intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lao động nữ dân tộc thiểu số huyện Võ Nhai - tỉnh Thái Nguyên với phát triển kinh tế hộ gia đình

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

56
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở phía Đông- Bắc tỉnh Thái Nguyên, lao động nữ dân tộc thiểu số ở khu vực nông thôn chiếm một tỷ lệ trên 65,27% trong tổng số lao động nữ ở huyện. Trong số này tập trung chủ yếu là dân tộc Tày và Nùng trên 70%. Lực lượng lao động nữ dân tộc thiểu số có độ tuổi trẻ, tập trung chủ yếu ở độ tuổi 15 đến 44.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lao động nữ dân tộc thiểu số huyện Võ Nhai - tỉnh Thái Nguyên với phát triển kinh tế hộ gia đình

Ngô Xuân Hoàng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 94(06): 153 - 159<br /> <br /> LAO ĐỘNG NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN VÕ NHAI<br /> - TỈNH THÁI NGUYÊN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH<br /> Ngô Xuân Hoàng*, Nguyễn Thị Vân Chi<br /> Trường Cao đẳng Kinh tế -Kỹ thuật – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở phía Đông- Bắc tỉnh Thái Nguyên, lao động nữ dân tộc thiểu số<br /> ở khu vực nông thôn chiếm một tỷ lệ trên 65,27% trong tổng số lao động nữ ở huyện. Trong số<br /> này tập trung chủ yếu là dân tộc Tày và Nùng trên 70%. Lực lượng lao động nữ dân tộc thiểu số có<br /> độ tuổi trẻ, tập trung chủ yếu ở độ tuổi 15 đến 44. Trình độ văn hoá và chuyên môn của lao động<br /> nữ dân tộc thiểu số còn thấp trên 68% tốt nghiệp Tiểu học và Trung học cơ sở, trên 90% chưa qua<br /> đào tạo nghề, khá chênh lệch so với lao động dân tộc Kinh. Lao động nữ dân tộc thiểu số tham gia<br /> chủ yếu vào các hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp (trên 87,7%), tỷ lệ lao động nữ tham gia vào<br /> các cấp chính quyền đoàn thể trong những năm qua có tăng nhưng so với nam còn thấp hơn nhiều<br /> (bình quân dưới 14,3% các chức danh). Tuy nhiên lao động nữ có vai trò rất quan trọng trong việc<br /> tạo ra thu nhập và phát triển kinh tế gia đình.<br /> Từ khóa: Lao động nữ dân tộc thiểu số, phát triển, kinh tế hộ<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ*<br /> Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở phía Đông<br /> - Bắc tỉnh Thái Nguyên, cách Thành phố Thái<br /> Nguyên 37 km dọc theo tuyến quốc lộ 1B và<br /> cách thị trấn Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn 80km.<br /> Toàn huyện có 14 xã và 1 thị trấn được chia<br /> làm 3 tiểu vùng có đặc điểm địa hình tương<br /> đối khác biệt: Tiểu vùng 1: Gồm 6 xã vùng<br /> cao thích hợp cho sản xuất nông - lâm nghiệp<br /> kết hợp trồng cây đặc sản. Tiểu vùng 2 gồm 3<br /> xã và 1 thị trấn dọc đường quốc lộ 1B thích<br /> hợp cho sản xuất cây hàng năm, cây lâu năm,<br /> phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu<br /> xây dựng. Tiểu vùng 3 gồm 5 xã phía Nam<br /> phát triển cây công nghiệp ngắn ngày và các<br /> loại cây ăn quả. Năm 2011, toàn huyện có<br /> 63.143 nhân khẩu phân bố có các dân tộc anh<br /> em, dân tộc Kinh 36,57%; Tày 22,12%, dân tộc<br /> Nùng 19,58%, dân tộc Dao 13,2%, dân tộc H'<br /> Mông 4,1%, dân tộc Sán Chay chiếm 4,13%,<br /> dân tộc khác chiếm 0,3%. Trong tổng số<br /> 18.163 lao động nữ thì lao động nữ là người<br /> dân tộc thiểu số chiếm 65,27%, trong đó dân<br /> tộc Tày, Nùng, Dao chiếm đại đa số trên 70%.<br /> Trong bài viết này chúng tôi muốn đề cập đến<br /> vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số, những<br /> khó khăn đang cản trở sự tiến bộ của họ trong<br /> phát triển kinh tế gia đình. Trên cơ sở đó tìm<br /> *<br /> <br /> ra những giải pháp nhằm tạo điều kiện cho<br /> phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng, phụ nữ ở<br /> huyện Võ Nhai nói chung phát huy thế mạnh,<br /> khai thác nguồn lực để phát triển kinh tế hộ<br /> tăng thu nhập, cải thiện đời sống gia đình và<br /> xã hội.<br /> PHƯƠNG PHÁP VÀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU<br /> NGHIÊN CỨU<br /> Để tiến hành nghiên cứu chúng tôi đã thu thập<br /> số liệu trên địa bàn huyện và hộ nông dân để<br /> điều tra. Các chỉ tiêu: Tỷ lệ lao động nữ tham<br /> gia lực lượng lao động phân theo nhóm tuổi;<br /> Trình độ chuyên môn, kỹ thuật của lao động<br /> nữ khu vực thành thị và nông thôn; Tỷ lệ<br /> người có việc làm; Tỷ lệ thất nghiệp; Sự tham<br /> gia của lao động nữ trong các ngành kinh tế;<br /> Phân chia công việc hàng ngày trong gia đình:<br /> Sử dụng quỹ thời gian của người phụ nữ…<br /> Các phương pháp chuyên gia, chuyên khảo,<br /> điều tra nhanh nông thôn, phân tích định<br /> lượng, thống kê kinh tế… đã được sử dụng để<br /> thu thập, phân tích thông tin, số liệu để đảm<br /> bảo tính chính xác của kết quả nghiên cứu.<br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> Đặc điểm của lao động nữ dân tộc thiểu số<br /> 1. Dân tộc thiểu số của huyện gồm: chủ yếu<br /> là người Tày, Nùng, Dao là những người bản<br /> xứ sống ở đây từ rất lâu đời. Họ sống chủ yếu<br /> ở những vùng thấp, gần đường giao thông, có<br /> 153<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Ngô Xuân Hoàng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> đất ruộng, đất vườn nhiều, đời sống kinh tế<br /> khá giả hơn nhóm dân tộc thiểu số khác.<br /> Người H’Mông, Sán Chí, Sán Dìu, Mường,<br /> Thái chiếm tỷ lệ rất nhỏ (8,5%). Họ di cư từ<br /> các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn... đến<br /> Võ Nhai, tập sinh sống tập trung chủ yếu ở<br /> trên những vùng núi cao, đi lại rất khó khăn,<br /> xa trung tâm, xa chợ, đất ruộng rất ít, chủ yếu<br /> canh tác trên đất đồi núi và trồng các loại cây<br /> lương thực như: ngô, sắn, đời sống của họ gặp<br /> nhiều khó khăn.<br /> 2. Lao động nữ dân tộc thiểu số theo các<br /> nhóm tuổi: Lực lượng lao động nữ dân tộc<br /> thiểu số phần lớn tập trung trong nhóm tuổi từ<br /> 15-34 (chiếm gần 60%). Đây là nhóm tuổi lao<br /> động chính trong hộ gia đình nhưng cũng đây<br /> là nhóm tuổi ở độ sinh sản, điều này cũng ảnh<br /> hưởng tới công việc và thu nhập của hộ gia<br /> đình. Số liệu cho thấy điều bất cập là lao động<br /> chính trong nhóm tuổi 15-24 chiếm tỷ trọng<br /> cao nhất (30,14%) và giảm dần đến nhóm tuổi<br /> trên 55. Đây là lượng lao động trẻ còn thiếu<br /> kinh nghiệm làm ăn, nếu không được quan<br /> tâm, giúp đỡ để họ nâng cao trình độ<br /> chuyên môn, kiến thức và vốn thì họ sẽ gặp<br /> nhiều khó khăn khi trở thành lao động chính<br /> của gia đình.<br /> 3. Cơ cấu lao động nữ dân tộc thiểu số theo<br /> thành phần dân tộc: Trong tổng số lao động<br /> nữ (18.163 người) thì lao động nữ là người<br /> dân tộc thiểu số chiếm 65,27%, trong đó dân<br /> tộc Tày, Nùng, Dao chiếm đại đa số trên 70%.<br /> Xem xét cơ cấu lao động nữ dân tộc thiểu số<br /> theo dân tộc, ta nhận thấy, tỷ lệ lao động<br /> trong nhóm tuổi từ 15-24 cao, tiếp đến là lao<br /> động trong nhóm tuổi từ 25-34. Tuy nhiên<br /> nếu xét lượng lao động trên 55 tuổi thì nhóm<br /> dân tộc như: Nùng, Sán Chay chiếm tỷ lệ cao<br /> hơn trong cùng nhóm tuổi, đây là lực lượng<br /> lao động phụ làm các công việc như: chăn<br /> nuôi, làm việc nhà, chăm sóc gia đình...; tuy<br /> nhiên lực lượng lao động này tương đối quan<br /> trọng trong mỗi gia đình ở khu vực nông<br /> thôn. Nhưng nếu so với nhóm dân tộc đa số<br /> như Kinh thì tỷ lệ lao động trên 55 tuổi thấp<br /> hơn, đây là sự khác biệt giữa lao động dân tộc<br /> thiểu số với nhóm đa số. Sự khác biệt về cơ<br /> <br /> 94(06): 153 - 159<br /> <br /> cấu lao động của các dân tộc thiểu số còn<br /> được thể hiện trong các nhóm tuổi. Trong<br /> nhóm lao động trẻ nhưng kinh nghiệm thấp<br /> (nhóm 15 -24 tuổi) có tỷ lệ cao nhất là dân tộc<br /> H’Mông, tiếp đến là các dân tộc như Nùng,<br /> Dao. Ở các nhóm tuổi khác có sự thay đổi rõ<br /> rệt, ở các nhóm tuổi từ 25-44 thì các dân tộc<br /> như Kinh và Tày có cơ cấu cao hơn các dân<br /> tộc khác và thấp nhất vẫn là các dân tộc như<br /> Sán Chay hay Dao.<br /> 4. Trình độ học vấn của lao động nữ dân tộc<br /> thiểu số: Nghiên cứu riêng về trình độ học<br /> vấn của các lao động nữ dân tộc thiểu số và<br /> so sánh với lao động nữ của huyện, chúng ta<br /> thấy: lao động nữ là dân tộc thiểu số chủ yếu<br /> học hết Tiểu học chiếm 39,17%, Tỷ trọng lao<br /> động nữ dân tộc thiểu số có trình độ Trung<br /> học cơ sở và Trung học phổ thông thấp hơn<br /> so với tỷ trọng của lao động nữ trong toàn<br /> huyện. Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát<br /> từ quan niệm còn nặng nề ở nhóm dân tộc<br /> thiểu số là “trọng nam”. Những đối tượng<br /> tham gia học đến Trung học phổ thông, theo<br /> thống kê của phòng giáo dục huyện chủ yếu<br /> là đối tượng chính sách và học ở trường nội<br /> trú chiếm 65,77% tổng số học sinh tốt nghiệp<br /> Trung học cơ sở và học lên Trung học phổ<br /> thông, một số lượng ít học ở trường Trung<br /> học phổ thông quốc lập khác.<br /> 5. Trình độ chuyên môn kỹ thuật: Trong tổng<br /> số lực lượng lao động nữ ở khu vực nông<br /> thôn là 17.655 người, thì lao động nữ là dân<br /> tộc thiểu số chiếm 72%, còn lại lao động nữ<br /> là dân tộc Kinh chiếm 28%. Với số lượng<br /> đông đảo như vậy, nhưng lực lượng này phần<br /> lớn là chưa qua lớp đào tạo nghề chiếm<br /> 95,67%. Lượng lao động nữ là người dân tộc<br /> thiểu số qua đào tạo nghề chiếm tỷ trọng rất<br /> nhỏ (2,06%). Trong khi đó, lượng lao động<br /> nữ là người dân tộc Kinh tham gia đào tạo<br /> nghề chiếm tỷ lệ 7,55% trong tổng số lao<br /> động nữ dân tộc Kinh ở khu vực nông thôn.<br /> Qua đây ta thấy có sự khác biệt rất rõ về cơ<br /> cấu trình độ giữa lao động nữ là người dân tộc<br /> thiểu số với lao động nữ là người Kinh (nếu<br /> so với lao động là nam thì sự chênh lệch này<br /> còn cao hơn.<br /> <br /> 154<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Ngô Xuân Hoàng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 94(06): 153 - 159<br /> <br /> Bảng 01. Trình độ chuyên môn của lao động nữ dân tộc thiểu số của huyện năm 2010<br /> <br /> Trình độ chuyên môn<br /> Tổng số<br /> 1. Chưa qua đào tạo<br /> <br /> Lao động nữ là<br /> Dân tộc thiểu số<br /> Số lượng<br /> Tỷ lệ (%)<br /> (người)<br /> 12714<br /> 100<br /> <br /> Lao động nữ là<br /> Dân tộc kinh<br /> Số lượng<br /> Tỷ lệ (%)<br /> (người)<br /> 4941<br /> 100<br /> <br /> 12164<br /> <br /> 95,67<br /> <br /> 4213<br /> <br /> 85,27<br /> <br /> 2. Đã qua đào tạo nghề và tương đương<br /> <br /> 261<br /> <br /> 2,06<br /> <br /> 373<br /> <br /> 7,55<br /> <br /> 3. Trung học chuyên nghiệp trở lên<br /> <br /> 289<br /> <br /> 2,27<br /> <br /> 355<br /> <br /> 7,18<br /> <br /> Nguồn: Niên giám thống kê huyện Võ Nhai năm 2010<br /> <br /> Vai trò chủ yếu của lao động nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ<br /> Bảng 02. Lao động việc làm của lao động dân tộc thiểu số ở khu vực nông thôn huyện Võ Nhai năm 2010<br /> Các chỉ tiêu phản ánh<br /> <br /> ĐVT<br /> <br /> Tổng số<br /> <br /> 1. Dân số trong độ tuổi lao động<br /> 2. Dân số hoạt động kinh tế<br /> 3. Dân số không hoạt động kinh tế<br /> 4. Tỷ lệ tham gia lực lượng LDBQ<br /> 5. Tỷ lệ người có việc làm BQ<br /> 6. Tỷ lệ thất nghiệp BQ<br /> <br /> Người<br /> Người<br /> Người<br /> %<br /> %<br /> %<br /> <br /> 12.232<br /> 12.715<br /> 2.908<br /> 0,93<br /> 92,18<br /> 7,76<br /> <br /> Phân theo giới<br /> Nam<br /> nữ<br /> 5.852<br /> 6.380<br /> 5.975<br /> 6.740<br /> 1.493<br /> 1.415<br /> 0,92<br /> 0,935<br /> 91,25<br /> 93,11<br /> 8,75<br /> 6,89<br /> <br /> Nguồn: Phòng lao động và TBXH, Võ Nhai<br /> <br /> 1. Lao động, việc làm của lao động nữ dân<br /> tộc thiểu số: Xét trên toàn huyện, tổng số lao<br /> động trong độ tuổi có việc làm ở khu vực<br /> nông thôn là 33.725 người chiếm 97,6%, còn<br /> lại tỷ lệ thất nghiệp chiếm 2,4%. Xét riêng lao<br /> động dân tộc thiểu số cho thấy: Tổng số<br /> lượng lao động dân tộc thiểu số khu vực nông<br /> thôn trong độ tuổi hoạt động kinh tế là 12.232<br /> người, lao động nữ chiếm 0.52%. Tổng số lao<br /> động tham gia hoạt động kinh tế là 12.715,<br /> chia ra lao động nữ là 0.53%, còn lại 47% lao<br /> động nam. Tổng số lao động không hoạt động<br /> kinh tế là 2.908, chia ra lao động nữ là 49%,<br /> còn lại 51% lao động nam. Như vậy, tỷ lệ<br /> những người không tham gia lao động của<br /> nam cao hơn nữ giới. Trong số này, phần lớn<br /> là những người già, người ốm đau bệnh tật.<br /> Đây chính là số lượng người “ăn theo”, điều<br /> này cũng ảnh hưởng tới kinh tế của các hộ gia<br /> đình cũng như ảnh hưởng tới quá trình phát<br /> triển kinh tế xã hội của huyện. Tỷ lệ lao động<br /> nữ có việc làm cao hơn lao động nam. Sở dĩ<br /> như vậy, là vì lao động nữ có thể làm những<br /> công việc gia đình, làm việc phụ (đan, lát, thêu<br /> <br /> thùa...), còn lao động nam thường tham gia các<br /> công việc đòi hỏi sức lực hơn, mạnh mẽ và<br /> nặng nhọc hơn. Điều đó dẫn tới tỷ lệ thất<br /> nghiệp của lao động nữ dân tộc thiểu số thấp<br /> hơn so với lao động nam.<br /> 2. Sự tham gia của lao động nữ dân tộc thiểu<br /> số trong các ngành sản xuất: Do đặc điểm<br /> riêng của người phụ nữ do vậy rất thích hợp<br /> với các ngành nghề như trồng trọt, chăn nuôi,<br /> buôn bán chiếm 52,64%. Như vậy lao động<br /> người dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng<br /> trong hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp.<br /> Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất của ngành<br /> này, cần quan tâm giải quyết vấn đề liên quan<br /> đến lực lượng lao động là người dân tộc thiểu<br /> số nói chung, lao động nữ dân tộc thiểu số nói<br /> riêng. Đó là các vấn đề: nâng cao năng lực<br /> trong sản xuất cũng như trong quản lý hộ gia<br /> đình. Nếu xét lực lượng lao động theo cơ cấu<br /> ngành thì trong tổng số lao động nam các hoạt<br /> động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chiếm<br /> tỷ trọng cao nhất, chiếm 56,95% tiếp đến là lĩnh<br /> vực thương mại và dịch vụ trong chiếm 27,53%<br /> và cuối cùng là lao động trong lĩnh vực công<br /> 155<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Ngô Xuân Hoàng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> nghiệp và xây dựng chiếm 1,52%. Điều này<br /> phản ánh nét đặc thù của một huyện cơ cấu<br /> GDP chủ yếu dựa vào sản xuất nông lâm<br /> nghiệp. Như vậy, trong những năm tới để<br /> nâng cao tổng thu nhập cho toàn huyện cần<br /> chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp<br /> theo hướng bền vững và đầu tư cho chất<br /> lượng nguồn lao động ở khu vực nông thôn.<br /> Đối với lao động nữ là dân tộc thiểu số, lượng<br /> lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất<br /> nông-lâm nghiệp chiếm gần 90% tổng số lao<br /> động nữ dân tộc thiếu số (cao hơn gần 4% cơ<br /> cấu so với mặt bằng chung của huyện). Trong<br /> lĩnh vực này công việc tạo ra thu nhập chính<br /> cho gia đình là trồng trọt, chăn nuôi đại gia<br /> súc, tiểu gia súc và gia cầm. Trong nhóm dân<br /> tộc thiểu số thì người Nùng, H’Mông, Sán<br /> Chay có tỷ lệ tham gia vào hoạt động nông<br /> nghiệp còn cao hơn dân tộc khác. Riêng<br /> những lao động tham gia vào lĩnh vực dịch vụ<br /> thương mại chủ yếu tập trung vào những hộ<br /> gia đình có điều kiện thuận lợi về đường giao<br /> thông, gần đường, gần trung tâm.<br /> 3. Lao động nữ dân tộc thiểu số tham gia<br /> quản lý hộ và điều hành sản xuất: Phụ nữ<br /> ngoài thiên chức làm mẹ, họ còn có vai trò<br /> hết sức quan trọng đối với các hoạt động lớn<br /> nhỏ của hộ. Để xem xét vai trò của nữ trong<br /> quản lý hộ và việc ra các quyết định sản xuất,<br /> chúng tôi phân chia các tiêu chí đánh giá theo<br /> mức độ kinh tế của các hộ dân tộc thiểu số ở<br /> 3 vùng sinh thái. Kết quả được tổng hợp trong<br /> bảng 03 cho thấy tỷ lệ nữ dân tộc thiểu số làm<br /> chủ hộ ở cả 3 vùng đều chiếm tỷ lệ nhỏ so với<br /> nam giới, tỷ lệ này có sự phân hoá giữa các<br /> nhóm hộ có mức thu nhập khác nhau. Ở các<br /> vùng, tỷ lệ nữ tham gia quản lý hộ và điều<br /> hành sản xuất chiếm tỷ lệ cao ở các hộ khá,<br /> thấp nhấp ở các hộ nghèo. Qua đây, cho ta<br /> nhận xét, có sự ảnh hưởng của mức sống tới<br /> vai trò của lao động nữ dân tộc thiểu số, có sự<br /> bất bình đẳng trong việc gia quyết định trong<br /> hộ, giữa nam và nữ.<br /> Số liệu trong bảng 03 chỉ rõ các vùng khác<br /> nhau, nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số,<br /> với các phong tục, tập quán riêng pha trộn với<br /> văn hóa người Kinh đã làm nên sự khác biệt.<br /> Ở Thần Sa, nơi tập trung các dân tộc như<br /> Dao, Sán Chay, H’Mông có tỷ lệ nữ làm chủ<br /> hộ rất thấp (gần bằng 1/2 các vùng khác), còn<br /> <br /> 94(06): 153 - 159<br /> <br /> ở vùng khác như Phú Thượng đây là nơi tập<br /> trung dân tộc Tày, Nùng sống xen kẽ với<br /> người Kinh nên có sự đồng đều và công bằng<br /> hơn về vai trò quản lý hộ, điều hành sản xuất.<br /> 4. Lao động nữ dân tộc thiểu số trong việc ra<br /> quyết định phân công lao động trong hộ:<br /> Trong 3 xã nghiên cứu thì lao động nam<br /> thường làm những công việc nặng như cày<br /> bừa, chặt tre, lấy gỗ... còn lao động nữ ngoài<br /> các công việc chăm sóc gia đình như nấu<br /> cơm, giặt giũ, lấy nước, lấy củi họ còn tham<br /> gia vào các hoạt động sản xuất như gieo hạt,<br /> chăm sóc, thu hoạch và bán các sản phẩm.<br /> Đối với các công việc chăn nuôi gia súc<br /> người phụ nữ đảm nhận công việc như chọn<br /> giống, chăm sóc. . . Sự bình đẳng trong công<br /> việc gia đình cũng như trong các hoạt động<br /> sản xuất có thể thấy rất rõ qua các công việc<br /> mà người phụ nữ và người đàn ông đảm nhận.<br /> Nếu xét về hoạt động trồng trọt thì lao động<br /> nữ ở các hộ có điều kiện tham gia vào công<br /> việc trong khâu làm đất chiếm 13,07% còn<br /> phụ nữ ở các hộ không có điều kiện tham gia<br /> vào công việc trong khâu làm đất chiếm<br /> 16,65%. Trong các công việc khác cũng vậy<br /> đều có sự chênh lệch về mức độ tham gia vào<br /> các công việc của lao động nữ trong hai nhóm<br /> hộ. Tại xã Tràng Xá thì phần lớn bà con dân<br /> tộc có mức thu nhập thấp, công việc chính là<br /> trồng trọt, chăn nuôi, trình độ văn hoá thấp<br /> dẫn đến việc sử dụng lao động vào các công<br /> việc không phù hợp. Giữa nam và nữ có sự<br /> bất công trong công việc tham gia các hoạt<br /> động xã hội. Trên 50% nam giới được tham<br /> gia các buổi họp, điều này càng làm thêm<br /> khoảng cách hiểu biết giữa nam và nữ. Điều<br /> tra ở 3 vùng nghiên cứu thì hầu hết đều nhận<br /> được các ý kiến cho rằng lao động nữ đã bị sử<br /> dụng vào những công việc vất vả, không phù<br /> hợp. Xã Tràng Xá là nơi mà lao động nữ ít<br /> được học hành, công việc chủ yếu là làm<br /> nông nghiệp do vậy mức độ vất vả của người<br /> phụ nữ cao nhất (chiếm 51,73%); trong khi đó<br /> ở các vùng khác thấp hơn như xã Thần Sa<br /> (chiếm 39,83%), xã Phú Thượng (chiếm<br /> 38,24%). Qua số liệu ta thấy sự bất bình đẳng<br /> giữa lao động nam và nữ trong phân công các<br /> công việc của nông hộ. Ngoài thời gian tham<br /> gia lao động sản xuất, phụ nữ còn bận rộn với<br /> biết bao công việc như công việc nội trợ<br /> (8,3%); công việc lấy củi (6,7%); chăm sóc<br /> con cái (4,2%); công tác xã hội (1,7%).<br /> <br /> 156<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Ngô Xuân Hoàng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 94(06): 153 - 159<br /> <br /> Bảng 03. Tỷ lệ nữ dân tộc thiểu số làm chủ hộ và tham gia quản lý hộ<br /> Xã Thần Sa<br /> Khá<br /> TB<br /> nghèo<br /> 1. Hộ DT kinh (165 hộ)<br /> +Tỷ lệ nữ làm chủ hộ 17,22 15,57<br /> 11,65<br /> +Tỷ lệ nữ tham gia<br /> 41,05 33,25<br /> 16,36<br /> quản lý điều hành SX<br /> 2. Hộ DT thiểu số (255 hộ)<br /> +Tỷ lệ nữ làm chủ hộ 13,65 11,23<br /> 6,75<br /> +Tỷ lệ nữ tham gia<br /> 32,16 26,34<br /> 14,66<br /> quản lý điều hành SX<br /> Tiêu chí<br /> <br /> Xã Phú Thượng<br /> Khá<br /> TB<br /> nghèo<br /> <br /> Xã Tràng Xá<br /> Khá<br /> TB<br /> nghèo<br /> <br /> 26,42<br /> <br /> 21,13<br /> <br /> 19,32<br /> <br /> 24,77<br /> <br /> 18,73<br /> <br /> 13,92<br /> <br /> 38,38<br /> <br /> 36,83<br /> <br /> 28,31<br /> <br /> 35,29<br /> <br /> 31,40<br /> <br /> 25,12<br /> <br /> 24,35<br /> <br /> 12,19<br /> <br /> 9,43<br /> <br /> 23,42<br /> <br /> 11,79<br /> <br /> 8,25<br /> <br /> 34,37<br /> <br /> 29,41<br /> <br /> 20,19<br /> <br /> 33,28<br /> <br /> 27,45<br /> <br /> 16,32<br /> <br /> Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra<br /> 5. Lao động nữ dân tộc thiểu số trong hoạt<br /> động tiếp cận khoa học kỹ thuật và kiến thức<br /> khuyến nông: Qua thực tế chúng tôi thấy lao<br /> động nữ tiếp nhận các thông tin từ cán bộ kỹ<br /> thuật khuyến nông và từ hội nông dân còn ít,<br /> chủ yếu lao động nữ nông thôn nhận thông tin<br /> từ người chồng (57%), cửa hàng vật tư nông<br /> nghiệp (57,67%), qua chợ (47,33%) hay qua<br /> kinh nghiệm bản thân (42,67%). Việc tham<br /> gia các lớp tập huấn khuyến nông về kỹ thuật<br /> sản xuất nông nghiệp, phần lớn lao động nữ<br /> không được tham dự (chiếm 54,14%). Các<br /> lớp tập huấn về trồng trọt (chiếm 57,67%),<br /> lớp chăn nuôi ( chiếm 36,67%), lớp tập huấn<br /> về làm vườn... tỷ lệ phụ nữ tham gia lớn. Qua<br /> vấn đề này rút ra nhận xét về hiệu quả của<br /> công tác truyền thông. Các thông tin cần<br /> truyền đạt về kiến thức kỹ thuật chưa đến<br /> được người trực tiếp sản xuất, nhất là phụ nữ.<br /> 6. Mức độ kinh tế của các hộ dân tộc thiểu số<br /> khu vực nông thôn huyện Võ Nhai: Qua kết<br /> quả nghiên cứu đã hiện được phần nào vai trò<br /> trò của phụ nữ trong các quyết định về hoạt<br /> động sản xuất mặc dù người phụ nữ không có<br /> vai trò quyết định lớn, đa số họ có quyền<br /> tham gia đóng góp ý kiến, thảo luận, bàn bạc<br /> cùng chồng, nhưng quyết định cuối cùng vần<br /> thường là người chồng. Tuy vậy người quản<br /> lý ngân sách gia đình thường thuộc về nữ<br /> giới. Năm 2010, toàn huyện có 14.193 hộ,<br /> khu vực nông thôn với 12.107 hộ chiếm 85%.<br /> Trong số này nếu căn cứ theo mức thu nhập<br /> thì dân tộc Kinh với 4.638 hộ chiếm 38%, tỷ<br /> lệ hộ có mức thu nhập khá trở lên chiếm<br /> 15,07%, hộ nghèo chiếm 14,23%. Đối với các<br /> <br /> hộ là dân tộc thiểu số (chiếm 62% tổng số<br /> hộ), có sự chênh lệch đáng kể về mức sống.<br /> Phần lớn số hộ dân tộc thiểu số có mức sống<br /> trung bình (bình quân 71,76%), còn hộ nghèo<br /> chiếm 15,53%. Xét riêng những hộ là dân tộc<br /> thiểu số, chúng ta thấy các hộ dân tộc Tày,<br /> Nùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn các dân tộc<br /> thiểu số khác. Theo đánh giá ban đầu khảo<br /> sát, cho thấy nguyên nhân có sự chênh lệch<br /> này phần lớn do sự khác nhau về sở hữu các<br /> tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên, kinh<br /> tế xã hội khác như: giao thông, vị trí gần<br /> trung tâm, gần chợ. Trong các nhóm hộ là dân<br /> tộc thiểu số có mức sống từ khá trở lên chủ<br /> yếu tập trung vào các hộ có nhiều đất canh<br /> tác, đất lâm nghiệp, tham gia công tác chính<br /> quyền địa phương.<br /> Các nhân tố tác động tới vai trò lao động nữ<br /> dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ<br /> 1. Mức độ kinh tế: Qua kết quả nghiên cứu<br /> thu nhập của các hộ, nếu áp dụng theo chuẩn<br /> nghèo giai đoạn 2006-2010 thì tỷ lệ nghèo<br /> của huyện sẽ còn rất cao (200 nghìn<br /> đồng/người/tháng). Cụ thể số liệu cho thấy,<br /> chênh lệch về thu nhập bình quân/ người/năm<br /> của hộ nghèo dân tộc Kinh cao gấp 1,23 lần<br /> so với hộ nghèo dân tộc thiểu số, còn đối với<br /> tiêu dùng cũng vậy, tiêu dùng của hộ người<br /> Kinh cao gấp 1,05 lần so với hộ dân tộc thiểu<br /> số. Chênh lệch về thu nhập giữa hộ giầu với<br /> hộ nghèo là dân tộc thiểu số tới 2,3 lần (23%),<br /> chênh lệch giữa hộ khá, trung bình so với hộ<br /> nghèo dân tộc thiểu số là 1,84 lần (18,4%).<br /> Tương tự như vậy, xét khoảng cách về tiêu<br /> dùng ở các nhóm hộ cũng có sự khác nhau<br /> 157<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
17=>2