intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kinh tế và văn hóa vật chất truyền thống của người Việt trên vùng đất An Khê (Gia Lai)

Chia sẻ: ViShizuka2711 ViShizuka2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

35
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

An Khê là vùng đất phía đông của tỉnh Gia Lai, là cửa ngõ, nấc thang quan trọng nối đồng bằng Bình Định với các cao nguyên phía tây của Tổ quốc. Trên vùng đất này, từ thế kỷ XVII đã có những người Việt đầu tiên lên sinh sống.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kinh tế và văn hóa vật chất truyền thống của người Việt trên vùng đất An Khê (Gia Lai)

Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KINH TẾ VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT TRUYỀN THỐNG<br /> CỦA NGƯỜI VIỆT TRÊN VÙNG ĐẤT AN KHÊ (GIA LAI)<br /> ? Nguyễn Thị Kim Vân *<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> A<br /> n Khê là vùng đất phía đông của<br /> tỉnh Gia Lai, là cửa ngõ, nấc thang<br /> quan trọng nối đồng bằng Bình<br /> Định với các cao nguyên phía tây<br /> của Tổ quốc. Trên vùng đất này, từ thế kỷ XVII đã có<br /> những người Việt đầu tiên lên sinh sống. Bộ phận dân<br /> cư này cũng được xác định là những lưu dân Việt lập<br /> nghiệp sớm nhất trên vùng đất Bắc Tây Nguyên. Hơn<br /> ba thế kỷ qua, việc kế thừa, bảo lưu những nét văn<br /> hóa từ quê cũ cộng với sự giao thoa và tiếp biến với<br /> cư dân Bahnar tại chỗ đã làm cho bộ phận người Việt<br /> ở An Khê định hình những nét văn hóa truyền thống<br /> độc đáo riêng trên vùng mà những người đồng tộc<br /> của họ vẫn coi là miền lắm “sơn lam chướng khí”. Trong làng các ngôi nhà thường nằm không xa để<br /> Cũng như trên những vùng đất mới khai phá ở bà con có thể tương trợ nhau, nhất là để hỗ trợ cùng<br /> phía nam, làng xóm của người Việt ở An Khê ban đầu chống kẻ thù và thú dữ. Đến thập niên 30 của thế kỷ<br /> thường rất nhỏ. Những nơi được xác định là xóm ấp XX, nhà cửa và cách thức làm nhà của người Việt ở<br /> đầu tiên ở An Khê như Tây Sơn Nhì (nay là vùng Cửu vùng Bắc Tây Nguyên nói chung vẫn được Nguyễn<br /> An), Tây Sơn Nhất (sau này là An Lũy, nay là phường Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi mô tả: “Nhà cửa thường<br /> Tây Sơn) ban đầu mỗi xóm cũng chỉ khoảng trên dưới được làm bằng gỗ, mái nhà lợp ngói. Tường trét đất<br /> 10 nóc nhà. Tên của các xóm thường được gọi theo theo lối Nhật Bản bằng cách: rơm trộn với đất sét đâm<br /> tên một loại cây cổ thụ trong vùng hoặc đặc điểm của cho nhuyễn, đem trét vào vách đã có cột song gỗ, rồi để<br /> vùng. Ví dụ, ở thôn An Điền (xã Cửu An), những cư như vậy cho thật khô. Chừng bảy ngày sau lấy một thứ<br /> dân đầu tiên sống thành các xóm: xóm Cây Me, xóm đất sét trắng, trộn với cát - một phần đất, ba phần cát<br /> Gò Cây Bền1… sau này, do những người mới đến xin - trét mặt ngoài làm áo; sau hòa đất trắng khuấy cho<br /> nhập cư, cùng sự phát triển của các thế hệ con cháu lỏng mà quét như ở dưới ta quét vôi”.3<br /> đã làm cho các làng xã trên vùng đất An Khê trở nên Nhà ở truyền thống của vùng An Khê thường là<br /> đông đúc. Tuy nhiên, đến năm 1945, cả làng An Điền nhà trệt, mái tranh, vách thưng tre nứa hoặc trát (trét)<br /> (xã Cửu An) cũng chỉ có khoảng 100 nóc nhà, toàn đất. Các hộ gia đình thường làm nhà theo kiểu chữ<br /> vùng Cửu An rộng lớn cũng chưa đến 200 nóc nhà.2 đinh (T) hoặc chữ L (giống cấu trúc nhà của người<br /> Để đảm bảo an ninh, các làng thường lập những Kinh ở Bình Định, Quảng Ngãi). Bố cục nhà thông<br /> trạm canh ở vị trí đầu làng. Ở An Điền, trạm canh được thường gồm có nhà chính và nhà ngang. Trong đó,<br /> lập trên một gò đất ở phía đông, ngoài làng. Khu vực nhà chính có 3 gian 2 chái hoặc 5 gian 2 chái. Kiểu nhà<br /> này sau được định danh là Trạm Gò. này được người dân địa phương gọi là nhà mái chái.<br /> *<br /> TS., Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai.<br /> <br /> Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> 17<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nhà mái chái ở An Khê xưa thường không cao.<br /> Độ cao từ mặt đất đến nóc chỉ khoảng 3 m, vách cao<br /> khoảng 2 m. Khung nhà bằng gỗ, được làm theo kiểu<br /> nhà rường phổ biến ở miền Trung, vì 4 cột (nhìn mặt<br /> cắt) có giá chiêng, đặt trên xà lỏng. Đường kính thông<br /> thường của các cột cái không lớn lắm, chỉ khoảng từ<br /> 20 - 30 cm. Mỗi gian rộng khoảng 2,5 m, vì vậy mà<br /> toàn bộ diện tích của ngôi nhà chính chỉ khoảng trên<br /> dưới 30 m2.<br /> Những ngôi nhà đẹp là nhà được làm theo kiểu<br /> chồng đùi, phần từ xà lỏng (hay câu đầu) trở lên có<br /> thêm một con rường (chồng rường) vừa để giữ cho<br /> Nhà cổ của cụ Bùi Meo.<br /> khung nhà thêm chắc chắn, vừa để trang trí.<br /> Ở Cửu An, những ngôi nhà đơn giản thường được<br /> loãng mà quét như quét vôi sau này. Tường nhà làm<br /> làm theo kiểu 3 lỏng. Kiểu nhà này có 3 cây dọc chống<br /> bằng cách này rất chắc chắn. Những năm giữa thế kỷ<br /> từ xà ngang lên, giữ hai cây kèo không được liên kết<br /> XX, nhiều gia đình ở An Khê còn thuê thợ từ Bình Định<br /> với nhau bởi rường. Người dân địa phương giải thích:<br /> lên vẽ tranh trực tiếp vào tường nhà theo các chủ đề<br /> gọi là kiểu 3 lỏng vì 3 cây chống này đứng lỏng lẻo,<br /> “xuân, hạ, thu, đông”, hoặc “tùng, cúc, trúc, mai”..., nếu<br /> không có cây bám.<br /> không tinh mắt, người nhìn có thể nhầm các bộ tranh<br /> Để trát được vách đất, trước hết người ta phải vẽ trên tường này với những tranh được in trên giấy<br /> dựng cây mầm (dọc) và cây trĩ (ngang).4 Trước đây, rồi dán lên tường. Những nét đặc trưng này hiện vẫn<br /> người An Khê thường lấy những cây thân gỗ nhỏ, còn thấy trong căn nhà của cụ Nguyễn Thảo, ở thôn<br /> tròn làm cây mầm; còn cây trĩ là cây sặt, đó là một loại An Điền Bắc 1, xã Cửu An.<br /> cây thuộc họ song mây, không mối mọt. Sau, do việc<br /> Những người già cho biết, trước kia ở vùng An<br /> tìm những loại cây trên khó khăn, nên cả cây mầm và<br /> Khê, cửa ra vào nhà thường phải làm “ngạch địa” chắn<br /> cây trĩ đều được người dân thay bằng những thanh<br /> ngang. Ngạch này cao khoảng 60 cm so với mặt đất,<br /> tre chẻ nhỏ. Sau khi dựng và buộc cho cây mầm và<br /> hai bên đục lỗ, gài chốt. Kiểu cửa này vừa để giữ cửa<br /> cây trĩ gắn kết với nhau, người ta bắt đầu trộn rơm<br /> cho chắc, vừa để phòng thú dữ, vì đây là vùng có rất<br /> vào trong đất rồi đạp cho rơm và đất quyện nhuyễn<br /> nhiều cọp. Mái nhà được lợp bằng cỏ tranh hoặc rạ.<br /> với nhau làm đất trét. Để cho tường thêm láng, đẹp,<br /> sau khoảng 7 ngày, khi bức tường đất đã khô, họ tiếp Nhà ngang thường được xây cất đơn giản hơn nhà<br /> tục lấy đất sét trắng, trộn với cát theo tỷ lệ 1 phần chính. Nhưng mọi sinh hoạt của gia đình như ngủ, ăn,<br /> đất, 3 phần cát rồi quét lớp hồ này phủ lên mặt ngoài. bếp nấu, nơi đựng các vật dụng và lương thực... chủ<br /> Cuối cùng, bước hoàn thiện bức tường là hòa đất sét yếu tập trung ở đây.5<br /> <br /> 18 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> Ở khu vực trung tâm thị xã An Khê, nơi vốn là ấp kiền, tứ thiết. Vách nhà được làm bằng đất trộn với<br /> Tây Sơn Nhất và sau này mang tên xóm Lũy (nay là rơm, cát. Bao phủ bên ngoài sườn vách là những cây<br /> tổ dân phố 15, phường An Phú, thị xã An Khê), hiện chằn rằn, cây sặt buộc bằng lạt tre. Điểm tiêu biểu<br /> vẫn còn một số ngôi nhà cổ, điển hình như của gia nhất của cả hai ngôi nhà cổ này là lớp rầm cách mái<br /> đình cụ Bùi Meo (tức thầy giáo Lên), hay nhà của gia nhà chưa đầy một mét. Lớp rầm này được làm bằng<br /> đình cụ Huỳnh Ngọc Chương (mười Chương). Ngoài vỏ cây kiền kiền, sau đó đắp lên lớp đất sét nhuyễn<br /> ra, trong vùng còn có nhà cổ của gia đình cụ xã Tám, trộn với rơm, có tác dụng như trần nhà, giữ cho ngôi<br /> nhà cổ của gia đình cụ Văn Minh Trí ở làng Tân Lai xưa, nhà ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè.6<br /> nay thuộc tổ 3, phường An Bình…<br /> Khoảng những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ<br /> Ngôi nhà cổ của cụ Bùi Meo, hiện do con trai cụ là XX, vùng An Điền Bắc mới có ngôi nhà ngói đầu tiên,<br /> Bùi Sinh tiếp quản. Ngôi nhà này được xây dựng từ đó là nhà của gia đình ông hương bộ trưởng. Còn ở<br /> năm 1759, là ngôi nhà ba gian hai chái lớn nhất trong An Điền Nam, ngôi nhà ngói đầu tiên là nhà của ông<br /> những ngôi nhà cổ ở An Khê, với diện tích xây dựng Đặng Để (tức Sáu Tú) - một nông dân do cần cù khai<br /> 12,3 m x 9,4 m (115,62 m2). Các vì của căn nhà được phá vùng Điền Nam mà có nhiều ruộng đất.<br /> làm bằng gỗ thò đo. Đầu kèo và xà đều uốn chạm<br /> Với mong muốn được các thần phù hộ để an cư lạc<br /> rồng. Ba gian ngoài cách biệt với gian trong bằng lớp<br /> nghiệp, các làng Việt hình thành sớm ở An Khê như:<br /> cửa ngăn bằng gỗ được chạm khắc khá tỉ mỉ. Bộ mái<br /> An Lũy, Cửu An, Tân Tạo, Tân Lai... đều lập đình. Đình<br /> nhà được làm bằng hệ thống xà gồ rất dày, mái lợp<br /> làng là một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng - hành<br /> tranh. Mái ngói hiện nay được cụ Bùi Meo thay vào<br /> chính trong làng xã, là biểu tượng của tính cộng đồng<br /> khoảng năm 1959, khi mái tranh cũ bị hư.<br /> trong việc nối kết các thành viên trong làng và kết<br /> Nằm ngay phía sau đình An Lũy (An Khê Trường nối con người với thế giới siêu nhiên. Ngôi đình đầu<br /> hiện nay) là ngôi nhà cổ thứ hai của An Lũy - nhà của tiên được ghi nhận trên đất An Khê là đình An Lũy.<br /> cụ Mười Chương (hiện do ông Huỳnh Ngọc Sơn, con Ban đầu, đình được cất bằng tranh, tre, nứa, lá, tọa lạc<br /> trai cụ Mười Chương tiếp quản). Kiến trúc của ngôi trên một cánh rừng rộng và bằng phẳng, hướng về<br /> nhà này cũng gần giống với nhà của cụ Bùi Meo. Nhà phía tây nam. Dưới thời vua Gia Long, đình bị ra lệnh<br /> gồm 3 gian, 2 chái, có diện tích xây dựng 12,6 m x triệt hạ, sau đó mới được xây dựng lại trên nền móng<br /> 9,5 m (119,70 m2). Tất cả phần gỗ trong nhà đều được cũ với mái lợp ngói vảy. Khi thực dân Pháp đến, đình<br /> làm từ các loại gỗ quý, bền chắc như: thò đo, kiền An Lũy bị đốt phá nên phải di dời những gì có thể về<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> 19<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> An Khê trường. Đến sau Cách mạng tháng Tám năm<br /> 1945, dân làng mới có dịp về sửa sang lại đình. Để<br /> lại diện mạo như ngày nay, đình An Lũy đã trải qua<br /> nhiều lần trùng tu. Hiện tại, đình được làm theo lối<br /> tiền đường hậu tẩm. Ngôi tiền đường có ba gian hai<br /> chái, hậu tẩm có một gian hai chái, hội đủ sáu vảy kèo,<br /> tám cây quyết, tám cây đấm và bốn mươi cây cột. Mái<br /> ngói vảy, nóc đúc “lưỡng long tranh châu”, nền và sân<br /> lát gạch Bát Tràng...7<br /> Đình Tân Lai ban đầu chỉ là một nhà tre nhỏ, sau Nhà cổ của cụ Mười Chương.<br /> đó mới được tu bổ, xây cất. Đây là một trong những<br /> ngôi đình còn giữ được những nét cổ kính của đình Người Việt khi lên sống ở An Khê vẫn giữ thói quen<br /> làng ở vùng An Khê với một tòa chánh điện có diện dùng nước giếng chứ không dùng nước suối, nước<br /> tích 7 m x 5 m; phía trước có bình phong, trụ biểu giọt như đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ. Ở Cửu<br /> và cổng tam quan, bên hữu là dãy nhà cúng âm hồn; An, thị xã An Khê, hiện vẫn còn một chiếc giếng cổ<br /> bên tả là nhà thờ Tiền hiền và Hậu hiền. gọi là giếng Đình Làng. Đó là giếng tròn có đường<br /> kính đến 3 m, được xây bằng bọng gốm.<br /> Đình tọa lạc tại thôn An Điền Bắc thuộc xã Cửu An<br /> được xây dựng trên một quả đồi. Thần chính được thờ Thời kỳ đầu, người Việt ở An Khê sinh sống chủ yếu<br /> ở đây là Bổn Cảnh Thành Hoàng. Bản văn tế tại đình bằng nghề nông. Trong đó, việc khai phá để lập điền<br /> còn có danh sách 30 vị thần khác mà trong đó có vị (ruộng), trồng trọt các loại cây lương thực, thực phẩm<br /> thần vốn được thờ ở Nghệ An như Cao Các, Bạch Mã. được coi trọng. Lúa được trồng 2 vụ/năm; ngoài ra,<br /> Thờ trong đình có vị thần núi, sông, biển; có vị là Ngũ trong vườn còn trồng những loại rau ăn quanh năm<br /> hành Âm Dương; có vị là Tiền hiền như Nguyễn Tiến như rau lang, rau bí, ớt, bồ ngót…; gia súc thường<br /> Chính; hay có vị vốn là người có nhiều của cải đóng nuôi có lợn, gà, trâu, bò theo lối chuồng trại và chăn<br /> góp cho làng.8 Hầu hết những ngôi đình được xây thả. Nét khác biệt của vùng An Khê là nghề nuôi ngựa<br /> dựng sớm ở An Khê đều được nhà Nguyễn ban sắc rất phát triển để phục vụ việc săn bắt, thồ hàng.<br /> phong thần từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.<br /> Sống trong điều kiện tự cung tự cấp, các nghề thủ<br /> Trang phục của người Việt trên vùng đất mới đến công truyền thống của An Khê cũng phát triển trong<br /> thập niên 30 của thế kỷ XX vẫn mang đậm nét quê chừng mực đáp ứng các nhu cầu của người dân trong<br /> hương: “Người Huế vẫn ăn bận theo lối Huế: đàn bà vùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một số nghề<br /> thường bận áo mùi, quần trắng, tóc vấn, đội nón Kinh. đã tạo ra được sản phẩm để trao đổi. Một số nghề<br /> Người Bình Định thì mặc áo quần lãnh hay vải thâm, thủ công điển hình trong vùng có thể kế đến như:<br /> tóc búi, bịt khăn xéo, cột múi ra trước trán hay sau ót, Nghề làm gốm, tuy không thật phổ biến, nhưng trong<br /> đội nón Gò Găng”.9 mỗi khu vực cũng có những lò gốm nổi tiếng. Ở Cửu<br /> <br /> 20 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> Miền Trung - Tây Nguyên<br /> <br /> <br /> An, khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, lò gốm<br /> lâu đời nhất trong vùng là lò gốm của gia đình ông<br /> Nguyễn Ảnh ở thôn An Điền Nam 1; Lò gốm của hộ CHÚ THÍCH<br /> ông Phan Gia, nay ở thôn An Điền Nam 2. Ông Phan 1<br /> Cụ Nguyễn Thảo cho biết, cây bền thực ra là cây cầy.<br /> Gia học được nghề này từ cha vợ ở Bình Định. Sản<br /> Ban đầu, người Kinh mới lên lập xóm, thấy đây là cây cổ thụ,<br /> phẩm chủ yếu của nghề gốm trong thời kỳ đầu người<br /> sống lâu nên gọi nó là cây bền, theo đó, gò đồi có cây này<br /> Việt có mặt ở An Khê là các loại vật dụng phục vụ sinh cũng được gọi là gò Cây Bền. Đến khoảng những năm 90<br /> hoạt của con người như: gạch, ngói, nồi đất các loại... của thế kỷ trước, cây này vẫn còn, thân cây khoảng 3 người<br /> Nghề mộc, nghề hồ chủ yếu phục vụ xây dựng nhà ôm, có bọng ở giữa. Sau đó, do những người đi bắt tắc kè<br /> ở cho nhân dân hoặc xây dựng các công trình nhỏ. đốt bọng cây mới làm cho cây bị chết.<br /> Nghề đan lát chủ yếu tạo ra các đồ gia dụng như rổ, 2<br /> Theo cụ Nguyễn Thảo, sinh năm 1930, hiện ở thôn An<br /> rá, thúng mủng, rổ sấy… bằng tre, hiện còn lẻ tẻ ở Điền Bắc 1. Cụ cũng cho biết, cụ là đời thứ tư sống ở Cửu<br /> một số hộ gia đình. Nghề rèn: chủ yếu làm các dụng An.<br /> cụ cầm tay. Do ở trong khu vực tiếp giáp với tỉnh Bình 3<br /> Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi, Mọi Kon Tum,<br /> Định, nghề làm bánh tráng (bánh đa) cũng rất phổ (Huế, 1937), 13.<br /> biến ở An Khê. 4<br /> Phía bắc gọi là “buộc dứng”.<br /> Hoạt động thương mại: ban đầu chủ yếu là trao đổi 5<br /> Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê - Tỉnh Gia Lai<br /> hàng hóa với đồng bào các dân tộc tại chỗ và giao lưu (Nguyễn Thị Kim Vân chủ biên), Lịch sử truyền thống cách<br /> mua bán với các tỉnh đồng bằng. Tình hình này được mạng xã Cửu An (1945-2015), (Hà Nội: Chính trị Quốc gia,<br /> phản ánh qua câu ca: 2015), 33-36.<br /> Ai về nhắn với nậu nguồn 6<br /> Tham khảo: Hồng Thương, Nhà xưa trên đất An Khê,<br /> Báo Gia Lai online. Nguồn: http://baogialai.com.vn/<br /> Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên.<br /> channel/721/201504/nha-xua-tren-dat-an-khe-2382141/<br /> Sống với núi rừng, việc săn bẫy thú và thu hái lâm 7<br /> Quốc Thành, Trầm tích Tây Sơn Thượng, (Hà Nội: Văn<br /> sản (mật ong, măng, nấm…) đã góp phần quan trọng hóa hông tin, 2012), 253, 254.<br /> vào việc cải thiện bữa ăn hàng ngày và trao đổi để có 8<br /> Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê, Lịch sử Đảng bộ<br /> thêm thu nhập phổ biến trong nhân dân. thị xã An Khê (1945 - 2005), (Hà Nội: Chính trị Quốc gia), 45.<br /> Rời làng quê cũ lên với vùng đất mới, người Việt 9<br /> Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi, Mọi Kon Tum,<br /> đã mang đến An Khê rất nhiều món ăn đặc trưng của (Huế, 1937), 12; hay Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi,<br /> các vùng miền khác nhau. Nếu như nguồn thực phẩm Người Bahnar ở Kom Tum, (Hà Nội: Tri thức, 2011), 144.<br /> chính nuôi sống những cư dân vùng biển ở làng quê TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> cũ là cá và những món ăn được chế biến từ cá, thì<br /> 1. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê - Tỉnh Gia Lai<br /> khi lên đây nguồn thức ăn chính lại là những món ăn (Nguyễn Thị Kim Vân chủ biên). 2015. Lịch sử truyền thống<br /> được chế biến từ thịt. Đó là thành quả của quá trình cách mạng xã Cửu An (1945 - 2015). Hà Nội: Chính trị Quốc gia.<br /> săn bắt và chăn nuôi mà có.<br /> 2. Ban chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê. Lịch sử Đảng<br /> Như vậy là, hơn ba thế kỷ qua, bên cạnh việc bộ thị xã An Khê (1945 - 2005). Hà Nội: Chính trị Quốc gia.<br /> người Việt ở An Khê đã chọn lọc để bảo tồn và lưu giữ 3. Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi. 1937. Mọi Kon<br /> nhiều phong tục, tập quán, giá trị văn hóa từ mảnh Tum. Huế. 12; Hay Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi.<br /> đất quê hương nơi họ ra đi, bộ phận cư dân này cũng 2011. Người Bahnar ở Kom Tum. Hà Nội: Tri thức.<br /> đồng thời tiếp nhận thêm nhiều yếu tố văn hóa của 4. Phan Đại Doãn. 1988. Ấp Tây Sơn nhì trong Tư liệu về<br /> cộng đồng dân cư tại chỗ. Quá trình tiếp biến trao Tây Sơn - Nguyễn Huệ. Tập 1: Trên đất Nghĩa Bình. Sở Văn hóa<br /> đổi văn hóa này một mặt giúp cho cộng đồng dân Thông tin Nghĩa Bình xuất bản.<br /> cư tại chỗ học hỏi được những nét tiến bộ trong văn<br /> 5. Quốc Thành. 2012. Trầm tích Tây Sơn Thượng. Hà Nội:<br /> hóa người Việt, nhưng đồng thời cũng làm cho cộng Văn hóa Thông tin.<br /> đồng người Việt ở An Khê hình thành nên những nét<br /> 6. Hồng Thương. Nhà xưa trên đất An Khê. Báo Gia Lai<br /> độc đáo riêng trong văn hóa truyền thống của mình.<br /> Online. Nguồn: http://baogialai.com.vn/channel/721/<br /> N.T.K.V. 201504/nha-xua-tren-dat-an-khe-2382141/<br /> <br /> Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br /> Ñaø Naüng<br /> 21<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2