Ý ĐỊNH SỬ DỤNG KHÔNG GIAN LÀM VIỆC CHUNG CỦA CÁC NHÀ KHỞI NGHIỆP TRẺ:
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG, VIỆT NAM
Trương Đình Quốc Bảo*
1- Nguyễn Thị Hằng**- Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh**-
Lê Thị Diễm Mi**- Nguyễn Thị My My**
TÓM TT: Không gian làm việc chung là hình thức mà người sử dụng chia sẻ không gian làm việc và các
tiện ích đi kèm với các người cùng sử dụng khác. Hình thức này trở nên phù hợp với các startup đang ở trong
giai đoạn triển khai ý tưởng và phát triển ban đầu. Sử dụng lý thuyết tiêu dùng cộng tác để nghiên cứu các
yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng không gian làm việc chung của các nhà khởi nghiệp trẻ tuổi tại thành
phố Đà Nẵng. Với quy mô mẫu là 175 đáp viên dưới 30 tuổi được khảo sát trực tiếp tại các không gian làm
việc chung, kết quả cho thấy nhân tố được truyền cảm hứng và sự thoải mái ảnh hưởng đến ý định sử dụng
không gian làm việc chung của các bạn trẻ khởi nghiệp. Nghiên cứu cho thấy các nhà khởi nghiệp trẻ bị thúc
đẩy bởi các nhân tố thuộc về cảm xúc do đó nhà quản lý không gian làm việc chung cần thúc đẩy nhiều giải
pháp nhằm truyền cảm hứng và khuyến khích những nhà khởi nghiệp trẻ tuổi tham gia nhiều hơn vào các
không gian làm việc chung.
Từ khoá: kinh tế chia sẻ; không gian làm việc chung; nhà khởi nghiệp; ý định sử dụng; tiêu dùng cộng tác
1. GIỚI THIỆU
Thuật ngữ kinh tế chia sẻ (sharing economy) và tiêu dùng cộng tác (collaborative consumption) được
đưa ra bàn luận trên khắp các diễn đàn kinh tế thương mại điện tử trên thế giới thời gian gần đây.
hình này nhận được không ít lời tán dương của giới nghiên cứu doanh nghiệp bởi không chỉ đem lại lợi
nhuận cho các công ty đồng thời còn mang lại nhiều lợi ích chung cho toàn hội. Sự thành công của
kinh tế chia sẻ tiêu dùng cộng tác trên thế giới đã được minh chứng qua những cái tên không mấy xa lạ
ở nhiều lĩnh vực khác nhau như dịch vụ chia sẻ nhà ở cho người đi du lịch (Airbnb, Couchsurfing); dịch vụ
vận tải (Uber, Grab); dịch vụ chia sẻ ô tô (car2go, Zipcar); mua bán trao đổi hàng hoá (eBay, Craigslist) và
các không gian làm việc chung (Factory Berlin; WeWork – Mỹ).
Các không gian làm việc chung (co-working space) đáp ứng nhu cầu về nơi làm việc của các nhà khởi
nghiệp trẻ tuổi đã đang phát triển ngày càng mạnh mẽ tại Việt Nam. giai đoạn đầu của các dự án khởi
nghiệp, việc tìm kiếm chi trả giá thuê văn phòng định kỳ áp lực rất lớn, vậy sự xuất hiện của hình thức
không gian làm việc chung một giải pháp hữu hiệu và được nhiều nhà khởi nghiệp đón nhận (NhânDân, 2017).
Mặc dù không gian làm việc chung đang ngày càng chứng tỏ được giá trị của mình đối với các dự án
khởi nghiệp, việc tham gia vào các không gian làm việc chung này còn gặp nhiều hạn chế, xuất phát từ cả
* Faculty of Marketing, University of Economics, The University of Danang, trương Đình Quốc Bảo. Tel.:
+84905915510. E-mail address: baotdq@due.udn.vn
** Faculty of Marketing, University of Economics, The University of Danang.
1112 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
hai phía là các nhà khởi nghiệp trẻ và các đơn vị chủ quản các không gian làm việc chung. Hiểu được các
yếu tố ảnh hưởng lên ý định sử dụng không gian làm việc chung không chỉ giá trị với các đơn vị cung
cấp dịch vụ không gian làm việc chung mà mang ý nghĩa tích cực đối với các đơn vị hỗ trợ phong trào khởi
nghiệp của giới trẻ, trong đó có nhà quản lý chính sách của thành phố.
Các nghiên cứu về ý định sử dụng các hình thức chia sẻ “không gian làm việc” đang được nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới quan tâm những năm gần đây (Franke & Shah, 2003; Frankenberger cộng sự,
2013; Gandini, 2015) hầu hết các nghiên cứu khám phá, rất ít các nghiên cứu thực nghiệm nhằm kiểm
định tính chính xác của các yếu tố ảnh hưởng lên ý định sử dụng. Hơn nữa, nghiên cứu về không gian làm
việc chung một chủ đề còn mới Việt Nam nói chung thành phố Đà Nẵng nói riêng nhưng tính
cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn cao. Do đó, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng không gian
làm việc chung (co-working space) của các nhà khởi nghiệp trẻ tại thành phố Đà Nẵng là một nghiên cứu
có tính cấp bách và thời sự. Cụ thể, nghiên cứu này đặt ra một số mục tiêu như sau:
Thứ nhất, nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng không gian làm việc chung của những
nhà khởi nghiệp trẻ.
Thứ hai, nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố trên đến quyết định sử dụng không gian làm việc chung.
Thứ ba, đưa ra các đề xuất hiệu quả giúp các nhà cung cấp không gian làm việc chung nắm bắt nhu
cầu mong muốn của các nhà khởi nghiệp trẻ để xây dựng mô hình phù hợp, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của
các nhà khởi nghiệp trẻ cũng như hỗ trợ cho phong trào khởi nghiệp của Đà Nẵng.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý thuyết
Kinh tế chia sẻ
Cohen Kietzmann (2014) tả kinh tế chia sẻ được tả như một hệ thống nơi mọi người chia
sẻ tài nguyên mà họ với nhau. Kinh tế chia sẻ bao gồm việc thu thập, cho, hoặc chia sẻ quyền truy cập
vào hàng hóa và dịch vụ, được phối hợp thông qua dịch vụ trực tuyến dựa vào cộng đồng (Hamari và cộng
sự, 2016). Kinh tế chia sẻ ước tính trị giá 100 tỷ USD trong năm 2010 (Lamberton & Rose, 2012) và phục
vụ cho nhiều lĩnh vực kinh doanh như thực phẩm, chỗ ở, giao thông, phương tiện giải trí (Hartl và cộng sự,
2016). Ví dụ như việc sử dụng các hình thức chia sẻ trong lĩnh vực giao thông cung cấp lợi ích kinh tế và
môi trường (Cohen & Kietzmann, 2014) hay Airbnb, một mạng lưới dựa trên website cho phép mọi người
chia sẻ chỗ (Oskam & Boswijk, 2016). Không gian làm việc chung cũng là một hình thức của kinh tế chia
sẻ, ở đây cụ thể là chia sẻ “không gian làm việc”. Vậy không gian làm việc chung là gì?
Không gian làm việc chung
Không gian làm việc chung là không gian văn phòng được chia sẻ bởi nhiều người, những người này
đang làm việc cho các công ty hoặc các dự án khởi nghiệp hay kinh doanh độc lập (ví dụ: S-HUB, Danang
Co-working space, v.v). Không gian làm việc chung thường bao gồm những phòng làm việc chung với wifi,
bàn làm việc, nhà ăn, phòng vệ sinh, thiết bị văn phòng như máy fax, máy in và các không gian phòng họp
được chia sẻ với nhau giữa những người hoặc nhóm người/công ty tham gia không gian làm việc chung
(OneEarth, 2015). Các không gian làm việc chung phát triển mạnh những năm gần đây, cụ thể, hơn 500.000
người đang sử dụng hơn 2.000 không gian làm việc chung trên toàn thế giới (Johns & Gratton, 2013). Xu
hướng của chia sẻ cũng tạo điều kiện cho hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startup) kéo theo việc tự
1113
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
thành lập các nhóm với các thành viên năng động sáng tạo tạo ra các ý tưởng sự đổi mới (Franke &
Shah, 2003). Các nhóm này cần một nơi thích hợp với các cơ sở hạ tầng thích hợp và các thiết bị để hỗ trợ
cho việc hoàn thành nhiệm vụ. Không gian làm việc chung hình thể đáp ứng nhu cầu các nhóm
như vậy. hình không gian làm việc chung được thiết kế để khuyến khích sự hợp tác, sáng tạo, chia sẻ
ý tưởng, kết nối, giao tiếp xã hội, và tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho các doanh nghiệp nhỏ, các nhà khởi
nghiệp trẻ khởi nghiệp và người làm nghề tự do (Fuzi, 2015).
2.2. Mô hình nghiên cứu
thuyết giá trị tiêu dùng (Sheth và cộng sự, 1991) cho rằng ý định sử dụng (hay tiêu dùng, lựa chọn)
bị ảnh hưởng bởi các nhân tố thuộc về giá trị chức năng, xã hội và cảm xúc. Lý thuyết về giá trị tiêu dùng
giả định rằng hành vi lựa chọn bị ảnh hưởng bởi nhiều giá trị tiêu dùng độc lập, với mỗi giá trị đóng góp
khác nhau trong các tình huống khác nhau. Những giá trị này đa phần bắt nguồn từ trải nghiệm của nhân
tương tác với sản phẩm hoặc dịch vụ xác định sức mạnh và xu hướng của mối quan hệ giữa người tiêu
dùng sản phẩm (Woodall, 2003). Trong ngữ cảnh của nghiên cứu này, chúng tôi đề cập đến ý định sử
dụng không gian làm việc chung. Người tham gia nhận được ba loại giá trị từ không gian làm việc chung:
giá trị chức năng, giá trị xã hội và giá trị cảm xúc.
Giá trị chức năng tiện ích thu được từ khả năng thay thế về mặt chức năng, tiện dụng hoặc thể chất
(Sheth cộng sự, 1991) thường được coi động chính giúp người tiêu dùng đưa ra lựa chọn. Nghiên
cứu trước đây về các quyết định nơi chốn nêu bật tầm quan trọng của lợi ích chức năng như chất lượng trang
thiết bị, kích thước, vị trí, giá bản chất của các vùng xung quanh (Park cộng sự, 1981); (Levy cộng
sự, 2008). Trong nghiên cứu này, giá trị chức năng tương đương với lợi ích kinh tế không gian dịch vụ.
Ngoài những cân nhắc về giá trị chức năng, các nhà khởi nghiệp trẻ còn động để sử dụng không gian
làm việc chung khi cân nhắc về các giá trị hội Levy, Murphy, & Lee, 2008). Giá trị hội tiện ích thu
được từ những liên kết thay thế từ một hay nhiều nhóm xã hội cụ thể (Sheth và cộng sự, 1991). Giá trị xã hội
trong nghiên cứu này giá trị đạt được thông qua việc tìm kiếm sự giúp đỡ từ các nhân khác đang làm việc
trong các không gian làm việc chung và liên kết hội của các nhà khởi nghiệp trẻ với đồng đội của họ tại các
không gian làm việc chung. Cuối cùng, giá trị cảm xúc là tiện ích nhận được từ khả năng thay thế nhằm khởi
dậy cảm xúc hoặc trạng thái tình cảm được đo lường trên vài cảm xúc liên quan đến giải pháp thay thế (Sheth
và cộng sự, 1991). Giá trị cảm xúc trong ngữ cảnh này đề cập đến cảm hứng làm việc mà họ được truyền hay
cảm nhận được sự thoải mái họ nhận được khi làm việc tại các không gian làm việc chung khi người
ta có thể thư giãn thoải mái và cảm thấy như nhà, và hơn thế nữa phát triển cảm giác thân thuộc và gắn
với không gian đó. Dựa vào các lập luận kể trên, nghiên cứu đưa ra mô hình và các giả thuyết như sau:
Hình 1. Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng không gian làm việc chung của
các nhà khởi nghiệp trẻ.
1114 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
Lợi ích kinh tế
Tiêu dùng cộng tác chia sẻ hàng hóa dịch vụ nói chung thường được coi là vừa thân thiện vừa tiết
kiệm (Belk, 2014; Lamberton & Rose, 2012). Do đó, tham gia vào các hình thức chia sẻ vừa hợp lý, vừa tối
đa hóa hành vi tiêu dùng khi thay thế việc sở hữu độc quyền hàng hóa đó với một lựa chọn chia sẻ với chi
phí thấp hơn. Moeller Wittkowski (2010) nhấn mạnh các “hình thức chia sẻ” thường rẻ hơn các “hình
thức không chia sẻ” xem xét nhận thức về giá một yếu tố quyết định của việc sử dụng các hình thức
chia sẻ. Trong một nghiên cứu về dịch vụ chia sẻ ô (car sharing) chia sẻ chỗ (Airbnb), Möhlmann
(2015) đã chứng minh được rằng lợi ích kinh tế là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hài lòng khi
sử dụng các hình thức của kinh tế chia sẻ. Vì vậy, nghiên cứu này đề xuất giả thuyết:
H1: Lợi ích kinh tế (EB) ảnh hưởng đến ý định sử dụng Không gian làm việc chung.
Không gian dịch vụ
Chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào trải nghiệm của khách hàng khi trực tiếp tiêu thụ, sử dụng một dịch
vụ (Parasuraman cộng sự, 1985, 1988; Seiders cộng sự, 2007). Nghiên cứu chất lượng dịch vụ
tiêu dùng là một tiền đề quan trọng để đánh giá sự hài lòng và ý định sử dụng dịch vụ (Cronin Jr & Taylor,
1992; Fornell và cộng sự, 1996). Trong bối cảnh của nền kinh tế chia sẻ, một người sử dụng thể bị hấp
dẫn bởi không gian của các không gian làm việc chung sau khi đã trải nghiệm tích cực với các dịch vụ của
nó (Möhlmann, 2015). Vì vậy, nghiên cứu này đề xuất giả thuyết:
H2: Không gian dịch vụ (SS) ảnh hưởng đến ý định sử dụng Không gian làm việc chung.
Quan hệ xã hội
Quan hệ hội nhân tố được đưa vào hàng loạt nghiên cứu khác nhau với những tên gọi khác nhau:
sự gắn kết cộng đồng, cảm giác thân thuộc hay cảm giác thuộc về. Thuật ngữ ‘cộng đồng’ được dựa trên một
mô hình hệ thống kết nối giữa người cư trú cộng đồng của họ (Kasarda & Janowitz, 1974). Không gian làm
việc chung một cộng đồng, trong đó các thành viên hoạt động trong một không gian chung chia sẻ các
nguồn lực với nhau. Sự tương tác trong cộng đồng cho phép những người tham gia xây dựng các mối quan hệ
xã hội tốt hơn và có thể nhận được sự hỗ trợ khi cần. Perkins và Long (2002) đề cập đến những kết nối xã hội
ở vị trí như liên kết xã hội hoặc cảm xúc của thành viên trong một nhóm người, cũng như các kết nối cảm xúc
dựa trên chia sẻ lịch sử, mối quan tâm hoặc yêu thích. Trong giả thuyết của chúng tôi, những người tham gia
vào không giam làm việc chung bị thúc đẩy bởi những mối quan hệ của họ cũng có mặt tại nơi này.
H3: Quan hệ xã hội (SB) ảnh hưởng đến ý định sử dụng Không gian làm việc chung.
Tìm kiếm sự cộng tác
Tìm kiếm sự cộng tác mức độ một thành viên trong cộng đồng muốn nhận được sự ủng hộ từ
các thành viên khác, những người sẽ chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, hoặc thời gian với họ với những người
khác cùng làm việc tại không gian làm việc chung (Baldus cộng sự, 2014) bởi không gian làm việc chung
cung cấp một cộng đồng làm việc chung với sự linh hoạt, tự chủ, và cơ hội cho sự tương tác xã hội cao hơn
(Fuzi, 2015). Waters-Lynch và Potts (2016) cho rằng việc tìm kiếm và kết nối với những người kiến thức
và kĩ năng và sẵn sàng chia sẻ một nguồn giá trị chính yếu được xác định bởi những người cùng làm việc
trong các không gian làm việc chung. Vì vậy, chúng tôi đưa ra giả thuyết:
H4: Tìm kiếm sự cộng tác (SA) ảnh hưởng đến ý định sử dụng Không gian làm việc chung.
1115
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
Được truyền cảm hứng
Được xây dựng trên lý thuyết về truyền dẫn chức năng, Thrash, Maruskin, cộng sự (2010) đề xuất
rằng một người được truyền cảm hứng thì thể đạt được hiệu quả năng suất cao hơn. Bởi nhân
được truyền cảm hứng “nhìn thấy” khả năng cụ thể nên ý tưởng có thể được triển khai nhanh chóng và trực
tiếp, với tương đối ít lần thử và lỗi. Thrash, Elliot, và cộng sự (2010) đã thử nghiệm những ý tưởng này bằng
cách sử dụng chụp màn hình trong quá trình viết. Như dự đoán, những cá nhân được truyền cảm hứng hơn
đã viết hiệu quả hơn (nghĩa là, họ giữ lại tỷ lệ cao hơn các từ mà họ đã nhập) năng suất hơn (tức là, họ
tạo ra các từ được giữ lại với tốc độ nhanh hơn). Thrash và cộng sự (2014) cũng đưa ra giả thuyết rằng mối
quan hệ giữa cảm hứng và các nhân tố năng suất hiệu quả sẽ được tạo ra ở những bối cảnh khác. Trong
các không gian làm việc chung, các nhà khởi nghiệp có thể phản ánh và thảo luận ý tưởng kinh doanh của
họ với những người khác bằng cách sử dụng nguồn cảm hứng tập thể từ nhau để nâng cao ý tưởng của họ
(Bouncken và cộng sự, 2018). Vì vậy, giả thuyết được đưa ra đó là:
H5: Được truyền cảm hứng (IN) ảnh hưởng đến việc lựa chọn Không gian làm việc chung.
Sự thoải mái
Sự thoải mái một yếu tố thuộc về giá trị cảm xúc thúc đẩy hành vi tiêu dùng (Sheth cộng sự,
1991). Sự thoải mái một nhân tố động bên trong quan trọng, nguồn gốc từ bản chất tự nhiên của
các hoạt động (Deci & Ryan, 1985; Lindenberg, 2001). Sự thỏa mái đã được coi một yếu tố quan trọng
trong các hình thức chia sẻ khác như sử dụng hệ thống thông tin (Van der Heijden, 2004) và chia sẻ thông
tin trên Internet (Nov và cộng sự, 2010). Hamari và cộng sự (2016) cũng cho thấy sự thoải mái ảnh hưởng
đến ý định sử dụng hình thức chia sẻ. Do đó, nghiên cứu này đề xuất:
H6: Sự thoải mái (EN) ảnh hưởng đến ý định sử dụng Không gian làm việc chung.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thang đo
Thang đo trong nghiên cứu này được tham khảo từ các nghiên cứu đi trước, trong đó nhân tố lợi ích
kinh tế được đo bằng thang đo với 3 chỉ báo từ Bock cộng sự (2005) Hamari cộng sự (2016). Tìm
kiếm sự cộng tác được đo với 4 chỉ báo từ Baldus và cộng sự (2014). Không gian dịch vụ được tham khảo từ
Parasuraman và cộng sự (1985); Parasuraman và cộng sự (1988); Seiders cộng sự (2007). Quan hệ xã hội
được tham khảo từ Raymond và cộng sự (2010). Thang đo được truyền cảm hứng được xây dựng bởi Thrash
và Elliot (2003, 2004). Sự tận hưởng được đo bằng thang đo được phát triển bởi Van der Heijden (2004). Cuối
cùng, ý định sử dụng không gian làm việc chung được đo bằng 4 chỉ báo của Bhattacherjee (2001).
Thành phần
hiệu Chỉ báo Nguồn
Lợi ích
kinh tế
EB1 Tôi có thể tiết kiệm chi phí khi làm việc tại không gian làm
việc chung.
Bock và cộng sự
(2005)
EB2 Sử dụng không gian làm việc chung đem đến cho tôi nhiều
lợi ích về mặt tài chính.
EB3 Sử dụng không gian làm việc chung có thể cải thiện tình
hình tài chính của tôi.