intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kỳ hoa dị thảo part 9

Chia sẻ: Askjhdkajd Dakjdkad | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

95
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài 7: Mộc nhĩ trắng và mộc nhĩ đen, cả hai thứ đều 10g thêm 5g đường kính. Bạn hãy nấu mộc nhĩ với đường trong 60 phút, ăn cả cái lẫn nước. Nên ăn liên tục 15 ngày là một đợt điều trị. Mỡ máu sẽ hạ là điều chắc chắn. Bài 8: Mộc nhĩ đen 30g, rau cần tươi 100g, gạo tẻ 30g, đem nấu cháo ăn ngày 1 lần. Bài 9: Vừng đen 60g, rang thơm, xát vỏ rồi đem nấu chè đường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kỳ hoa dị thảo part 9

  1. cholesterol “xấu” có hại. Bài 7: Mộc nhĩ trắng và mộc nhĩ đen, cả hai thứ đều 10g thêm 5g đường kính. Bạn hãy nấu mộc nhĩ với đường trong 60 phút, ăn cả cái lẫn nước. Nên ăn liên tục 15 ngày là một đợt điều trị. Mỡ máu sẽ hạ là điều chắc chắn. Bài 8: Mộc nhĩ đen 30g, rau cần tươi 100g, gạo tẻ 30g, đem nấu cháo ăn ngày 1 lần. Bài 9: Vừng đen 60g, rang thơm, xát vỏ rồi đem nấu chè đường. Nếu có thể thì ăn hằng ngày hoặc để ăn đổi bữa với các bài thuốc, món ăn khác. Bài 10: Thỉnh thoảng nên ăn thịt ngan, ngỗng hoặc thịt vịt. Món thịt ngan luộc chấm với vừng rang không chỉ là món ăn khoái khẩu của nhiều người mà còn có tác dụng chữa bệnh tim mạch. Trong mỡ máu của các loại gia cầm này có rất nhiều acid oleic và nhiều thành phần tương tự dầu ôliu. Mặt khác, HDL- cholesterol có lợi trong thịt vịt, ngan, ngỗng đã được các nhà khoa học chứng minh là có hàm lượng rất cao. Những lý do trên đã khẳng định tác dụng tốt của thịt vịt, ngan, ngỗng trong điều trị bệnh vữa xơ động mạch. Rất mong các bạn có thể áp dụng vào cuộc sống hằng ngày để bảo vệ sức khỏe cho chính bản thân mình. Các doanh nhân, người làm công tác quản lý, cán bộ nghiên cứu... cũng nên áp dụng ngay khi mỡ máu của mình chưa cao! Đó cũng là một nguyên tắc “Phòng còn hơn chống” trong việc chăm sóc bảo vệ sức khỏe. SỨC KHOẺ -> Y HỌC CỔ TRUYỀN Những bài thuốc hay từ trái nhãn Cập nhật lúc 09h13" , ngày 05/06/2007 Nhãn là một loại hoa quả không những tốt cho sức khỏe mà còn có thể chữa được nhiều loại bệnh. Sau đây là những bài thuốc có lợi cho sức khoẻ được chế biến từ nhãn. Chữa chứng mất ngủ, hồi hộp, hay quên Nguyên liệu gồm: 100gr cùi nhãn và 100gr gạo nếp loại ngon. Cách chế biến: nấu cháo, nêm nếm gia vị để ăn. Chữa suy nhược cơ thể, thiếu máu Nguyên liệu gồm: 15gr long nhãn, 20gr hạt sen, 15gr hồng táo, 15gr đậu phộng và 50gr gạo nếp loại ngon. Cách chế biến: dùng những nguyên liệu trên để nấu cháo, nêm nếm gia vị vừa ăn. Nên dùng vào mỗi buổi sáng và chiều tối. Bạch Công Tấn sưu t ầm
  2. Chữa tâm thận hư nhược Nguyên liệu gồm: 250gr long nhãn và nửa lít rượu loại ngon. Cách chế biến: đem long nhãn ngâm vào rượu trong khoảng hai tuần là có thể dùng được. Mỗi tối trước khi đi ngủ, dùng một ly nhỏ. Trị tiêu chảy do tỳ hư Nguyên liệu gồm: 30 quả long nhãn (loại khô) cùng một lượng sinh khương (gừng tươi) vừa đủ. Cách chế biến: dùng hai thứ trên đem nấu nước để uống trong ngày. Chữa suy nhược thần kinh Nguyên liệu gồm: long nhãn và vị thuốc khiếm thiệt (mỗi thứ 20gr). Cách chế biến: cho hai loại trên vào nấu cùng một lượng nước vừa đủ để dùng trước khi đi ngủ. Chữa chứng phù sau khi sinh Nguyên liệu gồm: long nhãn, táo Tàu, gừng tươi và hai vị thuốc phục linh, mễ nhân (mỗi thứ 10gr). Cách chế biến: đem tất cả cho vào chung cùng một lượng nước vừa đủ để nấu lấy nước uống. Chữa chảy máu do chấn thương Dùng hạt long nhãn khô tán mịn rồi đắp lên vết thương. Chữa bỏng Lấy vỏ khô của trái nhãn tán thành bột rồi trộn với dầu vừng để bôi lên chỗ bỏng. Long nhãn Long nhãn vị ngọt, tính bình, vào 2 kinh Tâm, Tỳ. Có tác dụng bổ tâm, bổ tỳ, nuôi huyết, lưu thông máu, an thần, giúp trí nhớ. Dùng chữa các chứng bệnh mất ngủ, hay quên, hồi hộp hay sợ hãi do huyết hư, thần kinh suy nhược, suy nhược và rối loạn tinh thần sau một thời kỳ ốm bệnh lâu dài, hay sau khi đẻ (phụ nữ). Long nhãn Tên khoa học: Euphoria longana Lamk. họ Bồ hòn (Sapendaceae). Tên khác: Lệ chi nô – Á lệ chi – Longanier (Pháp) – Longan (Anh). Bộ phận dùng: Áo hạt (thường gọi là cùi) của quả nhãn (Arillus Longanae) phơi hay sấy khô, gọi là Long nhãn nhục. Bạch Công Tấn sưu t ầm
  3. Đã được ghi vào DĐVN 1983, DĐTQ (1963) (1997). Dược điển Trung Quốc (1997) và Võ Văn Chi ghi tên cây nhãn là: Dimocarpus longan Lour. Mô tả: Cây nhãn cao 5 – 12m, thân gỗ to, cứng, vỏ xù xì, nhiều cành, nhiều lá um tùm, quanh năm xanh tốt, Lá kép lông chim, mọc so le, gồm 5 – 9 lá chét, dài 7 – 9cm, rộng 2 – 4 cm, hình bầu dục dài, mép nhãn. Hoa nhỏ mọc thành chùm, màu vàng nhạt. Mùa hoa tháng 3 – 4. Quả to bằng hòn bi, hay hơn, đường kính có khi tới 3cm, vỏ ngoài hơi nháp, trong có áo hạt mọng bao, bọc một hạt đen nhánh bên trong. Mùa quả tháng 7 – 8. Cây nhãn được trồng và mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta: Hà Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phú, Nam Hà, Nghệ An... Quý nhất là giống nhãn lồng Hưng Yên. Gần đây nhãn miền Nam đã cải tiến kỹ thuật trồng, tạo giống, cùi đã dầy hơn, róc hột và có thể chế biến thành long nhãn. Nhãn miền Nam chín vào khoảng đầu tháng 5 dương lịch, cùng với vải ở miền Bắc, nhãn miền Bắc thường sau mùa vải). Thu hái chế biến: Mùa thu hái tháng 8 – 9. Khi nhãn chín, chọn những quả to, cùi dày, để nguyên vỏ đem phơi nắng to, hoặc sấy nhẹ lửa, cho đến khi lắc quả có tiếng kêu lóc cóc bên trong. Đem bóc vỏ, bỏ hạt, lấy cùi, rồi sấy nhẹ lửa (50 – 60o C) cho đến khi khô, sờ không dính tay. Có thể để cả chùm rồi làm như trên, (10 kg quả nhãn lồng tươi thì được 1 kg long nhãn khô. Một cây nhãn 10 năm tuổi có thể cho 1000 kg quả tươi 1 vụ). Long nhãn mùi hơi thơm, vị ngọt đậm đặc biệt. Loại long nhãn cùi dày, khô, to mảnh, nhuận mềm, màu vàng cánh gián, có mùi thơm, không chua, không lẫn các tạp chất khác, không mốc, sờ không dính tay, nếm vị ngọt đậm là tốt. Loại long nhãn cùi mỏng (nhãn trơ) màu nâu nhạt là kém. Loại long nhãn đã bị cháy đen, giòn, hoặc ướt, chua, lẫn tạp chất, sâu bọ, ruồi nhặng thì không dùng làm thuốc. Có 2 loại: Loại 1: màu vàng cánh gián, khô khi nắm, mật không dính tay khi mới sấy xong, nắm vào tay bỏ ra phải rời từng cùi một. Thủy phần an toàn dưới 18p100. Tỷ lệ màu nâu sẫm: dưới 5p100. Loại 2: Như loại 1, nhưng có màu nâu. Lưu ý: Khi chế biến long nhãn phải có lưới mau, màn che, tránh ruồi nhặng. Thành phần hóa học: Cùi nhãn tươi chứa nước 67,15p100; độ tro 0,61p100; chất béo 0,13p100; protid 1,47p100; hợp chất có nitơ tan trong nước 20,55p100; đường saccarose 12p100; Vitamin A và B. Cùi nhãn khô (long nhãn nhục) chứa 0,85p100 nước; 79,77p100 chất tan trong nước và 19,38p100 chất không tan trong nước; độ tro 3,36p100. Trong phần tan trong nước có glucose 26,91p100, saccarose 0,22p100; acid tartric 1,26p100; các chất có nitơ 6,30p.100 (adenin, cholin...) Hạt nhãn chứa tinh bột, saponin, chất béo, tanin. Công dụng: Theo Đông y, long nhãn vị ngọt, tính bình, vào 2 kinh Tâm, Tỳ. Có tác dụng bổ tâm, bổ tỳ, nuôi huyết, lưu thông máu, an thần, giúp trí nhớ. Dùng Bạch Công Tấn sưu t ầm
  4. chữa các chứng bệnh mất ngủ, hay quên, hồi hộp hay sợ hãi do huyết hư, thần kinh suy nhược, suy nhược và rối loạn tinh thần sau một thời kỳ ốm bệnh lâu dài, hay sau khi đẻ (phụ nữ). Liều dùng: 8 – 20g hay hơn nữa. Sắc hoặc nghiền chế thành thuốc viên uống. Nhân dân ta dùng hạt nhân (long nhãn hạch) chữa bệnh ngoài da: chốc lở, đứt chân tay. Bảo quản: Khô mát, tránh tạp chất ngoại lai. Bài thuốc: Quy tì hoàn chữa tỳ hư (dạ dày suy nhược) tiêu hóa kém, trí nhớ kém, hay quên, mất ngủ, phụ nữ kinh nguyệt quá nhiều Bạch truật 30g Đảng sâm 30g Phục linh 30g Mộc hương 30g Hoàng k ỳ 30g Cam thảo 15g Long nhãn nhục 30g Đương quy 30g Toan táo nhân 30g Viễn chí 30g Nghiền luyện với mật ong, làm thành viên, mỗi lần uống 3 – 6g, mỗi ngày uống 2 – 3 lần Biệt dược (phối hợp): Nhị long ẩm. Quả mận chữa viêm họng Cập nhật lúc 14h31" , ngày 07/06/2007 Quả mận là vị thuốc hay chữa ho, viêm họng rất hiệu quả. Ngoài ra, mận cũng giúp giải nhiệt, nhuận tràng, kích thích tiêu hóa và làm đẹp da. Trong y học cổ truyền, quả mận có tên là úc lý, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, sinh tân dịch, giảm ho, kích thích tiêu hóa, lợi tiểu, tiêu thũng. Ăn nhiều mận chua dễ sinh nóng ruột, cồn cào, hại răng; nhưng nhấm nháp ít mận trước mỗi bữa ăn sẽ thấy ngon miệng và dễ tiêu hóa. Dịch ép quả mận pha với nước đường hoặc trộn với nước quả nho là thứ giải khát có tác dụng mát, thanh nhiệt, giải nóng, nhuận tràng. Dùng dịch ép này bôi lên mặt hằng ngày làm mịn da. Để chữa ho, viêm họng, háo khát, có thể chế biến quả mận theo cách sau: Quả mận vừa chín tới rửa sạch, để ráo nước, ngâm với muối (cứ một lớp mận, lại một lớp muối), thêm ít nước đun sôi để nguội, rồi nén hơi nặng. Sau vài ngày đến một tuần, đảo đều. Bạch Công Tấn sưu t ầm
  5. Có thể châm kim vào quả trước khi muối cho chóng ngấu. Lấy ra, phơi hoặc sấy nhẹ cho khô rồi ngâm mận muối vào nước ấm cho bớt mặn. Để ráo, ướp mận với nước đường với tỷ lệ 20 g đường cho 1 kg mận. Rim nhỏ lửa, đảo đều đến khi cạn nước đường. Để nguội, trộn với gừng khô giã nhỏ và bột cam thảo. Ngày ngậm nhiều lần. Nhân hạt mận (lấy từ quả chín phơi khô) có tác dụng giảm đau, lợi tiểu, chữa táo bón, phù thũng, vết thương bầm tím do ứ máu. Liều dùng hằng ngày: 12 g dưới dạng thuốc sắc, thường phối hợp với các vị thuốc khác. Phụ nữ có thai không được dùng nhân hạt mận. Để dưỡng da, làm mịn bóng và bớt vết đen trên mặt, lấy nhân hạt mận sao khô, giã nhỏ, rây bột mịn, trộn với vài giọt nước chanh và lòng trắng trứng gà, đánh nhuyễn, đắp lên mặt trước khi đi ngủ. Sáng hôm sau rửa sạch và lặp lại trong vài ngày tiếp theo. Hoa mận giã nát, trộn với sữa, bôi hằng ngày lên mặt cũng làm da dẻ mịn màng, bớt tàn nhang, vết nám đen. Chữa mụn nhọt bằng mít Cập nhật lúc 08h47" , ngày 27/06/2007 Lá mít, nhựa mít được dân gian dùng làm thuốc chữa mụn nhọt, lở loét. Ngoài ra, các bộ phận khác của cây này cũng được dùng làm thuốc an thần, chữa sỏi thận... Một số bài thuốc theo kinh nghiệm dân gian: Vỏ thân mít 20g, chẻ nhỏ, phơi khô, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống một lần trong ngày có tác dụng an thần, gây ngủ. Phụ nữ có thai không được dùng vì dễ bị sẩy thai. Nhựa trích từ thân cây mít, dùng ngay trộn với ít giấm, bôi hằng ngày chữa mụn nhọt, sưng tấy. Lá mít già 20-30g (lá mít mật tốt hơn) thái nhỏ, sao vàng, nấu nước uống, chữa đái ra cặn trắng ở trẻ em. Dùng ngoài, lá mít tươi giã đắp mụn nhọt, làm giảm sưng đau; hoặc lá phơi khô, nấu thành cao mềm bôi chữa lở loét. Cụm hoa đực (dái mít) hoặc quả mít non 30-50g sắc uống giúp làm tăng tiết sữa. Có thể dùng riêng hoặc phối hợp với chân giò lợn 1 cái hoặc móng chân lợn 3-5 cái; lá sung có tật 100g, quả đu đủ non 50g, lõi thông thảo 10g, hạt mùi 5g, để sống, gạo nếp 100g. Tất cả thái nhỏ, nấu thật nhừ thành cháo ăn làm 1- Bạch Công Tấn sưu t ầm
  6. 2 lần trong ngày. Dùng 2-3 ngày. Múi mít được coi như một loại thức ăn - vị thuốc có tính bồi dưỡng và long đờm. Có thể chế siro mít bằng cách nấu múi mít chín (mít mật càng tốt) với nước với tỷ lệ 1 mít và 1/2 nước, đánh thật nhuyễn, lọc để được dịch quả, rồi trộn với đường để nấu thành siro với tỷ lệ 1/2. Khi dùng, pha loãng siro mít với nước sôi để nguội sẽ được một thứ nước giải khát thơm ngon, chống khô cổ, háo khát. Theo kinh nghiệm dân gian, hạt mít có tác dụng thông tiểu, gây trung tiện làm cho dễ tiêu. Tầm gửi sống bám ở cây mít cũng được dùng với tác dụng lợi sữa dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hoặc phối hợp với cỏ sữa lá nhỏ. Gần đây, các nhà khoa học Pháp đã chiết được từ quả mít chất jacalin, bước đầu được thử nghiệm trong phòng thí nghiệm thấy có khả năng bảo vệ các bạch huyết bào (tế bào của hệ thống miễn dịch) chống lại bệnh AIDS. Nhọ nồi Theo Đông y, nhọ nồi vị ngọt chua, tính mát, vào 2 kinh Can, Thận. Có tác dụng bổ thận âm, khỏe gân xương, là mát máu, cầm máu. Dùng chữa các chứng bệnh can thận kém, nôn ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, ỉa đái ra máu, lỵ ra máu, yếu răng, người sớm bị bạc tóc, chảy máu dưới da. Nhọ nồi Tên khoa học: Eclipta prostrata L. họ Cúc (Asteraceae). Tên khác: Cỏ mực – Hạn liên thảo – Yerbadetaja Herb (Anh). Bộ phận dùng: Cả cây nhọ nồi bỏ rễ (Herba Ecliptae). Đã được ghi vào DĐVN (1983) và DĐTQ (1963) (1997). Mô tả: Cỏ nhọ nồi mọc thẳng đứng, có thể cao tới 80cm, thân đỏ tím có lông cứng, sờ nháp. Lá mọc đối, có lông ở 2 mặt, phiến lá hình mũi mác nhỏ. Hoa tự hình đầu, màu trắng, mọc ở đầu cành hay kẽ lá. Cây vò ra biến thành màu đen hoặc khi bấm có nước màu đen chảy ra nên gọi tên như vậy. Cỏ nhọ nồi mọc hoang khắp nơi, trong nước ta, ở những chỗ ẩm thấp. Thu hái chế biến: Thu hái vào mùa hạ, khi lá cây đang tươi tốt, cắt lấy phần trên mặt đất, loại bỏ tạp chất và lá úa, đem phơi khô. Dùng tươi thì thu hái quanh năm. Cỏ nhọ nồi ít mùi, vị nhạt, hơi mặn. Loại cỏ nhọ nồi khô màu xanh lục, thân dài, lá to, non không lẫn tạp chất là tốt. Bạch Công Tấn sưu t ầm
  7. Thủy phần dưới 13p100. Tỷ lệ vụn nát (qua cây số 36) dưới 8p100. Thành phần hóa học: Hoạt chất của cỏ nhọ nồi hiện nay chưa rõ. Trong cỏ nhọ nồi có một ít tinh dầu, tanin, chất đắng, caroten và một alcaloid gọi là Ecliptin. Có tài liệu ghi là có nicotin và một chất gọi là wedelolacton. Công dụng: Theo Đông y, hạn liên thảo vị ngọt chua, tính mát, vào 2 kinh Can, Thận. Có tác dụng bổ thận âm, khỏe gân xương, là mát máu, cầm máu. Dùng chữa các chứng bệnh can thận kém, nôn ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, ỉa đái ra máu, lỵ ra máu, yếu răng, người sớm bị bạc tóc, chảy máu dưới da. Liều dùng: 5 – 10g. Sắc uống. Dùng tươi thì giã lấy nước uống. Dùng ngoài da chữa mụn nhọt, sưng tấy, chảy máu, giã đắp lên chỗ đau. Thí nghiệm dược láy đã chứng minh tác dụng cầm máu của cỏ nhọ nồi giống như viatmin K, chống lại tác dụng của cumarin, tăng tỷ lệ prothrombin toàn phần, giảm thời gian Quick rõ rệt, tăng trương lực của tử cung góp phần chống chảy máu, nhưng cũng có thể gây sẩy thai, không gây tăng huyết áp, không làm giãn mạch. Lưu ý: Người tỳ, vỵ hư hàn ỉa chảy phân sống không nên dùng. Bài thuốc: Bài số 1: Toa thuốc căn bản (Viện Y học dân tộc cổ truyền Việt Nam) giải độc, bồi dưỡng cơ thể, điều hòa. Chữa các chứng bệnh người lớn, trẻ em bốn mùa cảm mạo, nóng sốt, nhức đầu, ho hen, ăn không tiêu, gan yếu, táo bón, máu kém lưu thông: Rễ cỏ tranh 8g Ké đầu ngựa 8g Lá mơ tam thể 8g Gừng sống 2g Rau má 8g Củ sả 2g Cỏ nhọ nồi 8g Vỏ quít 4g Cỏ màn trầu 8g Cam thảo nam 8g Bài số 2: Chữa đái ra máu: Cỏ nhọ nồi 30g Cả cây mã đề 30g Bạch Công Tấn sưu t ầm
  8. Cả 2 thứ còn tươi rửa sạch, giã, ép lấy nước uống (say máy sinh tố), chữa cảm sốt nóng, ho, viêm họng. Bài số 3: Chữa phụ nữ chảy máu tử cung: Cỏ nhọ nồi 15g Lá trắc bá 15g Sắc uống. Dùng ngoài da: Cỏ nhọ nồi tươi rửa sạch, giã (xay) ép lấy nước (nếu khô thì tán bột), bảo đảm vệ sinh vô trùng: đắp lên vết thương chảy máu do chấn thương.Thợ nề dùng cỏ nhọ nồi tươi xoa xát lên chân tay tránh tác hại của vôi ăn da. Bảo quản: Khô, mát, tránh làm nát vụn. Hai bài thuốc trị đau bụng lúc hành kinh Cập nhật lúc 10h55" , ngày 03/07/2007 Đau bụng là một trong những triệu chứng thường gặp phải ở phụ nữ trong những ngày có nguyệt sự (hành kinh). Một số bài thuốc theo y học cổ truyền sau đây theo lương y Nguyễn Công Đức (giảng viên khoa Y học cổ truyền - ĐH Y Dược, TP.HCM), nhằm giúp chị em trị chứng đau bụng ấy. Đại hoàng Bài 1: + Thành phần gồm các vị thuốc: đào nhân, đại hoàng (mỗi thứ 12gr), cam thảo, quế chi, mang tiêu (mỗi thứ 6gr). + Cách chế biến: đem các vị thuốc trên nấu với 2 chén nước (khoảng 400ml), nấu còn lại 1 chén. + Cách dùng: mỗi ngày dùng 3 lần (mỗi lần 1/3 chén), lúc còn ấm trước mỗi bữa ăn. Bạch Công Tấn sưu t ầm
  9. Bài thuốc này còn dùng để chủ trị: táo bón, mặt có mụn... Lưu ý, người đang mang thai, người thường bị tiêu chảy thì không dùng bài này. Bài 2: + Thành phần gồm các vị thuốc: đào nhân, đương quy, đơn bì, bạch phục linh, bạch thược, quế chi (mỗi vị Quế chi bằng nhau 100gr). + Cách chế biến: loại bỏ tạp chất của 3 vị quế chi, bạch phục linh và đơn bì. Bạch thược thì đem tẩm giấm ăn, sao vàng. Đào nhân thì sao vàng lấy cả vỏ. Đương quy thì tẩm rượu, sao vàng. Xong các công đoạn trên, đem tất cả trộn chung, trộn đều, rồi tán thành bột mịn, cho vào thố, lọ đậy kín. + Cách dùng: mỗi ngày dùng 3 lần (mỗi lần độ 10gr), dùng với nước ấm, trước bữa ăn. Chữa gout theo cổ truyền Cập nhật lúc 14h36" , ngày 31/07/2007 Gout (còn gọi là bệnh thống phong), phần lớn xảy ra ở nam giới. Bệnh không chỉ làm giảm chất lượng cuộc sống, mà nó còn gây ra biến chứng nguy hiểm. Thống phong thuộc chứng Tý trong Đông y. Các khớp ngón tay nổi Ngoại tà xâm nhập cục u ở bệnh nhân Gout Ở phương diện Tây y, nguyên nhân gây bệnh gout là - Ảnh: TN do sự rối loạn chuyển hóa acid uric làm tăng lượng acid uric trong máu. Bệnh có liên quan đến các yếu tố: Gia đình, lối sống, chế độ sinh hoạt, ăn uống (uống nhiều rượu, bia; ăn uống quá dư thừa; ăn nhiều chất có chứa purine như tạng phủ, lòng động vật); một số bệnh rối loạn chuyển hóa (Tiểu đường, rối loạn lipid máu, bệnh tim mạch...); béo phì; một số thuốc trị bệnh... Còn ở khía cạnh y học cổ truyền, theo lương y Phạm Như Tá (Hội Đông y Q.Bình Thạnh, TP.HCM): bệnh thống phong là do ngoại tà xâm nhập cơ thể, gây tắc nghẽn kinh lạc, khí huyết bị ứ trệ tại khớp, gây đau, co duỗi khó khăn. Bệnh thống phong thuộc phạm trù chứng Tý trong Đông y. Về biểu hiện lâm sàng, thống phong có 2 thể, cấp tính và mãn tính. Ở thể cấp Bạch Công Tấn sưu t ầm
  10. tính, bệnh nhân bị sưng đột ngột ở khớp bàn chân, ngón cái, hay ngón chân, cổ chân, gối...; bệnh nhân đau dữ dội, thường đau vào ban đêm; khớp đỏ sẫm, ấn đau nhiều, hoạt động hạn chế. Triệu chứng kéo dài 2-3 ngày hoặc 5-6 ngày rồi khỏi không để lại di chứng, nhưng rất dễ tái phát. Còn ở thể mãn tính (thường là do bệnh cấp tính mà thành), người bệnh bị viêm nhiều khớp (khớp nhỏ, vừa và đối xứng), đau nhiều, kéo dài, tại khớp có thể sưng nóng đỏ không rõ, nhưng thường kèm sốt, khớp dị dạng, co duỗi khó khăn, xuất hiện cục u quanh khớp, dưới da, vành tai (tôphi) mềm, không đau, bên trong chứa chất màu trắng ngà. Bệnh tiến triển lâu ngày gây tổn thương thận (viêm thận, sạn tiết niệu, tiểu máu, suy thận cấp, mạn)... Phép trị theo cổ truyền Theo lương y Như Tá, phép trị cần chú ý đến giai đoạn phát triển của bệnh. Đối với thể cấp tính chủ yếu là dùng phép thanh nhiệt thông lạc khu phong trừ thấp; đối với thể mãn tính thường kèm theo đàm thấp, ứ huyết, hàn ngưng. Tùy chứng mà dùng các phép hóa đàm, trừ thấp, hoạt huyết thông lạc, ôn kinh, tán hàn. Đồng thời chú ý đến mức độ hư tổn của âm dương, khí huyết, can thận mà bồi bổ thích hợp. Ở thể cấp tính, biểu hiện chính là thể phong thấp nhiệt - đột ngột khớp ngón cái, hoặc các khớp nhỏ khác sưng nóng đỏ đau, không đụng vào được, kèm theo sốt, đau đầu, sợ lạnh hoặc bứt rứt, khát nước, miệng khô, tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn, mạch sác. Phép trị là thanh nhiệt, thông lạc, khu phong, trừ thấp, bài thuốc là, Bạch hổ gia quế chi thang gia giảm, gồm: thạch cao 40-60gr (sắc trước), tri mẫu, bạch thược, xích thược (mỗi thứ 12gr), 4-6gr quế chi, dây kim ngân 20-30gr, phòng kỷ, mộc thông, hải đồng bì (đều 10gr), và 5-10gr cam thảo. Đem sắc uống ngày l thang, trong lúc bị sưng đỏ nóng sốt. Nếu thấp nhiệt nặng (sưng tấy, đau nhiều), thì gia thêm 40-50gr dây kim ngân, thổ phục linh, ý dĩ (để tăng trừ thấp); hoặc gia thuốc hoạt huyết như toàn đương qui, đan sâm, trạch lan, đào nhân, hồng hoa, tằm sa, là để hóa ứ chỉ thống. Đối với thể mãn tính (mạch trầm huyền hoặc khẩn, lưỡi nhợt, rêu trắng...), phép trị là, khu hàn, thông lạc, trừ thấp, chỉ thống. Dùng các vị thuốc: chế ô đầu, tế tân (4-5gr, sắc trước), tỳ giải, toàn đương qui, xích thược (mỗi vị 12gr), mộc thông, uy linh tiên (mỗi vị 10gr), 16gr thổ phục linh, 20gr ý dĩ nhân, 4-6gr quế chi. Đem sắc uống. Nếu bị sưng đau, nhiều khớp cứng, rêu lưỡi trắng bẩn dày, thì thêm: chích cương tàm, xuyên sơn giáp, tạo thích, hy thiêm thảo, hải đồng bì (để tăng tác dụng hoạt lạc, trừ đàm). Nếu đau nhiều do huyết ứ, thì thêm ngô công, toàn yết, sao diên hồ sách, để hoạt huyết chỉ thống. Nếu thận dương hư (liệt dương, đau mỏi lưng gối, chân Bạch Công Tấn sưu t ầm
  11. tay lạnh, sợ lạnh...), thì thêm bổ cốt chỉ, nhục thung dung, cốt toái bổ, để bổ thận kiện cốt định thống. Nếu có triệu chứng khí huyết hư thêm hoàng k ỳ, đương qui, nhân sâm, bạch truật... (Theo Thanh niên) Gấc có thể dự phòng biến chứng của bệnh tiểu đường Cập nhật lúc 10h11" , ngày 08/08/2007 (VnMedia)- Theo Tổ chức Y tế thế giới, số người bị tiểu đường trên thế giới sẽ tăng lên 300 triệu vào năm 2025 so với 150 triệu người hiện nay. Tiểu đường là một bệnh mạn tính, có tác động của yếu tố di truyền, do hậu quả của sự thiếu hụt Insulin (một loại hóc môn do tụy hay Gấc và các chế phẩm từ gấc còn có còn gọi là lá mía của người tiết ra). giá trị chữa bệnh. Bệnh được đặc trưng bởi tình trạng tăng đường ở trong máu và các rối loạn chuyển hóa khác. Gần đây, số người mắc bệnh tiểu đường trên thế giới gia tăng với tốc độ rất nhanh chóng, do vậy hiện nay tiểu đường được xem như là một đại dịch của toàn cầu. Hiện nay chưa rõ nguyên nhân chính xác gây ra bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, người ta ghi nhận có yếu tố di truyền hoặc gia đình (tức là khi gia đình có người bị tiểu đường thì những người còn lại có nguy cơ dễ bị bệnh tiểu đường hơn). Yếu tố xã hội cũng góp phần gây ra bệnh tiểu đường như mập phì, cách ăn uống, lối sống ít hoạt động thể lực… đây là yếu tố mà chúng ta có thể cải thiện được. Phát hiện mới từ Gấc Có rất nhiều phương pháp điều trị cho bệnh nhân tiểu đường như sử dụng thuốc, chế độ ăn uống…Trong báo cáo khoa học mới đây được trình bày tại Hội thảo “Dinh dưỡng lâm sàng và một số bệnh rối loạn chuyển hóa” tổ chức tại Tokyo – Nhật Bản, Giáo sư Nguyễn Văn Chuyền – Trường Đại học Japan Women’s University - Tokyo, Nhật Bản - đã có một kết luận đặc biệt đáng chú ý: "Chúng tôi đã nghiên cứu một loại antioxidative Carotenoid mới là Lycopene. Với sự cộng tác của San Eigen FFI, một công ty hàng đầu của Nhật Bản về phẩm màu, chúng tôi đã phân tích quả GẤC, một loại quả được dùng để nấu xôi ở Việt Nam. Nồng độ lycopene trong phần ăn được của quả gấc cao gấp 10 lần nồng độ của các loại trái cây và rau quả được xem là nguồn giàu Lycopene. Như vậy quả gấc được xem là một nguồn antioxidants mới quý giá để dự phòng biến chứng của tiểu đường và các bệnh mãn tính khác". Kết luận đã được đúc kết qua công trình nghiên cứu “Khả năng dự phòng biến Bạch Công Tấn sưu t ầm
  12. chứng tiểu đường bằng chất chống oxy hóa trong khẩu phần ăn”. Theo những chứng minh trong công trình này thì trong tiểu đường có hai phản ứng quan trọng xảy ra đó là Glycation và Lipid Peroxidation. Hai phản ứng này được xem là nguyên nhân gây biến chứng trên hệ thống mạch máu, da, thận, võng mạc, thần kinh ngoại biên và thủy tinh thể của bệnh nhân tiểu đường. Antioxidants được biết là có tác dụng tẩy sạch những mẫu reactive oxygen cũng như là các gốc (radical) được tạo thành trong quá trình Glycation và Lipid Peroxidation trong vitro cũng như vivo… Ở Việt Nam đã có rất nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh dầu gấc Việt Nam là một loại thuốc, một loại thực phẩm có tác dụng phòng chữa bệnh. Người khởi xướng, biến những nghiên cứu về Gấc để chế biến thành viên nang dầu gấc đầu tiên có tên Vinaga là Bác sĩ Nguyễn Công Suất. Đây là một trong những thực phẩm – thuốc có giá trị hiện nay, một món quà quý vô giá của thiên nhiên ban tặng, có chức năng phòng chống thiếu vitamin, tăng khả năng miễn dịch, tăng sức đề kháng của cơ thể, chống ô xy hóa, chống lão hóa tế bào, phòng chữa bệnh tật, loại bỏ các tác động có hại của môi trường: hóa chất độc, tia xạ… giúp cơ thể phát triển khỏe mạnh, nhất là đối với trẻ em và phụ nữ. Mới đây, Công ty VNPOFOOD của bác sĩ Nguyễn Công Suất đã sản xuất thêm một loại sản phẩm mới là dầu gấc đóng chai với thương hiệu Dầu gấc Việt Nam G8 nhằm cung cấp cho thị trường có thêm một loại dầu gấc bổ sung vào các món ăn như cháo, bột cho trẻ nhỏ và nấu các món ăn như xôi gấc khi mùa gấc chưa chín… Với khám phá mới được công bố, Gấc lại ghi “danh” thêm cho mình một công dụng mới cho người bị bệnh tiểu đường. Người bệnh có thể sử dụng loại gấc đã được tinh chế thành viên nang dầu gấc như Vinaga hiện có bán rộng rãi tại các hiệu thuốc, có thể sử dụng thường xuyên trong thực đơn thuốc điều trị bệnh. Tác dụng của quất Cập nhật lúc 14h00" , ngày 13/08/2007 Từ xa xưa, trong dịp Tết Nguyên đán, có một loại cây cảnh dùng trang trí không phải bằng hoa mà bằng quả. Đó chính là cây quất. Những quả quất tròn trĩnh với màu đỏ cam hấp dẫn không những làm đẹp cảnh quan ngày Tết mà còn là vị thuốc hay trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Giá trị chữa bệnh của quả quất bắt nguồn từ một truyền thuyết như sau: Cách đây hơn 800 năm, vào giữa tiết trời đông giá lạnh, cả kinh thành Thăng Long vô cùng lo lắng bởi nhà vua và văn võ bá quan trong triều cùng hàng Bạch Công Tấn sưu t ầm
  13. ngàn người dân đột nhiên mắc một chứng bệnh thời khí như sổ mũi, hắt hơi, đau nhức chân tay m ình mẩy. Vua Lý Thần Tông đã hạ chiếu cho pháp sư Giới Không Thiền Sư lập đàn tế lễ, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm mà ngày một lan rộng. Các quan ngự y được lệnh sưu tầm dược liệu để chế ra những phương thuốc trị bệnh. Sau một thời gian chạy chữa, các chứng bệnh lui dần duy chỉ còn chứng ho, mất tiếng là dai dẳng kéo dài đến tận giáp tết Nguyên đán. Nhà vua phải xuống chiếu cho nhân dân cả nước xem ai biết môn thuốc gì chữa khỏi chứng ho kéo dài này sẽ được trọng thưởng. Chiếu chỉ ban hành được vài ngày thì có một nông dân tên Hoàng Quyết xin dâng lên nhà vua một vị thuốc dân gian, đó là quả quất luyện với đường phèn để chữa bệnh. Nhà vua bèn dùng thử thấy thuốc vừa chua, vừa ngọt, lại cay tê, đăng đắng, thơm mùi quất, chỉ trong hai ngày là khỏi bệnh. Bài thuốc được phổ biến rộng rãi trong nhân dân và từ đó, cây quất cũng được trồng và dùng làm thuốc chữa bệnh tại kinh thành Thăng Long. Quả quất được dùng dưới dạng quả còn non hoặc đã chín. Về thành phần hóa học, dịch quả quất chứa pectin 10%, vitamin C 0,13-0,24mg%, Fe 5,1mg%. Cu 0,8mg%, đường, acid hữu cơ và chất fortunelin. Vỏ quả quất chứa tinh dầu gồm 25 thành phần, trong đó cóa-pinen 0,4%, b -pinen 2,7%, sabinen 2,8%, limonen 8,4%, b-ocimen 0,3%, linalol 1,55. Dược liệu có vị chua, hơi ngọt, the, mùi thơm, tính ấm, không độc, có tác dụng điều khí, kiện tỳ, chỉ khát, giảm ho, tiêu phù, được dùng trong những trường hợp sau: Chữa ho (nhất là ho ở trẻ em): Quả quất chín (loạibỏ những quả đã ủng nhũn) 10g, rửa sạch, cho vàochén cùng với ít đường phèn hoặc mật ong, đem hấp chín trong 15-20 phút. Nghiền nát, để nguội, cho trẻ uống làm 3 lần trong ngày. Dùng 3-4 ngày. Có thể phối hợp với hoa hồng bạch 10g và hạt chanh 10g. Cách làm và dùng như trên. Chữa hậu sản, phù nề, vàng da: Quả quất non 50g, nghệ vàng 100g, nghệ đen 100g, hương phụ 100g, cặn nước tiểu 5g. Tất cả thái mỏng, phơi khô, tán bột mịn, trộn với mật ong làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10 viên. Nước giải khát có tác dụng bổ, dễ tiêu: Quả quất chín 1kg rửa sạch, để ráo nước. Dùng kim sạch châm sâu vào quả 5-6 lỗ, rồi cho vào lọ rộng miệng cùng với đườngkính 2kg; cứ một lớp quất lại một lớp đường. Đậy kín, để trong 7 ngày, được dịch quất đường (sirô quất) màu vàng, mùi thơm. Khi dùng, lấy 1-2 thìa to sirô này pha với 150ml nước đun sôi để nguội, khuấy đều mà uống. Theo tài liệu nước ngoài, vỏ quả quất tươi 9g, phối hợp với gừng tươi nướng vàng 9g, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống làm một lần trong ngày, chữa nôn mửa. Để chữa nghẹn nấc ở người cao tuổi, lấy vỏ quả quất 20g, phơi hoặc sấy khô, tán bột rồi uống với nước ấm. Bạch Công Tấn sưu t ầm
  14. Hạt quất là thuốc cầm máu, giảm ho, chống nôn: Chữa ho lâu ngày không khỏi: Hạt quất 10g, lá thạch xương bồ 10g, hạt chanh 10g, mật gà đen 1 cái. Tất cả để tươi, giã nát, thêm đường, hấp cơm, uống làm 2-3 lần trong ngày. Chữa nôn ra máu: Hạt quất 1 chén nhỏ, bóc bỏ vỏ, lấy nhân, sao vàng, giã nhỏ, sắc uống làm 2 lần trong ngày. Chú ý: Tránh nhầm hạt quất với hạt quýt (y học cổ truyền gọi là quất hạch). 10 bài thuốc trị giun kim Cập nhật lúc 08h58" , ngày 06/09/2007 Giun kim là loại giun nhỏ như cái kim, kích thước bé chừng 1mm. Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 12 tuổi, ít gặp ở người lớn. Khi mắc, bệnh nhi thường ngứa ngáy ở vùng hậu môn và bộ phận sinh dục, nhất là về ban đêm giun thường bò ra hoạt động làm trẻ bứt rứt, khó chịu, mất ngủ, kém ăn, hay dùng tay gãi vào chỗ ngứa gây mất vệ sinh. Quả cau Nếu bị nhiễm giun nặng trẻ thường lợm giọng, buồn nôn, đau bụng, người gầy, xanh xao, để lâu dễ bị “lòi dom” (sa trực tràng) hoặc ở trẻ em gái dễ viêm âm đạo. Xin giới thiệu 10 bài thuốc đơn giản để chữa trị bệnh này. Bài 1: Tân lang (hạt cau già), nam qua tử (hạt bí ngô) lượng bằng nhau, tán thành bột trộn đều, trẻ dưới 6 tuổi uống khoảng 3 - 6g, từ 7 - 12 tuổi uống 8 - 12g vào buổi sáng lúc đói với nước sôi hòa thêm chút đường hoặc mật ong cho dễ uống. Uống liên tục 2 - 3 ngày. Kết hợp dùng bách bộ 15g, khổ sâm 15g, xà sàng tử 15g. Sắc lấy nước để rửa vùng hậu môn, âm đạo trước khi ngủ, liên tục trong 3 ngày. Bài 2: Bách bộ 50g, sắc đặc chừng 10-20ml, mỗi buổi tối trước khi đi ngủ dùng bơm tiêm thụt vào hậu môn, làm liên tục 3-4 tối. Hoặc dùng bạch đầu ông 30g, sắc uống ngày 1 thang, liên tục trong 3 ngày. Bài 3: Sử quân tử sao vàng, nghiền thành bột cho trẻ uống, mỗi tuổi dùng 1 hạt, uống một lần trước khi đi ngủ, uống liên tục 3 ngày. Hoặc sử quân tử 120g, mộc hương 80g, tân lang 160g, hắc sửu 100g, tán bột Bạch Công Tấn sưu t ầm
  15. mịn làm hoàn với mật, trẻ em 3-6 tuổi dùng 3-4g, 7-12 tuổi dùng 6-8g một ngày. Bài 4: Tỏi giã nát trộn với dầu vừng hoặc dầu lạc bôi vào hậu môn. Hoặc dùng tỏi 100g giã nát thêm 1 lít nước chín ngâm trong 24 giờ rồi lọc bỏ bã, trước khi đi ngủ dùng dung dịch đó để rửa hậu môn, làm liên tục trong 7 ngày sẽ trị được giun kim và bệnh ngứa hậu môn. Bài 5: Dùng quán chúng 5-10g tùy theo tuổi sắc cho trẻ uống, ngày 1 lần trong 2-3 ngày. Hoặc dùng 40g quán chúng sắc đặc rửa hậu môn trước khi đi ngủ. Bài 6: Sử quân tử, lôi hoàn lượng bằng nhau, tán thành thuốc bột, mỗi tuổi uống 1g chia làm 2 lần uống sáng và tối. Dùng liên tục 7 ngày cho một đợt điều trị, nếu chưa khỏi, cách 1 tuần tiếp tục liều điều trị thứ hai. Kết hợp dùng bách bộ 30g, ô mai 15g, sắc với 300ml còn khoảng 100ml lọc bỏ bã, dùng dịch trên bơm vào hậu môn để rửa ruột vào buổi tối, làm trong 7 ngày liền. Bài 7: Trường hợp bụng trướng đau, trẻ la khóc, đi ngoài phân lỏng, buồn nôn phải tẩy giun, hành khí giảm đau, dùng bách bộ 9g, sử quân tử 9g, thương truật 6g, hoàng bá 6g, thanh bì 6g, cam thảo 3g, tân lang 9g. Sắc uống ngày 1 thang chia làm 2 lần uống vào buổi sáng và buổi tối lúc đói, liên tục 3 ngày. Bài 8: Bột sử quân tử 10g, sinh đại hoàng 1,5g tán thành bột. Cho trẻ uống cứ mỗi tuổi uống 1g, chia thành 3 lần, tùy tuổi mà tăng dần liều nhưng không quá 4g một ngày, uống 6 ngày cho một đợt điều trị. Bài 9: Tử thảo 30g, bách bộ 20g, nghiền thành bột mịn rồi trộn với dầu thực vật lượng vừa đủ, bôi vào hậu môn, mỗi ngày một lần vào buổi tối. Bài 10: Thạch lựu bì 6g, binh lang 6g, sử quân tử 9g. Sắc uống ngày 1 thang, uống liền 3 ngày. Hoặc mã xỉ hiện (rau sam tươi) 50g rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cốt, thêm chút đường, uống ngày 1 lần, cho trẻ dùng liên tục 3-5 ngày sẽ tẩy được giun kim. (Theo SK & ĐS) Thuốc nam chữa dị ứng Dị ứng thuộc chứng "phong chẩn", "mề đay" với các triệu chứng nổi sẩn, nốt to nhỏ khác nhau. Có khi các nốt liền nhau tạo thành mảng dị ứng, kèm theo ngứa ngáy khó chịu. Một số trường hợp dị ứng cả ở mắt, nội tạng, với biểu hiện như ngứa mắt, đỏ mắt, đau bụng, Bạch Công Tấn sưu t ầm
  16. tiêu chảy, v.v… Thuốc nam chữa dị ứng Dị ứng thuộc chứng "phong chẩn", "mề đay" với các triệu chứng nổi sẩn, nốt to nhỏ khác nhau. Có khi các nốt liền nhau tạo thành mảng dị ứng, kèm theo ngứa ngáy khó chịu. Một số trường hợp dị ứng cả ở mắt, nội tạng, với biểu hiện như ngứa mắt, đỏ mắt, đau bụng, tiêu chảy, v.v… Theo y học cổ truyền, nguyên nhân của dị ứng có thể do phong hàn, phong nhiệt, hoặc các nhân tố khác như thức ăn, thuốc, ký sinh trùng, môi trường hoặc do vật dụng tiếp xúc. Gốc bệnh là tại huyết và biểu hiện chủ yếu ra ngoài da. Các trường hợp dị ứng kèm bội nhiễm kéo dài, chàm hóa (eczéma) thuộc chứng "giới, tiễn" trong y học cổ truyền có phương pháp chữa trị riêng. Trong phạm vi bài viết này chỉ xin đề cập đến dị ứng ngoài da thông thường. Trên lâm sàng, dị ứng thường chia làm hai loại phong hàn và phong nhiệt để điều trị. Khi bệnh xuất hiện, các phương pháp chữa của y học cổ truyền nhằm giải dị ứng, hoạt huyết, tiêu ứ, chống phù do dị ứng và một số các triệu chứng khác như táo bón, tiêu chảy, đau bụng, bí tiểu tiện… Xin nêu khái lược một số phuơng pháp chữa theo y học cổ truyền. Dị ứng thể phong hàn: Dị ứng gặp thời tiết lạnh, tiếp xúc với nước lạnh xuất hiện các triệu chứng: da nổi sẩn đỏ, ngứa. Trời nóng bệnh giảm. Dùng các vật dụng xoa xát nóng ấm da thấy đỡ ngứa và dễ chịu. Phương pháp điều trị là: "phát tán phong hàn, điều hoà dinh (huyết) vệ". Các vị thuốc thường dùng có tính nóng, ấm, giải dị ứng (kháng histamin) và hoạt huyết, chống phù nề. Có thể dùng một trong ba bài thuốc sau: Bài 1: Quế chi 8g, tử tô 12g, kinh giới 16g, phòng phong 12g, bạch chỉ 8g, gừng tươi 6g, ké đầu ngựa 16g, ý dĩ 16g, đan sâm 12g. Cách dùng: Sắc uống ngày một thang, uống 15 - 20 thang. Bài 2: Quế chi 8g, bạch thược 12g, kinh giới 12g, phòng phong 8g, tế tân 4g, bạch chỉ 8g, ma hoàng 6g, tử tô 12g. Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang, uống 5 - 10 thang. Bài 3: Hoàng k ỳ 8g, đảng sâm 12g, ma hoàng 8g, kinh giới 12g, phòng phong 12g, bạch chỉ 8g, đại táo 12g. GiA vị: nếu táo bón, thêm đại hoàng 6g; nếu do thức ăn (tôm, cua, nhộng tằm…) thêm sơn tra, hoắc hwong, tíc tô mỗi vị 8 đến 12 g. Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang, thành đợt, mỗi đợt uống 5 đến 10 thang. Dị ứng thể phong nhiệt: Da đỏ, nổi các nốt dị ứung đỏ, nóng rát, thích uống nước mát, táo bón. Thời tiết nóng, môi trường lao động nóng bệnh phát ra hoặc tăng thêm; lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch nhanh (> hoặc bằng 90lần/phút). Phương pháp điều trị là: "Khu phong, thanh nhiệt lương huyết". Các vị thuốc thường dùng bao gồm các vị thuốc có tác dụng giải dị ứng như: lá đơn đỏ, phù bình (bèo cái), thưong nhĩ tử (quả ké đầu ngựa), thổ phục linh (củ khúc khắc), kinh giới, phòng phong phối hợp với thuốc thanh nhiệt lương huyết như: sinh địa, huyền sâm… và một số vị có tính kháng sinh khác. Có thể dùng một trong Bạch Công Tấn sưu t ầm
  17. ba bài thuốc sau: Bài 1: Phù bình 8g, ké đầu ngựa 16g, kinh giới 16g, thổ phục linh 16g, sinh địa 12g, thuyền thoái 6g, kim ngân hoa 16g, bồ công anh 12g, lá dâu 8 đến 16g, Xa tiền (lá mã đề) 16g. Cách dùng: sắc uống ngày 1 thang, uống 5 đến 10 thang. Bài 2: kinh giới 12g, phù bình 8g, ké đầu ngựa 16g, trúc diệp (lá tre) 12g, lô căn (rễ sậy) 12g, bạc hà 12g, Xa tiền tử (hạt mã đề) 12g, kim ngân hoa 16g, liên kiều 12g, ngưa bàng tử 12g, thuyền thoái 8g, sinh địa 16g, thạch cao 20g, đan bì 8g, bạch thược 8g. Cách dùng: sắc uống ngày 1 thang; uống hành đợt, mỗi đợt 5 đến 10 thang. Ngoài ra, kinh nghiệm Y học cổ truền cho thấy, các trường hợp dị ứng nhẹ, không thường xuyên, có thể dùng độc vị: đơn đỏ sắc thuốc thay nước, mỗi ngày khoảng 20g hoặc phối hợp hoa kim ngân 20g, trong thời gian 2 đến 3 tháng là ổn định lâu dài. Nhìn chung, dị ứng thuộc loại bệnh cơ địa, do vậy trong nhiều trường hợp bệnh nhân cần được thầy thuốc chuyên khoa theo dõi, điều chỉnh đơn thuốc tuỳ theo thể tạng, thời kỳ và diễn biến của bệnh; chữa trị lâu dài để có kết quả bền vững. Trong các trường hợp dị ứng nặng, cấp tính (như dị ứng thuốc, thức ăn độc hại…) cần phối hợp phương pháp điều trị theo y học hiện đại. Đề phòng dị ứng, cần tránh môi trường thuận lợi, để bệnh phát sinh, không ăn các thức ăn gây dị ứng, tẩy giun định kỳ và cũng cần xét nghiệm kiểm tra chức năng gan khi cần thiết. Khi da nổi nhiều nốt dị ứng, kiêng tắm lạnh để độc tố được thải tiết thuận lợi, nếu bị lạnh độc tố lưu vào trong có thể gây hại, phát sinh đau bụng, tiêu chảy… Ngày 19/04/2005 9 bài thuốc chữa suy nhược thần kinh Cập nhật lúc 15h02" , ngày 10/09/2007 Suy nhược thần kinh là giảm khả năng hoạt động tinh thần của con người, thuộc một loại bệnh chức phận thần kinh. Nó là do thần kinh đại não hoạt động quá căng thẳng kéo dài liên tục, dẫn đến mất cân bằng về hưng phấn và ức chế của đại não mà sinh ra. Hạt sen Trên lâm sàng bệnh nhân có triệu chứng dễ hưng phấn hoặc dễ mệt mỏi, suy kiệt, buồn rầu, chán nản, ngủ kém... bệnh ngày càng hay gặp nhất là trong giới trung niên trí thức. Nguyên nhân chủ yếu gây bệnh là do thần kinh bị kích thích mãnh liệt cao độ kéo dài, thông thường là tình trạng căng thẳng lo âu kéo dài vượt quá sức chịu đựng có thể làm bệnh phát sinh. Bạch Công Tấn sưu t ầm
  18. Một số món ăn - bài thuốc chữa bệnh từ hoa và quả: Bài 1: Lấy vỏ táo tây khô hoặc vỏ lê thái nhỏ, cho nước vào ngâm, cho một chút đường trắng, sắc hoặc ngâm, uống thay trà mỗi ngày, có hiệu quả tốt. Bài 2: Long nhãn khô 10g, gạo lức 50g, long nhãn khô lấy nước ấm ngâm rửa sạch. Gạo lức nấu cháo, khi gạo chín cho long nhãn vào, đun nhỏ lửa tiếp tục ninh đến khi cháo được, mỗi ngày ăn 2 lần. Bài 3: Nhân sâm 20g, đường phèn 30g, hạt sen 10 cái. Hạt sen bỏ tâm, nhân sâm ngâm mềm thái mỏng, cho vào bát nhỏ và đường phèn hấp cách thủy 1-2 giờ. Mỗi ngày một lần, uống nước ăn hạt sen. Tác dụng kiện tỳ ích khí an thần. Bài 4: Gạo tiểu mạch 150g, gạo nếp 100g, long nhãn 100g, táo đỏ 6 quả, đường trắng 100g, nước 1.000ml, táo bỏ hạt cùng với long nhãn thái thành hình hạt gạo nhỏ. Gạo tiểu mạch và gạo nếp ngâm cho nở, vo sạch cho vào nồi nấu cháo, đợi hạt gạo nở như hoa, cho long nhãn, táo đỏ, đường trắng tiếp tục ninh nhừ là được. Tác dụng dưỡng tâm ích thận, thanh nhiệt giải khát, bổ trung ích khí, có hiệu quả với suy nhược thần kinh. Bài 5: Hạt sen 30g, bách hợp 30g, thịt lợn nạc 250g, gia vị vừa đủ. Lấy hạt sen ngâm nước nóng, đến khi nở bỏ vỏ ngoài, bỏ tâm, bách hợp bỏ tạp rửa sạch. Thịt lợn rửa sạch, ngâm trong nồi nước để mất đi nước huyết, lấy ra rửa sạch thái miếng mỏng. Nồi nóng cho mỡ lợn vào, phi hành thơm, xào thịt, tiếp đó cho rượu mùi vào, đun đến khi cạn nước, cuối cùng cho hạt sen, bách hợp, gia vị, nước vừa đủ đun to lửa hầm cho đến khi thịt chín nhừ, cho hành, gừng vào là được. Bài 6: Bách tử nhân 10-15 quả, mật ong vừa đủ, gạo lức 50-100g, đại táo 10 quả. Trước tiên lấy bách tử nhân bỏ vỏ tạp chất, giã nát cùng đại táo, gạo lức nấu cháo, đợi cháo được cho mật ong vừa đủ, nấu sôi 1-2 lần là được. Phương thuốc này dưỡng tâm, an thần, nhuận tràng thông tiện, thích hợp với những người bị táo bón và suy nhược thần kinh. Bài 7: Hạch đào 5-8 hột, bỏ vỏ lấy nhân, ngũ vị tử 2-3g rửa sạch, mật ong vừa đủ, nghiền thành dạng bột ăn. Phương thuốc này bổ thận vững tinh, thích hợp với những người suy nhược thần kinh, thận suy ù tai... Bài 8: Quả dâu tươi chín không hạn chế, sau khi bỏ tạp chất, giã nhỏ, lấy vải lọc lấy nước, cho vào nồi nấu, sau khi đặc cho mật ong vừa đủ, không ngừng quấy đều, nấu thành dạng cao, để nguội cho vào bình, mỗi ngày hai lần vào Bạch Công Tấn sưu t ầm
  19. sáng sớm, tối uống 1-2 thìa canh một lần cùng nước ấm. Phương thuốc này bổ gan thận, bổ khí huyết, thích hợp với những thanh niên tóc trở nên bạc trắng, suy nhược thần kinh. Bài 9: Hắc trị ma 60g, lá dâu 60g, hồ đào 60g, mật ong vừa đủ. Lấy tất cả nghiền nhỏ thành bột, luyện mật thành viên, mỗi viên nặng 4,5g, mỗi lần uống 1 viên vào sáng, tối. Phương thuốc này có tác dụng dưỡng tâm, an thần, thích hợp với bệnh hay quên, mất ngủ dân đến suy nhược thần kinh. Nấm hương - vị thuốc trường thọ Cập nhật lúc 09h04" , ngày 17/09/2007 Hạ huyết áp, giảm cholesterol, cải thiện viêm khớp, phòng ngừa suy lão... Đó chỉ là một phần công dụng của nấm hương. Trong Đông dược, nấm hương được coi là vị thuốc bổ nổi tiếng, được tôn là “dược diệu” chống suy lão và trường thọ. Nhiều nghiên cứu đã xác nhận nấm hương chứa một hàm lượng chất khoáng rất phong phú, nhất là kali. Ngoài ra, nó còn có các loại vitamin B2, D, PP, protein, chất xơ, lipid, và polisacarit giúp nâng cao sức đề kháng của cơ thể. Nấm hương có rất nhiều tác dụng, trong đó có 10 tác dụng lớn là: Hạ huyết áp, ngăn ngừa hình thành cục máu đông làm tắc mạch, giảm cholesterol, giảm béo, chữa viêm khớp, giảm albumin niệu, làm tăng interferon trong cơ thể, phòng ngừa suy lão, phòng trị ung thư, chữa tàn nhang. Một số món ăn bài thuốc: Viêm gan mạn hay giảm bạch cầu: Nấm hương tươi 100g, thịt lợn nạc 100g thái miếng, cho cùng nấm vào nồi nấu thành canh, tra đủ mắm muối vừa miệng, ăn cái uống nước. Cần ăn 1-2 lần/ngày, trong nhiều ngày. Tăng huyết áp, bệnh mạch vành, xơ cứng động mạch, tiểu đường: Nấm hương 15g rửa sạch, bí xanh 500g thái miếng cùng cho vào nồi nấu thành canh, tra mắm muối, hành là được. Ăn cái, uống nước, ngày 1-2 lần trong nhiều ngày liền. Viêm dạ dày, thiếu máu, sởi: Nấm hương 100g, rửa sạch thái nhỏ, gạo tẻ 100g, thịt bò luộc thái lát 50g. Tất cả cho vào nồi nấu nhừ thành cháo, nêm hành, gừng, muối, vừa đủ để ăn. Mỗi ngày ăn 1-2 bữa. Cần ăn một thời gian mới hiệu nghiệm. Bạch Công Tấn sưu t ầm
  20. (Theo SK & ĐS 5 bài thuốc dành cho chị em Cập nhật lúc 13h38" , ngày 24/09/2007 Ngày nay có rất nhiều chị em gặp phải “sự cố tình dục” nhưng vẫn ráng chịu đựng, không dám kêu ca với ai. Vậy mà từ xa xưa, y học cổ truyền đã nghiên cứu để đưa ra các giải pháp hữu hiệu giúp chị em giải quyết những vấn đề không biết nói cùng ai. Con gái mới lấy chồng, “sinh hoạt” bị đau... Tình trạng đau kéo dài, nhức nhối khó chịu. Nguyên nhân là do khí uất và huyết kém điều hòa. Bài thuốc: Sinh địa 12g, xuyên quy 16g, bạch thược 8g, xuyên khung 6g, hương phụ 8g, hồng hoa 6g, sắc uống nóng. Khi “sinh hoạt vợ chồng” ra máu Máu ra nhiều, không chỉ lần đầu mới ra, kèm theo các triệu chứng: đau đầu, chóng mặt, hay cáu gắt, miệng đắng, rìa lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, tai ù, khó ngủ, nặng thì thêm chứng đỏ mắt. Nguyên nhân là do can hỏa quá thịnh mà sơ tiết ra quá chừng. Bài 1: Hoàng k ỳ 6g, thăng ma 4g, trần bì 3g, bạch truật 4g, sài hồ 2g, đại táo 2 quả, cam thảo 2g, quy thân (củ đương quy bỏ rễ) 4g, đảng sâm 8g, gừng tươi 3 lát, sắc uống. Bài 2: Dùng trong trường hợp đau eo lưng, miệng khô, mắt hoa, tai ù, gò má đỏ, lòng bàn chân, bàn tay nóng, hay nhức trong xương, “sinh hoạt vợ chồng” hay ra máu. Mạch môn 12g, thục địa 12g, sơn thù 8g, bạch linh 8g, ngũ vị 8g, hoài sơn 12g, đan bì 8g, trạch tả 6g, sắc uống. Bài 3: Dùng trong trường hợp âm hộ đau như kim châm. Thục địa 12g, xuyên khung 8g, xa tiền 12g, xuyên quy 12g, bạch thược 8g, ngưu tất 8g, sắc uống. Bài 4: Dùng trong trường hợp cứ mỗi lần “sinh hoạt” là thấy ra máu ở cửa mình. Đảng sâm 30g, bạch linh 20g, long nhãn 15g, táo nhân10g, cam thảo 5g, đương quy 20g, thục địa 15g, bạch truật 10g, hoàng k ỳ 10g. Sắc uống bình Bạch Công Tấn sưu t ầm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2