ngày nay, tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập kinh tế cho gia đình không
còn chỉ riêng trách nhiệm của nam giới, trách nhiệm này đã có thêm vai trò của phụ
nữa. Đặc biệt, tại khu vực nông thôn, người phụ nữ ngoài công việc nội trợ trong gia
đình còn cùng người chồng, nam giới tham gia vào công việc đồng áng, các hoạt động
sản xuất nhằm tăng thêm nguồn thu nhập.
4.2.2.1. Phụ nữ dân tộc Mông trong hoạt động trồng trọt và chăn nuôi
Trong 40 hộ được điều tra thì các hộ chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (67,5%),
trên địa bàn xã, ngoài trồng lúa thì các hộ còn trồng rau màu, trồng ngô, trồng
lạc,…Luân canh cây trồng giúp các hộ có thêm thu nhập nhưng đồng thời với đó là
sự vất vả của cả vợ và chồng. Quá trình phân công lao động trong hoạt động trồng
trọt ở các hộ điều tra được thể hiện qua bảng sau:
51
Bảng 4.10. Phân công lao động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp tính đến tháng 5 năm 2019
ĐVT; %
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra, 2019)
Hộ giàu-khá (n=10)
Hộ trung bình (n=12)
Hộ nghèo (n=18)
Hoạt động
Vợ
Chồng Cả hai
Vợ
Chồng
Cả hai
Vợ
Chồng
Cả hai
Trồng trọt
Chọn giống (quyết định trồng cây gì …)
10
20
70
16,72
36,12
47,16
8,25
47,21
44,54
Làm đất (cày bừa…)
10
30
60
11,23
34,56
54,21
7,25
48,27
44,48
Trồng cây
-
55
45
12,32
41,24
46,44
8,69
39,46
51,85
Mua vật tư (phân bón…)
30
10
60
35,56
35,74
28,70
36,46
32,74
30,80
Chăm sóc (bón phân, làm cỏ…)
40
20
40
45,37
13,76
40.13
65,23
8,76
26,01
Thu hoạch
20
10
70
51,28
12,43
36,29
31,76
16,38
51,86
Bảo quản sau thu hoạch (phơi, sấy…)
50
10
40
64,70
12,53
22,77
77,23
-
22,77
Tìm thị trường tiêu thụ
20
50
30
6,18
74,52
19,30
16,48
14,53
68,99
Bán NS (quyết định thời điểm bán …)
10
30
60
3.42
53,16
43,42
8,79
61,63
29,58
Chăn nuôi
Chọn giống(quyết định nuôi con gì …)
40
10
50
12,36
30,41
57,23
8,62
38,56
5282
Làm chuồng
-
40
60
-
57,63
42,37
0
75,92
24,08
Mua vật tư (cám tăng trọng…)
30
20
50
27,54
27,63
64,83
17,34
42,35
40,31
Chăm sóc
60
10
30
11,76
19,29
68,95
51,84
22,34
25,82
Đi bán (quyết định thời điểm bán …)
10
30
60
6,37
35,76
57,87
-
32.41
67,59
52
Qua bảng 4.10, cho thấy phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp tại
các hộ nghiên cứu trên địa bàn xã Huổi Một như sau: Qua điều tra 3 nhóm hộ thì hộ
khá là nhóm có sự chia sẻ trong các công việc đồng áng cao nhất. Các công việc trong
hoạt động trồng trọt, người được điều tra trả lời rằng đó là công việc của cả hai là rất
cao, tức là họ đã có sự bàn bạc trong việc quyết định các hoạt động sản xuất, chăn
nuôi của hộ gia đình.
Ở nhóm hộ khá, nhiều khâu trong hoạt động sản xuất, người phụ nữ cũng tham
gia nhiều hơn so với hai nhóm hộ còn lại. Như khâu chọn giống, 40% do người phụ
nữ quyết đinh, 10% do người chồng và 50 % có sự bàn bạc của cả hai. Tỷ lệ này ở
nhóm hộ trung bình và hộ nghèo có thấp hơn và thấp nhất là ở hộ nghèo, sự bàn bạc
trong gia đình không cao, chỉ chiếm 38,56%. Quyết định trồng cây gì, nuôi con gì
vẫn chủ yếu thuộc về người đàn ông. Trong một số hoạt động khác như làm đất, làm
chuồng, người đàn ông vẫn đảm nhiệm chính, và tỷ lệ này cũng có xu hướng giảm
khi nghiên cứu hai nhóm hộ trung bình và nghèo.Đặc biệt là ở nhóm hộ nghèo, sự
tham gia của phụ nữ trong hai hoạt động trên so với người đàn ông trong gia đình tuy
có thấp hơn, nhưng vẫn là cao hơn khi so sánh với sự tham gia của phụ nữ ở hai nhóm
hộ kia. Hoạt động này ở hộ khá cũng có sự thuê ngoài nhiều hơn. Do đây là nhóm hộ
có điều kiện kinh tế tốt hơn. Các hoạt động mua vật tư, chăm sóc, thu hoạch, bảo
quản, tìm thị trường, thì lại chủ yếu là công việc của phụ nữ.
Tuy nhiên ở cả 3 nhóm hộ đều có sự chia sẻ công việc trong các hoạt động
này, sự chia sẻ cao nhất ở nhóm hộ khá và thấp nhất ở nhóm hộ nghèo. ở nhóm hộ
khá việc bán sản phẩm do gia đình tạo ra chủ yếu là công việc của phụ nữ. Ngược lại
ở nhóm hộ nghèo thì công việc này chủ yếu là do người đàn ông quyết định.
Qua bảng phân công lao động 4.10 có thể thấy, sự tham gia của người phụ nữ
vào các hoạt động sản xuất chiếm tỷ lệ rất cao, họ đã khẳng định vai trò quan trọng
của mình trong các hoạt động sản xuất, tạo thu nhập. Và sự san sẻ công việc đồng
áng được thể hiện rõ ở nhóm hộ giàu-khá và trung bình. Nhóm hộ nghèo hầu hết các
công việc nặng vẫn đặt lên vai người phụ nữ. Họ phải đảm đương quá nhiều mà ít có
sự chia sẻ từ phía người đàn ông trong gia đình.
4.2.2.2. Phụ nữ dân tộc Mông trong hoạt động dịch vụ, buôn bán:
Trong 40 hộ điều tra có 22 hộ tham gia hoạt động dich vụ, buôn bán. Chủ yếu
là hoạt động buôn bán, dịch vụ nhỏ lẻ. Cả 22 hộ này đều thuộc nhóm hộ khá – trung
bình, không có hộ nghèo. Quá trình phân công lao động trong hoạt động này được
53
tổng hợp tại trong bảng sau:
Bảng 4.11. Phân công lao động trong hoạt động buôn bán, dịch vụ
của các hộ điều tra
(ĐVT: %)
Người đảm nhiệm Các hoạt động Nam Cả hai Thuê Nữ
Quản lý thu, chi, thanh toán 30 - - 70
Vận chuyển, bốc dỡ, áp tải hàng 85,50 8,25 6,25
Trực tiếp phục vụ hay bán hàng 13,50 60,50 - 26
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra,2019)
Việc tiếp cận nguồn vốn cũng là một yếu tố quan trọng trong sản xuất. Đa
phần các hộ đều vay từ Ngân hàng, một bộ phận vay từ các tổ chức, đoàn thể ở xã
như Hội phụ nữ, Hội nông dân, quỹ xóa đói giảm nghèo,…Khi vay ở các tổ chức
đoàn thể thì không cần có tài sản thế chấp nhưng vay ở ngân hàng lại khác. Để vay
vốn ở ngân hàng, gia đình phải có tà sản thế chấp, mà các hộ chỉ có đất đai là tài sản
giá trị nhất. Nhiều khi người chồng không quan tâm đến chuyện làm ăn, mọi việc
trong nhà đều do người vợ quyết định và thực hiện nhưng chồng lại là chủ hộ. Điều
này làm hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn của phụ nữ, từ đó mà có thể ảnh hưởng
tới hiệu quả sản xuất kinh doanh. Số liệu trong bảng 4.12 sẽ cho ta thấy nguồn vốn vay
của các hộ điều tra:
Bảng 4.12. Nguồn vay vốn của các hộ điều tra
Nguồn vay Số lượng vay (hộ) CC (%)
35 87,5 Ngân hàng
12 30,0 Hội phụ nữ
9 22,5 Hội nông dân
15 37,5 Quỹ xóa đói giảm nghèo
29 72,5 Nguồn khác (họ hàng, bạn bè,..)
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra,2019)
Trong số 40 hộ điều tra, thì có 6 hộ không vay vốn để sản xuất kinh doanh. Có
54
hộ vay từ nhiều nguồn khác nhau như vừa vay từ Hội nông dân, vừa vay từ nguồn
khác (họ hàng, bạn bè,…). Tỷ lệ vay ngân hàng là lớn nhất (35 hộ) 87,5%. Do vay
ngân hàng có thể vay với số vốn lớn. Những hộ này đều lấy đất đai làm tài sản thế
chấp để vay vốn. Nên khi vay ngân hàng cần có sự đồng ý của chủ hộ (thường là
người chồng) thì mới có thể vay vốn. Nên việc tiếp cận vốn của chị em còn gặp nhiều
khó khăn.
Còn vay ở Hội Phụ nữ, Hội nông dân,…không cần tài sản thế chấp nhưng được
vay vốn với số vốn nhỏ hơn và phải theo từng đợt. Ngoài ra, nhiều hộ cũng vay mượn
từ họ hàng, bạn bè. Đây là nguồn tín dụng không chính thống, hầu hết đều dựa vào
sự quen biết và tin tưởng nhau.
Đa số các hộ vay vốn với mục đích chủ yếu là để làm vốn sản xuất kinh doanh,
chủ yếu là dùng để chăn nuôi. Một số hộ khác dùng để mua công cụ sản xuất và vay
tiền cho con đi học xa nhà. Đây đều là những mục đích chính đáng, giúp phát triển
kinh tế hộ gia đình, vươn lên làm giàu để có được một cuộc sống tốt hơn.
Như vậy, việc tiếp cận nguồn vốn của chị em còn gặp nhiều khó khăn làm cản trở khả
năng tiếp cận nguồn lực. Từ đó, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
55
Bảng 4.13. Tình hình quản lý vốn vay của hộ điều tra
Hộ giàu- Người thực hiện Hộ trung bình Hộ nghèo khá (n=12) (n=18) (n=10)
58,30 66,67 30,00 Tỷ lệ vay vốn
Quản lý
31,42 Chồng 35,22 32,54
14,28 Vợ 25,56 15,66
54,30 Cả hai 39,22 51,80
2.Quyết định sử dụng vốn vay
45,85 Chồng 17,62 32,28
00 Vợ 27,26 15,66
54,15 Cả hai 55,12 52,06
3.Đứng tên vay vốn
100,00 Chồng - -
- Vợ - -
- Cả hai - -
4.Trả lãi tiền vay
26,47 Chồng 34,62 62,36
26,47 Vợ 25,75 18,82
47,06 Cả hai 39,63 18,82
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)
Trong vai trò kiểm soát nguồn lực tài chính được thể hiện ở bảng trên cho thấy
vai trò khác nhau của người phụ nữ trong các nhóm hộ khác nhau. Tỷ lệ vay vốn ở
các nhóm hộ cũng rất khác nhau, tỷ lệ vay vốn ở nhóm hộ khá là 30,00%, nhóm hộ
trung bình là 58,30% và nhóm hộ nghèo là 66,67%.
Qua bảng 4.13. ta thấy quyền quản lý vốn vay trong các nhóm hộ rất khác
nhau. Ở nhóm hộ khá thì cả hai vợ chồng cùng quản lý vốn chiếm tỷ lệ cao. Ở hộ
trung bình và hộ nghèo, tỷ lệ này thấp hơn. Sự chênh lệch giữa vai trò của chồng và
vợ trong quản lý vốn trong gia đình còn quá lớn, trong chi tiêu hàng ngày thì người
56
vợ là người quản lý chi tiêu. Nhưng các quyết định lớn trong gia đình thì lại do người
đàn ông quyết định. Trong vai trò quyết định sử dụng sự khác biệt càng được thể hiện
rõ hơn giữa nam giới và nữ giới. Trong gia đình người đàn ông vẫn chiếm tỷ lệ lớn
trong việc quyết định sử dụng đồng vốn. Ở nhóm hộ nghèo có tới 33,28%, nhóm hộ
trung bình là 17,62% nhóm hộ khá là 45,85%. Trong nhóm hộ khá thì người phụ nữ
tham gia và vai trò quyết định sử dụng vốn vay ít hơn hai nhóm hộ còn lại. Thể hiện
nhận thức về vai trò của người phụ nữ trong việc kiểm soát nguồn lực tài chính trong
nông hộ của nhóm hộ khá cao hơn. Người đứng tên vay vốn phần lớn là người đàn
ông trong gia đình. Nhưng người đi trả lãi thì chủ yếu là người vợ. Tỷ lệ người phụ
nữ đảm nhiệm vai trò này trong các nhóm hộ là rất cao. Sự đối lập giữa tỷ lệ phụ nữ
có quyền quyết định sử dụng vốn vay và tỷ lệ phụ nữ đi trả lãi hàng tháng cho thấy
sự bất công bằng trong vai trò kiểm soát nguồn lực tài chính của nông hộ.
4.2.3. Phụ nữ dân tộc Mông đối với vai trò tái sản xuất
Gia đình hạnh phúc, mọi người trong gia đình phát triển toàn diện là điều mà
ai cũng mơ ước. Để làm được điều đó thì ngoài công việc tạo thu nhập cho gia đình
thì chăm lo, yêu thương các thành viên trong gia đình cũng là điều rất cần thiết. Mỗi
một gia đình lại có những cách riêng để xậy dựng gia đình hạnh phúc. Hiện nay, nhiều
gia đình rất tiến bộ, người chồng đã giúp người vợ trong việc nội trợ và dạy con học
bài chứ không cho rằng đó là việc của vợ nữa. Do đó mà nhiều người vợ đã có thời
gian hơn cho bản thân mình. Tuy nhiên không phải gia đình nào cũng được như vậy.
Nhiều người chồng vẫn coi đó là việc đương nhiên của phụ nữ. Kèm theo đó là nhiều
người vợ cũng coi việc nội trợ, chăm sóc gia đình là thiên chức của mình, cho nên
mình làm là đương nhiên. Do những suy nghĩ đó mà họ ít có thời gian lo cho bản thân
mình.
57
Bảng 4.14. Phân công lao động trong hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái
(ĐVT: %)
Hộ giàu-khá (n=10) Hộ trung bình (n=12) Hộ nghèo (n=18) Hoạt động Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng Cả hai Vợ Chồng Cả hai
Hoạt động tái sản xuất
60 10 30 57,32 12.32 30,36 45,15 32,76 22,09 Làm việc nhà
30 20 50 45,72 7,63 46,65 32,67 8,96 58,37 chăm sóc con cái
10 60 30 6,51 75,47 18,02 0,00 75,92 24,08 xây dựng sửa chữa
Hoạt động cộng đồng
20 30 50 28,41 36,72 34,87 22,03 39,46 38,51 Đi tập huấn
40 20 40 28,41 36,72 34,87 22,03 68,23 9,74 Họp phụ huynh
30 40 30 28,41 31,12 40,47 43,14 37,46 19,40 Đi họp thôn
30 30 40 37,25 30.34 32,41 38,42 38,42 23,16 Lao động công ích
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra,2019)
58
Sự phân công trong các hoạt động khác ngoài sản xuất nông nghiệp được thể
hiện qua bảng 4.14. Sự phân công trong các hoạt động tái sản xuất được thể hiện rất
rõ rệt qua bảng trên. Tỷ lệ phụ nữ làm việc nhà, chăm sóc con cái là rất cao. Rõ nét
nhất là ở nhóm hộ nghèo. Tỷ lệ phụ nữ đảm nhận các công việc trên là rất cao và ít
có sự chia sẻ của người chồng. Tuy nhiên ở nhóm hộ khá và trung bình số người được
điều tra lựa chọn đó là công việc của cả hai cũng rất cao. Điều này cho thấy nhận thức
của những người đàn ông trong gia đình ở hai nhóm hộ này khá cao, họ không còn
quá phân biệt công việc đó là của phụ nữ, mà đã coi đó là trách nhiệm của cả hai. Còn
trong xây dựng, sửa chữa thì người đàn ông vẫn đảm nhiệm chính, sự phân công này
vẫn còn rất rõ rệt.
Trong hoạt động cộng đồng, thôn xóm sự phân công công việc trong gia đình
thể hiện rõ ở hộ nghèo. Đi tập huấn, họp thôn vẫn là công việc của đàn ông, đi họp
phụ huynh, lao động công ích thì tỷ lệ nữ tham gia lại rất cao. Thể hiện sự bất bình
đẳng trong phân công tham gia hoạt động cộng đồng. Qua sự phân công này, có thể
thấy người mẹ, người phụ nữ trong gia đình vẫn là người quan tâm, sát sao hơn với
việc học của con, còn chức năng tham gia các hoạt động nâng cao kiến thức phục vụ
phát triển kinh tế của gia đình thì vẫn thuộc về người đàn ông.
4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ dân tộc Mông trong phát triển
kinh tế hộ gia đình
4.3.1. Những yếu tố khách quan
4.3.1.1. Quan niệm xã hội
Quan niệm xã hội vẫn còn là một rào cản lớn đối với phụ nữ trong quá trình
thể hiện vai trò của mình. Xã hội ngày càng phát triển, đồng thời với đó là những
quan niệm không phù hợp sẽ bị đẩy lùi. Tuy nhiên vẫn còn nhiều quan niệm về vấn
đề bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ vẫn còn tồn tại, và phụ nữ luôn là người chịu
thiệt. Nhiều người đàn ông vẫn còn cho rằng việc nội trợ , chăm con, giặt giũ là của
đàn bà. Còn mình thì làm những việc to lớn bên ngoài xã hội. Chính những suy nghĩ,
quan niệm đó đã làm cho phụ nữ mất đi cơ hội được thể hiện mình và ngày càng phụ
thuộc hơn vào người chồng.
Bất bình đẳng vẫn còn tồn tại khi mà nhiều gia đình vẫn muốn có con trai
để“nối dõi tông đường”. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến con cái trong gia đình
59
mà còn ảnh hưởng lớn tới xã hội. Mặc dù pháp luật đã quy định BĐG giữa nam và
nữ nhưng nhiều gia đình vẫn rất coi trọng chuyện có con trai hay không. Quan niệm
“nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” vẫn đang còn phổ biến. Đặc biệt, trong phân
chia tài sản, con trai luôn được nhiều hơn vì cha mẹ vẫn hay quan niệm rằng con gái
là con nhà người ta, con trai mới là người chăm sóc cho mình khi về già. Do đó mà
việc phân biệt con trai và con gái vẫn là điều đáng lo ngại.
4.3.1.2. Khả năng tiếp cận thông tin
Nhiều nam giới chưa nhận thức được vai trò to lớn của người vợ trong gia
đình, vẫn cứ cho rằng những công việc như nấu cơm, quét nhà, rửa bát,…là việc của
phụ nữ đương nhiên phải làm. Người vợ vừa làm việc tạo thu nhập, vừa chăm lo việc
nhà nên ít có thời gian nghỉ ngơi, vui chơi giải trí.
Do thời gian nghỉ ngơi ít ỏi nên phụ nữ ít được cập nhật thông tin về thị trường,
xã hội,…,ít biết đến những kỹ thuật tiến bộ, ít có điều kiện tiếp cận các kênh thông
tin. Mặc dù số phụ nữ xem ti vi đã tăng lên nhưng họ chủ yếu là xem phim, các kênh
giải trí chứ những kênh truyền hình phổ biến kiến thức, KHKT…họ lại ít xem. Điều
đó làm cho phụ nữ hạn chế trong việc tiếp cận thông tin để nâng cao trình độ. Từ đó
mà phụ nữ không thể phát huy hết khả năng của mình trong sản xuất và đời sống.
4.3.1.3. Sự giúp đỡ của chồng trong công việc gia đình
Phụ nữ là người đảm nhiệm chính trong những công việc gia đình như nội trợ,
dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc con cái,…Đó tưởng chừng là những công việc đơn giản
nhưng lại tốn nhiều thời gian và công sức. Người vợ không chỉ làm nội trợ mà còn
làm những công việc tạo thu nhập cho gia đình, cho nên để giải quyết hài hòa giữa
công việc và gia đình là hết sức quan trọng. Thế và, để phụ nữ làm tốt được điều đó
thì cần phải có sự động viên, an ủi của người chồng và đặc biệt là sự giúp đỡ của
chồng trong những công việc gia đình. Những người chồng yêu thương, quan tâm tới
gia đình sẽ biết cách nào là tốt nhất để làm nên hạnh phúc gia đình vì họ hiểu được
những tần tảo, vất vả của người vợ, họ biết được người vợ có vai trò quan trọng như
thế nào trong gia đình. Vì vậy mà khi đi đi làm về, thay vì chơi thể thao, đọc báo, giải trí
thì họ có thể cùng vợ chuẩn bị bữa tối. Đó là hành động đơn giản nhưng lại mang đến niềm
vui lớn cho người vợ và nền tảng cho gia đình hạnh phúc.
Tuy nhiên, những người chông thấu hiểu và giúp đỡ vợ được như vậy vẫn còn
60
tương đối ít. Vì vậy, mà phụ nữ càng thêm vất vả, nhiều khi họ không cân bằng được
giữa công việc và gia đình, từ đó mà hiệu quả công việc không cao, thậm chí là ảnh
hưởng đến sức khỏe của người phụ nữ.
4.3.1.4. Chủ trương, chính sách của Đảng
Xã hội ngày càng phát triển, vấn đề bình đẳng giới ngày càng được quan tâm.
Nước ta cũng đã có nhiều chính sách, chương trình nhằm đạt được bình đẳng giới
nhưng trên thực tế thì vấn đề này còn gặp nhiều khó khăn khi mà nhiều người còn có
những quan niệm mang nặng tính bất bình đẳng giới. Tuy nhiên, vẫn còn có những
chính sách chưa thiết thực với chị em phụ nữ, cụ thể:
* Chính sách dân số: KHHGĐ đã được tuyên truyền rộng rãi đến các gia đình
trong xã. Tuy nhiên, đối tượng chính mà chương trình này hướng tới lại là phụ nữ.
Trong khi việc quyết định sinh con lại phụ thuộc vào cả hai vợ chồng, nhiều khi lại
phụ thuộc vào người chồng nhiều hơn vì có người muốn có con nối dõi. Do đó mà
đối tượng hướng tới của chương trình này đã có sự chênh lệch, vì vậy có thể hiệu quả
chưa cao.
* Chính sách tín dụng: Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, vốn cho
phát triển kinh tế là một vấn đề rất quan trọng, nhu cầu vay vốn trong các hộ gia đình
để đầu tư vào sản xuất là rất lớn. Qua thực tế cho thấy vốn vay của nông dân ở địa
phương gặp nhiều khó khăn, lượng vốn người dân được phép vay thấp không đủ để
đầu tư mở rộng sản xuất. Lượng vốn vay này chỉ giải quyết một phần khó khăn trước
mắt. Vì vậy Ngân hàng cần đơn giản hoá thủ tục, điều kiện vay, tăng thời lượng vay
và chấp nhận các mục tiêu sử dụng vốn vay đa dạng hơn. Đặc biệt cần phải có sự phối
hợp chặt chẽ giữa cán bộ ngân hàng với cán bộ khuyến nông, khuyến lâm để hỗ trợ
tập huấn về kỹ thuật và thông tin về thị trường cũng như kỹ năng lập kế hoạch sản
xuất, kinh doanh cho tất cả các hộ vay vốn. Các hộ gia đình, nhất là phụ nữ, cần được
thông tin một cách cụ thể về các hình thức tín dụng mà họ có thể nhận được. Dữ liệu
về các khoản cho vay của ngân hàng.
61
4.3.1.5. Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật của người phụ nữ
Trong thời đại công nghệ phát triển vượt bậc như hiện nay thì việc ứng dụng
những công nghệ đó vào sản xuất và đời sống được rất nhiều người quan tâm. Tuy
nhiên, để áp dụng những công nghệ đó vào sản xuất cũng như trong đời sống thì cần
có trình độ nhất định, Trên thực tế, việc áp dụng những kỹ thuật mới thường do nam
giới quyết định vì họ có trình độ cao hơn, được cập nhật tin tức thường xuyên hơn,
hiểu biết rộng rãi hơn. Nhiều phụ nữ do trình độ hạn chế nên tự ti, không dám nói ra
suy nghĩ của mình. Đặc biệt, nhiều người còn hay mặc cảm, xấu hổ nên không dám
thể hiện khả năng của bản thân, không phát huy được tài năng của mình. Do đó mà
sự đóng góp của họ cũng bị hạn chế. Vì vậy, xã cần có những chương trình hỗ trợ chị
em nâng cao trình độ để chị em tự tin hơn trong gia đình và ngoài xã hội.
4.3.1.6. Vấn đề tham gia các hoạt động cộng đồng
Phụ nữ ít có thời gian giành cho các hoạt động xã hội, hoặc cho việc học tập
kinh nghiệm từ người khác. Đặc biệt phụ nữ các dân tộc thiểu số rất ít có cơ hội tham
gia các lớp học văn hoá buổi tối thậm chí các lớp học đó đã có sẵn và thích hợp với
họ. Đó là những yếu tố hạn chế khả năng tham gia của phụ nữ vào việc ra quyết định
trong cộng đồng và ở cấp quốc gia.
4.3.2. Những yếu tố thuộc về bản thân phụ nữ
4.3.2.1.Về vấn đề sức khoẻ
Sức khoẻ là một tài sản hết sức quan trọng đối với con người, đối với phụ nữ
thì sức khoẻ lại càng quan trọng, vì nó không chỉ làm tăng khả năng lao động của phụ
nữ mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống của họ và các thành viên trong gia đình.
Những bà mẹ khoẻ mạnh sẽ sinh ra những đứa con khoẻ mạnh. Vì thế, quan tâm và
cải thiện sức khoẻ cho phụ nữ là một phương tiện cho phát triển kinh tế và phát triển
con người. Mặc dù những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan trong
lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề đặt ra về sức khoẻ của phụ
nữ nông thôn.
- Về sức khỏe, thể chất
Sức khoẻ của phụ nữ nông thôn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố sau đây:
Lao động vất vả: Phụ nữ đảm nhận khối công việc nhiều hơn nam giới. Thời
62
gian làm việc của phụ nữ dài hơn và căng thẳng hơn. Bên cạnh đó, phụ nữ nông thôn
thường lao động vất vả trong thời gian mang thai, thậm chí vẫn lao động nặng trong
những tháng cần phải chú ý giữ gìn để đảm bảo an toàn cho thai nhi.
Môi trường ô nhiễm: Với phụ nữ, ảnh hưởng của môi trường ô nhiễm càng
nhiều vì thời gian phụ nữ lao động hàng ngày trên ruộng đồng nhiều hơn nam giới
nên dễ bị nhiễm độc bởi các hoá chất. Ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam có nhiều
hồ, ao tù, đây là nguồn nước chủ yếu của người dân ở nông thôn (tắm, giặt giũ,...)
đồng thời cũng tạo điều kiện cho muỗi và ký sinh trùng sinh sôi nảy nở.
Lấy chồng sớm, sinh đẻ nhiều: Có một điều dễ nhận thấy là ở Việt Nam còn
có hiện tượng tảo hôn. Những năm gần đây, ở các vùng nông thôn hiện tượng tảo
hôn, lấy chồng sớm có xu hướng gia tăng bởi nhiều nguyên nhân văn hoá- xã hội,
trong đó có nguyên nhân muốn xây dựng gia đình để tách hộ nhận ruộng khoán, nếu
kết hôn muộn sẽ không có cơ hội nhận ruộng vì chính sách giao ruộng dài hạn (15
đến 20 năm). Lấy chồng sớm dẫn đến hệ quả là bên cạnh việc chưa được chuẩn bị tốt
cả về thể chất, tâm lý để làm dâu, làm vợ, làm mẹ lẫn kiến thức nuôi dạy con,... Sự thiếu
hiểu biết về DS -KHHGĐ nên dẫn đến mang thai và sinh nở, nạo hút thai nhiều.
Dinh dưỡng không đảm bảo: Suy dinh dưỡng, thiếu máu cũng là hiện tượng
phổ biến, một nghiên cứu quy mô như ở Việt Nam kiểm tra lượng Hemoglobin ở phụ
nữ có thai cho thấy: 49% phụ nữ nông thôn có lượng Hemoglobin dưới tiêu chuẩn
của Tổ chức y tế thế giới. Suy dinh dưỡng ở phụ nữ không chỉ làm tăng tỷ lệ đẻ khó,
tai biến thai sản có thể dẫn đến tử vong mẹ mà còn ảnh hưởng đến sức khoẻ con cái
Sức khoẻ về tinh thần:
Đời sống văn hoá nghèo nàn sự đơn điệu trong đời sống văn hoá, thiếu nơi vui
chơi giải trí, hội họp sinh hoạt, thiếu thông tin thời sự chính trị, văn hoá, khoa học kỹ
thuật và kinh tế và hiện tượng dễ thấy ở nhiều vùng nông thôn hiện nay. Đời sống
văn hoá ở nông thôn nghèo nàn là một lý do thúc đẩy thanh niên rời bỏ nông thôn.
Do vậy, xoá bỏ sự nghèo nàn trong đời sống văn hoá ở nông thôn là một yêu cầu bức
thiết của sự công nghiệp hoá nông thôn, làm điều đó cũng chính là đẩy mạnh việc
truyền bá kiến thức khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, đồng thời nâng cao nhận
thức của người dân nông thôn về pháp luật, lối sống văn hoá. Hơn nữa, còn ngăn chặn
63
và loại bỏ những các tật xấu như: mê tín, cờ bạc, số đề, bói toán.
4.3.2.2.Về vấn đề ra quyết định
Tìm hiểu vấn đề ai là người có tiếng nói quyết định đối với những vấn đề quan
trọng của gia đình như mua sắm tài sản đắt tiền, xây dựng nhà cửa, những khoản chi
lớn liên quan đến thành quả lao động của gia đình ta thấy có nhiều bất cập. Phụ nữ
được tham gia ý kiến và bàn bạc chung với tư cách là người giữ tiền của gia đình “tay
hòm chìa khoá” trong những quyết định quan trọng nhưng trên thực tế họ không có
quyền quyết định việc chi tiêu.
4.3.2.3. Nhận thức của chị em về vai trò của bản thân
Quan niệm xã hội cùng với những yếu tố khách quan khác làm cho phụ nữ
không thể hiện được tài năng, vai trò của họ cũng không được nâng cao. Tuy nhiên,
không hẳn do những yếu tố khách quan đó mà còn do chính bản thân phụ nữ. Có
nhiều phụ nữ vẫn cho rằng làm những công việc nhà đó là thiên chức của người vợ,
người mẹ. Họ cam chịu, hi sinh bản thân, mong muốn cho chồng, cho con được vui
vẻ, thành đạt, hạnh phúc, họ cảm thấy như thế là quá đủ với họ. Vậy nên, họ không
muốn thể hiện mình, từ đó mà vị trí, vai trò của họ không được nâng cao.
4.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc Mông
trong phát triển kinh tế hộ gia đình
4.4.2. Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh vai trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế hộ gia đình tại xã Huổi Một
4.4.1.1. Đề xuất các giải pháp
a, Về phía xã hội
- Thứ nhất: cải cách thể chế để tạo lập quyền và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ
và nam giới. Cải cách pháp lý sẽ tăng cường bình đẳng giới rõ nét nhất qua: Luật hôn
nhân gia đình, luật chống bạo hành, bạo lực, quyền về đất đai, luật lao động, quyền
chính trị.
- Thứ hai: Đẩy nhanh phát triển kinh tế nhằm khuyến khích tham gia và phân
bố nguồn lực công bằng hơn. Phát triển kinh tế có xu hướng làm tăng năng suất lao
động và tạo nhiều cơ hội việc làm cho phụ nữ, thu nhập cao hơn, và mức sống tốt
hơn. Đầu tư có trọng điểm vào cơ sở hạ tầng và giảm bớt chi phí cá nhân cho phụ nữ
64
khi thực hiện vai trò của họ trong gia đình sẽ có thể giúp họ có thêm thời gian để tham
gia vào các hoạt động khác, dù là để tạo thu nhập hay làm công tác xã hội.
- Thứ ba: Thực hiện những biện pháp thiết thực nhằm khắc phục sự phân biệt
giới trong việc làm chủ các nguồn lực và tiếng nói chính trị. Nhà nước nên thiết lập
một môi trường thể chế bảo đảm khả năng tiếp cận công bằng đến các nguồn lực và
dịch vụ công cộng cho cả nam và nữ. Tăng cường tiếng nói của phụ nữ (sử dụng
sáng kiến, ý tưởng) trong quá trình hoạch định chính sách.
Ngoài ra có thể:
- Mở rộng các quan hệ hợp tác giao lưu, vừa phù hợp với xu hướng thời đại,
vừa chia sẻ, trao đổi được kinh nghiệm quốc tế trong việc giài quyết các vấn đề về
giới, đồng thời lại mở ra nhiều cơ hội học tập, làm việc cho phụ nữ. Tạo điều kiện
trao đổi cởi mở các ý tưởng với phụ nữ, nâng cao tính minh bạch trong hoạch định
chính sách.
- Triển khai giáo dục vấn đề về giới, BĐG và phát triển phổ biến trong xã hội
- Phát huy vai trò của tổ chức Hội phụ nữ, nhất là ở cơ sở.
Các chiến lược này không chỉ có thể vận dụng vào quản lý xã hội ở cấp vĩ mô
mà cón có thể vận dụng cụ thể vào hoạt động quản lý ở từng cơ sở.
b, Trong việc thực hiện các chính sách, kế hoạch, chương trình dự án phát triển của
địa phương cần đặc biệt quan tâm đến vai trò, sự tham gia của phụ nữ
- Khuyến khích thành lập ở nông thôn những tổ làm nghề thủ công, nghề truyền
thống... điều này có thể tạo ra cơ hội cho cả phụ nữ và nam giới hạn chế thời gian lao
động nông nhàn, tăng thu nhập nhờ đó họ có thể tăng sự giúp đỡ của người chồng
trong sản xuất hay các công việc gia đình. Hạn chế việc người chồng đi làm thuê xa
nhà đồng thời phụ nữ cũng có những khoản thu nhập bằng tiền mặt của riêng họ. Bên
cạnh đó, qua sinh hoạt tại nhóm, tổ sản xuất, người phụ nữ nông thôn có thể mở rộng
quan hệ giao tiếp, nâng cao nhận thức của họ về những vấn đề xã hội cũng như những
kiến thức về nuôi dạy con trong gia đình.
- Trong quá trình thực hiện các trương trình, dự án nhu cầu của lao động nữ
và nam cần được xem xét trong quá trình lựa chọn, khảo sát, thiết kế, thẩm định và
triển khai các dự án, các chương trình phát triển nông thôn. Tiến hành nghiên cứu
65
đánh giá tác động của các dự án với phụ nữ như: nước sinh hoạt, thuỷ lợi, cầu đường,
trạm y tế, thông tin liên lạc, trường học và chợ.
c, Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động cộng đồng
Vận động và tạo điều kiện cho mọi chị em phụ nữ được thường xuyên tham
gia sinh hoạt, hội họp từ các đoàn thể như: phụ nữ, thanh niên, hội nông dân, để họ
được học tập, có điều kiện tiếp cận với sách, báo, các phương tiện truyền thông...
Hình thành các câu lạc bộ văn hoá, thể thao tại các xóm, có kế hoạch sinh hoạt theo
định kỳ một tháng 1 lần tại các nhà văn hoá xóm. Nhằm nâng cao trình độ về mọi mặt
của phụ nữ, tạo môi trường cho họ phát huy và khẳng định vai trò của mình đối với
gia đình và xã hội. Đồng thời giúp nâng cao nhận thức, giảm thiểu được tính tự ti, rụt
rè, ngại va chạm của một bộ phận phụnữ.
d, Tăng cường khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của phụ nữ trong phát
triển kinh tế hộ gia đình
- Đất đai:
Thực hiện tốt quy định của Luật đất đai năm 2003 và các nghị định sửa đổi bổ
sung. Về nguyên tắc, nhà nước quy định việc đứng tên sử dụng đất là cả hai vợ chồng
nhưng trong thực tế người đứng tên chính lại là nam giới. Do vậy, cần phải kiểm soát
các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều được ghi tên cả vợ và chồng nhằm đảm
bảo quyền lợi cho nhiều người phụ nữ.
- Tín dụng:
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, vốn cho phát triển kinh tế là một
vấn đề rất quan trọng, nhu cầu vay vốn trong các hộ gia đình để đầu tư vào sản xuất
là rất lớn. Qua thực tế cho thấy vốn vay của nông dân ở địa phương gặp nhiều khó
khăn, lượng vốn người dân được phép vay thấp không đủ để đầu tư mở rộng sản xuất.
Lượng vốn vay này chỉ giải quyết một phần khó khăn trước mắt. Vì vậy Ngân hàng
cần đơn giản hoá thủ tục, điều kiện vay, tăng thời lượng vay và chấp nhận các mục
tiêu sử dụng vốn vay đa dạng hơn. Đặc biệt cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
cán bộ ngân hàng với cán bộ khuyến nông, khuyến lâm để hỗ trợ tập huấn về kỹ thuật
và thông tin về thị trường cũng như kỹ năng lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho
tất cả các hộ vay vốn. Các hộ gia đình, nhất là phụ nữ, cần được thông tin một cách
66
cụ thể về các hình thức tín dụng mà họ có thể nhận được. Dữ liệu về các khoản cho
vay của ngân hàng.
e, Nâng cao trình độ cho phụ nữ dân tộc Mông
- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ, tạo điều kiện phát huy năng lực của
đội ngũ cán bộ nữ đang làm công tác chính quyền, đoàn thể từ các thôn đến cấp xã.
Đồng thời bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ trong tương lai có đủ năng lực, trình độ tham
gia công tác chính quyền, đoàn thể nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong hoạt động
xã hội địa phương.
- Trong sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh công tác khuyến nông, tạo điều kiện
để phụ nữ được tiếp cận nhiều hơn với kiến thức và công nghệ mới. Giúp đỡ phụ nữ
được tiếp cận với vốn, công cụ sản xuất mới… Áp dụng kiến thức mới vào trồng trọt,
chăn nuôi đạt năng suất hiệu quả và thu nhập cao.
- UBND xã cần chủ động phối hợp với phòng nông nghiệp, trạm khuyến nông
và các trung tâm đào tạo nghề nhằm xây dựng và phát triển các trung tâm dạy nghề
tại địa phương để nữ giới có thể tham gia nhiều hơn, mở rộng các hình thức dạy nghề
ngắn hạn, bồi dưỡng kiến thức về mọi lĩnh vực, nhất là quản lý kinh tế hộ cho phụ
nữ, đặc biệt thu hút sự tham gia của nam giới vào các khóa học có lồng ghép giới.
Cần hình thành được những nhóm hạt nhân bao gồm nông dân cả nam và nữ sản xuất
giỏi, hiểu biết tốt về công nghệ mới và có những mối liên hệ chặt chẽ với chính quyền
và các tổ chức hội đoàn thể.
f, Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ
Để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
thì phát triển kinh tế hộ gia đình đóng vai trò không nhỏ, muốn vậy cần quan tâm đến
vai trò của người phụ nữ bằng việc:
- Nâng cao kiến thức cho phụ nữ, đặc biệt kiến thức tổ chức cuộc sống gia
đình, nuôi dạy con chăm sóc sức khỏe, nâng cao kiến thức về luật pháp, chính sách,
kiến thức về bình đẳng giới, khuyến khích sự quan tâm của các thành viên trong gia
đình chia sẻ các hoạt động lao động cũng như trong cuộc sống tinh thần, tình cảm.
- Tuyên truyền vận động trên các phương tiện và các hình thức sinh hoạt của
địa phương về giới, về vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội phù hợp với từng
67
đối tượng. Trong công tác tuyên truyền, vận động về vấn đề bình đẳng Giới cần phải
để cho nam giới tham gia, từ đó nam giới có các biện pháp thực hiện nhằm thúc đẩy
quá trình bình đẳng giới, đồng thời giúp cho chị em phụ nữ tự nhìn nhận, đánh giá lại
mình và có ý thức phấn đấu vươn lên.
g, Nâng cao chăm sóc sức khỏe và đời sống
Sức khỏe là vốn quý nhât của con người. Do đặc điểm tự nhiên mà phụ nữ có
sức khỏe yếu hơn nam giới. Thực tế hiện nay là nhiều chị em vẫn chủ quan, chưa có
ý thức tự bảo vệ sức khỏe của mình. Chăm sóc sức khỏe bản thân sau khi sinh cũng
những biện pháp phòng tránh mắc bệnh phụ khoa là điều không phải ai cùng biết. Do
đó mà công tác KHHGĐ, nâng cao chăm sóc sức khỏe và đời sống là một vấn đề cần
được quan tâm. Để làm được điều đó, các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể và
Hội phụ nữ cần tích cực hơn trong công tác vận động sinh đẻ có kế hoạch, tổ chức
các lớp bồi dưỡng kiến thức SKSS cho phụ nữ có thai, vận động phụ nữ có thai thường
xuyên đi khám, tham gia tiêm phòng, khuyến khích chị em phụ nữ tham gia khám
chữa bệnh định kỳ. Cùng với việc vận động chị em phụ nữ thì tuyên truyền những
kiến thức cho cả nam giới cũng là việc hết sức cần thiết để đảm bảo chương trình đạt
hiệu quả.
4.4.2.2. Giải pháp đối với bản thân người phụ nữ
Mỗi thời kỳ có những cơ hội và yêu cầu mang tính lịch sử, muốn có thể khẳng
định và phát huy vai trò của mình, bản thân người phụ nữ trước hết phải ý thức được
đầy đủ vai trò về giới của mình, mới có thể nắm bắt được những cơ hội, cùng với xã
hội, hướng tới cách ứng xử bình đẳng giới. Muốn vậy, phụ nữ hiện đại cần nỗ lực
nhiều mặt:
- Có tri thức, văn hoá. Chúng ta đang hướng tới phát triển nền kinh tế tri thức,
phụ nữ khi có tri thức sẽ có bản lĩnh hơn và có nhiều cơ hội lựa chọn hơn trong cuộc
sống. Chẳng hạn như khi công nghệ thông tin phát triển, nhiều công việc yêu cầu sử
dụng máy tính tăng lên, đây sẽ là cơ hội tốt cho những phụ nữ biết sử dụng vi tính
nhưng lại sẽ trở thành rào cản cho những người không biết sử dụng.
- Có ý thức cầu tiến, độc lập
- Sống có mục đích
68
- Có khả năng giao kết thân thiện. Một số nghiên cứu hiện nay thừa nhận mối
quan hệ giữa sự tham gia tích cực của phụ nữ vào đời sống xã hội với sự giảm bớt
mức độ tham nhũng
- Có kỹ năng sống: tự tin, sáng tạo, biết hoạch định kế hoạch, biết đối mặt với
áp lực, biết chăm sóc bản thân …
Để có được những điều này phụ nữ nên chịu khó học hỏi ở nhà trường, các tổ
chức, đội nhóm, nhà văn hóa, câu lạc bộ…Tích cực tham gia vào các hoạt động xã
hội để tích lũy tri thức và kinh nghiệm sống. Mở rộng các mối quan hệ giao lưu giao
tiếp trong xã hội. Tạo thói quen suy nghĩ tích cực, sẵn sàng chia sẻ, siêng năng lao
động, rèn luyện và chăm sóc sức khoẻ cho bản thân.
Người phụ nữ Việt Nam hiện đại trong thời kỳ mới nếu được sự hỗ trợ tích
cực từ phía khách quan, cùng với những nỗ lực chủ quan sẽ có cơ hội đóng góp ngày
càng nhiều cho xã hội, tạo vị thế cho bản thân. Và hi vọng là họ sẽ không còn gặp
những trở ngại về giới trong việc tìm cho mình một cuộc sống hạnh phúc do những
quan điểm không phù hợp nào đó, không còn phải băn khoăn trăn trở trong sự lựa
chọn giữa sự nghiệp và gia đình, không còn gặp những rào cản không cần thiết từ các
chính sách xã hội. Phụ nữ – dù trong thời đại nào cũng luôn có những vị trí không thể
thay thế. “Bên cạnh ánh sáng lung linh của các vì sao còn có ánh sáng êm dịu và
huyền bí của tâm hồn người phụ nữ” (Victor Hugo).
69
Phần 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu vai trò của phụ nữ DT Mông trong phát triển kinh tế hộ
trên địa bàn xã Huổi Một - huyện Sông Mã - tỉnh Sơn La em có những kết luận sau:
- Trong phát triển kinh tế hộ gia đình: Phụ nữ mặc dù đã nhận được sự chia sẻ
của người chồng trong gia đình. Tuy nhiên vẫn còn chịu nhiều gánh nặng.
+ Trong hoạt động sản xuất tạo thu nhập, phụ nữ và nam giới cùng đóng góp,
tuy nhiên phụ nữ đóng góp nhiều hơn. Trong hoạt động tái sản xuất thì phụ nữ đảm
nhiệm công việc nội trợ và chăm sóc con cái, người đàn ông ít tham gia.
+ Trong việc quản lý và kiểm soát các nguồn lực như đất đai, tài sản sinh hoạt,
sản xuất nữ giới ít có cơ hội được tiếp cận so với nam.
+ Quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong gia đình thuộc về nam
giới, phụ nữ thường quyết định những việc liên quan đến nội trợ và chăm sóc các
thành viên trong gia đình.
+ Phụ nữ chưa hoàn toàn bình đẳng trong quyết định công việc lớn trong gia
đình, trong kiểm soát tài sản, trong thừa kế, mặc dù họ là người nắm giữ trách nhiệm
quản lý tài chính trong gia đình.
+ Phụ nữ ít được tham gia hội họp thôn xóm, ít tiếp cận với các phương tiện
truyền thông.
+ Nữ giới được tham gia học tập ngày một tăng, vai trò của người phụ nữ cũng
dần được khẳng định. Đây là tiền đề hứa hẹn một thế hệ phụ nữ có trình độ trong
tương lai, cơ hội cho phát triển kinh tế của địa phương.
- Cơ cấu dân số tương đối cân bằng, nguồn lao động dồi dào lao động nữ chiếm
50,25%tổng số lao động.
- Kinh tế - xã hội của xã đang dần phát triển, cơ sở hạ tầng đang trong giai
đoạn cải tạo và hoàn thiện, cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân đa phần nào
được cải thiện. Song trong cách nghĩ và quan niệm của một bộ phận người dân vẫn
còn tồn tại những hạn chế nhất định do trình độ học vấn, mức sống. Điều này làm ảnh
70
hưởng đến quá trình phát triển chung của địa phương.
- Trình độ của cán bộ hội đoàn thể chưa cao. Phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp ủy
Đảng, chính quyền thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển.
5.2. Kiến nghị
Tạo điều kiện để phụ nữ phát triển cùng với nam giới không những đem lại lợi
ích cho mỗi phụ nữ, mỗi gia đình mà cho toàn xã hội. Đó không chỉ là vấn đề công
bằng xã hội, mà là lợi ích kinh tế. Từ những phân tích trên, tôi kiến nghị một số vấn
đề nhằm tạo sự hài hoà cân đối trong gia đình, tạo điều kiện phụ nữ có cơ hội học tập,
nâng cao trình độ mọi mặt, tham gia vào tất cả các khâu trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
5.2.1. Đối với Đảng và Nhà nước
Cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các nghị quyết về bình
đẳng giới. Đặc biệt là triển khai đến các địa phương “chiến lược quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2011-2020” theo Quyết định số 2351/QĐ-TTg của Thủ Tướng
Chính Phủ ngày 24 tháng 12 năm 2010. Chỉ đạo các ban ngành có liên quan tích cực
tuyên tuyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về chiến lược bình đẳng giới
giai đoạn 2011 - 2020. Đôn đốc công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quyết định
số 2351/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ, luật bình đẳng giới và các chế độ chính
sách đối với phụ nữ.
- Nhà nước cần có chính sách kinh tế xã hội thiết thực hơn nữa với phụ nữ,
đảm bảo sự bình đẳng giới, tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao địa vị của người
phụ nữ trong xã hội, tạo những điều kiện tốt nhất cho họ bắt kịp với tiến bộ phát triển
chung của nhân loại.
- Ban hành các chính sách và biện pháp loại bỏ những định kiến, những hủ tục
lạc hậu giúp phụ nữ đạt được sự bình đẳng toàn diện.
- Xây dựng các dự án chương trình nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn
trong đó cần đặc biệt quan tâm đến những dự án dành cho phụ nữ, giúp họ có công
ăn việc làm, có vốn, kiến thức chuyên môn để sản xuất nâng cao thu nhập cải thiện
mức sống gia đình.
71
5.2.2. Đối với các cấp chính quyền và đoàn thể địa phương
- Phối hợp và phát huy vai trò của các hội, đoàn thể như hội phụ nữ, hội nông
dân trong công tác tập huấn, tổ chức tốt công tác đào tạo, nâng cao trình độ kiến thức
chuyên môn khoa học kỹ thuật cho phụ nữ, đào tạo kỹ năng kinh doanh và cách tổ
chức cuộc sống gia đình.
- Xây dựng các mô hình gia đình kiểu mẫu, hạnh phúc trong cuộc sống, bình
đẳng vợ chồng, không còn tư tưởng trọng nam khinh nữ, thống nhất trong quan niệm
và sinh hoạt gia đình, vợ chồng cùng đứng tên trong các tài sản, cùng bàn bạc và ra
quyết định công việc gia đình... Từng bước phổ biến và nhân rộng mô hình gia đình
kiểu mẫu ra khắp xóm, xã.
- Địa phương cần định kỳ tổ chức Hội nghị tuyên dương “ Nông dân sản xuất
kinh doanh giỏi, thành đạt” trong đó đặc biệt chú ý đến gương phụ nữ làm kinh tế
giỏi. Nhằm biểu dương, tôn vinh các cá nhân nông dân, phụ nữ, thanh niên của dịa
phương trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, tạo động lực giúp họ phát
triển kinh tế.
- Tổ chức đoàn thể địa phương tạo điều kiện cho phụ nữ được vay vốn với lãi
suất thấp, thành lập các nhóm phụ nữ giúp nhau làm kinh tế, khuyến khích thành lập
những tổ làm nghề thủ công, nghề truyền thống... để tăng thu nhập cho phụ nữ.
5.2.3.Đối với bản thân người phụ nữ dân tộc Mông
Mỗi người phụ nữ DTM nói chung cần phải tự tìm hiểu về luật bình đẳng giới,
luật hôn nhân gia đình... để tự nâng cao hiểu biết của mình, ngoài ra cần có sự traođổi
thông tin, kinh nghiệm sản xuất giữa người dân với nhau và giữa các thành viên trong
gia đình. Bản thân mỗi người dân cần tích cực tham gia các lớp tập huấn về bình đẳng
giới. Những chủ hộ là nam giới phải có cái nhìn tích cực hơn về phụ nữ, cần khuyến
khích, động viên, ủng hộ người phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội giúp họ
giảm bớt gánh nặng về công việc gia đình và đảmnhiệmtốt vai trò của mình ngoài xã
hội.
72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng việt
1. Bùi Thị Hồng Vân (2002), Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện
nay.
2. Báo cáo Brigde số 56 (năm 2000), thực trạng và phát triển
3. Đỗ Văn Viện - Đặng Văn Tiến, 2006, Bài giảng Kinh tế hộ nông dân, Đại học
Nông nghiệp I, NXB Nông nghiệp.
4. Điều 6, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946.
5. Nguyễn Thị Bích Thúy (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác phụ nữ
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khoa xây dựng Đảng, Học viện Chính trị-Hành
chính khu vực IV.
6. Nguyễn Thi ̣ Minh Hiền, Bài giảng “Giới trong phát triển nông thôn”, Khoa Kinh
tế và PTNT, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
7. Quyết định số 19/2002/QĐ – TTg ngày 21/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt chiến lược quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010.
8. Thực trạng kinh tế hộ nông dân Việt Nam, NXB Nông Nghiệp Hà Nội, 1991
9. ThS. Nguyễn Thị Thu Hương, Bài viết ,Victor Hugo – văn hào Pháp đã từng ca
ngợi: “Bên cạnh ánh sáng lung linh của các vì sao còn có ánh sáng êm dịu và
huyền bí của tâm hồn người phụ nữ”.
10. Ths. Lô Quốc Toản, Quan niệm về dân tộc thiểu số và cán bộ dân tộc thiểu số
hiện nay, Học viện Chính trị khu vực I, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh
11. UBND xã Huổi Một, Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế –
xã hội, an ninh – quốc phòng năm 2016 và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế
– xã hội năm 2017 của xã Huổi Một
12. UBNDxã Huổi Một, Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế –
xã hội, an ninh – quốc phòng năm 2017 và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế
– xã hội năm 2018 của xã Huổi Một
73
13. UBNDxã Huổi Một, Báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế –
xã hội, an ninh – quốc phòng năm 2017 và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế
– xã hội năm 2018 của xã Huổi Một .
14 .Vương Thị Vân (2009), Vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển
kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Ngành Kinh
tế nông nghiệp, Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh.
II. Tài liệu Internet
15. http://phunudanang.org.vn
16. http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A5_n%E1%BB%AF
17. http://en.wikipedia.org/wiki/Wonen_and_agriculture_in_Sub_Saharan_A
18. http://dantocviet.vn/Articles.aspx?sitepageid=142
19. http://timtailieu.vn/tai-lieu/giao-trinh-luat-binh-dang-gioi-28456
20.http://luanvan.net.vn/luan-van/luan-van-giai-phong-phu-nu-tu-quan-diem-chu-
nghia-mac-lenin-den-tu-tuong-ho-chi-minh-quan-diem-cua-dang-cong-san-
viet-9641/
21.http://text.123doc.org/documen/1671916-gioi-tinh-trong-phat-trien-nong-thon-
pot.htm
PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ GIA ĐÌNH
THÔNG TIN KIỂM SOÁT
3 2 4 1
Ngày ID hộ Tên TT Tên Bản
Huổi Một
*Chú ý: ID Hộ gia đình bao gồm:
- Chữ viết tắt tên và họ của người phỏng vấn, lấy chữ cái đầu tiên của mỗi tên.
- Số thứ tự gia đình đang được phỏng vấn (tức là tổng số hộ mà nười phỏng vấn đã
khảo sát bao gồm cả gia đình hiện tại)
VD: Người phỏng vấn tên đầy đủ là Giàng A Đại, và đây là hộ thứ 10 mà cô ấy
đang phỏng vấn (nghĩa là tổng số hộ cô ấy phỏng vấn là 10 bao gồm cả hộ hiện tại)
khi đó ID hộ là HN10.
I. THÔNG TIN CHUNG CỦA HỘ:
6. Tên của chủ hộ (Ông/bà):
7. Giới: Nam / Nữ
8. Tuổi của chủ hộ:……………(tuổi)
9. Dân tộc:……………………………………………………………………
10. Trình độ học vấn: ………………………………………………………..
11. Nghề nghiệp chính của chủ hộ:…………………………………………
12. Những tổ chức xã hội mà chủ hộ tham gia là gì?
Hội Nông dân
Hội Phụ nữ
Hội cựu chiến binh
Hội người cao tuổi
12. Phân loại hộ gia đình (2018) :
ộ nghèo
75
ộ cậnnghèo
ộ TB khá
ộ giàu
13. Gia đình có bao nhiêu thành viên:……………(Người)
16. Số lao động chính của gia đình:………………(Người)
Trong đó có bao nhiêu nữ từ 18 tuổi trở lên:
Tuổi Trình độ học vấn STT
1
2
3
…….
II. THÔNG TIN CHI TIẾT:
1.Vai trò của phụ nữ trong sản xuất:
* Trong hoạt động trồng trọt:
Công việc Người đảm nhiệm
Nam Nữ Cả hai Thuê
1.Ra quyết định:
Lựa chọn giống cây trồng
Lựa chọn kỹ thuật canh tác
Mua công cụ sản xuất
Mua vật tư nông nghiệp
Bán sản phẩm
2.Người thực hiện:
Làm đất
Gieo cấy
Bón phân
Làm cỏ
Phun thuốc sâu
Thu hoạch
* Trong chăn nuôi:
Người đảm nhiệm Công việc
Nam Nữ Cả hai Thuê
1.Người ra quyết định
-Giống vật nuôi
-Kỹ thuật nuôi
-Quy mô nuôi
-Mua thức ăn, thuốc thú y
-Bán sản phẩm
2.Người thực hiện
-Làm chuồng trại
-Cho ăn và vệ sinh chuồng trại
-Mua giống
-Bán sản phẩm
* Trong các hoạt động khác:
Người đảm nhiệm Công việc Ghi chú Nam Nữ Cả hai
1.Ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp
-Đi mua nguyên liệu
-Trực tiếp sản xuất
-Bán sản phẩm
2.Dịch vụ
-Quản lý thu, chi, thanh toán
-Cho ăn và vệ sinh chuồng trại
-Mua hàng
-Vận chuyển, bốc dỡ, áp tải hàng
-Trực tiếp phục vụ hay bán hàng
77
.Vai trò của phụ nữ trong tái sản xuất:
Công việc Người đảm nhiệm Ghi chú
Nam Nữ Cả hai
Làm nội trợ
Dọn dẹp nhà cửa, giặt quần
áo
Chăm sóc con cái
Định hướng tương lai cho
con
Chăm sóc người già, người
ốm
Người tham gia bảo hiểm y
tế xã hội năm 2018
Đi khám sức khỏe định kỳ
Vệ sinh môi trường sống
xung quanh
Tham gia các lễ hội
Tham dự các đám hiếu, hỷ
Thăm hỏi người ốm
. Phụ nữ và vai trò cộng đồng:
Công việc Người đảm nhiệm Ghi chú
Nam Nữ Cả hai
Người thường đi họp
Người thường tham dự tập
huấn
Người thường nghe đài, xem ti
vi
Người thường đọc sách, báo
Quan hệ công việc trong họ
Đứng tên các tài sản có giá trị
Sở hữu tiền:
-Tiền mặt
-Tiền tiết kiệm
III. CÁC THÔNG TIN KHÁC:
-Trong gia đình ai là người ra quyết định chính trong việc mua các tài sản lớn,
làm nhà, định hướng sản xuất kinh doanh?
Vợ
Chồng
Cả hai
Tất cả mọi người
- Ông/bà có thường xuyên cập nhập thông tin về kỹ thuật sản xuất, thị trường trên ti
vi, đài báo không?
Có
79
- Ông/bà có thường xuyên vay vốn để phát triển kinh tế gia đình không?
* Nguồn vốn vay
Hội phụ nữ
Ngân hàng
Hội nông dân
Quỹ xóa đói giảm
nghèo
Vay người thân, bạn bè
- Ông/bà dùng vốn vay vào việc gì để phát triển kinh tế hộ gia đình?
Đầu tư sản xuấ ắm các công cụ
Mua các vật dụ ệ
(Việc khác:...............................................................................................)
- Quản lý vốn vay của gia đình:
Nam Nữ Cả hai
Ai là người quản lý vốn?
Ai là người đứng tên vay vốn?
Ai là người đi trả tiền lãi?
Ai là người quyết định sử
dụng?
- Ông/bà có thường xuyên đi tham gia các lớp tập huấn kĩ thuật không?
ờ Thườ
-Theo Ông/bà những yếu tố nào ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế hộ gia đình?
Quan niệm về giới của xã hộ
Phong tục tập quán của đị
Trình độ học vấn, chuyên môn
Khả năng tiếp cậ
Sức khỏ
Sự giúp đỡ của người chồ
Chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nướ
(Ý kiến khác:………………………………………………………………..)
- Ông/bà đánh giá như thế nào về vai trò của người phụ nữ nông thôn trong phát triển
kinh tế hộ gia đình?
...........................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
- Ông/bà có mong muốn và đề xuất gì để nâng cao vai trò của phụ nữ nông thôn trong
phát triển kinh tế hộ gia đình?
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của gia đình!
Chữ ký của đại diện hộ điều tra