ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN HỒNG VÂN

LIÊN KẾT XÚC TIẾN DU LỊCH

KHU VỰC ĐÔNG BẮC

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH

Hà Nội, 2016

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN HỒNG VÂN

LIÊN KẾT XÚC TIẾN DU LỊCH KHU VỰC ĐÔNG BẮC

Chuyên ngành: Du lịch

(Chương trình đào tạo thí điểm)

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ NAM

Hà Nội, 2016

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................3

DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ .......................................................................4

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................5

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................5

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................6

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................9

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................9

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................10

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .........................................................11

7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................11

Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ LIÊN KẾT XÚC TIẾN DU LỊCH .....................12

1.1. Một số khái niệm cơ bản .................................................................................12

1.1.1. Xúc tiến .................................................................................................12

1.1.2. Xúc tiến du lịch ....................................................................................12

1.1.3. Liên kết xúc tiến du lịch .......................................................................14

1.2. Các vấn đề cơ bản trong liên kết xúc tiến du lịch .......................................17

1.2.1. Điều kiện liên kết xúc tiến du lịch .......................................................17

1.2.2. Nội dung liên kết xúc tiến du lịch .......................................................20

1.2.3. Nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch .....................................................28

1.2.4. Vai trò của liên kết xúc tiến du lịch . ...................................................31

1.3. Một số bài học kinh nghiệm về liên kết xúc tiến du lịch .............................33

1.3.1. Khu vực Tây Bắc ...................................................................................33

1.3.2. Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc ........................36

1.3.3. 3 tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa Thiên – Huế ..........................38

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG LIÊN KẾT XÚC TIẾN DU LỊCH KHU VỰC

ĐÔNG BẮC ............................................................................................................40

2.1. Điều kiện liên kết xúc tiến du lịch của khu vực Đông Bắc .........................41

2.1.1. Tài nguyên du lịch ...............................................................................41

2.1.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ................................46

2.1.3. Nguồn nhân lực thực hiện liên kết xúc tiến du lịch ............................50

2.1.4. Chủ trương và chính sách liên kết xúc tiến du lịch ............................54

2.2. Nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc ..............................57

2.3. Nội dung liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc ..................................59

2.2.1. Liên kết xúc tiến du lịch bằng Chương trình du lịch “Qua những miền

di sản Việt Bắc” ..............................................................................................60

2.3.2. Liên kết xúc tiến du lịch qua sự kiện “Ngày hội văn hóa thể thao và du

lịch các dân tộc vùng Đông Bắc” ...................................................................69

2.4. Đánh giá chung ................................................................................................74

2.4.1. Kết quả đạt được ...................................................................................74

2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân ......................................................................74

Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM LIÊN KẾT XÚC TIẾN DU LỊCH

KHU VỰC ĐÔNG BẮC ........................................................................................78

3.1. Căn cứ đề xuất giải pháp ................................................................................78

3.1.1. Quan điểm, mục tiêu liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc .....78

3.1.2. Định hướng về thị trường mục tiêu của khu vực Đông Bắc ...............80

3.1.3. Định hướng về sản phẩm du lịch của khu vực Đông Bắc ..................83

3.1.4. Những định hướng chính do luận văn đề xuất ...................................84

3.2. Giải pháp liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc..................................85

3.2.1. Giải pháp liên kết trong nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm

du lịch ..............................................................................................................85

3.2.2 Giải pháp liên kết trong hoạt động truyền thông, tuyên truyền, quảng

bá du lịch .........................................................................................................91

3.2.3. Giải pháp liên kết trong việc xây dựng thương hiệu du lịch vùng .....92

3.2.4. Giải pháp liên kết trong quản lý điểm đến ...........................................99

3.2.4.1. Xây dựng cơ chế liên kết ....................................................................99

3.3. Một số kiến nghị ............................................................................................102

3.3.1. Đối với các cơ quan Trung ương ........................................................102

3.3.2. Đối với chính quyền và cơ quan quản lý du lịch các tỉnh Đông Bắc

.........................................................................................................................102

KẾT LUẬN ...........................................................................................................105

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................107

PHỤ LỤC ..............................................................................................................111

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATK

:An toàn khu

BVHTTDL

:Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch

Ctr/TU

:Chương trình/Trung ương

TB

:Thông báo

TCDL UBND

:Tổng cục du lịch:Ủy ban nhân dân

TNHH

:Trách nhiệm hữu hạn

TP HCM

:Thành phố Hồ Chí Minh

VHTT&DL

:Văn hóa Thể thao và Du lịch

VPCP

:Văn phòng chính phủ

DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ

Bảng biểu

Bảng 2.1. Các đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp xúc tiến du lịch khu vực Đông

Bắc................................................................................................................51

Bảng 2.2. Cơ cấu trình độ chuyên môn nhân lực tại các Trung tâm thông tin xúc

tiến du lịch các tỉnh Đông Bắc.......................................................................54

Bảng 2.3. Thời gian và đơn vị đăng cai tổ chức chương trình “Qua những miền

di sản Việt Bắc” ..................................................................................................63

Bảng 2.4. Một số chương trình Ngày hội Văn hóa Thể thao và Du lịch các dân

tộc vùng Đông Bắc giai đoạn 2008 - 2015......................................................71

Bảng 3.1. Các sản phẩm du lịch tương thích với từng phân khúc thị trường

du lịch Đông Bắc...................................................... ..........................................87

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, cùng với quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, du lịch được xác định là một trong những ngành

kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế

trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong xu thế toàn

cầu hóa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, du lịch Việt Nam có một vị trí

quan trọng, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, mở rộng giao lưu hợp

tác quốc tế, làm tăng sự hiểu biết, tăng cường quảng bá nền văn hóa giữa các

quốc gia. Vì vậy, xúc tiến du lịch hiện nay đã trở thành một công cụ vô cùng

hiệu quả để thuyết phục và lôi kéo khách du lịch đến với điểm du lịch. Đẩy

mạnh hoạt động xúc tiến du lịch được coi là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm của du lịch Việt Nam nói chung và du lịch của các tỉnh thành trong cả

nước nói riêng. Đặc biệt, nếu có sự liên kết hợp lý trong xúc tiến du lịch giữa

các điểm đến du lịch thì hiệu quả của công tác này ngày càng được nâng cao.

6 tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng,

Bắc Cạn thuộc vùng núi Đông Bắc (phạm vi nghiên cứu của luận văn – lý do

giới thuyết được trình bày trong mục đối tượng và phạm vi nghiên cứu) được

đánh giá là một trong những khu vực có tiềm năng phát triển du lịch lớn với

nhiều thế mạnh như: sự hùng vĩ của cảnh quan thiên nhiên, đa dạng về sắc

màu văn hóa; sự thuần khiết, mộc mạc, mến khách của đồng bào các dân tộc

thiểu số… Vùng đất này cũng lưu giữ nhiều di tích lịch sử ghi lại những chiến

công hiển hách của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài đấu tranh dựng

nước và giữ nước. Đây chính là nguồn tài nguyên vô tận để 6 tỉnh nói trên

khai thác phục vụ phát triển du lịch. Tuy nhiên, để du lịch 6 tỉnh khu vực

5

Đông Bắc phát triển nhanh, mạnh và bền vững thì một trong những hoạt động

quan trọng nhất cần phải thực hiện là liên kết xúc tiến du lịch, nhằm giới

thiệu, quảng bá các sản phẩm du lịch, thu hút khách du lịch, xây dựng và phát

triển thương hiệu du lịch. Hiện nay, công tác liên kết xúc tiến du lịch vẫn

chưa được 6 tỉnh Đông Bắc (mà luận văn giới hạn nghiên cứu) nói riêng và

toàn khu vực Đông Bắc thực sự quan tâm: Thiếu kinh phí khiến việc tham gia

các sự kiện du lịch, hội chợ ở các thị trường không làm nổi bật được hình ảnh

điểm đến; các đợt xúc tiến không kéo dài, mang tính đứt đoạn; cách làm thiếu

chuyên nghiệp vì không chú trọng nghiên cứu, khảo sát kỹ lưỡng thị trường

và lựa chọn hình thức quảng bá hiệu quả nhất… gây nhiều khó khăn cho việc

tiếp cận các thị trường trọng điểm và thu hút khách của du lịch tới khu vực

Đông Bắc. Trong bối cảnh hiện nay: Các tỉnh Tây Bắc mở rộng, vùng đồng

bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, 3 tỉnh Đà Nẵng - Quảng Nam -

Thừa Thiên - Huế... đã có sự liên kết trong xúc tiến du lịch và đạt được nhiều

thành tựu, các tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc cũng có rất nhiều điều kiện thuận

lợi để thực hiện liên kết xúc tiến du lịch (tài nguyên, nguồn nhân lực, các chủ

trương, chính sách, chỉ đạo của các cơ quan nhà nước...), nhằm phát triển du

lịch mạnh mẽ, đem lại lợi ích kinh tế xã hội cho nhân dân địa phương và cho

đất nước. Vấn đề được đặt ra ở đây là các tỉnh khu vực Đông Bắc đã và đang

thực hiện liên kết xúc tiến du lịch ở mức độ nào, cần phải làm gì để đẩy mạnh

công tác đó. Đây cũng chính là lý do để tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Liên

kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc” làm đề tài luận văn của mình. Việc

nghiên cứu để đưa ra được những định hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy phát

triển du lịch ở đây sẽ trở thành mục đích và nội dung nhiệm vụ chính của luận

văn.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Hiện nay, trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu, chuyên

6

khảo đề cập đến xúc tiến du lịch. Tiêu biểu như Ernie H. & Geofrey

W.(1992) “Marketing Tourism Destination”, Davidson R. and Maitland R.

(1997), “Tourism destination”, Morgan, Nigel (1998), “Tourism promotion &

Power: Creating images. Creating identities”, Philip Kotler, Bowen và

Markens (2003) “Marketing for hospitality and Tourism”. Lawton và Weaver

(2005) “Tourism management”, Steven Pike(2008) “Destination Marketing”,

Simon Hudson (2008) “Tourism and Hospitality Marketing”, Eric Law

(1995), Tourist destinional management; Francois Vellas (1999), The

international marketing of travel and tourism; Stephen Page (1995),

TourismUban … Những bài viết này chủ yếu xem xét việc xúc tiến du lịch

theo hướng xúc tiến điểm đến và thiên nhiều về khía cạnh lý thuyết thông

thường hoặc nghiên cứu dựa trên quan điểm tiếp cận vùng/khu du lịch (theo

hệ thống phân vị) và nhấn mạnh cấu trúc mỗi điểm đến du lịch.

Ở Việt Nam, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: Tháng

6/2004, Trường Đại học Thương mại đã tổ chức Hội thảo khoa học Quốc gia

với chủ đề Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến điểm đến du lịch Việt Nam, tuy nhiên

trên 50 bài viết trong Kỷ yếu chưa có bài chuyên khảo nào đề cập đến liên kết

xúc tiến du lịch các tỉnh Đông Bắc.

Bên cạnh đó, còn có các công trình khoa học đã công bố như: Viện

nghiên cứu phát triển du lịch (2005) “Nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh

hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị trường du

lịch quốc tế trọng điểm”, Hoàng Lê Minh (2008) “Tiếp thị trong kinh doanh

du lịch”, Nguyễn Văn Dung (2009) “Chiến lược, chiến thuật quảng bá

marketing du lịch”, Trần Ngọc Nam - Hoàng Anh (2009) “Cẩm nang nghiệp

vụ tiếp thị du lịch & Quy định pháp luật mới về kinh doanh du lịch, nhà hàng,

khách sạn”.

Ngoài ra còn có các luận văn thạc sỹ như: Nguyễn Thu Thủy (2007),

7

“Xây dựng chiến lược xúc tiến du lịchMICE cho điểm đến Hà Nội”, Ngô

Minh Châu (2009), “Hoạt động xúc tiến du lịch Việt Nam tại Trung Quốc”,

Bùi Văn Mạnh (2011), “Nghiên cứu hoạt động xúc tiến du lịch Ninh Bình

giai đoạn 2003 – 2009”, Lê Thành Công (2011), “Hoạt động xúctiến của du

lịch Hải Phòng nhằm thu hút khách du lịch Trung Quốc – Thực trạng và giải

pháp”, Đinh Trà Nhi (2011), “Xây dựng và phát triển thương hiệu du lịch

thành phố Đà Nẵng”. Các luận văn này đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận

về xúc tiến du lịch và đồng thời đi sâu phân tích thực trạng hoạt động xúc tiến

ở một số điểm đến.

Đặc biệt, có một số bài báo, các báo cáo khoa học, các đề tài nghiên

cứu về hoạt động liên kết phát triển du lịch và liên kết xúc tiến du lịch như:

Tạp chí Du lịch Việt Nam, số8/2010, Vụ Thị trường – Tổng cục Du lịch

(2010), “Liên kết xúc tiến du lịch cho các tỉnh Bắc Trung Bộ - Thực trạng và

giải pháp”, Trần Nguyên Trực – Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Khonkean Thái

Lan, “Kinh nghiệm xúc tiến du lịch tại Lào và Thái Lan thông qua các cơ

quan đại diện ngoại giao”, Kỷ yếu Hội thảo liên kết phát triển du lịch các tỉnh

Bắc miền Trung, Nghệ An, 2010.

Tiêu biểu có thể kể tới Thông báo 205/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ

tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng ban chỉ đạo Tây Bắc tại Hội nghị liên kết

phát triển du lịch vùng Tây Bắc và gặp gỡ Ngoại giao đoàn năm 2014 thể hiện

sự chú trọng đến vấn đề liên kết phát triển du lịch nhưng tập trung chủ yếu

vào vùng Tây Bắc, vùng núi Đông Bắc chỉ là sự mở rộng trong chiến lược

phát triển du lịch của Tây Bắc.

Bên cạnh đó, nhiều đề tài nghiên cứu về việc phát triển du lịch của các

tỉnh Đông Bắc cũng đã đề cập đến xúc tiến du lịch nhưng chỉ dừng lại ở mức

độ đơn lẻ chứ chưa tập trung đi sâu tìm hiểu vào vấn đề liên kết xúc tiến du

lịch trong vùng. Vì vậy, có thể đảm bảo đề tài nghiên cứu này không trùng lặp

8

và có hướng đi mới so với các công trình khoa học đã được công bố.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục tiêu nghiên cứu:

+ đề xuất định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công

tác liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc.

- Nhiệm vụ nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ

ngành Du lịch học, tác giả đã tập trung làm rõ:

+ Nghiên cứu tổng quan có chọn lọc những tài liệu lý thuyết về du

lịch, xúc tiến, xúc tiến du lịch, liên kết xúc tiến du lịch.

+ Tìm hiểu và phân tích và đánh giá thực trạng xúc tiến du lịch của

các tỉnh Đông Bắc và thực trạng liên kết xúc tiến du lịch trong vùng.

+ Làm rõ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của việc liên

kết xúc tiến du lịch giữa các tỉnh Đông Bắc.

+ Phát hiện triển vọng của việc liên kết xúc tiến du lịch giữa các tỉnh

Đông Bắc

+ Đề xuất được các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả liên

kết xúc tiến du lịch giữa các tỉnh Đông Bắc

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu hoạt động liên kết xúc

tiến du lịch của các tỉnh Đông Bắc (cơ chế, chính sách, chương trình, hoạt

động xúc tiến để phát triển du lịch của vùng).

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi không gian: nghiên cứu 6 tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc:

Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. (Do

những đặc thù về hệ thống tài nguyên du lịch của vùng Đông Bắc cũng như

trong bối cảnh 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng đã có những bước đi liên kết xúc tiến

9

du lịch mạnh mẽ thì luận văn đã giới hạn đề tài thực hiện trong phạm vi 6 tỉnh

Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Nguyên, chứ

không nghiên cứu toàn bộ vùng Đông Bắc.)

+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2013 – 2015.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phương pháp duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu đề tài là phương pháp

tiếp cận hệ thống, biện chứng, lô gíc và lịch sử. Trong từng chương, theo yêu

cầu nghiên cứu và soạn thảo, người viết sử dụng các phương pháp cụ thể sau:

Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phương pháp này là việc

nghiên cứu những nguồn thông tin thứ cấp thu được từ tài liệu nghiên cứu có

trước, có sẵn. Đó là hệ thống các số liệu và thông tin thể hiện qua các báo cáo,

các tài liệu thống kê có liên quan đến xúc tiến du lịch của các tỉnh Đông Bắc.

Sau khi đã tiếp cận được các nguồn dữ liệu thứ cấp thì tác giả tiến hành so

sánh, phân tích và nhận xét, đánh giá những thông tin trên nhằm sử dụng vào

những nội dung có liên quan trong luận văn.

Phương pháp nghiên cứu thực địa: Tiến hành khảo sát điền dã các

tỉnh Đông Bắc để thu thập thông tin về các nguồn lực phục vụ cho việc

liên kết xúc tiến du lịch của vùng; trực tiếp quan sát, phỏng vấn, ghi âm,

chụp hình, thu thập số liệu và tài liệu tại địa phương. Đây là phương pháp đặc

biệt quan trọng đối với việc thực hiện luận văn, bởi chỉ có thông qua các tư

liệu thực tế và cụ thể mới giải quyết tốt được nội dung mà đề tài đề ra.

Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh: Thu thập, xử

lý nguồn tư liệu thứ cấp (các bài viết, tạp chí, các sách xuất bản tại địa

phương, báo cáo tổng kết số liệu thống kê liên quan đến đề tài...); phân loại

tổng hợp thông tin thông qua các bảng biểu… và so sánh, đối chiếu với

những thông tin thu nhận từ điều tra, phỏng vấn tại thực địa. Sau quá trình

10

phân tích dữ liệu, dùng phương pháp đánh giá để đưa ra nhận xét về thực

trạng liên kết xúc tiến du lịch của vùng Đông Bắc và đề xuất một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả của việc liên kết xúc tiến ấy.Việc xử lý thông tin tốt

sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác cho các luận điểm khoa học của

luận văn.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần hệ thống cơ sở lý thuyết về xúc tiến

du lịch và liên kết xúc tiến du lịch.

Ý nghĩa thực tiễn: Liên kết vùng trong xúc tiến du lịch là một trong

những biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến du lịch cho các địa

phương trong một vùng, đặc biệt trong điều kiện nguồn lực cho các hoạt động

xúc tiến du lịch của từng địa phương còn nhiều hạn chế. Liên kết xúc tiến du

lịch giúp quảng bá hiệu quả hơn về điểm đến, về sản phẩm du lịch và dịch vụ

du lịch của địa phương. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc liên kết xúc

tiến du lịch ở các tỉnh trong khu vực Đông Bắc chưa được đẩy mạnh và gặp

nhiều hạn chế. DO đó, việc nghiên cứu, đề xuất các định hướng và giải pháp

đẩy mạnh liên kết xúc tiến du lịch của các tỉnh khu vực Đông Bắc đáp ứng

được tính thời sự, có ý nghĩa thực tiễn.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn bao gồm 3

chương:

- Chương 1. Tổng quan về liên kết xúc tiến du lịch

- Chương 2. Thực trạng liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

11

- Chương 3. Giải pháp liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ LIÊN KẾT XÚC TIẾN DU LỊCH

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Xúc tiến

Theo Từ điển tiếng Việt thì “xúc tiến” có nghĩa là làm cho tiến triển

nhanh hơn.

Các nhà kinh tế Đông Âu cho rằng “xúc tiến là một công cụ, một chính

sách thương mại nhằm làm năng động và gây ảnh hưởng định hướng giữa

người mua và người bán, là một hình thức hoạt động tuyên truyền nhằm mục

đích đạt được sự chú ý và chỉ ra những lợi ích của khách hàng tiềm năng về

hàng hóa và dịch vụ” [14, tr. 6].

Theo Philip Kotler, xúc tiến là “hoạt động thông tin marketing tới

khách hàng tiềm năng” mà marketing được hiểu là “một quá trình quản lý

mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được những gì họ cần

và mong muốn, thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi những sản phẩm

có giá trị với những người khác” [18, tr. 10].

Như vậy, bản chất của hoạt động xúc tiến là truyền tin về sản phẩm và

doanh nghiệp tới khách hàng để thuyết phục họ mua. Đó chính là việc sử

dụng những công cụ truyền thông để thúc đẩy việc bán hàng cũng như giúp

khách hàng hiểu thêm về doanh nghiệp, về sản phẩm của doanh nghiệp.

1.1.2. Xúc tiến du lịch

Theo khoản 17, điều 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Xúc

tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, vận động nhằm tìm kiếm,

thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch”.

Đây là một quan niệm khá rộng về xúc tiến du lịch, bao hàm từ việc

12

tuyên truyền, quảng cáo về điểm đến, nâng cao nhận thức xã hội, huy động

nguồn lực, tìm kiếm cơ hội phát triển du lịch… Tuy nhiên, có thể khái quát

khái niệm này ở 3 nội dung cơ bản sau:

- Một là tạo nên sự thu hút du lịch bằng việc truyền tải thông tin, hình

ảnh hấp dẫn về điểm đến.

- Hai là tuyên truyền tạo dựng sự đồng thuận trong nhận thức và hành

động của cộng đồng dân cư.

- Ba là thúc đẩy sự phát triển du lịch nhằm tăng sự hấp dẫn đối với thị

trường khách mục tiêu của điểm đến

Điều 79. Luật Du lịch Việt Nam (2005) cũng đã xác định xúc tiến du

lịch gồm 4 nội dung sau:

(1). Tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi về đất nước, con người, văn hóa

Việt Nam; các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, di tích cách mạng, di sản

văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người, bản sắc văn hoá dân

tộc cho nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế;

(2). Nâng cao nhận thức xã hội về du lịch, tạo môi trường du lịch văn

minh, lành mạnh, an toàn, phát huy truyền thống mến khách của dân tộc;

(3). Huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển các đô thị du lịch, khu

du lịch, điểm du lịch đa dạng, độc đáo, có chất lượng cao, mang đậm bản sắc

văn hoá dân tộc trong cả nước, từng vùng và từng địa phương; phát triển kết

cấu hạ tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch, đa dạng hoá và nâng cao chất

lượng các dịch vụ du lịch;

(4). Nghiên cứu thị trường du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch phù hợp

với thị hiếu khách du lịch; tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm du lịch” [15].

Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm xúc tiến du

lịch nêu trên để nhìn nhận việc 6 tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam Cao

Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang cùng hợp

13

tác trong công tác xúc tiến du lịch chung cho khu vực. Tức là luận văn coi

khu vực Đông Bắc (6 tỉnh nói trên) là một điểm đến du lịch (một vùng lãnh

thổ bao gồm nhiều tỉnh có quan hệ mật thiết về điều kiện địa chính trị, địa

kinh tế, địa nhân văn…)

1.1.3. Liên kết xúc tiến du lịch

Theo Từ điển Tiếng Việt, liên kết có nghĩa là “gắn chặt với nhau”, là

kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc từ nhiều tổ chức riêng rẽ để cùng

hợp sức thực hiện một hoạt động gì đó. Hay nói một cách khác, liên kết là các

chủ thể tham gia hoạt động này gắn bó chặt chẽ đồng thời có mối quan hệ

biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau về một vấn đề hay một lĩnh vực cụ thể

nào đó. Mục đích của sự liên kết này nhằm tạo ra sự đồng nhất về kết quả và

điều quan trọng hơn cả là tạo ra được sức mạnh tổng hợp đưa các đối tượng

tham gia hoạt động liên kết phát triển lên một tầm cao mới.

Nhìn dưới góc độ du lịch, việc liên kết giữa các tỉnh (thành phố)/ vùng

là xu thế chung hiện nay vì mỗi địa phương đều có những lợi thế nhất định.

Tuy nhiên, điều quan trọng là từng điểm đến riêng lẻ này chưa khai thác hiệu

quả những nguồn lực đó để phục vụ cho việc phát triển du lịch nói riêng và

phát triển kinh tế địa phương nói chung. Một trong những nguyên do chính

xuất phát từ việc sản phẩm/dịch vụ du lịch ở mỗi nơi còn phát triển tự phát,

đơn điệu, manh mún, không thu hút khách du lịch; hình ảnh về điểm đến mờ

nhạt; sản phẩm du lịch liên tục bị sao chép và kém chất lượng… Do đó, việc

cấp thiết cần phải làm ngay là liên kết giữa các tỉnh thành, vùng với nhau để

cùng tạo ra một sức mạnh tổng hợp trong phát triển du lịch.

Mục tiêu của việc liên kết ở đây chính là tạo ra thị trường mới cũng

như mở rộng thêm thị trường, xác lập sự ổn định mới cho sản phẩm du lịch

nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm đó với những sản phẩm khác

cùng loại. Liên kết nhằm xây dựng những điểm mạnh, điểm nổi bật của vùng

14

liên kết thành điểm du lịch nổi bật và có sức lan tỏa. Trong xu thế hội nhập

quốc tế, du lịch của mỗi nước, mỗi tỉnh chỉ có thể phát triển mạnh hơn trong

thế liên kết hợp tác.Vì vậy mà các tỉnh trong vùng cần có sự hợp tác, liên kết

để phát triển hơn nữa nâng cao sức cạnh tranh với các vùng khác.

Việc liên kết sẽ giúp cho việc hình thành những cơ chế chung trong chỉ

đạo, điều hành, khuyến khích phát triển du lịch của vùng, mở rộng liên kết

song phương giữa hai tỉnh và đa phương với nhiều tỉnh khác nhau. Phạm vi

liên kết càng mở rộng thì sự quảng bá, tạo sản phẩm, xây dựng chính sách,

đào tạo nguồn nhân lực càng được quan tâm và mở rộng hơn theo quy mô liên

kết đó. Việc bắt tay vào liên kết sẽ giúp cho việc tạo nên nền tảng tương đối

đồng bộ để bắt đầu bước vào giai đoạn mới với những thách thức và cơ hội

đặt ra cho những vùng liên kết.

Như vậy, để phát triển du lịch, các địa phương cần phải liên kết, hỗ trợ

nhau phát huy lợi thế, khai thác các nguồn lực một cách hợp lý. Do vậy, đẩy

mạnh hợp tác, liên kết xúc tiến, quảng bá du lịch là việc làm cần thiết để tạo

sức mạnh chung. Các sản phẩm du lịch sẽ không hấp dẫn du khách nếu không

có sự gắn kết liên vùng.

Một đặc thù trong hành vi mua sản phẩm du lịch là người mua thường

ít biết rõ về sản phẩm mình muốn mua. Trong tiến trình mua sản phẩm du

lịch, sau khi xác định loại hình du lịch, du khách sẽ lựa chọn điểm đến. Tuy

nhiên, khi lựa chọn điểm đến, đa phần du khách vẫn còn khá mơ hồ về các

điểm đến du lịch có thể lựa chọn. Vì vậy, một điểm đến nếu cung cấp được

cho du khách các thông tin đầy đủ, kịp thời và tin cậy để du khách có thể hiểu

hơn và nhận thấy những nét hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu du lịch, khả năng

thanh toán cũng như quỹ thời gian của mình, rõ ràng sẽ có ưu thế lớn hơn

trong việc thu hút du khách.

Chính vì vậy, giống như các sản phẩm khác và khác biệt hơn các sản

15

phẩm khác, sản phẩm du lịch đòi hỏi một nỗ lực to lớn trong quảng bá xúc

tiến sản phẩm. Ngoài ra, do du khách phân bố phân tán ở nhiều nơi xa điểm

đến nên nó thường vượt khỏi khả năng quảng bá của một doanh nghiệp, một

địa phương. Do vậy, sự liên kết xúc tiến được phối hợp giữa các doanh

nghiệp du lịch khác nhau, các điểm đến du lịch khác nhau dưới sự điều tiết

của các cơ quan có thẩm quyền là hết sức cần thiết.

Mặt khác, tâm lý của phần đông khách du lịch là muốn trải nghiệm

nhiều điểm đến trong chuyến du lịch của mình. Do đó, trước khi quyết định

thực hiện một chuyến du lịch nào đó, khách du lịch thường tìm kiếm và lựa

chọn các điểm đến cho chuyến lữ hành của mình phù hợp tính chất chuyến đi,

độ dài thời gian… đặc biệt là khách đến từ thị trường xa. Du khách châu Âu ít

khi chọn Việt Nam là điểm đến duy nhất trong hành trình của mình mà sẽ là

cả Việt Nam, Lào và Campuchia, hay khi chọn tour dài ngày đi du lịch vùng

miền núi phía Bắc, du khách sẽ chọn nhiều hơn một tỉnh Tây Bắc (Đông Bắc).

Như vậy, liên kết xúc tiến du lịch tức là các địa phương (tỉnh/thành

phố, điểm đến) hợp tác với nhau trong quảng bá du lịch nhằm tạo hiệu ứng

hình ảnh du lịch chung cho toàn vùng, cũng như củng cố và gia tăng sức

mạnh cho hình ảnh du lịch của chính địa phương mình. Thông qua chương

trình liên kết này sẽ giúp các địa phương tương trợ lẫn nhau; giảm thiểu lãng

phí tài nguyên; mở rộng thị trường… đặc biệt là tạo ra sức mạnh tổng lực

trong việc thiết lập và quảng bá hình ảnh và thương hiệu du lịch cho toàn

vùng. Do đó, có thể thấy công tác liên kết xúc tiến du lịch sẽ mang lại hiệu

quả hơn nhiều so với việc các các tỉnh/thành phố/điểm đến tiến hành xúc tiến

đơn lẻ.

Tóm lại, liên kết xúc tiến du lịch trong khuôn khổ nghiên cứu này là

việc các địa phương cùng hợp tác chặt chẽ trong công tác quảng bá du lịch là

một trong những hình thức quảng bá du lịch hiệu quả nhất thúc đẩy hoạt động

16

du lịch phát triển mạnh mẽ. Đây cũng là một trong những yêu cầu quan trọng

trong phát triển “ngành công nghiệp không khói” bởi lẽ nếu không có hoạt

động liên kết xúc tiến thì điểm đến du lịch của những vùng này sẽ không có

sự thu hút cũng như không được nhiều khách chú ý. Vì thế khi liên kết phát

triển du lịch cần phải liên kết cả về xúc tiến và quảng bá du lịch.

1.2. Các vấn đề cơ bản trong liên kết xúc tiến du lịch

1.2.1. Điều kiện liên kết xúc tiến du lịch

1.2.1.1. Điều kiện về tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên

hoạt động du lịch và đưa đến sự phát triển của du lịch. Đây cũng là một trong

những điều kiện tiên quyết để tạo nên sự gắn kết giữa các địa phương với

nhau trong xúc tiến du lịch. Bởi vì, muốn tạo ra hình ảnh biểu trưng mang

tính đại diện cho toàn vùng thì mỗi địa phương phải có một hệ thống tài

nguyên du lịch đa dạng, phong phú và đặc biệt là có sức hấp dẫn du khách.

Tài nguyên du lịch càng phong phú và đặc sắc thì việc liên kết để nhằm tạo ra

các tour, tuyến phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch sẽ càng nhiều.

Đồng thời, giữa các địa phương phải có sự tương đồng nhất định về mặt tài

nguyên tự nhiên cũng như nhân văn để có thể liên kết xây dựng sản phẩm du

lịch đặc thù và thuận lợi trong việc quảng bá sản phẩm ấy ra thị trường. Từ đó

có thể xây dựng những tour du lịch liên tỉnh theo hình thức du tuyến du lịch

chủ đề, cùng lúc có thể kết hợp được nhiều tài nguyên du lịch giữa các địa

phương với nhau tạo sự thích thú cho du khách.

1.2.1.2. Điều kiện về hệ thống cơ sở vật chất k thuật, cơ sở hạ tầng

Ở đây bao gồm hệ thống đường giao thông, các cơ sở phục vụ cho hoạt

động như khách sạn, nhà hàng, các cơ sở vui chơi giải trí… Đường giao thông

thuận tiện, được nâng cấp và tu sửa thường xuyên sẽ giúp cho khoảng cách di

chuyển giữa các địa điểm du lịch sẽ được giảm xuống, thời gian di chuyển sẽ

17

nhanh hơn. Đây là một trong những yếu tố được bàn đến khi diễn ra sự liên

kết trong phát triển du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng.

Bởi lẽ, không phải bất cứ một địa phương nào cũng có hệ thống đường giao

thông đ p và hiện đại, vì vậy khi liên kết với nhau thì việc hoàn thiện các trục

đường về giao thông và có sự đồng bộ như nhau là rất cần thiết.

Liên kết xúc tiến du lịch cũng đòi hỏi phải có đầu tư trong việc xây

dựng các khách sạn hoặc nhà nghỉ có cùng tiêu chuẩn sao hoặc đạt tiêu chuẩn

để phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi của du khách; xây dựng hệ thống các nhà hàng

cũng như chất lượng trong các nhà hàng theo kiểu tạo thành các cơ sở có

tiếng; xây dựng các khu resort, khu vui chơi tạo sự thoải mái cho du khách.

1.2.1.3. Điều kiện về nguồn nhân lực du lịch

Đào tạo nguồn nhân lực, sự luân chuyển nguồn nhân lực lao động trong

ngành du lịch từ các địa phương có sự liên kết tạo nên sự đa dạng về việc hiểu

biết về phông văn hóa của các địa phương khác nhau, trao đổi học hỏi kinh

nghiệm lẫn nhau trong quá trình phục vụ khách du lịch. Đó là việc mở các lớp

tập huấn trong công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực lao động, đào tạo thêm

kiến thức cho những nhân lực lao động này, đào tạo thêm về kĩ năng nghiệp

vụ nhằm nâng cao hơn nữa trình độ của mình trong việc phục vụ khách du

lịch từ đó tạo sự hài lòng với khách du lịch.

Nguồn nhân lực du lịch cần có sự tương đồng về trình độ để có thể tạo

nên sự đồng đều về chất lượng, bên cạnh đó cũng cần có nguồn nhân lực được

đào tạo bài bản và chất lượng cao để có thể tiến hành sự liên kết về mặt này

khi các vùng hoặc địa phương liên kết còn yếu về việc đào tạo, chất lượng đội

ngũ nguồn nhân lực còn thấp.

1.2.1.4. Điều kiện về chủ trương và chính sách

Khi đề cập đến vấn đề chủ trương, chính sách Nhà nước trong xúc tiến

18

du lịch, Điều 80. Luật Du lịch (2005) đã quy định:

“1. Nhà nước quy định cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước

về du lịch ở trung ương và địa phương với các tổ chức, cá nhân kinh doanh

du lịch trong việc thực hiện hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du

lịch.

2. Bộ, ngành, cơ quan thông tin đại chúng trong phạm vi nhiệm vụ và

quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước

về du lịch ở trung ương tổ chức hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du

lịch ở trong nước và nước ngoài.

3. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng chuyên gia,

phương tiện thông tin đại chúng nước ngoài tham gia vào hoạt động tuyên

truyền, quảng bá nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người, du lịch Việt

Nam.

4. Nhà nước khuyến khích và có biện pháp nhằm nâng cao nhận thức

về du lịch cho các cấp, các ngành, các tầng lớp dân cư trong xã hội” [15].

Dựa trên cơ sở đó, có thể thấy việc liên kết xúc tiến du lịch là một trong

những hướng đi, định hướng cho việc phát triển du lịch trong những năm tới,

đặc biệt khi diễn ra sự liên kết xúc tiến du lịch thì việc đưa ra các chủ trương

cho sự phát triển về du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng là

một trong những việc làm hết sức quan trọng; đòi hỏi cần có sự họp bàn giữa

các bên tham gia nhằm thảo luận để đề ra các chủ trương, nêu ý kiến và góp ý

để có thể đặt ra một hướng đi đúng đắn nhất cùng với những chiến lược hiệu

quả và giải pháp khả thi trong liên kết xúc tiến du lịch. Đồng thời thông qua

chủ trương phát triển này các địa phương trong vùng sẽ không bị phát triển

lệch hướng.

Các chính sách sau khi tiến hành liên kết ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích

cũng như sự phát triển của cả vùng trong vấn đề xúc tiến du lịch. Bởi vì, các

19

địa phương khi tiến hành liên kết phải đưa ra những chính sách hợp lí dựa trên

sự đồng thuận chung sau khi có sự bàn bạc để tạo điều kiện thuận lợi cho du

lịch phát triển. Nếu không có sự thống nhất về các chính sách sẽ dẫn đến sự

lệch nhau về các vấn đề mà khi liên kết diễn ra đã bàn bạc và thống nhất.

Những chính sách này cùng phải dựa trên những đặc điểm về du lịch

của từng vùng, từng địa phương để bàn bạc và đưa ra chính sách cuối cùng

nhằm tạo ra sự thuận lợi nhất cho mỗi địa phương. Trên cơ sở thuận lợi của

từng địa phương đó sẽ tạo sự thuận lợi cho cả vùng phát triển du lịch. Đây

chính là hành lang pháp lí giúp cho sự liên kết đi tới thành công.

1.2.2. Nội dung liên kết xúc tiến du lịch

Căn cứ các nội dung về xúc tiến du lịch đã nêu ở trên thì liên kết xúc

tiến du lịch được thực hiện với 4 nội dung sau:

1.2.2.1. Liên kết trong nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm du lịch

Du lịch là ngành công nghiệp không khói có tiềm năng phát triển cực kì

lớn. Trong thời đại toàn cầu hóa, việc di chuyển, tham quan và du lịch giữa

các quốc gia ngày nay đã trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Khách du lịch vì

thế mà vô cùng đa dạng, đến từ nhiều tầng lớp khác nhau, cùng với thói quen

và hành vi tiêu dùng khác nhau. Ngược lại, ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực,

ngành công nghiệp du lịch phát triển hay không, dịch vụ du lịch được đầu tư

đến đâu cũng là điều du khách quan tâm. Để kết nối được cung và cầu, các tổ

chức và doanh nghiệp cần nắm rõ thị trường du lịch mà họ đang nhắm tới để

đưa ra những chiến lược phát triển hợp lí.

Đối với quy mô vùng, việc các địa phương cùng liên kết nghiên cứu thị

trường du lịch mục tiêu và thị trường du lịch tiềm năng là điều cấp thiết. Việc

hiểu biết về nhóm khách hàng mục tiêu và thói quen tiêu dùng du lịch của họ

sẽ giúp điểm đến tìm ra biện pháp thích hợp để đưa sản phẩm du lịch của

20

mình vào thị trường một cách thành công.

Qua việc liên kết nghiên cứu thị trường, các địa phương sẽ hình thành ý

tưởng phát triển một sản phẩm mới mang tính đặc thù của toàn vùng và lựa

chọn chiến lược định vị đúng cho sản phẩm đó tại từng thị trường cụ thể.

Nhờ việc liên kết này, các địa phương cũng giảm thiểu lãng phí tiền bạc và

công sức so với hoạt động nghiên cứu thị trường một cách độc lập.

1.2.2.2. Liên kết trong hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, truyền thông, quan

hệ công chúng

Liên kết trong hoạt động quảng cáo là việc các địa phương cùng thống

nhất quan điểm và hành động để có chung những hoạt động quảng cáo về sản

phẩm, dịch vụ cũng như môi trường du lịch của mình. Tùy vào tình hình thực

tế, các nhóm địa phương khi liên kết với nhau trong quảng cáo có thể chọn

các hình thức sau:

- Xuất bản và phát hành ấn phẩm thông tin: là một hình thức xúc tiến,

quảng bá truyền thông. Ấn phẩm thông tin là tất cả những dạng in ấn hoặc

điện tử được thiết kế nhằm tạo ra sự nhận biết đối với khách hàng hiện tại và

tiềm năng, kích thích nhu cầu và ham muốn về một sản phẩm hay điểm đến

cụ thể nào đó. Do vậy, việc các địa phương tổ chức liên kết xuất bản và phát

hành ấn phẩm thông tin sẽ tạo được hình ảnh ấn tượng, thông điệp hướng dẫn

về điểm đến du lịch/vùng du lịch trên các ấn phẩm truyền thông sẽ có tác

động mạnh mẽ đến việc thu hút khách du lịch hiện tại cũng như khơi gợi sự tò

mò khám phá điểm đến đối với những khách du lịch tiềm năng.

- Trưng bày du lịch và phim ảnh du lịch: là hình thức quảng cáo thông

qua các phòng trưng bày du lịch của một địa phương hay chiếu các cuộn phim

về địa phương hoặc điểm du lịch của mình để thu hút khách. Hiện nay, hình

thức này đang được tận dụng triệt để trong các chương trình liên kết nội vùng

21

và liên vùng du lịch.

- Quảng cáo hoán đổi: là việc các doanh nghiệp du lịch và các cơ quan

truyền thông hợp tác với nhau trong quảng cáo trên cơ sở các hợp đồng thỏa

thuận.

- Quảng cáo hợp tác: là cách mà các doanh nghiệp du lịch vẫn tăng

cường quảng cáo được mà lại giảm chi phí. Các doanh nghiệp dàn xếp để

quảng cáo chung cho cả vùng và chi phí được phân chia đều cho các doanh

nghiệp tham gia quảng cáo.

Quan hệ công chúng là cách thức hoạt động tạo dựng duy trì và phát

triển các mối quan hệ với các tầng lớp công chúng khác nhau. Hoạt động này

nhằm tạo ra một ấn tượng tốt, một hình ảnh đ p trong công chúng là cho công

chúng yêu thích doanh nghiệp, qua đó để đính chính những thông tin nhiễu và

loại bỏ các thông tin sai lệch.

Liên kết quan hệ công chúng trong xúc tiến du lịch được thực hiện

thông qua các công cụ như báo cáo, các bài thuyết trình, các tài liệu, số liệu,

hình ảnh/âm thanh và những hoạt động dịch vụ khác có liên quan đến điểm

đến/nhóm điểm đến du lịch. Khi thực hiện liên kết trong hoạt động xúc tiến

du lịch này, phải đảm bảo những quyết định chủ yếu sau: xác định mục tiêu

(tạo ra sự biết đến, tạo dựng sự tín nhiệm, trợ giúp cho lực lượng bán hàng và

giảm bớt chi phí khuyến mãi), lựa chọn thông điệp và công cụ quan hệ với

công chúng (thường là các bài viết về điểm đến du lịch), luôn đảm bảo tính

chính xác của các thông tin được đăng tải, đánh giá kết quả quan hệ với công

chúng (sử dụng các phương pháp như đo lường số lần thông tin có thể xuất

hiện, đo lường sự thay đổi thái độ của khách hàng với điểm đến du lịch, đo

lường sự thay đổi của doanh số và lợi nhuận của điểm đến du lịch).

Tùy vào tình hình phát triển du lịch tại các địa phương mà việc liên kết

xúc tiến quan hệ công chúng có thể chọn công cụ là các phương tiện truyền

22

thông đại chúng hay các sự kiện về du lịch như:

- Quan hệ với báo chí: thông cáo báo chí, các cuộc họp báo, tổ chức

cho các nhà báo đi thực tế để thu lượm thông tin về điểm đến du lịch…

- Xuất bản ấn phẩm: báo cáo hàng năm, cuốn sách nhỏ, những bài báo,

những tư liệu nghe nhìn hay những bài viết ngắn gọn về điểm đến du lịch trên

các báo…

- Tạo các sự kiện để thu hút sự chú ý của công chúng đến điểm du lịch:

hội nghị báo chí, hội thảo chuyên đề, triển lãm, lễ kỉ niệm…

- Tin tức về điểm đến du lịch được đăng tải trên báo hoặc các phương

tiện thông tin đại chúng khác.

- Tạo ra những đặc điểm nhận dạng nổi bật về điểm đến du lịch

Hoạt động liên kết trong xúc tiến du lịch còn được thể hiện ở việc các

địa phương trong vùng cùng tổ chức các chương trình phát động thị trường,

giới thiệu điểm đến, với mục đích chính là tạo ra những đợt tuyên truyền

quảng bá lớn cho toàn vùng. Mục đích của hoạt động này là nhằm phục hồi

thị trường khi có dấu hiệu tăng giảm hoặc chững lại và tạo ra ấn tượng tốt,

một hình ảnh tốt trong công chúng làm cho công chúng yêu thích điểm đến.

Hội chợ, triển lãm du lịch là một phương tiện tiếp cận, là nơi những

người điều hành chương trình du lịch đến để tìm mua các chương trình du lịch

mới cung cấp cho khách hàng của họ. Hình thức phổ biến nhất là diễn đàn

mở, nơi các điểm đến du lịch mua các gian hàng và những người mua được

miễn phí khi đến thăm và gặp gỡ với những ai thu hút sự chú ý của họ. Hội

chợ du lịch cũng cho phép các điểm đến sắp xếp, lên kế hoạch các cuộc gặp

gỡ trực tiếp với các đại lý du lịch, những người mua truyền thống và tiềm

năng. Mục đích của các hội chợ triển lãm du lịch là cho những người bán và

người mua gặp nhau và thực hiện giao dịch, là cơ hội tốt để nhân viên tiếp thị

điểm đến vừa có thể thiết lập các mạng lưới quan hệ với nhau, vừa có thể thu

23

thập thông tin về đối thủ cạnh tranh.

Nhìn nhận từ góc độ liên kết xúc tiến du lịch thì hình thức hội chợ, triển

lãm du lịch hiện nay đang được triệt để khai thác nhằm tăng cường hình ảnh

điểm đến/khu vực tới khách hàng mục tiêu và khách hàng tiềm năng. Các Hội

chợ, triển lãm du lịch thường niên cấp vùng, quốc gia hay quốc tế không chỉ

là nơi gặp gỡ, trao đổi, giao thương của các nhà chuyên nghiệp du lịch gồm

những người mua và những người bán mà còn phục vụ cả quảng đại công

chúng (những khách hàng tiềm năng).

Truyền thông có một vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội. Hiện nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ kỹ

thuật số, Internet - sự ra đời của các phương tiện truyền thông mới đã và đang

làm thay đổi cơ bản hoạt động sống của con người, tác động sâu sắc, đa dạng,

phong phú đến “món ăn” tinh thần hàng ngày, đến “bữa tiệc thông tin” của

công chúng. Trong một thế giới công nghệ thông tin phát triển và ngày càng

phát triển, tác động rất lớn vào công tác dẫn dắt thông tin, truyền bá, thậm chí

là luôn sẵn sàng bùng phát và đảm nhận luôn vai trò “định hướng dư luận”.

Khai thác các kênh truyền thông trong xúc tiến du lịch là việc sử dụng

mạng Internet kết hợp với các phương tiện truyền thông thích hợp khác để

xúc tiến sản phẩm và dịch vụ khách hàng.

Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin ngày càng nhiều

người sử dụng mạng Internet để đặt hàng trực tuyến với những lý do sau đây:

- Tiện lợi: bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu đều có thể đặt hàng trực tuyến

- Thông tin: khách hàng có thể thu nhận thông tin về các hãng lữ hành,

khách sạn và thông tin tại điểm đến

- Giá cả: nhờ mạng Internet người tiêu dùng có thể so sánh giá cả của

các hãng do đó họ có thể chọn được giá rẻ hơn.

Hiện nay, từ “liên kết” đang trở thành trào lưu trên các phương tiện

24

truyền thông, và cũng được sử dụng rất nhiều trong báo chí, trong đó nó

không tách rời 3 cụm từ phổ biến nhất: “Liên kết để phát huy lợi thế so sánh”,

“Liên kết để phát triển bền vững” và “Liên kết để nâng cao sức cạnh tranh”.

Truyền thông là quan trọng, nhưng truyền thông cái gì phải căn cứ vào những

giá trị cốt lõi. Khi một chiến lược đưa có tính chất “liên kết” cũng theo

nguyên tắc chung cần có thông điệp và hành động cụ thể để hiện thực “tính

chất liên kết” đó, đó chính là những giá trị cốt lõi cho truyền thông để nhận

được sự ủng hộ của nhiều người hơn, để sớm và vững trong việc hoàn thành

mục tiêu.

Khi “liên kết” trong truyền thông, trước hết phải thể hiện rõ sự liên kết

trong mối quan hệ chung thông điệp, chung mục tiêu, trên tinh thần WIN -

WIN, chia sẻ hay cộng hưởng nguồn lực để đạt mục tiêu chung.

Trong liên kết xúc tiến du lịch thông qua các kênh truyền thông, ngoài

vấn đề quảng bá hình ảnh, các địa phương cần nghiên cứu, chia sẻ những kinh

nghiệm, hợp tác trong công tác in ấn, xuất bản, phát hành những tài liệu tuyên

truyền, tổ chức các hoạt động truyền thông như triển lãm hình ảnh, hội chợ,

hội thảo, hội nghị, tổ chức các hoạt động cộng đồng, nâng cao ý thức bảo vệ

môi trường, thân thiện với du khách để hướng tới mỗi người dân đều nhận

thức rõ vai trò là đại sứ du lịch, và cùng chung tay bảo vệ những giá trị văn

hóa vật thể và phi vật thể, những gì do thiên nhiên ban tặng và con người đã

tạo dựng.

Trong khối (quần thể) liên kết cần có một thương hiệu nhận diện chung

thể hiện cho mối liên kết, trong đó sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp

là yếu tố quan trọng và quyết định sự thành công.

Ngoài những sản phẩm truyền thông, công cụ truyền thông, hướng

truyền thông thì liên kết trong bộ máy thực thi truyền thông rất quan trọng,

25

đặc biệt là website quảng bá du lịch của tỉnh mình, địa phương mình, khu vực

mình. Chính nguồn lực này cần triển khai liên kết tốt trong công tác truyền

thông để đạt được mục tiêu chung.

1.2.2.3. Liên kết trong xây dựng thương hiệu du lịch của vùng

Thương hiệu là sự khẳng định của một quá trình phát triển, về những

giá trị tiêu biểu tích cực được thị trường ghi nhận. Hiện nay, phát triển thương

hiệu là nhiệm vụ quan trọng của các quốc gia, điểm đến, đặc biệt trong bối

cảnh cạnh tranh ngày càng gia tăng và tiến trình toàn cầu hoá ngày một sâu

rộng. Yêu cầu tạo ra sự nhận diện rõ ràng, sức cạnh tranh cao đòi hỏi các quốc

gia, các điểm đến, vùng du lịch, địa phương, doanh nghiệp phải quan tâm đến

công tác xây dựng và phát triển thương hiệu.

Trong giai đoạn phát triển du lịch hiện nay, các vùng du lịch, các địa

phương đã dần hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật,

phát triển nhiều loại hình sản phẩm du lịch, định hình dần những hình ảnh về

du lịch. Sự liên kết giữa các địa phương trong mỗi vùng cũng được đẩy mạnh

và là nhu cầu phát triển hiện nay, phù hợp với bối cảnh và trình độ phát triển

của du lịch Việt Nam. Chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch

Việt Nam đã đặt ra các giải pháp phát triển du lịch theo 7 vùng du lịch rõ rệt

phù hợp với xu hướng và yêu cầu phát triển hiện nay. Điều này cũng phù hợp

với việc đẩy mạnh vai trò của các Vùng du lịch, các địa phương và các doanh

nghiệp tại các địa phương, phát triển mạnh thành các điểm đến với các thương

hiệu riêng lớn mạnh, đóng vai trò như các trụ cột quan trọng của thương hiệu

du lịch Việt Nam nói chung.

Như vậy có thể thấy, vai trò và việc phát triển thương hiệu du lịch

Vùng là rất quan trọng. Một mặt nhằm đẩy mạnh sự phát triển và hình thành

rõ nét được các thương hiệu nhánh, định hình rõ các vùng, mặt khác là cột trụ

vững chãi cho quá trình phát triển thương hiệu quốc gia.

26

1.2.2.4. Liên kết trong quản trị điểm đến du lịch

Thuật ngữ Quản lý điểm đến được hiểu là quản lý chiến lược và tiếp thị

các điểm đến du lịch. Trong phạm vi này, điểm đến được xem như một đơn vị

riêng biệt có cạnh tranh thị trường, cạnh tranh với các điểm đến khác. Như

vậy, liên kết trong quản lý điểm đến là thông qua hợp tác giữa các nhà cung

cấp dịch vụ, để đảm bảo chuỗi dịch vụ liên tục trong những điểm đến và tiếp

thị (ví dụ như dịch vụ lưu trú, các nhà cung cấp dịch vụ giải trí cũng như một

số điểm tham quan trong vùng).

Điều này nên được thực hiện mà không chịu sự ảnh hưởng của chính trị

và của các doanh nghiệp tư nhân để các điểm đến phát triển một chiến lược

riêng biệt. Một trong những mục tiêu của liên kết quản lý điểm đến là việc

loại bỏ các xung đột về lợi ích của nhà cung cấp dịch vụ, vì họ thường tự coi

mình là các đối thủ cạnh tranh.

Việc liên kết quản lý điểm đến nên được thực hiện với hình tam giác

của tính bền vững, tức là ưu tiên áp dụng một sự cân bằng thích hợp giữa các

yếu tố sinh thái, kinh tế và xã hội.

Việc kiên kết trong quản lý điểm đến sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho du

lịch vùng, bởi vì đây là hoạt động nhằm thiết lập một vị trí mạnh mẽ và độc

đáo - nghĩa là cung cấp các trải nghiệm khác nhau so với các điểm đến khác

(bằng cách phát triển sự hấp dẫn của điểm đến, làm nổi bật đặc điểm độc đáo

của nó). Vì vậy, liên kết quản trị điểm đến đòi hỏi một cách tiếp cận phối hợp

quản lý dựa trên một tầm nhìn tập thể, quan hệ đối tác mạnh mẽ và đảm bảo

phát triển bền vững. Quản lý tốt có thể giúp tránh được những xung đột xã

hội và văn hóa và ngăn chặn những tác động tiêu cực từ du lịch đến lối sống

truyền thống của cư dân địa phương. Điều quan trọng hơn cả là liên kết trong

quản lý điểm đến sẽ phân phối lợi ích du lịch giữ a các địa phương một cách

hợp lý (hỗ trợ phát triển sản phẩm và kinh nghiệm dựa vào cộng đồng, thúc

27

đẩy du lịch nông thôn, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ, khai thác các

tiềm năng của ngành công nghiệp thủ công mỹ nghệ v.v..). Đồng thời, liên kết

quản trị điểm đến còn giúp nâng cao năng suất du lịch thông qua tập trung

phát triển không gian và marketing vào thị trường mục tiêu. Điều này sẽ gia

tăng sức hấp dẫn cho điểm đến, góp phần kéo dài thời gian lưu trú trung bình

của du khách, tăng chi tiêu bình quân đầu người và làm giảm tính thời vụ

không mong muốn…

1.2.3. Nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch

1.2.3.1. Thống nhất quan điểm liên kết

Liên kết phát triển du lịch là xu thế tất yếu của thời đại. Các địa phương

tham gia liên kết phải thống nhất quan điểm phát triển du lịch chung, trong đó

bao gồm cả quan điểm liên kết xúc tiến du lịch. Nếu coi xúc tiến du lịch là

một trong những chương trình phát động thị trường quan trọng nhất thì việc

liên kết xây dựng chương trình xúc tiến du lịch giữa các địa phương trong một

vùng có ý nghĩa vô cùng to lớn. Bởi vì, một chương trình xúc tiến du lịch hợp

lý sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp cho toàn vùng chứ không chỉ đối với một địa

phương riêng lẻ.

Việc này chỉ có thể thực hiện được khi từng cá thể nhìn nhận đúng đắn

vai trò của xúc tiến du lịch và liên kết xúc tiến du lịch trên phạm vi khu vực.

Các địa phương phải vì lợi ích chung cho toàn vùng, vì hình ảnh du lịch, vì sự

nhận diện thương hiệu du lịch của vùng, tránh tư tưởng cục bộ địa phương,

dựa dẫm, ỷ lại vào đơn vị bạn. Đã là liên kết thì mọi đối tượng tham gia đều

có trách nhiệm và quyền lợi ngang nhau, tất cả đều hướng tới mục tiêu đưa

hình ảnh du lịch của khu vực ra thị trường một cách hiệu quả nhất.

1.2.3.2. Xác định nhiệm vụ và mục tiêu liên kết xúc tiến

Mục tiêu liên kết xúc tiến phải chỉ ra được kết quả cuối cùng muốn đạt

được, còn nhiệm vụ liên kết xúc tiến chỉ ra làm cách nào để đạt được mục tiêu

28

đó. Như vậy, trong liên kết xúc tiến du lịch, các nhiệm vụ mà hàng loạt tổ

chức xúc tiến du lịch cấp địa phương và cấp vùng thực hiện có thể là: thu hút

khách du lịch tiềm năng tới khu vực, duy trì hoặc cải thiện hình ảnh chung

của toàn vùng, giới thiệu thông tin về các sản phẩm/dịch vụ du lịch, tạo dựng

uy tín của các đơn vị kinh doanh du lịch, sửa các thông tin không chính xác

hoặc thiếu đầy đủ về điểm đến hoặc về sản phẩm đang chào bán. Ngoài ra,

đơn vị chịu trách nhiệm xúc tiến du lịch cũng phải đáp ứng các nhu cầu thông

tin của các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch trong vùng, đồng

thời chủ trì, điều phối các chương trình xúc tiến chung của vùng.

1.2.3.3. Đồng thuận trong quyết định ngân sách xúc tiến

Căn cứ theo mục tiêu và đối tượng truyền thông để quyết định ngân

sách cho hoạt động này. Đối với du lịch của một vùng, việc xác định ngân

sách xúc tiến thường dựa trên 3 phương pháp cơ bản: phương pháp căn cứ

khả năng, phương pháp cân bằng cạnh tranh và phương pháp căn cứ vào mục

tiêu và nhiệm vụ.

Phương pháp căn cứ khả năng: nhiều tổ chức du lịch quyết định ngân

sách xúc tiến ở mức độ mà tổ chức có thể chấp nhận được trong giai đoạn nào

đó. Phương pháp này hoàn toàn không có căn cứ khoa học vì nó bỏ qua sự tác

động của xúc tiến đối với sự trở lại của khách du lịch. Ngân sách xúc tiến

hàng năm không ổn định nên việc lập kế hoạch marketing chiến lược dài hạn

gặp khó khăn.

Phương pháp cân bằng cạnh tranh: để đạt được sự cân bằng về cạnh

tranh trên thị trường, các công ty, tổ chức căn cứ vào chi phí của các đối thủ

trên thị trường và điều chỉnh ngân sách xúc tiến. Phương pháp này thiếu khoa

học và hiệu quả không cao vì các mục tiêu và phương pháp xúc tiến của các

đối thủ cạnh tranh là luôn khác nhau và thay đổi bất kỳ khi nào.

Phương pháp căn cứ vào nhiệm vụ và mục tiêu: đây là phương pháp

29

phù hợp để xác định ngân sách xúc tiến du lịch. Phương pháp này đòi hỏi tổ

chức quản lý du lịch thiết kế ngân sách dựa trên xác định cụ thể các mục tiêu,

nhiệm vụ cần được thực hiện. Chi phí cho công việc được cộng lại, tổng số

chính là chi phí xúc tiến.

Xác định ngân sách xúc tiến du lịch cho mỗi địa phương đã khó, việc

xác định ngân sách xúc tiến trên quy mô hợp tác khu vực lại càng khó khăn

hơn. Thông thường sẽ có 2 hình thức:

- Một là các địa phương tham gia liên kết tự xác định ngân sách cho

chương trình xúc tiến của mình (những phần tham gia liên kết) sau đó tự

chuẩn bị tất cả những vấn đề có liên quan đến chương trình liên kế xúc tiến,

không có vai trò trung gian của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào.

- Hai là một tổ chức quản lý hành chính nhất định sẽ dựa trên chương

trình liên kết xúc tiến đã thực hiện và phương hướng (dự báo) chương trình

hành động trong thời gian tới để xác định ngân sách thực hiện liên kết xúc

tiến cho toàn vùng.

Cả hai phương án trên đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định.

Tuy nhiên ở phương án thứ nhất, tính liên kết rất lỏng lẻo, ít ràng buộc, mạnh

ai nấy làm và tính địa phương chủ nghĩa thể hiện rõ rệt. Còn ở phương án thứ

hai, mặc dù có nhiều ưu điểm như quy tất cả chương trình liên kết xúc tiến du

lịch về một mối, tính liên kết thể hiện rõ nét, sự ràng buộc chi phối lẫn nhau

giữa các địa phương ngày càng bền chặt. Tuy nhiên, phương án thứ hai sẽ nảy

sinh vấn đề vận hành, tức là buộc phải có một tổ chức quản lý nhất định để

điều hành chương trình liên kết xúc tiến du lịch nói chung và xác định/điều

phối ngân sách liên kết xúc tiến du lịch nói riêng.

1.2.3.4. Lựa chọn chương trình xúc tiến hỗn hợp hợp lý

Các công cụ xúc tiến có chức năng và hiệu quả khác nhau đối với các

thị trường khách khác nhau. Để lựa chọn các công cụ tối ưu trong chương

30

trình xúc tiến hỗn hợp cần hiểu rõ đặc điểm của từng công cụ trong những

điều kiện thị trường, sản phẩm dịch vụ, khả năng đáp ứng của từng điểm đến

và chiến lược tiếp thị điểm đến du lịch.

Đối với điểm đến du lịch địa phương, quảng cáo có thể được xem là

công cụ xúc tiến rất hiệu quả về chi phí, bởi vì nó có thể tiếp cận được thị

trường mục tiêu rộng lớn với mức chi phí thấp tính theo đầu người. Quan hệ

công chúng thông thường không phải trả tiền, là một thành phần rất quan

trọng trong các chương trình xúc tiến du lịch, công cụ này có thể hỗ trợ các

công cụ khác trong chương trình xúc tiến hỗn hợp. Chính vì thế việc nghiên

cứu sử dụng phối hợp tốt các công cụ xúc tiến sẽ đảm bảo sự thành công của

các chương trình liên kết xúc tiến du lịch.

1.2.3.5. Thường xuyên đánh giá và kiểm soát chương trình liên kết xúc tiến du

lịch

Khi tiến hành xây dựng và đánh giá các chương trình liên kết xúc tiến

du lịch, những cơ quan chịu trách nhiệm cần đặc biệt quan tâm đến việc hợp

tác với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong việc nghiên cứu thị trường

và đa dạng hóa các kênh xúc tiến, đồng thời phải xác định được các chủ đề cụ

thể cho điểm đến nhằm gia tăng sự nhận biết những sản phẩm chào bán thông

qua hình ảnh, thông điệp quảng cáo nhất quán, trung thực về điểm đến

1.2.4. Vai trò của liên kết xúc tiến du lịch

- Góp phần tích cực trong việc phát huy hết khả năng nguồn lực từ con

người tới tài nguyên vào hoạt động phát triển du lịch của điểm đến: Tài

nguyên du lịch chỉ được khai thác hợp lí khi và chỉ khi giữa các doanh

nghiệp/các địa phương có mối liên hệ mật thiết. Hiện nay, nguồn tài nguyên

du lịch nước ta rất phong phú và đa dạng nhưng vẫn đang tồn tại thực trạng

một số điểm du lịch luôn thu hút khách, thậm chí rơi vào tình trạng quá tải,

gây sức ép tới tình hình an ninh, môi trường tự nhiên lẫn nhân văn. Nhưng

31

bên cạnh đó, còn nhiều điểm du lịch chưa khai thác hết khả năng gây nên tình

trạng lãng phí tài nguyên du lịch. Từ thực trạng đó, chúng ta thấy giữa các

doanh nghiệp đang độc quyền, chưa phát huy hết sự liên kết như quảng bá,

chia sẻ kinh nghiệm thu hút nguồn khách. Đó là những mặt hạn chế mà ngành

du lịch hiện nay đang gặp phải. Phát huy được tính liên kết là cách giúp các

ngành, địa phương và doanh nghiệp khai thác hợp lí nguồn lực con người và

tài nguyên du lịch.

- Tăng cường tính cạnh tranh cho điểm đến: ngành du lịch có lớn

mạnh, có đủ năng lực cạnh tranh được hay không chính nhờ vào một phần của

sự liên kết giữa các bên tham gia trong quá trình phát triển du lịch. Nếu các

địa phương (điểm đến), doanh nghiệp du lịch liên kết và tìm ra tiếng nói

chung trong xây dựng, hoạch định chiến lược, chia sẻ kinh nghiệm và trách

nhiệm v.v.. thì sự vận hành của ngành du lịch sẽ có những bước tiến xa. Bên

cạnh đó, hiện nay đang có xu thế liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch trong

nước với doanh nghiệp du lịch nước ngoài trong việc đưa/đón khách sang du

lịch lẫn nhau. Đó là xu thế chung, là một nhân tố góp phần nâng cao sự hợp

tác cùng có lợi, làm hạn chế tính cạnh tranh, rất có lợi cho các doanh nghiệp

trong quá trình hội nhập.

- Góp phần phát triển du lịch có trách nhiệm: du lịch là tổng thể của

tính đa ngành nên sự đóng góp của các doanh nghiệp du lịch đối với xã hội là

không hề nhỏ. Một dự án xây dựng khu du lịch ngoài mục tiêu kinh tế còn có

mục tiêu xã hội, xóa đói giảm nghèo mà nó đem lại cho cộng đồng, cho xã hội

thông qua tạo công ăn việc làm cho lao động trực tiếp như bàn, buồng, bếp, lễ

tân; đóng góp thuế; tiêu thụ các sản phẩm của cộng đồng địa phương làm ra.

Bên cạnh đó, sự liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp

với địa phương, khách du lịch có ý nghĩa quan trọng tới trách nhiệm bảo vệ

32

môi trường. Nếu địa phương ra sức bảo vệ môi trường còn doanh nghiệp và

du khách thiếu ý thức thì sự ô nhiễm sẽ ngày một tăng, kéo theo sự suy giảm

chất lượng tài nguyên du lịch là điều hiển nhiên.

- Kích thích gia tăng tiêu dùng du lịch: thực tế hiện nay thời gian khách

lưu lại tại các điểm du lịch cũng như địa phương là rất ngắn. Nguyên nhân

thường do sự hạn chế của dịch vụ; thiếu cái mới lạ, độc đáo của sản phẩm du

lịch… Trừ các thành phố du lịch lớn, còn lại rất nhiều địa phương chỉ là trạm

trung chuyển của du khách, hoặc chỉ có thể giữ chân du khách 1-2 đêm. Vì

vậy, nếu phát huy được sự liên kết tức là khi giữa các địa phương tìm được

tiếng nói chung thì việc thu hút khách lưu lại với thời gian dài sẽ thuận lợi

hơn. Từ đó kéo theo các lợi ích khác mà các chủ thể tham gia đều được hưởng

lợi.

- Giúp các doanh nghiệp du lịch/địa phương tiết kiệm chi phí khi sản

xuất sản phẩm, dịch vụ: mục tiêu tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận luôn đặt ra

với bất cứ ngành kinh doanh nào chứ không riêng gì du lịch. Nhưng trong lĩnh

vực du lịch, sự liên kết giữa các doanh nghiệp, các điểm đến với nhau có thể

giúp tiết kiệm được chi phí thông qua việc giảm giá dịch vụ cho nhau; thể

hiện trong việc chung tay quảng bá, xây dựng sản phẩm, dịch vụ để cùng khai

thác; tận dụng nguồn nhân lực giữa các doanh nghiệp với nhau.

1.3. Một số bài học kinh nghiệm về liên kết xúc tiến du lịch

1.3.1. Khu vực Tây Bắc

Du lịch khu vực Tây Bắc được đánh giá là một trong những thị trường

du lịch tiềm năng của cả nước với những thế mạnh, hùng vĩ của cảnh quan

thiên nhiên, đa dạng về sắc màu văn hóa; thuần khiết, mộc mạc, mến khách

của đồng bào các dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc. Nơi đây cũng lưu giữ

nhiều di tích lịch sử ghi lại những chiến công hiển hách của dân tộc Việt Nam

trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đây chính là

33

nguồn tài nguyên du lịch vô tận để các tỉnh trong khu vực khai thác phục vụ

du lịch. Từ năm 2008, 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng bao gồm Lào Cai, Yên Bái,

Phú Thọ, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu và Hà Giang đã ký kết biên

bản hợp tác phát triển du lịch nhằm khai khác hợp lý tiềm năng du lịch các địa

phương và thúc đẩy sự tăng trưởng du lịch của cả khu vực.

Hợp tác xúc tiến du lịch là một trong những nội dung chính của chương

trình hợp tác phát triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng. Trong thời gian vừa

qua, ngành du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng đã có nhiều hoạt động hợp tác về

xúc tiến du lịch đem lại hiệu quả thiết thực góp phần thúc đẩy sự phát triển

chung về du lịch của mỗi địa phương như: tổ chức cuộc thi thiết kế mẫu hàng

lưu niệm và quà tặng du lịch, cuộc thi ảnh đ p du lịch Tây Bắc, cuộc thi

hướng dẫn viên du lịch, xây dựng website du lịch Tây Bắc, sách hướng dẫn

du lịch, bản đồ du lịch Tây Bắc, khảo sát vòng cung Tây Bắc, tham dự Hội

chợ du lịch quốc tế tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,… Đây là tiền đề quan

trọng để công tác quảng bá xúc tiến du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng được liên

kết chặt chẽ và đạt hiệu quả cao hơn góp phần thúc đẩy du lịch Tây Bắc nói

chung và du lịch của mỗi tỉnh nói riêng ngày càng phát triển.

Công tác xúc tiến du lịch các tỉnh Tây Bắc mở rộng đã tạo dựng được

thương hiệu, hình ảnh, miền đất, con người và quảng bá được các sản phẩm

du lịch vùng Tây Bắc và từng địa phương. Đặc biệt, trong công tác thông tin

tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch, khối hợp tác 8 tỉnh đã triển khai

nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, từ công tác tuyên truyền qua các ấn

phẩm Du lịch Tây Bắc bằng các tiếng Việt-Anh, xây dựng Website du lịch

mỗi tỉnh, tham gia các hội chợ Du lịch Quốc tế, đến tổ chức các cuộc thi ảnh

đ p, thi thuyết minh, hướng dẫn viên giỏi 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng. Tuy nhiên,

du lịch của 8 tỉnh trong khu vực dù đã phát triển khả quan nhưng vẫn chưa

34

tương xứng với tiềm năng, thiếu quy hoạch chung của cả khu vực. Hoạt động

xúc tiến quảng bá du lịch Tây Bắc mở rộng còn mang tính tự phát, thiếu đồng

bộ, thiếu sự liên kết chặt chẽ.

Công tác thông tin, quảng bá, xúc tiến du lịch của các tỉnh Tây Bắc

đang chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, giới thiệu những cái của mình có

nhưng chưa đi theo hướng có thông tin cụ thể để hướng dẫn du khách đi bằng

cách nào và đến để địa điểm đó được hưởng các dịch vụ du lịch tốt nhất. Thời

gian qua, hoạt động xúc tiến du lịch ở các địa phương có tiềm năng du lịch

được thực hiện một cách dàn trải, lãng phí nguồn nhân lực và hiệu quả thấp.

Các địa phương thực hiện công tác xúc tiến, quảng bá du lịch hiện nay vẫn

trong tình trạng “mạnh ai nấy làm” khiến việc xây dựng thương hiệu, quảng

bá sản phẩm du lịch Tây Bắc còn gặp nhiều khó khăn.

Như vậy, từ hoạt động liên kết xúc tiến du lịch của Tây Bắc, các tỉnh

Đông Bắc có thể học tập một số bài học kinh nghiệm áp dụng vào việc thực

hiện hợp tác xúc tiến du lịch như sau:

- Bài học về nguồn lực tài chính: trong hợp tác xúc tiến du lịch, 8 tỉnh

Tây Bắc mở rộng đã có sự hỗ trợ rất lớn từ các Dự án EU, Dự án Tây Ban

Nha, Dự án SVN. Các tỉnh Đông Bắc cũng cần phải có tầm nhìn và chiến

lược trong việc thu hút, kêu gọi sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ dự án nước

ngoài trong phát triển du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng.

- Bài học về sự chuyên nghiệp: như đã nói ở trên, dù đã có những cải

thiện đáng kể nhưng Tây Bắc thực hiện liên kết xúc tiến du lịch vẫn theo kiểu

“mạnh ai nấy làm”. Chính vì vậy, các tỉnh Đông Bắc cần tránh “vết xe đổ”

này, đồng nghĩa với việc phải hình thành cơ chế hợp tác liên vùng giữa các

trung tâm xúc tiến du lịch của các tỉnh; tích cực đào tạo nguồn nhân lực làm

công tác quảng bá, xúc tiến du lịch… Vì vậy, cần xây dựng và triển khai

35

chiến lược, kế hoạch quảng bá, xúc tiến du lịch theo hướng chuyên nghiệp, có

trọng tâm, trọng điểm, gắn với chiến lược, kế hoạch phát triển sản phẩm thị

trường và thương hiệu du lịch

- Bài học về việc sử dụng công cụ, phương tiện xúc tiến: các tỉnh Đông

Bắc cũng cần học tập 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng trong việc kết hợp nhuần

nhuyễn và hiệu quả các công cụ xúc tiến du lịch như website bằng tiếng Việt

và tiếng Anh, tờ rơi/tập gấp/sách ảnh/sách hướng dẫn du lịch/bản đồ du lịch,

tổ chức/tham gia hội chợ/liên hoan/sự kiện du lịch trong nước và quốc tế, e-

marketting… nhằm quảng bá, xúc tiến du lịch tạo thương hiệu chung cho toàn

vùng.

- Bài học về cơ chế quản lý: 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng có một Ban chỉ

đạo chung, hoạt động thường xuyên nhằm đưa toàn vùng phát triển du lịch

theo một quỹ đạo thống nhất, trong đó tất nhiên có cả hoạt động liên kết xúc

tiến du lịch. Như vậy, các tỉnh Đông Bắc cũng nên học tập điều này, nhằm có

một cơ chế quản lý tập trung, thống nhất, nhạy bén về xu hướng phát triển du

lịch để kịp thời đưa ra những chiến lược liên kết xúc tiến du lịch có hiệu quả

cho toàn vùng.

1.3.2. Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc

Sau khi quy hoạch Tổng thể phát triển du lịch khu vực đồng bằng Sông

Hồng và duyên hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được Chính phủ

phê duyệt, các tỉnh trong khu vực đã chủ động xây dựng các chương trình hợp

tác liên kết phát triển điểm đến, kết nối tour, tuyến, xây dựng các sản phẩm

đặc trưng và cam kết trách nhiệm trong việc xúc tiến quảng bá, hỗ trợ, hướng

dẫn các doanh nghiệp du lịch đưa, đón khách và sử dụng sản phẩm du lịch của

mỗi địa phương. Trên quy mô toàn vùng hiện nay, vùng đã phần nào thực

hiện tốt sự hợp tác phát triển du lịch trong khu vực công tác quảng bá, xúc

tiến đã xây dựng các sản phẩm du lịch liên kết vùng miền mang những nét

36

đặc trưng, tương đồng, gắn với các tỉnh trong khu vực, phát triển mạnh các

sản phẩm du lịch đặc thù, nhất là các sản phẩm kết nối liên tuyến đồng thời

cùng phối hợp triển khai chương trình kích cầu du lịch nội địa.

Công tác quảng bá còn thể hiện ở việc xây dựng các ấn phẩm tuyên

truyền, giới thiệu tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, xây dựng và liên kết

trang thông tin điện tử. Trung tâm xúc tiến du lịch đã thực sự đóng vai trò cầu

nối, tăng cường tổ chức các chương trình gặp gỡ giữa các doanh nghiệp du

lịch, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết, hợp tác kinh doanh hiệu

quả; phối hợp tổ chức các đoàn Famtrip khảo sát tuyến điểm du lịch; mở rộng

liên kết với các tỉnh, thành phố lớn và một số thị trường du lịch trọng điểm.

Xúc tiến quảng bá còn dần được chuyên môn hóa các hoạt động thông

tin nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ. Hoạt động xúc tiến đã phần nào

đóng vai trò điều hành quản lý và kết nối thông tin du lịch, liên kết chia sẻ

thông tin giữa các đơn vị xây dựng cơ sở dữ liệu du lịch dùng chung. Trang

Website của các Trung tâm xúc tiến được cập nhật thường xuyên, đảm bảo sự

đa dạng phong phú về nội dung, hình thức mang tính mỹ thuật cao.

Từ thực tế hoạt động liên kết xúc tiến du lịch của vùng Đồng bằng sông

Hồng và duyên hải Đông Bắc, 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà

Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang – nhìn từ quy mô 1 khu vực, Đông Bắc –

nên học hỏi kinh nghiệm về việc thống nhất nguyên tắc chung trong liên kết.

Cũng như bài học về xây dựng sản phẩm đặc thù và kết nối tour tuyến liên

tỉnh, liên vùng. Bên cạnh đó, vùng du lịch Đông bằng sông Hồng và duyên

hải Đông Bắc cũng rất chuyên nghiệp trong việc liên kết thực hiện các hoạt

động xúc tiến quảng bá, mà đặc biệt là nâng cao vai trò cũng như chất lượng

hoạt động của các Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch. Một kinh nghiệm nữa

mà khu vực Đông Bắc cần học hỏi từ thực tế liên kết xúc tiến du lịch của

vùng Đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc là xây dựng một cơ sở dữ

37

liệu chung về xúc tiến du lịch cho toàn vùng.

1.3.3. Liên kết xúc tiến du lịch giữa 3 tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa

Thiên – Huế

Từ năm 2010, 3 địa phương Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam và thành

phố Đà Nẵng liên kết xây dựng thương hiệu “3 địa phương – một điểm đến”

nhằm phát triển du lịch.

Theo đó, mỗi địa phương chọn một sự kiện văn hoá, thể thao và du lịch

tiêu biểu để xây dựng chương trình chung. Cụ thể, tỉnh Quảng Nam chọn

“Hành trình di sản”; thành phố Đà Nẵng chọn “Lễ hội bắn pháo hoa quốc tế”

và tỉnh Thừa Thiên - Huế chọn “Festival Huế”.

Luân phiên hằng năm, mỗi địa phương sẽ đăng cai tổ chức khai mạc

mùa du lịch biển chung, cùng có chiến lược xúc tiến, quảng bá sản phẩm du

lịch liên kết; xây dựng logo; tuyên truyền, cổ động trực quan; dựng pano, trao

đổi thông tin, ấn phẩm để quảng bá du lịch; xây dựng bản đồ, hỗ trợ nhau tổ

chức đón các đoàn trong nước, nước ngoài đến khảo sát tại 3 địa phương.

Kế hoạch trong năm 2016, 3 địa phương Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng,

Quảng Nam sẽ đẩy mạnh liên kết để xúc tiến du lịch thông qua việc tham gia

các hội chợ du lịch trong nước và quốc tế: hội chợ du lịch quốc tế VITM Hà

Nội, hội chợ du lịch quốc tế ITE TP. Hồ Chí Minh, hội chợ ITB Berlin, tổ

chức roadshow giới thiệu du lịch 3 địa phương tại CHLB Đức, hội chợ JATA

Nhật Bản. Ba địa phương cũng xuất bản các ấn phẩm chung, như: tập gấp

chương trình, sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch 2016; nhân bản đĩa phim du

lịch ba địa phương; tái bản cẩm nang du lịch. Bên cạnh đó, ba địa phương tiếp

tục phối hợp xây dựng Bộ nhận diện thương hiệu du lịch; tổ chức hội chợ du

lịch MICE và xúc tiến mở 2 đường bay mới: Băng Kốc – Đà Nẵng, Osaka –

Đà Nẵng; tổ chức đón các đoàn famtrip, presstrip quốc tế đến tham quan,

khảo sát, viết bài, đón và hỗ trợ các đoàn làm phim đến thực hiện phim giới

38

thiệu du lịch của ba địa phương...

Qua 10 năm (2006 - 2016) hợp tác liên kết du lịch chung của 3 địa

phương đã mang lại những kết quả khá tích cực. Đó không chỉ là hiệu quả của

công tác quảng bá, xúc tiến mà việc liên kết còn thể hiện trong xây dựng

chính sách quản lý, phát triển sản phẩm du lịch; phát triển nguồn nhân lực…

giúp từng bước định vị thương hiệu du lịch vùng của 3 địa phương như là một

điểm đến có giá trị và thú vị nhất ở Việt Nam với sản phẩm đa dạng, chất

lượng.

Với kết quả hoạt động liên kết xúc tiến du lịch tích cực như vậy, Đà

Nẵng, Quảng Nam, Thừa Thiên – Huế đã mang đến cho khu vực Đông Bắc

bài học kinh nghiệm về việc xây dựng cơ chế liên kết, mà nổi lên là việc đồng

thuận theo cơ chế tổ chức luân phiên các hoạt động xúc tiến chung. Đồng

thời, 3 địa phương này cũng thành công trong việc xác định và xây dựng sản

phẩm đặc thù mang tính kết nối liên tỉnh mạnh mẽ. Khu vực Đông Bắc còn

nên học tập kinh nghiệm định vị và phát triển thương hiệu du lịch vùng của 3

tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa Thiên – Huế.

Tiểu kết chƣơng 1

Với vai trò là phần trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu, Chương

1 của luận văn đã hệ thống hóa được những phạm trù lý thuyết có liên quan

đến liên kết xúc tiến du lịch theo hướng tiếp cận marketing du lịch. Bên cạnh

đó, chương 1 cũng liên hệ được bài học kinh nghiệm về thực hiện liên kết xúc

tiến du lịch của khu vực Tây Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải

Đông Bắc, Đà Nẵng – Quảng Nam – Thừa Thiên Huế. Nói một cách khác,

chương 1 đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của để làm căn cứ triển khai các

39

chương mục tiếp theo của luận văn.

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG LIÊN KẾT XÚC TIẾN DU LỊCH KHU VỰC

ĐÔNG BẮC

Khu vực Đông Bắc (phạm vi nghiên cứu trong luận văn gồm 6 tỉnh Cao

Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) là vùng

lãnh thổ ở hướng Bắc vùng đồng bằng sông Hồng của Việt Nam. Gọi là Đông

Bắc để phân biệt với vùng Tây Bắc, còn thực chất nó ở vào phía bắc và đông

bắc của Hà Nội. Đây là một trong 3 tiểu vùng địa lý tự nhiên của Bắc Bộ Việt

Nam (2 tiểu vùng kia là Tây Bắc và Đồng bằng sông Hồng).

Ranh giới địa lý phía tây của vùng đông bắc còn chưa rõ ràng. Chủ yếu

do chưa có sự nhất trí giữa các nhà địa lý học Việt Nam về ranh giới giữa

vùng tây bắc và vùng đông bắc nên là sông Hồng, hay nên là dãy núi Hoàng

Liên Sơn. Vùng đông bắc được giới hạn về phía bắc và đông bởi đường biên

giới Việt-Trung, phía đông nam trông ra vịnh Bắc Bộ, phía nam giới hạn bởi

dãy núi Tam Đảo và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Khu vực Đông Bắc có nhiều sông chảy qua, trong đó các sông lớn là

sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm (thuộc hệ thống sông Hồng), sông

Cầu, sông Thương, sông Lục Nam (thuộc hệ thống sông Thái Bình), sông

Bằng, sông Kỳ Cùng, v.v...

Tuy nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng vì địa hình cao, lại

có nhiều dãy núi hình cánh cung mở ra ở phía bắc, chụm đầu về Tam Đảo,

vào mùa Đông có gió Bắc thổi mạnh, rất lạnh, còn mùa hè mát mẻ, do đó

vùng này có đặc khí hậu cận ôn đới. Vùng núi ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng

Sơn có thể có lúc nhiệt độ xuống dưới 0°C và có băng giá, đôi khi có tuyết

rơi. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung cũng rất lạnh do gió.

Vùng Đông Bắc có vị trí chiến lược và vai trò xung yếu trong an ninh

40

quốc phòng. Trong lịch sử Việt Nam, nhiều lần các thế lực phương Bắc xâm

lược đã thâm nhập vào vùng này trước tiên. Nơi đây có các con đường được

các nhà sử học Việt Nam gọi là con đường xâm lược, đó là đường bộ qua

Lạng Sơn. Đã có nhiều trận đánh ác liệt giữa quân và dân Việt Nam với giặc

ngoại xâm ngay khi chúng thâm nhập vào vùng này. Thời kỳ kháng chiến

chống Pháp cũng có các trận đánh lớn như chiến dịch Việt Bắc (1947), chiến

dịch biên giới thu đông (1949), v.v... Cuối thập niên 1970 và trong thập niên

1980, quân Trung Quốc đã tấn công dữ dội Việt Nam chủ yếu là trên dọc

tuyến biên giới ở vùng đông bắc.

2.1. Điều kiện liên kết xúc tiến du lịch của khu vực Đông Bắc

2.1.1. Tài nguyên du lịch

6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và

Hà Giang có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng và có sức hấp dẫn với

du khách, có khả năng tiếp nhận một lượng lớn khách du lịch và đáp ứng các

yêu cầu của nhiều loại hình du lịch với các đối tượng khác nhau.

Về mặt tự nhiên, vùng này có rất nhiều cảnh đ p, với địa hình đa dạng

chủ yếu là núi đồi và cao nguyên. Đặc biệt, vùng còn có những dãy núi hùng

vĩ như đỉnh Tây Côn Lĩnh, Kiều Liên Ti, Ta Pu Leng cao ngất trời, hay những

thung lũng nên thơ, huyền ảo. Nơi đây cũng là vùng đất tập trung nhiều sông

suối khá dày đặc; tuy một số bị chia cắt nhiều, phức tạp song cũng không làm

mất đi vai trò to lớn của nó trong khung cảnh nơi đây và trong việc phát triển

kinh tế các tỉnh Đông Bắc. Do địa hình phức tạp nên nhìn chung khí hậu nơi

đây phân mùa rõ rệt và nhiệt độ giữa các vùng không đồng đều. Hầu hết các

tỉnh đều có khí hậu tương đối thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp. Song mỗi

địa phương lại có những nét riêng biệt: nếu Cao Bằng gần như là khí hậu cận

ôn đới với bốn mùa xuân – hạ - thu – đông rõ rệt thì Thái Nguyên lại chia ra

hai mùa khô và mưa. Một số vùng núi cao của Hà Giang, Lạng Sơn mang khí

41

hậu ôn đới, còn Tuyên Quang lại mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ

trung bình toàn vùng khá mát mẻ nhưng có sự chênh lệch giữa các địa

phương. Đặc biệt, mùa đông có thể có tuyết rơi ở một số điểm cao như Mẫu

Sơn (Lạng Sơn). Diện tích rừng bao phủ của vùng khá lớn, có nơi lên tới hơn

50%.

Cảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, đặc biệt là Công viên địa chất

toàn cầu – Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang) hùng vĩ nằm ở độ cao bình

quân trên 1.400 m so với mặt nước biển. Nơi có tới hàng trăm biểu hiện di sản

địa chất: cổ sinh, địa tầng, địa mạo, cấu trúc – kiến tạo, karst, đá, cổ môi

trường,… Tính đa dạng địa chất và khả năng bảo tồn tốt của chúng trong điều

kiện tự nhiên của khu vực đã đem lại những giá trị, tiềm năng lớn cho phát

triển du lịch, nghiên cứu và giáo dục địa chất. Những tiềm năng lớn về tài

nguyên thiên nhiên, nổi bật là các di sản địa chất, cùng với những giá trị di

sản nhân văn của khu vực Cao nguyên đá Đồng Văn không chỉ đáp ứng đầy

đủ các tiêu chí để phát triển một công viên địa chất mà quan trọng hơn là nó

sẽ trở thành biểu tượng du lịch và di sản tự nhiên văn hóa của Hà Giang.

Đồng thời có nhiều cảnh quan hấp dẫn như hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, thác Bản

Giốc, thác Đầu Đẳng, thác Dải Yếm, thác Mơ và nơi núi Các Mác, suối Lê

Nin và các cánh rừng già nguyên sinh như khu rừng cấm Tam Đảo với hệ

sinh thái rừng nhiệt đới làm thoả mãn trí tò mò của các du khách với lòng say

mê nghiên cứu của các nhà khoa học.

Về mặt văn hoá lịch sử, vùng này phản ánh bề dày lịch sử Việt Nam.

Những di tích khảo cổ học chứng minh cho nền văn hoá Đông Sơn nổi tiếng

từ hồi tiền sử, những di tích lịch sử qua các triều đại của nước ta còn được

bảo toàn hoặc phục hồi như khu rừng Trần Hưng Đạo, khu Cao Bằng Pắc Pó

và nhiều danh thắng lịch sử khác rất có giá trị về khoa học và giáo dục truyền

thống, truyền bá kiến thức. Bên cạnh đó với những lễ hội truyền thống mang

42

đậm đà bản sắc dân tộc đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho khách du lịch, thăm

quan tìm hiểu và nghiên cứu. Đây cũng là vùng được khai sinh từ rất sớm

trong lịch sử nên nó là nơi lưu chứa nhiều di sản văn hóa đặc sắc với truyền

thống lâu đời của hàng chục dân tộc khác nhau. Đây là một địa danh du lịch

đáng nhớ bởi cảnh quan thiên nhiên và con người nơi đây không hề giống so

với các vùng còn lại trên cả nước. Hầu như đến với nơi đây, du khách được

hòa mình vào trong các điệu múa, tiếng khèn trong các dịp lễ hội, đắm mình

vào không gian văn hóa đặc sắc với những sản phẩm kết tinh từ truyền thống

văn hóa độc đáo mà chỉ có cư dân miền núi mới có được, đó là những chiếc

khăn thêu, túi vải, áo váy với các loại hoa văn rực rỡ, tinh tế. Đặc biệt hơn

nữa du khách còn có dịp tham dự các phiên chợ vùng cao của cư dân địa

phương và khám phá được nhiều điều mới lạ.

Đông Bắc nổi tiếng với Hà Giang – vùng đất địa đầu của Tổ quốc, nơi

có hơn 20 dân tộc sinh sống, với hàng chục lễ hội đầu xuân kéo dài hàng tuần

mang tính chất tổng hợp: cầu mưa, cầu mùa, cầu con trai, mừng công, mừng

nhà mới… với các trò chơi dân gian như bắn nỏ, hát giao duyên, ném Pao, lảy

cỏ… Đặc biệt, Hà Giang còn có chợ tình Khâu Vai (Mèo Vạc) – là nơi h n hò

thiêng liêng cho bao đôi lứa, là hiện thân của sự nhân văn nhân ái trong lối

sống của đồng bào vùng cao. Bên cạnh đó là Cao Bằng với truyền thống văn

hóa lâu đời của người Tày, thể hiện trong các lễ hội truyền thống, dân ca dân

vũ (hát đối đáp, hát Then…). Tiêu biểu nhất là hội M Trăng (với không khí

hội pha trộn giữa thực tại và huyền ảo trong mối quan hệ giữa người trần tục

và cõi tiên trong tiết trời xuân), hội Lồng tồng, hội Thanh Minh… Với các

đền chùa hấp dẫn du khách như: chùa Viên Minh, đền Xuân Lĩnh… nơi ghi

dấu công trạng của những anh hùng có công đánh giặc cứu nước.

Còn nói đến di tích cách mạng của vùng Đông Bắc phải kể đến 3 tỉnh

nổi bật là Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang. Trong hai cuộc chống

43

Pháp và chống Mỹ, đây là những cái nôi cách mạng. Ngày nay, Chính phủ đã

công nhận một số điểm là di tích cách mạng. Nổi bật nhất là di tích Tân Trào

– Thủ đô kháng chiến thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đây là nơi

làm việc của các vị lãnh đạo, cơ quan trung ương Đảng và chính phủ Việt

Nam. Đình Tân Trào là nơi mà các đại biểu khắp mọi miền đất nước đã về dự

họp Quốc dân đại hội 16/08/1945. Cũng từ nơi đây quốc kỳ, quốc ca, ủy ban

dân tộc giải phóng Việt Nam đã được khai sinh. Cây đa Tân Trào gắn với sự

kiện đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc bản quân lệnh số 1 và đội quân giải phóng

đã lên đường qua Thái Nguyên giải phóng về Hà Nội. Tiếp đến là đình Hồng

Thái, nơi dừng chân đầu tiên của Hồ Chủ Tịch trên đường người đến Tân

Trào (5/1945), là trạm thường trực của ATK của trung ương đóng ở Tân Trào.

Nói đến Thái Nguyên là người ta nhớ ngay đến tên một địa danh – di tích

ATK Định Hóa – đó là an toàn khu, là trung tâm lãnh đạo của kháng chiến 9

năm cứu quốc chống thực dân Pháp xâm lược. Hồ Chí Minh cùng các vị lãnh

đạo cách mạng đã họp và làm việc ở đây từ 1947 đến 1954, đồng thời là nơi

diễn ra các hoạt động ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tại

đây có nhiều chứng tích về nơi ở và làm việc của Hồ Chủ tịch và nhiều vị

lãnh đạo Đảng và Nhà nước.

Ngoài ra còn vô số những điểm gắn với các chứng tích lịch sử như: di

tích Pò Ket, hầm bí mật Dốc Tiệm và hội trường chữ U (thuộc tỉnh Bắc Kạn),

thành cổ nhà Mạc, di tích đền Hạ, hang Bòng, lán Nà Lừa, di tích Kim Bình,

di tích ATK Kim Quan, di tích Đá Bàn (thuộc tỉnh Tuyên Quang), di tích núi

Văn – núi Võ, di tích làng Quặng, di tích cách mạng xã Tiên Phong, di tích

Căng Bá Vân, nhà tù Chợ Chu, di tích Điềm Mặc (thuộc tỉnh Thái Nguyên).

Hơn nữa, đây cũng là vùng có nhiều dân tộc cùng sinh sống, vì vây kho tàng

văn hóa của dân cư trong vùng khá phong phú. Bẳn sắc văn hóa riêng của dân

tộc tạo nên sự đa dạng và độc đáo của địa phương. Bản sắc văn hóa truyền

44

thống được lưu giữ như một thứ tài sản vô giá, từ kiến thức trúc nhà cửa, nề

nếp sinh hoạt, trang phục đến tập quán sản xuất, quan hệ cộng đồng, làng

bản… Mỗi mùa xuân về, người dân nhiều vùng quê lại tưng bừng mở hội, cầu

người yên, vật thịnh, cầu mùa vụ bội thu: lễ hội xuân Ba Bể, hội Phủ Thông,

hội Lồng tồng, hội chùa Thạch Long, hội Xuân Dương (Bắc Kạn), hội làng

Giếng Tanh, lễ hội quá tang của người Dao (Tuyên Quang), lễ hội đền Đuổm,

hội Hích, hội chùa Hang, hội làng cơm hỏm (Thái Nguyên)…

Đến với Lạng Sơn, một tỉnh địa đầu của Tổ quốc với nhiều danh thắng

đ p và có nhiều di tích lịch sử và những phong tục mang đậm bản sắc dân tộc.

Tỉnh có di tích văn hóa khảo cổ Bắc Sơn, văn hóa Mai Pha. Đây là nơi phát

hiện ra các di chỉ của người Việt thời sơ sử, tiền sử, nó in đậm dấu ấn văn hóa

truyền thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam. Những dân tộc có đông dân cư

như Tày, Nùng, Việt/Kinh, Dao. Họ có nhiều phong tục tập quán rất độc đáo.

Dân tộc Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và nhiều làn điệu

dân ca mang đậm bản sắc dân tộc. Người Nùng có hai làn điệu nổi tiếng là Sli

và hát Then. Sli là lối hát giao duyên nam – nữ rất độc đáo và ấn tượng. Then

là thể loại ca nhạc tín ngưỡng tổng hợp có lời, có nhạc làm say đắm lòng

người. Dân tộc Tày có nền văn hóa cổ truyền, có điệu dân ca phổ biến là hát

Lượn. Người Sán Chay nổi tiếng với Sình Ca, múa đâm cá, múa thắp đèn…

Với truyền thống như vậy, Lạng Sơn có khả năng khai thác những thế mạnh

này phục vụ cho khách du lịch trong và ngoài nước. Lễ hội được tổ chức rải

rác quanh năm nhưng tập trung chủ yếu vào dịp đầu xuân: lễ hội Kì Lừa (22 –

27 tháng Giêng), hội đền Bắc Lệ (10/1 – 15/2), hội chùa Tà Và (12 – 15/4), lễ

hội Cô Hai (giữa tháng Giêng đến giữa tháng Hai ÂL)… Lạng Sơn còn nổi

tiếng với các công trình đền chùa. Được nhiều người biết đến nhất là chùa

Tam Thanh nằm trong động Tam Thanh, thuộc thành phố Lạng Sơn, có tấm

bia “thiền động pháp luân thường chuyển”, hệ thống tượng Phật khá phong

45

phú. Ngoài ra còn có chùa Tam giáo – động Nhị Thanh, chùa Tiên, đền Tả

Phù, đền Kỳ Cùng, đền Bắc Lệ, chùa Diên Khánh… với những kiến trúc độc

đáo, hấp dẫn du khách đến chiêm ngưỡng. Lạng Sơn cũng có nhiều di tích

gắn liền với các sự kiện lịch sử: di tích Bắc Sơn (nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa

vũ trang của quân du kích năm 1940, chống phát xít Nhật vào đánh Lạng

Sơn), thành cổ Đoàn Thanh, thành nhà Mạc, ải Chi Lăng…

Nhìn chung, khu vực Đông Bắc có một hệ thống tài nguyên du lịch

nhiên tạo và nhân tạo đa dạng, phong phú và có sức hấp dẫn du khách, là tiền

đề tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù góp phần xác định hình ảnh chung của khu

vực. Tuy nhiên, nếu không có hoạt động liên kết xúc tiến du lịch thì tài

nguyên du lịch khu vực sẽ bị xé lẻ, giảm tính hệ thống, không có cơ hội tạo

thành sản phẩm du lịch theo những chuyên đề nhất định, hạn chế sự kết nối

tuor/tuyến trong vùng.

2.1.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch

Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật phục

vụ du lịch của khu vực Đông Bắc đã có sự phát triển đáng kể cả về số lượng

và chất lượng, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành

du lịch nói riêng. Hiện nay, trên toàn vùng, hệ thống đường bộ với tổng chiều

dài chạy qua là 44.250 km, mật độ 66 km/km2. Về hệ thống đường sắt, có

tuyến Hà Nội – Đồng Đăng dài 163 km và tuyến Hà Nội - Quán Triều dài 76

km. Trong sự chuyển biến mạnh mẽ về tăng trưởng kinh tế nói chung, khu

vực Đông Bắc cũng đầu tư phát triển mạng lưới giao thông, nâng cấp các

quốc lộ 1, 2, 3, 70… Đồng thời, các tỉnh trong vùng cũng chú ý phát triển

mạng thông tin bưu chính viễn thông, cấp điện.

Tỉnh Thái Nguyên: ngành du lịch đã chủ động tham mưu cho UBND

tỉnh đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hạ tầng du lịch như: Dự án

cụm công trình dịch vụ du lịch ATK Phú Đình; dự án đường đi bộ lên hang

46

Phượng Hoàng- suối Mỏ Gà, bãi đỗ xe khu du lịch phía Bắc Hồ Núi Cốc, dự

án đầu tư tôn tạo di tích lịch sử Đồi Khau Tý, di tích Thẩm Khen, di tích Tỉn

Keo...Về cơ sở vật chất du lịch (khách sạn, nhà hàng ăn uống) đến hết năm

2014, trên địa bàn tỉnh có 212 cơ sở lưu trú du lịch (40 khách sạn đạt tiêu

chuẩn 1 sao, 4 khách sạn 3 sao, 1 khách sạn 4 sao). Quy mô các khách sạn

ngày càng mở rộng theo hướng tăng các dịch vụ phụ trợ bổ trợ cho dịch vụ

lưu trú. Năm 2015, có nhiều dự án đầu tư cơ sở lưu trú khách sạn cao cấp, khu

nghỉ dưỡng, khu dịch vụ du lịch với giá trị hàng trăm tỷ đồng như: Công ty

Cổ phần Đầu tư xây dựng và Thương mại Đông Á đầu tư khu nghỉ dưỡng

Phúc Xuân tiêu chuẩn 3 sao, Khu trung tâm thương mại, khách sạn Đông Á

Plaza tiêu chuẩn 4 sao; Công ty cổ phần khách sạn Công đoàn Hồ Núi Cốc

đầu tư mở rộng quy mô, tăng các dịch vụ vui chơi giải trí với số vốn 70 tỷ

đồng; Công ty TNHH tranh đá quý Dũng Tân đầu tư hàng chục tỷ đồng xây

dựng trung tâm dịch vụ, mua sắm phục vụ du khách... Như vậy, hiện nay các

cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng phục vụ cho du lịch tỉnh Thái Nguyên đã được

chú trọng nâng cấp, đầu tư: hệ thống đường giao thông nối liền các điểm du

lịch trong tỉnh đảm bảo xuyên suốt, an toàn, thuận lợi; hệ thống nhà nghỉ,

khách sạn và các trang thiết bị phụ trợ hiện đại, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu

của khách du lịch.

Tỉnh Hà Giang: toàn tỉnh hiện nay có 135 cơ sở lưu trú với hơn 1.517

phòng nghỉ, trong đó có trên 15 khách sạn đạt chuẩn 1 sao, 3 khách sạn đạt

chuẩn 2 sao và nhiều cơ sở lưu trú đã được xếp hạng chuẩn. Hiện nay toàn

tỉnh có 29 làng du lịch cộng đồng được công nhận và đi vào hoạt động đã thu

hút khách đến tham quan thường xuyên như: thôn Tha, xã Phương Độ; thôn

Tiến Thắng, xã Phương Thiện của thành phố Hà Giang; Làng văn hóa du lịch

Mông hoa, xã Sủng Là, huyện Đồng Văn; làng dân tộc người Pà Thẻn, huyện

Quang Bình... Về địa điểm phục vụ ăn uống, toàn tỉnh có 228 nhà hàng với

47

khả năng phục vụ 2.089 bàn ăn cùng một lúc. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ

thuật, hạ tầng tỉnh Hà Giang đã có sự phát triển đáng kể cả về số lượng và

chất lượng. Đặc biệt, các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh đã có sự đổi mới về

phương thức kinh doanh cho phù hợp với tình hình thực tế, như: kết hợp giữa

các dịch vụ ăn nghỉ cũng như các loại hình dịch vụ bổ sung khác, tạo mối liên

kết qua lại tương trợ lẫn nhau, luôn có mức giá hợp lý và thu hút khách

thường xuyên. Trong có sự kiện được tổ chức tại tỉnh Hà Giang, các cơ sở lưu

trú còn thực hiện giảm giá và có nhiều chương trình khuyến mại nhằm thu hút

du khách.

Tỉnh Tuyên Quang: là một tỉnh giáp biên, còn khó khăn về kinh tế, tuy

nhiên trong năm 2014, toàn tỉnh Cao Bằng có “164 cơ sở lưu trú du lịch được

thẩm định xếp hạng (tăng 1.1 lần so với năm 2013), với 2.151 phòng, 3.292

giường đạt tiêu chuẩn. Công suất sử dụng phòng bình quân đạt 57%”. Trong 6

tháng đầu năm 2015 đã thẩm định, phân loại, xếp hạng thêm 13 cơ sở lưu trú

trong tổng số 187 cơ sở, với 2.160 phòng, 3.420 giường, trong đó có 33 khách

sạn đạt tiêu chuẩn 1-2 sao, 01 nhà hàng đạt tiêu chuẩn cấp biển hiệu phục vụ

khách du lịch….Thực hiện Chương trình số 12-CTr/TU, ngày 29/4/2011 của

Tỉnh ủy về Phát triển du lịch Cao Bằng giai đoạn 2011 - 2015, những năm

qua, Cao Bằng đã chú trọng đến việc quy hoạch phát triển du lịch, quan tâm

đầu tư hạ tầng cơ sở giao thông đến các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh.

Đến nay, phần lớn các khu, điểm du lịch đã được quy hoạch và công bố theo

quy định: “hoàn thành các tuyến đường tỉnh lộ 206 đoạn Cao Bằng - Bản

Giốc; đường Hồ Chí Minh đoạn Cao Bằng - Hà Quảng; quốc lộ 34 đoạn Khau

Đồn - Nguyên Bình, đầu tư cải tạo, nâng cấp tuyến từ tỉnh lộ 206 vào Khu du

lịch động Ngườm Ngao (Trùng Khánh); cải tạo, nâng cấp đoạn từ tỉnh lộ 212

lên đỉnh núi Phja Oắc - Khu du lịch sinh thái Phja Oắc - Phja Đén; cải tạo, sửa

chữa tỉnh lộ 202 đoạn từ quốc lộ 34 vào Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng

48

Trần Hưng Đạo...”.

Đặc biệt, việc huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng các khu du lịch

có trọng tâm, trọng điểm đã tạo được tỉnh Cao Bằng phát triển bứt phá trong

thời gian qua. Cụ thể, việc đầu tư xây dựng Khu di tích Quốc gia đặc biệt Pác

Bó trở thành một điểm du lịch mang tầm cỡ Quốc gia, có thương hiệu, dấu ấn

riêng biệt được tỉnh rất quan tâm. Đến nay, các hạng mục đã hoàn thành và

phát huy được đúng giá trị, nhằm đưa vào phục vụ bước đầu có hiệu quả, như:

Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh; bãi đỗ xe khu di tích; nhà sinh hoạt

cộng đồng; san nền, sân, kè, đường khu trung tâm Khu di tích; hệ thống cấp

nước khu trung tâm Khu di tích; nhà công vụ cho cán bộ, công nhân viên;

cắm mốc chỉ giới đường đỏ và cốt quy hoạch... Những nỗ lực về cải thiệnn

điều kiện cơ sở hạ tầng/vật chất kỹ thuật du lịch của Cao Bằng được thể hiện

trong Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm 2016 của

Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, cụ thể như sau: “Dự án Sài Gòn - Bản Giốc

Resort tại thác Bản Giốc - Trùng Khánh do Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn

(Saigontourist) làm chủ đầu tư, vốn đầu tư trên 170 tỷ đồng; khởi công xây

dựng tháng 12/2012, đã hoàn thành một số hạng mục dự án, ngày 15/12/2014

đưa vào khai thác phục vụ du lịch. Dự án chùa Phật tích Trúc Lâm Bản Giốc

do Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm chủ đầu tư, khởi công xây

dựng tháng 6/2013 cũng đã hoàn thành và đưa vào khai thác trong tháng

12/2014. Dự án cải tạo nâng cấp đường vào Khu di tích Quốc gia đặc biệt

rừng Trần Hưng Đạo và các hạng mục: Nhà đón tiếp trong Khu di tích; Nhà

tưởng niệm..., được tôn tạo mới, bước đầu thu hút khách đến tham quan, du

lịch”.

Như vậy, về cơ bản, các cơ sở hạ tầng/vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch

khu vực Đông Bắc ngày càng được cải thiện, phát triển cả về số lượng và chất

lượng. Bên cạnh đó, tình hình an ninh trật tự được đảm bảo tạo điều kiện

49

thuận lợi cho du khách lưu trú, tham quan, mua sắm trong quá trình tham

quan tại các khu, điểm du lịch. Song song với các dịch vụ ăn nghỉ, một số

dịch vụ đi kèm như: vui chơi giải trí, karaoke, vật lý trị liệu, các sản phẩm địa

phương cũng được phát triển, mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách cho

các địa phương.

2.1.3. Nguồn nhân lực thực hiện liên kết xúc tiến du lịch

Luật Du lịch (2005) có quy định rõ ràng 2 thành phần tham gia hoạt

động xúc tiến du lịch, đó là cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch và doanh

nghiệp du lịch. Trong khuôn khổ luận văn này, người nghiên cứu tập trung

mô tả về nhóm nhân lực thuộc cơ quan Nhà nước trực tiếp thực hiện hoạt

động liên kết xúc tiến du lịch.

Luật Du lịch (2005) cũng chỉ rõ: “Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch

ở trung ương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng chiến

lược, kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch quốc gia; chủ trì, phối hợp với

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, có sự tham gia của các doanh nghiệp du lịch tổ

chức thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch ở trong nước và nước ngoài;

điều phối các hoạt động xúc tiến du lịch liên vùng, liên địa phương… Uỷ ban

nhân dân cấp tỉnh xây dựng kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch của địa

phương; tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch tại địa phương;

phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương và ở địa

phương khác trong hoạt động xúc tiến du lịch”.

Theo quy định quản lý Nhà nước thì Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch

các tỉnh trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp chịu trách nhiệm xây

dựng và thực hiện xác chương trình xúc tiến du lịch nói chung và liên kết xúc

tiến du lịch nói riêng. Thông thường, ở mỗi tỉnh đều có Trung tâm Xúc tiến

Du lịch - là đơn vị sự nghiệp công lập có thu, có tư cách pháp nhân, có con

dấu và tài khoản riêng theo quy định; chịu sự chỉ đạo về tổ chức, biên chế và

50

hoạt động của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đồng thời chịu sự chỉ đạo

hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước

cấp trên, cụ thể là Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.

Như vậy, theo phạm vi h p (mang tính chuyên môn hóa) thì nhân lực

thực hiện liên kết xúc tiến du lịch chính là lao động làm việc trong các Trung

tâm thông tin xúc tiến du lịch. Đối với khu vực Đông Bắc, đó là:

Bảng 2.1: Các đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp xúc tiến du lịch của các tỉnh

khu vực Đông Bắc

STT

Tỉnh

Đơn vị thực hiện

Địa chỉ

xúc tiến du lịch

1 Cao Bằng Trung tâm thông tin

- Nhà văn hóa Trung tâm thành phố

xúc tiến du lịch cộng

Cao Bằng – Phố Hoàng Như –

đồng Cao Bằng

Phường Hợp Giang – Thành phố

Cao Bằng

2 Bắc Kạn

Trung tâm xúc tiến

- Tổ 5 phường Đức Xuân, thành phố

du lịch tỉnh Bắc Kạn

Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

3

Lạng Sơn

Trung tâm xúc tiến

- Khán đài A – Sân vận động Đông

du lịch tỉnh Lạng

Kinh - Đường Bà Triệu – Phường

Sơn

Vĩnh Trại – Thành phố Lạng Sơn

4

Thái

Trung tâm thông tin

- Số 19 đường Nha Trang, Phường

Nguyên

xúc tiến du lịch Thái

Trưng Vương, Thành Phố Thái

Nguyên

Nguyên, Thái Nguyên

5

Tuyên

Trung tâm thông tin

- Đường 17/8, Phường Minh Xuân,

Quang

xúc

tiến du

lịch

Thành phố Tuyên Quang

Tuyên Quang

6 Hà Giang

Trung tâm Thông tin

- Tổ 5, phường Nguyễn Trãi - Thành

và Xúc tiến Du lịch

phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang

Hà Giang

51

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Tuy tên gọi của các đơn vị này có thể không hoàn toàn giống nhau

nhưng về cơ bản chúng đều có những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gần

như tương tự. Cụ thể là:

Về chức năng:

- Tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch trên địa bàn tỉnh.

- Tham gia đề xuất với Sở VHTT&DL xây dựng kế hoạch chiến lược

phát triển du lịch; cơ chế quản lý và hoạt động du lịch; các chính sách hỗ trợ,

khuyến khích phát triển du lịch trình UBND tỉnh phê duyệt.

Về nhiệm vụ:

- Xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động xúc tiến du lịch; các đề

án, các hoạt động liên kết, phối hợp kêu gọi các nguồn đầu tư về du lịch…tổ

chức thực hiện khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Là đầu mối liên hệ với các hiệp hội du lịch, các đơn vị lữ hành trong

và ngoài tỉnh, kết nối với các tour lữ hành đến tỉnh nhằm đẩy mạnh các hoạt

động du lịch.

- Nâng cao nhận thức xã hội về du lịch, tạo môi trường du lịch văn

minh, lành mạnh, an toàn và hấp dẫn.

- Nghiên cứu, tìm hiểu thị trường du lịch; xây dựng và quảng bá sản

phẩm du lịch, dịch vụ du lịch.

- Huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển du lịch tỉnh Bắc Kạn với

nhiều loại hình độc đáo, đa dạng, chất lượng cao.

- Các nhiệm vụ khác do Sở VHTT&DL giao.

Về quyền hạn:

- Đơn vị được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở và

trước pháp luật trong việc thực hiện quyền tự chủ về chức năng, nhiệm vụ, tổ

52

chức bộ máy, biên chế, tài chính đơn vị.

- Được thu các khoản kinh phí tài trợ từ các tổ chức kinh tế, doanh

nghiệp và cá nhân thông qua các hoạt động xúc tiến du lịch và các hoạt động

hợp pháp khác.

Về tổ chức bộ máy

Thông thường mỗi đơn vị đều có Ban lãnh đạo/Ban giám đốc chịu trách

nhiệm quản lý, sau đó là các Phòng chuyên môn. Tùy vào tình hình thực tế

của từng tỉnh mà đơn vị này có số lượng và tên gọi các phòng chuyên môn

khác nhau. Về cơ bản, có các phòng chuyên môn sau:

- Phòng Hành chính – Tổng hợp.

- Phòng Xúc tiến Du lịch.

- Phòng Thông tin tuyên truyền

- Phòng Thị trường du lịch

- ...

Dưới sự chỉ đạo của các cấp, các ngành, các Trung tâm xúc tiến du lịch

ở mỗi tỉnh đã đóng vai trò như cầu nối trung gian nhằm gắn kết các đơn vị,

doanh nghiệp du lịch trong và ngoài tỉnh, thực hiện nhiều chương trình xúc

tiến, quảng bá du lịch. Nội dung tuyên truyền, quảng bá được xây dựng đầy

đủ, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, các thông tin về du lịch địa

phương được thể hiện dưới nhiều hình thức sinh động, hấp dẫn, nhờ vậy

lượng khách vùng Đông Bắc trong những năm gần đây liên tục tăng lên.

Tuy nhiên, do những yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau nên

trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ lao động trực tiếp thực hiện xúc

tiến du lịch và liên kết xúc tiến du lịch không đồng đều. Cụ thể, trình độ

53

chuyên môn của nguồn nhân lực này được thể hiện trong bảng sau:

Bảng 2.2. Cơ cấu trình độ chuyên môn nhân lực tại các Trung tâm thông tin

xúc tiến du lịch các tỉnh Đông Bắc

STT

Tỉnh

Tổng số

Trình độ

Trình độ

Đúng

Trái

ngƣời

Đại học/Tỉ

Cao đẳng

chuyên

chuyên

lệ %

ngành

ngành

1

Cao Bằng

6

2 (33.3%)

4 (66.7%)

1 (16.7%)

5 (83.3%)

2

Bắc Kạn

5

1 (20%)

4 (80%)

1 (20%)

4 (80%)

3

Lạng Sơn

6

3 (50%)

3 (50%)

2 (33.3%)

4 (66.7%)

4

Thái

5

4 (80%)

1 (20%)

2 (40%)

3 (60%)

Nguyên

5

Tuyên

7

4 (57.1%)

3 (42.9%)

2 (28.6%)

5 (72.4%)

Quang

6 Hà Giang

8

4 (50%)

4 (50%)

2 (25%)

6 (75%)

Đơn vị tính: người

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Như vậy, có thể thấy điều kiện nguồn nhân lực trực tiếp thực hiện liên

kết xúc tiến du lịch của các tỉnh Đông Bắc là không giống nhau. Về cơ bản là

còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Nguồn lao động này sớm

được kiện toàn bằng việc tuyển dụng mới, đào tạo mới và đào tạo lại giúp

nâng cao chuyên môn nghiệp vụ phục vụ hoạt động xúc tiến du lịch nói chung

và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng.

2.1.4. Chủ trương và chính sách liên kết xúc tiến du lịch

Hiện nay, với nhu cầu du lịch ngày càng đa dạng việc quảng bá đến thị

trường hình ảnh các tuyến, điểm du lịch được tạo bởi sản phẩm du lịch hấp

dẫn và đặc trưng liên vùng là yêu cầu cấp thiết. Việc liên kết phát triển du lịch

giữa các địa phương (trong đó có liên kết xúc tiến du lịch) sẽ cho phép khai

thác những lợi thế của nhau về tài nguyên du lịch, về hạ tầng, cơ sở vật chất

54

kỹ thuật và các nguồn lực khác cho phát triển du lịch, tạo ra được những sản

phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn đối với các bên liên quan. Vấn đề là các

địa phương phải bắt tay liên kết thực sự bằng những chương trình, việc làm cụ

thể.

Liên kết quảng bá, xúc tiến sẽ giúp cho các tỉnh hiểu rõ về tiềm năng

thế mạnh của các tỉnh trong khu vực. Qua đó các tỉnh có điều kiện để xác định

xây dựng những sản phẩm du lịch đặc trưng và có thế mạnh của mỗi địa

phương tránh trùng lắp với các địa phương khác trong khu vực. Hơn nữa,

trong quá trình liên kết các Trung tâm Thông tin – Xúc tiến du lịch có thể trao

đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm của nhau rất nhiều về cách thức tổ chức,

tham gia các sự kiện, các hình thức quảng bá, xúc tiến v.v..

Mặc dù yêu cầu liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc ngày càng

trở nên cấp thiết nhưng hiện nay chưa có một cơ chế chính thức cho hoạt

động liên vùng này. Tuy nhiên tình hình thực tế tại Đông Bắc cũng đã ghi

nhận những nỗ lực không nhỏ của các địa phương trong việc hướng tới xây

dựng một cơ chế liên kết xúc tiến du lịch.

Với chức năng, nhiệm vụ là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh thực

hiện công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh, các Sở Văn hóa

Thể thao & Du lịch đã tích cực tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng bá,

xúc tiến về du lịch; tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng và ban hành các cơ

chế, chính sách quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương, chú trọng công

tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm

du lịch. Đặc biệt, dưới sự chỉ đạo của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, Trung

tâm thông tin xúc tiến du lịch các tỉnh miền núi Đông Bắc cũng có có nhiều

điều kiện thuận lợi để tham gia trực tiếp vào các hoạt động liên kết xúc tiến

du lịch. Ngoài ra, các tỉnh đã thành lập Hiệp hội Du lịch như cánh tay nối dài

55

của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc thực hiện vai trò quản lý nhà

nước đối với hoạt động du lịch, góp phần làm đầu mối liên kết các doanh

nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn và trong khu vực.

Trong khuôn khổ Ngày hội Văn hóa - Thể thao và Du lịch các dân tộc

vùng Đông Bắc lần thứ IX – Bắc Kạn 2015, Viện Nghiên cứu phát triển du

lịch Việt Nam phối hợp với tỉnh Bắc Kạn tổ chức tọa đàm "Liên kết phát triển

du lịch tiểu vùng Đông Bắc". Tại diễn đàn này, đại diện các tỉnh tham dự

cũng đã bày tỏ mong muốn về việc xác lập một cơ chế chính sách cụ thể cho

việc liên kết xúc tiến du lịch trong khu vực.

Đó là việc cần tăng cường hợp tác giữa cơ quan quản lý Nhà nước của

mỗi tỉnh, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm; chú trọng cải thiện các tuyến

đường nối các điểm, khu du lịch nội tỉnh và liên tỉnh; xây dựng quỹ xúc tiến

du lịch vùng; liên kết đường dẫn, đăng tải thông tin du lịch lẫn nhau trên trang

website để cập nhật dữ liệu thường xuyên (về tài nguyên du lịch, các tour,

tuyến, điểm du lịch, sự phát triển của các dịch vụ lữ hành, lưu trú, vui chơi

giải trí, mua sắm, ẩm thực…); các sự kiện tại mỗi tỉnh phải có nội dung giới

thiệu, quảng bá cho du lịch các tỉnh bạn và ngược lại; xây dựng bản đồ chung

của 10 tỉnh trong vùng Đông Bắc…

“Liên kết phát triển du lịch là vấn đề được các địa phương vùng Đông

Bắc coi trọng trong bối cảnh Vùng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển

du lịch. Các tỉnh Đông Bắc cần đẩy mạnh liên kết để đề xuất các cơ chế,

chính sách, nâng cao nhận thức về phát triển du lịch; liên kết trong nghiên

cứu định hướng, xác định thị trường du lịch; liên kết trong công tác xúc tiến,

quảng bá, đầu tư; liên kết về đào tạo phát triển nguồn nhân lực; liên kết để

giữ gìn, bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch. Từ đó, có những giải pháp phù hợp

để phát triển du lịch, đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế - xã hội vùng

56

Đông Bắc”.

Hội thảo cũng đề cập tới việc nên thành lập Ban Chỉ đạo phát triển du

lịch vùng Đông Bắc, thành viên là các tỉnh. Hàng năm, Ban Chỉ đạo xây dựng

kế hoạch hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên; thường

xuyên kiểm tra, giám sát, theo dõi, giải quyết đánh giá tình hình thực hiện

công tác phát triển du lịch, giải quyết các vấn đề vướng mắc nhằm đẩy mạnh

hoạt động du lịch của vùng phát triển. Đẩy mạnh liên kết quảng bá, xúc tiến

du lịch và hợp tác quốc tế về du lịch. Các tỉnh phải tạo điều kiện mở rộng

quan hệ hợp tác, đẩy mạnh liên kết phát triển du lịch của các địa phương, góp

phần thúc đẩy phát triển kinh tế giữa các tỉnh trong vùng Đông Bắc…

2.2. Nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

Xét về mặt lý thuyết (như đã trình bày ở chương 1 luận văn này),

nguyên tắc liên kết xúc tiến bao gồm:

- Thống nhất quan điểm liên kết

- Xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ liên kết

- Phải xác định rõ ràng thị trường và thông điệp quảng cáo

- Đồng thuận trong quyết định ngân sách xúc tiến

- Thường xuyên giám sát chương trình liên kết xúc tiến du lịch

Tuy nhiên, đối với khu vực Đông Bắc, qua điều tra thực địa thì hoạt

động liên kết xúc tiến du lịch mới đang ở những bước khởi đầu vì vậy việc

tiếp cận và nhận diện các nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch vùng rất khó

khăn. Tuy nhiên, có thể nhận thấy một vài thành tố của các nguyên tắc liên

kết xúc tiến du lịch khu vực này thể hiện trong các thông tin về liên kết phát

triển du lịch của toàn vùng Đông Bắc.

Đối với khu vực Đông Bắc, mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020, du

lịch các tỉnh tiểu vùng Đông Bắc nói riêng và vùng Trung du miền núi Bắc Bộ

nói chung có hệ thống sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương

57

hiệu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số vùng

Đông Bắc hấp dẫn khách du lịch, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa các dân tộc vùng núi. Đẩy mạnh hơn nữa về liên kết phát triển sản phẩm

du lịch trong tiểu vùng với nhau hoặc giữa tiểu vùng Đông Bắc với Tây Bắc,

Thủ đô Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng để tạo thành tam giác phát

triển du lịch Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng – Đông Bắc – Tây

Bắc, là một trong những chương trình du lịch đặc sắc của ngành du lịch Việt

Nam.

Mặc dù những nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

chưa thực sự được xác lập nhưng các địa phương đã hợp tác chặt chẽ với nhau

trong việc xây dựng một số chương trình phát triển du lịch (trong đó có nội

dung liên kết xúc tiến du lịch) như: chương trình “Ngày hội giao lưu văn hóa,

thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc”, Chương trình “Qua những

miền di sản Việt Bắc”. Đặc biệt, là đối với Chương trình “Qua những miền di

sản Việt Bắc”, từ năm 2009 đến nay, chương trình phát triển du lịch này đã

trở thành một trong những hoạt động xúc tiến du lịch, tạo sự liên kết, hợp tác,

xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng của mỗi tỉnh, kết nối và tạo các tour,

tuyến du lịch mới trên quy mô vùng – khu vực Đông Bắc.

Đông Bắc là vùng có một hệ thống tài nguyên du lịch phong phú, đa

dạng và có sức hấp dẫn du khách, là tiền đề để phát triển các loại hình du lịch

đặc thù như: du lịch sinh thái, du lịch lịch sử và du lịch tâm linh, du lịch văn

hóa… Tuy nhiên cho đến nay, du lịch Đông Bắc vẫn chưa phát triển tương

xứng với tiềm năng vốn có này. Vì vậy, liên kết vùng trong phát triển du lịch

Đông Bắc là cần thiết nhưng cần sớm xác định các nguyên tắc liên kết du lịch

nói chung và các nguyên tắc liên kết xúc tiến du lịch nói riêng để tạo sự đồng

thuận và thống nhất trong thực hiện nhằm quảng bá hình ảnh du lịch Đông

58

Bắc ra thị trường một cách hiệu quả.

2.3. Nội dung liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

Về mặt lý luận thì liên kết xúc tiến du lịch được thực hiện theo các nội

dung đã được khái quát ở Chương 1 luận văn này, gồm 4 nội dung cơ bản sau:

- Liên kết trong nghiên cứu thị trường và sản phẩm du lịch

- Liên kết trong tuyên truyền, quảng cáo, truyền thông và quan hệ công

chúng

- Liên kết xây dựng thương hiệu du lịch vùng

- Liên kết quản lý điểm đến du lịch

Tuy nhiên, đối với các tỉnh miền núi Đông Bắc, nhìn nhận từ phạm vi

tổng quát là quy mô vùng thì 4 nội dung liên kết xúc tiến du lịch nói trên gần

như không được nhận diện rõ ràng mà chúng được thực hiện lồng ghép, đan

xen với nhau. Bởi, như thực trạng về điều kiện liên kết xúc tiến du lịch vùng

Đông Bắc đã trình bày ở trên thì các tỉnh trong vùng đang ở giai đoạn sơ khởi

của việc thực hiện liên kết xúc tiến du lịch. Nói một cách khác, yêu cầu về

liên kết xúc tiến du lịch thì rất cấp thiết nhưng ngoài sự đảm bảo về điều kiện

tài nguyên du lịch thì những điều kiện khác như nhân lực, cơ sở hạ tầng/vật

chất kỹ thuật du lịch, cơ chế chính sách liên kết còn nhiều bất cập.

Chính vì vậy, trong những năm qua, vùng Đông Bắc mới chỉ tập trung

vào hợp tác thực hiện những chương trình phát triển du lịch trong đó có lồng

ghép nội dung liên kết xúc tiến du lịch ở những mức độ khác nhau, mà trong

đó nổi rõ nội dung liên kết trong hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, truyền

thông và quan hệ công chúng. Nội dung liên kết này được thể hiện rõ ràng

qua 2 chương trình phát triển du lịch mà vùng Đông Bắc đã thực hiện, đó là:

- Chương trình hợp tác phát triển du lịch “Qua những miền di sản Việt

Bắc”

59

- Ngày hội Văn hóa Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc

2.2.1. Liên kết xúc tiến du lịch bằng Chương trình du lịch “Qua những

miền di sản Việt Bắc”

Sáu tỉnh miền núi Đông Bắc mà luận văn đang tập trung nghiên cứu

(Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên)

thuộc khu tự trị Việt Bắc được thành lập vào năm 1956, mặc dù thời gian sau

khu tự trị Việt Bắc giải thể nhưng danh từ này vẫn tồn tại. Vùng Việt Bắc là

nơi cư ngụ chính của các dân tộc Tày-Nùng, thuộc dòng ngôn ngữ Thái, dân

tộc Dao và các nhóm thiểu số khác. Năm 1947, danh từ Việt Bắc xuất hiện để

chỉ chung vùng căn cứ cách mạng, tháng 10-1954, danh từ này lại được dùng

để chỉ chung toàn căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 6

tỉnh thuộc vùng Việt Bắc xưa nay đã nhiều đổi khác với những thành tựu lớn

trong kinh tế-xã hội, trong đó phải kể đến sự phát triển mạnh mẽ của du lịch.

Với mong muốn thúc đẩy du lịch, những năm qua, 6 tỉnh vùng Việt Bắc

xưa đã bắt tay nhau luân phiên tổ chức chương trình du lịch “Qua những

miền di sản Việt Bắc” để giới thiệu, tuyên truyền về tiềm năng du lịch của

vùng đất đặc biệt này. Đây là hoạt động thường niên, được triển khai lần đầu

tiên vào năm 2009, theo hình thức tổ chức luân phiên giữa 6 tỉnh Việt Bắc là

Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang.

Thông qua chương trình nhằm tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về miền đất,

con người, tiềm năng văn hóa, du lịch của 6 tỉnh vùng Việt Bắc. Trên cơ sở

đó tăng cường mối quan hệ giao lưu, học tập giữa các tỉnh, đồng thời, góp

phần thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư đến tham gia liên kết, đầu tư phát

triển du lịch trong vùng.

Ngày 17/8/2009 tại thị xã Hà Giang, lãnh đạo UBND 4 tỉnh Hà Giang -

Tuyên Quang - Bắc Kạn - Cao Bằng đã có buổi làm việc thống nhất nội dung

thỏa thuận hợp tác phát triển du lịch và đã ký kết Biên bản thoả thuận khung

60

về hợp tác phát triển du lịch 4 tỉnh trên nguyên tắc “Tự nguyện, bình đẳng,

hiệu quả và cùng có lợi” với mục tiêu liên kết, hợp tác cùng nhau phát triển

du lịch vùng, từng bước giảm thiểu khó khăn, khai thác tiềm năng thế mạnh

của mỗi địa phương. Nội dung hợp tác bao gồm 6 nhiệm vụ.

“Một là, tổ chức chương trình gắn với chuỗi sự kiện trong đó đẩy mạnh

việc liên kết tổ chức các sự kiện du lịch trong cụm nhằm tạo thành chuỗi sự

kiện du lịch để các doanh nghiệp xây dựng chương trình du lịch đáp ứng nhu

cầu của du khách trong và ngoài nước, đặc biệt cùng phối hợp tổ chức

chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc” theo hình thức luân phiên.

Hai là, xây dựng cơ chế quản lý và phát triển du lịch địa phương theo

hướng quản lý du lịch thống nhất và phù hợp cho khu vực 4 tỉnh, đồng thời

tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư khai thác phát

triển du lịch.

Ba là, hợp tác phát triển sản phẩm du lịch và lữ hành, xây dựng và

triển khai kế hoạch hợp tác phát triển sản phẩm du lịch liên vùng, trong đó

chú trọng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của mỗi địa phương nhằm hấp

dẫn thị trường khách du lịch quốc tế và nội địa.

Bốn là, hợp tác tuyên truyền quảng bá - xúc tiến du lịch, liên kết tổ

chức quảng bá sản phẩm, quảng bá điểm đến và tổ chức tiếp thị cho thị

trường du lịch; hợp tác trong công tác tuyên truyền quảng bá liên vùng, tập

trung xây dựng ấn phẩm quảng bá chung, lên phương án tham gia Hội chợ du

lịch, xây dựng kế hoạch chung để xúc tiến và quảng bá điểm đến và thu hút

đầu tư. Thường xuyên trao đổi thông tin du lịch giữa các tỉnh.

Năm là, hợp tác phát triển nguồn nhân lực du lịch địa phương nhằm

nâng cao chất lượng lao động trong ngành du lịch, coi trọng đào tạo đội ngũ

hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch, đào tạo ngoại ngữ, kỹ năng phục vụ

61

du lịch, bồi dưỡng kiến thức về văn hóa truyền thống các dân tộc.

Sáu là, hợp tác xây dựng hạ tầng giao thông và viễn thông trong đó coi

trọng việc phối hợp xây dựng kế hoạch phát triển đường giao thông nối liền

các tuyến du lịch”.

Để thực hiện thỏa thuận hợp tác trên, Thường trực Uỷ ban nhân dân và

lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 4 tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang,

Bắc Kạn, Cao Bằng đã có buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao

và Du lịch Hoàng Tuấn Anh cùng các Cục, Vụ liên quan. Trên cơ sở báo cáo

và kiến nghị của 4 tỉnh về định hướng hợp tác phát triển du lịch, tại Thông

báo kết luận số 3205/TB-BVHTTDL ngày 23/9/2009 của Bộ trưởng nêu rõ:

“Bốn tỉnh miền núi Đông Bắc cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, điều kiện phát

triển kinh tế - xã hội rất khó khăn, là vùng đất giàu truyền thống cách mạng,

đậm bản sắc văn hóa các dân tộc, có nhiều di tích lịch sử cách mạng, nhiều

danh thắng nổi tiếng và có nhiều tiềm năng, lợi thế để hợp tác phát triển du

lịch. Với những điểm tương đồng trên đồng ý cho 4 tỉnh tổ chức Chương trình

du lịch qua những miền di sản theo hình thức luân phiên, mở đầu là tỉnh Hà

Giang, năm 2009; khi tổ chức thực hiện Chương trình phải coi trọng yếu tố

bản sắc văn hóa dân tộc, có sự gắn kết chặt chẽ giữa các hoạt động văn hóa,

thể thao và du lịch”.

Ngày 13/8/2010, tại Hội nghị xúc tiến Chương trình hợp tác phát triển

du lịch 6 tỉnh: Cao Bằng - Bắc Kạn- Lạng Sơn - Thái Nguyên – Tuyên Quang

- Hà Giang, đại diện lãnh đạo Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch 6 tỉnh đã họp

bàn và ký kết biên bản ghi nhớ làm cơ sở tham mưu cho UBND các tỉnh về

công tác phát triển du lịch trên địa bàn. Trong đó thống nhất việc đề xuất với

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa 2 tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn tham

gia vào cụm hợp tác phát triển du lịch. Tiếp đó tại văn bản số 692/TCDL-LH

ngày 12/7/2011 của Tổng cục Du lịch Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã

62

chấp thuận cho 2 tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn tham gia nhóm hợp tác phát

triển du lịch vùng cùng với các địa phương trên để tạo thành vùng du lịch

Chiến khu Việt Bắc.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chương

trình “Qua những miền di sản Việt Bắc” đã lần lượt được tổ chức tại tỉnh, cụ

thể như sau:

Bảng 2.3: Thời gian và đơn vị đăng cai tổ chức chương trình “Qua những

miền di sản Việt Bắc”

Thời gian tổ

Tỉnh đăng cai tổ

Hoạt động chính

chức

chức

Lần I (21 –

Hà Giang

- Biểu diễn các tiết mục nghệ thuật đặc sắc

23/11/2009)

trên sân với chủ đề tư tưởng “Hà Giang

cùng cả nước, khu vực hội nhập và phát

triển”

- Gắn kết với sức hấp dẫn du lịch theo

tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Hà

Giang - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh

- Tổ chức cuộc thi chung kết thuyết minh

viên du lịch “Vẻ đ p vùng Đông Bắc”

- Triển lãm ảnh các danh lam thắng cảnh và

con người của 4 tỉnh

- Triển lãm trưng bày, giới thiệu sản phẩm

du lịch, ẩm thực của 4 tỉnh và các làng văn

hóa, du lịch tỉnh Hà Giang.

- Thi trình diễn trang phục các dân tộc của

4 tỉnh

- Hành trình du lịch chuyên đề khám phá

Hà Giang-Tuyên Quang-Cao Bằng, Bắc

Kạn

63

- Tổ chức đốt pháo cây bông

Lần II (21 –

Tuyên Quang

- Liên hoan nghệ thuật và trình diễn các

23/11/2010)

trang phục dân tộc 4 tỉnh

- Giới thiệu một số nét sinh hoạt văn hóa

của các dân tộc Tuyên Quang

- Hội thảo liên kết hợp tác phát triển du lịch

“Về nguồn Việt Bắc”

- Thi đấu các môn thể thao

- Triển lãm ảnh miền đất và con người 4

tỉnh

- Hội chợ Thương mại - Du lịch Tuyên

Quang năm 2010

- Giao lưu biểu diễn nghệ thuật chuyên

nghiệp.

Lần III (6 –

Bắc Cạn

- Thi đấu các môn thể thao

9/11/2011)

- Triển lãm ảnh Miền đất và Con người 6

tỉnh

- Biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp và

trình diễn trang phục dân tộc

- Hội thi thuyết minh viên du lịch giỏi,

thanh lịch

- Khảo sát giới thiệu tuyến, điểm du lịch

Bắc Kạn; Hội chợ Thương mại - Du lịch

Bắc Kạn.

Lần IV (6 –

Cao Bằng

- Triển lãm ảnh miền đất và con người Việt

8/10/2012)

Bắc - Cao Bằng xưa và nay

- Biểu dân giao lưu nghệ thuật chuyên

nghiệp của Đoàn nghệ thuật 6 tỉnh Việt

Bắc, Nhà hát ca múa nhạc dân gian Việt

64

Bắc, Đoàn nghệ thuật thành phố Bách Sắc,

Quảng Tây, Trung Quốc

- Thi đấu các môn: Tennis, Tung còn, đẩy

gậy và đi Guốc ván

- Hội chợ Thương mại - Du lịch quốc tế

Lần V (4 –

Lạng Sơn

- Khảo sát tour, tuyến du lịch trong 6 tỉnh

7/11/2013)

Việt Bắc

- Hội thảo “Xây dựng, phát triển tour, tuyến

du lịch 6 tỉnh Việt Bắc gắn với Thủ đô Hà

Nội”

- Hội thi Người đ p du lịch 6 tỉnh Việt Bắc

- Triển lãm về du lịch và ẩm thực với chủ

đề “Di sản văn hóa Việt Bắc gắn với phát

triển du lịch bền vững”.

- Giao lưu biểu diễn nghệ thuật chuyên

nghiệp 6 tỉnh Việt Bắc và 1 đoàn nghệ thuật

Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây,

Trung Quốc

- Các hoạt động thể dục thể thao với các

môn thể thao dân tộc như: kéo co, đi cà

kheo, đẩy gậy…

Lần VI (18 –

Thái Nguyên

- Triển lãm ảnh "Di sản văn hóa Việt Bắc -

20/11/2014)

điểm h n du lịch"

- Hội thảo khoa học bảo tồn, phát huy giá

trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch

vùng Việt Bắc

- Hội chợ triển lãm du lịch, văn hóa ẩm

thực và thương mại Thái Nguyên 2014... -

Điểm nhấn của Lễ khai mạc chính là

65

chương trình nghệ thuật với chủ đề "Qua

những miền di sản Việt Bắc" với sự tham

gia của hơn 500 diễn viên đến từ các đoàn

nghệ thuật trong vùng, Nhà hát ca múa nhạc

dân gian Việt Bắc và các nghệ sĩ nổi tiếng

trong nước.

Lần

VII

Hà Giang

- Lễ khai mạc tại sân Quảng trường 26.3,

(10/2015)

thành phố Hà Giang

- Trưng bày “Không gian văn hóa du lịch

vùng Việt Bắc”

- Tổ chức thi đấu các môn thể thao dân tộc

- Hội đua mảng Hà Giang mở rộng lần thứ

nhất

- Chương trình khảo sát du lịch tại Hà

Giang và tổng kết chương trình hợp tác

phát triển du lịch 6 tỉnh vùng Việt Bắc giai

đoạn 2009 – 2015, phương hướng giai đoạn

2015 – 2020.

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Như vậy, mặc dù mới hình thành khối liên kết hợp tác phát triển du lịch

nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng nhưng bước đầu hoạt động du

lịch khu vực Đông Bắc đã gặt hái được một số kết quả đáng khích lệ như:

Năm 2009, doanh thu hoạt động du lịch của 4 tỉnh tham gia chương trình đạt

gần 2.000 tỷ đồng, năm 2010 doanh thu đạt trên 2.500 tỷ đồng; công tác tuyên

truyền quảng bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng không ngừng

được đẩy mạnh; chất lượng hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch từng

bước được nâng cao; số lượng các nhà đầu tư, khách du lịch đến hợp tác,

66

tham quan, nghỉ dưỡng ngày một tăng góp phần quan trọng thúc đẩy phát

triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở các địa phương. Đồng thời bảo

tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, di sản văn hoá các dân tộc

của các tỉnh.

Qua sáu năm thực hiện Chương trình Du lịch qua những miền di sản

Việt Bắc, hoạt động du lịch các tỉnh trong vùng đã có những bước phát triển

khá, góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế- xã hội phát triển, ngày càng thu

hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến thăm quan, nghiên cứu, tìm

hiểu về mảnh đất, con người Việt Bắc. Thông qua Chương trình việc liên kết

hợp tác giữa các tỉnh đã được những thành tựu quan trọng, công tác cập nhật

trao đổi thông tin được nâng cao, hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch thông

qua các kỳ hội chợ, triển lãm được đẩy mạnh; các doanh nghiệp kinh doanh lữ

hành của các tỉnh trong vùng đã thực hiện trao đổi khách, liên kết tour, tuyến

tương đối tốt và bước đầu đã đạt được hiệu quả nhất định góp phần tích cực

trong công tác phát triển sản phẩm du lịch mới tại các địa phương. Chương

trình Du lịch Qua những miền di sản Việt Bắc đang dần tạo được thương hiệu

riêng cho vùng và tạo được sự chú ý của các nhà đầu tư, khách du lịch trong

và ngoài nước.

Như vậy, có thể khẳng định chương trình “Qua những miền di sản Việt

Bắc” là một cách làm hiệu quả mà khu vực Đông Bắc đang áp dụng để thúc

đẩy du lịch phát triển. Bởi đây là con đường bảo tồn, phát huy giá trị của các

di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch, coi đây là nhiệm vụ chiến lược, có ý

nghĩa lịch sử, văn hóa, kinh tế quan trọng. Các tỉnh trong vùng đã thống nhất

liên kết triển khai nhiều hoạt động nhằm bảo tồn các di sản văn hóa vật thể,

phi vật thể và phát triển sự nghiệp du lịch, như khảo sát, phối hợp xây dựng

các tour, tuyến du lịch liên tỉnh, kết nối với các địa phương, các tỉnh trong

67

nước và khu vực châu Á…

Rõ ràng, theo Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020,

tầm nhìn 2030 đã xác định, phát triển du lịch theo vùng có chiều sâu, trọng

tâm, trọng điểm, có thương hiệu và khả năng cạnh tranh là định hướng lớn

nhằm phát triển du lịch trong vùng lãnh thổ phù hợp với đặc điểm, tài nguyên

du lịch gắn với đặc trưng của vùng, tạo thành các cụm liên kết phát triển

mạnh du lịch. Vì thế, du lịch Việt Bắc muốn phát triển cần tạo được liên kết

vùng vững chắc. Việc luân phiên tổ chức Chương trình du lịch “Qua những

miền di sản Việt Bắc” hằng năm cũng là một cách làm hiệu quả mà các tỉnh

vùng Việt Bắc đang áp dụng để thúc đẩy phát triển liên kết vùng du lịch. Từ

chương trình này, lãnh đạo các tỉnh trong vùng có cơ hội gặp gỡ, giao lưu,

trao đổi kinh nghiệm phát triển du lịch; các hãng lữ hành biết thêm nhiều

tuyến, điểm du lịch mới qua sự giới thiệu của ngành du lịch địa phương... Sở

hữu nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo, du lịch vùng Việt Bắc

sẽ thực sự cất cánh nếu có sự đầu tư thỏa đáng trong tương lai.

Tóm lại, với Chương trình “Du lịch qua những miền di sản Việt Bắc”,

khu vực Đông Bắc đang từng bước thắt chặt mối liên kết, xây dựng cơ chế

quản lý du lịch thống nhất và phù hợp, khai thác những tiềm năng, thế mạnh

của từng địa phương. Đồng thời, nỗ lực thực hiện liên kết xúc tiến du lịch

nhằm huy động tối đa nguồn lực của các địa phương trong phát triển du lịch,

tránh lãng phí tài chính, tránh trùng lặp sản phẩm du lịch, xây dựng và quảng

bá sản phẩm du lịch đặc thù vùng; xây dựng, xác lập và quảng bá hình ảnh du

lịch vùng ra thị trường… Đồng thời thực hiện các chương trình du lịch liên

kết vùng, định hướng theo nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, quyết

tâm xây dựng mảnh đất Việt Bắc thành vùng phát triển du lịch theo hướng

68

bền vững trong tương lai.

2.3.2. Liên kết xúc tiến du lịch qua sự kiện “Ngày hội văn hóa thể thao và

du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc”

Khu vực Đông Bắc - miền phên dậu - vùng đất thiêng luôn bảo vệ, chở

che cho Tổ quốc Việt Nam. Đây là nơi căn cứ địa vững chắc của nhiều thời

kỳ cách mạng với những chiến công hào hùng. Mỗi tên đất, tên bản làng đã đi

vào lịch sử và mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Đông Bắc còn là

nơi hội tụ và kết tinh nhiều giá trị văn hóa lịch sử bất diệt từ quá khứ đến hiện

đại. Nhìn nhận được điều đó, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo các

tỉnh trong khu vực thực hiện Ngày hội Văn hóa Thể thao và Du lịch các dân

tộc vùng Đông Bắc.

Mục đích: Đây là một hoạt động văn hóa chính trị quy mô lớn được tổ

chức nhằm giới thiệu, quảng bá với bạn bè trong nước và quốc tế về tiềm

năng, thế mạnh phát triển văn hóa, thể thao, du lịch và các giá trị di sản văn

hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc trong công cuộc đổi mới, hội nhập và

phát triển. Thông qua đó, góp phần gìn giữ, phát huy và tôn vinh bản sắc văn

hóa các dân tộc, giáo dục truyền thông yêu nước, lòng tự hào dân tộc, củng

cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,

nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân. Ngày hội còn là cầu

nối giao lưu, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm giữa nghệ nhân, diễn viên, vận

động viên các tỉnh trong khu vực.

Yêu cầu:

+ Các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch được tổ chức trong

Ngày hội phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, đảm bảo chất lượng, hiệu

quả, thiết thực và tiết kiệm.

+ Gắn hoạt động văn hóa, thể thao với quảng bá tiềm năng thu

69

hút phát triển du lịch của các tỉnh. Các nội dung hoạt động của Ngày hội phải

do các nghệ nhân, nghệ sỹ, diễn viên, nhạc công, vận động viên đến từ các

tỉnh vùng Đông Bắc thực hiện.

+ Chọn lọc đặc trưng văn hóa tiêu biểu của đồng bào trong khu

vực, tổ chức hoạt động mang tính cộng đồng, đề cao vai trò chủ thể văn hóa,

giao lưu văn hóa, đảm bảo yếu tố bảo tồn, tôn vinh và phát huy giá trị văn hóa

truyền thống gắn với các yếu tố tiến bộ của thời đại; góp phần tạo dựng một

sân chơi văn hóa, thể thao và du lịch thật sự bổ ích của cộng đồng các dân tộc

vùng Đông Bắc.

+ Về công tác chỉ đạo phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung,

linh hoạt, sáng tạo trong công tác chỉ đạo, phối hợp tổ chức thực hiện kế

hoạch Ngày hội giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban nhân dân tỉnh

Bắc Kạn và các tỉnh vùng Đông Bắc.

Các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch trong ngày hội là dịp để các

nghệ nhân, diễn viên, vận động viên các địa phương gặp gỡ, giao lưu, học hỏi

và giới thiệu những nét văn hóa, thể thao và du lịch truyền thống tốt đ p, đặc

sắc của mỗi dân tộc; đồng thời phát huy giá trị di sản văn hóa của vùng Đông

Bắc trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển. Ngày hội còn là dịp

nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và đồng bào các dân tộc trong khu

vực về ý thức trách nhiệm của mình trong việc xây dựng, phát triển nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gắn công tác văn hóa, thể

thao và du lịch với việc thực hiện những mục tiêu kinh tế-xã hội theo Nghị

quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã đề ra… Như vậy, Ngày hội văn

hóa, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc mặc dù nhằm giới thiệu

tiềm năng văn hóa, thể thao và du lịch… nhưng chỉ thể hiện tính liên kết xúc

tiến du lịch thông qua việc các tỉnh trong khu vực cùng tổ chức một hoạt động

chung về văn hóa, thể thao và du lịch. Hoạt động này chưa hẳn là liên kết xúc

70

tiến du lịch.

Bảng 2.4: Một số chương trình Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch các dân

tộc vùng Đông Bắc giai đoạn 2008 - 2015

Thời gian

Tỉnh đăng cai

Hoạt động chính

tổ chức

Lần thứ VI

Bắc Giang

- Giới thiệu nhà ở và văn hóa ẩm thực đặc trưng

(2008)

- Chủ đề:

của đồng bà các dân tộc trong vùng

- Thi trang phục dân tộc truyền thống

- Liên hoan nghệ thuật dân gian truyền thống

- Trình diễn lễ hội và thi đấu các môn thể thao

dân tộc

- Trưng bày triển lãm cổ vật vùng Đông Bắc

- Triển lãm ảnh với chủ đề : "Du lịch văn hóa

qua các vùng, miền của đất nước"

Lần

VII

Phú Thọ

- Dâng hương tại Đền thờ Lạc Long Quân, đền

(T4/2010)

- Chủ đề:

Mẫu Âu Cơ, đền Thượng

- Lễ diễu hành trên hành trình: Đền Hùng -

thành phố Việt Trì - huyện Lâm Thao - Bãi

Bằng (huyện Phù Ninh) - Đền Hùng

- Trưng bày và giới thiệu văn hóa các dân tộc

vùng Đông Bắc, tranh thờ dân gian

- Triển lãm tư liệu về miền Lễ hội cội nguồn

dân tộc Việt Nam

- Trình diễn các trò chơi dân gian: đẩy gậy, kéo

co, tung còn…

Lần

VIII

Tuyên Quang

- Liên hoan nghệ thuật quần chúng vùng Đông

(27

- Chủ đề: “Đông

Bắc

30/9/2012)

Bắc – miền đất

- Triển lãm ảnh với chủ đề “Sắc màu văn hóa

thiêng liêng tươi

các dân tộc vùng Đông Bắc”

đ p”

- Giới thiệu ẩm thực đặc trưng vùng Đông Bắc

71

- Trình diễn trang phục các dân tộc gắn với

Chung kết cuộc thi “Người đ p Tuyên Quang;”

- Thăm quan Khu du lịch lịch sử và sinh thái

Tân Trào

- Tổ chức thi đấu các môn thể thao dân tộc.

Lần

IX

- Bắc Kạn

- Trình diễn, giới thiệu trích đoạn nghi lễ sinh

(2015)

- Chủ đề: “Đông

hoạt văn hóa hoặc trích đoạn lễ hội truyền

Bắc - Hội tụ,

thống tiêu biểu các dân tộc

đoàn kết và phát

- Trình diễn trang phục dân tộc truyền thống;

triển”

triển lãm ảnh về văn hóa các dân tộc thiểu số

- Giới thiệu ẩm thực đặc trưng vùng Đông Bắc

- Hội chợ Thương mại - Du lịch Bắc Kạn năm

2015…

- Kéo co, tung còn, bắn nỏ, đẩy gậy, bóng đá 7

người

- Tọa đàm liên kết phát triển du lịch tiểu vùng

Đông Bắc.

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Như vậy có thể khẳng định, ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các

dân tộc vùng Đông Bắc là một hoạt động văn hóa chính trị quy mô lớn được

tổ chức nhằm giới thiệu, quảng bá về tiềm năng, thế mạnh phát triển văn hóa,

thể thao, du lịch và các giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông

Bắc trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển. Đồng thời, góp phần gìn

giữ, phát huy và tôn vinh bản sắc văn hóa các dân tộc, tăng cường khối đại

đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức

hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân. Bên cạnh đó, Ngày hội cũng là cầu

nối giao lưu, gặp gỡ giữa các nghệ nhân, diễn viên, vận động viên các tỉnh

72

trong khu vực.

Theo góc nhìn liên kết xúc tiến du lịch thì trong tổng hòa các hoạt động

của Ngày hội Văn hóa thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc mục

tiêu liên kết xúc tiên du lịch còn rất mờ nhạt. Khu vực Đông Bắc chưa thực sự

tận dụng triệt để sự kiện này để cùng nhau thiết lập chiến lược và hành động

đưa hình ảnh đặc trưng của vùng quảng bá ra thị trường trong nước và quốc

tế.

Tuy nhiên, trong khuôn khổ Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch các

dân tộc vùng Đông Bắc lần thứ IX 2015 tại Bắc Kạn, đã diễn ra buổi tọa đàm

với chủ đề “Liên kết phát triển du lịch tiểu vùng Đông Bắc, năm 2015”. Các

tham luận tại buổi tọa đàm đều hướng về một số vấn đề trọng tâm như: Sản

phẩm du lịch đặc thù vùng Đông Bắc; liên kết phát triển sản phẩm du lịch tiểu

vùng Đông Bắc và các khu vực khác; cơ chế, chính sách đẩy mạnh phát triển

du lịch tiểu vùng Đông Bắc... Các đại biểu cũng chia sẻ kinh nghiệm về phát

triển kinh tế du lịch bền vững của từng địa phương, đề đạt các kiến nghị, giải

pháp để từng bước cải thiện và nâng cao sự hợp tác của các tỉnh trong vùng

Đông Bắc. Tuy nhiên, cũng giống như các Ngày hội văn hóa thể thao và du

lịch trước, buổi tọa đàm lần này vẫn chưa xem xét một cách nghiêm túc và

thấu đáo riêng lẻ vấn đề liên kết xúc tiến du lịch vùng mà lồng ghép hoạt

động này trong các vấn đề có liên quan khác đến sự phát triển du lịch chung

cho toàn vùng.

Tuy nhiên, từ việc tổ chức các Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch các

dân tộc vùng Đông Bắc, chúng ta thấy rõ việc cần thiết phải liên kết phát triển

du lịch vùng nói chung và liên kết xúc tiến du lịch vùng nói riêng. Chính vì

vậy, trên cơ sở phát huy những lợi thế về tài nguyên và vị trí du lịch, chính

quyền các địa phương cần có những định hướng và giải pháp quản lý phát

triển du lịch của riêng mình. Để du lịch khu vực Đông Bắc phát triển tương

73

xứng với tiềm năng các tỉnh cần tập trung phát triển các sản phẩm du lịch dựa

trên các giá trị nổi bật của tài nguyên du lịch, tạo nên nét đặc trưng về sản

phẩm du lịch nhằm thu hút du khách. Phát triển du lịch có chiều sâu, theo

hướng nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp để bảo đảm sản phẩm du

lịch ngày càng khẳng định thương hiệu và tính cạnh tranh cao.

2.4. Đánh giá chung

2.4.1. Kết quả đạt được

Nhận thức của các tỉnh Đông Bắc về vai trò của du lịch, trong đó có

liên kết xúc tiến du lịch đã được củng cố, nâng dần lên và chuyển biến theo

hướng tích cực.

Quy mô và phạm vi hoạt động liên kết xúc tiến du lịch được mở rộng,

không chỉ tại địa phương mình mà mở rộng ra khu vực và cả nước. Có sự liên

kết, hợp tác các địa phương với nhau để cùng nhau xúc tiến quảng bá và phát

triển du lịch trong vùng.

Chất lượng hoạt động liên kết xúc tiến du lịch ngày càng được cải

thiện, với nhiều hoạt động mang lại hiệu quả thiết thực cho ngành du lịch, như

việc tổ chức các đoàn khảo sát tour, tuyến, điểm du lịch mới cho các đơn vị lữ

hành; tham gia các cuộc hội chợ triển lãm chuyên ngành du lịch, tham gia các

buổi hội thảo để tìm giải pháp giúp cho ngành du lịch ngành càng phát triển.

Đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến du lịch ngày càng trưởng thành,

trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, có những đóng góp

tích cực trong việc tham mưu cho các cấp đề ra được những chính sách,

chương trình có tính đột phá đối với hoạt động xúc tiến của du lịch, để công

tác xúc tiến từng bước đi vào nề nếp và có tính chuyên nghiệp.

2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân

Trong thời gian vừa qua đã có một số hoạt động liên kết quảng bá,

xúc tiến của du lịch các tỉnh Đông Bắc như cùng tham dự Hội chợ du lịch

74

quốc tế Hà Nội VITM, Tổ chức Hội chợ du lịch trong khuôn khổ Ngày hội

văn hóa thể thao và du lịch các dân tộc tỉnh Đông Bắc, tổ chức các buổi Tọa

đàm/Hội nghị về hợp tác phát triển du lịch/xúc tiến du lịch vùng… Tuy nhiên

vai trò của các Trung tâm Thông tin - Xúc tiến du lịch của một số tỉnh chưa

thực sự rõ nét, có tỉnh giao cho phòng Nghiệp vụ du lịch, có tỉnh thì không

tham gia v.v.. Hiện nay việc liên kết quảng bá, xúc tiến của của các tỉnh Đông

Bắc mới đang ở mức độ manh nha và còn điểm hạn chế, cụ thể như sau:

- Chưa có sự ký kết hợp tác một cách chính thức giữa các Trung tâm

Thông tin - Xúc tiến du lịch của các tỉnh. Hiện nay mới chỉ có một số cuộc

họp để trao đổi sơ bộ để thống nhất về chủ trương hợp tác chứ chưa có văn

bản ký kết hợp tác với những điều khoản rõ ràng.

- Chưa xây dựng được nội dung liên kết quảng bá, xúc tiến du lịch và

việc trao đổi thông tin giữa các tỉnh chưa được thường xuyên.

- Nguồn nhân lực thiếu về số lượng và hạn chế về chuyên môn nghiệp

vụ.

- Đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp trong xúc tiến du lịch/liên kết xúc

tiến du lịch ở từng địa phương không giống nhau: có Trung tâm xúc tiến du

lịch trực thuộc Sở VHTTDL tỉnh, có Trung tâm Xúc tiến du lịch trực thuôc

UBND tỉnh

- Các hoạt động xúc tiến du lịch của vùng có liên kết nhưng chưa chặt

chẽ và chưa dài hạn.

- Thiếu chiến lược xúc tiến du lịch cho toàn vùng trong từng giai đoạn,

từng thị trường. Tiếp thị điểm đến du lịch Đông Bắc cần thiết phải được tiếp

thị đồng bộ cùng với điểm đến du lịch Việt Nam.

Hoạt động liên kết xúc tiến du lịch các tỉnh Đông Bắc còn có những tồn

tại đã nêu bởi rất nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau, như:

- Kinh phí : ngân sách quảng bá du lịch của từng địa phương khiêm tốn,

75

cơ chế tài chính còn nhiều vướng mắc, bất cập, thiếu chính sách ưu tiên, cơ

chế cấp kinh phí hàng năm chưa linh hoạt để có thể xây dựng và triển khai

những kế hoạch xúc tiến du lịch mang tính đột phá.

- Chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao, thiếu tính độc đáo giữa các địa

phương trong vùng, gây cảm giác nhàm chán từ du khách, chưa có nhiều sản

phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo, sản phẩm quà tặng đặc trưng.

- Các địa phương, các công ty du lịch chưa có sự hợp tác bền chặt. Việc

liên kết nếu có thì chỉ là liên kết trong việc tổ chức sự kiện, chứ chưa thật sự

liên kết để cùng phát triển sản phẩm du lịch.

- Nguồn nhân lực hoạt động trong du lịch còn thiếu về chất và lượng

không đủ đáp ứng nhu cầu của vùng.

- Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn yếu kém chưa được đầu tư đúng

mức và thiếu đồng bộ. Thế mạnh của vùng là du lịch sinh thái, du lịch văn

hóa, du lịch lịch sử nhưng chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có,

khai thác tài nguyên du lịch còn nhiều bất cập. Số khách sạn 3 sao trở lên vẫn

còn ít, thiếu các khu vui chơi, và đặc biệt là thiếu các khu mua sắm cao cấp

nên không đủ hấp dẫn để giữ chân du khách trong thời gian dài so với các

vùng khác. Một trong những nguyên nhân quan trọng là công tác xúc tiến,

tuyên truyền, quảng bá, du lịch vùng Đông Bắc chưa được chú trọng đúng

mức, còn bị động.

- Toàn vùng Đông Bắc chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ nhà đầu tư

trong các các lĩnh vực khách sạn 5 sao, Khu vui chơi giải trí tầm cở khu vực

và quốc tế, sân golf… nên còn ít nhà đầu tư đến với Đông Bắc.

Nhìn chung, nhược điểm cơ bản trong liên kết xúc tiến du lịch khu vực

Đông Bắc hiện nay là tự phát và manh mún; thiếu tính lâu dài; hạn chế về

năng lực tài chính… Tuy còn nhiều hạn chế nhưng bước đầu liên kết xúc tiến

du lịch vùng Đông Bắc đã có một nền tảng tương đối ổn định về mặt tài

76

nguyên du lịch và thống nhất về chủ trương liên kết để bắt đầu bước vào giai

đoạn mới với những thách thức và cơ hội. Vì vậy, du lịch vùng Đông Bắc cần

phải gạt bỏ tính cục bộ để tăng cường liên kết, hợp tác thật sự hiệu quả, hơn

nữa.

Như vậy, có thể thấy liên kết xúc tiến du lịch 6 tỉnh miền núi Đông Bắc

(Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) bước

đầu cũng đã có những khởi sắc nhất định. Tuy nhiên vẫn nằm trong tình trạng

hình thức, chỉ lo tổ chức các sự kiện mang tính chất quảng bá bề nổi mà thiếu

chiều sâu. Đặc biệt, liên kết xúc tiến du lịch ở vùng Đông Bắc chưa thực sự

hình thành được cơ chế chung trong chỉ đạo, điều hành, khuyến khích mở

rộng liên kết song phương giữa hai tỉnh và đa phương với nhiều tỉnh khác

nhau. Mặc dù phạm vi liên kết đã mở rộng cả sự quảng bá, tạo sản phẩm, xây

dựng các chính sách, đào tạo nguồn nhân lực.

Hi vọng nếu được sự quan tâm của Bộ VHTTDL và TCDL chắc chắn

sự liên kết xúc tiến du lịch ở vùng miền núi còn nhiều khó khăn sẽ xuất hiện

những điểm sáng mới, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở vùng

cao xa xôi.

Tiểu kết chƣơng 2

Với hệ thống cứ liệu, số liệu cụ thể, nội dung chương 2 đã đi sâu trình

bày, phân tích và đánh giá thực trạng liên kết xúc tiến du lịch 6 tỉnh khu vực

Đông Bắc hiện nay, chỉ ra những điểm còn hạn chế trong công tác liên kêt

xúc tiến du lịch tại 6 tỉnh khu vực Đông Bắc và nguyên nhân của những hạn

chế đó. Với những luận cứ trên, chương 2 cũng góp phần làm rõ tính lỏng lẻo

và thiếu hiệu quả trong liên kết xúc tiến du lịch giữa 6 tỉnh khu vực Đông Bắc

mà luận văn nghiên cứu. Đây chính là cơ sở, làm căn cứ cho việc đưa ra các

77

định hướng và đề xuất giải pháp, kiến nghị ở chương 3.

Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM LIÊN KẾT XÚC TIẾN

DU LỊCH KHU VỰC ĐÔNG BẮC

3.1. Căn cứ đề xuất giải pháp

3.1.1. Quan điểm, mục tiêu liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

Liên kết trong lĩnh vực xúc tiến, quảng bá du lịch là một xu thế tất yếu

của mỗi địa phương, mỗi khu vực và của mỗi quốc gia, trong đó có liên kết

giữa Trung ương và địa phương; Liên kết giữa các địa phương với nhau; Liên

kết giữa ngành du lịch với các ngành có liên quan; Liên kết giữa ngành du

lịch với các doanh nghiệp; Liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau v.v.. Việc

liên kết quảng bá, xúc tiến du lịch sẽ tiết kiệm được chi phí và sẽ tạo được

hiệu ứng lớn hơn, thu hút được sự quan tâm đông đảo hơn và cũng sẽ tạo

được lòng tin lớn của du khách. Do vậy, công tác quảng bá xúc tiến sẽ đạt

được hiệu quả cao hơn. Khi tham gia các sự kiện quảng bá, xúc tiến du lịch

lớn ở trong và ngoài nước (tham gia các sự kiện quảng bá, xúc tiến du lịch

lớn, đặc biệt là các sự kiện quảng bá, xúc tiến du lịch ở nước ngoài) đòi hỏi

một nguồn kinh phí lớn. Nếu từng tỉnh tham gia riêng thì khó có thể đảm bảo

kinh phí và nhân lực, nhưng nếu các tỉnh liên kết hợp tác thì hoàn toàn có thể

thực hiện được.

Liên kết quảng bá, xúc tiến sẽ giúp cho các tỉnh hiểu rõ về tiềm năng

thế mạnh của các tỉnh trong khu vực, qua đó có điều kiện để xác định, xây

dựng những sản phẩm du lịch đặc trưng và có thế mạnh của mỗi địa phương

tránh trùng lắp với các địa phương khác trong khu vực. Hơn nữa, trong quá

trình liên kết quảng bá, xúc tiến, các Trung tâm Thông tin – Xúc tiến du lịch

có thể trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm của nhau rất nhiều về cách

78

thức tổ chức, tham gia các sự kiện, các hình thức quảng bá, xúc tiến v.v..

Đối với khu vực Đông Bắc, mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, du lịch

các tỉnh tiểu vùng Đông Bắc nói riêng và vùng Trung du, miền núi Bắc Bộ

nói chung có hệ thống sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương

hiệu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số vùng

Đông Bắc, hấp dẫn khách du lịch, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị

văn hóa các dân tộc vùng núi. Đẩy mạnh hơn nữa về liên kết phát triển sản

phẩm du lịch trong tiểu vùng với nhau hoặc giữa tiểu vùng Đông Bắc với Tây

Bắc, Thủ đô Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng để tạo thành tam giác

phát triển du lịch Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng – Đông Bắc –

Tây Bắc, là một trong những chương trình du lịch đặc sắc của ngành du lịch

Việt Nam.

Trong thời gian tới, Sở Văn hóa- Thể thao và Du lịch của các tỉnh Đông

Bắc phải tích cực tham mưu cho UBND tỉnh về lĩnh vực phát triển du lịch của

địa phương trong chiến lược phát triển du lịch chung của Việt Nam đến năm

2020, tầm nhìn đến 2030; tăng cường phát triển du lịch với các tỉnh vùng

Đông Bắc và các Công ty du lịch lữ hành lớn; đẩy mạnh thực hiện liên kết du

lịch theo vùng; việc liên kết giữa các địa phương vùng Đông Bắc sẽ cho phép

khai thác những lợi thế của các tỉnh để tạo nên sức hấp dẫn về du lịch mang

tính đặc thù toàn vùng. Trong những năm tới, các tỉnh trong tiểu vùng Đông

Bắc tăng cường hơn nữa công tác đầu tư xúc tiến, giới thiệu, quảng bá du lịch

giữa các tỉnh nhằm phát triển các sản phẩm du lịch mới, hạn chế sự trùng lặp

về sản phẩm du lịch giữa các tỉnh với nhau. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh liên

kết phát triển du lịch trong tiểu vùng tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và

đảm bảo phát triển hài hòa, bền vững.

- Phát triển du lịch dựa trên sự phát huy nội lực, sức mạnh tổng hợp của

các ngành, các thành phần kinh tế, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để ưu tiên

79

đầu tư cơ sở vật chất cho ngành du lịch nhằm phát huy các tiềm năng, lợi thế

của các tỉnh trong vùng. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp vì vậy cần

phát huy, khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực nội lực. Ngoài ra cần tranh thủ

sự giúp đỡ bên ngoài đặc biệt từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Có như

vậy du lịch Đông Bắc mới phát triển đúng hướng và đạt được mục tiêu đề ra.

- Phát triển du lịch Đông Bắc phải đặt trong mối quan hệ với sự phát

triển du lịch của các tỉnh/vùng phụ cận (Tây Bắc, vùng trung du miền núi Bắc

Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc). Trong phát triển du

lịch cần chú trọng thị trường khách du lịch nội địa, đặc biệt là phân khúc thị

trường có khả năng chi trả cao nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch

cho các tỉnh Đông Bắc.

3.1.2. Định hướng về thị trường mục tiêu của khu vực Đông Bắc

Thị trường là nhân tố quan trọng của sự phát triển, để đẩy nhanh tốc độ

phát triển cần có những sản phẩm phù hợp với từng loại thị trường và không

ngừng mở rộng, phát triển thị trường. Với đặc thù về tài nguyên du lịch của

Đông Bắc, các tỉnh trong vùng định hướng phát triển thị trường như sau:

3.1.2.1. Thị trường du lịch quốc tế

Khu vực châu Á:

- Thị trường Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan và Hồng Kông): chiếm

thị phần lớn so với các thị trường khách quốc tế đến Việt Nam nói chung và

vùng Đông Bắc nói riêng. Đặc điểm chính của thị trường khách Trung Quốc

là khả năng chi tiêu thấp; thường sử dụng các dịch vụ chất lượng trung bình,

giá rẻ. Tuy nhiên, dù tiêu dùng du lịch thấp hơn các thị trường khác nhưng

với việc gia tăng số lượng khách ngày càng chọn Việt Nam làm điểm đến thì

Trung Quốc vẫn là thị trường chủ yếu của du lịch Việt Nam.

- Thị trường Nhật Bản: đây là thị trường có khả năng chi trả cao cho

chuyến đi du lịch, tuy nhiên cũng yêu cầu rất cao về chất lượng của các sản

80

phẩm du lịch và dịch vụ, chú trọng đến các vấn đề về an ninh, môi trường, về

vệ sinh an toàn thực phẩm… Khách du lịch Nhật Bản quan tâm nhiều đến các

sản phẩm du lịch văn hóa và thích mua sắm hàng lưu niệm, thủ công mỹ

nghệ.

- Thị trường Hàn Quốc: hiện nay, thị trường này đến Đông Bắc còn

chưa thực sự nhiều nhưng đang có xu hướng tăng và có khả năng thanh toán

cao… do vậy cần xác định đây là một thị trường tiềm năng. Cũng như người

Nhật, người Hàn cũng có yêu cầu rất cao về chất lượng các sản phẩm du lịch,

dịch vụ, vệ sinh môi trường và về an ninh… Các đối tượng chính của thị

trường Hàn Quốc cần tiếp thị là các nhà đầu tư, sinh viên…

Khu vực Bắc Mỹ:

- Thị trường Mỹ: đây là thị trường có khả năng thanh toán cao, đòi hỏi

chất lượng các sản phẩm và dịch vụ du lịch rất cao… Hiện nay, thị trường này

đến Đông Bắc bắt đầu tăng. Các đối tượng cần được quan tâm khai thác của

thị trường Mỹ là các cựu chiến binh, các nhà đầu tư, Việt kiều.

- Thị trường Canada: đây cũng là một thị trường tiềm năng, có khả

năng chi tiêu tương đối lớn. Các đối tượng cần khai thác chủ yếu là những

khách thuộc tầng lớp thanh niên, trung niên.

Thị trƣờng Châu Âu:

- Khách Pháp: là thị trường chính, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng

số khách Châu Âu đến Đông Bắc. Các đối tượng khách của thị trường Pháp

rất đa dạng và thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau (thương nhân, nhà

nghiên cứu, sinh viên, người già, người trẻ…). Khách Pháp đòi hỏi chất lượng

các dịch vụ du lịch cao, có khả năng chi trả cao, thích những sản phẩm và

dịch vụ mang phong cách truyền thống và phong cách Pháp… Tuy nhiên, họ

rất thực dụng, chỉ chấp nhận giá cả tương xứng với chất lượng dịch vụ.

- Các thị trường châu Âu khác: sau thị trường Pháp, các thị trường Tây

81

Âu có nhiều khách đến Đông Bắc. Cũng như khách Pháp, các thị trường này

có những tâm lý, sở thích, những đòi hỏi rất cao về chất lượng dịch vụ du

lịch. Các thị trường Đông Âu bắt đầu phát triển trong vài năm trở lại đây và sẽ

là những thị trường tiềm năng của du lịch Đông Bắc. Các sản phẩm ưa thích

của thị trường Đông Âu là: du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tham quan…

3.1.2.2. Thị trường khách du lịch nội địa

Đây là thị trường cần được quan tâm đặc biệt trong giai đoạn phát triển

đến năm 2020. Khách du lịch nội địa rất đa dạng, gồm nhiều tầng lớp xã hội,

nhiều địa vị và nhiều nghề nghiệp khác nhau. Họ có thể tổ chức đi du lịch

theo gia đình, theo nhóm lẻ, hoặc theo đoàn… Mục đích chính của khách du

lịch nội địa đến Đông Bắc là tham gia vào các loại hình du lịch sau: tham

quan thắng cảnh, du lịch cuối tuần, du lịch lễ hội tín ngưỡng, du lịch sinh thái,

du lịch công vụ…

- Khách du lịch tham quan thắng cảnh: chiếm một tỷ trọng đáng kể,

đến từ khắp mọi miền đất nước với đủ các thành phần xã hội, nghề nghiệp và

lứa tuổi song nhiều nhất là sinh viên, thanh niên, trung niên.

- Khách du lịch cuối tuần: hiện nay, hình thức du lịch này đang phát

triển rất nhanh, nhất là ở các thành phố lớn – nơi mà áp lực của cuộc sống, áp

lực của công việc rất lớn, ảnh hưởng đến cường độ và chất lượng lao động

của người lao động. Do vậy, vào những ngày nghỉ cuối tuần, các tầng lớp lao

động thường tập trung vào những điểm du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, vui

chơi, giải trí để thư giãn, tìm cảm giác thoải mái sau mỗi tuần lao động và tái

phục hồi sức lao động.

- Khách du lịch sinh thái: các hoạt động mang bản chất du lịch sinh thái

ở các tỉnh Đông Bắc hiện nay đang phát triển rất mạnh. Đối tượng chính của

loại hình du lịch này là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên, thanh niên,

82

những người thích khám phá, yêu thiên nhiên. Các hoạt động du lịch sinh thái

cũng thường được diễn ra quanh năm, ít chịu ảnh hưởng bởi tính mùa vụ

trong du lịch.

- Khách du lịch thương mại, công vụ, biên mậu: đối tượng chính của

loại hình du lịch này là các cán bộ công nhân viên trong các cơ quan/doanh

nghiệp thường kết hợp giữa công tác và du lịch. Khả năng chi tiêu của họ khá

cao, thường sử dụng các dịch vụ du lịch cao cấp. Loại hình này cũng thường

diễn ra quanh năm, ít chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên.

3.1.3. Định hướng về sản phẩm du lịch của khu vực Đông Bắc

Quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch đến năm 2015, định hướng đến

năm 2020 của các tỉnh Đông Bắc đã chỉ rõ: “Phát triển du lịch là nhiệm vụ

quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; trước mắt cần tập trung

cho công tác quy hoạch và đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; khuyến

kích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào l nh vực du lịch nhằm khai

thác tốt tiềm năng lợi thế của địa phương...” [1]. Dựa trên thế mạnh của

mình, các địa phương cần xác định: phát huy tiềm năng du lịch cần tập trung

vào 3 vấn đề trọng tâm là du lịch sinh thái, du lịch lịch sử và du lịch văn hóa.

Điểm qua các nguồn tài nguyên du lịch, từ tài nguyên thiên nhiên cho

đến tài nguyên nhân văn, Đông Bắc có những lợi thế so sánh khá rõ nét, cho

phép du lịch phát triển nhiều loại hình hấp dẫn như: du lịch văn hóa – tâm

linh, lễ hội, du lịch cộng đồng, khám phá, leo núi, nghỉ dưỡng, du lịch về

nguồn; đặc biệt trên địa bàn có những cửa khẩu, chợ nổi tiếng thuận lợi cho

phát triển du lịch biên giới, du lịch mua sắm.

- Du lịch văn hóa: hiện nay đang là xu hướng chung của cả nước vì

đem lại giá trị lớn cho cộng đồng và xã hội. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào

những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những

83

phong tục tín ngưỡng để tạo sức hút với khách du lịch.

- Du lịch sinh thái: phát triển du lịch sinh thái là hướng tiếp cận tới sự

bền vững và là định hướng ưu tiên của du lịch Việt Nam.

3.1.4. Những định hướng chính do luận văn đề xuất

Trên cơ sở các quyết sách của Trung ương và của 6 tỉnh trong khu vực

Đông Bắc, căn cứ vào thực trạng phát triển du lịch tại 6 tỉnh khu vực Đông

Bắc và kinh nghiệm thực hiện liên kết xúc tiến du lịch của các vùng khác

trong cả nước, luận văn đề xuất một số định hướng chính trong liên kết xúc

tiến du lịch 6 tỉnh khu vực Đông Bắc như sau:

- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế liên kết xúc tiến du lịch và quản lý

điểm đến du lịch: Đề ra mục tiêu, nguyên tắc liên kết, xây dựng cơ chế và mô

hình liên kết nhằm quản lý và triển khai hoạt động liên kết xúc tiến du lịch

một cách đồng bộ, từ đó có kế hoạch cụ thể tổ chức hoạt động du lịch trên địa

bàn 6 tỉnh, quản lý nhân sự, tài nguyên và vốn để thực hiện các hoạt động

khác.

- Định hướng phát triển thị trường du lịch, sản phẩm du lịch: Đẩy

mạnh phát triển thị trường khách nội địa, lựa chọn chú trọng khách có mục

đích tham quan kết hợp tìm hiểu văn hóa bản địa và gần gũi với thiên nhiên,

khuyến khích phát triển thị trường khách du lịch có nhu cầu du lịch theo

chuyên đề; Lựa chọn thị trường khách quốc tế tiềm năng phù hợp với điều

kiện phát triển du lịch của khu vực; Đầu tư nghiên cứu, lựa chọn và phát triển

sản phẩm đặc thù, sản phẩm nổi bật và sản phẩm phụ trợ.

- Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển du lịch: Có biện pháp và cơ chế

chính sách ưu tiên đầu tư, thu hút đa dạng cơ cấu nguồn vốn đầu tư, từ đó,

nâng cao tổng nguồn vốn đầu tư; Ưu tiên đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng –

vật chất kỹ thuật ngành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch,

đặc biệt chú trọng đầu tư hạ tầng giao thông nối liền 6 tỉnh và nối các điểm du

84

lịch trong 6 tỉnh; phát triển nguồn nhân lực phục vụ trong du lịch.

- Tăng cường công tác quảng bá xúc tiến du lịch và xây dựng thương

hiệu du lịch vùng: Cần liên kết quảng bá, xúc tiến du lịch nhằm tiết kiệm chi

phí, tạo được hiệu ứng lớn hơn, thu hút được sự quan tâm đông đảo hơn và

tạo được lòng tin lớn của du khách. Có kế hoạch xúc tiến quảng bá ngắn hạn

hàng năm và dài hạn, đa dạng hóa các loại hình quảng bá.

Xây dựng thương hiệu du lịch của từng tỉnh và của cả khu vực.

3.2. Giải pháp liên kết xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc

3.2.1. Giải pháp liên kết trong nghiên cứu thị trường và phát triển sản

phẩm du lịch

Việc nghiên cứu xây dựng các thương hiệu và các sản phẩm du lịch

mang bản sắc của mỗi vùng, mỗi địa phương sẽ giúp cho các tỉnh hiểu rõ về

tiềm năng thế mạnh của các tỉnh trong khu vực. Qua đó các tỉnh có điều kiện

để xác định xây dựng những sản phẩm du lịch đặc trưng và có thế mạnh của

mỗi địa phương tránh trùng lắp với các địa phương khác trong khu vực.

Thực tiễn ở nhiều vùng, sự liên kết du lịch khó hiệu quả vì các địa

phương đều có các sản phẩm du lịch na ná giống nhau, ví dụ: cùng thưởng

thức ẩm thực Tày, ngủ nhà sàn Tày, mua thổ cẩm của người Dao…,nhưng

đến khi triển khai kế hoạch liên kết, mỗi tỉnh lại lựa chọn những nét đặc thù

của địa phương, bước đầu quảng bá và tạo sản phẩm du lịch. Tuy cùng là loại

hình du lịch sinh thái núi nhưng các hoạt động du lịch của Hà Giang phải

khác hẳn với Cao Bằng và cũng không giống với Bắc Kạn. Mỗi tỉnh tìm ra lợi

thế riêng, tạo sản phẩm riêng về du lịch là vấn đề quan trọng để phát huy thế

mạnh của liên kết vùng.

Để tăng mức độ hấp dẫn của điểm đến trong khu vực miền núi Đông

Bắc và nâng tính cạnh tranh du lịch Đông Bắc, cần tập trung xây dựng sản

85

phẩm du lịch đặc thù của vùng đã được đề xuất trong định hướng. Đây được

xem là giải pháp quan trọng góp phần tạo bứt phá của du lịch Đông Bắc trong

giai đoạn phát triển đến năm 2020 – tầm nhìn 2030.

Cần hợp tác xây dựng các chương trình du lịch chung của khu vực

Đông Bắc tạo thương hiệu riêng cho vùng, bên cạnh đó chủ động xây dựng và

phát triển các chương trình du lịch riêng, mang tính đặc thù của tỉnh. Các tỉnh

đề xuất quy hoạch phát triển các chương trình du lịch chung của toàn khu vực

trên cơ sở những định hướng đã được xác định trong quy hoạch tổng thể phát

triển du lịch Vùng Bắc Bộ mà Tổng cục Du lịch đang thực hiện. Sản phẩm du

lịch là tập hợp các dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch, chính vì vậy

việc xây dựng sản phẩm du lịch của Đông Bắc không thể mạnh ai nấy làm,

càng không thể trùng lặp, đơn điệu, nhàm chán. Vì vậy các tỉnh cùng thống

nhất xây dựng sản phẩm chung cho cả vùng với mục đích hội tụ đầy đủ tinh

hoa, tính hấp dẫn, độc đáo, đặc điểm của từng địa phương, mang tính đặc thù

vùng miền nhưng tránh trùng lặp giữa các vùng trong cả nước.

Các tỉnh khu vực Đông Bắc là vùng có cảnh quan du lịch tự nhiên độc

đáo, đặc trưng của miền núi với nhiều danh lam thắng cảnh tự nhiên, núi non

hùng vĩ, hệ thống hang động thiên nhiên phong phú, đa dạng. Đông Bắc từ xa

xưa đã trở thành một khu vực sống tập trung của nhiều nhóm dân tộc thiểu số

có những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo của các dân tộc, chứa

đựng trong đó các giá trị lịch sử, nhân văn sâu sắc. Có thể nói, cảnh quan môi

trường sinh thái và những giá trị văn hóa đa dạng của nhiều dân tộc là tiềm

năng to lớn tạo nên một Việt Bắc rất riêng, thu hút đông đảo du khách trong

và ngoài nước. Vì vậy để khai thác hiệu quả và hợp lý cần rà soát thống kê

các loại hình du lịch gắn với di sản văn hóa các dân tộc, sinh thái, tâm linh,

cộng đồng... một cách đầy đủ, khoa học; có chính sách đầu tư thoả đáng cho

các chương trình, dự án nghiên cứu bảo tồn và phát huy các nguồn tài nguyên

86

trên. Đặc biệt là đầu tư cho công tác sưu tầm, phục dựng Lễ hội giàu tính

nhân văn và mang đậm bản sắc của các dân tộc thiểu số các vùng miền nhằm

phát triển du lịch vùng một cách bền vững.

Ngoài sản phẩm du lịch đặc thù, các tỉnh miền núi Đông Bắc cần tiếp

tục đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch bổ trợ. Các sản phẩm bổ sung này

vừa có tác dụng nâng cao sức cạnh tranh, sức hấp dẫn của sản phẩm đặc thù

còn có tác dụng thu hút thêm các thị trường khách mới, nhằm đa dạng hóa thị

trường khách, đảm bảo tính bền vững, ổn định, tăng cường khả năng chống

đỡ với các diễn biến phức tạp của thị trường du lịch (khủng hoảng kinh tế,

thiên tai, dịch bệnh…).

Từ những định hướng về thị trường khách mục tiêu trong nước và quốc

tế, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các tỉnh Đông Bắc cần có kế hoạch và tổ

chức các chương trình nghiên cứu chuyên sâu về thị trường khách mục tiêu

này, trong đó tập trung vào các thị trường khách quốc tế trọng điểm. Khi

nghiên cứu thị trường cần xác định đặc điểm tiêu dùng cụ thể của từng thị

trường để có thể nhận biết nhu cầu, thị hiếu, quy mô… của từng thị trường

khách du lịch; khảo sát thống kê khách du lịch đến từng địa phương của Đông

Bắc...từng tháng, quí, năm; lên kế hoạch phân loại khách hàng mục tiêu, khảo

sát nhu cầu, thị hiếu của nhóm khách hàng mục tiêu; liên kết quảng bá du lịch

ở các thị trường trọng điểm trong và ngoài nước. Ví dụ: cùng tổ chức

Roadshow, tuần lễ văn hóa du lịch…

Bảng 3.1. Các sản phẩm du lịch tương thích với từng phân khúc thị trường

du lịch Đông Bắc

STT Thị trƣờng

Sản phẩm du lịch

1

Trung Quốc

+ “Tour địa chỉ đỏ” thăm quan an toàn khu ở các tỉnh

Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Lạng Sơn;

+ Thăm quan công viên địa chất toàn cầu – Cao nguyên

đá Đồng Văn (Hà Giang)

+ Thăm quan/trải nghiệm tại các bản du lịch cộng đồng

87

+ Cung cấp đặc sản và sản phẩm lưu niệm chủ yếu như:

chè Thái Nguyên, chè Tuyên Quang, lá thuốc tắm của

người dân tộc, rượu men lá, thịt lợn/trâu sấy, quýt Bắc

Kạn, cam Tuyên Quang, hạt dẻ Cao Bằng…

2 Nhật Bản

+ Thăm quan/trải nghiệm giá trị văn hóa tộc người

+ Thưởng thức văn hóa – văn nghệ dân gian (Hát Then –

đàn tính…)

+ Tham quan phiên chợ vùng cao (chợ tình Khâu Vai…)

+ Thưởng thức ẩm thực Đông Bắc,

+ Lễ hội truyền thống (Lồng tồng của người Tày; nhảy

Lửa của người Pà Thẻn; Tết Nhảy của người Dao…)

+ Du lịch tâm linh (chủ yếu tại Lạng Sơn)…

3

Hàn Quốc

+ Du lịch tham quan thắng cảnh

+ Du lịch sinh thái – trải nghiệm thiên nhiên hùng vĩ

+ Du lịch nghiên cứu các giá trị văn hóa

+ Du lịch thương mại biên mậu…

4 Mỹ

+ Du lịch lịch sử “thăm chiến khu xưa”

+ Du lịch văn hóa

+ Du lịch nghỉ dưỡng núi (Mẫu Sơn)

+ Du lịch sinh thái (vườn quốc gia Ba Bể, khu du lịch

quốc gia Mẫu Sơn…)

+ Du lịch di sản cao nguyên đá Đồng Văn.

5 Canada

+ Du lịch sinh thái – thưởng ngoạn khí hậu núi cao: Mẫu

Sơn – Lạng Sơn, Yên Minh, Hoàng Su Phì – Hà Giang

+ Du lịch sinh thái – ngắm cảnh theo mùa nông nghiệp:

* Tháng 2 – hoa đào/mận trên toàn khu vực

* Tháng 5 – ruộng bậc thang mùa tưới nước

* Tháng 8 – thu hoạch na Lạng Sơn

* Tháng 9 – ruộng bậc thang mùa lúa chín Hoàng

Su Phì Hà Giang

* Tháng 10/11 – hoa tam giác mạch Hà Giang

88

* Tháng 12 đến tháng 2 – thu hoạch cam canh/cam

sành Hà Giang và Tuyên Quang, quýt bắc Sơn – Lạng

Sơn.

+ Du lịch sinh thái – trải nghiệm cảnh quan hùng vĩ (hồ

Ba Bể, vườn quốc gia Ba Bể, thác Bản Giốc, động

Ngườm Ngao, núi Đôi, núi Cô Tiên, sông Nho Quế, cổng

trời Quản Bạ…)

+ Du lịch chinh phục thiên nhiên – Thể thao mạo hiểm:

cụ thể là leo núi Pu Ta Leng, Kiều Liên Ti, Tây Côn

Lĩnh…

+ Du lịch di sản cao nguyên đá Đồng Văn

6 Châu Âu

+ Du lịch nghỉ dưỡng (Mẫu Sơn)

+ Du lịch leo núi (Hà Giang, Cao Bằng)

+ Du lịch trải nghiệm, thử thách bản thân:

* Đi bộ xuyên rừng

* Trekking thăm bản

* Chinh phục các cung đường, đường đèo (Mã Pì

Lèng)

- Du lịch thưởng ngoạn khí hậu núi cao (Mẫu Sơn – Lạng

Sơn, Hà Giang, Cao Bằng)

+ Du lịch sinh thái – ngắm cảnh theo mùa nông nghiệp:

* Tháng 2 – hoa đào/mận trên toàn khu vực

* Tháng 5 – ruộng bậc thang mùa tưới nước

* Tháng 8 – thu hoạch na Lạng Sơn

* Tháng 9 – ruộng bậc thang mùa lúa chín Hoàng

Su Phì Hà Giang

* Tháng 10/11 – hoa tam giác mạch Hà Giang

* Tháng 12 đến tháng 2 – thu hoạch cam canh/cam

sành Hà Giang và Tuyên Quang, quýt bắc Sơn – Lạng

Sơn

7 Nội địa

- Chinh phục thiên nhiên – Thể thao mạo hiểm

+ Đi bộ, leo núi

89

+ Trải nghiệm, thử thách bản thân: chinh phục các

cung đường, đường đèo, đỉnh núi…

+ Thể thao mạo hiểm: lượn dù, vượt thác

- Tìm hiểu, trải nghiệm cuộc sống cộng đồng các dân tộc

thiểu số

+ Tìm hiểu, tham quan làng bản dân tộc thiểu số

trong ngày

+ Trải nghiệm cuộc sống tại làng bản: ngủ tại nhà

dân, tìm hiểu và tham gia cùng các hoạt động thường

nhật của đồng bào.

+ Tham gia các phiên chợ, lễ hội vùng cao: tham

quan tìm hiểu, tham gia các hoạt động lễ hội, mua sắm.

+ Thưởng thức ẩm thực địa phương

- Du lịch sinh thái – Trải nghiệm thiên nhiên hùng vĩ

+ Thưởng ngoạn khí hậu núi cao

+ Ngắm cảnh theo mùa nông nghiệp

+ Trải nghiệm cảnh quan hùng vĩ

- Du lịch lịch sử:

+ “Thăm lại chiến khu xưa”

+ Chinh phục các điểm cực của Tổ quốc

- Du lịch sinh thái nông nghiệp

+ Tham quan, tìm hiểu nông trại/ruộng đồng

+ Tìm hiểu, trải nghiệm các quy trình sản xuất

nông nghiệp

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Các cơ quan quản lý du lịch cần phải nghiên cứu thị trường khách một

cách nghiêm túc và khoa học thì mới có cơ sở để xây dựng sản phẩm du lịch,

chương trình xúc tiến du lịch phù hợp với từng thị trường khách; cần phải có

sự quản lý chặt chẽ, xây dựng và hoàn thiện các mẫu biểu về khách. Ngoài ra

cần lấy ý kiến của các doanh nghiệp du lịch khi xây dựng chiến lược, kế

90

hoạch dài hạn của địa phương vì chính doanh nghiệp du lịch sẽ đóng góp

những ý kiến sát với nhu cầu thực tế nhất để chiến lược, kế hoạch có tính hiệu

quả.

3.2.2 Giải pháp liên kết trong hoạt động truyền thông, tuyên truyền, quảng

bá du lịch

Liên kết trong lĩnh vực xúc tiến, quảng bá du lịch là một xu thế tất yếu

của mỗi địa phương, mỗi khu vực và của mỗi quốc gia, trong đó có liên kết

giữa Trung ương và địa phương; Liên kết giữa các địa phương với nhau; Liên

kết giữa ngành du lịch với các ngành có liên quan; Liên kết giữa cơ quan quản

lý Nhà nước về du lịch với các doanh nghiệp; Liên kết giữa các doanh nghiệp

với nhau v.v.. Trong đó, muốn đẩy mạnh được liên kết vùng cần coi trọng vấn

đề quảng bá, xúc tiến du lịch. Việc liên kết quảng bá, xúc tiến du lịch sẽ tiết

kiệm được chi phí và sẽ tạo được hiệu ứng lớn hơn, thu hút được sự quan tâm

đông đảo hơn và cũng sẽ tạo được lòng tin lớn của du khách. Do vậy công tác

quảng bá xúc tiến sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.

Các tỉnh miền núi Đông Bắc cần phối hợp tổ chức và tham gia nhiều sự

kiện quảng bá, xúc tiến du lịch chung tại các thị trường trọng điểm ở trong

nước như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, và ngoài nước Trung Quốc,

Pháp; nghiên cứu xây dựng logo, xây dựng website bằng tiếng Việt và tiếng

Anh và tổ chức tham gia nhiều hội chợ quốc tế… Nhờ quảng bá chung thì các

tỉnh mới có thể tạo ra được sức mạnh và hiệu quả trong công tác quảng bá,

xúc tiến cho thương hiệu du lịch chung của toàn vùng.

Do nhiều nguyên nhân mà hoạt động du lịch ở các tỉnh miền núi Đông

Bắc chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Công tác xúc tiến, tuyên

truyền quảng bá chưa được triển khai có hiệu quả nên gặp nhiều hạn chế trong

hợp tác đầu tư, phát triển thị trường.

Để góp phần đẩy nhanh sự phát triển của ngành du lịch, trong thời gian

91

tới cần đẩy mạnh công tác xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá cho du lịch. Xúc

tiến, quảng bá cần trở thành nội dung quan trọng không chỉ đối với hoạt động

kinh doanh du lịch mà với cả hoạt động quản lý Nhà nước ở các ngành các

cấp; người dân có ý thức tự hào về đất nước, con người và thiên nhiên của địa

phương mình. Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo du lịch: là tạo ra sự nhận biết

về các hình ảnh của điểm đến theo từng giai đoạn khác nhau một cách khác

biệt và hấp dẫn để thu hút khách du lịch đến hoặc trở lại với điểm đến. Hiện

nay, các tỉnh miền núi Đông Bắc chưa có logo và khẩu hiệu chung, đó cũng là

một trong những lý do du lịch vùng chưa thực sự được.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông phục vụ xúc tiến

du lịch, cần đầu tư phát triển các trang web cung cấp đầy đủ thông tin cập

nhật về du lịch địa phương và các sản phẩm du lịch mới. Thiết kế ấn phẩm du

lịch cho vùng Đông Bắc (tập gấp, đĩa DVD, danh bạ du lịch, cẩm nang hướng

dẫn du lịch) bằng nhiều ngôn ngữ phù hợp với thị trường mục tiêu.

3.2.3. Giải pháp liên kết trong việc xây dựng thương hiệu du lịch vùng

3.2.3.1. Thương hiệu du lịch vùng thể hiện qua sản phẩm du lịch

Tài nguyên tại Đông Bắc hết sức phong phú, đa dạng nhưng để thực

hiện phát triển thương hiệu, cần được chọn lọc và xác định trên bình diện tổng

thể cả nước các giá trị và sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng nhất của từng vùng.

Định hướng phát triển thương hiệu du lịch vùng nhằm mục tiêu tổ chức quản

lý tại các vùng, địa phương theo cấu trúc vững mạnh, hình thành rõ nét các

thương hiệu vùng.

- Thương hiệu sản phẩm du lịch Đông Bắc gắn với các giá trị đặc trưng

về du lịch sinh thái núi và bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số.

- Thương hiệu sản phẩm du lịch Đông Bắc gắn với hình ảnh và giá trị

đặc trưng là du lịch lịch sử.

Như vậy, có thể xây dựng hình ảnh và thương hiệu vùng Đông Bắc dựa

92

trên những yếu tố:

+ Hình ảnh chủ đạo của vùng: các dãy núi cao hùng vĩ, cung

đường đèo uốn lượn ngoạn mục, sắc màu đa dạng của trang phục đồng bào

các dân tộc thiểu số

Thương hiệu du lịch Đông Bắc được nhận diện tốt nhất bởi những giá

trị và hình ảnh về sự phong phú của thiên nhiên trong những bản sắc văn hoá

đậm nét của các dân tộc thiểu số. Những giá trị đó cũng được củng cố bởi

nhiều giá trị của các thương hiệu về các sản phẩm du lịch tiêu biểu khác.

+ Du lịch sinh thái: hệ sinh thái phong phú tạo ra nhiều hoạt

động và trải nghiệm quan trọng về du lịch sinh thái hấp dẫn và khác biệt với

các vùng du lịch khác.

+ Du lịch tìm hiểu văn hóa, đời sống: các giá trị văn hoá địa

phương, hoạt động sinh hoạt cộng đồng của dân tộc thiểu số.

+ Nghỉ dưỡng núi: là một thương hiệu quan trọng, đặc biệt với

thị trường khách du lịch nội địa. Sản phẩm đặc trưng này đã có quá trình phát

triển và hình thành thương hiệu. Cần có những biện pháp duy trì, thúc đẩy để

quảng bá cho thương hiệu sản phẩm du lịch này nằm trong hệ thống thương

hiệu vùng và đặc trưng trên cả nước.

+ Du lịch dựa vào thiên nhiên: đây là một nhánh thương hiệu du

lịch sinh thái với hình ảnh hoạt động du lịch tham quan thưởng ngoạn thắng

cảnh thiên nhiên hùng vĩ.

+ Du lịch lễ hội: phát huy các giá trị và sức mạnh thương hiệu đã

định hình là festival Trà Quốc tế Thái Nguyên, Lễ hội hoa Tam giác mạch…

+ Du lịch sinh thái nông nghiệp: với thiên nhiên trù phú và nhiều

sản vật quý, hình ảnh của các sản vật, sản phẩm của địa phương giữa văn hóa,

đời sống và thiên nhiên hoang sơ và hùng vĩ là những yếu tố hình ảnh hết sức

phong phú và hấp dẫn để hình thành thương hiệu. Mỗi địa điểm sinh thái

93

nông nghiệp là một thương hiệu để hình thành thương hiệu sản phẩm sinh thái

nông nghiệp. Thương hiệu sinh thái nông nghiệp, du lịch cộng đồng sẽ là

những thương hiệu nhánh hỗ trợ cho hình ảnh và thương hiệu chính của vùng.

Hình ảnh và thương hiệu du lịch cũng cần dựa vào các thương hiệu đã

thành danh của địa phương: chè Thái Nguyên, chè Tuyên Quang…

3.2.2.2. Tập trung nguồn lực xây dựng thương hiệu du lịch vùng

Cần nhanh chóng nâng cấp giao thông nối các tỉnh trong vùng, đặc biệt

là đường giao thông nối một số tỉnh như Cao Bằng, Hà Giang …đi lại hết sức

khó khăn. Một số khu, điểm du lịch chưa có đường ô tô nối tuyến. Vì vậy,

từng tỉnh cần ưu tiên tập trung nguồn lực đầu tư hoàn thiện các tuyến đường

giao thông đến các khu di tích Quốc gia đặc biệt, khu du lịch trọng điểm, cửa

khẩu Quốc tế nối với tỉnh Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc), đặc biệt là các

tỉnh có điểm tham quan là công trình thủy điện. Cần tập trung nâng cấp các

tuyến đường giao thông hiện có và đầu tư xây dựng các tuyến đường mới để

kết nối giao thông thuận lợi giữa các tỉnh, các khu, điểm du lịch trong vùng

tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch.

Trong bối cảnh khó khăn chung như hiện nay, việc thống nhất nhận

thức về tính cấp bách, vai trò của liên kết vùng trong hoạt động liên kết xúc

tiến du lịch các tỉnh Đông Bắc cần được đẩy mạnh. Đội ngũ lãnh đạo chủ chốt

của các địa phương trong vùng phải là những người tiên phong nhận thức rõ

về tính cấp thiết và sự tất yếu của liên kết, giữ vai trò xúc tác và chỉ đạo triển

khai thực hiện các nội dung liên kết đối với từng địa phương. Cần sớm nghiên

cứu, hình thành cơ chế phối hợp giữa các đầu mối, xúc tiến du lịch của các

tỉnh Đông Bắc với nhau ngay từ khâu nghiên cứu xây dựng chương trình, kế

hoạch liên kết xúc tiến đầu tư du lịch đến các khâu tổ chức thực hiện và đánh

giá hiệu quả. Theo đó, mọi hoạt động xúc tiến đầu tư du lịch cần sự điều phối

chung, thống nhất của Trung ương về thời gian và địa điểm nhằm tránh sự

94

chồng chéo, trùng lặp giữa các địa phương, đồng thời gắn kết với chương

trình xúc tiến đầu tư du lịch Quốc gia để tạo ra “lợi thế động”, sức mạnh

chung cho toàn vùng.

Cần thống nhất xây dựng các tóm tắt (profile) dự án cơ hội, tổ chức các

Hội nghị xúc tiến đầu tư du lịch cấp vùng; đoàn đi xúc tiến du lịch ở nước

ngoài ít nhất 1 - 2 năm/lần (trên cơ sở phối hợp Đại diện xúc tiến đầu tư du

lịch tại các địa bàn trọng điểm Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc…); xúc tiến

đầu tư vào một số địa bàn, dự án trọng điểm; hỗ trợ nhau trong việc tiếp đón

nhà đầu tư đến khảo sát, tìm kiếm cơ hội đầu tư; thành lập tổ liên ngành, liên

vùng giải quyết khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp…

Các tỉnh cần phối hợp trong thực thi chính sách thu hút, ưu đãi đầu tư

của Trung ương và địa phương nhất quán và minh bạch, chăm sóc tốt nhà đầu

tư tại chỗ…,chú trọng nâng cấp trang website phục vụ công tác xúc tiến đầu

tư du lịch của các tỉnh Đông Bắc theo hướng chuyên nghiệp. Cần đề xuất sự

hỗ trợ của Tổng cục Du lịch từ nguồn vốn của Chương trình xúc tiến du lịch

quốc gia giai đoạn 2013 – 2020 theo Quyết định số 2151/QĐ – TTg của Thủ

tướng Chính phủ, cũng như tích cực kiếm tìm sự hỗ trợ của các tổ chức quốc

tế hoạt động trong lĩnh vực du lịch như EU, WB, AECID, … về tài chính, về

kỹ thuật để nâng cao năng lực hoạt động và thúc đẩy sự liên kết hợp tác giữa

các.

Thành lập Quỹ xúc tiến du lịch chung của các tỉnh Đông Bắc

- Đơn vị chủ trì: Sở VHTTDL; Trung tâm xúc tiến du lịch trực thuộc

tỉnh; Hiệp hội du lịch các địa phương.

- Định hướng phát triển du lịch, xây dựng sản phẩm đặc thù, các hoạt

động quảng bá phù hợp với đặc điểm từng vùng…

- Có cơ chế hỗ trợ kinh phí cho các đơn vị chủ trì

Nguồn quỹ có thể từ 2 nguồn: nguồn kinh phí các địa phương đóng

95

góp. 6/6 tỉnh Đông Bắc có thể trích đóng góp 50% kinh phí để xây dựng quỹ

họat động theo từng năm, còn lại 50% đề nghị Tổng Cục Du lịch, Bộ Văn hóa

- Thể thao – Du lịch hỗ trợ. Năm đầu tiên, mỗi tỉnh đóng góp 100.000.000

đồng, có tất cả 6 tỉnh thành nên sẽ có tổng cộng: 600.000.000 đồng +

600.000.000 đồng ngân sách hỗ trợ. Vậy tổng quỹ xúc tiến du lịch Đông Bắc

năm 1 có: 1.200.000.000 đồng.

Các tỉnh sẽ thay phiên quản lý quỹ theo định kỳ dưới sự giám sát của 2

cơ quan là Tổng Cục du lịch và Trung tâm xúc tiến du lịch chung của cả vùng

(nghiên cứu để thành lập sớm). Tỉnh nào được chọn ngẫu nhiên vào cuối năm

trước đó sẽ lên kế hoạch xúc tiến cụ thể cho cả Đông Bắc, gửi cho được các

thành viên, Tổng cục góp ý. Sau khi thống nhất, tỉnh đó sẽ chủ trì họat động

và mời các thành viên cùng tham gia. Hoạt động mỗi năm có thể phong phú,

khác nhau nhưng cơ bản bao gồm một số hoạt động như:

- Biên sọan, in ấn tài liệu tuyên truyền quảng bá du lịch chung cho khu

vực Đông Bắc (yêu cầu các Tỉnh cung cấp nội dung)

- Tham gia hội chợ du lịch uy tín hoặc chương trình quảng bá du lịch

lớn với tư cách khu vực Đông Bắc trong nước hoặc quốc tế (chọn lựa thị

trường mục tiêu)

- Tổ chức hoạt động đón các Đoàn Famtrip, Fresstrip Miền Trung,

Miền Bắc và quốc tế từ 2 đến 3 ngày để giới thiệu các điểm du lịch Đông Bắc,

ưu tiên khám phá những nét mới, những tour du lịch liên kết có khả năng khai

thác hiệu quả để giới thiệu cho khách.

Như vậy, để hoạt động liên kết hợp tác giữa các tỉnh Đông Bắc đạt

được hiệu quả cao, cần có sự quan tâm hỗ trợ của Tổng cục Du lịch, của các

cấp lãnh đạo của từng địa phương, các tổ chức quốc tế và đặc biệt cần sự

quyết tâm, sự cố gắng nỗ lực của các Trung tâm Thông tin - Xúc tiến du lịch

96

trong khu vực.

Nâng cao chất lƣợng đội ngũ nhân lực xúc tiến du lịch

Du lịch là ngành dịch vụ, dịch vụ có nhân lực chủ yếu là con người với

những kỹ năng nghề, phong cách phục vụ, giao tiếp, tính hiếu khách, trình độ

ngoại ngữ… Do vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho

nguồn nhân lực du lịch đóng vai trò quyết định cho sự phát triển. Trước mắt

các tỉnh trong vùng căn cứ vào nhu cầu, điều kiện cụ thể có thể phối hợp tổ

chức các khóa tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho lực lượng

lao động của ngành. Về lâu dài các tỉnh cần phải xây dựng một chiến lược

phát triển nguồn nhân lực, để từ đó xây dựng lộ trình thực hiện kế hoạch hàng

năm nhằm không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao tính

chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh du lịch. Các tỉnh cùng nhau phối

hợp mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch. Đây là công việc yêu

cầu phải được tiến hành một cách thường xuyên liên tục và không ngừng. Cán

bộ làm công tác xúc tiến phải thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn và

kỹ năng nghiệp vụ của mình. Cụ thể:

- Người làm công tác xúc tiến phải am hiểu mọi vấn đề thuộc phạm vi

mình chịu trách nhiệm và những công việc khác có liên quan.

- Cần phải có khả năng ngoại giao, có tài ứng xử và biết cách thuyết

phục người nghe. Khả năng diễn thuyết trước đám đông cũng là một yêu cầu

quan trọng.

- Để có khả năng thành công cao trong lĩnh vực xúc tiến thì người làm

công tác này cần có đủ bản lĩnh để luôn có thể chịu đựng được áp lực công

việc.

- Ngoài trình độ chuyên môn tốt, người làm công tác xúc tiến cần phải

có một trình độ ngoại ngữ nhất định. Trong thời buổi toàn cầu hóa, công việc

97

giao dịch xuyên quốc gia không còn mới mẻ, do vậy nếu được trang bị một

kiến thức nhất định về ngoại ngữ thì khả năng chủ động trong công việc mới

được nâng lên.

Đặc biệt, phát triển thương hiệu du lịch vùng cần sự tham gia của các

địa phương, đòi hỏi sự cam kết – sự phối hợp – sự thống nhất. Các nguyên tắc

đã được nêu về tính nhất quán, thường xuyên và có lộ trình khi triển khai ở

từng địa phương để đảm bảo được sự nhất quán và thường xuyên về thông tin

truyền thông là hoàn toàn không đơn giản, đòi hỏi sự cam kết, tính phối hợp

cao và sự thống nhất chung giữa các địa phương trong vùng. Đồng thời cần

liên kết với các ngành, lĩnh vực để quảng bá thương hiệu du lịch trong các sự

kiện và hoạt động của các ngành lĩnh vực mà có thể tạo ra ảnh hưởng tích cực

cho thương hiệu du lịch, sử dụng tầm ảnh hưởng của những cá nhân có tầm

ảnh hưởng trong cộng đồng như những người nổi tiếng để ủng hộ, giới thiệu

cho các giá trị thương hiệu du lịch vùng, tầm ảnh hưởng của những người nổi

tiếng có khả năng tạo sức lan toả cho thương hiệu du lịch vùng.

Cuối cùng là yêu cầu rất quan trọng đối với việc phát triển thương hiệu

du lịch, đó là công tác quản trị thương hiệu. Việc quản trị thương hiệu là hoạt

động mới mẻ đối với thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước về du lịch. Đặc

biệt, đối với thương hiệu du lịch vùng mà ở Việt Nam không có cơ quan hành

chính quản lý cấp vùng. Chính vì vậy, cần phải bổ sung thêm nhiệm vụ và

nâng cao năng lực cho cán bộ của các Trung tâm xúc tiến du lịch hoặc phòng

Nghiệp vụ du lịch của các địa phương trong các vùng về công tác quản trị

thương hiệu. Quản trị thương hiệu giúp việc giám sát thực hiện các kế hoạch

phát triển thương hiệu, nghiên cứu thị trường định kỳ tìm hiểu về các nhận

định của thị trường về thương hiệu để có sự điều chỉnh khi cần thiết, lập kế

hoạch và ngân sách trong thời gian tiếp theo, phối hợp với các địa phương

khác trong vùng để thực hiện phát triển thương hiệu du lịch của địa phương

98

và của cả vùng. Các địa phương trong vùng mỗi vùng cũng cần nghiên cứu

các phương án để cùng bàn thảo, thống nhất hình thành cơ quan điều phối du

lịch vùng để làm đơn vị đầu mối kết nối các địa phương và thực hiện công tác

phát triển thương hiệu du lịch vùng.

3.2.4. Giải pháp liên kết trong quản lý điểm đến

Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, với đặc điểm vị trí thuận lợi, nguồn

tài nguyên du lịch phong phú đa dạng, du lịch các tỉnh Đông Bắc có nhiều

điều kiện thuận lợi liên kết, phối hợp, hợp tác với các tỉnh thành trong cả

nước và quốc tế. Do đó, các tỉnh trong vùng cần tăng cường công tác quảng

bá, xúc tiến du lịch xác định đây là hoạt động quan trọng, được nhìn nhận là

một việc đầu tư dài hạn, nhằm thu hút số lượng lớn khách du lịch tiềm năng,

tăng số lượng khách quay trở lại với một điểm đến, góp phần thu hút đầu tư

du lịch đến Đông Bắc. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quảng bá xúc

tiến du lịch rất cần được sự quan tâm, chỉ đạo của Lãnh đạo các cấp, các

ngành tạo điều kiện thuận lợi để chương trình Du lịch “Qua những miền di

sản Việt Bắc” đem lại hiệu quả cho ngành du lịch 6 tỉnh nói riêng và ngành du

lịch Việt Nam nói chung.

3.2.4.1. Xây dựng cơ chế liên kết

- Mục tiêu: tạo ra mối liên kết tích cực và hiệu quả giữa các địa phương

trong vùng để triển khai các hoạt động xúc tiến du lịch phù hợp với chiến

lược, quy hoạch và các đề án phát triển du lịch của vùng; đồng thời, tạo ra

diễn đàn để bàn bạc, thảo luận, thống nhất kế hoạch liên kết phát triển du lịch

nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng giữa các địa phương trong

vùng, giảm thiểu tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Đây cũng là cơ hội

để các địa phương du lịch trọng điểm liên kết hợp tác để giúp đỡ các địa

phương còn gặp nhiều khó khăn trong xúc tiến du lịch nói riêng và trong phát

triển du lịch nói chung.

99

- Nguyên tắc liên kết:

+ Chấp hành: Thực hiện những nội dung chỉ ra trong quy hoạch

vùng/đề án phát triển du lịch có liên quan đến liên kết xúc tiến vùng (có địa

phương mình tham gia).

+ Tự nguyện: các địa phương trong vùng tự nguyện xét thấy nhu

cầu và lợi ích của mình tự quyết định tham gia hoặc không tham gia liên kết

với các địa phương khác.

+ Đồng thuận: các vấn đề đi đến quyết định phải được sự nhất trí

của cả các bên tham gia liên kết.

+ Bình đẳng: các địa phương không phân biệt lớn/nhỏ, phát triển

hay chậm phát triển, mạnh hay yếu về tiềm lực đều bình đẳng như nhau; việc

phân công vai trò điều phối hoặc thực hiện vì vậy sẽ luân phiên.

+ Cùng có lợi: các chương trình hành động liên kết phải mang lại

lợi ích thiết thực cho tất cả các bên tham gia, các bên cùng nhau hưởng lợi

trong những hoạt động chung.

+ Chia sẻ: các bên tham gia tự nguyện chia sẻ nguồn lực tùy theo

lợi thế so sánh của mình tuy nhiên không cưỡng ép hay áp đặt bởi bất cứ ràng

buộc nào. Nguyên tắc chia sẻ tạo nên sự hài hòa và đoàn kết trong hợp tác.

- Cơ chế và mô hình liên kết:

+ Hoạt động liên kết xúc tiến du lịch các tỉnh miền núi Đông Bắc

muốn có hiệu quả cao cần phải xây dựng được cơ chế liên kết (có Ban chỉ

đạo, nguồn kinh phí đóng góp chung, phương hướng, dự án phát triển chung

và có bộ máy chuyên trách hoạt động của cả vùng…). Các Sở VHTTDL phải

bố trí các chuyên viên làm việc theo chế độ bán chuyên trách; cố gắng tranh

thủ tối đa được một số nguồn vốn của các dự án nước ngoài và kinh phí của

các tỉnh.

+ Đây là giải pháp mang tính toàn diện không chỉ là những kiến

100

thức về chuyên môn nghiệp vụ, về môi trường sinh thái đối với cán bộ quản

lý và kinh doanh du lịch mà còn đối với du khách và cộng đồng dân cư địa

phương, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong trong việc giáo dục thường

xuyên thành ý thức hệ đối với mọi thành viên trong tổ chức bảo vệ môi

trường và tài nguyên cho phát triển du lịch.

+ Cần phải xúc tiến việc thành lập câu lạc bộ Trung tâm Thông

tin - Xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc. Trước mắt, các Trung tâm Thông tin

- Xúc tiến du lịch cần thống nhất chọn một Trung tâm làm trưởng nhóm chủ

trì, điều phối các hoạt động liên kết hợp tác. Các trung tâm bố trí cán bộ có

năng lực làm đầu mối để trực tiếp tham mưu và triển khai các nhiệm vụ liên

kết hợp tác. Các Trung tâm Thông tin - Xúc tiến du lịch phải thống nhất nội

dung và ký kết Chương trình liên kết hợp tác, Quy chế hợp tác,… Có như vậy

việc triển khai các nội dung liên kết hợp tác mới thuận lợi và bền chặt.

3.2.4.2. Xây dựng nội dung liên kết quản lý điểm đến

Cần xây dựng kế hoạch các hoạt động chung cho vùng từ đầu năm (xúc

tiến, quảng bá, phát triển sản phẩm du lịch, cơ sở hạ tầng giao thông, đào tạo

nguồn nhân lực). Trong xây dựng kế hoạch hoạt động, cần xác định rõ mục

tiêu của từng hoạt động tuyên truyền, quảng bá xúc tiến du lịch, các hoạt động

trong kế hoạch cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa các tỉnh theo chương trình hợp

tác để đảm bảo các hoạt động được thống nhất và đẩy mạnh triển khai các

hoạt động đó trong cả năm, cuối mỗi năm sẽ tổ chức tổng kết, đánh giá các

hoạt động triển khai trong năm làm cơ sở và bài học kinh nghiệm cho việc

xây dựng kế hoạch cho năm sau. Thống nhất trong xây dựng và thực hiện

chương trình kích cầu du lịch, khuyến mại giảm giá tại các khu, điểm du lịch,

giảm giá phòng nghỉ, dịch vụ ăn uống…để khuyến khích các doanh nghiệp lữ

hành tổ chức kết nối tour du lịch từ các địa phương khác đến các tỉnh Việt

101

Bắc.

Mở rộng và tăng cường hợp tác với các tỉnh bạn và quốc tế, thông qua

tổ chức các hoạt động, sự kiện du lịch, xây dựng và hợp tác trong việc khai

thác tuyến du lịch mới hấp dẫn trong vùng. Trọng tâm vào các khu vực đang

triển khai các chương trình hợp tác phát triển du lịch như với khối 8 tỉnh Tây

Bắc mở rộng, qua đó 6 tỉnh Việt Bắc tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác về

du lịch với các địa phương này đặc biệt là tăng cường hợp tác quốc tế với 2

tỉnh Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc).

3.3. Một số kiến nghị

3.3.1. Đối với các cơ quan Trung ương

Kiến nghị Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa các dự án phát triển

du lịch trọng điểm của khu vực Đông Bắc vào danh mục các dự án kêu gọi

đầu tư trong và ngoài nước, trong đó coi thu hút vốn và kinh nghiệm đầu tư

trong nước là ưu tiên hàng đầu.

Kiến nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch xác định

vị trí quan trọng của khu vực Đông Bắc trong chiến lược quảng bá du lịch

vùng trung du, miền núi Bắc Bộ và cả nước, từ đó có kế hoạch hỗ trợ về vốn

và các chính sách ưu tiên thuận lợi phát triển hạ tầng kỹ thuật, cơ sở vật chất,

chiến lược phát triển sản phẩm, cũng như hỗ trợ du lịch các tỉnh Đông Bắc về

công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến phát triển du lịch và đào tạo nguồn

nhân lực, đặc biệt là trong vấn đề liên kết xúc tiến du lịch vùng.

3.3.2. Đối với chính quyền và cơ quan quản lý du lịch các tỉnh Đông Bắc

Để thực hiện được các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của việc

liên kết xúc tiến du lịch các tỉnh Đông Bắc, trách nhiệm của ngành Văn hóa,

Thể thao và Du lịch các tỉnh trong vùng là chủ động tham mưu kịp thời cho

Tỉnh ủy, UBND tỉnh tăng cường chỉ đạo, đôn đốc các nhà đầu tư đẩy nhanh

tiến độ thi công, hoàn thành các dự án đã và đang đầu tư; tiếp tục kêu gọi các

102

nhà đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án đang thực hiện công tác

thu hút đầu tư; đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến, hợp tác

phát triển du lịch; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du

lịch; tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng dịch vụ du

lịch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường tại các khu, điểm

du lịch, dịch vụ khách sạn, nhà hàng… Phối hợp xây dựng kế hoạch chung

trong việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch, phát triển sản phẩm du lịch, đảm

bảo môi trường du lịch điểm đến an toàn, thân thiện là thương hiệu chung cho

6 tỉnh Việt Bắc; tăng cường chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, kiểm tra, đôn đốc thực

hiện các dự án khu, đỉêm, hạ tầng du lịch; kịp thời tháo gỡ những khó khăn

vướng mắc, tạo điều kiện thu hút các thành phần kinh tế, nhà đầu tư trong và

ngoài nước đến đầu tư phát triển du lịch tại các tỉnh trong vùng Việt Bắc.

Kiến nghị các tỉnh Đông Bắc nhanh chóng thành lập Ban chỉ đạo chung

về vấn đề du lịch. Đây là nhiệm vụ quan trọng, then chốt đối với việc liên kết

xúc tiến du lịch khu vực Đông Bắc. Bên cạnh đó, các tỉnh phải nhanh chóng

có chính sách cụ thể về ưu đãi đầu tư phát triển du lịch, đặc biệt tại các khu

vực khó khăn, miễn thuế cho các dự án đầu tư phát triển du lịch cộng đồng,

du lịch nông nghiệp.

Kiến nghị UBND các tỉnh chỉ đạo Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch trực

thuộc phối hợp với các cấp, các ngành trong toàn khu vực triển khai rà soát lại

những quy hoạch chi tiết, nhữngdự án khả thi phát triển du lịch đã được thực

hiện trong thời gian qua đồng thời triển khai quy hoạch chi tiết những khu

vực đã được xác định. Đặc biệt, cần quan tâm chú trọng đối với việc thực hiện

quy hoạch chi tiết phát triển các khu du lịch quốc gia trong vùng như ATK

Định Hóa, hồ Ba Bể, thác Bản Giốc, Công viên địa chất toàn cầu – Cao

nguyên đá Đồng Văn, Mẫu Sơn…

Cần quản lí nghiêm túc việc thực hiện đầu tư và xây dựng theo quy

103

hoạch cũng như tiến độ triển khai dự án, có các biện pháp kiên quyết với các

dự án chậm triển khai, thu hồi quỹ đất và giao cho các nhà đầu tư có năng lực

và tâm huyết; đồng thời, căn cứ vào quy hoạch, chỉ đạo các cấp chính quyền ở

các tỉnh, phối hợp với ngành chức năng bảo vệ tốt tài nguyên du lịch, bảo vệ

môi trường cảnh quan thiên nhiên là những nguồn lực vô giá để phát triển bền

vững du lịch của địa phương, của vùng. Đặc biệt, cần chú trọng vấn đề phát

triển bền vững, đảm bảo các dự án mang lại hiệu quả không chỉ về mặt kinh tế

mà còn có ích lợi đối với bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống, cải thiện đời

sống người dân và bảo vệ môi trường.

Tiểu kết chƣơng 3

Du lịch khu vực Đông Bắc trong thời gian gần đây có những chuyển

biến đáng kể, tuy nhiên vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có.

Một trong các nguyên nhân của hạn chế đó là vấn đề liên kết xúc tiến du lịch

chưa thực sự hiệu quả, thiếu tính nhất quán, mạnh ai nấy làm. Chính vì vậy,

chương 3 của luận văn đã tập trung vào việc đưa ra một số giải pháp khả thi

và những kiến nghị cần thiết nhằm tăng cường hiệu quả liên kết xúc tiến du

104

lịch 6 tỉnh khu vực Đông Bắc.

KẾT LUẬN

Trong chiến lược phát triển kinh tế hiện nay, du lịch được xác định là

ngành kinh tế mũi nhọn nhờ tiềm năng du lịch của Việt Nam nói chung và

khu vực miền núi Đông Bắc nói riêng. Ý thức được điều đó, 6 tỉnh thuộc khu

vực Đông Bắc mà luận văn nghiên cứu đã cố gắng đẩy nhanh tốc độ đầu tư

phát triển và tiêu thụ các sản phẩm du lịch. Công tác xúc tiến điểm đến du lịch

ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh, sức hấp dẫn

của điểm đến nhằm cạnh trạn thu hút khách du lịch. Bên cạnh đó, nhìn dưới

quy mô vùng, thì hoạt động liên kết trong xúc tiến du lịch cũng càng ngày

càng trở nên cấp thiết.

Du lịch Đông Bắc đang trong điều kiện phát triển, điều đó thể hiện một

cách toàn diện qua nhiều chỉ tiêu như số lượng khách, doanh thu, cơ sở vật

chất kỹ thuật… Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của hoạt động du lịch trong

những năm gần đây còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh

tế xã hội của các tỉnh Đông Bắc, cũng như chưa tương xứng với tiềm năng du

lịch và vị trí địa lý của khu vực đối với chiến lược phát triển du lịch chung

của vùng trung du, miền núi Bắc Bộ và của cả nước. Hoạt động xúc tiến du

lịch nói chung và liên kết trong xúc tiến du lịch giữa các tỉnh trong khu vực

nói riêng còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân chính của những hạn chế chủ yếu

là do thiếu cơ chế, chính sách, thiếu nguồn đầu tư tài chính, thiếu sự phối hợp

giữa các tỉnh cũng như các cấp chính quyền của các tỉnh trong khu vực.

Chính vì vậy, du lịch khu vực Đông Bắc muốn phát triển thực sự phát

huy hết nguồn lực vốn có của mình thì cần phải có sự phối kết hợp của các

cấp, các ngành cùng với sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và cư dân địa

phương trong việc xây dựng các sản phẩm du lịch cũng như thực hiện công

105

tác liên kết xúc tiến du lịch trong khu vực.

Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề tổng quan về hoạt động xúc tiến

du lịch nói chung và liên kết xúc tiến du lịch nói riêng của khu vực Đông Bắc,

luận văn đã góp phần giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:

- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về xúc tiến du lịch, liên kết xúc

tiến du lịch.

- Luận văn đã khảo sát và phân tích khái quát trạng hoạt động liên kết

xúc trạng liên kết du lịch khu vực Đông Bắc dựa trên cơ sở tài nguyên du lịch

và kết quả hoạt động kinh doanh du lịch của các tỉnh trong vùng. Từ đó, đã

đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như chỉ ra những hạn chế và nguyên

nhân để từ đó tìm ra phương hướng giải quyết.

- Trên cơ sở những phân tích trên đồng thời dựa vào căn cứ về quan

điểm và định hướng phát triển du lịch của các tỉnh khu vực Đông Bắctrong

thời gian tới, luận văn đã đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động

liên kết xúc tiến du lịch của vùng:

+ Liên kết trong nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm du

lịch

+ Xây dựng cơ chế liên kết và nâng cao năng lực cho đội ngũ

cán bộ làm công tác xúc tiến

+ Liên kết trong các hoạt động truyền thông, tuyên truyền, quảng

bá du lịch

+ Liên kết trong việc huy động và tập trung các nguồn lực

+ Các hoạt động liên kết khác…

Trong tương lai, cùng với những nỗ lực ở hiện tại thì du lịch Đông Bắc

sẽ phát huy được những điều kiện thuận lợi vốn có cùng với ngành du lịch

của cả nước nhanh chóng hội nhập vào thị trường du lịch sôi động trong khu

106

vực và trên thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2008), Quy hoạch tổng thể phát triển du

lịch vùng Trung du miền núi Bắc Bộ đến năm 2020

2. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2009), Thông báo số 3205/TB-BVHTTDL

về định hướng hợp tác phát triển du lịch bốn tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang,

Bắc Kạn và Cao Bằng

3. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2010), Chiến lược phát triển du lịch Việt

Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

4. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2013), Đề án tổ chức định kỳ “Ngày hội,

giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng đồng bào các dân tộc thiểu số”

theo khu vực và toàn quốc giai đoạn 2013 – 2020

5. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2014), Chiến lược marketing du lịch đến

năm 2020

6. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2014), Thông tư liên tịch 163/2014/TTLT-

BTC-BVHTTDL

7. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2014), Tài liệu hướng dẫn về Hệ thống

nhận diện Thương hiệu Du lịch Việt Nam

8. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2015), Quy hoạch tổng thể phát triển văn

hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến

năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030

9. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2013), Quyết định số 4686/QĐ-

BVHTTDL

10. Nguyễn Văn Dung (2009) “Chiến lược, chiến thuật quảng bá

107

marketing du lịch”

11. Đại học Thương mại Hà Nội (2004), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia

“Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến điểm đến du lịch Việt Nam

12. Nguyễn Văn Đảng (2007), Hoàn thiện hoạch định chiến lược xúc tiến

điểm đến của ngành du lịch Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại

học Thương mại Hà Nội

13. Hà Nam Khánh Giao (2011), Giáo trình marketing du lịch, Nhà xuất bản

Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh

14. Lê Thế Giới (2010), Quản trị marketing, Nhà xuất bản Giáo dục Việt

Nam

15. Luật Du lịch (2005), Nhà xuất bản chính trị quốc gia

16. Nguyễn Văn Lưu (2008), Thị trường du lịch, Nhà xuất bản Đại học Quốc

gia Hà Nội

Hoàng Lê Minh (2008), Tiếp thị trong kinh doanh du lịch, Nxb Thống kê

17. Nguyễn Hữu Minh (2006), Trao đổi về cơ chế hoạt động xúc tiến và

quảng bá du lịch, Tạp chí du lịch Việt Nam, số 3/2006

Trần Ngọc Nam – Hoàng Anh (2009), Cẩm nang nghiệp vụ tiếp thị du lịch &

quy định pháp luật mới về kinh doanh du lịch, nhà hàng, khách sạn, Nxb Trẻ

18. Phillip Kotler (tái bản 2014), Quản trị marketing, Nxb Thống kê.

19. UBND tỉnh Cao Bằng, Chương trình số 12-CTr/TU về Phát triển du lịch

Cao Bằng giai đoạn 2011 – 2015

20. UBND tỉnh Hà Giang, Kết luận số 71-KL/TW về phát triển tỉnh Hà Giang

đến năm 2020

21. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Giang (2009), Biên bản thoả thuận

khung về hợp tác phát triển du lịch 4 tỉnh Hà Giang – Tuyên Quang – Bắc

108

Kạn – Cao Bằng

22. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Tuyên Quang (2012), Biên bản ghi nhớ

v/v hợp tác giữa Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Tuyên Quang và các doanh

nghiệp lữ hành các tỉnh Đông Bắc

23. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Bắc Kạn (2015), Kế hoạch tổ chức ngày

hội Văn hóa Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc lần IX

24. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Tuyên Quang (2012), Kế hoạch tổ chức

ngày hội Văn hóa Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc lần VIII

25. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Giang (2009), Kế hoạch tổ chức

chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc”

26. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Tuyên Quang (2010), Kế hoạch tổ chức

chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc”

27. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Bắc Kạn (2011), Kế hoạch tổ chức

chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc”

28. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Cao Bằng (2012), Kế hoạch tổ chức

chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc”

29. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Lạng Sơn (2013), Kế hoạch tổ chức

chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc”

30. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thái Nguyên (2014), Kế hoạch tổ chức

chương trình“Qua những miền di sản Việt Bắc”

31. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Giang (2015), Kế hoạch tổ chức

chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc”

32. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2005) “Nghiên cứu đề xuất giải pháp

đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị

trường du lịch quốc tế trọng điểm”

33. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2015), Kết luận về buổi Tọa đàm liên

109

kết phát triển du lịch vùng Đông Bắc

Tiếng Anh

34. Davidson R. and Maitland R. (1997), Tourism destination

35. Eric Law (1995), Tourist destinional management

36. Ernie H. & Geofrey W.(1992), Marketing Tourism Destination

37. Lawton và Weaver (2005) “Tourism management”

110

38. Steven Pike(2008) “Destination Marketing”

111

PHỤ LỤC