intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Knights Hospitaller – Phần 1

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

68
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Knights Hospitaller là một tổ chức Thiên Chúa giáo, ban đầu là một bệnh viện do người Amalfi thành lập ở Jerusalem năm 1080 nhằm chăm sóc những người hành hương nghèo khó, ốm đau hay thương tật đến Vùng Đất Thánh. Sau khi người Thiên Chúa giáo chinh phục Jerusalem năm 1099 trong cuộc Thập Tự Chinh thứ nhất, nó trở thàng một tổ chức tôn giáo/quân sự hưởng đặc quyền và có nhiệm vụ bảo vệ Vùng Đất Thánh. Khi người Thiên Chúa giáo để mất Vùng Đất Thánh, Hội đã hành quân đến Rhodes, sau này...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Knights Hospitaller – Phần 1

  1. Knights Hospitaller – Phần 1
  2. Knights Hospitaller là một tổ chức Thiên Chúa giáo, ban đầu là một bệnh viện do người Amalfi thành lập ở Jerusalem năm 1080 nhằm chăm sóc những người hành hương nghèo khó, ốm đau hay thương tật đến Vùng Đất Thánh. Sau khi người Thiên Chúa giáo chinh phục Jerusalem năm 1099 trong cuộc Thập Tự Chinh thứ nhất, nó trở thàng một tổ chức tôn giáo/quân sự hưởng đặc quyền và có nhiệm vụ bảo vệ Vùng Đất Thánh. Khi người Thiên Chúa giáo để mất Vùng Đất Thánh, Hội đã hành quân đến Rhodes, sau này đến Malta, quản lý một quốc gia chư hầu dưới quyền vị phó vương người Tây Ban Nha ở Sicily. Khi Napoleon chiếm Malta năm 1798, các Hiệp sĩ không còn quan hệ tới bất cứ nơi nào nữa, và cố gắng duy trì sự tồn tại cho đến ngày nay dưới cái tên Sovereign Military Order of Malta. Lịch sử Sự thành lập và buổi ban đầu Năm 600, Abbot Probus được Giáo hoàng Gregory the Great ủy quyền cho xây dựng một bệnh viện ở Jerusalem để chăm sóc những người hành hương theo đạo Thiên Chúa tới Vùng Đất Thánh. Năm 800, Hoàng đế của Đế Quốc La Mã Thần Thánh Charlemagne mở rộng bệnh viện của Probus và xây
  3. thêm một thư viện. Khoảng 200 năm sau, năm 1005, vua Al Hakim đã phá hủy bệnh viện và 3000 tòa nhà khác ở Jerusalem. Năm 1023, các thương gia từ Amalfi và Salerno được vua Ai Cập Ali az-Zahir cho phép xây dựng lại bệnh viện. Bệnh viện được xây dựng lại trên nền tu viện Saint John the Baptist, đưa những người hành hương tới thăm các nơi linh thiêng đối với người Thiên Chúa giáo. Bệnh viện được quản lý bởi Benedictine Brothers. Tổ chức của các tu sĩ được Blessed Gerard thành lập sau cuộc Thập Tự Chinh thứ nhất, ông giữ vai trò lãnh đạo và được Giáo hoàng Pope Paschal II công nhận năm 1113. Gerard giành được các lãnh thổ và lợi tức cho tổ chức của mình thông qua vương quốc Jerusalem. Người kế vị ông, Raymond du Puy de Provence lập bệnh xá Hospitaller quan trọng đầu tiên ở gần nhà thờ Holy Sepulchre tại Jerusalem. Ban đầu họ chăm sóc những người hành hương, nhưng nhanh chóng trở thành các đội hộ tống, rồi phát triển thành lực lượng quân sự đích thực. Hospitaller và Knights Templar, thành lập năm 1119, trở thành những thế lực Thiên Chúa giáo hùng mạnh nhất trong khu vực. Để phân biệt với quân Hồi giáo, họ mặc áo choàng màu đen với dấu thập trắng.
  4. Giữa thế kỷ 12, họ phân chia ra thành những lực lượng quân sự và những người chữa bệnh. Họ vẫn là một tổ chức tôn giáo được Giáo hoàng ban đặc quyền, ví dụ như được miễn thuế và được phép xây dựng các công trình tôn giáo. Rất nhiều công sự của người Thiên Chúa giáo ở Vùng Đất Thánh là do họ và các Hiệp sĩ Đền Thánh xây. Vào thời đỉnh cao của vương quốc Jerusalem, Hospitaller nắm giữ 7 pháo đài lớn và 140 vùng đất khác trong khu vực. Hai nơi lớn nhất, là nền tảng cho sức mạnh của họ ở vương quốc và Antioch là Krak des Chevaliers và Margat. Tài sản của Hội được chia cho các tu viện, vốn chia nhỏ trên các lãnh thổ gọi là bailiwick, dưới quyền các chỉ huy. Hoàng đế La Mã Frederick Barbarossa cam kết ủng hộ các Hiệp sĩ theo các đặc quyền của hiến chương năm 1185. Hiệp sĩ xứ Cyprus và Rhodes Sự lớn mạnh của đạo Hồi cuối cùng cũng đánh bật các Hiệp sĩ khỏi Jerusalem. Sau sự sụp đổ của vương quốc Jerusalem (1187), các Hiệp sĩ bị hạn chế trong phạm vi hạt Tripoli, và khi Arce thất thủ năm 1291 các Hiệp sĩ đã tìm được chỗ đứng ở Cyprus. Nhận ra mình bị vướng vào các vấn đề chính trị ở Cyprus, thống lĩnh Guillaume de Villaret đã lập ra một kế hoạch nhằm giành lấy lãnh địa thế tục cho họ, chọn Rhodes làm nơi ở mới. Người
  5. kế vị Fulkes de Villaret đã thực hiện kế hoạch, và vào ngày 15 tháng 8 năm 1309, sau 2 năm tiến hành chiến dịch, đảo Rhodes đã đầu hàng. Họ cũng giành quyền kiểm soát các đảo xung quanh và các cảng ở Bodrum và Kastelorizo. Knights Templar bị giải tán vào năm 1312 và rất nhiều lãnh thổ của họ rơi vào tay Hospitaller. Tài sản được chia làm 8 phần (tounge) ở Aragon, Auvergne, Castile, Anh, Pháp, Đức, ý và Provence. Mỗi nơi được quản lý bởi một Prior (Trưởng tu viện), hay một Grand Prior nếu có nhiều hơn 1 tu viện trong vùng. Ở Rhodes và sau này là ở Malta, các hiệp sĩ chính thức ở mỗi vùng được dẫn dắt bởi một Bailli. Grand Prior ở Anh lúc đó là Philip Thame, người được quyền phân phát ruộng đất trong vùng từ 1330 đến 1358.
  6. Ở Rhodes, Hospitaller, sau này được nhắc tới như những Hiệp sĩ xứ Rhodes, bắt buộc phải quân phiệt hóa, để chống lại những tên cướp biển Babary (người Thổ). Họ đã chống trả 2 cuộc xâm lược vào thế kỷ 15, một lần bởi vua Ai Cập năm 1444 và lần khác vào năm 1480 trước vua Ottoman
  7. Mehmed II, người đã chiếm Constantinople, khiến cho các Hiệp sĩ trở thành mục tiêu chủ yếu. Năm 1494 họ xây dựng một thành trì ở bán đảo Halicarnassus (nay là Bodrum). Họ dùng các phần của lăng Maussollos, một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại để củng cố cho lâu đài Bodrum. Năm 1522 một đội quân mới tấn công: vua Suleiman the Magnificent chỉ huy 400 chiến thuyền với 200000 quân đổ bộ lên đảo. Để đấu lại, thống lĩnh Philippe Villiers de L'Isle-Adam có 7000 quân và các chiến lũy. Cuộc chiến kết thúc sau 6 tháng, những Hiệp sĩ sống sót được phép tới Sicily.
  8. Hiệp sĩ xứ Malta Sau 7 năm di chuyển khắp châu Âu, các Hiệp sĩ cuối cùng đã tìm được chỗ đứng vào năm 1530 khi Charles I c ủa Tây Ban Nha, cũng là vua của Sicily, trao cho họ xứ Malta, Gozo và cảng Tripoli ở Bắc Phi làm thái ấp, đổi lại họ phải gửi chim ưng xứ Malta đến cho đại diện của đức vua, phó vương xứ Sicily, vào ngày lễ All Souls Day. (Điều này được nói đến trong phần mở đầu của cuốn sách nổi tiếng "Chim ưng xứ Malta" của Dashiell Hammett.) Hospitaller tiếp tục hoạt động chống người Hồi giáo, đặc biệt là lực lượng cướp biển Babary. Mặc dù họ chỉ có vài chiếc thuyền nhưng họ đã nhanh chóng chọc giận người Ottoman, vốn không vui vẻ gì khi thấy họ ổn định trở lại. Năm 1565, Suleiman đem 40000 quân tấn công 700 hiệp sĩ c ùng 8000 chiến binh rồi đuổi họ khỏi Malta. Lúc đầu cuộc chiến diễn ra theo chiều hướng tồi tệ đối với phe Hospitaller giống như ở Rhodes: hầu hết thành phố bị phá hủy và một nửa số hiệp sĩ bị chết. Ngày 18 tháng 8, tình thế trở nên tuyệt vọng, lực lượng bị hao mòn, quá mỏng để giữ vững một chiến tuyến dài. Nhưng khi hội đồng đề nghị bỏ
  9. Il Borgo, Senglea và rút về pháo đài St. Angelo thì thống lĩnh Jean Parisot de la Valette đã bác bỏ. Vị phó vương xứ Sicily đã không giúp đỡ họ. Có thể mệnh lệnh mà vị phó vương này nhận từ vua Philip II quá khó hiểu vì đã đặt gánh nặng lên vai ông ta về việc quyết định có nên giúp đỡ các Hiệp sĩ hay không. Một quyết định sai lầm sẽ phải trả giá và khiến Sicily cùng Naples gặp nguy hiểm từ Ottoman. Ông ta đã để con trai của mình ở chỗ La Valette nên thật khó để thờ ơ. Bất cứ cái gì cũng có thể tác động đến sự chậm trễ của ông ta. Vị phó vương đã lưỡng lự cho đến khi cuộc chiến hầu như đã được định đoạt bởi
  10. những nỗ lực đơn độc của các Hiệp sĩ, trước khi buộc phải xuất quân vì sự căm phẫn của các nhân viên dưới quyền.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2