Lỗi dùng từ xưng hô tiếng Việt của học sinh tiểu học người dân tộc H’mông nhìn từ lí thuyết phân tích lỗi
lượt xem 6
download
Bài viết này làm rõ các dạng khác nhau và nguyên nhân chính gây ra lỗi sử dụng tiếng Việt cách xưng hô của học sinh tiểu học H’mong dựa trên lý thuyết phân tích lỗi sai, sau đó đề xuất phương pháp thích hợp để tránh những sai lầm như vậy. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lỗi dùng từ xưng hô tiếng Việt của học sinh tiểu học người dân tộc H’mông nhìn từ lí thuyết phân tích lỗi
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 146-151 LỖI DÙNG TỪ XƯNG HÔ TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC NGƯỜI DÂN TỘC H’MÔNG NHÌN TỪ LÍ THUYẾT PHÂN TÍCH LỖI Nguyễn Thu Phương - Trường Trung học phổ thông Phan Huy Chú, quận Đống Đa, Hà Nội Ngày nhận bài: 05/08/2018; ngày sửa chữa: 16/08/2018; ngày duyệt đăng: 23/08/2018. Abstract: Mistake analysis is a branch of applied linguistics, which has been developed since 1960s with significant contribution of famous linguists such as Corder and Jack Richards. In the view of these researchers, the reason for mistakes is not simply caused by language interference but also by learning and communication strategies of students in the process of learning the second language. This article clarifies different types and main causes of mistakes in using Vietnamese addressing words of H’mong primary students based on the theory of mistake analysis, and then proposes proper method to avoid such mistakes. Keywords: Mistake analysis, language interference, language transfer, interlingual mistakes, intralingual mistakes, developmental mistakes, addressing words, primary students, H’mong students. 1. Mở đầu Jack Richards cho rằng, phân tích lỗi là nghiên cứu Trong lịch sử tồn tại và phát triển của ngành Ngôn ngữ và phân tích những lỗi do người học ngôn ngữ thứ hai học ứng dụng, một trong những cột mốc tiêu biểu không (NN2) mắc phải. Phân tích lỗi được thực hiện nhằm mục thể không nhắc tới, đó là sự ra đời của Lí thuyết phân tích đích: “(1) Xác định chiến lược người học sử dụng trong tương phản (contrastive analysis), vào những năm 50 của học tập ngôn ngữ; (2) Cố gắng xác định nguyên nhân gây thế kỉ XX, gắn liền với tên tuổi sáng chói của Robert Lado ra lỗi của người học; (3) Nhận diện khó khăn chung của (1915-1995) và tác phẩm nổi tiếng của ông “Linguistics việc học ngôn ngữ, từ đó hỗ trợ cho việc dạy học và biên across cultures” (1957). Là một trong những người tiên soạn tài liệu” [1; tr 184]. phong cho phong trào phân tích tương phản ngôn ngữ, 2.2. Nguyên nhân gây lỗi Lado đã truyền cảm hứng cho rất nhiều những tên tuổi nổi Seliker (1969) gọi những lỗi tồn tại lâu dài, khó loại bỏ tiếng trong giới của mình như Sekerlin, Odlin,... Bước tiến trong các phát ngôn của người học NN2 là “hoá thạch” của Lí thuyết tương phản ngôn ngữ đã mở ra một cánh cửa (fossilization). Từ cách gọi này, ông đồng thời chỉ ra mới cho các nhà nghiên cứu, bởi họ có thể tiên đoán những những nguyên nhân được coi là gây ra lỗi mà các nhà khó khăn của người học ngôn ngữ dựa trên những điểm nghiên cứu cần đối mặt và làm sáng tỏ, nếu nguyên nhân giao thoa giữa ngôn ngữ nguồn của người học và ngôn ngữ gây lỗi là do tiếng mẹ đẻ thì “chúng ta đang phải đối diện đích. Tuy nhiên, đến những năm 1960, một bước tiến nữa với quá trình chuyển di ngôn ngữ (language transfer)”; nếu đã nối dài sự phát triển của lí thuyết tương phản ngôn ngữ, nguyên nhân gây lỗi là do quá trình đào tạo, thì “chúng ta đó là Lí thuyết phân tích lỗi (error analysis). Các nhà phải phải đối diện với vấn đề chuyển di đào tạo (transfer nghiên cứu, như Corder, Jack Richards,... đã phát hiện ra of training)”; nếu nguyên nhân gây lỗi là do cách thức tiếp rằng, giao thoa ngôn ngữ không phải là nguyên nhân chủ cận với kiến thức cần học của người học, thì “chúng ta sẽ yếu dẫn đến lỗi của người học. Bằng thực nghiệm thực phải đối diện với chiến lược học tập (learning strategies)”. chứng, họ đã kết luận, bên cạnh lỗi giao thoa, còn có lỗi Ngoài ra, ông còn đặt ra các giả thiết như: “Nếu đó là kết chuyển di (intralingual errors) hay lỗi phát triển quả của cách tiếp cận để giao tiếp với người bản ngữ của (developmental errors) (trong bài báo này, chúng tôi gọi người học, thì chúng ta phải đối mặt với chiến lược giao chung loại lỗi thứ hai là lỗi chuyển tiếp). tiếp (communication strategies)”; và cuối cùng, “nếu đó là 2. Nội dung nghiên cứu kết quả của sự gia tăng quá mức các quy tắc trong ngôn 2.1. Sự phát triển của Lí thuyết phân tích lỗi ngữ đích, thì chúng ta phải đối mặt với việc sắp xếp lại các Từ việc nghiên cứu quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ tài liệu ngôn ngữ.” [2; tr 67-92.]. Đồng thời, Seliker cũng nhất của trẻ nhỏ, các nhà ngôn ngữ học ứng dụng đã nhận giả định rằng, cả 5 lí do trên đều đồng thời, hoặc từng lúc ra, trẻ em khi học ngôn ngữ từ bố mẹ, dù được tiếp xúc tác động đến các phát ngôn của người học. với cách phát âm, dùng từ chuẩn và những câu đúng ngữ Tuy nhiên, theo hầu hết các nhà nghiên cứu về lí pháp, nhưng vẫn tạo ra những diễn ngôn sai. Do đó, lỗi thuyết phân tích lỗi, họ tổng hợp lại thành 2 nguyên nhân không chỉ xuất phát từ giao thoa ngôn ngữ, mà còn bởi chính gây lỗi trong việc học NN2, là do sự giao thoa của các nguyên nhân khác cần phải được xác định cụ thể. tiếng mẹ đẻ (TMĐ) (lỗi giao thoa ngôn ngữ) và do chiến 146
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 146-151 lỗi giao thoa trong hoạt động hành chức của ngôn ngữ. Theo cách tiếp cận này, có thể phân loại các lỗi giao thoa ngôn ngữ như sau (sơ đồ 1): 2.3.1.4. Ngôn ngữ trung gian (interlanguage) Theo Jack Richards, người đang trong quá trình học NN2 hoặc ngoại ngữ, thường bị ảnh hưởng bởi nhiều quy trình, trong đó có: mượn mẫu từ TMĐ; mở rộng các mẫu từ ngôn ngữ đích; thể hiện ý nghĩa bằng cách dùng các từ và ngữ pháp đã có, đã biết. Ông cho rằng, ngôn ngữ mà người lược học tập, chiến lược giao tiếp của học sinh (HS) hoặc học sử dụng trong quá trình học không giống với TMĐ và do chiến lược dạy học của giáo viên (GV) (lỗi chuyển ngôn ngữ đích nên nó được gọi là “ngôn ngữ trung gian”, tiếp hay còn gọi là lỗi phát triển). hoặc được cho là kết quả từ hệ thống tương tác hoặc hệ 2.3. Phân loại lỗi thống gần đúng của người học [1; tr 267]. 2.3.1. Giao thoa ngôn ngữ (language interference) và lỗi 2.3.1.5. Lỗi chuyển tiếp (intralingual errors) giao thoa ngôn ngữ (interlingual errors) Theo Jack Richards, lỗi chuyển tiếp là kết quả của 2.3.1.1. Giao thoa ngôn ngữ việc “học ngôn ngữ đích chưa thuần thục hoặc học bị sai, Theo Jack Richrds, chuyển di ngôn ngữ được biết đến hoàn toàn không phải do giao thoa ngôn ngữ”. Lỗi như là sự ảnh hưởng của một ngôn ngữ này - ngôn ngữ chuyển tiếp có thể xảy ra do “tác động của một đơn vị nguồn (resource language) đến một ngôn ngữ khác - kiến thức trong ngôn ngữ đích lên một đơn vị kiến thức ngôn ngữ đích. Khi đó sẽ xuất hiện hai kiểu chuyển di: khác cũng chính trong ngôn ngữ đó” [1; tr 267]. 1) Chuyển di tiêu cực (negative transfer) hay còn được 2.3.1.6. Phân loại lỗi chuyển tiếp gọi là hiện tượng “giao thoa ngôn ngữ” và (2) chuyển di Lỗi chuyển tiếp bắt nguồn từ sự khó khăn trong việc tích cực (positive transfer) [1; tr 294]. học NN2/ngôn ngữ đích. Các nhà nghiên cứu phân ra 8 2.3.1.2. Lỗi giao thoa (interlingual errors) kiểu lỗi chuyển tiếp cơ bản (sơ đồ 2): Theo Jack Richards, lỗi giao thoa là lỗi do kết quả Diễn giải về 8 kiểu lỗi chuyển tiếp: của chuyển di ngôn ngữ gây ra bởi tác động của TMĐ (1) Đơn giản hoá: người học thường chọn các mẫu lên việc học ngôn ngữ đích [1; tr 267]. Theo Nguyễn Văn và cấu trúc đơn giản thay vì phức tạp, hoặc làm đơn giản Khang (2014), “Giao thoa cá nhân là nguồn gốc sinh ra hoá các mẫu phức tạp nhằm thuận tiện cho sử dụng. Với lỗi” [3; tr 177]. 2.3.1.3. Phân loại lỗi giao thoa ngôn ngữ Giao thoa ngôn ngữ (hay “chuyển di tiêu cực”) là hiện tượng xảy ra trên cả 2 bình diện của ngôn ngữ: Ở bình diện hệ thống - cấu trúc có giao thoa trong hệ thống ngôn ngữ; còn trong bình diện hoạt động giao tiếp - hoạt động hành chức, chúng ta có giao thoa giao tiếp. Bởi vậy, lỗi giao thoa theo đó cũng được chia làm 2 loại: lỗi giao thoa trong hệ thống - cấu trúc của ngôn ngữ và 147
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 146-151 HS tiểu học người H’Mông, có thể là những cách thức (8) Giả định sai (false concepts hypothesized): nhiều sử dụng từ xưng hô tiếng Việt (TV) bị HS cố tình đơn lỗi của người học là do họ hình thành các giả thiết sai. Đó giản hoá đi, nhằm làm cho dễ dàng hơn. là những trường hợp HS đặt ra các giả thiết sử dụng từ (2) Phát triển quá mức: Người học sử dụng một mẫu xưng hô sai ngữ cảnh, sai đối tượng,... hay cấu trúc của ngữ cảnh đã trải nghiệm dùng mở rộng 2.4. Minh họa các loại lỗi sử dụng từ xưng hô tiếng cho các ngữ cảnh khác nhưng không phù hợp. Đó là Việt của học sinh tiểu học người H’Mông những lỗi do HS cố tình vận dụng một cách không phù 2.4.1. Lỗi giao thoa ngôn ngữ hợp các mẫu, cách thức, phương thức xưng hô từ các đối 2.4.1.1. Giao thoa trong hệ thống - cấu trúc ngôn ngữ tượng và bối cảnh đã học vào các đối tượng và bối cảnh * Lỗi phát âm và viết từ xưng hô lệch chuẩn mới tiếp xúc, gây ra lỗi. Qua phỏng vấn và trò chuyện với 25 HS lớp 1 của (3) Sự tăng cường hoặc sửa lỗi thái quá Trường Tiểu học Mường Toong, huyện Mường Nhé, (hypercorrection): đôi khi những nỗ lực nhiệt tình của tỉnh Điện Biên, chúng tôi thấy các em phát âm tiếng Việt GV trong việc sửa lỗi cho HS lại khiến HS mắc lỗi trong (TV) cũng như phát âm các từ dùng để xưng hô có lỗi về các hình thức đúng khác. Steson (1978) gọi loại lỗi này thanh điệu. TV có 6 thanh. Trong đó, thanh “hỏi”, “ngã” là “lỗi gây ra” (induced errors). Đây là các lỗi xuất phát không phân bố ở các từ xưng hô; còn lại 4 thanh phân bố từ chiến lược dạy học của GV gây ra lỗi cho HS. Ví dụ, ở các từ xưng hô như: thanh không (cô, anh, tôi,...), thanh GV tích cực sửa lỗi cho HS trong quá trình dạy học từ sắc (bố, bác, nó, chú,...), thanh nặng (mẹ, cậu, chị,...), xưng hô, nhưng không có sự chia nhỏ các đơn vị kiến thanh huyền (bà, dì, mình,...). Những HS lớp 1 mà chúng thức từ xưng hô, khiến việc dạy học bị quá tải, bị trùng tôi khảo sát phát âm các từ xưng hô có thanh không và lặp, không rõ ràng, khiến HS càng dễ mắc lỗi hơn. thanh huyền, thanh sắc khá tốt. Chỉ có 5 HS phát âm “bà” (4) Dạy học khiếm khuyết (faulty teaching): đôi khi thành “bạ” (kéo về gần như thanh nặng). Các từ xưng hô điều xảy ra là lỗi của người học do GV gây ra, tức là do có thanh nặng bị phát âm sai nhiều: 13/25 HS phát âm từ GV, tài liệu giảng dạy hoặc thứ tự trình bày gây ra. Yếu “mẹ” gần với “mè” (kéo về gần như thanh huyền). Tương tố này có liên quan chặt chẽ với sự tăng cường tự, các em phát âm sai các từ xưng hô có âm đầu /b/ (bà, (hypercorrection) ở trên. Điều này hoàn toàn có thể xảy bố, bác, bạn); những từ xưng hô có âm chính viết là “e” ra khi GV chưa có một chiến lược dạy học phù hợp, các các em thường phát âm thành “ê”; từ xưng hô có vần tài liệu được biên soạn hoặc trình tự đưa ra ở các tài liệu “ac”, các em phát âm thành “ăc” (bác -> bắc),... chưa phù hợp. Ví dụ: Tài liệu dạy học giới thiệu các từ Các lỗi phát âm nêu trên dẫn đến lỗi chính tả khi các xưng hô không phù hợp với xã hội thời nay, không phù em viết từ xưng hô TV. hợp với lứa tuổi như “ta, ngươi” dẫn đến hiện tượng các * Lỗi không hiểu hết nghĩa từ vựng em dùng những từ này để xưng hô. Lỗi không hiểu hết nghĩa từ vựng do không hiểu hết (5) “Hoá thạch”: một số lỗi, đặc biệt là lỗi phát âm, nghĩa của từ vay mượn TV vào tiếng H’mông. Ví dụ: tồn tại trong một thời gian dài và trở nên khó sửa chữa, thay đổi. Đó là thói quen trở nên cố hữu, rất khó thay đổi - Bác sĩ à, mày phải cho nó thuốc ngay (Nói với cô y tá). của HS. Ví du: Trường hợp HS tiểu học người H’Mông - Giám đốc à, nhặt giấy mày làm rơi đi (Nói với Giám phát âm sai âm /b/ trong các từ /bà, bố, bác, bạn... đốc sở giáo dục đến dự giờ thăm lớp cùng đoàn GV, khi (6) Né tránh (avoidance errors): một số cấu trúc cú ông vô tình làm rơi giấy tờ). pháp hoặc cách sử dụng rất khó để tạo lập nên người học Trong vốn từ tiếng H’Mông không có từ chỉ chức sẽ né tránh và sử dụng các cấu trúc, cách dùng đơn giản danh “bác sĩ”, “giám đốc”. Bởi vậy, trong giao tiếp bằng hơn. Chẳng hạn HS học và sử dụng từ xưng hô TV sẽ TMĐ, người H’Mông đã vay mượn những từ “giám gặp phải các quy tắc, cách thức xưng hô phức tạp. Khi đốc”, “bác sĩ”, cũng như một số từ chỉ chức danh khác đó, các em sẽ cố tình né tránh các cách thức xưng hô này. của TV để biểu đạt. Do vay mượn nên HS chưa hiểu hết Ví dụ, không dùng từ xưng hô chấp nhận lỗi nói trống nghĩa của từ này (có hàm nghĩa thứ bậc và tôn trọng hơn). không dù biết đó là vi phạm văn hoá giao tiếp xưng hô Vì thế, các em đã sử dụng những từ xưng gọi không phù TV, hoặc xưng “tôi” với tất cả thầy cô, bạn bè. hợp với những đối tượng ở thứ bậc đáng tôn kính. (7) Học không đầy đủ (inadequate learning): đây chủ * Lỗi trật tự từ yếu là do sự thiếu hiểu biết về các quy tắc hoặc do thiếu Lỗi trật tự từ là lỗi HS kết hợp từ xưng hô trong cụm coi trọng việc học. Chẳng hạn, có những em HS lớp 5 từ không đúng với trật tự kết hợp của TV. Ví dụ, HS nói người H’Mông không biết rằng nói với thầy cô, với người với cô giáo: lớn tuổi phải dùng từ xưng hô hoặc cuối câu phải có từ tình - Tôi bố mẹ đi làm nương. Tôi một mình ở nhà. (Bố thái “ạ”, và các em không quan tâm để nhớ điều này. mẹ tôi đi làm nương. Một mình tôi ở nhà). 148
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 146-151 - Tôi gia đình đàn gà đã lớn (Đàn gà của gia đình tôi “caox” để gọi người đối thoại với mình và tự xưng “cur” đã lớn). mà không bị coi là vô lễ hay bất lịch sự. HS tiểu học - Tôi gia đình đàn ong cho mật (Đàn ong của gia đình người dân tộc H’mông khi học TV thường hay mắc lỗi tôi đã cho mật). dùng đại từ xưng gọi do ảnh hưởng tư duy, đặc điểm văn - Tôi hai em đang ngủ (Hai em của tôi đang ngủ). hoá xưng hô này của TMĐ. - Tôi mẹ không nói tiếng Kinh (Mẹ tôi không nói * Lỗi giao thoa về cách thức xưng hô tiếng Kinh). Nguyễn Văn Khang (1999) đã đưa ra 13 kiểu lựa Nguyên nhân dẫn đến lỗi kết hợp từ (trật tự từ) trong chọn xưng hô trong hội thoại. Trong các cách xưng hô những ví dụ nêu trên là do HS bị chi phối bởi trật tự trong được các tác giả chỉ ra, thì trong giao tiếp TV, các kiểu/ tiếng H’Mông: Thành phần phụ xác định sở hữu luôn cách thức xưng hô phổ biến nhất có thể kể đến như xưng đứng trước danh từ trung tâm [Theo tài liệu “Ngữ pháp gọi bằng đại từ nhân xưng, bằng danh từ chỉ họ hàng tiếng Mông” (Bản thảo lưu hành nội bộ của Trung tâm thân tộc, danh từ chỉ nghề nghiệp chức danh, gọi bằng nghiên cứu giáo dục dân tộc)]. tên riêng, kết hợp từ giữa danh từ chỉ họ hàng thân tộc + Ví dụ: Cur aoztul cưr trênhv pư (Tôi hai em đang ngủ). từ chỉ chức danh hoặc tên riêng,... Khi cụm danh từ có đầy đủ các thành phần phụ phía Đem đối chiếu đặc điểm về cách thức xưng gọi trong trước thì thành phần phụ chỉ sở hữu đứng ở xa nhất, mở TV với tiếng H’Mông, có thể thấy những khác biệt sau: đầu cụm danh từ. Ở tiếng H’Mông, việc sử dụng danh từ thân tộc là không Ví dụ: Caox nav txir (mày mẹ cha: cha mẹ của mày). thường xuyên; việc dùng tên trong xưng gọi cũng rất hạn chế. Các từ chỉ nghề nghiệp, chức danh đều do vay mượn Sự khác biệt về trật tự kết hợp đã nêu chính là nguyên của TV nên cũng chỉ dùng ở một phạm vi nhất định, nhân làm cho HS tiểu học người H’Mông sử dụng từ không thường xuyên; các tổ hợp/kết hợp từ dùng để xưng xưng hô không đúng trật tự kết hợp của TV. hô có trật tự khác với TV (như đã nêu ví dụ và phân tích 2.4.1.2. Giao thoa trong hoạt động hành chức của ngôn ngữ trong phần lỗi giao thoa mục 2.4.1.1). * Lỗi giao thoa về văn hoá 2.4.2. Lỗi chuyển tiếp trong sử dụng từ xưng hô tiếng Việt Những quy tắc trong văn hoá xưng hô cuả người Việt của học sinh tiểu học người H’mông được các nhà nghiên cứu tổng kết khá đầy đủ và sâu sắc. Đối chiếu với 8 loại lỗi chuyển tiếp đã nêu trên, chúng Theo Nguyễn Văn Chiến (1993), các quy tắc văn hoá xưng tôi nhận thấy rằng, HS tiểu học người H’mông thường hô của người Việt có thể kể đến như: Nguyên tắc Xưng mắc hầu hết các loại lỗi đã nêu. Tuy nhiên, từ 8 loại lỗi khiêm - hô tôn; trọng tuổi tác, thứ bậc; xu hướng xưng hô (hay cũng chính là ẩn tiềm ám chỉ 8 nguyên nhân cụ thể), gia đình hoá. Tuy nhiên, trong tiếng H’mông, cách dùng chúng tôi phân loại thành 2 nhóm nguyên nhân chính: từ xưng gọi trong giao tiếp có những điểm khác biệt. Đây 1) Lỗi chuyển tiếp xuất phát từ chiến lược học tập không là nguyên nhân dẫn đến việc HS người H’Mông khi xưng phù hợp của HS; 2) Lỗi chuyển tiếp xuất phát từ chiến hô trong giao tiếp bằng TV mắc một số lỗi thông thường. lược dạy học không phù hợp của GV. Ví dụ, các em thường xuyên gọi “mày”, xưng “tao, “tôi” với thầy cô giáo, người lớn tuổi. Ví dụ: Có một vấn đề tiếp tục cần được làm rõ ở đây. Đó là, Thầy giáo: - A Lềnh, lấy sách ra nào! các loại lỗi, nhìn trên bề mặt, đều như nhau. Ví dụ, lỗi phát âm từ xưng hô TV (như đã nêu trong phần Lỗi giao thoa A Lềnh: - Tao không có sách. xét ở bình diện hệ thống - cấu trúc ngôn ngữ), có thể lí Sở dĩ các em nói như vậy là do trong giao tiếp bằng giải là do giao thoa ngôn ngữ (hệ thống thanh điệu trong tiếng H’mông, việc dùng đại từ xưng hô mang sắc thái hai hệ thống ngôn ngữ Việt - H’Mông có những nét khác trung tính không biểu thị thái độ, tình cảm, thứ bậc. biệt gây nên). Tuy nhiên, trong 55 HS lớp 5 trường tiểu Chẳng hạn, giữa con và bố mẹ có thể xưng “cur” - ngôi học Mường Toong được phỏng vấn, có 28 HS phát âm thứ nhất số ít, gọi “caox” - ngôi thứ hai số ít: sai tiếng “mẹ” (thành gần như “mè”), “chị” thành như Con: - Cao lul lak! (Mày về ạ) tương đương nghĩa TV “chì”. Như vậy, HS lớp 5 phát âm các thanh điệu trong là: Bố về rồi ạ! các từ dùng để xưng hô không tốt hơn HS lớp 1; đây Bố: - Cur lul lơur! (Tao về rồi) tương đương nghĩa không thể coi là do lỗi giao thoa ngôn ngữ đơn thuần, mà với TV là: Bố về rồi! nó đã trở thành lỗi chuyển tiếp ngôn ngữ, cụ thể hơn, là Trong giao tiếp tiếng H’mông, ở mọi trường hợp, dù do chiến lược học tập của HS, là lỗi học không đầy đủ, là nói với người dưới hay người trên, hoặc người ngang xuất phát từ ý thức và thái độ học tập chưa thật chú trọng vai; dù thái độ, tình cảm trung hoà hay yêu kính, tôn đúng mực, và nếu những lỗi phát âm này tiếp tục kéo dài, trọng, hài lòng hay không hài lòng... thì đều có thể dùng không được chỉnh sửa, nó sẽ trở thành lỗi hoá thạch - 149
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 146-151 những lỗi sai tồn tại lâu dài, không thể chỉnh sửa, thậm văn hoá giao tiếp của người Việt, cần được khắc phục chí tạo thành một yếu tố trong ngôn ngữ trung gian. bằng cách tác động, định hướng cho HS để các em có Tương tự như vậy, việc xưng “tao” và gọi người lớn, tâm lí và ý thức học tập tích cực. Chẳng hạn có thể giúp thầy cô hoặc khách đến thăm nhà trường là “mày” (như các em hiểu nếu không học đầy đủ các từ xưng hô, cách trong ví dụ: “Giám đốc, mày nhặt giấy mày làm rơi lên xưng hô trong TV, mà chỉ quy chiếu về cách xưng hô của đi”) của HS lớp 2 người H’mông có nguyên nhân khác TMĐ thì sẽ dẫn đến sử dụng từ xưng hô sai trong giao với hiện tượng HS lớp 5 người H’Mông xưng hô như tiếp TV và có thể bị hiểu nhầm, có thể gây mất thiện cảm vậy, và càng khác với nguyên nhân lỗi này nếu do HS với người đối thoại. Khi nhận thức được điều này, các người H’Mông lớp 8, 9 mắc trong giao tiếp. Tuỳ vào em sẽ có ý thức học đầy đủ, cẩn thận hơn. từng trường hợp cụ thể, có thể xác định, đó là đơn giản 2.5.3. Các lỗi do cách HS tiếp cận, giao tiếp với người hoá cách xưng gọi vì không thể nhớ, thuộc hết các quy Kinh, chúng ta có thể khắc phục bằng cách hướng dẫn tắc xưng hô; hoặc có thể là lỗi giả định sai, do các em các em chiến lược xưng hô trong giao tiếp TV. Chẳng chưa hiểu được một số danh từ chỉ chức danh vay mượn hạn, có thể xây dựng những bài tập giúp HS người trong TV, ví dụ như giám đốc, bác sĩ,... nên đưa ra những H’Mông thực hành để không mắc lỗi xưng hô không phù giả định sai về cách dùng những từ này và dẫn đến dùng hợp quan hệ người dưới với người trên, không nói trống từ xưng hô sai,... Trong một số trường hợp khác, đó lại là không, không đơn giản hóa bằng cách dùng đại từ xưng lỗi chuyển tiếp do chiến lược dạy học không phù hợp của hô trung tính cho mọi trường hợp,... GV gây ra. Như vậy, cùng là một lỗi dùng từ xưng hô 2.5.4. Những lỗi do quá trình học: mới học và đang học nhưng nhìn ở góc độ giao thoa la thuộc về lỗi ngôn ngữ, TV, đang học xưng hô cần được khắc phục bằng cách văn hóa. Nếu ở góc độ quan tâm đến giai đoạn học, cách người dạy sắp xếp, phân bố nội dung dạy học hợp lí, có học, cách dạy... thì lại thuộc lỗi chuyển tiếp. lộ trình và xác định mức độ sửa lỗi phù hợp với mỗi giai Có thể nói, điều quan trọng khi dựa trên lí thuyết phân đoạn học của HS. Việc này liên quan nhiều đến các nhà tích lỗi là ứng dụng vào từng trường hợp cụ thể, để nhận soạn tài liệu học tập cho HS học TV là NN2. ra nguyên nhân gây lỗi ngôn ngữ của học là gì, từ đó có 2.5.5. Các lỗi do cách dạy học của GV gây ra cần được cái nhìn khách quan và tìm ra cách khắc phục chúng. khắc phục bằng cách điều chỉnh phương pháp dạy học 2.5. Một số giải pháp dạy học từ xưng hô tiếng Việt cho cho phù hợp với HS học từ xưng hô, học TV là NN2. học sinh tiểu học người H’Mông Bên cạnh đó, cần mở rộng các cơ hội giao tiếp TV giữa Nếu các lỗi giao thoa (interlingual errors) giữa tiếng HS người H’Mông với người Kinh để giúp các em tự tin, H’Mông và TV giúp các nhà nghiên cứu và GV dự đoán và dần có ý thức cũng như nhận ra ý nghĩa, giá trị của trước các lỗi có thể xảy ra trong quá trình học ngôn ngữ việc học TV nói chung và dùng từ xưng hô TV chuẩn mới của HS, từ đó lựa chọn các nội dung dạy học quan văn hoá giao tiếp nói riêng. trọng, cần nhấn mạnh; thì lỗi chuyển tiếp (intralingual Sau đây, chúng tôi xin được giới thiệu 2 phương pháp errors) lại có thể giúp GV tìm ra cách sắp xếp, tổ chức khá tiêu biểu, phù hợp cho việc dạy từ xưng hô TV cho các nội dung dạy học từ xưng hô TV và điều chỉnh cách HS tiểu học người H’mông, với những ưu điểm là phát thức dạy học một cách đa dạng, hiệu quả nhất. Theo đó, triển tâm lí học tập lành mạnh, chủ động, tích cực và mở từ lỗi xưng hô TV của HS người H’Mông, có thể đưa ra rộng được môi trường giao tiếp, học tập TV cho HS. các giải pháp để khắc phục những lỗi này. - Phương pháp Trực quan hành động (total physical 2.5.1. Các lỗi dùng từ xưng hô do nguyên nhân hiện tượng response) là phương pháp xuất phát từ cách tiếp cận tự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng H’Mông và TV là định nhiên đối với việc tiếp nhận ngôn ngữ của HS. Các em hướng cho việc lựa chọn nội dung dạy học: ưu tiên xây sẽ hình thành hiểu biết và nắm bắt ngôn ngữ thông qua dựng bài tập cho các nội dung khác biệt của từ xưng hô, hoạt động nghe các mệnh lệnh và phản hồi qua các hành cách xưng hô giữa tiếng H’Mông và TV. Như chú ý quy động nhằm đáp ứng các yêu cầu, mệnh lệnh nhận được tắc, văn hóa xưng hô không nói trống không với người từ phía GV. Có các loại trực quan sau: trực quan với cơ trên; xưng hô chú trọng thứ bậc, tình cảm; dùng từ chỉ quan thể, trực quan với đồ vật, trực quan với tranh ảnh, trực hệ họ hàng thân tộc để xưng hô trong giao tiếp xã hội,... quan với câu chuyện. GV tuỳ vào từng bài học và đối 2.5.2. Các lỗi dùng từ xưng hô có nguyên nhân từ tâm lí, tượng HS cụ thể, có thể lựa chọn các loại hình trực quan từ cách học xưng hô TV, cách học TV của HS H’Mông nêu trên hoặc kết hợp một lúc nhiều loại để tiết học thêm như: chưa thật sự gắn bó, yêu thích và say mê với việc sinh động và thú vị. học TV và chưa đánh giá được hết mức độ quan trọng Ví dụ: Với HS đầu cấp tiểu học người dân tộc của việc học TV cũng như việc sử dụng từ xưng hô chuẩn H’Mông, GV có thể vận dụng phương pháp TPR trong 150
- VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 8/2018, tr 146-151 việc dạy học các đơn vị kiến thức như danh từ chỉ nghề H’Mông và HS người Kinh. GV có thể đặt cho dự án của nghiệp, chức danh và danh từ chỉ họ hàng thân tộc thông mình một cái tên ngắn gọn, dễ hiểu, mang tính chất qua các tranh ảnh, đồ vật thật. Yêu cầu đối với HS khi áp đường hướng cho dự án, ví dụ như: “Chào bạn người dụng phương pháp trực quan hành động là các em cần chỉ Kinh”, hoặc “Chúng ta, con Rồng cháu Tiên”,... tay, làm theo hướng dẫn của GV, không được phát ra lời Qua phương pháp Dạy học dự án, HS sẽ được sử nói, vì ở giai đoạn đầu tiên này, tâm lí của các em còn e dè, dụng TV và từ xưng hô TV trong môi trường giao tiếp nhút nhát cùng với khả năng phát âm chưa thành thạo. Vì thực, đây là một điều kiện vô cùng quan trọng trong quá vậy, phương pháp này thích hợp với HS đầu cấp tiểu học trình thụ đắc ngôn ngữ (language acquisition) của người người dân tộc H’Mông, giúp các em cảm thấy thoải mái, học, mà chúng ta cần quan tâm. đáp ứng tâm lí ưa vận động, tạo điều kiện cho các em thể 3. Kết luận hiện khả năng nhận biết ngôn ngữ thông qua việc thực hiện Trong chiều dài lịch sử phát triển của ngành ngôn ngữ các lệnh, chỉ dẫn của GV. Và quan trọng hơn là giúp các học ứng dụng, lí thuyết phân tích lỗi là một bước tiến từ em tập trung chú ý vào việc hiểu nghĩa của các từ ngữ chỉ lí thuyết phân tích tương phản, tuy nhiên, hiện nay, bên nghề nghiệp, chức danh, họ hàng thân tộc - những từ các cạnh những đóng góp nổi bật, lí thuyết này cũng phải đối em thường không biết cách dùng để xưng hô. mặt với không ít những ý kiến trái chiều về cách tiếp cận - Phương pháp Dạy học dự án (project-based cũng như những giá trị mà nó mang lại. Trong bài báo learning) là phương pháp dạy học hiện đại, giúp rèn này, chúng tôi chưa thể đi sâu nói hết về những ý nghĩa luyện cho HS những kĩ năng thành công (successful tiềm ẩn mà Lí thuyết phân tích lỗi mang lại trong việc skills) của thế kỉ XXI, những kĩ năng quan trọng phục vụ dạy học từ xưng hô TV cho HS tiểu học người H’Mông, cho việc học tập trong trường đại học và đi làm sau này. nhưng đây là cơ sở quan trọng và là nền tảng vững chắc Để nói ngắn gọn về phương pháp này, có thể tóm lược để chúng tôi tiếp tục có những nghiên cứu sau này về việc rằng: HS thể hiện sự chủ động, kiến tạo kiến thức từ thực dạy học TV cho HS người dân tộc thiểu số. tế xã hội, tạo ra các sản phẩm để công bố về những gặt hái của mình sau quá trình thực hiện dự án. Quan trọng Tài liệu tham khảo hơn, phạm vi của phương pháp dạy học này không chỉ [1] Jack Richards - Richard Schmidt (2002 - tái bản lần gói gọn trong không gian lớp học, mà mở rộng biên độ thứ ba). Longman dictionary of language teaching ra ngoài nhà trường, tạo nên một “xã hội học tập” đầy thú and applied linguistics. Longman press. vị và cởi mở, nơi HS được trải nghiệm và sáng tạo, gắn [2] L. Selinker (1969). Language transfer. General bó với ngôn ngữ trong đời sống thực, một ngôn ngữ sống linguistics. động và đầy màu sắc. [3] Nguyễn Văn Khang (2014, tái bản lần thứ nhất). Để HS thực hành sử dụng từ xưng hô TV không chỉ Ngôn ngữ học xã hội. NXB Giáo dục Việt Nam. trong lớp học, GV có thể tổ chức cho HS thực hiện các [4] Nguyễn Văn Chiến (1992). Ngôn ngữ học đối chiếu dự án với nhiệm vụ ngoài nhà trường, nhằm mục đích và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á. NXB Đại cung cấp cho các em cơ hội vận dụng từ xưng hô trong học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. thực tế cuộc sống. Phương pháp này nên được vận dụng [5] Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu - Hoàng Trọng trong dạy học từ xưng hô cho HS tiểu học người dân tộc Phiến (2006). Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. H’Mông cuối cấp tiểu học, ví dụ như lớp 5. Ví dụ, có thể NXB Giáo dục. tổ chức dự án: “Bán hàng không khó” cho HS lớp 5 [6] Bùi Mạnh Hùng (2008). Ngôn ngữ học đối chiếu. người H’Mông tại các điểm du lịch có đông khách du NXB Giáo dục. lịch người Kinh, thử nghiệm cho các em dùng TV một [7] Lê Quang Thiêm, (2004, tái bản lần thứ nhất). cách hồn nhiên để trao đổi, mua bán với người Kinh. Sau Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ. NXB Đại học đó, từ kết quả thu về, GV cùng HS tổng kết và tìm ra Quốc gia Hà Nội. những bạn nào bán được nhiều hàng, những nguyên nhân giúp bán hàng thành công là gì, trong đó, việc dùng ngôn [8] Vương Toàn (2006). Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ (có yếu tố từ xưng hô) có quan trọng không. Trải qua ngữ ở Việt Nam. NXB Khoa học xã hội. các bước thử nghiệm và kết luận, cuối cùng, HS có thể [9] Nguyễn Đức Tồn (2002). Tìm hiểu đặc trưng văn bắt tay vào thực hiện những sản phẩm như tờ rơi hướng hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt. dẫn cách xưng hô với khách du lịch người Kinh để giúp NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. những người bán hàng là người H’Mông biết cách giao [10] Corder, S. P. (1967). The Significance of Learners’ tiếp bằng TV hiệu quả,... Ngoài ra, có thể tổ chức xây Errors. International Review of Applied Linguistics dựng các dự án như dự án trao đổi thư giữa HS người in Language Teaching. 151
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Học tiếng Hán bắt đầu từ việc lý giải ý nghĩa văn hoá của những lời chào thông dụng nhất
10 p | 109 | 11
-
NHÀ BÁO – HÃY TỰ TRỌNG
3 p | 91 | 8
-
Giao tiếp xưng hô tiếng Việt bằng từ thân tộc và việc sử dụng chúng trong giao tiếp công quyền
10 p | 79 | 7
-
Giao tiếp xưng hô tiếng Việt bằng từ thân tộc và sử dụng chúng trong giao tiếp công quyền - GS.TS Nguyễn Văn Khang
11 p | 113 | 6
-
So sánh cách xưng hô trong nghi thức lời nói tiếng Nga với tiếng Việt
8 p | 96 | 5
-
So sánh hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt và trong tiếng Pháp
11 p | 87 | 4
-
Quan hệ liên nhân chi phối các yếu tố lựa chọn từ xưng hô trong tiếng Việt và tiếng Nhật
7 p | 49 | 4
-
Việt Nam trong bối cảnh các cường quốc đấu tranh vì trật tự mới trong khu vực
6 p | 66 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn