YOMEDIA
ADSENSE
Khởi đầu với JavaServer Faces 1.2, Phần 1: Xây dựng các ứng dụng cơ bản Richard Hightower, Giám đốc công nghệ, ArcMind
155
lượt xem 16
download
lượt xem 16
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Tóm tắt: Công nghệ Java™Server Faces (JSF), một khung công tác phía máy chủ cung cấp một cách tiếp cận dựa vào thành phần để việc phát triển giao diện người dùng web, đã có từ lâu. JSF 1.2 (kết hợp chặt chẽ trong Java Enterprise Edition 5) đã sửa chữa một số điểm phiền hà của JSF và thêm vào một số tính năng tốt đẹp. Loạt bài hướng dẫn này trình bày cách bắt đầu với JSF 1.2 như thế nào. Nó nặng về các ví dụ và nhẹ về lý thuyết — đúng những gì bạn...
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khởi đầu với JavaServer Faces 1.2, Phần 1: Xây dựng các ứng dụng cơ bản Richard Hightower, Giám đốc công nghệ, ArcMind
- Khởi đầu với JavaServer Faces 1.2, Phần 1: Xây dựng các ứng dụng c ơ bản Richard Hightower, Giám đốc công nghệ, ArcMind Tóm tắt: Công nghệ Java™Server Faces (JSF), một khung công tác phía máy chủ cung cấp một cách tiếp cận dựa vào thành phần để việc phát triển giao diện người dùng web, đã có từ lâu. JSF 1.2 (kết hợp chặt chẽ trong Java Enterprise Edition 5) đã sửa chữa một số điểm phiền hà của JSF và thêm vào một số tính năng tốt đẹp. Loạt bài hướng dẫn này trình bày cách bắt đầu với JSF 1.2 như thế nào. Nó nặng về các ví dụ và nhẹ về lý thuyết — đúng những gì bạn cần để bắt đầu nhanh chóng. Trước khi bạn bắt đầu Giới thiệu về loạt bài này Loạt bài hướng dẫn này nói về bước khởi đầu với công nghệ JavaServer Faces (JSF), một khung công tác thành phần giao diện người dùng phía máy chủ cho các ứng dụng web dựa trên Java. Loạt bài này dành cho các nhà phát triển, những người mới bắt đầu tìm hiểu JSF và muốn tiến nhanh — không chỉ với JSF, mà với cả việc sử dụng các thành phần JSF để giảm công sức. Loạt bài này trình bày chỉ những điều cốt yếu, với rất nhiều ví dụ. JSF là một môi trường phát triển GUI khá truyền thống, giống như AWT, SWT, và Swing. Một trong những lợi ích chính của nó là nó làm cho việc phát triển Web dễ dàng hơn bằng cách giao những công việc khó khăn cho các nhà phát triển khung công tác, chứ không phải cho các nhà phát triển ứng dụng. Cứ cho là bản thân JSF phức tạp hơn nhiều so với các khung công tác Web khác, nhưng sự phức tạp này được che giấu không để cho các nhà phát triển ứng dụng biết. Phát triển các ứng dụng Web trong JSF dễ dàng hơn nhiều so với hầu hết các khung công tác khác: nó đòi hỏi viết mã ít hơn, ít phức tạp hơn, và ít việc cấu hình hơn. Nếu bạn đang thực hiện phát triển Java phía máy chủ, JSF l à khung công tác dễ nhất để tìm hiểu. Nó được định hướng để tạo các ứng dụng Web (không chỉ là các trang web). Nó cho phép bạn tập trung vào việc mã hóa Java của bạn mà không cần đối phó với các đối tượng yêu cầu, các đối tượng phiên, các thông số yêu cầu, hoặc đối phó với các tệp tin XML phức tạp. Với JSF, nhiều thứ thực hiện nhanh hơn so với các khung công tác Web Java khác.
- Về hướng dẫn này Hướng dẫn này đi theo một cách tiếp cận cơ bản để phát triển JSF. Bạn sẽ không sử dụng các công cụ màu mè hay sự hỗ trợ IDE trong hướng dẫn này (mặc dù sự hỗ trợ sử dụng công cụ là ích lợi chính của JSF). Bạn sẽ thực hiện lập trình bằng tay không! Tôi đề cập những điểm cốt yếu, với lý thuyết vừa đủ để tiếp tục duy tr ì việc trình bày và để cho bạn học tập một cách hiệu quả việc sử dụng JSF để xây dựng các ứng dụng Web. Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng JSF lập trình dễ dàng hơn so với khung công tác Web Java khác, thậm chí không có các công cụ IDE ưa thích. Các mục tiêu Trong hướng dẫn này, bạn nhận được một tổng quan về các tính năng của JSF và tìm hiểu cách làm thế nào để viết một ứng dụng JSF cơ bản. Bạn xây dựng một ứng dụng máy tính bỏ túi đơn giản và, tuần tự nhiều lần, cải thiện vẻ ngoài và cảm nhận của nó, sửa đổi cấu trúc của nó để bổ sung thêm nội xạ phụ thuộc và thực hiện cơ chế dẫn hướng của JSF. Trong Phần 2, bạn sẽ xây dựng các trình biến đổi (converter), các bộ duyệt tính hợp lệ, và trình nghe pha (phase-listener) theo yêu cầu. Ai nên tìm hiểu hướng dẫn này? Nếu bạn là người mới bắt đầu tìm hiểu JSF, hướng dẫn này để dành cho bạn. Ngay cả khi bạn đã sử dụng JSF nhưng chưa thử nghiệm các tính năng JSF 1.2 hoặc chỉ sử dụng các công cụ GUI để xây dựng các ứng dụng JSF, bạn sẽ có khả năng học hỏi được rất nhiều từ cả hai hướng dẫn trong loạt bài này. Các điều kiện cần trước
- Hướng dẫn này được viết cho các nhà phát triển Java với kinh nghiệm ở mức bắt đầu tới mức trung cấp. Bạn cần phải có hiểu biết chung về cách sử dụng ngôn ngữ Java, cùng với một số kinh nghiệm phát triển GUI. Các yêu cầu hệ thống Để chạy các ví dụ trong hướng dẫn này, bạn cần có một môi trường phát triển Java (JDK) và Maven Apache. Nó giúp để có một IDE Java. Các tệp tin dự án Maven và các tệp tin dự án trong Eclipse Java EE và Web Tools Project (WTP) được cung cấp sẵn. Xem Tải về để nhận được mã ví dụ.
- JSF dành cho những người mới bắt đầu Giống như Swing và AWT, JSF là một khung công tác phát triển cung cấp một bộ các thành phần GUI tiêu chuẩn, có thể dùng lại được, JSF được dùng để xây dựng các giao diện ứng dụng Web. JSF cung cấp các lợi thế phát triển sau: Tách biệt hoàn toàn giữa hành vi và cách trình bày Kiểm soát tính có trạng thái (statefulness) ở mức thành phần Các sự kiện dễ dàng được liên kết với mã phía máy chủ Sử dụng các khái niệm thành phần UI và tầng Web (Web-tier) quen thuộc Cung cấp nhiều dụng cụ của nhà sản xuất phần mềm đã tiêu chuẩn hóa Sự hỗ trợ IDE tuyệt vời Một ứng dụng JSF điển hình bao gồm các phần sau đây: JavaBeans để quản lý trạng thái và hành vi của ứng dụng Các thành phần GUI có trạng thái Phát triển hướng sự kiện (thông qua các trình nghe-listener) giống như trong phát triển GUI truyền thống Các trang biểu diễn các khung nhìn theo phong cách Model-View- Controller (MVC); các trang web tham khảo các gốc khung nhìn (view roots) thông qua cây thành phần JSF Bạn sẽ cần phải có khả năng để vượt qua một số các chướng ngại thuộc về khái niệm để sử dụng JSF, nhưng làm như vậy cũng đáng công cố gắng. Việc quản lý trạng thái thành phần của JSF; việc duyệt tính hợp lệ của dữ liệu đầu vào của người dùng dễ sử dụng; xử lý sự kiện mức chi tiết, dựa trên thành phần; và kiến trúc mở rộng dễ dàng; tất cả những cái đó sẽ làm đơn giản đáng kể công sức phát triển web của bạn. Phần này giải thích những tính năng quan trọng nhất trong số này một cách chi tiết. Một kiến trúc dựa trên-thành phần
- Hãy nghĩ theo cách của các thành phần có trạng thái Chướng ngại lớn nhất mà bạn có thể gặp phải là bạn đã quên rằng JSF là một mô hình thành phần có trạng thái. Nếu bạn đã sử dụng Struts từ trước, hãy lặp lại theo tôi câu này: "JSF không phải là Struts. JSF không phải là Struts". Tôi đã thấy những người có một nền tảng về GUI của Swing, AWT, Visual Basic, hay Delphi học JSF nhanh hơn nhiều so với những người đã sử dụng Struts nhiều năm, và chưa bao giờ thực hiện phát triển thành phần GUI trước đó. Hướng dẫn này được thiết kế để giúp bạn nghĩ theo cách của các thành phần có trạng thái. JSF cung cấp các thẻ thành phần cho tất cả các trường đầu vào có sẵn trong HTML tiêu chuẩn. Bạn cũng có thể viết các th ành phần tuỳ biến riêng của bạn cho các mục đích riêng cho ứng dụng hoặc tổ hợp nhiều thành phần HTML để tạo thành một phức hợp — ví dụ, một thành phần trình chọn ngày tháng (Data Picker) có chứa ba danh sách chọn thả xuống. Các thành phần JSF có trạng thái. Tính có trạng thái của chúng do các khung công tác JSF cung cấp. JSF sử dụng các th ành phần để sinh ra đáp ứng HTML. Nhiều thành phần GUI JSF của bên thứ ba cũng có sẵn. JSF bao gồm: Một mô hình sự kiện-xuất bản Một bộ chứa (container) nhẹ, đảo ngược-điều khiển (IoC) Các thành phần cho hầu hết mọi đặc tính GUI phổ biến khác, bao gồm (nhưng không hạn chế): Công cụ biểu hiện (rendering) cắm chạy được o Trình duyệt tính hợp lệ phía máy chủ o Biến đổi dữ liệu o Quản lý dẫn hướng trang o Là một kiến trúc dựa trên thành phần, JSF có khả năng cấu hình và mở rộng rất cao. Hầu hết các chức năng JSF — như dẫn hướng và tìm kiếm các bean-quản lý — có thể được thay thế bằng các thành phần cắm được. Tính dễ dàng cắm thêm này mang lại cho bạn sự linh hoạt đáng kể trong việc xây dựng các GUI ứng dụng Web của bạn và cho phép bạn kết hợp chặt chẽ các công nghệ dựa trên thành phần khác một cách dễ dàng với các nỗ lực phát triển JSF của bạn. Ví dụ, bạn có thể thay thế khung công tác có sẵn đảo ngược điều khiển (IoC) của JSF bằng khung
- công tác Spring lập trình hướng khía cạnh (aspect-oriented programming - AOP)/đảo ngược điều khiển đầy đủ tính năng hơn đối với việc tìm kiếm bean quản lý. Tôi sẽ trình bày nhiều về các tính năng nâng cao ấy trong phần 2. Công nghệ JSF và JSP Giao diện người dùng của một ứng dụng JSF bao gồm các trang JavaServer Pages (JSP). Mỗi trang JSP có chứa các thành phần JSF để thể hiện chức năng GUI. Bạn sử dụng các thư viện thẻ tùy biến JSF bên trong các trang JSP để biểu hiện các thành phần UI, để đăng ký trình xử lý sự kiện, để kết hợp các thành phần với các trình duyệt tính hợp lệ (validator), để kết hợp các thành phần với các trình biến đổi dữ liệu (converter), và nhiều hơn nữa. JSF không có kiến thức về JSP JSF không có gì để làm với bản thân JSP. JSF làm việc với JSP thông qua một cầu nối thư viện thẻ JSP. Tuy nhiên, vòng đời của JSF là rất khác so với vòng đời của JSP. Facelets phù hợp với JSF hơn nhiều so với JSP vì Facelets đã được thiết kế với JSF trong tâm trí, trong khi việc kết hợp JSF và JSP luôn luôn giống như bắt một miếng gỗ hình vuông vào trong một lỗ tròn. Bạn nên suy nghĩ về Facelets; các tính năng của Facelets sẽ là một phần của JSF 2.0. Xem Tài nguyên để biết thêm thông tin về Facelets. Điều đó nói rằng, sự thật là JSF vốn đã không ràng buộc với công nghệ JSP. Trong thực tế, các thẻ JSF được các trang JSP sử dụng chỉ để tham khảo các thành phần sao cho chúng có thể được hiển thị. Các thành phần có một vòng đời khác với các trang JSP. Bạn sẽ thấy rõ điều này lần đầu tiên khi bạn sửa đổi một trang JSP để thay đổi các thuộc tính của một thành phần JSF và nạp lại trang... và không có điều gì xảy ra. Đó là do thẻ này tìm kiếm thành phần trong trạng thái hiện tại của nó. Nếu thành phần đã tồn tại, thẻ tuỳ biến không thay đổi trạng thái của nó. Mô hình thành phần cho phép mã của trình điều khiển của bạn thay đổi một trạng thái của thành phần (ví dụ, vô hiệu một trường văn bản), và khi khung nhìn đó được hiển thị, trạng thái hiện tại của cây thành phần của bạn được hiển thị. Một ứng dụng JSF điển hình không cần phải có mã Java và có rất ít mã ngôn ngữ biểu thức phổ quát (JSTL EL) trong UI. Như tôi đã lưu ý trước đó, có rất nhiều công cụ IDE để xây dựng và hợp dịch các ứng dụng trong JSF, và có một thị
- trường của bên thứ ba cho các thành phần GUI của JSF. Cũng có khả năng viết mã JSF mà không sử dụng các công cụ WYSIWYG (như bạn sẽ làm trong hướng dẫn này), mặc dù JSF đã được thiết kế với các công cụ WYSIWYG IDE trong tâm trí. Chúng ta không cần sự hỗ trợ khó chịu của IDE WYSIWYG Mặc dù JSF đã được thiết kế với sự hỗ trợ IDE WYSIWYG trong tâm trí, bạn không cần phải sử dụng sự hỗ trợ IDE WYSIWYG để có được các lợi ích của JSF. Trong thực tế, JSF vẫn còn dễ sử dụng hơn nhiều hơn so với hầu hết các khung công tác Web Java ngay cả khi bạn viết mã nó bằng tay. Nếu bạn lập trình trong Swing, và bạn sử dụng một IDE WYSIWYG, thì nhiều khả năng bạn sẽ sử dụng một công cụ như vậy với JSF. Nếu bạn thích viết mã Swing bằng tay hơn, bạn cũng sẽ thích mã hóa JSF bằng tay. Đó là lập trình tay không! Các cải tiến trong JSP 1.2 và JSF 2.1 JSP 2.1 thêm nhiều tính năng mới để hỗ trợ JSF, bao gồm API ngôn ngữ biểu thức phổ quát (EL) mà JSF 1.2 cũng bổ sung thêm vào. Với các thẻ JSTL tiêu chuẩn, bây giờ bạn có thể lặp qua một danh sách và biểu hiện các thành phần JSF, điều mà JSF 1.1 và JSP 2.0 không thể làm. Xem Tài nguyên để biết thêm chi tiết về các thay đổi đã được thực hiện trong JSP 2.1. (Ngay cả với những cải tiến này, Facelets vẫn phù hợp JSF tốt hơn nhiều, và có rất nhiều ý tưởng từ Facelets sắp được đưa vào trong JSF 2.0.) JSF và MVC JSF là kết quả của các bài đã học thu được qua nhiều năm phát triển của các kỹ thuật phát triển Web trên nền tảng Java. Xu hướng này bắt đầu với công nghệ JSP, cho dù có nhiều ưu điểm, đã làm cho quá dễ dàng trộn lẫn mã Java với mã HTML (và mã giống như HTML). Bước tiến tiếp theo là kiến trúc Mô hình 1 trong đó các nhà phát triển đẩy hầu hết mã mặt sau vào trong các thành phần JavaBeans và sau đó nhập khẩu các thành phần JavaBeans vào các trang Web với thẻ . Điều này đã hoạt động tốt với các ứng dụng Web đơn giản, nhưng nhiều nhà phát triển Java không thích kết hợp công nghệ JSP với các đặc tính C++ ví dụ như là lệnh bao gồm (include) tĩnh. Vì vậy, kiến trúc Mô hình 2 đã được giới thiệu. Về cơ bản, kiến trúc Mô hình 2 là phiên bản MVC thấp hơn cho các ứng dụng Web. Trong kiến trúc Mô hình 2, trình điều khiển được thể hiện bằng các servlet
- (hoặc các Action) và việc hiển thị được giao cho các trang JSP. Struts của Apache là một thực thi Mô hình 2 đơn giản hoá, nơi mà các Action thế chỗ các servlet. Trong Struts, logic của trình điều khiển ứng dụng được tách ra khỏi các dữ liệu của nó (được biểu diễn bằng ActionForms). Các lời phàn nàn chủ yếu chống lại Struts là có thể cảm thấy nó có nhiều tính thủ tục hơn hướng đối tượng ("COBOL cho Web"). WebWork và Spring MVC là hai kiến trúc Mô hình 2 khác để cải tiến Struts để ít tính thủ tục hơn, nhưng cả hai đều không được chấp nhận rộng rãi như là Struts. Và cả hai cũng không cung cấp một mô hình thành phần có trạng thái như JSF đã làm. (Struts 2 được xây dựng bên trên WebWork, và cơ sở mã lệnh Struts ban đầu đã bị loại bỏ. Ngay cả Struts cũng không muốn). Vấn đề thực sự với hầu hết các khung công tác Mô hình 2 là ở chỗ mô hình sự kiện quá đơn giản (chủ yếu là một MVC thu nhỏ nhiều), và nó không có thành phần GUI có trạng thái, để lại quá nhiều công việc cho nhà phát triển. Một mô hình thành phần và sự kiện phong phú hơn sẽ làm cho dễ dàng tạo ra các loại tương tác mà hầu hết người dùng mong đợi. Cũng giống như công nghệ JSP, hầu hết các khung công tác của Mô hình 2 cũng làm cho quá dễ dàng trộn lẫn bố trí và định dạng HTML với các thẻ tùy biến GUI, hoạt động hơi giống như các thành phần, ngoại trừ là chúng không có trạng thái. Và một số kiến trúc Mô hình 2 (như Struts kinh điển) phạm lỗi tách biệt hành vi với trạng thái, đã mang lại cho nhiều nhà phát triển Java cảm giác như họ đang lập trình COBOL. Một môi trường MVC phong phú hơn JSF không phải là Struts; hãy trút hết cốc của bạn để bạn có thể đổ đầy nó JSF không phải là một khung công tác Mô hình 2. Nó có nhiều hơn thế. Nhiều người tin rằng do tác giả ban đầu của Struts đã là người lãnh đạo đặc tả kỹ thuật JSF, nên các kỹ năng Struts có thể được sử dụng trên một dự án JSF. Đừng cố gắng lập trình JSF giống như Struts. Bạn cần phải từ bỏ một số kỹ năng Struts của bạn và học các kỹ năng JSF. JSF cung cấp một mô hình thành phần và một môi trường MVC phong phú — phong phú hơn nhiều khung công tác Mô hình 2. JSF gần gũi hơn nhiều với một môi trường lập trình MVC thực thụ hơn là gần kiến trúc Mô hình 2, mặc dù nó vẫn đang được xây dựng bên trên một giao thức không trạng thái. JSF cũng tạo thuận lợi cho việc xây dựng các GUI hướng sự kiện, mức chi tiết mịn hơn so với các khung công tác Mô hình 2. Trong khi JSF cung cấp cho bạn một số đông các tùy chọn sự kiện — mục trình đơn được chọn, nút ấn được nhấn, nút cây được mở
- rộng,... — hầu hết các Mô hình 2 chỉ dựa trên một sự kiện đơn giản là "đã nhận được yêu cầu." Mô hình sự kiện tinh chỉnh được của JSF cho phép các ứng dụng của bạn ít bị ràng buộc với các chi tiết HTTP và làm đơn giản nỗ lực phát triển của bạn. JSF cũng cải tiến một chút kiến trúc Mô hình 2 truyền thống bằng cách làm dễ dàng hơn việc di chuyển logic trình bày và logic nghiệp vụ ra ngoài trình điều khiển của bạn, và di chuyển logic nghiệp vụ ra khỏi các trang JSP của bạn. Trong thực tế, các lớp của trình điều khiển đơn giản không bị ràng buộc chút nào với JSF, làm cho chúng dễ dàng thử nghiệm hơn. Không giống như một kiến trúc MVC thực thụ, tầng mô hình JSF ít có khả năng phát ra nhiều sự kiện phải được giải quyết trong nhiều hơn một cổng nhìn (mặc dù Crank cố gắng thực hiện điều này, với sự hỗ trợ từ JBoss ajax4JSF; xem Tài nguyên). Một lần nữa, điều này sẽ là không cần thiết bởi vì bạn đang làm việc với một giao thức phi trạng thái. Sự kiện hệ thống để thay đổi hoặc cập nhật một khung nhìn hầu như luôn luôn (tôi dám nói luôn luôn?) là một yêu cầu từ người sử dụng. Các chi tiết về thực thi MVC của JSF Trong thực thi MVC của JSF, việc ánh xạ beans quản lý sẽ làm trung gian giữa khung nhìn và mô hình. Vì thế, điều quan trọng là hạn chế logic nghiệp vụ và logic lâu bền trong các beans quản lý, được gắn với JSF. Một giải pháp thay thế chung là giao logic nghiệp vụ cho mô hình ứng dụng. Trong trường hợp này, các bean quản lý cũng ánh xạ với các đối tượng của mô hình, ở nơi khung nhìn có thể hiển thị chúng (như các thuộc tính của bean quản lý). Tôi có xu hướng tách biệt beans quản lý của tôi ra thành hai loại: beans quản lý được gắn với JSF (trình điều khiển) và beans quản lý không được gắn với JSF (các đối tượng mô hình). Không giống như công nghệ JSP, thực thi của khung nhìn JSF là một mô hình thành phần có trạng thái. Khung nhìn JSF gồm hai phần gốc khung nhìn (view root) và các trang JSP. Gốc khung nhìn là một sưu tập các thành phần UI để duy trì trạng thái của UI. Giống như Swing và AWT, các thành phần JSF sử dụng một mẫu thiết kế phức hợp để quản lý một cây các thành phần (nói đơn giản: một bộ chứa chứa các thành phần; một bộ chứa là một thành phần). Trang JSP liên kết các thành phần UI với các trang JSP và cho phép bạn liên kết các thành phần trường với các thuộc tính của beans hậu thuẫn (hay đúng hơn là các thuộc tính của thuộc tính) và liên kết các nút nhấn với trình xử lý sự kiện và các phương thức hành động.
- Hình 1 minh hoạ cấu trúc của một ví dụ ứng dụng (một ứng dụng mà bạn sắp tìm hiểu chi tiết!) theo một quan điểm của MVC: Hình 1. Ứng dụng mẫu từ một phối cảnh MVC Nếu phần đầu tiên này về JSF đã làm bạn phải lắc đầu một chút cũng đừng lo lắng: bạn đã vượt qua lúc khó khăn nhất. Đi sâu vào khung công tác về mặt khái niệm của JSF là đã qua được hơn một nửa cuộc chiến với việc thực hiện công nghệ này — và bạn sẽ sớm thấy rằng nó cũng đáng công khó nhọc. Nhưng lý thuyết thế là đủ: chúng ta hãy tay không đi viết vài đoạn mã!
- Một ví dụ JSF: Dần từng bước một Phần này tập trung vào quá trình từng bước tạo ra một ứng dụng trong JSF. Ví dụ ứng dụng là một phần mềm máy tính bỏ túi (Calculator) đơn giản để giải thích các khía cạnh sau đây của việc sử dụng công nghệ JSF: Làm thế nào để bố trí một ứng dụng JSF để triển khai Làm thế nào để cấu hình một tệp tin web.xml cho JSF Làm thế nào để cấu hình một tệp tin faces-config.xml cho một ứng dụng Viết bean quản lý (còn gọi là các đối tượng mô hình và các trình điều khiển) Xây dựng khung nhìn bằng cách sử dụng công nghệ JSP Sử dụng các thư viện thẻ tùy biến để xây dựng cây thành phần trong gốc khung nhìn Mặc định duyệt tính hợp lệ của các trường biểu mẫu Trong phần tiếp theo, bạn sẽ cải tiến ứng dụng qua một số lần lặp đi lặp lại và làm cho nó hiểu JSF nhiều hơn. Hình 2 cho thấy một khung nhìn có chú thích của phiên bản cuối cùng của ví dụ ứng dụng máy tính bỏ túi sẽ trông như thế nào. Xem Tải về để lấy mã nguồn ứng dụng.
- Hình 2. Ứng dụng Máy tính bỏ túi, bản cuối cùng Ứng dụng Calculator (Máy tính bỏ túi) Xây dựng bằng Maven 2 và WTP Eclipse Môi trường xây dựng mặc định cho ví dụ ứng dụng Máy tính bỏ túi là Apache Maven 2. Trong ví dụ này, tôi đã sử dụng một bố trí mặc định cho một ứng dụng Web Maven. Xem Tài nguyên với các chỉ dẫn và các JAR để chạy mã nguồn của hướng dẫn này với Eclipse JEE, Tomcat, và Maven 2. Mục tiêu của ứng dụng Calculator ban đầu là để trình diễn một trang web cho phép người dùng nhập vào hai số và sau đó cộng hoặc nhân chúng. Trang này có: Một biểu mẫu Hai trường văn bản Hai nhãn Hai vị trí thông báo lỗi
- Hai nút Submit Một bảng kết quả Các trường văn bản dùng để nhập vào các số. Các nhãn dùng để gắn nhãn cho các trường văn bản. Các vị trí thông báo lỗi dùng để hiển thị thông báo về duyệt tính hợp lệ hoặc thông báo lỗi biến đổi dữ liệu cho các trường văn bản. Có hai trang JSP: calculator.jsp và index.jsp, chỉ để chuyển hướng vào calculator.jsp. Một bean quản lý có tên là Calculator dùng như là mô hình cho calculator.jsp. Ví dụ đơn giản này hiện không có tầng trình điều khiển nào khác với những cái do JFS cung cấp. Tạo ứng dụng: Tổng quan Để xây dựng ứng dụng Calculator đầu tiên trong JSF bạn cần phải: Khai báo Faces Servlet và thêm ánh xạ Faces Servlet trong tệp tin web.xml của bộ mô tả triển khai ứng dụng Web Chỉ rõ tệp tin faces-config.xml trong tệp tin web.xml Tạo lớp Calculator Khai báo bean Calculator trong tệp tin faces-config.xml file Tạo trang index.jsp Tạo trang calculator.jsp Ứng dụng sử dụng cách bố trí thư mục sau: +---src +---main +---java +---webapp
- +---pages +---WEB-INF +---lib Mã Java ở trong src/main/java/. Tệp tin web.xml ở trong thư mục src/main/webapp/WEB-INF. Tệp tin cấu hình JSF cũng nằm trong thư mục src/main/webapp/WEB-INF. Ví dụ ứng dụng đã được tạo ra với IDE Eclipse cho các nhà phát triển Java EE (Eclipse JEE), trong đó bao gồm một trình thủ thuật tạo dự án JSF để tạo tệp tin web.xml và tệp tin faces-config.xml có các mục đúng đắn. Tôi giả sử rằng bạn sẽ sử dụng một máy chủ ứng dụng hỗ trợ Java EE 5, có nghĩa là, có các tệp tin JSF và JSTL JAR. Xem Tài nguyên để tìm các chỉ dẫn cho việc thiết lập Tomcat để chạy JSF, thiết lập Eclipse JEE để chạy Tomcat 6, và chạy các ví dụ với Maven 2. Khai báo servlet Faces và ánh xạ servlet Để sử dụng Servlet Faces, trước hết bạn cần phải cài đặt nó trong tệp tin web.xml của bạn, như được hiển thị trong Listing 1: Listing 1. Khai báo Servlet Faces trong web.xml Faces Servlet javax.faces.webapp.FacesServlet 1
- Điều này tương tự với hầu hết các bộ mô tả web.xml, ngoại trừ rằng bạn đang chuyển điều khiển đến servlet JSF để xử lý các yêu cầu thay vì chỉ rõ servlet của riêng bạn. Tất cả các yêu cầu đến các tệp tin JSP có sử dụng một thẻ (được ứng dụng mẫu sử dụng) phải đi qua servlet này. Vì thế, bạn cần phải thêm một ánh xạ và chỉ nạp công nghệ JSP có khả năng JSF thông qua ánh xạ đó, nh ư được hiển thị trong Listing 2: Listing 2. Ánh xạ đường dẫn servlet Faces trong web.xml Faces Servlet *.jsf Faces Servlet /faces/* Listing 2 báo cho bộ chứa (container) Servlet Faces gửi tất cả các yêu cầu bắt đầu với /faces/ hoặc kết thúc bằng *.jsf tới servlet Faces để xử lý. Điều n ày cho phép JSF khởi tạo bối cảnh Faces và gốc khung nhìn trước khi hiển thị trang JSF. Gốc khung nhìn có chứa cây thành phần JSF. Bối cảnh Faces là một cách để tương tác với JSF.
- Điều này có nghĩa là để tải ứng dụng Calculator bạn sử dụng http://localhost:8080/calculator/pages/calculator.jsf ho ặc http://localhost:8080/calculator/faces/pages/calculator.jsp — không phải http://localhost:8080/calculator/pages/calculator.jsp. N ếu bạn nạp trang JSP bên ngoài bối cảnh JSF, JSF sẽ không có cơ hội để khởi tạo các bối cảnh Faces hoặc gốc khung nhìn. Chỉ rõ tệp tin faces-config.xml file Nếu bạn đặt tên tệp tin cấu hình Faces của bạn là faces-config.xml và đặt nó vào trong thư mục WEB-INF của các ứng dụng Web của bạn, thế thì Servlet Faces chọn nó và sử dụng nó tự động (vì đó là mặc định). Một cách khác, bạn có thể nạp một hoặc nhiều tệp tin cấu hình ứng dụng thông qua một tham số khởi tạo — javax.faces.application.CONFIG_FILES — trong tệp tin web.xml của bạn với một danh sách các tệp tin được phân cách bằng dấu phẩy như là phần thân. Nhiều khả năng bạn sẽ sử dụng phương thức tiếp cận thứ hai cho tất cả, trừ các ứng dụng JSF đơn giản nhất. Bởi vì ví dụ ứng dụng là đơn giản, hãy sử dụng vị trí tệp tin faces- config.xml mặc định ở /src/main/webapp/WEB-INF. Tạo lớp Calculator Bây giờ bạn sẽ tạo một POJO (plain old Java object - đối tượng thuần Java) được gọi là Calculator không bị trói buộc tý nào với JSF, và sau đó liên kết nó với JSF bằng các liên kết phương thức và các liên kết thuộc tính. Lớp đơn giản này, có hai thuộc tính: firstNumber và secondNumber. Mục tiêu của tôi là giải thích cách làm thế nào để bắt đầu với JSF, vì vậy tôi vẫn duy trì đối tượng mô hình rất đơn giản. Mô hình của ứng dụng này được chứa bên trong một đối tượng mô hình, như hiển thị trong Listing 3. Sau đó bạn sẽ phân chia nó thành hai lớp: trình điều khiển và mô hình. Listing 3. POJO Calculator
- package com.arcmind.jsfquickstart.model; /** * Calculator. Simple POJO. * * @author Rick Hightower */ public class Calculator { /** First number used in operation. */ private int firstNumber = 0; /** Result of operation on first number and second number. */ private int result = 0; /** Second number used in operation. */ private int secondNumber = 0; /** Add the two numbers. */ public void add() {
- result = firstNumber + secondNumber; } /** Multiply the two numbers. */ public void multiply() { result = firstNumber * secondNumber; } /** Clear the results. */ public void clear() { result = 0; } /* ---------- properties ------------- */ public int getFirstNumber() { return firstNumber; } public void setFirstNumber(int firstNumber) { this.firstNumber = firstNumber; }
- public int getResult() { return result; } public void setResult(int result) { this.result = result; } public int getSecondNumber() { return secondNumber; } public void setSecondNumber(int secondNumber) { this.secondNumber = secondNumber; } } Listing 3 là đơn giản và không cần giải thích; chỉ cần đọc mã. Tuy nhiên hãy nhớ rằng POJO Calculator không có gì để làm với JSF.
- Khai báo bean Calculator trong tệp tin faces-config.xml file Listing 4 hiển thị toàn bộ tệp tin faces-config.xml. Như bạn có thể nhìn thấy, một phần lớn của nó chỉ kết hợp tệp tin này với lược đồ Java EE JSF XML. Trong faces-config.xml, phần tử được sử dụng để khai báo một bean mà JSF có thể liên kết tới: Listing 4. Tệp tin faces-config.xml có chứa khai báo bean quản lý calculator com.arcmind.jsfquickstart.model.Calculator request
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn