BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG -----------------*------------------- BÙI VĂN TUẤN THỰC TRẠNG, MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN NHIỄM ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ (Toxocara canis) Ở NGƯỜI TẠI HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI 2016 VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG -----------------*------------------- BÙI VĂN TUẤN

THỰC TRẠNG, MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN NHIỄM ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ (Toxocara canis) Ở NGƯỜI TẠI HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI 2016 VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP

Chuyên ngành: Y tế công cộng

Mã số: 62 72 03 01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS Nguyễn Văn Chương 2. GS.TS Vũ Sinh Nam HÀ NỘI – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và nhóm nghiên

cứu thực hiện tại 2 xã Đức Phong và Đức Chánh thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh

Quảng Ngãi giai đoạn 2016-2017. Các số liệu và kết quả trình bày trong luận án

là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào

khác.

Tác giả luận án

Bùi Văn Tuấn

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc, Phòng Đào tạo Sau

đại học, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương luôn tạo điều kiện cho tôi trong suốt

quá trình học tập và hoàn thành luận án.

Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn

Chương và GS.TS Vũ Sinh Nam, những người thầy có nhiều kiến thức, kinh

nghiệm đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, thực

hiện đề tài cũng như hoàn thành luận án.

Tôi xin chân thành cám ơn Ban lãnh đạo Viện Sốt rét-ký sinh trùng-côn

trùng Quy Nhơn, cán bộ Khoa Ký sinh trùng của Viện đã hỗ trợ cho tôi thực hiện

đề tài về kinh phí cũng như nguồn nhân lực.

Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Y tế tỉnh Quảng Ngãi, Trung tâm phòng

chống sốt rét-ký sinh trùng-côn trùng tỉnh Quảng Ngãi, Trung tâm y tế dự phòng

huyện Mộ Đức, Ủy ban nhân dân xã Đức Phong và xã Đức Chánh đã quan tâm

và tạo điều kiện cho tôi thực hiện đề tài.

Đặc biệt, tôi xin cảm ơn cha mẹ, vợ, con, các cháu, anh chị em và những

người thân trong gia đình đã hết lòng ủng hộ, động viên tôi trong suốt quá trình

học tập và là động lực giúp tôi vượt qua những khó khăn để đạt được kết quả

khoá học và hoàn thành luận án.

Tác giả luận án

Bùi Văn Tuấn

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Albendazole ALB

ATGĐC Ấu trùng giun đũa chó

ATGĐCM Ấu trùng giun đũa chó/mèo

BCAT Bạch cầu ái toan

BN Bệnh nhân

Companion Animal Parasite Council CAPC

(Hội Thú y phòng chống các bệnh ký sinh trùng trên động vật)

CBVC Cán bộ viên chức

Computed tomography (Chụp cắt lớp vi tính)

CSHQ Chỉ số hiệu quả

CT

CTV Cộng tác viên

ĐT Đối tượng

Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay ELISA

(Thử nghiệm miễn dịch hấp phụ gắn men)

European Scientific Counsel Companion Animal Parasites ESCCAP

(Hội Thú y phòng chống các bệnh ký sinh trùng trên

động vật châu Âu)

GĐC Giun đũa chó

HQCT Hiệu quả can thiệp

HT (+) Huyết thanh dương tính

HT (-) Huyết thanh âm tính

KAP Knowledge Attitude Practice (Kiến thức Thái độ Thực hành)

KHV Kính hiển vi

KST Ký sinh trùng

NC Nghiên cứu

OD Optical density (Mật độ quang)

Phương pháp PP

Trung bình TB

T. canis Toxocara canis

Toxocara cati T. cati

Truyền thông giáo dục TTGD

Xét nghiệm XN

WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới )

MỤC LỤC

Trang

ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................ 3

1.1. Lịch sử nghiên cứu bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo. ................................. 3

1.1. Trên Thế giới ...................................................................................................... 3

1.2. Tại Việt Nam ...................................................................................................... 4

1.2. Đặc điểm sinh học của giun đũa chó mèo Toxocara spp ............................... 4

1.2.1. Tác nhân gây bệnh .......................................................................................... 4

1.2.2. Chu kỳ của giun đũa chó ................................................................................. 6

1.3. Tình hình nghiên cứu và phân bố bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo .......... 7

1.3.1. Trên Thế giới ................................................................................................... 7

1.3.2. Tại Việt Nam .................................................................................................10

1.4. Triệu chứng lâm sàng, chẩn đoán và điều trị bệnh ấu trùng giun đũa

chó/mèo ở người ....................................................................................................11

1.4.1. Triệu chứng lâm sàng ....................................................................................11

1.4.2. Chẩn đoán ......................................................................................................14

1.4.3. Điều trị ...........................................................................................................17

1.5. Một số yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo .........................19

1.5.1. Nguồn nhiễm giun đũa chó/mèo ở vật chủ chính .........................................19

1.5.2. Mầm bệnh ở ngoại cảnh ................................................................................21

1.5.3. Yếu tố môi trường .........................................................................................25

1.5.4. Yếu tố kinh tế, văn hóa xã hội.......................................................................25

1.5.5. Yếu tố hành vi con người ..............................................................................27

1.6. Phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo ...........................................28

1.6.1. Một số biện pháp phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo trên thế

giới ...........................................................................................................................29

1.6.2. Phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo ở Việt Nam .......................35

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................37

2.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................37

2.2. Thời gian nghiên cứu ....................................................................................37

2.3. Địa điểm nghiên cứu .....................................................................................37

2.4. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................39

2.4.1. Thiết kế nghiên cứu .......................................................................................39

2.4.2. Nội dung nghiên cứu .....................................................................................42

2.4.3. Phương pháp thu thập số liệu. ......................................................................46

2.4.4. Tổ chức thực hiện ..........................................................................................47

2.4.5. Biến số và các chỉ số đánh giá trong nghiên cứu ..........................................50

2.4.6. Vật liệu nghiên cứu .......................................................................................54

2.5. Xử lý số liệu ....................................................................................................55

2.6. Các biện pháp khống chế sai số ...................................................................56

2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ................................................................56

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...........................................................58

3.1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở

người .......................................................................................................................58

3.1.1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người ..................................................58

3.1.2. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người ....................................................63

3.1.3. Một số yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người ....................64

3.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống ....................................75

3.2.1. Hiệu quả giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người .....75

3.2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh .................................77

3.2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục làm tăng kiến thức, thái độ, thực hành

của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó ..............................79

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ..................................................................................88

4.1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở

người .......................................................................................................................88

4.1.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ..................................................88

4.1.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên cứu ...........88

4.1.3. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người .............94

4.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống ..................................101

4.2.1. Hiệu quả giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người ...101

4.2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh ...............................103

4.2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục làm tăng kiến thức, thái độ, thực hành

của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó ............................104

4.3. Đánh giá những ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu ..............................112

4.4. Điểm mới của nghiên cứu ............................................................................114

KẾT LUẬN ..........................................................................................................115

1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun đũa chó .......... 115

2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ấu trùng giun

đũa chó .................................................................................................................115

KHUYẾN NGHỊ ..................................................................................................117

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ XUẤT BẢN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1. Truyền thông giáo dục đã thực hiện tại điểm can thiệp .........................44

Bảng 3.1. Đặc tính về giới và nhóm tuổi của mẫu nghiên cứu ...............................58

Bảng 3.2. Đặc tính về trình độ học vấn và nghề nghiệp của mẫu nghiên cứu ........58

Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên cứu ....59

Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người theo giới tính tại các điểm

nghiên cứu ...............................................................................................................59

Bảng 3.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người theo nhóm tuổi ..................60

Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người theo yếu tố gia đình ...........61

Bảng 3.7. Thống kê triệu chứng lâm sàng trên số trường hợp bệnh ấu trùng giun

đũa chó ....................................................................................................................63

Bảng 3.8. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó tại các điểm nghiên cứu ....................63

Bảng 3.9. Tỷ lệ có triệu chứng lâm sàng trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó ......64

Bảng 3.10. Tỷ lệ nuôi chó tại các điểm nghiên cứu ................................................64

Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại các điểm nghiên cứu ...........................65

Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm giun đũa chó theo nhóm tuổi ở chó tại các điểm nghiên

cứu ...........................................................................................................................65

Bảng 3.13. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các điểm nghiên cứu ...........66

Bảng 3.14. Mật độ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các điểm nghiên cứu .....66

Bảng 3.15. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau tại các điểm nghiên cứu ...........67

Bảng 3.16. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau theo vị trí thu thập ....................67

Bảng 3.17. Mật độ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau tại các điểm nghiên cứu ........68

Bảng 3.18. Tỷ lệ có nghe nói và nguồn thông tin về bệnh ấu trùng giun đũa chó .68

Bảng 3.19. Kiến thức về bệnh ấu trùng giun đũa chó .............................................69

Bảng 3.20. Thái độ về bệnh ấu trùng giun đũa chó ................................................70

Bảng 3.21. Thực hành về ăn uống và thói quen sinh hoạt ......................................71

Bảng 3.22. Liên quan giữa nuôi chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó ...................72

Bảng 3.23. Liên quan giữa ăn rau sống và nhiễm ấu trùng giun đũa chó ...............73

Bảng 3.24. Liên quan giữa thói quen sinh hoạt và nhiễm ấu trùng giun đũa chó ...74

Bảng 3.25. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm ở người sau can thiệp .....................................75

Bảng 3.26. Thay đổi về tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó sau can thiệp ................75

Bảng 3.27. Hiệu quả điều trị bệnh ấu trùng giun đũa chó bằng albendazole .........76

Bảng 3.28. Hiệu quả điều trị làm giảm triệu chứng lâm sàng.................................76

Bảng 3.29. Thay đổi về tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan sau can thiệp điều trị ..............77

Bảng 3.30. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó sau can thiệp .........................77

Bảng 3.31. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất sau can thiệp ..........78

Bảng 3.32. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau sau can thiệp ..........79

Bảng 3.33. Thay đổi kiến thức về nguy cơ nhiễm ..................................................79

Bảng 3.34. Thay đổi kiến thức về triệu chứng bệnh ...............................................80

Bảng 3.35. Thay đổi kiến thức về phòng chống bệnh .............................................80

Bảng 3.36. Thay đổi thái độ về phòng chống bệnh.................................................81

Bảng 3.37. Thực hành nuôi chó tại xã can thiệp sau can thiệp ...............................82

Bảng 3.38. Thay đổi về thực hành nuôi chó ...........................................................83

Bảng 3.39. Thay đổi về bồng bế chó, xử lý phân chó .............................................84

Bảng 3.40. Thay đổi về ăn rau sống, rửa rau ..........................................................85

Bảng 3.41. Thay đổi về thói quen tiếp xúc đất, rửa tay ..........................................86

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1. Giun đũa Toxocara canis trưởng thành ................................................... 5

Hình 1.2. Trứng giun đũa chó ................................................................................... 5

Hình 1.3. Ấu trùng giun đũa chó ............................................................................... 5

Hình 1.4. Chu kỳ phát triển của giun đũa chó ........................................................... 6

Hình 1.5. Bản đồ phân bố huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo ..................... 9

Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi .............................38

Hình 2.2. Thiết kế và quy trình triển khai nghiên cứu ............................................42

Hình 2.3. Các biện pháp can thiệp thực hiện tại điểm nghiên cứu .........................43

Hình 2.4. Khung lý thuyết nghiên cứu bệnh ấu trùng giun đũa chó .......................45

Hình 2.5. Thuốc Unaben .........................................................................................55

Hình 3.1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo trình độ học vấn ......................60

Hình 3.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo nghề nghiệp .............................61

Hình 3.3. Mức độ OD/ngưỡng của số nhiễm ấu trùng giun đũa chó ......................62

Hình 3.4. Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó ...........62

Hình 3.5. Thực hành nuôi chó thả rông và tẩy giun cho chó ..................................71

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo thuộc nhóm “bệnh động vật” (zoonosis)

tức bệnh từ thú có xương sống lây truyền sang người. Giun đũa ở chó là

Toxocara canis, ở mèo là Toxocara cati. Người bị nhiễm do tình cờ nuốt trứng

có ấu trùng của Toxocara spp nhiễm trong đất, nước, hoặc thức ăn do chất phóng

uế bừa bãi của những con chó/mèo bị nhiễm bệnh. Các ấu trùng đi vào trong

ruột, di chuyển đến nội tạng, nơi đây chúng có thể sống nhiều năm ở dạng tự do

hay hóa kén nhưng không bao giờ phát triển thành giun trưởng thành. Quan

trọng nhất là ấu trùng giun đũa chó/mèo chu du khắp nơi trong cơ thể và có thể

đến các cơ quan như: não, mắt, gan, phổi...gây ra một số triệu chứng nguy hiểm

như động kinh (ký sinh ở não), giảm thị lực hoặc mù (ký sinh ở mắt) [10].

Bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo cùng với bệnh Chagas, ấu trùng sán dây

lợn, bệnh toxoplamosis và trùng roi sinh dục được xem là năm bệnh ký sinh

trùng bị lãng quên có tầm ảnh hưởng lớn nhất [89]. Bệnh ấu trùng giun đũa

chó/mèo cũng gây ra một hiểm họa y tế công cộng lớn đặc biệt là ở các nước

đang phát triển [93]. Tỷ lệ nhiễm cao thường ở các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới

và các cộng đồng nông thôn hơn là các cộng đồng công nghiệp hóa, thành thị, ôn

đới [81],[94],[105]. Các nghiên cứu cho thấy, những quần thể người có tỷ lệ

huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo cao thường ở những nơi có nhiều chó

bị nhiễm Toxocara canis, môi trường bị ô nhiễm trứng nhiều, đặc biệt là môi

trường đất. Phân bố nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo rất rộng, từ cực Nam bán

cầu đến các vùng nhiệt đới với tỷ lệ huyết thanh dương tính khác nhau từ 0,7% ở

New Zealand cho đến 93% ở La Reunion (châu Phi) [82],[125].

Tại Việt Nam, các nghiên cứu về nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo chưa

nhiều, chỉ có một số nghiên cứu xác định tỷ lệ huyết thanh dương tính với giun

đũa chó ở người tại một số điểm như ở miền Bắc là 58,7-74,9% [9],[14]; miền

Nam từ 38,4-53,6% [17],[23],[35]; ở miền Trung từ 13-50% [7],[13],[34].

2

Tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên, tình hình nhiễm ấu trùng giun đũa

chó/mèo có xu hướng ngày một gia tăng. Qua theo dõi tại Viện Sốt rét-Ký sinh

trùng-Côn trùng Quy Nhơn cho thấy mỗi năm phát hiện hàng nghìn trường hợp

có huyết thanh dương tính với ấu trùng giun đũa chó/mèo, đa số đến từ các tỉnh

Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên, Gia Lai, Đăk Lăk, Khánh Hòa [8],[26].

Công tác phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo cũng chưa được

quan tâm. Các nghiên cứu trên thế giới chỉ tập trung vào dịch tễ, các yếu tố nguy

cơ và đưa ra các khuyến cáo về phòng bệnh; còn tại Việt Nam cho đến nay chưa

có nghiên cứu can thiệp phòng chống nào trong cộng đồng, điều này có thể làm

cho tỷ lệ nhiễm ngày càng tăng cao, gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.

Mộ Đức là một huyện đồng bằng thuộc tỉnh Quảng Ngãi có những đặc điểm

về địa lý, kinh tế xã hội gần tương tự như các khu vực đồng bằng khác của Việt

Nam. Nghiên cứu thực trạng, các yếu tố liên quan và hiệu quả các biện pháp can

thiệp phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại huyện Mộ Đức sẽ rất cần

thiết để góp phần vào tìm hiểu sự phân bố và đề xuất triển khai các biện pháp

can thiệp phòng chống một cách hiệu quả tại các địa phương khác. Chính vì vậy,

giun đũa chó (Toxocara canis) ở người tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi 2016

và hiệu quả một số biện pháp can thiệp” với các mục tiêu sau:

1. Mô tả thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm ấu trùng giun

đũa chó (Toxocara canis) ở người tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, 2016.

2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng, chống nhiễm ấu trùng giun

đũa chó ở người tại điểm nghiên cứu (2016-2017).

chúng tôi tiến hành đề tài: “Thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng

3

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN

1.1. Lịch sử nghiên cứu bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo

1.1.1. Trên thế giới

Năm 1824: Bệnh ấu trùng giun đũa mèo do Toxocara cati (T. cati) được

phát hiện đầu tiên, sau đó giới khoa học tiếp tục quan tâm đến những năm gần

đây, rất tiếc không gặp nhiều ca nhiễm T. cati trên người (số liệu y văn từ năm

1824-2005 chỉ có 36 trường hợp nhiễm ấu trùng giun đũa mèo T. cati kể từ ca

bệnh đầu tiên).

Năm 1908, tác giả Nutall và Strickland xét nghiệm các con chó ở

Cambridge (Anh) tìm thấy 17/24 con chó có nhiễm loài ký sinh trùng này.

Năm 1950, Mercer và cộng sự (1950) đã phát hiện ca bệnh đầu tiên nhiễm

ấu trùng giun đũa chó Toxocara canis (T. canis) ở người và tiếp đó họ mô tả

nhiễm trùng ở gan và u hạt ở mắt bởi tác giả Wilder [126].

Năm 1952, Beaver và cộng sự đã chứng minh có sự hiện diện của ấu trùng

T. canis ở người và gọi đó là bệnh “ấu trùng di chuyển nội tạng”. Vì là ký sinh

trùng lạc chủ, không trưởng thành được ở người nên y văn ghi nhận đây là hiện

tượng “ngõ cụt ký sinh” hoặc “bệnh động vật không hoàn chỉnh” [41]. Cũng

trong năm này, nhiều ca bệnh nhiễm T. canis tương tự được báo cáo và liên kết

giữa bệnh giun đũa chó ở người và chó được thiết lập.

Năm 1958: Sprent mô tả những điểm nổi bật nhất mở ra sự hiểu biết về

bệnh do giun đũa chó T. canis khi ông nghiên cứu về chu kỳ sinh học và phát

triển của T. canis rồi vẽ ra cơ chế lan truyền của loài ký sinh trùng này. Các

nghiên cứu tương lai làm rõ thêm nhiều khía cạnh quan trọng về bệnh giun đũa

chó, mặc dù sự chú ý chủ yếu tập trung vào chẩn đoán thể ấu trùng di chuyển ở

mắt. Đến năm 1979, Ehrhard và Kernbaum tổng kết 350 ca bệnh ấu trùng giun

đũa chó/mèo (ATGĐCM) bao gồm nhiều thể lâm sàng khác nhau và đã công bố

từng ca hay hàng loạt ca về bệnh ATGĐCM [126].

4

Vì không trải qua giai đoạn trưởng thành được ở người, chỉ ký sinh giai

đoạn ấu trùng nên không đẻ trứng; do đó việc chẩn đoán bệnh phải dựa vào

phương pháp miễn dịch học, tìm kháng thể kháng giun trong huyết thanh bệnh

nhân. Bằng phản ứng miễn dịch học, nhiều tác giả trên thế giới đã phát hiện

nhiều trường hợp nhiễm ATGĐCM lạc chủ ở người. Qua thời gian, người ta tiếp

tục khám phá ra rằng các thể bệnh ấu trùng di chuyển nội tạng thường gặp hơn

thể mắt. Các nghiên cứu sau đó tiếp tục tiến hành cho đến ngày nay với hy vọng

hiểu biết hơn về tính phức tạp trong bệnh ATGĐCM và tiềm năng các liệu pháp

điều trị mới.

1.1.2. Tại Việt Nam

Trường hợp bệnh đầu tiên được phát hiện vào năm 1988 tại Bệnh viện Nhi

đồng II, thành phố Hồ Chí Minh. Một cháu bé có bệnh lý về gan, bạch cầu ái

toan (BCAT) tăng cao, huyết thanh của cháu bé được chuyển sang Pháp để chẩn

đoán bệnh, kết quả có kháng thể kháng T. canis dương tính trong máu [10]. Chó

là con vật thân thiết đối với nhiều gia đình nên chắc chắn bệnh không phải là

hiếm ở nước ta, vì vậy ứng dụng huyết thanh chẩn đoán đã phát hiện hàng nghìn

người có huyết thanh dương tính với loại giun tròn này. Năm 1988, Trần Vinh

Hiển và cộng sự gặp ở Bệnh viện Nhi đồng 2, thành phố Hồ Chí Minh một bệnh

nhi ở Long An bị sốt kéo dài, BCAT tăng rất cao trong máu, sau đó huyết thanh

của bệnh nhân được gởi sang Pháp xét nghiệm xác định nhiễm T. canis [10].

Từ năm 2000 đến nay, việc nghiên cứu nhiễm ATGĐCM tại Việt Nam mới

thực sự được quan tâm và ngày càng nhiều nghiên cứu tập trung vào các mảng

khác nhau đối với căn bệnh này.

1.2. Đặc điểm sinh học của giun đũa chó mèo Toxocara spp.

1.2.1. Tác nhân gây bệnh

Trong số các loài giun thuộc giống Toxocara thì chỉ có 2 loài Toxocara

canis (T. canis) và Toxocara cati (T. cati) được chứng minh là tác nhân gây bệnh

cho người, vật chủ chính của T. canis là chó và T. cati là mèo [41].

5

* Hình thể của giun T. canis

- Giun trưởng thành:

+ Con đực dài 4 - 6 cm

+ Con cái dài 5 - 10 cm

- Ấu trùng : kính thước 400 µm x 20 µm

- Trứng : hình cầu, kích thước 85 µm x 75 µm, vỏ màu đậm [10].

Hình 1.1. Giun đũa Toxocara canis trưởng thành

Nguồn: https://parasitipedia.net

Hình 1.2. Trứng giun đũa chó Hình 1.3. Ấu trùng giun đũa chó

Nguồn: https://veteriankey.com Nguồn: https://www.sciencedirect.com

* Phân loại

Giun Toxocara spp. thuộc:

Ngành: Nematoda

Nhóm: Phasmida

Họ: Ascaridoidea

Giống: Toxocara

Loài: Toxocara canis, Toxocara cati [10]

6

1.2.2. Chu kỳ của giun đũa chó

Hình 1.4. Chu kỳ phát triển của giun đũa chó

Nguồn: http://www.dpd.cdc.gov/dpdx

* Ở chó:

Khi chó cái nuốt phải trứng có ấu trùng của giun đũa chó, trứng nở trong dạ

dày và ruột non, trứng giải phóng ấu trùng giai đoạn 2 xâm nhập vào thành ruột

rồi theo đường máu di chuyển khắp nơi trong cơ thể. Khoảng một tuần sau, tất cả

ấu trùng giai đoạn 2 đã có mặt trong nhu mô gan, phổi, thận, não. Vì vậy, không

có giun trưởng thành ở ruột chó cái, ấu trùng có thể tồn tại trong các mô của chó

cái trên hàng tháng hay hàng năm mà không phát triển thêm nữa. Nếu chó cái có

thai, ấu trùng di chuyển qua bánh nhau, tới mô gan và phổi của thai. Sự xâm

nhập vào thai không xảy ra trước ngày thứ 42 của thai kỳ và cũng không thể xảy

ra khi chó mẹ mới bị nhiễm khoảng nửa tháng. Ấu trùng xâm nhập vào thai

thường do chó mẹ bị nhiễm từ cả năm trước. Lúc sinh ra, ấu trùng giai đoạn 3

được tìm thấy chủ yếu trong mô phổi của chó con. Từ đó, ấu trùng di chuyển đến

khí quản, đi lên và đi xuống lại thực quản đến dạ dày, phát triển thành ấu trùng

7

giai đoạn 4 vào khoảng 3 ngày tuổi. Khoảng từ ngày tuổi thứ 11 đến ngày 21, số

giun trưởng thành tăng trong ruột non và sau 3 tuần, trứng bắt đầu xuất hiện

trong phân chó con. Lúc này, chó mẹ có thể nuốt phân chó con, nếu trứng chưa

có phôi thì chính chó mẹ lại thải một lượng lớn trứng trong phân theo cơ chế cơ

học. Khi tiếp xúc với không khí, với môi trường ngoài, trứng phát triển đến ấu

trùng giai đoạn 1, kế đó là ấu trùng giai đoạn 2 nằm trong vỏ trứng. Thời gian

này mất khoảng 12 ngày hoặc hơn, tùy thuộc điều kiện môi sinh. Song ở giai

đoạn phát triển đủ độ, thời gian trứng có khả năng gây nhiễm kéo dài hàng năm,

chó con có thể nuốt trứng có ấu trùng suốt 3 tuần sau sinh, sẽ cho ra giun trưởng

thành sau này trong ruột [10].

* Ở người:

Người là vật chủ ngẫu nhiên, nhiễm do nuốt trứng có ấu trùng của giun đũa

chó. Ấu trùng thoát vỏ khỏi trứng, xâm nhập thành ruột và được chuyên chở theo

đường máu đến gan, phổi và những cơ quan khác. Ở những cơ quan này, ấu

trùng di chuyển hàng tuần hay hàng tháng hoặc ở “trạng thái im lặng”, thành

những vật lạ gây viêm và kích thích tạo ra u hạt thâm nhiễm bạch cầu ái toan

[10].

1.3. Tình hình nghiên cứu và phân bố bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo

1.3.1. Trên thế giới

Bệnh ATGĐCM xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Các nghiên cứu tại một số

châu lục cho thấy những nước vùng nhiệt đới có tỷ lệ nhiễm cao hơn. Nhiễm

ATGĐCM phân bố rộng, từ cực Nam bán cầu cho đến Nam Mỹ, vùng Caribê,

Châu Phi, Trung Đông, Nam Á và Đông Nam Á [42],[71],[87],[96],[106],[125].

Tại Châu Âu, nghiên cứu của Stensvold (2009) xét nghiệm huyết thanh với

3.247 người dân tại Đan Mạch, cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 2,4%

[113]. Nghiên cứu của Dogan (2007) bằng cách chọn ngẫu nhiên 430 trẻ em

vùng nông thôn và 141 trẻ em vùng thành thị vùng đông bắc Thổ Nhĩ Kỳ, kết

quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính chung cả hai nhóm là 12,9%, trong đó

8

vùng nông thôn là 16,9% và vùng thành thị là 0,7% (có sự khác biệt giữa hai

nhóm với p < 0,01) [53]. Tại Ba Lan, tổng hợp các nghiên cứu từ năm 1994 đến

2005, xét nghiệm huyết thanh 18.367 người nghi ngờ bị nhiễm ấu trùng giun đũa

chó, kết quả cho thấy 16,6-75,6% dương tính với giun đũa chó. Thống kê từ năm

1978 đến năm 2009, có tất cả 1.022 trường hợp bệnh ATGĐCM [43].

Tại Mỹ, tỷ lệ huyết thanh dương tính theo tổng hợp của Woodhall (2014)

cho thấy cũng rất cao (13,9%) và ước tính có khoảng 1,3-2,8 triệu người bị

nhiễm. Tác giả cũng chỉ ra rằng thậm chí đối với quốc gia giàu nhất trên thế giới

vẫn có thể bị nhiễm cao. Bệnh ATGĐCM cùng với các bệnh giun sán khác như

giun lươn, giun đũa, ấu trùng sán dây lợn được công nhận là bệnh nhiệt đới bị

lãng quên nhưng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người [121].

Tác giả Lee phân tích tổng hợp 18 bài báo về thực trạng nhiễm Toxocara

spp. tại khu vực Bắc Mỹ, ước tính mức độ nhiễm dao động từ 0,6% ở cộng đồng

người Inuit Canada đến 30,8% ở trẻ em bị hen suyễn ở Mexico Các yếu tố nguy

cơ gồm: chủng tộc người Mỹ gốc Phi, nghèo đói, giới tính nam và sở hữu vật

nuôi hoặc ô nhiễm môi trường bởi phân động vật. Tại Mexico, một số nghiên

cứu cho thấy sự gia tăng tỷ lệ nhiễm Toxocara spp. có liên quan đến một số

nhóm nguy cơ cao bao gồm người thu gom rác, trẻ em mắc bệnh hen và bệnh

nhân tâm thần. Tác giả cho rằng gánh nặng bệnh tật là rất lớn nhưng cần những

nghiên cứu sâu hơn để xác định gánh nặng thực sự của bệnh ở Bắc Mỹ [78].

Tại Nam Mỹ, nghiên cứu của Rondan (2010) tại thành phố Amazonian của

Peru từ tháng 3 đến tháng 8/2008, sử dụng Toxocara ELISA-IgG test khảo sát

300 mẫu, kết quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 35,6%. Có đến 95,3%

số huyết thanh dương tính có các triệu chứng lâm sàng như đau đầu (66,3%), đau

bụng (54,2%), ngứa (40,29%), có triệu chứng ở mắt (36,5%) [103]. Một nghiên

cứu tại thành phố Sorocala, bang Sao Paulo, Braxin, xét nghiệm 180 em học sinh

cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính chung là 38,3%, trong đó số trẻ em ở ngoại

ô nhiễm 47,4%, số trẻ em ở trung tâm thành phố nhiễm 11,1% [49].

9

Ở Châu Phi, điều kiện khí hậu nhiệt đới nên thuận lợi cho sự phát triển của

mầm bệnh ở ngoại cảnh nên nhiễm bệnh ATGĐCM có thể cao hơn các vùng

khác. Nghiên cứu của Liao (2010) tại Swaziland trên 92 trẻ em từ 3 đến 12 tuổi ở

một vùng nông thôn cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 44,6%, không có sự

khác biệt nhiễm giữa nam (46,9%) và nữ (41,8%) [79]. Trong một nghiên cứu tại

vùng miền Trung của Ghana với 566 trẻ em từ 1 đến 15 tuổi, tỷ lệ huyết thanh

dương tính là 53,5%. Nghiên cứu này cho thấy trẻ có tiền sử tiếp xúc đất, nghịch

đất, bồng bế chó mèo cưng, không rửa tay trước khi ăn có tỷ lệ huyết thanh

dương tính cao hơn những trẻ không có thói quen này, sự khác biệt có ý nghĩa

thông kê (p<0,05) [77]. Nghiên cứu của Magnaval (1994) tại đảo La Reunion

trên huyết thanh 387 người dân trên 15 tuổi sử dụng kháng nguyên chất tiết của

T. canis, kết quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính rất cao (92,8%) [84].

Tại khu vực Châu Á, các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính

cũng khác nhau tùy theo từng vùng. Nghiên cứu của Kondo ở Nhật xét nghiệm

3.277 người dân, tỷ lệ huyết thanh dương tính là 1,6% [74]. Đối với các nước

đang phát triển thì tỷ lệ huyết thanh dương tính cao hơn, như nghiên cứu của Rai

(1996) tại Nepal khi xét nghiệm 200 người dân từ 14 tuổi trở lên thì cho kết quả

dương tính đến 81%; hoặc nghiên cứu của Chomel BB (1993) ở Bali, Indonesia,

cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo là 63,2% [48],[102].

Hình 1.5. Bản đồ phân bố huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo trên thế giới

Nguồn: https://www.researchgate.net/publication

10

1.3.2. Tại Việt Nam

Từ năm 2000 đến nay đã có một số nghiên cứu về tỷ lệ huyết thanh dương

tính giun đũa chó/mèo ở cộng đồng cho thấy tỷ lệ này cũng rất khác nhau theo

từng vùng. Ở phía Bắc, theo điều tra của Phan Thị Thu Hoài, năm 2014 trên trẻ

em học sinh tiểu học tại xã Yên Lạc, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, tỷ lệ

huyết thanh dương tính rất cao (74,9%) [14]. Điều tra của Đỗ Trung Dũng

(2016) tiến hành tại 2 xã của huyện Tả Thanh Oai, thành phố Hà Nội và 2 xã của

huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên năm 2014-2015 bằng sử dụng kỹ thuật ELISA

phát hiện kháng thể kháng ATGĐCM trong huyết thanh đã cho kết quả tỷ lệ

huyết thanh dương tính tại Hà Nội là 58,7%, tại Hưng Yên là 58,8% [9].

Tại khu vực phía Nam, nghiên cứu của Trần Thị Hồng tại xã An Phú, Củ

Chi, TP Hồ Chí Minh (2000) cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 38,4%,

Nguyễn Hồ Phương Liên điều tra trên người trưởng thành quận 12, TP Hồ Chí

Minh, tỷ lệ huyết thanh dương tính với Toxocara spp. ở người là 53,58%.

[17],[23].

Tại khu vực miền Trung cũng đã có những nghiên cứu tỷ lệ huyết thanh

dương tính với giun đũa chó ở cộng đồng tại một số tỉnh trong khu vực như

nghiên cứu của Trần Vinh Hiển (2008) tại xã H Bông và xã Chư Pả (huyện Chư

Pả, tỉnh Gia Lai) cho thấy tỷ lệ là 50% [13]. Nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn

(2012) tại Bình Định và Gia Lai cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính tại Bình

Định từ 13,5-16,8%, tại Gia Lai từ 13,1-14,4%. Nghiên cứu của Nguyễn Văn

Chương (2014) tại Bình Định và Đăk Lăk cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính

tại Bình Định từ 29,4-30%, tại Đăk Lăk từ 19,4-26,9% [7],[34].

Bên cạnh nghiên cứu ở cộng đồng thì tại các cơ sở điều trị cũng đã có

những đánh giá tỷ lệ nhiễm trên những bệnh nhân đến khám như nghiên cứu

Phan Anh Tuấn và cộng sự từ năm 2005-2007 với 397 bệnh nhân đến xét

nghiệm tại bộ môn Ký sinh học- Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh có các triệu

chứng dị ứng cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính với kháng nguyên T. canis là

11

46,9% [35]. Lê Thị Cẩm Ly (2015) tổng hợp số bệnh nhân nghi ngờ đến khám

tại Bệnh viện nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh từ năm 2010-2011 cho thấy tỷ lệ huyết

thanh dương tính là 49,68% [27]. Nguyễn Thị Nga (2015) tổng hợp số bệnh nhân

nghi ngờ nhiễm Toxoscara spp tại Bệnh viện 103 từ tháng 9/2012-3/2013 cho

thấy trong số 235 bệnh nhân có chỉ định xét nghiệm tìm kháng thể kháng giun

đũa chó, tỷ lệ dương tính là 45,1% [29].

1.4. Triệu chứng lâm sàng, chẩn đoán và điều trị bệnh ấu trùng giun đũa

chó/mèo ở người

1.4.1. Triệu chứng lâm sàng

Sau khi ấu trùng Toxocara spp. đi vào cơ thể, chúng sẽ xuyên thành niêm

mạc ruột đến các cơ quan gan, phổi, não, tim, cơ xương, mắt thông qua cơ chế

cơ học và sự tham gia của các enzyme protease. Các ấu trùng di chuyển sẽ bị

ngăn chặn hoặc ảnh hưởng bởi đáp ứng miễn dịch dẫn đến phản ứng viêm tại

chỗ, tăng bạch cầu ái toan, các cytokine và các kháng thể đặc hiệu. Trong thực

hành lâm sàng, một số trường hợp nhiễm ấu trùng Toxocara spp. không biểu

hiện triệu chứng, nhưng khi có triệu chứng có thể biểu hiện dưới nhiều hội

chứng và thể bệnh khác nhau [80].

Triệu chứng lâm sàng bệnh ATGĐCM ở người phần lớn là do sự di chuyển

của ấu trùng giai đoạn 3 của Toxocara spp. qua đường máu đến các tổ chức

trong cơ thể bao gồm ở cơ, gan, não và mắt. Sự di chuyển của ấu trùng có thể

dẫn tới nhiều triệu chứng, và các triệu chứng này phụ thuộc vào cơ quan hoặc tổ

chức bị ấu trùng ký sinh, thời gian, số lượng ấu trùng, tuổi và đáp ứng miễn dịch

với ấu trùng từ cơ thể. Nhiều trường hợp không biểu hiện triệu chứng nếu nhiễm

nhẹ, tuy nhiên ở những bệnh nhân khác, ấu trùng có thể di chuyển đến các tạng

gan, phổi, tim, não, mắt và có thể gây ra các vấn đề về sức khoẻ như: hội chứng

tăng bạch cấu ái toan mạn tính, tăng bạch cầu chung, sốt, gan to, viêm phế quản,

giả hen, viêm phổi, viêm cơ tim, động kinh, viêm võng mạc, viêm kết mạc, viêm

màng bồ đào, viêm nhãn cầu [122]. Chính vì triệu chứng lâm sàng không đặc

12

hiệu do dễ nhầm lẫn với các bệnh khác và việc không thể thực hiện được các kỹ

thuật chẩn đoán miễn dịch cần thiết tại nhiều cơ sở y tế tuyến dưới nên các ca

bệnh này rất dễ bỏ sót. Tử vong do bệnh ATGĐCM là hiếm nhưng cũng đã gặp

một số trường hợp ấu trùng ký sinh ở gan, phổi hoặc nào nếu không điều trị kịp

thời. Những trường hợp ấu trùng ký sinh ở mắt có thể gây giảm thị lực và mù

vĩnh viễn. Hiện nay tại Mỹ, bệnh ATGĐCM là một trong năm bệnh nhiệt đới bị

lãng quên đang được quan tâm vì theo thống kê mỗi năm có ít nhất 70 người

(chủ yếu là trẻ em) bị mù do bệnh này [121].

Mặc dù triệu chứng lâm sàng của bệnh ấu trùng giun đũa chó không rõ ràng

và đặc hiệu nhưng việc chẩn đoán có thể dựa trên những biểu hiện của một số

thể lâm sàng như thể nội tạng, thể ở mắt, thể thần kinh và thể thông thường [80].

* Thể nội tạng: là hội chứng thường gặp nhất ở những người bị nhiễm bệnh,

đặc biệt là trẻ em, với các dấu hiệu lâm sàng như ho, thở khò khè, đau cơ hoặc

biểu hiện da (ví dụ ngứa, phát ban, chàm, viêm túi mật và viêm mạch máu) [52].

Mặc dù ở hầu hết các trường hợp thể nội tạng, ấu trùng di cư không gây ra các

triệu chứng, ngoại trừ một số triệu chứng liên quan đến hạch bạch huyết, viêm

gan siêu vi, viêm gân nách, viêm thận, viêm khớp xảy ra ở một số người [75].

Ngoài ra, những tác dụng lâu dài, như sự phát triển của bệnh hen và thúc đẩy xơ

phổi, cũng bị nghi là có liên quan đến những trường hợp bị ấu trùng di chuyển

nội tạng.

* Thể ở mắt: phổ biến và thường gặp ở trẻ em từ 3 đến 16 tuổi [98]. Ấu

trùng có thể gây giảm thị lực thường ở một bên mắt, ngoại lệ cũng có ảnh hưởng

hai bên mắt. Soi đáy mắt thấy dạng viêm hạt ở võng mạc, viêm kết mạc, u hạt

trong mắt, viêm nội nhãn do ấu trùng di chuyển còn sống, hoặc đã chết gây tái

hoạt miễn dịch. Mù có thể xảy ra do tình trạng viêm mống mắt, phù mô và bong

võng mạc không điều trị kịp thời [86].

* Thể thần kinh: rất hiếm và xảy ra chủ yếu ở những người trung niên [51].

Hội chứng này liên quan đến sự di chuyển ấu trùng ở hệ thần kinh trung ương và

13

tiếp theo là viêm màng não, viêm não, viêm mạch máu não, hoặc viêm tủy,

thường liên quan đến các triệu chứng lâm sàng tương đối không đặc hiệu , sốt và

nhức đầu.

* Thể không điển hình hoặc thể thông thường: gồm các triệu chứng lâm

sàng như sốt, chán ăn, nhức đầu, thở khò khè, buồn nôn, đau bụng, nôn mửa, lơ

mơ, buồn ngủ và rối loạn hành vi, phổi, viêm phế quản, viêm phế quản, các triệu

chứng, đau chân tay, viêm đại tràng và gan lớn xảy ra ở trẻ em, trong khi đó suy

nhược, ngứa, phát ban, rối loạn chức năng phổi, suy giảm phổi và đau bụng có

thể thấy chủ yếu ở người lớn. Cũng có những mối liên hệ giữa bệnh ấu trùng

giun đũa chó và hen suyễn. Những đặc điểm lâm sàng này thường kết hợp với

các mức độ kháng thể huyết thanh kháng Toxocara từ trung bình đến cao [119].

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Trần Thị Hồng (2001) tại Tp. Hồ Chí Minh

cũng phân loại tỷ lệ trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó theo các thể lâm

sàng cho thấy thể thần kinh - cơ (56%), thể ngoài da (15%), thể tiêu hóa (11%),

thể hô hấp (4%), thể không đặc hiệu (13%) [16].

Có một số báo cáo trường hợp bệnh về thể nội tạng và thể ở mắt tại các cơ

sở y tế như nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương về 2 ca bệnh ấu trùng giun đũa

chó thể di chuyển nội tạng chủ yếu về hô hấp (ho, đau ngực, tràn dịch màng

phổi), về thần kinh (đau đầu, co giật, liệt tay trái) [4]. Vũ Thị Lâm Bình báo cáo

ca bệnh thể ở mắt: bệnh nhân nữ 34 tuổi có biểu hiện nhìn mờ 2 mắt được chẩn

đoán ban đầu là viêm màng bồ đào, điều trị thuốc kháng vi rút nhưng thị lực cải

thiện chậm, sau đó thị lực giảm đột ngột còn 2/10, đau và đỏ mắt. Xét nghiệm

huyết thanh dương tính, các xét nghiệm khác cũng được tiến hành để loại trừ các

nguyên nhân khác. Điều trị bằng albendazole phối hợp với medrol trong 15

ngày, kết quả thị lực đã tăng lên 8/10, hiệu giá kháng thể kháng giun đũa chó

giảm rõ rệt. Từ trường hợp lâm sàng trên cho thấy bệnh ấu trùng giun đũa chó

thể mắt dễ nhầm với các bệnh khác [1].

Một số nghiên cứu khác tổng hợp theo tần suất của triệu chứng lâm sàng

14

như nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014), các triệu chứng chiếm tỷ lệ

cao như ngứa, nổi mẩn (69%), đau đầu (63,9%), đau bụng (45,6%), nhức chân

tay (38,8%), mệt mỏi (35%), tê bì (31,6%), khác như tức ngực, đau thượng vị,

sốt …(10,5%) [6]. Nghiên cứu của Lương Trường Sơn tại Viện Sốt rét-KST-CT

TP Hồ Chí Minh và của Lê Thị Cẩm Ly tại Bệnh viện nhiệt đới TP Hồ Chí Minh

cho thấy các triệu chứng chiếm tỷ lệ cao như ngứa, nổi mề đay từ 83,1-94,2%,

đau đầu từ 25,2-38,9%, rối loạn tiêu hóa từ 30-32%; nghiên cứu của Lê Đình

Vĩnh Phúc (2015) tại Trung tâm Y khoa Medic, TP Hồ Chí Minh: ngứa chiếm

78,5%, mề đay 50,2%, nhức đầu 30,6%, ăn kém 13,9%, đau bụng 7,7%, rối loạn

tiêu hóa 9,1% [27],[30],[31].

1.4.2. Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định dựa trên sự phát hiện ấu trùng Toxocara spp. trong

mẫu mô xét nghiệm, tuy nhiên sinh thiết lấy mẫu mô chứa ấu trùng có thể gặp

khó khăn và phức tạp, thậm chí có biến chứng. Vì vậy việc chẩn đoán thường

dựa vào đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm huyết thanh, tuy nhiên chẩn đoán lâm

sàng thường không chắc chắn bởi lẽ các triệu chứng của bệnh do ATGĐCM

không điển hình, với những dấu chứng trên lâm sàng không đặc hiệu nên dẫn

đến việc chẩn đoán không chính xác hoặc thiếu cơ sở [70]. Các kỹ thuật chẩn

đoán hình ảnh có thể trợ giúp chẩn đoán lâm sàng cho các thể ấu trùng di chuyển

ở mắt hay nội tạng. Siêu âm, CT (Computed tomography) và MRI (Magnetic

resonance imaging) giúp kiểm tra các trường hợp liên quan đến ấu trùng di

chuyển nội tạng. Chụp cắt lớp ở mắt, chụp mạch có chất màu fluorescein, chụp

CT và siêu âm mắt có thể có ích trong chẩn đoán thể mắt [80].

Các xét nghiệm huyết thanh miễn dịch như ELISA (Enzyme-Linked

ImmunoSorbent Assay) và Immunoblot thường được áp dụng trên người. Các

xét nghiệm ngưng kết Ouchterlony precipitation và phản ứng khuếch đại chuỗi

DNA như PCR đã phát triển nhưng hiện chưa được sử dụng tại các quốc gia một

cách phổ biến. Test huyết thanh miễn dịch ELISA phát hiện kháng thể IgG rất có

15

ích trong hỗ trợ chẩn đoán nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo. Sử dụng ELISA

đặc hiệu với kháng nguyên giai đoạn ấu trùng (kháng nguyên tiết – TES) sẽ có

độ đặc hiệu và độ nhạy hơn các test chẩn đoán khác nếu huyết thanh được hấp

phụ lần đầu tiên với kháng nguyên trong huyết thanh giun đũa để loại bỏ những

kháng thể gây ra phản ứng chéo. Trong thập kỷ qua, thử nghiệm immunoblot đã

được phát triển bằng cách sử dụng các protein ES tái tổ hợp, sử dụng kháng thể

đơn dòng cho các protein ES Toxocara giúp khả năng phân biệt nhiễm trùng hiện

tại [85],[125].

Tuy nhiên, sử dụng bộ kít xét nghiệm chỉ cho kết quả huyết thanh dương

tính hay âm tính với giun đũa chó, vì có nhiều trường hợp dương tính nhưng

không có triệu chứng lâm sàng. Do đó việc chẩn đoán xác định bệnh ấu trùng

giun đũa chó cần phải kết hợp thêm các triệu chứng lâm sàng. Nghiên cứu của

Nguyễn Văn Chương tại Bình Định và Đăk Lăk xác định bệnh ấu trùng giun đũa

chó với 2 tiêu chí là huyết thanh dương tính kết hợp với ít nhất 1 triệu chứng lâm

sàng, kết quả cho thấy tỷ lệ có triệu chứng lâm sàng trên số ca huyết thanh

dương tính giun đũa chó là 52% (142/273) [6].

Ngoài ra, nhiễm ATGĐCM là một trong những nguyên nhân gây tăng bạch

cầu ái toan (BCAT) trong máu ngoại vi và kích thích sự thâm nhiễm BCAT

trong các cơ quan nội tạng. Nghiên cứu của Kwon N.H (2006) đánh giá sự phổ

biến của nhiễm ATGĐCM trong chứng tăng BCAT không rõ và để phân tích

hiệu quả của xét nghiệm huyết thanh miễn dịch ELISA. Bệnh nhân có tăng

BCAT máu trong máu ngoại vi (> 500 tế bào/µl hoặc ≥ 10% tổng số bạch cầu).

Trong 103 bệnh nhân có tăng bạch cầu ái toan, có 70 bệnh nhân (68,0%) huyết

thanh dương tính giun đũa chó. Điều này cho thấy tỷ lệ mắc bệnh này là cao ở

những bệnh nhân có tình trạng tăng BCAT và xét nghiệm ELISA tìm kháng thể

kháng giun đũa chó là cần thiết để xác định nguyên nhân [76].

Một số nghiên cứu đánh giá tỷ lệ tăng BCAT trên số ca huyết thanh dương

tính giun đũa chó cho thấy tỷ lệ cũng khác nhau như nghiên cứu của Nguyễn

16

Văn Chương (2014) tại Bình Định và Đăk Lăk, tỷ lệ BCAT trên 8% là 27,1%;

của Bùi Văn Tuấn (2012) tại Bình Định và Gia Lai là 30,8% hay của Trần Thị

Hồng (2000) tại Củ Chi là 52% [7],[17],[34].

Tuy nhiên, tỷ lệ mắc các loại giun sán gây tăng BCAT có thể khác nhau tùy

từng quần thể và phụ thuộc vào nguồn gốc địa lý, tiền sử phơi nhiễm và các hoạt

động của quần thể đó liên quan đến phơi nhiễm. Mặc dù tăng BCAT khi được

chẩn đoán xét nghiệm là một dấu ấn hữu ích giúp hướng tới một bệnh ký sinh

trùng nhưng cũng có rất nhiều bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng không có hiện

tượng tăng BCAT khi xét nghiệm. Nghiên cứu của Lê Thị Cẩm Ly (2015) thu

thập 383 bệnh nhân nghi nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại Bệnh viện Nhiệt đới

Tp. Hồ Chí Minh. Số ca có huyết thanh dương tính giun đũa chó là 190 (49,7%),

tuy nhiên khi so sánh số lượng BCAT trung bình cho thấy ở nhóm có huyết

thanh dương tính là 824,6 tế bào/ml và nhóm huyết thanh âm tính là 807,5 tế

bào/ml, sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê [27].

* Định nghĩa trường hợp bệnh ATGĐCM

Theo tài liệu “Định nghĩa trường hợp bệnh truyền nhiễm”, ban hành kèm

theo Quyết định số 4283/QĐ-BYT ngày 8/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế:

- Trường hợp bệnh nghi ngờ:

Là trường hợp có các triệu chứng sau:

+ Ngứa, nổi mẩn;

+ Đau đầu, đau bụng, khó tiêu;

+ Đau nhức mỏi, tê bì;

+ Sốt, thở khò khè;

+ Có thể kèm theo một hoặc các triệu chứng sau: gan to, viêm phổi,

đau bụng mãn tính, rối loạn thần kinh khu trú, tổn thương ở mắt, giảm thị

lực, viêm mắt, tổn thương võng mạc.

- Trường hợp bệnh có thể:

Không áp dụng

17

- Trường hợp bệnh xác định:

Là trường hợp bệnh nghi ngờ và tìm thấy ấu trùng giun đũa chó, mèo hoặc

xác định được kháng thể kháng ấu trùng giun đũa chó, mèo bằng xét nghiệm

ELISA hoặc phát hiện đoạn gen đặc hiệu của ấu trùng giun đũa chó, mèo bằng

kỹ thuật sinh học phân tử [3].

1.4.3. Điều trị

Các nhà nghiên cứu lâm sàng đều thống nhất là không cần điều trị cho

những trường hợp chỉ có huyết thanh dương tính giun đũa chó mà không có triệu

chứng lâm sàng. Điều trị bệnh ATGĐCM chỉ được tiến hành khi có kết quả xét

nghiệm huyết thanh dương tính kết hợp với triệu chứng lâm sàng ở các thể thông

thường, thể nội tạng và thể ở mắt. [6],[31],[83]. Mặc dù kháng thể kháng IgG có

thể tồn tại trong cơ thể người từ 6 tháng đến 1 năm, thậm chí có trường hợp kéo

dài đến 2 năm, nhưng theo một số tác giả cho rằng khi ấu trùng giun đũa chó lưu

hành trong máu nếu không ký sinh ở tổ chức thì sẽ chết và bị đào thải, kháng thể

sẽ giảm dần từ 6 tháng đến 1 năm (trong trường hợp không tái nhiễm) và những

trường hợp ấu trùng giun đũa chó ký sinh ở tổ chức (có gây triệu chứng lâm

sàng), khi điều trị bằng albendazol liều 15 mg/kg cân nặng trong 21 ngày, tỷ lệ

kháng thể giảm sau 6 tháng là 78,6% và 88% [6],[31].

Các thuốc chống giun sán có thể sử dụng điều trị hội chứng ấu trùng di

chuyển nội tạng. Điều trị bằng các loại thuốc này có thể dẫn đến các phản ứng

quá mẫn nghiêm trọng gây ra bởi ấu trùng chết, do đó các thuốc chống viêm như

corticosteroids được chỉ định đồng thời trong các trường hợp bệnh đặc biệt. Điều

trị bệnh lý ở mắt có thể can thiệp phẫu thuật, áp lạnh laser hoặc thuốc giảm tổn

thương mắt [106].

Hiện tại có rất nhiều loại thuốc trên thị trường có hiệu quả với bệnh

ATGĐCM này, song mỗi loại thuốc có cơ chế tác dụng riêng và có những tác

dụng ngoại ý nhất định, phần lớn liệu trình điều trị thuốc nào cũng dài ngày.

Dưới đây là một số thuốc có hiệu quả và đã được nghiên cứu:

18

Thiabendazol dùng liều 25mg/kg cân nặng/ngày [83] và 50mg/kg cân

nặng/ngày [115] trong 3 đến 7 ngày, hiệu quả cải thiện về lâm sàng 50% và 53%

tương ứng. Tác dụng phụ gồm chóng mặt, buồn nôn và ói mửa chiếm 50% và

60%.

Mebendazol liều 20-25mg/kg cân nặng/ngày trong 3 tuần, hiệu quả đạt 70%

cải thiện lâm sàng. Tác dụng ngoại ý gồm chóng mặt, buồn nôn, đau bụng chiếm

17% [83].

Sử dụng albendazol điều trị liều dài ngày cũng đã được đề nghị như nghiên

cứu của Hombu. A (2017) tại Nhật, điều trị 246 ca với liều albendazol 10-

15mg/kg cân nặng trong 4 tuần cho hiệu quả khỏi bệnh là 78%, tác dụng phụ là

15% nhưng mức độ nhẹ không cần phải can thiệp [67]. Vì vậy albendazole hiện

nay đang là thuốc được lựa chọn ưu tiên để điều trị do tác dụng ngoại ý rất thấp

và thuốc sẵn có tại khắp nơi trên thế giới.

Tại Việt Nam, theo “Cẩm nang phòng chống bệnh truyền nhiễm” của Bộ Y

tế (2009), có hướng dẫn điều trị bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo bằng

albendazol với liệu trình 3 đến 4 tuần [2]. Một số nghiên cứu về điều trị như của

Lương Trường Sơn tại Phòng khám Viện Sốt rét-KST-CT thành phố Hồ Chí

Minh với phác đồ albendazol liệu trình 21 ngày cũng cho kết quả khả quan, với

73% bệnh nhân hết ngứa, 92% hết mề đay và 88% xét nghiệm lại ELISA âm tính

[31].

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương tại khu vực miền Trung với

albendazole liều 15mg/kg cân nặng liệu trình 14 ngày đối với cộng đồng và 21

ngày với bệnh nhân tại cơ sở điều trị cho thấy sau 6 tháng, tỷ lệ khỏi tại cộng

đồng là 71,7%, tại cơ sở điều trị là 86,3% [6]. Tác dụng ngoại ý của thuốc điều

trị tại cộng đồng và cơ sở điều trị đều thấp. Một số triệu chứng do tác dụng ngoại

ý của thuốc như buồn nôn 3,1-3,5%; chán ăn 2,7-5,3%; đau đầu 4,4-5,3%; dị ứng

da 2,7-3,8%; tức ngực 0,9-3,1%; đau bụng 2,7-3,1%. Tác dụng ngoại ý của thuốc

19

thường diễn ra sau 2 đến 3 ngày đầu điều trị, sau đó thì giảm dần, thông thường

sau một tuần sẽ hết [6].

1.5. Một số yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo

Có nhiều nghiên cứu mô tả yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến nhiễm ấu trùng

giun đũa chó/mèo bao gồm: nguồn nhiễm giun đũa chó/mèo ở vật chủ chính,

môi trường ngoại cảnh (đất, rau), điều kiện khí hậu phù hợp cho sự phát triển và

sống sót của trứng ở ngoại cảnh, các yếu tố về kinh tế, xã hội và hành vi của con

người.

1.5.1. Nguồn nhiễm giun đũa chó/mèo ở vật chủ chính

Chó và mèo đóng vai trò quan trọng trong việc lan truyền bệnh ký sinh

trùng, trong đó bệnh giun đũa chó/mèo lưu hành với phạm vi rộng. Ở nhiều quốc

gia, số lượng chó/mèo được nuôi giữ ở nhà tăng lên dẫn đến sự gia tăng nguy cơ

nhiễm đối với người. Tại châu Âu, tỷ lệ nhiễm giun đũa khác nhau từ 3,5-34% ở

chó và 8-76% ở mèo. Ở chó, đường lây truyền quan trọng là qua nhau thai với

gần 100% chó con bị nhiễm bởi ấu trùng qua đường này. Ngoài ra chó con còn

có thể nhiễm qua đường sữa mẹ [95].

Việc không tẩy giun cho chó mèo sẽ dẫn đến một số lượng lớn trứng thải ra

môi trường. Nghiên cứu trên những chó con 6 tháng tuổi nhiễm 12 con giun đũa

cái T. canis thải ra 300 nghìn trứng trong 1 lần thải phân, tính ra trong 1 tuần

khoảng 10 triệu trứng và khoảng 20 tuần là 200 triệu trứng [112].

Nghiên cứu tại nhiều điểm ở Ấn Độ cho thấy: trong số 968 mẫu phân chó

khảo sát, tỷ lệ nhiễm từ 12,1-27% (nhiễm chung là 19,4%). Tỷ lệ nhiễm cao nhất

ở chó nhỏ, với chó càng lớn thì tỷ lệ nhiễm càng giảm [50].

Trong một nghiên cứu cắt ngang xác định tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại

vùng Tây Nam Nigeria từ 2011-2012, xét nghiệm 474 mẫu phân chó bằng kỹ

thuật Kato-Katz cho thấy tỷ lệ nhiễm là 34,6%, cường độ nhiễm trứng trên 1

gam phân là 4301,2 ± 348,4. Tuổi của chó liên quan đến tỷ lệ nhiễm, chó từ 6

tháng tuổi trở xuống nhiễm gấp 7,9 lần chó lớn hơn. Chó thả rông nhiễm gấp 2,7

20

lần chó nhốt chuồng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng tỷ lệ nhiễm ở chó con cao hơn

chó lớn; chó thả rông cao hơn chó nhốt chuồng. Nghiên cứu cũng đề xuất

chương trình tẩy giun cho chó nhằm giảm nguồn bệnh [39].

Yakhchali. M (2014) điều tra ngẫu nhiên 150 mẫu phân chó ở thành phố

Piranshahr, Iran, tỷ lệ nhiễm ở chó là 31,3%. Cường độ nhiễm trứng trung bình

trên 1 gam phân là 2195,7 ± 983,7. Có sự khác biệt giữa nhóm tuổi của chó và

nhiễm giun, chó dưới 1 tuổi nhiễm 54,54%, trên 1 tuổi nhiễm 22,4%. Nhiễm ở

chó đực (38,46%) cao hơn ở chó cái (25%) có ý nghĩa thống kê [123].

Bùi Ngọc Thúy Linh (2003) xét nghiệm phân 2204 con chó và mổ khám

230 chó nuôi tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ nhiễm T. canis bằng xét nghiệm

phân là 37,84%, bằng mổ khám là 32,17% và chỉ phát hiện một loài giun đũa T.

canis. Tỷ lệ nhiễm T. canis cao trên chó dưới 3 tháng tuổi (60,05%) và có

khuynh hướng giảm dần theo tuổi, không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm T. canis

giữa chó đực và chó cái [24]. Võ Thị Hải Lê (2009) điều tra tình hình nhiễm

giun tròn đường tiêu hóa của chó tại một số điểm đại diện 3 vùng miền núi, đồng

bằng và ven biển tỉnh Nghệ An. Mổ khám 128 chó cho thấy tỷ lệ nhiễm T. canis

từ 23,1-26,4%, trong đó chó từ 1-6 tháng tuổi nhiễm 40,98%; từ 7-12 tháng tuổi

nhiễm 29,6%; từ 12 tháng tuổi trở lên nhiễm 33,08% [21]. Năm 2011, cùng tác

giả cũng đã điều tra tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó tại một số

điểm tỉnh Thanh Hóa cho thấy tỷ lệ nhiễm T. canis bằng xét nghiệm phân là

22,8-40%, bằng mổ khám 10-25%; phân tích nhiễm theo nhóm tuổi cho thấy chó

càng nhỏ tỷ lệ nhiễm càng cao, từ 2 tháng đến 6 tháng nhiễm từ 30-41,2%, chó

từ 7 tháng đến 12 tháng nhiễm từ 22,5-25%, chó trên 12 tháng nhiễm từ 7,5-

22,5% [22].

Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Hưng (2012) xét nghiệm 810 mẫu phân chó,

mổ khảo sát 241 con chó tại 4 huyện của thành phố Cần Thơ cho thấy tỷ lệ

nhiễm giun đũa chó chung qua xét nghiệm phân là 10,9% và qua mổ khám là

22,4% [18]. Bùi Văn Tuấn (2012) điều tra xét nghiệm phân chó tại một số điểm

21

của Bình Định và Gia Lai cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại Bình Định

từ 34,37-46,67%; tại Gia Lai từ 35,29-43,1% [34]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn

Chương (2014) cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại Bình Định từ 22,8-

32,4%, tại Đăk Lăk nhiễm từ 32,1-35,8% [7].

Đỗ Thị Thu Thúy (2015) điều tra tình hình nhiễm giun đũa chó mèo tại

Thanh Oai và Thường Tín, Hà Nội cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó là

35,75%, ở mèo là 45,84%. Chó/mèo dưới 1 năm tuổi nhiễm cao hơn chó mèo

trưởng thành. Nghiên cứu chỉ ra rằng với lượng chó nuôi nhiều hơn mèo, cường

độ nhiễm trứng trung bình khá cao (2863 trứng/gam phân), lượng phân thải ra

trong ngày nhiều hơn mèo nên dẫn đến số lượng trứng thải ra môi trường nhiều

hơn, do vậy chó đóng vai trò quan trọng hơn mèo trong việc lây truyền bệnh ấu

trùng giun đũa chó/mèo sang con người [32].

1.5.2. Mầm bệnh ở ngoại cảnh

Trứng giun đũa chó/mèo được thải ra ngoại cảnh theo đường phân, trứng sẽ

phát triển ở ngoại cảnh cho đến giai đoạn trứng có ấu trùng mới gây nhiễm được.

Ô nhiễm trứng ở ngoại cảnh phát hiện chủ yếu ở môi trường đất, rau, thực phẩm.

Tại châu Âu, Gurel (2005) đã xét nghiệm 111 mẫu đất ở những công viên

thành phố Ayden, Thổ Nhĩ Kỳ và phát hiện tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo

ở đất là 18,91% [63]. Một nghiên cứu tại vùng Pula, Croatia bằng việc xét

nghiệm trứng giun đũa chó/mèo nhiễm trong các mẫu đất được lấy theo hai mùa

tại các công viên và sân chơi công cộng. Trong tổng cộng 90 mẫu đất và cát

được thu thập từ 9 công viên vào tháng 6 và tháng 12, tỷ lệ nhiễm trứng ở đất

vào 2 mùa khác nhau, với 15,5% vào tháng 6 (mùa khô) và 23,3% vào tháng 12

(mùa mưa), tuy nhiên sự khác biệt này có không có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ

nhiễm trứng trên đất và cát [114]. Tương tự, một nghiên cứu khác được tiến

hành tại Lodz, Ba Lan trên 88 mẫu đất và cát trong 2 lần năm 2011, một lần vào

mùa thu và một lần vào mùa xuân năm 2012. Một nửa số mẫu đất cát được thu

thập nơi có kiểm soát chó mèo và một nửa số mẫu được thu thập nơi không có

22

kiểm soát. Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm cao ở vùng mà chó mèo ít được kiểm

soát (tỷ lệ nhiễm ở đất, cát là 15,8%, mật độ nhiễm 1,2 trứng/100 gam). Tại vùng

có kiểm soát chó mèo, mật độ nhiễm trứng giun ở đất ít hơn 6 lần và ở cát ít hơn

3 lần so với vùng không được kiểm soát chó mèo. Nghiên cứu này chỉ ra sự cần

thiết có chương trình giáo dục để bảo vệ người dân tránh bị nhiễm bệnh ấu trùng

giun đũa chó [44].

Tại Nam Mỹ, một nghiên cứu tại vùng nông thôn thuộc khu ổ chuột ở bang

Sao Paolo, Brazil cho thấy tỷ lệ đất nhiễm trứng giun đũa chó/mèo là 29,03%.

Đây là vùng có tỷ lệ nuôi chó/mèo cao (87,1% và 54, 8% tương ứng). Tuy nhiên,

nghiên cứu này chưa thấy mối liên quan giữa các hộ nuôi chó/mèo và nhiễm

trứng giun đũa chó/mèo ở đất, nguyên nhân chính có thể xuất phát từ nuôi

chó/mèo thả rông. Tuy nhiên với tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo ở môi

trường như vậy cộng với điều kiện sống nghèo nàn có thể là yếu tố nguy cơ quan

trọng trong việc lây truyền bệnh ATGĐCM ở người [111].

Tại châu Á, một nghiên cứu tại một quận của Ấn Độ với 4 vị trí: công viên,

sân chơi, đường đi bộ và đất trước cửa nhà người dân, đồng thời cũng phân loại

đất cát và đất sét. Kết quả cho thấy tỷ lệ đất vùng công viên nhiễm trứng giun

đũa chó/mèo là 17,02%. Tỷ lệ nhiễm ở đất vùng công viên cao hơn các vị trí

khác, tiếp theo là đất ở trước cửa nhà (13,33%), tiếp theo là đất trên đường đi bộ

(11,7%), nhiễm thấp nhất là ở các sân chơi (8,33%). Nghiên cứu còn cho thấy tỷ

lệ nhiễm trứng trên đất sét cao hơn trên đất cát (17,64% và 10,66% tương ứng)

[116]. Sự phát triển trứng giun đũa chó/mèo ở đất còn theo mùa. Tại Iran, nghiên

cứu của Pezeshki (2017) điều tra ngẫu nhiên trên đất tại 41 nơi công cộng ở các

vùng khác nhau của Ardabil từ tháng 3/2013 đến tháng 3/2014 cho thấy tỷ lệ

nhiễm chung là 7%, và tỷ lệ nhiễm vào mùa xuân (12%) cũng như mùa đông

(12%) thì cao hơn mùa hè (2%) và mùa thu (2%) [97]. Một nghiên cứu ở vùng

thành thị Kathmandu của Nepal cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo ở

đất là 22,85%, trong đó tỷ lệ nhiễm tại mùa mưa (31,6%) cao hơn mùa khô

23

(18,4%) [101]. Yakhchali (2014) điều tra ngẫu nhiên 150 mẫu đất ở Piranshahr,

Iran từ tháng 2012-2013, tỷ lệ nhiễm là 8%. Tỷ lệ đất nhiễm cao nhất vào mùa

xuân (13,15%) hơn các mùa khác (p < 0,05) [121].

Nghiên cứu của Fajutag (2015) tại Laguna, Philippine vừa xét nghiệm đất

vừa xét nghiệm huyết thanh ở học sinh cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa

chó/mèo ở đất là 43%, trong đó nhiễm ở sân trường học là 42%, sân vườn là

45% và nơi đất trống là 40%. Tỷ lệ huyết thanh dương tính chung ở học sinh là

49%. Kết quả cho thấy mối liên quan giữa nhiễm ở đất và ở người. Nghiên cứu

này cũng kết luận rằng đất bị ô nhiễm trứng giun cao thì tỷ lệ huyết thanh dương

tính ở người cũng cao [56].

Tại Việt Nam, Bùi Văn Tuấn (2012) điều tra xét nghiệm đất tại một số điểm

của Bình Định và Gia Lai cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo ở đất tại

những hộ có nuôi chó ở các điểm nghiên cứu từ 35,71-42,85%, tại những hộ

không nuôi chó từ 8,57-20,45%. Có sự khác biệt giữa việc có nuôi chó hay

không và hiện tượng nhiễm trứng giun Toxocara sp. ở đất, vì nghiên cứu cho

thấy nguy cơ các mẫu đất bị nhiễm trứng giun Toxocara sp. ở những hộ có nuôi

chó cao gấp từ 2,9-9,4 lần ở những hộ không nuôi chó [34]. Năm 2013, cùng tác

giả trên cũng điều tra đất tại một số điểm của hai tỉnh Quảng Ngãi và Đăk Lăk

cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo ở đất tại Quảng Ngãi từ 14-26%,

tại Đăk Lăk từ 34-37% [33]. Trong khi đó, Nguyễn Văn Chương (2014) điều tra

tại một số điểm của Bình Định, Đăk Lăk cho kết quả tương tự: tỷ lệ nhiễm trứng

giun đũa chó mèo ở đất tại Bình Định từ 20-25%, tại Đăk Lăk từ 36,7-38,3% [7].

Ngoài đất ra thì rau cũng là một nguồn nhiễm trứng giun đũa chó mèo, mà nguyên nhân có thể là do sự phóng uế của chó/mèo vào các vườn rau. Abougrain

(2010) điều tra tại các chợ ở Tripoly, Lybia trên 4 loại rau là cà chua, dưa chuột,

diếp cá, cải xoong cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo lần lượt trên mỗi

loại là 3%; 8%, 37% và 33% [37]. Said (2012) điều tra ở Ai Cập trên 300 mẫu

của 5 loại rau thường ăn sống như ngò tây, diếp cá, tỏi, hành…; những mẫu rau

24

này thường thu thập hàng tháng tại các vườn trồng, chợ nhỏ, siêu thị. Kết quả

cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo là 19%, tỷ lệ nhiễm vào mùa xuân

và mùa hè cao hơn mùa thu và mùa đông (p<0,01) [109]. Haq (2014) nghiên cứu

khảo sát trên những loại rau thường ăn sống tại các chợ lớn và những vườn trồng

rau tại Lahore, Pakistan. Tất cả có 10 loại rau được chọn, mỗi loại 50 mẫu, kết

quả tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo là 3,8% [66].

Abdi (2014) phân tích tổng hợp các bài báo có liên quan đến nhiễm trứng

giun đũa chó/mèo ở rau quả tại Iran. Xét nghiệm 4.359 mẫu rau quả gồm hành,

tỏi, rau quế, cải, ngò tây, diếp cá … cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó

chung là 75%, nhiễm cao nhất là ở rau hành. Tác giả đã kết luận mặc dù có cải

thiện về mặt vệ sinh, các điều kiện về kinh tế, xã hội và điều kiện nông nghiệp

nhưng ký sinh trùng vẫn còn phổ biến trên rau quả người dân thường ăn sống.

Đây là vấn đề cần thiết để cải thiện sức khỏe cộng đồng và hướng dẫn phương

pháp rửa rau [36].

Tại Việt Nam, điều tra của Lê Thị Ngọc Kim (2007) trên một số rau sống

bán tại các siêu thị ở địa bàn TP. Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun

đũa chó/mèo chung trên rau là 11,5% [20]. Điều tra của Nguyễn Văn Chương

(2014) cho thấy tỷ lệ nhiễm ở một số loài rau thường ăn sống tại Bình Định từ 4-

8%, tại Đăk Lăk từ 1-3% [7].

Mầm bệnh còn gặp trên lông chó mèo, Tavassoli (2012) điều tra trên 138

mẫu lông chó cảnh và chó giữ nhà ở vùng Tây Bắc, Iran cho thấy có 60 (36,2%)

mẫu nhiễm trứng giun đũa chó. Qua phân tích thấy lông chó con từ 6 tháng tuổi

trở xuống nhiễm đến 82%. Nhiễm ở lông chó giữ nhà cao hơn ở chó cảnh [117].

Oge (2013) khảo sát trên 130 con chó, mèo thả rông ở Thổ Nghĩ Kỳ, tỷ lệ trứng

giun đũa trên lông chó là 49%, trên lông mèo là 13,3%. Trên lông chó tính được

là 857 trứng giun đũa, trong đó 439 (51,2%) trứng chưa phát triển, 131 (15,3%)

trứng đang phát triển, 89 (10,4%) trứng đã phát triển đến giai đoạn ấu trùng và

25

198 (28,1%) trứng bị thoái hóa. Nghiên cứu này chỉ ra nguy cơ nhiễm bệnh ấu

trùng giun đũa chó nếu tiếp xúc hoặc bồng bế chó [92].

1.5.3. Yếu tố môi trường

Giai đoạn gây nhiễm của trứng giun đũa chó/mèo là từ lúc trứng phát triển

đến khi phát triển thành trứng chứa ấu trùng giai đoạn 3. Dưới điều kiện thích hợp như nhiệt độ từ 25-300C, độ ẩm 85-95%, sự phát triển từ trứng đến giai đoạn

gây nhiễm mất từ 9-15 ngày. Ngoài ra, sự phát triển của trứng còn phụ thuộc vào

điều kiện khí hậu và loại đất, có thể từ 3 đến 6 tuần, có khi đến vài tháng. Ở giai

đoạn gây nhiễm, trứng có thể tồn tại trong đất đến 1 năm [112].

Một nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm trứng T. canis trong các sân chơi công cộng

trong các vùng Dublin của Ireland. Với tổng số 228 mẫu đất tại 9 sân chơi ở

thành phố và các hạt ở Dublin được điều tra, kết quả cho thấy có 15% số mẫu

dương tính với trứng T. canis và mật độ trung bình là 1,4 trứng/100g đất. Không

có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các mẫu đất dương tính với trứng giun

đũa chó thu thập được từ các vị trí cả bên trong và bên ngoài sân chơi. Không có

bằng chứng cho thấy trứng của T. cati được phát hiện ở đây, tuy nhiên có trên

50% số trứng T. canis được xác định còn sống và phát triển. Thử nghiệm trong

nghiên cứu này cũng cho thấy thành phần chất ẩm trong đất góp phần cho thời

gian dài sống sót của trứng giun Toxocara sp. trong môi trường [91].

1.5.4. Yếu tố kinh tế, văn hóa xã hội

Ở nhiều quốc gia, việc nuôi chó và mèo để giữ nhà, làm cảnh, lấy thịt cũng

được quan tâm nhiều, vì số lượng chó mèo tăng lên có thể góp phần vào nguy cơ

nhiễm đến con người. Ví dụ như ở Mỹ, từ năm 1989-2006, số lượng mèo tăng

khoảng 50% (từ 54,6-81,7 triệu con), số lượng chó tăng khoảng 38% (từ 52,4

đến 72,1 triệu con) [61]. Do đó, việc tẩy giun đũa cho chó/mèo là biện pháp làm

giảm ô nhiễm trứng ra môi trường, tuy nhiên người dân thường ít quan tâm đến

điều này.

26

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo ở nông thôn cao hơn thành thị,

nghiên cứu của Dogan (2007) tại vùng Tây Bắc, Thổ Nhĩ Kỳ với 430 trẻ em

vùng nông thôn và 141 trẻ em ở thành phố, kết quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh

dương tính ở trẻ em vùng nông thôn là 16,97%, thành phố là 0,71% [53]. Hầu

hết các nghiên cứu trên thế giới đều tập trung vào lứa tuổi trẻ em vì các tác giả

cho rằng trẻ em có nguy cơ phơi nhiễm hơn người lớn do thường tiếp xúc đất,

nghịch đất, tiếp xúc với chó nhiều hơn người lớn. Tuy nhiên tại Việt Nam, bệnh

được phát hiện ở trẻ em cũng như người lớn, nam cũng như nữ [7],[34].

Bệnh ATGĐCM là bệnh nhiệt đới ít được quan tâm, nhưng trong vài năm

gần đây ở Việt Nam, bệnh nổi lên với số ca nhiễm ngày càng tăng. Mặc dù vậy

kiến thức người dân về bệnh ATGĐCM còn thấp. Nghiên cứu tại Bình Định và

Đăk Lăk cho thấy tỷ lệ người dân biết về bệnh ATGĐCM là dưới 50% [7]. Mặt

khác, chưa có luật nghiêm cấm nuôi chó thả rông và người dân cũng chưa có ý

thức xử lý phân chó ở ngoại cảnh nên khả năng phát tán trứng giun đũa ra ngoại

cảnh rất cao là mối nguy cơ nhiễm cho con người.

Tại Việt Nam, người dân nuôi chó nhiều hơn nuôi mèo, nuôi chó cảnh rất ít,

chủ yếu là nuôi chó giữ nhà, và để bán cho các quán thịt chó. Tỷ lệ nuôi chó

vùng nông thôn rất cao (28-56%) [7], chủ yếu là nuôi chó thả rông nhưng tỷ lệ

tẩy giun cho chó rất thấp. Điều này sẽ tạo điều kiện phát tán mầm bệnh ra ngoại

cảnh rất lớn. Theo điều tra của Bùi Văn Tuấn tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ

nuôi chó thả rông từ 46,6-90,9%, và tỷ lệ hộ gia đình tẩy giun chó chiếm 7,2-

30%. Nguyễn Văn Chương điều tra Bình Định và Đăk Lăk cho thấy tỷ lệ hộ gia

đình nuôi chó thả rông từ 53-85%, tẩy giun cho chó chiếm 4-12%. Nguyễn Thu

Hương điều tra ở Thanh Hóa cho thấy tỷ lệ hộ gia đình nuôi chó thả rông là

95,7%, và tẩy giun cho chó chiếm 50,5% [7],[19],[34].

1.5.5. Yếu tố hành vi con người

Nhiễm ATGĐCM do nuốt phải trứng ở giai đoạn có ấu trùng gây nhiễm.

Rất nhiều nghiên cứu tập trung vào hành vi nguy cơ chủ yếu là do tiếp xúc đất,

27

ăn đất, tiếp xúc chó/mèo, bồng bế chó/mèo, ăn rau quả sống. Tuy nhiên, các

nghiên cứu chỉ ra mối liên quan giữa hành vi và tỷ lệ nhiễm cũng khác nhau.

Nghiên cứu của Chiodo (2006), xét nghiệm 100 người dân tại Achentina, tỷ

lệ huyết thanh dương tính là 23% và những người bị nhiễm này cho biết là họ

đều có tiếp xúc với chó tại nhà [46]. Một số nghiên cứu khác cho thấy yếu tố

nguy cơ là phơi nhiễm với chó dưới 3 tháng tuổi và tiếp xúc với đất [54],[59].

Kyei (2015) nghiên cứu tại vùng miền Trung Ghana bằng việc xét nghiệm

huyết thanh 566 trẻ em, đồng thời thiết kế một bảng câu hỏi bao gồm tuổi, giới,

trình độ học vấn, thói quen rửa trái cây, hoa quả và rửa tay trước khi ăn, nuôi chó

mèo, tiền sử tiếp xúc với đất và chó mèo. Kết quả tỷ lệ huyết thanh dương tính

rất cao (53,5%), có mối liên quan giữa tiếp xúc đất, rửa tay trước khi ăn với

huyết thanh dương tính giun đũa chó. Nghiên cứu này đề xuất phòng ngừa nhiễm

ATGĐCM bằng vệ sinh cá nhân [77].

Tại Việt Nam, nghiên cứu về một số yếu tố nguy cơ, hầu hết các tác giả cho

rằng có mối liên quan giữa tiếp xúc đất, bồng bế chó. Riêng việc ăn rau sống thì

kết quả của Phan Anh Tuấn cho thấy có mối liên quan giữa ăn rau sống và nhiễm

bệnh, nhưng theo Nguyễn Văn Chương và Bùi Văn Tuấn thì chưa thấy có mối

liên quan này [7],[34],[35].

Hoàng Đình Đông (2011) khảo sát trên bệnh nhân đến khám tại bệnh viện

Quận 2, TP. Hồ Chí Minh. Tổng cộng xét nghiệm và phỏng vấn theo bộ câu hỏi

với 362 người về hành vi có liên quan đến nhiễm ATGĐCM, kết quả cho thấy có

thêm mối liên quan giữa rửa tay trước khi ăn và nhiễm [11]. Nguyễn Thu Hương

(2014) nghiên cứu trên trẻ em học sinh tiểu học ở Thanh Hóa đã chỉ ra có mối

liên quan giữa giữa các hành vi nguy cơ với nhiễm ATGĐCM như: không rửa

tay; chơi đùa, bồng bế chó mèo; thường xuyên tiếp xúc đất; thói quen nuôi chó,

mèo thả rông [19].

Ngoài các yếu tố hành vi nguy cơ trên thì nghiên cứu Choi và cộng sự

(2008) tại Trung tâm Y học Samsung, Hàn Quốc nghi ngờ ăn sống gan sống một

28

số động vật cũng có thể có nguy cơ bị nhiễm bệnh ATGĐCM do ấu trùng ký

sinh ở gan động vật. Tác giả nhận thấy rằng với 120 bệnh nhân đến xét nghiệm,

tỷ lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo là 86,7%, trong số người có

huyết thanh dương tính thì có 87,5% người có tiền sử ăn gan bò sống, trong số

người huyết thanh âm tính chỉ có 25% người có tiền sử ăn gan bò sống. Trong 28

bệnh nhân ăn gan bò sống thường xuyên (≥ 4 lần/năm), thì tỷ lệ dương tính là

95,6%. Có 21 trường hợp nhiễm cũng có ăn sống gan động vật khác như lợn,

chó, dê, gà, thỏ, vịt nhưng họ cũng có tiền sử (95,2%) ăn sống gan bò. Có 19

trường hợp nhiễm có uống tiết sống của các loại động vật như: nai, dê, vịt , bò,

lợn. Nghiên cứu này đề nghị phân tích sâu hơn về mối liên hệ nhân-quả giữa ăn

gan sống động vật và nhiễm ATGĐCM [47].

1.6. Phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo

Bệnh ATGĐCM gây ra một hiểm họa y tế công cộng lớn đặc biệt là ở các

nước đang phát triển [93]. Nhiễm ATGĐCM phổ biến hơn ở các nước nhiệt đới,

cận nhiệt đới và các cộng đồng nông thôn hơn là các cộng đồng công nghiệp

hóa, thành thị, ôn đới [81],[94],[105]. Tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới,

khí hậu ẩm ướt giúp cho trứng giun sống sót lâu hơn trong đất và điều này làm

hạn chế các chương trình phòng chống, dự phòng và tiêu diệt chúng [82]. Vệ

sinh kém và các biện pháp điều trị giun không hợp lý cho những con chó tại các

bối cảnh nông thôn làm cho trứng Toxocara spp. nhiễm trong môi trường vẫn

phổ biến ở các công viên ngoài trời của các vùng đô thị và ngoại ô

[82],[99],[105].

Các tác nhân gây bệnh nhiễm vào chó mèo thông qua nhiều đường khác

nhau bao gồm lan truyền chiều dọc, qua nhau thai (ở chó), qua bú sữa mẹ và

chiều ngang. Lan truyền chiều ngang xảy ra thông qua nuốt phải trứng có phôi từ

môi trường hoặc nuốt phải ấu trùng các cơ quan bị nhiễm của các vật chủ chứa

[82]. Phân bố nhiễm ATGĐCM xảy ra trên toàn cầu và phổ biến hơn ở trẻ em

[107]. Nuôi chó hoặc mèo trong nhà và tiếp xúc gần gũi thường xuyên với chúng

29

đặc biệt là trẻ em có thể dễ nuốt phải trứng Toxocara spp. [60],[105],[107]. Vệ

sinh kém, nghèo túng và sự hạn chế tiếp cận đến việc giáo dục có thể làm trầm

trọng hơn việc tiếp xúc với Toxocara spp. [99]. Dù nhiễm ấu trùng giun đũa

chó/mèo không có sự ưa chuộng đặc biệt với chủng tộc nào, nam giới thường bị

ảnh hưởng nhiều hơn nữ giới [58],[110].

Vì các biểu hiện lâm sàng của bệnh ATGĐCM là không cụ thể, việc chẩn

đoán chính xác căn bệnh là một thách thức. Mặt khác, vì tình trạng đa ký sinh

cũng phổ biến ở các nước nhiệt đới, việc chẩn đoán các ca bệnh thể nội tạng và

thể ẩn cũng khó khăn [105]. Vì có rất nhiều các vật chủ chính, vật chủ chứa và

sự đa dạng các con đường lan truyền bệnh của các loài Toxocara khiến việc

kiểm soát, phòng chống và loại trừ KST này trở nên rất khó khăn. Tỷ lệ nhiễm

KST cao ở chó và mèo và những khó khăn trong việc ngăn ngừa nhiễm bệnh cho

môi trường và con người làm nổi bật thêm tầm quan trọng của căn bệnh truyền

từ động vật sang người này [82]. Cho đến nay, việc phát triển một loại vắc-xin

hữu hiệu giúp phòng chống nhiễm ATGĐCM vẫn còn là mục tiêu khó đạt. Điều

này cộng với những thách thức trong việc hình thành một chương trình phòng

chống cụ thể và phù hợp đã làm tăng thêm gánh nặng cho những nỗ lực cần thiết

để định hướng những hoạt động phòng chống căn bệnh lãng quên này [93].

1.6.1. Một số biện pháp phòng chống nhiễm ATGĐCM trên thế giới

1.6.1.1. Phòng ngừa mầm bệnh ra môi trường

Trứng Toxocara sp. có sức chịu đựng tốt trong các điều kiện môi trường

không thuận lợi và vẫn còn khả năng lây nhiễm bệnh trong nhiều năm. Vì không

có biện pháp thực tế nào tồn tại cho việc giảm thiểu mức độ trứng ở môi trường,

việc phòng ngừa nhiễm bệnh ban đầu qua môi trường là biện pháp tiếp cận quan

trọng nhất. Điều này có thể đạt được qua một số biện pháp như là loại trừ nhiễm

bệnh ở chó và mèo, ngăn ngừa sự phóng uế của thú nuôi ra các khu vực công

cộng, vệ sinh và giáo dục quần chúng trong thay đổi hành vi. Các biện pháp

nhằm giảm nhiễm bệnh bao gồm: hạn chế chó và mèo thả rông, người sở hữu

30

chó/mèo phải dọn sạch phân khỏi nền đất và trên vỉa hè, ngăn chặn chó và mèo

tiếp cận các khu vực công cộng và sử dụng điều trị thuốc tẩy giun cho chó/mèo

theo chiến lược, chú trọng vào đối tượng chó con, mèo con, chó đẻ và mèo cái

trưởng thành [95].

1.6.1.2. Tẩy giun cho chó và mèo

Nguồn trứng Toxocara spp. nhiễm nhiều nhất trong môi trường là T. canis

từ những con chó cái đang cho con bú và chó con. Những con chó con nên được

điều trị với các loại thuốc tẩy giun hợp lý bắt đầu từ 2 tuần tuổi và lặp lại điều trị

là cần thiết vì sự truyền bệnh qua sữa cũng xảy ra liên tục trong ít nhất 5 tuần sau

sinh. Do đó kế hoạch này là tẩy giun vào thời điểm 2, 4, 6, 8 tuần và sau đó hàng

tháng cho tới khi chúng đạt 6 tháng tuổi. Vì sự nhiễm bệnh trước khi sinh không

xảy ra ở mèo con, việc điều trị 2 tuần một lần có thể bắt đầu vào 3 tuần tuổi.

Những con chó cho con bú và mèo cái trưởng thành nên được điều trị đồng thời

cùng với con cái của chúng vì chúng thường có biểu hiện rõ trạng thái nhiễm

bệnh vào thời gian này [55].

Đối với chó và mèo trưởng thành, việc điều trị định kỳ bằng thuốc tẩy giun,

hoặc điều trị dựa trên các kết quả xét nghiệm phân chẩn đoán định kỳ rất quan

trọng trong việc kiểm soát bệnh giun sán đường ruột ở chó/ mèo. Điều trị hàng

năm hoặc 2 năm một lần không có tác động đáng kể trong việc ngăn chặn nhiễm

bệnh biểu hiện rõ cùng trong một quần thể [108]. Do đó, một tần suất điều trị

trung bình 4 lần một năm được đề xuất là một khuyến nghị chung phụ thuộc vào

lối sống và tuổi thọ của chó và mèo. Dựa trên giai đoạn ủ bệnh ở chó trưởng

thành, việc điều trị thường xuyên mỗi 4-6 tuần sẽ ngăn nhiễm bệnh tốt nhất.

* Các thuốc tẩy giun đũa chó mèo

Nghiên cứu của Ahamad (2011) sử dụng levamisol và ivermectin trong tẩy

giun cho chó. Với 60 chó bị nhiễm giun đũa được chia làm 3 nhóm, 20 chó được

dùng Levamisol, 20 chó được dùng ivermectin và 20 chó làm nhóm chứng. Kết

31

quả cho thấy tỷ lệ sạch trứng giun đũa ở nhóm dùng levamisol là 97,4%, nhóm

dùng ivermectin là 97,3% [38].

Nghiên cứu của Jesus (2015) so sánh pyrantel pamoate và ivermectin trong

tẩy giun cho chó. Với 45 chó bị nhiễm giun đũa được chia làm 3 nhóm, 15 chó

được dùng pyrantel pamoate (viên 125 mg) với liều 1 viên cho 10 kg cân nặng,

15 chó được dùng Ivermectin (viên 3 mg) cũng với liều 1 viên cho 10 kg cân

nặng, và 15 chó làm nhóm chứng. Kết quả cho thấy tỷ lệ sạch trứng giun đũa ở

nhóm dùng pyrantel là 93,5%, nhóm dùng Ivermectin là 98,3%,[72].

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Bùi Ngọc Thúy Linh (2003) sử dụng

fenbendazole liều 60 mg/kg thể trọng trong 2 ngày liên tục tẩy giun cho chó, kết

quả đạt tỷ lệ sạch trứng là 100% và dùng ivermectin liều 0,4 mg/kg thể trọng liều

duy nhất, hiệu quả đạt 96,6% [24].

Có những nghiên cứu kết hợp các loại thuốc tẩy giun sán để nâng cao hiệu

quả tẩy giun ở chó mèo như nghiên cứu của Youn H (2011) sử dụng thuốc phối

hợp giữa ivermectin và praziquantel, hiệu quả đạt 94,4% [124]. Grandemange E

(2007) nghiên cứu sử dụng thuốc phối hợp giữa pyrantel pamoate và

praziquantel, đánh giá hiệu quả sạch trứng sau 7 ngày; 14 ngày và 21 ngày là

99,1%; 98,8% và 98,9% [62].

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thuốc tẩy giun sán cho chó mèo,

có thể chọn lựa những thuốc levamisol, fenbendazole, ivermectin, pyrantel

pamoate hoặc là thuốc phối hợp. Các thuốc phối hợp đều tẩy được cả giun và sán

dây nên thường được ưu tiên sử dụng. Việc chọn lựa thuốc tẩy giun sán trong

cộng đồng còn phụ thuộc nhiều vào sự sẵn có trên thị trường, hiệu quả cao, độc

tính thấp, dễ sử dụng và giá thành rẻ. Tại Việt Nam hiện nay, người dân thường

sử dụng thuốc tẩy giun sán là loại phối hợp giữa pyrantel pamoate và

praziquantel (sanpet). Đây là loại thuốc sản xuất tại Việt Nam, có hiệu quả cao, ít

tác dụng phụ, là dạng viên dễ uống, đặc biệt là giá thành rẻ nên dễ chấp nhận

trong cộng đồng (3.000 đồng/viên, sử dụng 1 viên cho 5 kg thể trọng).

32

* Các hướng dẫn tiêu chuẩn cho phòng chống và điều trị ký sinh trùng

Dựa trên các nguy cơ lây bệnh đã được xác định rõ ràng (ví dụ thả rông tự

do, tiếp cận thoải mái tới loài gặm nhấm hoặc thú vật chết thối, tiếp xúc với các

động vật khác) can thiệp bằng điều trị cụ thể cho thú nuôi được tiến hành để cải

thiện hiệu lực điều trị. Các hướng dẫn tiêu chuẩn chung cho việc phòng chống và

điều trị ký sinh trùng ở động vật thú nuôi đã được xây dựng và phổ biến bởi

CAPC (Companion Animal Parasite Council-Hội Thú y phòng chống các bệnh

ký sinh trùng trên động vật) tại Mỹ [45] và ESCCAP (European Scientific

Counsel Companion Animal Parasites- Hội Thú y phòng chống các bệnh ký sinh

trùng trên động vật Châu Âu) [55]. Những hướng dẫn này cung cấp một cái nhìn

tổng thể về các loài giun sán khác nhau, đặc điểm tiêu biểu lâm sàng bệnh truyền

động vật sang người và đưa ra các biện pháp phòng chống tối ưu đối với các loài

quan trọng nhất nhằm ngăn chặn lây nhiễm động vật và/ hoặc người. Tuy nhiên,

dù có sự tuân thủ nghiêm ngặt bởi các chủ thú nuôi, những hướng dẫn này cũng

không thể áp dụng được trong việc giảm thiểu sự ô nhiễm ra môi trường của

trứng T. canis từ những loài thú hoang dã. Các chương trình phòng chống phối

hợp được nhắm vào việc làm giảm thiểu hóa áp lực lây nhiễm từ các ký sinh

trùng lây từ động vật sang người gây ra bởi các quần thể mèo đi lạc và cáo Châu

Âu cho tới nay vẫn chưa được tiến hành [95].

1.6.1.3. Phòng ngừa nuốt trứng và ấu trùng giun đũa chó/mèo

Vệ sinh sạch sẽ và ăn thức ăn nấu chín có thể ngăn chặn việc nuốt phải

trứng từ môi trường và ấu trùng từ các vật chủ ngẫu nhiên. Tuy nhiên, về mặt

thực hành thì các biện pháp vệ sinh như vậy gần như khó có thể thực hiện được,

đặc biệt ở trẻ em, do vậy con đường lây nhiễm này vẫn tiếp tục tồn tại. Xu

hướng toàn cầu về ăn thịt, gan và rau sống, chưa nấu chín kỹ, hun khói, ngâm

dầm hoặc phơi khô tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc lan truyền một số các

bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người [81]. Những thay đổi trong

hành vi con người nhằm giảm thiểu lan truyền ký sinh trùng rất khó vì một phần

33

nào đó là do các giai đoạn ủ bệnh lâu dài. Từ khi nhiễm bệnh ATGĐCM chủ yếu

nhiễm ở trẻ em nhỏ thì việc giáo dục, đặc biệt là hướng đến các cha mẹ mới sinh

con, sẽ là một phần quan trọng trong chương trình phòng chống.

Trên thế giới hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về nhiễm ATGĐCM nhưng

chủ yếu tập trung vào dịch tễ, các yếu tố nguy cơ, chẩn đoán, điều trị và đề xuất

các biện pháp phòng chống. Tuy nhiên các nghiên cứu về phòng chống rất ít, chỉ

tập trung khuyến cáo về tẩy giun cho chó mèo, quản lý vật nuôi, giáo dục và đưa

ra luật nuôi động vật cưng.

Sự thay đổi về điều kiện sống, môi trường, kinh tế xã hội cũng ít làm thay

đổi nguy cơ nhiễm ATGĐCM nếu không có các biện pháp can thiệp hữu hiệu.

Một nghiên cứu dịch tễ và phòng chống nhiễm ATGĐCM dựa vào cộng đồng

được thực hiện bởi Guzman (2014) tại vùng thành thị Assis, Brasil thuộc bang

Acre của Brazil. Đây là một nghiên cứu không can thiệp, chỉ theo dõi và đánh

giá theo sự phát triển kinh tế xã hội tự nhiên. Sau 7 năm, đã diễn ra rất nhiều sự

thay đổi tại khu vực nghiên cứu, thay đổi nhiều nhất là điều kiện kinh tế, sử dụng

nguồn nước, cơ cấu nhà cửa và hệ thống rác thải. Điều tra cho thấy năm 2003, tỷ

lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó là 28,08% (95% CI: 21,43-35,86%), năm

2010 là 23,35% (95% CI: 18,74-28,71%), sự khác biệt không có ý nghĩa (p=0,2).

Tiếp tục theo dõi và so sánh huyết thanh dương tính trẻ 6 đến 59 tháng tuổi năm

2010 và năm 2011, kết quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó là

13,9% và 12,3%, không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm trong 1 năm. Kết quả

nghiên cứu cho thấy sau 7 năm có sự thay đổi 5% về huyết thanh dương tính

giun đũa chó nhưng không có nghĩa về sự khác biệt mặc dù có sự thay đổi nhiều

về điều kiện xã hội, kinh tế, môi trường, còn sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm sau 1

năm gần như không đáng kể (13,9% và 12,3%) …Tác giả cho rằng cần phải có

những can thiệp sâu hơn về vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, phát hiện và

điều trị ca bệnh, tẩy giun cho chó mèo, tăng cường tuyên truyền phòng chống

bệnh mới có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm trong cộng đồng [64].

34

Theo Woodhall (2014), nhiễm ATGĐCM là có thể ngăn ngừa được. Các

cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ phải nhận thức được các dấu hiệu và

triệu chứng của bệnh ATGĐCM và giáo dục bệnh nhân và phụ huynh về cách

phòng tránh nguy cơ nhiễm. Các gia đình có nuôi chó hoặc mèo nên được

khuyến khích thường đưa thú vật của họ đến bác sĩ thú y để tẩy giun, bởi vì

những vật nuôi này thường không có triệu chứng bệnh tật bất chấp việc phát tán

trứng Toxocara spp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các gia đình có con

mèo mới hoặc chó con, bởi vì chó/mèo con có khả năng bị nhiễm bệnh cao hơn

với Toxocara spp. Chủ vật nuôi nên tránh cho vật nuôi thải phân ở những nơi trẻ

em chơi, hoặc kịp thời loại bỏ và xử lý đúng cách phân chó mèo ở những nơi

này. Sự ban hành của luật cộng đồng địa phương thực thi ngay lập tức và khuyến

cáo nên xử lý phân của chó và mèo. Những hành động này đảm bảo rằng nếu

trứng Toxocara có mặt, chúng không có đủ thời gian để phát triển thành ấu trùng

và trở nên dễ lây nhiễm. Ngành thú y nên cung cấp giáo dục cho chủ nuôi thú

nuôi liên quan đến nguy cơ nhiễm Toxocara spp. Ngay cả khi gia đình không sở

hữu thú vật, cha mẹ cần phải hiểu rằng con của họ có thể tiếp xúc với đất bị ô

nhiễm với trứng Toxocara spp. lây nhiễm, đặc biệt là ở các khu vực thường

xuyên có thú cưng và chó và mèo hoang dã như công viên hoặc sân chơi. Tăng

cường vệ sinh bàn tay và dạy trẻ em không ăn đất sẽ làm giảm nguy cơ nuốt phải

trứng Toxocara spp. [121].

Nghiên cứu của Uga (1995) tại Nhật Bản sử dụng tấm ni lông trong suốt

phủ lên cát để diệt trứng giun đũa chó mèo. Khi bãi cát được phủ ni lông, nhiệt độ của cát độ sâu 3 cm là 420C trở lên trong 3 giờ khi nhiệt độ không khí cao hơn 300C, quy trình này sẽ làm trứng bị phá hủy không thể gây nhiễm được, tuy

nhiên việc phủ hết các nơi công cộng bằng ni lông là điều khó khả thi [118].

Nghiên cứu của Nijsse (2016) tại Hà Lan bằng áp dụng tẩy giun cho chó

theo định kỳ cho thấy: tẩy giun 2 lần trong 1 năm, tỷ lệ chó nhiễm giảm từ 3,3-

13,8%; tẩy giun 4 lần trong năm, tỷ lệ nhiễm giảm từ 8,5-29,1%; tẩy 6 lần trong

35

năm, giảm từ 13,8-44,1%; tẩy 12 lần trong năm, giảm từ 28,8-89,6%. Tuy nhiên

việc áp dụng cộng đồng về tẩy giun cho chó còn phụ thuộc vào tuổi của chó (chó

dưới 3 tháng tuổi cần tẩy nhiều lần) và mức độ tuân thủ của người dân [90].

1.6.2. Phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo ở Việt Nam

Các bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người là các bệnh mới nổi ở

Việt Nam, gây ra các tác động đáng kể đối với sức khỏe con người. Các bệnh

này đã trở thành một mối lo ngại y tế công cộng lớn ở Việt Nam do các nhân tố

sinh thái, môi trường, hành vi, văn hóa xã hội, và kinh tế. Bệnh ATGĐCM cùng

với những căn bệnh gây ra bởi những loài giun sán khác được coi là những bệnh

bị lãng quên, ảnh hưởng không cân đối lên những khu vực dân cư con người

nghèo khổ. Sự tồn tại của chúng tiếp tục đẩy con người vào nghèo túng và nên

được xử lý [68],[69]. Việc phòng chống được mong đợi là sẽ mang lại lợi ích to

lớn cho sức khỏe cho con người và chăn nuôi sản xuất nếu được tiến hành [117].

Trong chương trình phòng chống bệnh dại ở Việt Nam, hiện nay đã có

những luật qui định (Nghị định số 05/2007 của Chính phủ về phòng, chống bệnh

dại ở động vật) đối với các chủ nuôi động vật có liên quan như chó mèo, cấm thả

rông vật nuôi ở những nơi đông dân cư, nơi công cộng, nếu có thì phải bịt mõm

chó bằng rọ mõm. Tuy nhiên chưa có những khuyến cáo và luật qui định về xử

lý phân chó mèo ở nơi công cộng đối với các chủ nuôi. Mặt khác, người dân Việt

Nam đến 70% sống ở vùng nông thôn, với tập quán nuôi chó thả rông nên mầm

bệnh phát tán ra ngoại cảnh điều hiển nhiên. Vì vậy, cần có những biện pháp can

thiệp phòng chống nhiễm ATGĐCM đối với cộng đồng nhằm nâng cao kiến

thức, thực hành của người dân về bệnh đồng thời giảm tỷ lệ nhiễm trong cộng

đồng.

Một số bệnh KST khác như sán lá gan lớn, giun đầu gai, ấu trùng sán dây

lợn cũng là bệnh KST truyền từ động vật sang người. Bệnh ATGĐCM có nguồn

bệnh, đường lan truyền gần giống như bệnh sán lá gan lớn nhưng có nhiều yếu tố

36

nguy cơ và phức tạp hơn nên các biện pháp phòng chống có thể tham khảo các

nghiên cứu phòng chống bệnh sán lá gan lớn đã được thực hiện có hiệu quả.

Cho đến nay chưa có nghiên cứu phòng chống bệnh ATGĐCM tại Việt

Nam, vì đây là một trong những bệnh nhiệt đới ít được quan tâm. Trong những

năm gần đây, số trường hợp nhiễm được phát hiện tăng cao nên Bộ Y tế yêu cầu

xây dựng kế hoạch nghiên cứu phòng chống từ năm 2016 đến năm 2020. Nghiên

cứu các biện pháp phòng chống bệnh ATGĐCM nhằm kiểm soát căn bệnh và

nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho người dân là điều cần thiết.

Mặc dù chưa có những can thiệp phòng chống bệnh ATGĐCM nào nhưng

dựa vào mô hình phòng chống ký sinh trùng chung của Molyneux [88] và tham

khảo thêm một số mô hình phòng chống sán lá gan lớn có hiệu quả của Nguyễn

Văn Chương, Trần Minh Quý [5],[100], dựa vào tình hình nuôi chó mèo ở địa

điểm nghiên cứu (nuôi chó là chủ yếu, chỉ có một số rất ít hộ nuôi mèo), đã lựa

chọn những biện pháp phòng chống phù hợp và chỉ can thiệp đối với bệnh ấu

trùng giun đũa chó (ATGĐC) tại điểm nghiên cứu.

37

CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

- Khung mẫu là hộ gia đình được chọn, đối tượng gồm thành viên trong

hộ tuổi từ 2 tuổi đến 70 tuổi, chó nuôi, đất và rau trồng trong hộ.

- Đất ở sân chơi công cộng và rau tại chợ của điểm nghiên cứu.

2.1.1. Tiêu chuẩn chọn đối tượng phỏng vấn kiến thức, thái độ, thực hành

- Chủ hộ (vợ hoặc chồng).

- Hiện đang sống tại địa bàn nghiên cứu từ tháng 4/2016-12/2017.

- Đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng phỏng vấn

- Không đủ khả năng để trả lời phỏng vấn (tâm thần, câm điếc ...).

- Hiện đang mắc các bệnh mãn tính như suy gan, thận …

- Không đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.2. Thời gian nghiên cứu

Từ tháng 4 năm 2016 đến tháng 12 năm 2017

2.3. Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Theo số

liệu tại Phòng khám Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, số trường hợp có huyết

thanh dương tính với ATGĐC cao nhất ở Quảng Ngãi đến từ huyện Mộ Đức. Mộ

Đức là một huyện đồng bằng ven biển, nằm ở vị trí 109 độ vĩ Bắc, 15 độ kinh Đông, tổng diện tích tự nhiên của huyện là 212,23 km2. Dân số của huyện là 129.983 người với mật độ là 612,5 người/1 km2. Phía Bắc giáp với huyện Tư

Nghĩa, phía Nam giáp huyện Đức Phổ, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp

huyện Nghĩa Hành và Ba Tơ. Toàn huyện có 13 đơn vị hành chính nhỏ hơn, gồm

12 xã và 1 thị trấn. Nghề nghiệp chính của người dân là nông nghiệp và một số ít

là ngư nghiệp. Qua khảo sát sơ bộ về tình hình nuôi chó mèo ở tại một số xã

trong huyện thì cho thấy người dân chủ yếu nuôi chó chứ không nuôi mèo.

38

Vì các xã trong huyện có những đặc điểm tương đồng về địa lý, dân số,

nghề nghiệp và nuôi chó nên khả năng tỷ lệ nhiễm ATGĐC và các yếu tố nguy

cơ tương đồng nên chọn chủ đích 2 xã, mỗi xã bốc thăm ngẫu nhiên chọn 1 thôn

(vì dân số trên 1 xã rất lớn nên chọn đến thôn). Hai xã chọn chủ đích là xã Đức

Phong và Đức Chánh. Xã Đức Phong có 5 thôn với dân số là 20.724 người sống

trong 4.685 hộ; xã Đức Chánh gồm có 6 thôn với 18.726 người trong 4.443 hộ.

Khoảng cách từ xã Đức Phong đến xã Đức Chánh khoảng 10 km. Nghề nghiệp

chính của người dân tại 2 xã là nghề nông, chỉ có một số ít người dân làm nghề

biển.

Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi

39

2.4. Phương pháp nghiên cứu.

2.4.1. Thiết kế nghiên cứu

- Mục tiêu 1 : Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích.

- Mục tiêu 2 : Thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng.

2.4.1.1. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích

* Cỡ mẫu :

- Cỡ mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm ATGĐC trên người:

Cỡ mẫu điều tra cắt ngang được tính toán theo công thức tính cỡ mẫu cho

nghiên cứu cắt ngang mô tả [15].

Z2(1/2).p.(1-p)

n = ---------------- x DE (pƐ)2

n: cỡ mẫu tối thiểu;

Z1-α/2: hệ số tin cậy, với độ tin cậy 95% thì Z(1-α/2) = 1,96;

p: tỷ lệ nhiễm ước đoán của cộng đồng: p= 0,16 theo kết quả nghiên cứu của

Bùi Văn Tuấn tại Bình Định, tỷ lệ nhiễm ATGĐC là 16% [34].

Ɛ: sai số tương đối. Chọn Ɛ = 0,2

Do thực hiện chọn mẫu cụm 2 lần (lần thứ nhất chọn cụm 2 thôn, lần thứ hai

chọn cụm là các hộ gia đình) nên hệ số thiết kế được tính 2 lần. Chọn hệ số thiết

kế mỗi lần là 1,5 nên DE = 1,5 x 1,5 = 2,25, cỡ mẫu tính được là n = 1.147

Để bổ sung các trường hợp không thu thập được số liệu, cộng thêm 10%

vào mẫu, cỡ mẫu điều tra sẽ là 1.280 cho cả huyện Mộ Đức. Chia đều cho 2 thôn,

mỗi thôn cần điều tra 640 người. Giả sử mỗi hộ có từ 3-4 người, số hộ cần điều

tra cho 1 thôn là 200 hộ.

- Cỡ mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm giun đũa trên chó:

Toàn bộ số chó trong 200 hộ được chọn của mỗi xã.

- Cỡ mẫu điều tra đất:

Điều tra đất trên số hộ được chọn, mỗi hộ một mẫu.

40

Điều tra đất tại các sân chơi công cộng: 10 mẫu/xã (mỗi sân chơi 1 mẫu).

- Cỡ mẫu điều tra rau: Tại mỗi xã điều tra 200 mẫu rau

- Cỡ mẫu điều tra kiến thức, thái độ và thực hành của người dân:

Điều tra mỗi hộ 1 người. Mỗi xã điều tra 200 người.

* Chọn mẫu:

- Bước 1: Chọn thôn

Bốc thăm ngẫu nhiên mỗi xã 1 thôn, chọn được thôn Văn Hà của xã Đức

Phong và thôn 4 của xã Đức Chánh.

Thôn Văn Hà của xã Đức Phong có dân số 5.615 người, gồm 967 hộ, chia

làm 7 khu dân cư. Thôn 4 của xã Đức Chánh có dân số 3.926 người, gồm 886

hộ, cũng chia làm 7 khu dân cư. Mặc dù bốc thăm ngẫu nhiên nhưng 2 thôn có

những tương đồng về địa lý, dân số và các điều kiện về kinh tế, văn hóa xã hội.

- Bước 2: Chọn hộ gia đình

Chọn ngẫu nhiên hệ thống từ danh sách hộ gia đình của thôn, lấy 200 hộ

theo khoảng cách K = Số hộ trong xã/200. Chọn ngẫu nhiên 1 hộ gia đình, sau

đó lấy theo khoảng cách K cho đủ 200 hộ.

- Chọn mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm ATGĐC trên người

Tất cả đối tượng trong 200 hộ được chọn từ 2 đến 70 tuổi sẽ được đưa vào

nghiên cứu (bỏ những đối tượng theo tiêu chuẩn loại trừ).

- Chọn mẫu điều tra kiến thức, thái độ, thực hành

Chọn mỗi hộ 1 người là chủ hộ (có thể vợ hoặc chồng). Trong trường hợp

chủ hộ đi vắng thì chọn một người trưởng thành trong hộ.

- Chọn mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm trên chó

Chọn tất cả chó trong 200 hộ được chọn. Xét nghiệm phân chó tìm trứng

giun đũa chó. Khối lượng mẫu phân chó được lấy để xét nghiệm khoảng 10 gam.

- Chọn mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm trên đất

Thu thập đất trong 200 hộ được chọn, mỗi hộ một mẫu. Mẫu đất được lấy ở

sân hoặc vườn. Ngoài ra chọn 10 mẫu đất tại các sân chơi công cộng trong thôn,

41

mỗi sân chơi lấy 1 mẫu. Khối lượng mỗi mẫu đất được lấy để xét nghiệm là 100

gam.

- Chọn mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm trên rau

Tại mỗi xã, chọn 5 loại rau người dân thường ăn sống gồm: rau cải, xà lách,

rau má, rau diếp cá, một số loại rau thơm (rau quế, ngò), mỗi loại xét nghiệm 40

mẫu (tổng cộng 200 mẫu/xã). Rau được chọn tại các vườn trồng rau của các hộ

gia đình và tại chợ trong xã. Rau sẽ được thu thập tại 5 điểm (4 điểm trong thôn

và 1 điểm tại chợ), mỗi điểm điều tra 40 mẫu rau (mỗi loại 8 mẫu). Khối lượng

mỗi mẫu rau xét nghiệm là 200 gam.

2.4.1.2. Thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng

Sau khi có số liệu điều tra dịch tễ, chọn 1 xã can thiệp và 1 xã đối chứng.

Thực tế chọn Đức Phong làm điểm can thiệp và Đức Chánh làm điểm đối chứng.

Áp dụng công thức tính cỡ mẫu so sánh hai tỷ lệ của hai nhóm.

Z1-α/2: hệ số tin cậy, ứng với độ tin cậy 95% thì Z(1-α/2) = 1,96; Z1-β: = 0,84 khi 1- (lực của nghiên cứu) = 80%; (, ) = 7,8.

∆ = p1 - p2 , = (p1 + p2)/2

p1: tỷ lệ nhiễm ATGĐC ước đoán điểm đối chứng sau can thiệp, p1=0,16

p2: tỷ lệ nhiễm ATGĐC ước đoán tại điểm can thiệp sau can thiệp, p2 = 0,11

Thay vào công thức, cỡ mẫu tính được: n1 = n2 = 577. Cộng thêm 10% mất

mẫu ta được n1 = n2 = 635. Vì cỡ mẫu điều tra trong nghiên cứu can thiệp tương

đương cỡ mẫu trong điều tra thực trạng trước can thiệp nên lấy số liệu điều tra

thực trạng làm số liệu trước can thiệp và cỡ mẫu điều tra sau can thiệp sẽ chọn

bằng cỡ mẫu điều tra trước can thiệp (n1 = n2 = 640 người). Đây là nghiên cứu

can thiệp, theo dõi và đánh giá hiệu quả sau 1 năm. Đối tượng nghiên cứu trước

can thiệp và sau can thiệp giống nhau. Cỡ mẫu và chọn mẫu điều tra trên người,

chó, đất, rau giống như điều tra trước can thiệp.

42

Hình 2.2. Thiết kế và quy trình triển khai nghiên cứu

2.4.2. Nội dung nghiên cứu

2.4.2.1. Nghiên cứu thực trạng và yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa

chó ở người

- Xác định tỷ lệ nhiễm ATGĐC ở người bằng xét nghiệm huyết thanh phát

hiện kháng thể kháng Toxocara canis ở người. Khám lâm sàng trên số người có

huyết thanh dương tính để xác định trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó.

43

- Xét nghiệm phân chó, đất, rau xác định tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở

chó, đất, rau.

- Phỏng vấn người dân về kiến thức, thái độ, thực hành liên quan đến nhiễm

ATGĐC. Phân tích và lựa chọn một số yếu tố liên quan, trên cơ sở đó chú trọng

đến những biện pháp can thiệp nào để tăng hiệu quả phòng chống.

2.4.2.2. Nghiên cứu hiệu quả các biện pháp can thiệp

* Áp dụng các biện pháp can thiệp

Dựa vào mô hình can thiệp phòng chống các bệnh ký sinh trùng chung của

Molyneux [88] và tham khảo các mô hình phòng chống sán lá gan lớn có hiệu

Điều trị trường hợp bệnh

quả tại Việt Nam, các biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ATGĐC gồm:

Giảm tỷ lệ nhiễm ATGĐC

Tẩy giun

cho chó

Truyền thông giáo dục

Hình 2.3. Các biện pháp can thiệp thực hiện tại điểm nghiên cứu

* Nội dung can thiệp

- Điều trị trường hợp bệnh bằng thuốc albendazol 400 mg, liều 15mg/kg cân

nặng trong 21 ngày.

- Truyền thông thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của người dân. Thực

tế đã thực hiện được truyền thông giáo dục như bảng 2.1.

44

Bảng 2.1. Truyền thông giáo dục đã thực hiện tại điểm can thiệp

Hoạt động Số lần Kết quả thực hiện

20 lần Truyền Tại xã: 4 lần/ngày x 5 ngày

thông Tại 7 cụm DC: 4 lần/ngày x 5 ngày 140 lần

trong đợt Phát tờ rơi tại hộ gia đình: mỗi hộ 1 tờ 841 tờ (93,9%)

chiến dịch Phát tờ rơi tại trường tiểu học 383 tờ (100%)

Treo băng rôn: nơi đông dân cư 5 băng rôn

Tập huấn nâng cao năng lực cán bộ 1 lớp 40 người

Truyền thông trên loa đài trong 1 năm

+ Tại xã: 4 lần/tháng x 12 tháng 48 lần Huy động

+ Tại 7 KDC: 4 lần/tháng x 12 tháng 336 lần ban ngành

Họp dân tại khu dân cư: 7 khu dân cư 28 1.936 lượt tham gia

truyền Truyền thông học sinh Trường tiểu học 36 13.680 lượt

thông giáo Họp phụ nữ (1 lần/3 tháng x 4 lần) 4 420 lượt

dục trong Họp nông dân 4 485 lượt

1 năm Họp cựu chiến binh 4 400 lượt

Họp Đoàn thanh niên 4 350 lượt

Vãng gia: 30 hộ/tháng x12 tháng x 7 84 2.520 lượt hộ

- Tẩy giun cho chó tại xã can thiệp bằng pyrantel pamoate 125 mg, liều

dùng 1 viên cho 5 kg cân nặng. Tẩy giun hai đợt, mỗi đợt cách nhau 6 tháng

(tháng 9/2016 và tháng 3/2017), số hộ có chó được tẩy giun trong đợt một là 425

hộ đạt tỷ lệ 97,5% (698 con chó được tẩy giun) và đợt hai là 398 hộ đạt tỷ lệ

94,5% (640 con chó được tẩy giun).

- Giám sát các hoạt động phòng chống bệnh ATGĐC mỗi 3 tháng 1 lần.

* Đánh giá hiệu quả can thiệp

- So sánh tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ATGĐC ở người tại xã can thiệp và xã

đối chứng trước và sau can thiệp.

45

- So sánh tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở chó, đất, rau tại xã can thiệp và

xã đối chứng trước và sau can thiệp.

- So sánh kiến thức, thái độ và thực hành liên quan đến bệnh ATGĐC của

người dân tại xã can thiệp và xã đối chứng trước và sau can thiệp.

Nhiễm ATGĐC

Mắc bệnh ATGĐC

Kiến thức, Thái độ, Thực hành chưa cao

Mầm bệnh ở ngoại cảnh cao (đất, rau)

Thiếu thông tin

Vệ sinh cá nhân chưa tốt

Vệ sinh môi trường chưa tốt

Nguồn nhiễm ở chó cao

Trứng phát triển tốt ở ngoại cảnh

Ăn rau sống

Không xử lý phân chó

Nuôi chó thả rông

Thông tin truyền đạt chưa

Tẩy giun cho chó thấp

Tiếp xúc đất, bồng bế chó

Không rửa tay sau TX đất và trước khi ăn

Điều kiện khí hậu thuận lợi

Tẩy giun

Điều trị trường hợp bệnh

Truyền thông Giáo dục

cho chó

Các biện pháp can thiệp

Hình 2.4. Khung lý thuyết nghiên cứu bệnh ấu trùng giun đũa chó

46

2.4.3. Phương pháp thu thập số liệu

2.4.3.1. Bộ công cụ nghiên cứu

- Bảng ghi kết quả xét nghiệm máu trên người (phụ lục 1);

- Bảng ghi kết quả khám lâm sàng trên người (phụ lục 2);

- Bảng ghi kết quả xét nghiệm phân chó (phụ lục 3);

- Bảng ghi kết quả xét nghiệm đất tại hộ gia đình (phụ lục 4);

- Bảng ghi kết quả xét nghiệm đất tại nơi công cộng (phụ lục 5);

- Bảng ghi kết quả xét nghiệm rau (phụ lục 6);

- Phiếu phỏng vấn đối tượng: dùng cho cả hai lần điều tra trước và sau can

thiệp (phụ lục 7 và 7a);

- Bảng ghi kết quả hoạt động can thiệp, nội dung bao gồm:

+ Số trường hợp bệnh được điều trị.

+ Số trường hợp có tác dụng ngoại ý.

+ Tập huấn: thành phần, số lượng tham gia.

+ Truyền thông: trên loa đài (số lần), số tờ rơi đã phát, băng rôn treo.

+ Tẩy giun cho chó: số lượng chó được tẩy giun.

- Bảng ghi kết quả hoạt động giám sát (1 lần/3 tháng), nội dung bao gồm:

+ Truyền thông trực tiếp tại khu dân cư do trưởng thôn, trưởng khu dân

cư chủ trì (số lần, số người tham gia).

+ Truyền thông trực tiếp tại khu dân cư do các đoàn thể chủ trì (số lần,

số người tham gia).

+ Truyền thông trực tiếp tại trường học (số lần)

+ Vãng gia: số lần vãng gia, số hộ được truyền thông.

+ Số chó được tẩy giun.

2.4.3.2. Lựa chọn điều tra viên và giám sát viên

- Điều tra viên: là các cán bộ khoa Ký sinh trùng của Viện Sốt rét-KST-CT

Quy Nhơn. Các điều tra viên có đủ các tiêu chuẩn như kỹ năng, kinh nghiệm

điều tra, nhiệt tình, trách nhiệm, nghiêm túc và có thời gian.

47

- Giám sát viên: là các cán bộ của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương và

nghiên cứu sinh.

2.4.3.3. Các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu

- Kỹ thuật hỏi bệnh, thăm khám lâm sàng: Hỏi người bệnh về tiền sử xuất

hiện từng đợt, hoặc hiện tại có các triệu chứng lâm sàng có liên quan đến bệnh

ATGĐC.

- Kỹ thuật xét nghiệm miễn dịch: Kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể IgG

đặc hiệu Toxocara sp trong huyết thanh người (Phụ lục 8). Sử dụng bộ sinh

phẩm của Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại hóa chất Việt Sinh

với độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 97%.

- Kỹ thuật ly tâm cặn lắng formaline- ether: để tìm trứng giun đũa chó trong

phân chó, theo hướng dẫn của WHO (1995). (Phụ lục 9)

- Kỹ thuật xét nghiệm đất, rau theo phương pháp Romanenko [104] (Phụ

lục 10).

- Kỹ thuật xét nghiệm giọt máu đàn: Nhuộm Giemsa 7- 10%, soi và đếm

công thức bạch cầu bằng kính hiển vi quang học. BCAT được cho là tăng khi tỷ

lệ BCAT chiếm từ 6% trở lên trong công thức bạch cầu.

- Kỹ thuật phỏng vấn: Hỏi trực tiếp theo mẫu phỏng vấn điều tra liên quan

bệnh ATGĐC ở người (phụ lục 7 và 7a)

- Kỹ thuật truyền thông giáo dục: trực tiếp và gián tiếp

2.4.4. Tổ chức thực hiện

2.4.4.1. Giai đoạn 1: Điều tra thực trạng và yếu tố liên quan đến nhiễm ATGĐC

Dựa trên danh sách các hộ gia đình trong thôn, chọn ngẫu nhiên hệ thống

theo khoảng cách K sẽ lấy được danh sách 200 hộ được chọn vào nghiên cứu.

Thông báo cho lãnh đạo chính quyền xã, trạm y tế xã, trưởng thôn và các hộ dân

về thời gian điều tra tại hộ gia đình (chia lịch theo từng khu dân cư).

- Tổ chức thu thập mẫu đất, mẫu phân chó (nếu có) vào ngày đã định tại

từng hộ gia đình. Phỏng vấn đối tượng trong các hộ được chọn (mỗi hộ 1 người)

48

về kiến thức, thái độ và thực hành về bệnh ATGĐC theo mẫu soạn trước (Phụ

lục 7). Các hộ có chó được phát lọ lấy phân xét nghiệm, yêu cầu chủ hộ nhốt chó

để lấy phân (phụ lục 3). Phát giấy mời cho tất cả những người trong hộ được

chọn, hẹn lịch đến Trạm y tế xã để lấy máu xét nghiệm vào ngày hôm sau.

- Lấy máu tại Trạm y tế xã, lấy 1,5 ml máu tĩnh mạch, ly tâm lấy huyết

thanh cho vào tuýp efendot và bảo quản ở tủ lạnh 40C.

- Thu thập mẫu rau tại các hộ trồng rau và tại chợ của địa phương.

- Các mẫu máu, phân chó và mẫu đất, mẫu rau thu thập được tại thực địa sẽ được bảo quản ở nhiệt độ 40C và chuyển về khoa Ký sinh trùng của Viện Sốt rét-

KST-CT Quy Nhơn để thực hiện các xét nghiệm về công thức bạch cầu, xét

nghiệm phân chó tìm trứng giun đũa chó theo kỹ thuật ly tâm cặn lắng

formaline- ether, xét nghiệm đất, rau tìm trứng giun đũa chó mèo bằng kỹ thuật

Romanenko. Riêng xét nghiệm ELISA được thực hiện tại Phòng Khám của Viện

Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn (ISO 15189: 2012).

2.4.4.2. Giai đoạn 2: Can thiệp cộng đồng

- Điều trị trường hợp bệnh: Điều trị những trường hợp bệnh ATGĐC. Tất cả

những trường hợp huyết thanh dương tính phát hiện được qua điều tra cắt ngang

tại xã can thiệp và xã đối chứng đều được sẽ được mời đến Trạm y tế xã để

khám lâm sàng. Tất cả những trường hợp bệnh ATGĐC (gồm huyết thanh dương

tính kết hợp với ít nhất một triệu chứng lâm sàng) đều được điều trị. Sử dụng

thuốc albendazol điều trị theo phác đồ 15 mg/kg cân nặng/ngày, liều dùng 21

ngày, uống 1 ngày 2 viên chia 2 lần, uống sau bữa ăn. Theo dõi bệnh nhân trong 21 ngày điều trị, ghi nhận tác dụng ngoại ý và xử lý (nếu có).

- Truyền thông giáo dục:

Tập huấn cho cán bộ y tế cơ sở và cán bộ chủ chốt của xã, cán bộ thú y,

giáo viên, y tế thôn, trưởng thôn, phụ nữ thôn, trưởng khu dân cư, cộng tác

viên… để nâng cao năng lực trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó.

Huy động các ban ngành liên quan: chính quyền, y tế, giáo dục, thú y, các đoàn

49

thể cùng tham gia phòng chống bệnh. Phát tờ rơi cho từng hộ trong thôn can

thiệp, từng học sinh tiểu học trong thôn và treo băng rôn tại điểm đông dân cư.

Tiếp tục duy trì truyền thông trong vòng 12 tháng qua loa phát thanh, nói

chuyện trực tiếp với học sinh tiểu học vào sáng thứ Hai hàng tuần. Tuyên truyền

trực tiếp qua họp dân: trưởng khu dân cư, các đoàn thể như Hội nông dân, Hội

phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh…truyền thông lồng ghép với các cuộc họp

khác khoảng 1 lần/3 tháng. Ngoài ra còn kết hợp với các chương trình y tế khác,

y tế thôn và cộng tác viên trực tiếp vãng gia tại từng hộ gia đình để truyền thông

giáo dục.

Nội dung truyền thông đại chúng bao gồm nguồn bệnh, đường lây truyền,

tác hại, triệu chứng, điều trị, các yếu tố nguy cơ, cách phòng chống bệnh.

Truyền thông trực tiếp sử dụng thông điệp truyền thông ngắn gọn:

+ Ăn rau sống, hoa quả phải rửa sạch

+ Rửa tay trước khi ăn

+ Hạn chế tiếp xúc đất, phải rửa tay sau khi tiếp xúc đất

+ Không bồng bế chó

+ Không nuôi chó thả rông

+ Xử lý phân chó

+ Tẩy giun cho chó định kỳ

+ Khi nghi ngờ bị nhiễm ấu trùng giun đũa chó, đến cơ sở y tế để

xét nghiệm và điều trị.

- Tẩy giun cho chó:

Toàn bộ số chó tại thôn can thiệp sẽ được tẩy giun. Việc tẩy giun cho chó

được thực hiện bởi cán bộ thú y của xã kết hợp với nhân viên y tế. Sử dụng

Sanpet 125 mg để tẩy giun cho chó, đối với chó dưới 3 tháng tuổi sẽ được tẩy

vào lúc 4 tuần tuổi, 8 tuần tuổi và 12 tuần tuổi (cách 4 tuần tuổi tẩy 1 lần). Đối

với chó lớn hơn 3 tháng tuổi sẽ tẩy 1 lần và 6 tháng sau sẽ tẩy lần 2. Liều dùng

50

duy nhất 1 viên cho 5 kg thể trọng. Trong thời gian 1 năm can thiệp, nếu các hộ

có nuôi chó mới, sẽ đến tại Trạm y tế của xã để nhận thuốc tẩy giun cho chó.

Ngoại trừ việc điều trị và theo dõi trường hợp bệnh ATGĐC tiến hành tại 2

xã, các hoạt động truyền thông giáo dục và tẩy giun cho chó chỉ tiến hành tại xã

can thiệp. Không thực hiện các biện pháp truyền thông giáo dục và tẩy giun cho

chó tại xã đối chứng.

2.4.4.3. Giai đoạn 3: Điều tra sau can thiệp

Tiến hành điều tra giống như điều tra trước can thiệp

2.4.5. Biến số và các chỉ số đánh giá trong nghiên cứu

2.4.5.1. Biến số và giải thích từ ngữ liên quan đến các biến số

* Biến số

TT Tên biến số Định nghĩa/chỉ số Phân loại PP thu thập

Thông tin chung

1 Tuổi Tuổi tính theo năm Rời rạc Số liệu thứ cấp

2 Giới Giới tính của đối tượng Phân loại Số liệu thứ cấp

3 Trình độ học vấn Cấp học cao nhất Thứ bậc Số liệu thứ cấp

4 Nghề nghiệp Nghề hiện tại Phân loại Số liệu thứ cấp

Kiến thức

5 Nhị phân Số liệu thứ cấp

6 Phân loại Số liệu thứ cấp

7 Phân loại Số liệu thứ cấp

8 Phân loại Số liệu thứ cấp Có nghe nói về bệnh ATGĐC Kiến thức về nguy cơ nhiễm Kiến thức về triệu chứng bệnh Kiến thức về phòng chống Đã được nghe nói về bệnh Những nguy cơ có thể nhiễm bệnh Những triệu chứng của bệnh Những biện pháp phòng chống

Thái độ

Phân loại Số liệu thứ cấp 9 Cần thiết không nuôi chó thả rông

thiết xử lý 10 Cần Phân loại Số liệu thứ cấp phân chó Cần thiết, không và không biết Cần thiết, không và không biết

51

11 Cần thiết tẩy giun Phân loại Số liệu thứ cấp cho chó Cần thiết, không và không biết

Thực hành

12 Nuôi chó Nuôi chó tại nhà Nhị phân Số liệu thứ cấp

13 Nuôi chó thả rông Thả rông Nhị phân Số liệu thứ cấp

14 Tẩy giun cho chó Có tẩy giun Nhị phân Số liệu thứ cấp

15 Tiếp xúc đất Mức độ tiếp xúc Thứ bậc Số liệu thứ cấp

16 Bồng bế chó Mức độ tiếp xúc Thứ bậc Số liệu thứ cấp

17 Ăn rau sống Mức độ ăn Thứ bậc Số liệu thứ cấp

18 Rửa tay trước khi Có rửa tay Nhị phân Số liệu TC ăn

Xét nghiệm, triệu chứng lâm sàng

19 Nhiễm ATGĐC Rời rạc Số liệu thứ cấp

20 Bệnh ATGĐC Nhị phân Số liệu thứ cấp

21 BCAT Huyết thanh dương tính Huyết thanh (+) kết hợp ít nhất 1 TCLS Tỷ lệ bạch cầu ái toan Rời rạc Số liệu thứ cấp

22 Triệu chứng lâm Phân loại Số liệu thứ cấp sàng Dấu hiệu lâm sàng có liên quan bệnh ATGĐC

* Một số định nghĩa và tiêu chí đánh giá

- Nhóm tuổi: phân theo 2 nhóm: từ 2-15 tuổi và trên 15 tuổi;

- Trình độ học vấn: là mức độ học vấn đạt được, xếp theo các mức: tiểu

học trở xuống, trung học cơ sở, trung học phổ thông trở lên;

- Nghề nghiệp: là công việc thường ngày, mang lại nguồn thu nhập chính

cho đối tượng trong quần thể nghiên cứu, được xếp thành: cán bộ viên chức, làm

nông, và nhóm khác (bao gồm: buôn bán, học sinh-sinh viên, người già...).

- Kiến thức về nguy cơ nhiễm: Chia làm các giá trị: ăn rau sống, không rửa

tay trước khi ăn, tiếp xúc đất, bồng bế chó/mèo, khác và không biết (KB).

- Có kiến thức về nguy cơ nhiễm:

+ Có kiến thức: Trả lời đúng ít nhất một nguy cơ nhiễm: ăn rau sống,

không rửa tay trước khi ăn, tiếp xúc đất, bồng bế chó/mèo.

52

+ Không có kiến thức: Trả lời sai hoặc không biết.

- Kiến thức về triệu chứng: Chia làm các giá trị: ngứa, nổi mề đay, nhức

đầu, đau nhức mỏi, tê bì, đau bụng, rối loạn tiêu hóa (RLTH) và khác (triệu

chứng lâm sàng hiếm gặp) và không biết.

+ Có kiến thức: Trả lời đúng ít nhất một triệu chứng: ngứa, nổi mề đay,

nhức đầu, đau nhức mỏi, tê bì, đau bụng, RLTH và khác (triệu chứng lâm sàng

hiếm gặp).

+ Không có kiến thức: Trả lời sai hoặc không biết.

- Kiến thức về phòng ngừa: Chia làm các giá trị: Ăn chín uống chín, tẩy

giun cho chó, xử lý phân chó, rửa tay khi tiếp xúc đất, rửa tay trước khi ăn,

không bồng bế chó/mèo và không biết.

+ Có kiến thức: Trả lời đúng ít nhất một biện pháp: Ăn chín uống chín,

tẩy giun cho chó, xử lý phân chó, rửa tay khi tiếp xúc đất, rửa tay trước khi ăn,

không bồng bế chó/mèo.

+ Không có kiến thức: Trả lời sai hoặc không biết.

- Ăn rau sống: phân theo 3 mức độ ăn

+ Thường xuyên: từ 1 lần trở lên/tuần

+ Không thường xuyên: 1 lần/2 tuần hoặc ít hơn

+ Không: chưa bao giờ ăn

- Rửa rau sống: phân theo 2 mức độ

+ Đúng cách: tối thiểu 3 lần với nước sạch hoặc rửa dưới vòi nước máy.

+ Không đúng: rửa dưới 3 lần hoặc rửa với nước không sạch (ao, hồ…)

- Rửa tay trước khi ăn: phân theo 2 mức độ

+ Thường xuyên: trước khi ăn đều rửa tay

+ Không: Không thường xuyên hoặc không rửa

- Tiếp xúc đất: phân theo 3 mức độ

+ Thường xuyên: từ 1 lần trở lên/tuần

+ Không thường xuyên: 1 lần/2 tuần hoặc ít hơn

53

+ Không: chưa bao giờ tiếp xúc đất

- Rửa tay sau khi tiếp xúc đất: phân theo 2 mức độ

+ Thường xuyên: sau khi tiếp xúc đất đều rửa tay

+ Không: Không thường xuyên hoặc không rửa

- Bồng bế chó/mèo: phân theo 3 mức độ

+ Thường xuyên: từ 1 lần trở lên/tuần

+ Không thường xuyên: 1 lần/2 tuần hoặc ít hơn

+ Không: chưa bao giờ bồng bế chó/mèo

- Nhiễm giun đũa ở chó: phân theo 2 giá trị

+ Nhiễm: xét nghiệm phân chó có trứng giun đũa

+ Không nhiễm: xét nghiệm âm tính

- Nhiễm trứng giun đũa chó ở đất: phân theo 2 giá trị

+ Nhiễm: xét nghiệm đất có trứng giun đũa chó

+ Không nhiễm: xét nghiệm âm tính

- Nhiễm trứng giun đũa chó ở rau: phân theo 2 giá trị

+ Nhiễm: xét nghiệm rau có trứng giun đũa chó

+ Không nhiễm: xét nghiệm âm tính

- Nhiễm ấu trùng giun đũa chó: phân theo 2 giá trị

+ Nhiễm: Huyết thanh dương tính: OD/ngưỡng ≥ 1

+ Không nhiễm: Huyết thanh âm tính: OD/ngưỡng < 1

- Trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó: phân theo 2 giá trị

+ Bệnh: Dựa vào định nghĩa trường hợp bệnh theo hướng dẫn của Bộ Y

tế. Tiêu chuẩn chẩn đoán ca bệnh ATGĐC bao gồm huyết thanh dương tính giun

đũa chó kết hợp ít nhất một triệu chứng lâm sàng [3].

+ Không bệnh: Huyết thanh âm tính hoặc huyết thanh dương tính nhưng

không có triệu chứng lâm sàng.

54

2.4.5.2. Các chỉ số đánh giá trong nghiên cứu

* Nghiên cứu thực trạng và yếu tố liên quan đến nhiễm ATGĐC:

- Tỷ lệ nhiễm ATGĐC bằng kỹ thuật ELISA;

- Phân bố nhiễm ATGĐC theo nhóm tuổi, giới …;

- Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó;

- Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trong phân chó và trong đất, rau;

- Các chỉ số về kiến thức, thái độ, thực hành của người dân liên quan đến

nhiễm ATGĐC.

* Nghiên cứu can thiệp

- So sánh sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm, tỷ lệ bệnh ở người, tỷ lệ nhiễm ở chó,

đất, rau, sự khác biệt về tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành liên quan phòng

chống bệnh ATGĐC trước và sau can thiệp giữa nội bộ xã can thiệp, nội bộ xã

đối chứng bằng chỉ số hiệu quả và so sánh giữa xã can thiệp và xã đối chứng

bằng hiệu quả can thiệp.

| p1- p2 |

Chỉ số hiệu quả (%) = x 100

p1

p1: chỉ số đánh giá trước can thiệp tại xã can thiệp/đối chứng;

p2: chỉ số đánh giá sau can thiệp tại xã can thiệp/đối chứng.

Hiệu quả can thiệp (HQCT) sau can thiệp giữa 2 xã can thiệp và đối

chứng của mỗi một giải pháp can thiệp sẽ là hiệu số của các chỉ số hiệu quả

(CSHQ) tính toán ở trên tại xã can thiệp và xã đối chứng

HQCT = CSHQ xã can thiệp - CSHQ xã đối chứng

2.4.6. Vật liệu nghiên cứu

- Dụng cụ dùng trong khám lâm sàng (nhiệt kế, ống nghe...);

- Dụng cụ lấy máu (bơm kim tiêm 5ml, ống nghiệm lấy máu …);

- Dụng cụ xét nghiệm phân, đất, rau (kính hiển vi, máy ly tâm, ống đong,

tube nhọn đầu, hóa chất formaline, ether, lamen…);

55

- Hệ thống ELISA gồm: máy đọc ELISA, máy rửa, tủ ấm, máy ly tâm …;

- Bộ kit thử ELISA cho Toxocara canis của Công ty trách nhiệm hữu hạn

sản xuất thương mại hóa chất Việt Sinh. Bộ kít thử có độ nhạy 100%, độ đặc

hiệu 97%. Đây là bộ kít chẩn đoán được Bộ Y tế duyệt và cho sử dụng (phụ lục

13).

- Thuốc albendazole 400mg để điều trị các trường hợp bệnh ATGĐC. Dùng

biệt dược Unaben 400 mg, được sản xuất từ Công ty cổ phần KOREA UNITED

PHARM INTL, Số đăng ký: VD-5018-08. Dựa vào tài liệu của Bộ Y tế “Cẩm

nang phòng chống bệnh truyền nhiễm” [2] và theo các NC của Nguyễn Văn

Chương (2014), Lương Trường Sơn (2013) [6],[31], dùng liều điều trị 15 mg/kg

cân nặng dùng trong 21 ngày

Hình 2.5. Thuốc Unaben

- Thuốc tẩy giun cho chó: sử dụng pyrantel pamoate 125 mg, biệt dược

Sanpet (hãng Hanvet), liều dùng duy nhất 1 viên cho 5 kg thể trọng.

- Máy chiếu, giấy bút, loa, máy tính xách tay…;

- Tờ rơi (phụ lục 12), băng rôn;

- Phiếu phỏng vấn kiến thức, thái độ, thực hành (phụ lục 7 và 7a).

2.5. Xử lý số liệu

Số liệu được nhập vào phần mềm Epidata, Excel, xử lý và phân tích bằng

phần mềm thống kê Stata 12.0. Các thông số thống kê, tính toán bao gồm:

- Số lượng, tỷ lệ phần trăm.

56

- So sánh 2 tỷ lệ bằng kiểm định Khi bình phương, giá trị p (p-value).

- Tính chỉ số OR với khoảng tin cậy 95% (CI 95%).

- Tính chỉ số hiệu quả, hiệu quả can thiệp.

2.6. Các biện pháp khống chế sai số

Để đảm bảo độ chính xác, hạn chế sai số cần thực hiện:

- Cỡ mẫu được tính đủ lớn để hạn chế sai số.

- Bộ công cụ được thiết kế rõ ràng, thống nhất có sự cố vấn của các chuyên

gia về lĩnh vực y tế công cộng, ký sinh trùng.

- Tiến hành điều tra thử bộ câu hỏi.

- Địa bàn can thiệp và đối chứng đảm bảo tương đồng các chỉ số liên quan.

- Điều tra viên đều được tập huấn, giao nhiệm vụ cụ thể và được giám sát

khi thực hiện các đợt điều tra. Các kỹ thuật tại la bô được thực hiện bởi những

kỹ thuật viên có kinh nghiệm của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn.

- Sai số có thể gặp trong phỏng vấn do sử dụng ngôn từ địa phương giữa

người phỏng vấn và người được phỏng vấn. Hạn chế bằng cách chọn người địa

phương là cán bộ y tế xã hoặc thôn cùng đi phỏng vấn và làm phiên dịch khi cần.

2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu

2.7.1. Sự chấp thuận của Hội đồng đạo đức y sinh của Viện Vệ sinh Dịch tễ

Trung ương

- Đề tài thực hiện với đề cương đã được thông qua Hội đồng Đạo đức Y

sinh học của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (Chứng nhận chấp thuận của Hội

đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh, số: IRB-VN01057-24/2016);

- Tất cả thời điểm, tính an toàn phải luôn đảm bảo cho bệnh nhân;

- Bất kỳ sự thay đổi nào cũng phải xin ý kiến chấp thuận của Hội đồng đạo

đức y sinh học của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương trước;

- Nghiên cứu viên chính có trách nhiệm tuân theo các đánh giá của Hội

đồng đạo đức y sinh học về quá trình thực hiện nghiên cứu.

57

2.7.2. Cam kết tham gia nghiên cứu thông qua

- Bệnh nhân hoặc người nhà, người giám hộ đồng ý, chấp thuận sau khi

nghe rõ quyền lợi và trách nhiệm khi tham gia nghiên cứu, hoặc trong trường

hợp không biết tiếng có thể sử dụng người địa phương chuyển dịch bằng ngôn

ngữ địa phương nghe rõ trước khi tham gia nghiên cứu;

- Tất cả câu hỏi của bệnh nhân hoặc thân nhân đều phải được nhóm nghiên

cứu trả lời rõ ràng, cụ thể. Giải thích về lợi ích, quyền lợi và cả nguy cơ có thể

xảy ra sau uống thuốc (các biến cố bất lợi).

2.7.3. Bảo mật thông tin và số liệu

- Tất cả thông tin liên quan đến đối tượng nghiên cứu sẽ được bảo mật và

chỉ chia sẻ với các thành viên trong nhóm nghiên cứu;

- Trưởng nhóm nghiên cứu phải đảm bảo cất giữ hồ sơ và sản phẩm nghiên

cứu (mẫu máu, mẫu ghi kết quả) cẩn trọng.

2.7.4. Dịch vụ chăm sóc y tế

- Chăm sóc y tế hoàn toàn miễn phí về bệnh ATGĐC trong suốt quá trình

nghiên cứu (thuốc điều trị giun), theo dõi bệnh nhân sau uống thuốc;

- Nếu có vấn đề y tế khác không liên quan nhiễm ATGĐC, nghiên cứu viên

có trách nhiệm chuyển bệnh nhân điều trị trong khả năng tốt nhất.

2.7.5. Sự khích lệ và động viên đối tượng tham gia hoàn tất

- Tất cả bệnh nhân trong diện nghiên cứu sẽ được xét nghiệm và dùng thuốc

(nếu có) hoàn toàn miễn phí;

- Luôn luôn khuyến khích họ đến điểm nghiên cứu để đạt số mẫu như yêu

cầu đề cương.

58

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó

3.1.1. Thực trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người

3.1.1.1. Một số đặc tính của mẫu nghiên cứu

Bảng 3.1. Đặc tính về giới và nhóm tuổi của mẫu nghiên cứu

Xã Đức Phong (n=662) Xã Đức Chánh (n=665) Đặc tính

% % % Số lượng Cộng (n=1.327) Số lượng Số lượng

Nam 318 48,0 323 48,6 641 48,3 Giới Nữ 344 52,0 342 51,4 686 51,7

> 15 435 65,7 415 62,4 850 64,1

Nhóm tuổi 2 – 15 227 34,3 250 37,6 477 35,9

Mẫu nghiên cứu gồm 1.327 người, trong đó: xã Đức Phong là 662 người,

tại Đức Chánh là 665 người. Sự phân bố các đặc tính về giới và nhóm tuổi của

mẫu tại 2 xã là tương đồng với nhau.

Bảng 3.2. Đặc tính về trình độ học vấn, nghề nghiệp của người được phỏng vấn

Xã Đức Phong (n=200) Xã Đức Chánh (n=200) Đặc tính

% % % Số lượng Số lượng Cộng (n=400) Số lượng

53 26,5 51 25,5 104 26,0

75 37,5 82 41,0 157 39,3

Trình độ học vấn

72 36,0 67 33,5 139 34,7 Tiểu học trở xuống Trung học cơ sở Trung học phổ thông trở lên

Nông 137 68,5 155 77,5 292 73,0

CBVC 36 18,0 24 12,0 60 15,0

Nghề nghiệp Khác 27 13,5 21 10,5 48 12,0

59

Trình độ học vấn: bậc tiểu học trở xuống chiếm 26%, trung học cơ sở

chiếm 39,3%, phổ thông trung học trở lên chiếm 34,7%. Về nghề nghiệp: nhóm

làm nông cao nhất chiếm 73%. Sự phân bố các đặc tính về trình độ học vấn và

nghề nghiệp của mẫu tại 2 xã cũng tương đồng với nhau.

3.1.1.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên cứu

Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm NC

Xã Số nhiễm % p Số mẫu máu XN ELISA

Đức Phong 662 119 17,9

> 0,05

Đức Chánh 665 111 16,7

Cộng 1.327 230 17,3

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người chung tại 2 xã là 17,3%. Tỷ lệ

nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại xã Đức Phong là 17,9%; xã Đức Chánh là

16,7%. Không có sự khác biệt nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại 2 xã nghiên cứu.

3.1.1.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo một số đặc tính

Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo giới tính tại các điểm NC

Xã Giới Số nhiễm Tỷ lệ % p

Nam Số mẫu máu XN ELISA 318 53

> 0,05 Nữ 66 344 Đức Phong

Nam 45 323

Nữ 66 342 Đức Chánh > 0,05

Nam 98 641

Cộng > 0,05 Nữ 132 686

16,7 19,2 13,9 19,3 15,3 19,2

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nam là 15,3%; ở nữ là 19,2%. Không

có sự khác biệt về nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo giới tính.

60

Bảng 3.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo nhóm tuổi

p Xã Nhóm tuổi Số nhiễm Tỷ lệ %

Số mẫu máu XN ELISA 435 > 15 90 20,7

< 0,05 2 - 15 227 29 12,8 Đức Phong

> 15 415 79 19,0

< 0,05 2 - 15 250 32 12,8 Đức Chánh

> 15 850 169 19,9

Cộng < 0,01 2 - 15 477 61 12,8

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nhóm tuổi trên 15 tuổi là 19,9%; ở

nhóm từ 2-15 tuổi là 12,8%. Có sự khác biệt giữa nhiễm ấu trùng giun đũa chó

và nhóm tuổi tại các điểm nghiên cứu (p<0,05).

Hình 3.1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo trình độ học vấn

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nhóm tiểu học trở xuống là 34,6%; ở

nhóm THCS là 16,6% và nhóm trung học phổ thông trở lên là 15,1%.

61

Hình 3.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo nghề nghiệp

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nhóm làm nông là 22,9%; ở nhóm

CBVC là 10% và khác là 20,8%.

Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo yếu tố gia đình

Số người nhiễm Đức Chánh Cộng

Đức Phong trong hộ SL % SL % SL %

1 người 77 38,5 74 37,0 151 37,8

2 người 15 7,5 14 7,0 29 7,3

3 người 4 2,0 3 1,5 7 1,8

4 người 0 0 0 0 0 0

Không có người nhiễm 104 52,0 109 54,5 213 53,5

Cộng 200 100,0 200 100,0 400 100,0

Tỷ lệ hộ gia đình có người nhiễm ATGĐC là 46,5%, trong đó chủ yếu là hộ

có một người nhiễm chiếm 37,8%, có 2 người là 7,3%, có 3 người là 1,8%.

62

3.1.1.4. Mức độ OD/ngưỡng của số nhiễm ấu trùng giun đũa chó

Hình 3.3. Mức độ OD/ngưỡng của số nhiễm ấu trùng giun đũa chó

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó với OD/ngưỡng từ 1-< 1,25 là chủ yếu

(64,8%); OD/ngưỡng từ 1,25-< 1,5 chiếm 23%, OD/ngưỡng ≥ 1,5 chiếm 12,2%.

3.1.1.5. Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó

Hình 3.4. Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó

Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó từ 6-10%

chiếm 36,1%; tăng trên 10% chiếm 19,6%.

63

3.1.1.5. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người

Bảng 3.7. Triệu chứng lâm sàng trên số trường hợp bệnh ATGĐC

Đức Phong (n=61)

Đức Chánh (n=59)

Cộng (n=120)

TCLS

SL

%

SL

%

%

SL 83

Ngứa, nổi mẩn

46

75,4

37

69,2

62,7

63

Đau đầu, chóng mặt

29

47,5

34

52,5

57,6

27

Đau bụng, RLTH

14

22,9

13

22,5

22,0

29

Nhức chân tay, tê bì

14

22,9

15

24,2

25,4

5

Sốt, thở khò khè

3

4,9

2

4,2

3,4

0

Triệu chứng về mắt

0

0

0

0

0

8

Khác

4

6,6

4

6,7

6,8

Khám lâm sàng bệnh nhân ATGĐC gồm 61 trường hợp tại xã Đức Phong

và 59 trường hợp tại xã Đức Chánh cho thấy một số triệu chứng chiếm tỷ lệ cao

như ngứa, nổi mẩn (69,2%), đau đầu (52,5%), đau bụng (22,5%), nhức mỏi chân

tay, tê bì (24,2%). Một số triệu chứng khác ít gặp chiếm 6,7% như tức ngực, đau

thượng vị…Chưa thấy trường hợp bệnh có triệu chứng về mắt.

Bảng 3.8. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên cứu

Xã Số XN p %

Đức Phong 662 Số huyết thanh (+) kết hợp TCLS 61 9,2

> 0,05

Đức Chánh 665 8,9 59

Cộng 1.327 9,0 120

64

Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó tại các điểm nghiên cứu là 9%. Trong đó xã

Đức Phong là 9,2%; xã Đức Chánh là 8,9%.

Bảng 3.9. Tỷ lệ có triệu chứng lâm sàng trên số nhiễm ATGĐC

Huyết thanh và Cộng (n= 230) TCLS Đức Phong (n= 119) Số lượng % Đức Chánh (n= 111) Số lượng % Số lượng %

HT (+) kết hợp 61 51,3 59 53,2 120 52,2 TCLS

HT (+) không có 58 48,7 52 46,8 110 47,8 TCLS

Cộng 119 100,0 111 100,0 230 100,0

Tỷ lệ có triệu chứng lâm sàng trên số nhiễm ATGĐC tại các điểm nghiên

cứu là 52,2%. Trong đó xã Đức Phong là 51,3%; xã Đức Chánh là 53,2%.

3.1.2. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người

3.1.2.1. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó

Bảng 3.10. Tỷ lệ nuôi chó tại các điểm NC

Số hộ điều tra Số hộ nuôi chó p

Xã Đức Phong 200 115 % 57,5

> 0,05

Đức Chánh 200 103 51,5

Cộng 400 218 54,5

Tỷ lệ chung về số hộ nuôi chó tại các điểm nghiên cứu là 54,5%, tại xã

Đức Phong là 57,5% và tại xã Đức Chánh là 51,5%. Không có sự khác biệt về tỷ

lệ nuôi chó tại các điểm nghiên cứu (p > 0,05).

65

Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại các điểm nghiên cứu

Xã Số chó XN Số chó nhiễm % p

Đức Phong 126 42 33,3

> 0,05

Đức Chánh 109 35 32,1

Cộng 235 77 32,8

Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó chung tại các điểm nghiên cứu là 32,8%. Trong

đó, tỷ lệ chó nhiễm tại xã Đức Phong là 33,3%; tại xã Đức Chánh là 32,1%.

Không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại các điểm nghiên cứu

(p>0,05).

Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm giun đũa chó theo nhóm tuổi ở chó tại các điểm NC

< 3 tháng tuổi

3 – 6 tháng

> 6 tháng tuổi

Tổng số

Số XN

Số XN

Số XN

Số XN

Số nhiễm (%) 12

25

Số nhiễm (%) 9

79

Số nhiễm (%) 21

126

Số nhiễm (%) 42

Đức Phong

22

(54,5)

(36,0)

(26,6)

(33,3)

21

8

73

20

109

35

Đức Chánh

15

7

(46,7)

(38,1)

(27,4)

(32,1)

37

19

46

17

152

41

235

77

Cộng

(51,4)

(36,9)

(27,0)

(32,8)

Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó giảm dần theo tuổi của chó, tỷ lệ nhiễm ở chó

dưới 3 tháng tuổi là 51,4%; chó từ 3 đến 6 tháng tuổi nhiễm 37,0%; chó trên 6

tháng tuổi nhiễm 27%.

66

3.1.2.2. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất

Bảng 3.13. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các điểm nghiên cứu

Số mẫu Số mẫu Vị trí đất Xã % p nhiễm XN

Đức Phong 200 59 29,5 > 0,05 Hộ gia đình Đức Chánh 200 52 26,0

Cộng 400 111 27,8

Đức Phong 10 3 30,0 > 0,05 Sân chơi Đức Chánh 10 2 20,0 công cộng

Cộng 20 5 25,0

Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các hộ gia đình là 27,8%, tại sân

chơi công cộng là 25%. Không có sự khác biệt nhiễm trứng giun đũa chó ở đất

tại hộ gia đình và sân chơi công cộng ở các điểm nghiên cứu.

Bảng 3.14. Mật độ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các điểm nghiên cứu

Số mẫu Số trứng trên Xã Vị trí Số XN nhiễm 100 gam đất

Hộ gia đình 59 7 200 Đức Phong Sân chơi CC 3 2 10

Hộ gia đình 52 6 200 Đức Chánh Sân chơi CC 2 1,5 10

Hộ gia đình 111 6,5 400 Cộng Sân chơi CC 5 1,8 20

Số trứng giun đũa chó trung bình trên 100 gam đất tại hộ gia đình là 6,5

trứng; tại các sân chơi công cộng là 1,8 trứng.

67

3.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau

Bảng 3.15. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau tại các điểm NC

Đức Phong Đức Chánh Cộng

Loại rau

Số mẫu XN Số mẫu XN Số mẫu XN

40 Rau cải 80 40

40 Rau xà lách 80 40

40 Rau má 80 40

40 Rau diếp cá 80 40

40 Rau thơm 80 40

Cộng 200 200 400 Số nhiễm (%) 2 (5,0) 5 (12,5) 1 (2,5) 3 (7,5) 3 (7,5) 14 (7,0) Số nhiễm (%) 1 (2,5) 4 (10,0) 2 (5,0) 4 (10,0) 2 (5,0) 13 (6,5) Số nhiễm (%) 3 (3,8) 9 (11,3) 3 (3,8) 7 (8,8) 5 (6,3) 27 (6,8)

Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên các loại rau chung là 6,8%. Trong đó

nhiễm trên rau xà lách là 11,3%; rau diếp cá là 8,8%; các loại rau thơm là 6,3%;

rau má là 3,8% và rau cải là 3,8%.

Bảng 3.16. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau theo vị trí thu thập

Đức Phong Đức Chánh Cộng

Vị trí thu thập Số mẫu XN Số mẫu XN Số mẫu XN

160 320 160 Vườn

40 80 40 Chợ

200 400 200 Cộng Số nhiễm (%) 11 (6,8) 3 (7,5) 14 (7,0) Số nhiễm (%) 10 (6,2) 3 (7,5) 13 (6,5) Số nhiễm (%) 21 (6,5) 6 (7,5) 27 (6,8)

Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau thu thập tại các vườn rau của các hộ

gia đình trong các điểm nghiên cứu là 6,5%, rau thu thập tại chợ nhiễm 7,5%.

68

Bảng 3.17. Cường độ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau tại các điểm NC

Số trứng trung bình trên 1 kg rau

Loại rau Đức Phong Đức Chánh Chung

Rau cải 2,5 2 2,3

8 7 7,5 Rau xà lách

2 4 3 Rau má

4 6 5 Rau diếp cá

4 3 3,5 Rau thơm

4,5 4,4 4,5 Chung

Cường độ nhiễm trứng GĐC trên rau tại các điểm NC là 4,5 trứng/kg.

3.1.2.4. Kiến thức của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó

Bảng 3.18. Tỷ lệ có nghe nói và nguồn thông tin về bệnh ATGĐC

Đức Chánh (n=200) Cộng (n=400) Nội dung

Có nghe nói về bệnh Đức Phong (n=200) Số lượng % 49,5 99 Số lượng % 47,0 94 Số lượng % 48,2 193

Không nghe 101 50,5 106 53,0 207 51,8

Nghe từ nguồn thông tin

Ti vi, đài 12 6,0 9 4,5 21 5,2

Cán bộ y tế 66 33,0 60 30,0 126 31,5

Người thân 92 46,0 88 44,0 180 45,0

Khác 9 4,5 4 2,0 13 3,3

Tỷ lệ có nghe nói về bệnh ấu trùng giun đũa chó chung tại 2 điểm nghiên

cứu là 48,2%. Nghe về bệnh qua tivi, đài là 5,2%; qua cán bộ y tế là 31,5%; qua

người thân cao nhất là 45%.

69

Bảng 3.19. Kiến thức về bệnh ấu trùng giun đũa chó

Đức Phong Đức Chánh Cộng

Kiến thức % % % Số lượng Số lượng Số lượng

Ăn rau, hoa quả sống 47,5 87 43,5 182 45,5 95

Tiếp xúc đất 11,0 20 10,0 42 10,5 22

Nguy cơ nhiễm Bồng bế chó 7,5 13 6,5 28 7,0 15

Không biết 105 52,5 113 56,5 218 54,5

Ngứa, nổi mề đay 47,5 90 45,0 185 46,3 95

Đau đầu 43,5 87 43,5 174 43,5 87

Đau bụng, RLTH 8,0 20 10,0 36 9,0 16

Nhức chân tay, tê bì 3,5 6 3,0 13 3,3 7 Triệu chứng bệnh

Khác 2,0 4 2,0 8 2,0 4

Không biết 103 51,5 110 55,0 213 53,3

Ăn uống chín 45,5 86 43,0 177 44,3 91

Tẩy giun cho chó 42,5 82 41,0 167 41,8 85

Xử lý phân chó 21,5 34 17,0 77 19,3 43

Rửa tay sau TX đất 6,5 13 6,5 26 6,5 13 Phòng chống

Rửa tay trước khi ăn 6,5 11 5,5 24 6,0 13

Không bồng bế chó 5,5 11 5,5 22 5,5 11

Không biết 107 53,5 115 57,5 222 55,5

Kiến thức về bệnh ATGĐC thấp, tỷ lệ không biết về nguy cơ nhiễm là

54,5%; không biết về triệu chứng 53,3%; không biết về phòng chống là 55,5%.

70

3.1.2.5. Thái độ của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó

Bảng 3.20. Thái độ về bệnh ấu trùng giun đũa chó

Cộng

Thái độ % % % Đức Phong Số lượng Đức Chánh Số lượng Số lượng

Đồng ý 96 48,0 93 46,5 189

Bệnh nguy hiểm

Không, KB 104 52,0 107 53,5 211

Cần thiết 72 36,0 69 34,5 141

Không nuôi chó thả rông

Không, KB 128 64,0 131 65,5 259

Cần thiết 71 35,5 79 39,5 150

Xử lý phân chó

Không, KB 129 64,5 121 60,5 250

Cần thiết 90 45,0 81 40,5 171

Tẩy giun cho chó

Không, KB 110 55,0 119 59,5 229

47,3 52,8 35,3 64,8 37,5 62,5 42,8 57,3

Người dân có thái độ đồng ý bệnh ATGĐC nguy hiểm là 47,3%; thái độ

cần thiết không nuôi chó thả rông là 35,3%; cần thiết xử lý phân chó 37,5% và

cần thiết tẩy giun cho chó là 42,8%.

71

3.1.2.6. Thực hành của người có liên quan về bệnh ấu trùng giun đũa chó

Bảng 3.21. Thực hành về ăn uống và thói quen sinh hoạt

Đức Phong Đức Chánh Cộng

Ăn uống, sinh hoạt (%) (%) (%)

Ăn rau sống thường xuyên Số lượng 85 42,5 Số lượng 64 32,0 Số lượng 149 37,3

Tiếp xúc đất thường xuyên 115 57,5 115 57,5 230 57,5

Không rửa tay sau TX đất 59 29,5 56 28,0 115 28,8

Không rửa tay trước khi ăn 40 20,0 47 23,5 87 21,8

Bồng bế chó thường xuyên 27 13,5 21 10,5 48 12,0

Thực hành về ăn uống và thói quen sinh hoạt có liên quan đến nhiễm bệnh

ATGĐC cho thấy tỷ lệ ăn rau sống thường xuyên là 37,3%; tiếp xúc đất thường

xuyên là 57,5%; bồng bế chó thường xuyên là 12%; không rửa tay sau khi tiếp

xúc đất là 28,8%; không rửa tay trước khi ăn là 21,8%.

Hình 3.5. Thực hành nuôi chó thả rông và tẩy giun cho chó

Tỷ lệ nuôi chó thả rông tại các điểm nghiên cứu là 83,5%; chỉ có 11,9% số

hộ có tẩy giun cho chó.

72

3.1.2.7. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người

Bảng 3.22. Liên quan giữa nuôi chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó

Xã Nuôi chó Tổng p Nhiễm (%) OR (CI 95%)

Nuôi chó 115 Không nhiễm (%) 89 (77,4)

1,2 (0,6-2,6)

> 0,05 26 (22,6) 16 (18,8) 69 (81,2) Không nuôi Đức Phong (n=200)

Tổng

Nuôi chó 42 23 (22,3) 85 200 103

97

Không nuôi 158 80 (77,7) 79 (81,4) Đức Chánh (n=200) 1,2 (0,6-2,6) > 0,05

18 (18,6) 41 159 Tổng

200 218

Nuôi chó 49 (22,5)

182

Không nuôi 34 (18,7) Cộng (n=400) 1,2 (0,7-2,1) > 0,05

83 169 (77,5) 148 (81,3) 317 Tổng 400

Không có mối liên quan giữa nhiễm ấu trùng giun đũa chó với người ở hộ

có nuôi chó và không nuôi chó (p>0,05).

73

Bảng 3.23. Liên quan giữa ăn rau sống và nhiễm ấu trùng giun đũa chó

Xã p Ăn rau sống thường xuyên Nhiễm (%) OR (CI 95%)

19 (22,4) Có Tổng 85

1,1 (0,5-2,4)

> 0,05 23 (20,0) Không 115 Đức Phong (n=200)

Tổng

42 14 (21,9) Có 200 64

136

27 (19,9) Không 1,1 (0,5-2,4) > 0,05 Đức Chánh (n=200)

41 Không nhiễm (%) 66 (77,6) 92 (80,0) 158 50 (78,1) 109 (80,1) 159 Tổng

200 149

33 (22,1) Có

251

50 (19,9) Không Cộng (n=400) 1,1 (0,6-1,9) > 0,05

83 116 (77,9) 201 (80,1) 317 Tổng 400

Không có mối liên quan giữa ăn rau sống và nhiễm ấu trùng giun đũa chó

(p>0,05).

74

Bảng 3.24. Liên quan giữa thói quen sinh hoạt và nhiễm ấu trùng giun đũa chó

chung tại hai xã

Thói quen sinh hoạt p Nhiễm (%) OR (CI 95%)

Có 24 (50,0) Tổng 48

4,9 (2,5-9,7)

< 0,01 Không 59 (16,8) 352

Bồng bế chó thường xuyên

Tổng

Có 83 63 (27,4) 400 230

170 2,8 (2-7,0) Không 20 (11,8) < 0,01 Tiếp xúc đất thường xuyên

Tổng

400 115

Không 83 38 (33,0)

285

Có 45 (15,8) 2,6 (1,6-4,5) < 0,01 Rửa ray sau khi tiếp xúc đất 83 Không nhiễm (%) 24 (50,0) 293 (83,2) 317 167 (72,6) 150 (88,2) 317 77 (67,0) 240 (84,2) 317 Tổng

400 87

Không 22 (25,3)

313

61 (19,5) Có 1,4 (0,8-1,9) > 0,05

Rửa tay trước khi ăn thường xuyên

Tổng 400 83

65 (74,7) 252 (80,5) 317 Có mối liên quan giữa tiếp xúc đất, bồng bế chó, không rửa tay sau khi tiếp

xúc đất với nhiễm ấu trùng giun đũa chó (p<0,05).

75

3.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống

3.2.1. Hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở

người

3.2.1.1. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm ở người sau can thiệp

Bảng 3.25. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm ở người sau can thiệp

Xã Số XN % CSHQ%

Số nhiễm 119 HQCT% p 2&4 Đức Phong Trước CT (1) 662 17,9 p

44,7 (can thiệp) Sau CT (2) 627 62 9,9 < 0,01 32,7

< 0,01 Đức Chánh Trước CT (3) 665 111 16,7 12,0

> 0,05 (đối chứng) Sau CT (4) 632 93 14,7

Sau 1 năm can thiệp, tiến hành xét nghiệm lại tại 2 xã. Kết quả cho thấy

tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại xã can thiệp giảm từ 17,9% xuống còn

9,9% (p < 0,01) và tại xã đối chứng giảm từ 16,7% xuống còn 14,7% (p > 0,05).

Hiệu quả can thiệp phòng chống đạt 32,7%.

Bảng 3.26. Thay đổi về tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó sau can thiệp

Xã % CSHQ%

Số điều tra 662 Số bệnh 61 p 42,4 HQCT% p 2&4 Xã can Trước CT (1) 9,2

thiệp < 0,01 Sau CT (2) 627 5,3 33 34,5

Xã đối Trước CT (3) 665 8,9 7,9 59 < 0,05

chứng > 0,05 Sau CT (4) 632 8,2 52

Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh ATGĐC tại xã can thiệp giảm từ 9,2% xuống

còn 5,3% (p < 0,01) và tại xã đối chứng giảm từ 8,9% xuống còn 8,2%

(p > 0,05). Hiệu quả can thiệp phòng chống đạt 34,5%.

76

3.2.1.2. Hiệu quả điều trị trường hợp bệnh ATGĐC của albendazol

Bảng 3.27. Hiệu quả điều trị trường hợp bệnh ATGĐC bằng albendazol

Xã Huyết thanh (+) Trường hợp bệnh ATGĐC

Trước Sau CSHQ (%) Trước CSHQ (%) Sau

(%) (%) (%) (%)

61 5 Can 61 91,8 3 95,1

thiệp (100,0) (8,2) (100,0) (4,9)

Đối 59 11 81,4 59 8 86,4

chứng (100,0) (18,6) (100,0) (13,6)

Tổng 120 16 86,7 120 11 90,8

(100,0) (13,3) (100,0) (9,2)

Điều trị bằng albendazole đạt hiệu quả cao, tỷ lệ huyết thanh dương tính

sau 1 năm giảm 86,7%, tỷ lệ bệnh ATGĐC giảm 90,8%.

Bảng 3.28. Hiệu quả điều trị làm giảm triệu chứng lâm sàng (n=120)

Triệu chứng lâm sàng Trước điều trị Sau điều trị CSHQ (%)

83

69,2

SL SL % %

Ngứa, nổi mẩn

63

52,5

8 6,7 90,3

Đau đầu, chóng mặt

27

22,5

6 5,0 90,5

Đau bụng, RLTH

29

24,2

5 4,2 81,3

Nhức chân tay, tê bì

5

4,2

5 4,2 82,6

Sốt, thở khò khè

8

6,7

1 0,8 80,9

Triệu chứng khác

2 1,7 74,6

Các triệu chứng lâm sàng sau điều trị đã giảm rõ rệt từ 74,6-90,5%.

77

Bảng 3.29. Thay đổi về tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan sau điều trị

BCAT ≥ 6% CSHQ (%) Xã % % Trước điều trị Sau điều trị

59,0 5 8,2 86,1 Can thiệp 36

(n=61)

54,2 6 10,2 81,2 Đối chứng 32

(n=59)

56,7 11 9,2 83,8 Tổng 68

(n=120)

Sau 1 năm điều trị, tiến hành xét nghiệm BCAT cho toàn bộ số ca được

điều trị cho thấy tỷ lệ bạch cầu ái toan từ 6% trở lên đã giảm rõ rệt (83,8%).

3.2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh

3.2.2.1. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó sau can thiệp

Bảng 3.30. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó sau can thiệp

XN chó Số mẫu Số mẫu % CSHQ% HQCT%

XN nhiễm p p 2&4

126 42 33,0 80,9 Xã can

<0,01 64,4 thiệp 111 7 6,3

<0,01 109 35 32,1 16,5 Xã đối

>0,05 chứng 97 26 26,8

Trước CT (1) Sau CT (2) Trước CT (3) Sau CT (4)

Sau can thiệp, tỷ lệ chó nhiễm giun đũa tại xã can thiệp giảm đáng kể từ

33,3% xuống còn 6,3%, chỉ số hiệu quả đạt 80,9% (p < 0,01), tại xã đối chứng

tỷ lệ nhiễm chỉ giảm từ 32,1% xuống còn 26,8%, chỉ số hiệu quả chỉ đạt 16,5%

(p > 0,05). Hiệu quả can thiệp phòng chống cao (64,4%).

78

3.2.2.2. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất sau can thiệp

Bảng 3.31. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất sau can thiệp

Xã % CSHQ%

XN đất HQCT% p 2&4 p

Số mẫu XN Số mẫu nhiễm

Xã can Trước CT (1) 200 59 29,5 69,5

thiệp Đất hộ < 0,01 50,3 Sau CT (2) 200 18 9,0

gia < 0,01 Xã đối Trước CT (3) 200 52 26,0 19,2 đình

chứng > 0,05 Sau CT (4) 200 42 21,0

Đất Xã can Trước CT (1) 10 30,0 66,6 3

nơi thiệp > 0,05 66,6 Sau CT (2) 10 10,0 1

công > 0,05 Xã đối Trước CT (3) 10 20,0 0 2 cộng

chứng > 0,05 Sau CT (4) 10 20,0 2

Sau can thiệp, tỷ lệ mẫu đất ở hộ gia đình nhiễm trứng giun đũa chó tại xã

can thiệp giảm đáng kể từ 29,5% xuống còn 9,0%, chỉ số hiệu quả đạt 69,5% (p

< 0,01), tại xã đối chứng tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó chỉ giảm từ 26% xuống

còn 21%, chỉ số hiệu quả chỉ đạt 19,2% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp phòng

chống cao (50,3%).

Tỷ lệ mẫu đất ở sân chơi công cộng nhiễm trứng giun đũa chó tại xã can

thiệp cũng giảm từ 30% xuống còn 10%. Tại xã đối chứng tỷ lệ nhiễm trên đất

sân chơi công cộng không giảm.

79

3.2.2.3. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau sau can thiệp

Bảng 3.32. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau sau can thiệp

XN rau % CSHQ%

Số mẫu XN 200 Số mẫu nhiễm 14 7,0 HQCT% p 2&4 p Trước CT (1)

Xã can 71,4 200 4 2,0 Sau CT (2) thiệp < 0,05 71,4

<0,05 200 13 6,5 Trước CT (3)

Xã đối 0 200 13 6,5 Sau CT (4) chứng > 0,05

Tỷ lệ mẫu rau nhiễm trứng giun đũa chó tại xã can thiệp là 2,0%, so với

trước can thiệp có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), tại xã đối chứng

tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau là 6,5%, so với trước can thiệp không có sự

khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp đạt 71,4%.

3.2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục làm tăng kiến thức, thái độ, thực

hành của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó

3.2.3.1. Thay đổi kiến thức về bệnh ấu trùng giun đũa chó

Bảng 3.33. Thay đổi kiến thức về nguy cơ nhiễm

Xã Đúng %

Trước CT (1) 95

Can thiệp (n=200) CSHQ % p 44,2 < 0,01 Sau CT (2) 137

HQCT % p 2&4 24,7 < 0,01 Trước CT (3) 87

Đối chứng (n=200) 19,5 > 0,05 Sau CT (4) 104

47,5 68,5 43,5 52,0

Tại xã can thiệp, có sự tăng kiến thức về nguy cơ nhiễm từ 47,5% lên

68,5% (p<0,01), tại xã đối chứng có tăng nhưng không có sự khác biệt. Hiệu quả

can thiệp đạt 24,7%.

80

Bảng 3.34. Thay đổi kiến thức về triệu chứng bệnh ATGĐC

Xã Đúng % CSHQ % HQCT %

p 2&4 p

Trước CT (1) 97

Can thiệp (n=200) 42,3 < 0,01 Sau CT (2) 138

23,4 < 0,01 Trước CT (3) 90

Đối chứng (n=200) 18,9 > 0,05 Sau CT (4) 107

48,5 69,0 45,0 53,5

Tại xã can thiệp, có sự tăng kiến thức về triệu chứng bệnh từ 48,5% lên

69,0% (p<0,01), tại xã đối chứng có tăng nhưng không có sự khác biệt. Hiệu quả

can thiệp đạt 23,4%.

Bảng 3.35. Thay đổi kiến thức về phòng bệnh ATGĐC

Xã Đúng % CSHQ % HQCT %

p 2&4 p

Trước CT (1) 93

Can thiệp (n=200)

44,1 < 0,01

Sau CT (2) 134

24,1 < 0,01

Trước CT (3) 85

Đối chứng (n=200)

20,0 > 0,05

Sau CT (4) 102

41,5 67,0 42,5 51,0

Tại xã can thiệp, có sự tăng kiến thức về phòng bệnh từ 41,5% lên 67%

(p<0,01), tại xã đối chứng có tăng nhưng không có sự khác biệt. Hiệu quả can

thiệp đạt 24,1%.

81

3.2.3.2. Thay đổi thái độ về bệnh ấu trùng giun đũa chó

Bảng 3.36. Thay đổi thái độ về phòng chống bệnh

CSHQ %

HQCT %

Thái độ Xã Đúng %

p

p 2&4

Cần thiết Can thiệp Trước CT (1) 72 36,0 56,9

không (n=200) < 0,01 38,1 Sau CT (2) 113 56,5

nuôi chó < 0,01 Đối chứng Trước CT (3) 69 34,5 18,8

thả rông (n=200) > 0,05 Sau CT (4) 82 41,0

Cần thiết Can thiệp Trước CT (1) 71 35,5 84,5

xử lý (n=200) < 0,01 60,4 Sau CT (2) 131 65,5

phân chó < 0,01 Đối chứng Trước CT (3) 79 39,5 24,1

(n=200) > 0,05 Sau CT (4) 98 49,0

Cần thiết Can thiệp Trước CT (1) 90 45,0 34,4

tẩy giun (n=200) < 0,01 20,8 Sau CT (2) 121 60,0

cho chó < 0,01 Đối chứng Trước CT (3) 81 40,5 13,6

(n=200) > 0,05 Sau CT (4) 92 46,0

Tại xã đối chứng, sau can thiệp thái độ phòng chống bệnh thay đổi tăng lên

nhưng không có sự khác biệt so với trước can thiệp (p > 0,05). Tại xã can thiệp,

điều tra trước can thiệp chỉ có 36% số người có thái độ cho rằng cần thiết không

nuôi chó thả rông; 35,5% cần thiết xử lý phân chó; 45% cần thiết tẩy giun cho

chó. Sau can thiệp thái độ phòng chống bệnh thay đổi tăng lên có sự khác biệt so

với trước can thiệp: 56,5% có thái độ cần thiết không nuôi chó thả rông; 65,5%

cần thiết xử lý phân chó; 60,5% cần thiết tẩy giun cho chó (p < 0,01). Hiệu quả

can thiệp đạt 38,1%; 60,4% và 20,8% tương ứng.

82

3.2.3.3. Thay đổi thực hành về phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó

Bảng 3.37. Thực hành nuôi chó tại xã can thiệp sau can thiệp

Thực hành nuôi chó Số lượng %

Nuôi chó thả rông Có 75 69,4

(n=108) Không 33 30,6

Tại sao nuôi chó Tập quán 60 80,0

thả rông Thả rông để giữ nhà 22 29,3

(n=75) Nhốt sẽ tạo chó dữ thêm 45 60,0

Lý do khác 2 2,7

Tẩy giun cho chó Có 55 50,9

(n=108) Không 53 49,1

Tại sao không tẩy Chó mới nuôi 26 49,1

giun cho chó Đợi cấp thuốc tẩy giun 43 81,1

(n=53) Không cần thiết phải tẩy 2 3,8

Lý do khác 2 3,8

Sau can thiệp, tỷ lệ nuôi chó thả rông tại xã can thiệp là 69,4%. Có nhiều

lý do các hộ gia đình nuôi chó thả rông, chủ yếu là do tập quán (80%); tiếp theo

là do nhốt chó sẽ tạo cho chó hung dữ hơn dễ cắn người (60%); ngoài ra thả rông

còn để giữ nhà (29,3%).

Số hộ tự mua thuốc tẩy giun cho chó sau can thiệp là 50,9%. Số hộ nuôi

chó nhưng không mua thuốc tẩy giun cho chó tại xã can thiệp là do mới nuôi chó

nên chưa kịp mua thuốc tẩy (49,1%); và 81% hộ đợi cán bộ y tế, thú y đến cấp

thuốc giống như trong can thiệp phòng chống bệnh ATGĐC.

83

Bảng 3.38. Thay đổi về thực hành nuôi chó

Xã Có % CSHQ % HQCT % Thực

p p 2&4 hành nuôi

chó

Trước CT (1) 92 80,0

(n=115) 13,2 Can

> 0,05 thiệp Sau CT (2) 75 69,4

Nuôi chó 5,0 (n=108)

thả rông > 0,05 Trước CT (3) 90 87,4

(n=103) 8,2 Đối

> 0,05 chứng Sau CT (4) 77 80,2

(n=96)

Trước CT (1) 16 13,9

(n=115) 266,2 Can

< 0,01 thiệp Sau CT (2) 55 50,9

Tẩy giun 205,4 (n=108)

cho chó < 0,01 Trước CT (3) 10 9,7

(n=103) 60,8 Đối

> 0,05 chứng Sau CT (4) 15 15,6

(n=96)

Sau can thiệp, tỷ lệ nuôi chó thả rông tại các điểm nghiên cứu đều có

giảm nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Thực hành tẩy giun cho chó tăng lên. Tại xã can thiệp, tỷ lệ tự mua thuốc

tẩy giun cho chó tăng từ 13,9% lên 50,9% (p < 0,01). Tại xã đối chứng, tỷ lệ tẩy

giun cho chó tăng từ 9,7% lên 15,6% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp đạt 205,4%.

84

Bảng 3.39. Thay đổi về bồng bế chó, xử lý phân chó

Xã Có % CSHQ % HQCT % Thực

p p 2&4 hành nuôi

chó

Trước CT (1) 27 13,5 Can 66,7 thiệp Bồng bế < 0,01 Sau CT (2) 9 4,5 (n=200) chó 61,9

thường < 0,01 Trước CT (3) 21 10,5 Đối

xuyên 4,8 chứng

> 0,05 (n=200) Sau CT (4) 20 10,0

Trước CT (1) 98 49,0 Can

31,6 thiệp

< 0,01 (n=200) Sau CT (2) 129 64,5

Xử lý 25,6

phân chó < 0,01 Trước CT (3) 84 42,0 Đối

6,0 chứng

Kết quả cho thấy có sự giảm bồng bế chó từ 13,5% xuống 4,5% tại xã can

> 0,05 (n=200) Sau CT (4) 89 44,5

thiệp (p < 0,01), chỉ số hiệu quả đạt 66,7%. Tại xã đối chứng tỷ lệ có giảm

nhưng không có sự khác biệt (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp đạt 61,9%.

Thực hành xử lý phân chó tại các hộ gia đình có sự thay đổi. Tại xã can

thiệp, tỷ lệ xử lý phân chó tăng từ 49% lên 64,5% (p < 0,01). Tại xã đối chứng,

tỷ lệ xử lý phân chó tăng thấp từ 42% lên 44,5% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp

đạt 25,6%.

85

Bảng 3.40. Thay đổi về ăn rau sống, rửa rau

Xã Có % CSHQ % HQCT % Ăn rau

sống p 2&4 p

Trước CT (1) 85 42,5

Can 18,8

> 0,05 thiệp Sau CT (2) 69 34,5

Ăn rau (n=200) 12,5

sống > 0,05

Trước CT (3) 64 32,0

Đối 6,3

chứng > 0,05 Sau CT (4) 60 30,0

(n=200)

Trước CT (1) 187 93,5

Can 1,6

thiệp > 0,05 Sau CT (2) 190 95,0

Rửa rau (n=200) 0,6

đúng cách > 0,05

Trước CT (3) 187 93,5

Đối 1,1

chứng > 0,05 Sau CT (4) 189 94,5

(n=200)

Thay đổi về ăn rau sống thường xuyên tại xã can thiệp và xã đối chứng sau

1 năm không có sự thay đổi lớn. Thực hành rửa rau đúng trước và sau can thiệp

đều đạt tỷ lệ cao. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

86

Bảng 3.41. Thay đổi về thói quen tiếp xúc đất, rửa tay

Xã Có %

115 57,5

CSHQ % p 11,3 > 0,05 102 51,5

Trước CT (1) Sau CT (2)

HQCT % p 2&4 8,7 > 0,05

TX đất, rửa tay Tiếp xúc đất thường xuyên 115 57,5

2,6 > 0,05 112 56,0

Trước CT (3) Sau CT (4)

141 70,5

21,3 < 0,01 171 85,5

Trước CT (1) Sau CT (2)

14,4 < 0,05

Rửa tay sau tiếp xúc đất 144 72,0

6,9 > 0,05 154 77,0

Trước CT (3) Sau CT (4)

160 80,0

10,6 < 0,05 Rửa tay trước khi ăn 177 88,5

Trước CT (1) Sau CT (2)

6,0 < 0,05

153 76,5

4,6 > 0,05 160 80,0

Trước CT (3) Sau CT (4)

Can thiệp (n=200) Đối chứng (n=200) Can thiệp (n=200) Đối chứng (n=200) Can thiệp (n=200) Đối chứng (n=200)

Thay đổi về tiếp xúc đất của người dân tại xã can thiệp và xã đối chứng sau

1 năm không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Tại xã đối chứng, sau can thiệp thực hành rửa tay sau khi tiếp xúc đất thay

đổi tăng lên nhưng không có sự khác biệt so với trước can thiệp (p > 0,05). Tại

87

xã can thiệp, số người rửa tay sau khi tiếp xúc đất sau can thiệp tăng lên từ 70,5-

85,5% (p < 0,01). Hiệu quả can thiệp đạt 14,4%.

Tại xã đối chứng, sau can thiệp thực hành rửa tay trước khi ăn thay đổi

tăng lên nhưng không có sự khác biệt so với trước can thiệp (p > 0,05). Tại xã

can thiệp, điều tra trước can thiệp có 80% số người rửa tay trước khi ăn, sau can

thiệp rửa tay trước khi ăn là 88,5% (p < 0,05). Hiệu quả can thiệp thấp, chỉ đạt

6%.

88

CHƯƠNG 4

BÀN LUẬN

4.1. Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó

(Toxocara canis) ở người

4.1.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu được tính toán là 640 người cho mỗi xã. Tuy nhiên,

trên thực tế số đối tượng tham gia nghiên cứu cao hơn cỡ mẫu được tính toán, cụ

thể tại xã Đức Phong là 662 người và xã Đức Chánh là 665 người. Phân bố đặc

tính chung của đối tượng nghiên cứu cho thấy có sự phù hợp nhờ kỹ thuật chọn

mẫu ngẫu nhiên hệ thống, tỷ lệ tham gia nghiên cứu ở nam giới là 48,3%, nữ

giới là 51,7%; nhóm tuổi từ 16 tuổi đến 70 tuổi chiếm 64,1%, nhóm dưới 16 tuổi

chiếm 35,9%. Về nghề nghiệp do hai xã thuộc vùng nông thôn nên nghề nông là

chủ yếu (73%).

So sánh các đặc điểm về đối tượng nghiên cứu tại hai xã Đức Phong và xã

Đức Chánh cho thấy có những sự tương đồng với nhau. Đó là hai xã này đều

thuộc vùng đồng bằng, với các đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế văn hóa xã hội

gần giống nhau; nên sự phân bố các đặc tính của đối tượng gần tương đương

nhau.

4.1.2. Thực trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên

cứu

4.1.2.1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó chung tại 2 xã là 17,3%. Tỷ lệ nhiễm ấu

trùng giun đũa chó tại xã Đức Phong là 17,9%; xã Đức Chánh là 16,7%. Không

có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại hai xã nghiên

cứu. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Dogan N (2007) ở Thỗ Nhĩ Kỳ

(12,9-16,9%) [53], của Bùi Văn Tuấn (2012) tại Bình Định và Gia Lai (13,05-

16,78%) [34]. So với nghiên cứu tại một số nước phát triển thì kết quả chúng tôi

cao hơn như ở Đan Mạch (2,4%), Nhật Bản (1,6%), Mỹ (13,9%)

89

[74],[113],[121]. Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của một số

nước Nam Mỹ (Peru 35,6%, Brazil 36,5%) [77],[49], châu Phi (Swaziland

44,6%, Ghana 53,5%, La Reunion 92,8%) [77],[79],[84], châu Á (Indonexia

63,2%, Nepal 81%)[48],[102] và ở tại Việt Nam như của Nguyễn Văn Chương

(2014) tại Bình Định (29,4-30%) và Đăk Lăk (19,4-26,9%) [7], của Trần Thị

Hồng (2000) tại TP HCM là 38,4%[17], của Trần Vinh Hiển (2008) tại hai xã Chư Pả và H’ Bông tỉnh Gia Lai (50%) [13], của Phạm Thị Thu Hoài (2014) tại

Thanh Hóa là 74,9%[14], của Đỗ Trung Dũng (2016) tại Hà Nội (58,7%), tại

Hưng Yên (58,8%) [9].

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn

các nghiên cứu tại các nước phát triển như Nhật Bản, Đan Mạch là điều hiển

nhiên. Tại các nước phát triển người dân đã ý thức tốt về về quản lý vật nuôi, vệ

sinh môi trường tốt và các vệ sinh cá nhân như ăn uống, sinh hoạt đều được thực

hành tốt nên giảm thiểu các yếu tố nguy cơ.

Kết quả của chúng tôi thấp hơn NC của Nguyễn Văn Chương (2014) [7] tại

Bình Định và Đăk Lăk có thể là do chọn điểm và chọn mẫu. Nghiên cứu của

Nguyễn Văn Chương chọn điểm chủ đích và không chọn mẫu ngẫu nhiên, vì vậy

đối tượng được chọn có nguy cơ nhiễm cao hơn. Kết quả của chúng tôi thấp hơn

nghiên cứu của Trần Thị Hồng (2000) [17] và Trần Vinh Hiển (2008) [13] có thể

là do ngưỡng dương tính ở mức hiệu giá kháng thể khác nhau. Trần Thị Hồng và

Trần Vinh Hiển sử dụng mức hiệu giá kháng thể dương tính là 1/800, còn nghiên

cứu của chúng tôi sử dụng ngưỡng dương tính bằng trị số mật độ quang trung

bình chứng âm cộng với 3 độ lệch chuẩn tương đương mức hiệu giá kháng thể

1/1600 nên kết quả dương tính của chúng tôi thấp hơn. Việc sử dụng ngưỡng

dương tính bằng trung bình chứng âm cộng với ba độ lệch chuẩn của nhà sản

xuất bộ kít cho thấy cũng phù hợp với một số nghiên cứu của các tác giả ở

Malaysia, Hàn Quốc [65],[73].

90

Kết quả này cũng thấp hơn nghiên cứu của một số nước ở Nam Mỹ, Châu

Phi, Châu Á và nghiên cứu ở miền Bắc của Việt Nam có thể là do việc sử dụng

các bộ kít chẩn đoán khác nhau. Ngoài ra, có nhiều lý do liên quan đến tỷ lệ

huyết thanh dương tính với giun đũa chó, như đặc thù của từng nước, thời điểm

điều tra, số lượng vật nuôi và tập quán của người dân về nuôi và chăm sóc chó,

vì vậy cần có những nghiên cứu sâu hơn tiếp theo.

Nghiên cứu của chúng tôi đã sử dụng bộ kít của Công ty TNHH-SXTM hóa

chất Việt Sinh. Bộ kít chẩn đoán ấu trùng giun đũa chó có độ nhạy 100%, độ đặc

hiệu 97%, bộ kít này đã được nghiệm thu qua đề tài cấp Bộ và có chứng nhận

của Viện Kiểm nghiệm (Phụ lục 13) [12]. Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã sử

dụng bộ kít của Việt Sinh từ năm 2004 đến nay và đã đánh giá bộ kít cho kết quả

chẩn đoán phù hợp với lâm sàng và giúp cho Viện trong việc phát hiện bệnh

nhiễm ký sinh trùng trong thời gian qua.

Trên thực tế tại Việt Nam hiện nay có nhiều bộ kít thương mại trong nước

và nước ngoài (Mỹ, Nhật, Thái Lan…) được sử dụng để chẩn đoán bệnh ấu trùng

giun đũa chó, hầu hết các bộ kít đều phát hiện kháng thể IgG ở người kháng với

ấu trùng giun đũa chó. Tuy nhiên các bộ kít có thể khác nhau về ngưỡng dương

tính do sử dụng nguồn kháng nguyên Toxocara sp ở mỗi quốc gia khác nhau, các

đoạn kháng nguyên cắt ra có trọng lượng phân tử khác nhau phù hợp từng quốc

gia, từng vùng nên việc sản xuất ra các bộ kít có thể khác nhau, do đó kết quả có

thể khác nhau.

4.1.2.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo giới và nhóm tuổi

Kết quả bảng 3.4 cho thấy không có sự khác biệt tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun

đũa chó giữa nam và nữ tại các điểm nghiên cứu. Theo phân tích tổng hợp các

bài báo của Lee RM tại khu vực Bắc Mỹ tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở

nam cao hơn ở nữ [78] vì tác giả cho rằng trẻ nam thường xuyên tiếp xúc đất,

nghịch đất, bồng bế chó nhiều hơn trẻ gái. Tuy nhiên của chúng tôi phù hợp với

kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả khác như của Nguyễn Văn Chương [7] (tại

91

Bình Định: nam 29,1%, nữ 30,2%; tại Đăk Lăk: nam 20,2%, nữ 25,9%), của Đỗ

Trung Dũng [9] tại Hà Nội và Hưng Yên (nam 56,9%, nữ 59,6%), của Phan Anh

Tuấn tại Bộ môn Ký sinh trùng, trường Đại học Y Dược TP HCM [35] và

nghiên cứu ở Đài Loan [57], có thể là vì sự tiếp xúc môi trường và các sinh hoạt

của hai giới như nhau.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nhóm

tuổi trên 15 tuổi cao hơn nhóm từ 2-15 tuổi, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê

(p<0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương tại Đăk

Lăk [7]. Một số nghiên cứu khác trong nước như của Nguyễn Văn Chương tại

Bình Định [7], của Phan Anh Tuấn tại Bộ môn Ký sinh trùng Trường Đại học y

dược TP HCM [35], của Bùi Văn Tuấn [34] tại Bình Định và Gia Lai, của Trần

Thị Hồng tại xã An Phú, huyện Củ Chi, TPHCM [17] và nghiên cứu ở Đài Loan,

Argentina [40],[57] đều cho thấy không có sự khác biệt nhiễm ấu trùng GĐC so

với nhóm tuổi. Các nghiên cứu trên thế giới hầu hết tập trung vào nhóm tuổi trẻ

em và cho rằng nhóm tuổi trẻ em có nguy cơ nhiễm cao hơn nhóm tuổi người

lớn do thói quen tiếp xúc đất, ăn đất, bồng bế chó mèo [46],[77]. Tại Việt Nam,

nguy cơ nhiễm có thể xảy ra cả người lớn và trẻ em có thể là do mầm bệnh giun

đũa chó tồn tại trong môi trường ngoại cảnh nhiều, cộng với phần lớn tỷ lệ người

dân làm nghề nông sống tại khu vực nông thôn nên việc tiếp xúc đất ở họ là phổ

biến. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy người lớn nhiễm cao hơn trẻ em

có thể là do đặc điểm của nghiên cứu được thực hiện tại khu vực nông thôn,

người lớn hầu hết là nông dân (bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ người dân là nông dân

tham gia nghiên cứu chiếm 73%). Do đó, việc tiếp xúc đất thường xuyên, chăm

sóc chó nhiều hơn trẻ em nên nguy cơ nhiễm cao hơn.

4.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo nghề nghiệp và trình độ học vấn

Phân tích theo nghề nghiệp thì nhóm làm nông có tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun

đũa chó cao hơn các nhóm khác. Ở Việt Nam, đến 70% người dân làm nông nên

việc tiếp xúc với đất là thường xuyên, một số cán bộ công chức ngoài công việc

92

chính cũng tham gia làm vườn, trồng cây cảnh nên cũng có tiếp xúc với đất. Đất là

môi trường cho trứng giun đũa chó phát triển, nên khả năng lây nhiễm đối với hầu

hết những người có tiếp xúc với đất. Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với

nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương 2014, nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn 2012,

nghề làm nông có tỷ lệ nhiễm cao hơn các nghề khác [7],[34].

Về trình độ học vấn, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ nhiễm ấu

trùng giun đũa chó ở nhóm có trình độ học vấn từ tiểu học trở xuống là cao nhất

(chiếm 34,6%), tiếp theo là nhóm có trình độ ở bậc trung học cơ sở là 16,6%.

Nhóm trung học phổ thông trở lên có tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó thấp

nhất, chiếm 15,1%. So với các nghiên cứu trước đây của Trần Thị Hồng năm

2000, Bùi Văn Tuấn năm 2012, Nguyễn Văn Chương năm 2014, nhóm trình độ

học vấn càng cao thì nhiễm ấu trùng giun đũa chó càng thấp thì kết quả chúng tôi

cũng phù hợp[7],[17],[34].

4.1.2.4. Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số trường hợp nhiễm ấu trùng giun đũa

chó

Tăng bạch cầu ái toan là một đáp ứng trong cơ chế điều hòa miễn dịch xảy

ra ở nhiều quá trình bệnh lý, bao gồm cả dị ứng, ung thư và nhiễm trùng. Tăng

BCAT là một dấu hiệu về huyết học cần được tìm hiểu và chẩn đoán. Mặc dù rất

nhiều căn nguyên có thể gây tăng BCAT, sự xuất hiện của hiện tượng này ở một

người sống ở vùng nhiệt đới gợi ý nhiều đến nhiễm ký sinh trùng. Kết quả hình

3.4 cho thấy tỷ lệ tăng BCAT từ 6-10% chiếm 36,1%, tăng trên 10% chiếm

19,6%. Đối với các bệnh do nhiễm ký sinh trùng, thường bạch cầu toan tính tăng

cao, đặc biệt là nhiễm ký sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng. Ngoài việc chẩn đoán

các bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người như sán lá gan lớn, ấu

trùng giun đũa chó, giun đầu gai…thì bạch cầu ái toan tăng cao cũng là một tiêu

chí về mặt cận lâm sàng để cho các bác sĩ chẩn đoán hướng về các bệnh ký sinh

trùng [6],[76]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu trước

như nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương, tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng trên 6%

93

chiếm 70% trong số nhiễm ấu trùng giun đũa chó, nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn

tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng trên 8% chiếm 30,8%,

nghiên cứu của Trần Thị Hồng tại Củ Chi, tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng trên 8%

chiếm 52% trong số nhiễm ấu trùng giun đũa chó [7],[17],[34].

4.1.2.5. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người tại điểm nghiên cứu

Cho đến nay, việc xác định trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó vẫn còn

nhiều tranh cãi do lâm sàng và cận lâm sàng chưa đặc hiệu. Trong nghiên cứu

này, dựa vào Quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế số 4283/QĐ-BYT ngày

8/8/2016 về việc ban hành Tài liệu “Định nghĩa trường hợp bệnh truyền

nhiễm”[3] trong đó có định nghĩa trường hợp bệnh ATGĐCM, chúng tôi xác

định trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó bằng huyết thanh dương tính kết

hợp với ít nhất một triệu chứng lâm sàng có liên quan. Kết quả bảng 3.7 và bảng

3.8 cho thấy tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó chung tại hai xã là 9%, trong đó xã

Đức Phong là 9,2% và xã Đức Chánh là 8,9%. Nếu tính tỷ lệ bệnh ATGĐC trên

số trường hợp nhiễm ấu trùng giun đũa chó là 52,2%, trong đó xã Đức Phong là

51,3%, xã Đức Chánh là 53,2%. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của

Nguyễn Văn Chương tại Bình Định và Đăk Lăk, trong số 273 trường hợp nhiễm

ấu trùng giun đũa chó thì có 153 người có các triệu chứng lâm sàng liên quan

đến bệnh ấu trùng giun đũa chó chiếm tỷ lệ 56% [6].

Thống kê các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân nhiễm ATGĐC gồm 61

trường hợp tại xã Đức Phong và 59 trường hợp tại xã Đức Chánh cho thấy một

số triệu chứng chiếm tỷ lệ cao như ngứa, nổi mẩn; đau đầu; đau bụng; nhức mỏi

chân tay, tê bì, một số triệu chứng khác ít gặp chiếm 6,7% như tức ngực, đau

thượng vị…chưa thấy trường hợp bệnh nào có triệu chứng về mắt. Kết quả này

cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014), số trường hợp

bệnh ấu trùng giun đũa chó cũng có một số triệu chứng chiếm tỷ lệ cao như

ngứa, nổi mẩn (69%), đau đầu (63,9%), đau bụng (45,6%), nhức mỏi chân tay

(38,8%), mêt mỏi (35%), tê bì (31,6%), một số triệu chứng khác ít gặp chiếm tỷ

94

lệ 10,5% như tức ngực, đau thượng vị, sốt…[6]. Kết quả của chúng tôi cũng phù

hợp với một số nghiên cứu khác trong nước như của Lương Trường Sơn tại Viện

Sốt rét-KST-CT TP Hồ Chí Minh, Lê Thị Cẩm Ly tại Bệnh viện nhiệt đới TP Hồ

Chí Minh cho thấy các triệu chứng chiếm tỷ lệ cao như ngứa, nổi mề đay từ

83,1-94,2%, đau đầu từ 25,2-38,9%, rối loạn tiêu hóa từ 30-32%; của Lê Đình

Vĩnh Phúc (2015) tại Trung tâm Y khoa Medic, TP Hồ Chí Minh: ngứa chiếm

78,5%, mề đay 50,2%, nhức đầu 30,6%, ăn kém 13,9%, đau bụng 7,7%, rối loạn

tiêu hóa 9,1% [30],[31].

4.1.3. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người

4.1.3.1. Tỷ lệ nhiễm giun đũa trên chó và trứng giun đũa chó ở môi trường đất,

rau.

* Tỷ lệ nhiễm giun đũa trên chó

Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại các điểm nghiên cứu là 32,8%. Kết quả

nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với một số nghiên cứu khác như nghiên

cứu tại vùng Tây Nam Nigeria từ 2011-2012, xét nghiệm 474 mẫu phân chó

bằng kỹ thuật Kato-Katz cho thấy tỷ lệ nhiễm là 34,6% [39], nghiên cứu của

Yakhchali M (2014) điều tra ngẫu nhiên 150 mẫu phân chó ở thành phố

Piranshahr, Iran, tỷ lệ nhiễm ở chó là 31,3% [123], của Nguyễn Văn Chương tại

Bình Định từ 22,8-32,4%, tại Đăk Lăk từ 35,8-37% [7], của Bùi Ngọc Thúy

Linh điều tra xét nghiệm 834 con chó, tỷ lệ nhiễm là 37,84% [24] của Võ Thị

Hải Lê xét nghiệm 177 con có tại Thanh Hóa, tỷ lệ nhiễm giun đũa là 31,1% [22]

và của Bùi Văn Tuấn tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ chó bị nhiễm giun Toxocara

canis tại các điểm nghiên cứu từ 34,4-46,8% [34].

Phân tích tỷ lệ nhiễm theo nhóm tuổi của chó cho thấy tỷ lệ nhiễm cao nhất

ở chó dưới 3 tháng tuổi (51,4%) và tuổi chó càng lớn tỷ lệ nhiễm càng giảm. Kết

quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Akeredolu A.B (2014) tại miền

Tây Nam Nigeria xét nghiệm 474 con chó cho thấy tỷ lệ nhiễm chung là 34,6%,

trong đó chó từ 6 tháng tuổi trở xuống nhiễm 56,6%, chó từ 6 tháng tuổi đến 12

95

tháng tuổi nhiễm 20,6% và chó trên 12 tháng tuổi nhiễm 15,9% [39], nghiên cứu

của Yakhchali M (2014) điều tra ngẫu nhiên 150 mẫu phân chó ở thành phố

Piranshahr, Iran, tỷ lệ nhiễm ở chó dưới 12 tháng tuổi nhiễm 54,54%, từ 12

tháng tuổi trở lên nhiễm 22,44%.

Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu khác Việt Nam như của Nguyễn

Văn Chương (2014), xét nghiệm 420 con chó tại Bình Định và Đăk Lăk, tỷ lệ

chó dưới 3 tháng tuổi nhiễm giun đũa 46,1%, từ 3 tháng đến 6 tháng tuổi nhiễm

31,1% và chó trên 6 tháng tuổi nhiễm 29,6% [7]. Nghiên cứu của Võ Thị Hải Lê

tại Thanh Hóa, tỷ lệ chó nhiễm giun đũa cao nhất ở nhóm từ 2 đến 6 tháng tuổi

(41,17%), tiếp theo là nhóm từ 7 tháng đến 12 tháng tuổi (25%) và nhóm trên 12

tháng tuổi nhiễm thấp (7,5%) [22]. Nghiên cứu của Đỗ Hài (1972) điều tra 174

chó săn từ 1-5 tháng tuổi ở miền Bắc, tỷ lệ nhiễm là 47,1%, nhiễm cao ở chó con

từ chưa mở mắt đến 1 tháng tuổi, đến 4-5 tháng tuổi thì tỷ lệ nhiễm mới giảm

dần [28], của Bùi Ngọc Thúy Linh năm 2003 điều tra xét nghiệm phân 2204 con

chó và mổ khám 230 chó nuôi tại TP Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ nhiễm

Toxocara canis bằng xét nghiệm phân là 37,84%, bằng mổ khám là 32,17%,

Toxocara canis có tỷ lệ nhiễm cao trên chó dưới 3 tháng tuổi (60,05%) và có

khuynh hướng giảm dần theo tuổi [24]. Các nghiên cứu của Đỗ Hài và của Bùi

Ngọc Thúy Linh cho thấy chó mẹ nuôi con và chó con dưới 3 tháng tuổi có tỷ lệ

nhiễm cao. Trong nghiên cứu của chúng tôi có hạn chế là không phân được chó

mẹ nên không xác định được tỷ lệ nhiễm trên chó mẹ đang nuôi con.

* Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên đất

Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các hộ gia đình là 27,8%, tại sân

chơi công cộng là 25%, số trứng giun đũa chó trung bình trên 100 gam đất tại hộ

gia đình là 6,5 trứng; tại các sân chơi công cộng là 1,8 trứng. Điều này cho thấy

mầm bệnh giun đũa chó được phát tán ra ngoại cảnh rất cao, đặc biệt là ở môi

trường đất. Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu khác như nghiên cứu của

Santarem V.A (2008) tại vùng nông thôn của bang Sao Paolo, Brazil cho thấy tỷ

96

lệ nhiễm trứng giun đũa chó mèo trên đất là 29,03% [111], của Nguyễn Văn

Chương, tỷ lệ nhiễm giun đũa ở đất tại Bình Định từ 20-25%; tại Đăk Lăk từ

36,7-38,3%, số trứng giun đũa chó trên 100 gam đất tại các điểm điều tra là 5,6

trứng [7]; nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ nhiễm

trứng giun ở đất là 26,8%, mật độ trứng GĐC trên 100 gam đất là 3,8 trứng [34]

hay nghiên cứu của Trần Xuân Mai, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó mèo thay đổi

từ 5-26% tùy theo từng vùng sinh địa cảnh [28].

Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó tại các sân chơi công cộng chung tại 2 điểm

nghiên cứu là 25%. Trong nghiên cứu này chúng tôi những sân chơi công cộng

là những nơi có nhiều người tập trung như trụ sở của khu dân cư, chợ, trường

học và tất nhiên là chó cũng thường hoạt động ở những khu vực này. Một số

nghiên cứu nhiễm trứng giun đũa chó mèo ở đất nơi công cộng trên thế giới cho

thấy tỷ lệ nhiễm cũng khác nhau như nghiên cứu của Sudhakar N.R (2013) tại

Ấn Độ, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó mèo là 17,02% trong đó nhiễm ở đất tại

vùng công viên cao hơn các vùng khác [116] hay nghiên cứu của Fajutag AJM

(2015) tại Laguna, Philippine, tỷ lệ đất nhiễm trứng giun đũa chó mèo ở sân

trường học là 42%, sân vườn là 45% và nơi đất trống là 40% [56]. Tỷ lệ nhiễm ở

đất công cộng khác nhau có thể tùy thuộc vào vị trí, tỷ lệ nuôi chó của hộ gia

đình và theo mùa. Tuy nhiên với tỷ lệ đất nhiễm trứng giun đũa chó cao như vậy

chắc chắn là nguy cơ quan trọng trong lây truyền bệnh ATGĐC cho người.

* Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên rau xanh

Rau sống là thực phẩm quan trọng trong cuộc sống của người dân, tuy

nhiên rau cũng dễ bị nhiễm ký sinh trùng như các loại trứng giun truyền qua đất,

trứng giun đũa chó …Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhiễm trứng giun

đũa chó trên rau xanh là 6,8%. Các loại rau người dân thường ăn rau sống được

chọn xét nghiệm như rau cải, xà lách, rau má, rau diếp cá, rau thơm đều bị nhiễm

trứng giun đũa chó, trong đó nhiễm cao nhất ở rau xà lách (11,3%). So với

nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên rau tại

97

Bình Định từ 4-8%; tại Đăk Lăk từ 1-3%, trong đó nhiễm ở rau diếp cá là 6,3%;

rau xà lách là 5%; rau cải là 5%; rau má là 2,5% và rau răm là 1,3% [7], nghiên

cứu của Lê Thị Ngọc Kim (2007) trên một số rau sống bán tại các siêu thị ở địa

bàn TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên rau là 11,5% [20],

nghiên cứu của Haq S (2014) khảo sát trên những loại rau thường ăn sống tại các

chợ lớn và những vườn trồng rau ở Lahore, Pakistan với 10 loại rau, mỗi loại 50

mẫu, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên rau là 3,8% [66] thì cũng phù hợp với

nghiên cứu của chúng tôi. Các loại rau này người dân trồng trên cạn, chủ yếu là

ở vườn nên khả năng chó vào các vườn rau để phóng uế là điều không tránh

khỏi.

4.1.3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa

chó

* Kiến thức, thái độ của người dân về bệnh ATGĐC

Tỷ lệ có nghe nói về bệnh ấu trùng giun đũa chó trước can thiệp là 48,2%,

điều này chứng tỏ sự hiểu biết của người dân còn nhiều hạn chế. Kết quả điều tra

về kiến thức người dân về nguy cơ lây nhiễm, triệu chứng bệnh và phòng chống

bệnh cho thấy tỷ lệ người dân không có kiến thức là 54,5%; 53,3% và 55,5%

tương ứng. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương tại

Bình Định và Đăk Lăk, tỷ lệ người dân không có kiến thức chung về bệnh ấu

trùng giun đũa chó là trên 50%, trong đó tỷ lệ không biết về nguy cơ nhiễm tại

Bình Định từ 57-64,1%, tại Đăk Lăk từ 55,9-62,1%; không biết về triệu chứng

bệnh tại Bình Định từ 44,1-56,5%, tại Đăk Lăk từ 48,9-51,6%; không biết về

phòng chống tại Bình Định từ 59,1-64,7%, tại Đăk Lăk từ 53,7-56,5% [7]. Kết

quả của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng (2016) tại

Hà Nội và Hưng Yên, tỷ lệ người dân biết về nguyên nhân lây nhiễm bệnh

ATGĐC là 53,4% và 52,3%. Hiện nay chưa có một chương trình phòng chống

bệnh ấu trùng giun đũa chó nào tại Việt Nam, hiểu biết về bệnh ATGĐC qua

người thân là chủ yếu do họ đã từng đi khám và xét nghiệm giun đũa chó tại

98

Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi. Ti

vi và đài báo là phương tiện truyền thông phổ biến nhất, tuy nhiên các kênh

thông tin lại hạn chế trong việc cung cấp thông tin bệnh này đến người dân, mặt

khác đây là bệnh mới nổi trong vài năm gần đây nên khả năng hiểu biết của

người dân còn bị hạn chế.

Kết quả điều tra về thái độ của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó

cho thấy thái độ đúng về bệnh cũng rất thấp. Vì kiến thức về bệnh ấu trùng giun

đũa chó còn hạn chế (có nghe nói về bệnh ATGĐC chỉ đạt khoảng 50%) nên

người dân chưa biết nhiều về bệnh này. Mặt khác người dân nuôi chó chủ yếu để

giữ nhà và lấy thịt chứ không quan tâm đến nhiễm giun của chó cũng như các

bệnh giun sán truyền từ chó sang người. Điều này cho thấy cần thiết có những

biện pháp tuyên truyền cho người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó để người

dân có được kiến thức và thay đổi thái độ.

* Thực hành của người dân có liên quan đến bệnh ATGĐC

Kết quả điều tra 400 hộ tại hai điểm nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nuôi chó

trong cộng đồng rất cao (54,5%), đây là vùng nông thôn nên người dân thường

nuôi chó để giữ nhà, mỗi nhà có thể nuôi từ 1-2 con chó, nhưng có đến 83,5% là

nuôi chó thả rông và tỷ lệ tẩy giun cho chó định kỳ rất thấp (11,9%). Kết quả này

phù hợp với các nghiên cứu khác như của Nguyễn Văn Chương tại Bình Định và

Đăk Lăk, tỷ lệ nuôi chó thả rông chung là 70,7%, tỷ lệ tẩy giun cho chó định kỳ

là 7,8% [7]; nghiên cứu của Trần Thị Hồng tại Củ Chi, tỷ lệ nuôi chó thả rông là

97% và tẩy giun định kỳ cho chó chỉ có 6% [17] hoặc nghiên cứu của Bùi Văn

Tuấn tại Bình Định và Gia Lai tỷ lệ nuôi chó thả rông là 69,2% và tẩy giun định

kỳ cho chó 18,6% [34]. Như vậy với tỷ lệ nuôi chó thả rông cao và ít quan tâm

đến việc tẩy giun định kỳ cho chó sẽ tạo điều kiện cho mầm bệnh phát tán nhiều

ở ngoại cảnh đặc biệt là ở môi trường đất, dễ gây nhiễm vào người qua đường

tiêu hóa.

99

Thống kê thực hành về ăn uống và thói quen sinh hoạt có liên quan đến

nhiễm bệnh ATGĐC cho thấy tỷ lệ ăn rau sống thường xuyên là 37,3%; tiếp xúc

đất thường xuyên là 57,5%; bồng bế chó thường xuyên là 12%; không rửa tay

sau khi tiếp xúc đất là 28,8%; không rửa tay trước khi ăn là 21,8%. Kết quả này

phù hợp với nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn (2012) tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ

người dân có ăn rau sống thường xuyên là 30,3%, tiếp xúc đất và nghịch đất là

15%, bồng bế chó mèo là 11,9% [34].

* Một số yếu tố liên quan đến nhiễm bệnh ấu trùng giun đũa chó

Phân tích mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người và

nuôi chó cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của

chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014) tại Đăk Lăk

và nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng (2016) tại Hà Nội và Hưng Yên, cũng không

có sự khác biệt giữa nuôi chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó [7],[9]. Tuy nhiên

nhiều nghiên cứu khác như ở Bắc Mỹ, người nuôi chó có nguy cơ nhiễm cao hơn

người không nuôi chó [78], các nghiên cứu khác tại Việt Nam của Nguyễn Văn

Chương tại Bình Định, nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn tại Bình Định và Gia Lai

đều cho thấy có sự khác biệt giữa nuôi chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó.

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương cho thấy nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa

chó ở người nuôi chó cao gấp 1,9-2,0 lần ở người không nuôi chó (sự khác biệt

có ý nghĩa thống kê p < 0,05) [7], nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn cho thấy nguy

cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người nuôi chó cao gấp 1,9-2,8 lần ở người

không nuôi chó (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0,05) [34]. Sự khác biệt

này có thể là do tại các điểm nghiên cứu của chúng tôi, người dân có tập quán

nuôi chó thả rông, chó hàng xóm chạy sang nhà không nuôi chó nên mầm bệnh

có thể được phát tán rộng khắp tại các hộ gia đình.

Khi phân tích mối liên quan giữa ăn rau sống với nhiễm ấu trùng giun đũa

chó cho thấy không có mối liên quan (p > 0,05), kết quả này phù hợp với kết quả

của Nguyễn Văn Chương (2014) và Bùi Văn Tuấn (2012). Kết quả của chúng tôi

100

khác với kết quả của Phan Anh Tuấn nghiên cứu tại TP HCM [35], có mối liên

quan giữa ăn rau sống và nhiễm. Sự khác nhau có thể là do sử dụng biến số thu

thập, chúng tôi chỉ sử dụng biến số có hai giá trị thường xuyên và không thường

xuyên, còn nghiên cứu của Phan Anh Tuấn sử dụng biến số có ba giá trị (thỉnh

thoảng, không thường xuyên, thường xuyên) để phân rõ mức độ ăn rau sống nên

có thể có sự khác biệt.

Kết quả phân tích cho thấy có mối liên quan giữa tiếp xúc đất và nhiễm ấu

trùng giun đũa chó tại các điểm nghiên cứu. Nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa

chó ở người tiếp xúc đất thường xuyên cao gấp 2,8 lần người tiếp xúc đất không

thường xuyên hoặc không tiếp xúc đất (p<0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên

cứu của nhiều tác giả khác như nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương tại Bình

Định, người tiếp xúc đất thường xuyên có nguy cơ nhiễm gấp từ 2,2-2,6 lần

người không tiếp xúc đất hoặc tiếp xúc không thường xuyên (p < 0,05), tại Đăk

Lăk là gấp từ 2-2,2 lần (p < 0,05) [7], nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn, nguy cơ

nhiễm ở những người nghịch đất, tiếp xúc đất thường xuyên cao gấp từ 2,0-2,6

lần ở những người không thường xuyên [34]. Kết quả này cũng phù hợp với kết

quả của Phan Anh Tuấn tại TP HCM và kết quả ở Đài Loan [35],[57].

Có mối liên quan giữa người bồng bế chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó

tại điểm nghiên cứu. Nguy cơ nhiễm ở người bồng bế chó thường xuyên cao gấp

4,9 lần người bồng bế chó không thường xuyên hoặc không bồng bế chó

(p<0,01). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của của Nguyễn Văn Chương tại

Bình Định (gấp 3,4-3,5 lần), tại Đăk Lăk (gấp 2,6-2,9 lần) [7], của Bùi Văn

Tuấn, Phan Anh Tuấn và một số nghiên cứu ở Đài Loan, Indonesia, khi nuôi,

bồng bế chó mèo, nhất là chó con, khi chó bị nhiễm Toxocara canis, chó liếm

hậu môn, liếm lông hoặc liếm người, người sẽ có nguy cơ mắc bệnh

[34],[35],[48],[57].

Phân tích mối liên quan giữa vệ sinh cá nhân và nhiễm ấu trùng giun đũa

chó không thấy có mối liên quan rửa tay trước khi ăn nhưng có mối liên quan

101

giữa rửa tay sau khi tiếp xúc đất và nhiễm ấu trùng giun đũa chó. Nguy cơ nhiễm

ở người không rửa tay sau khi tiếp xúc đất cao gấp 2,7 lần người rửa tay sau khi

tiếp xúc đất (p<0,01). Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hương (2014) tại xã Yên

Lạc, huyện Yên Định, Thanh Hóa cho thấy có mối liên quan giữa rửa tay trước

khi ăn với nhiễm ấu trùng giun đũa chó. Nguy cơ nhiễm ở người không rửa tay

trước khi ăn cao gấp 4,4 lần người có rửa tay [19]. Nghiên cứu của Kyei G

(2015) tại vùng miền Trung của Ghana, xét nghiệm huyết thanh 566 trẻ em, đồng

thời thiết kế bảng câu hỏi để tìm mối liên quan, kết quả cho thấy có mối liên

quan giữa tiếp xúc đất, rửa tay trước khi ăn với nhiễm ấu trùng giun đũa chó

[77]. Điều này cho thấy khả năng mầm bệnh trứng giun đũa chó được phát tán ở

ngoại cảnh rất là cao đồng thời cho thấy việc rửa tay sau tiếp xúc đất và trước

khi ăn rất quan trọng giảm nguy cơ nhiễm ATGĐC.

4.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống

4.2.1. Hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở

người

4.2.1.1. Thay đổi tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người

Sau 1 năm can thiệp, tiến hành xét nghiệm lại tại 2 xã. Kết quả bảng 3.25

cho thấy tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại xã can thiệp (xã Đức Phong) giảm

từ 17,9% xuống còn 9,9% (p < 0,01) và tại xã đối chứng (xã Đức Chánh) giảm

từ 16,7% xuống còn 14,7% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp phòng chống đạt

32,7%. So sánh với kết quả can thiệp trong phòng chống sán lá gan lớn tại Bình

Định và Quảng Ngãi của Trần Minh Quý [100] tại điểm can thiệp toàn diện

giảm từ 8,8% xuống còn 4,2% (p<0,05); tại điểm can thiệp một phần giảm từ

8,4% xuống còn 5,4% (p>0,05); tại điểm đối chứng tăng từ 6,1% lên 6,4% thì

kết quả của nghiên cứu này cũng phù hợp. Đánh giá về bệnh ATGĐC cho thấy

tỷ lệ bệnh ATGĐC tại xã can thiệp giảm từ 9,2% xuống còn 5,3% (p < 0,01) và

tại xã đối chứng giảm từ 8,9% xuống còn 8,2% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp

phòng chống đạt 34,5% (bảng 3.26). Như vậy so với ước đoán ban đầu dự kiến

102

trong nghiên cứu sẽ giảm khoảng 30% (giảm từ 16% xuống còn 11%) thì kết

quả trong nghiên cứu này cho thấy hiệu quả can thiệp làm giảm tỷ lệ nhiễm

32,7% và giảm tỷ lệ bệnh 34,5% là đạt được hiệu quả trong nghiên cứu can

thiệp.

So sánh tỷ lệ nhiễm ATGĐC ở người trước và sau can thiệp bằng kỹ thuật

ELISA phát hiện kháng thể kháng IgG ở người. Do kháng thể kháng IgG có thể

tồn tại trong cơ thể người từ 6 tháng đến 1 năm, thậm chí có trường hợp kéo dài

đến 2 năm, mặc dù một số tác giả cho rằng khi ấu trùng giun đũa chó lưu hành

trong máu nếu không ký sinh ở tổ chức thì sẽ chết và bị đào thải, kháng thể sẽ

giảm dần từ 6 tháng đến 1 năm (trong trường hợp không tái nhiễm) và những

trường hợp ấu trùng giun đũa chó ký sinh ở tổ chức (có gây triệu chứng lâm

sàng), khi điều trị bằng albendazol liều 15 mg/kg cân nặng trong 21 ngày, tỷ lệ

kháng thể giảm sau 6 tháng là 78,6% và 88% [6],[31]. Ở đây nghiên cứu can

thiệp cộng đồng kéo dài đến 1 năm nên kháng thể sẽ giảm nhiều hơn, tuy nhiên

cũng có những trường hợp huyết thanh dương tính do kháng thể tồn tại lâu, vì

vậy cũng không thể phân biệt chính xác là nhiễm mới hay tái nhiễm, đây cũng là

hạn chế của nghiên cứu.

4.2.1.2. Hiệu quả điều trị bằng albendazol ở các trường hợp bệnh ấu trùng giun

đũa chó

Trong đợt điều tra ban đầu ở 2 xã, có 120 ca bệnh ATGĐC (huyết thanh

dương tính kết hợp với triệu chứng lâm sàng). Các bệnh nhân này được điều trị

bằng albendazole 400mg với liều 15mg/kg cân nặng/ngày và dùng trong 21

ngày. Vì nghiên cứu này được thực hiện tại thực địa, nên việc theo dõi liệu trình

điều trị và tác dụng ngoại ý được thực hiện tại Trạm y tế xã. Kết quả điều trị 120

ca bệnh được đánh giá sau 1 năm cho thấy tỷ lệ khỏi đạt 90,8%. Theo dõi tác

dụng ngoại ý của thuốc cho thấy rất thấp, một số triệu chứng do tác dụng ngoại ý

của thuốc như buồn nôn; chán ăn, đau đầu. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu

của Nguyễn Văn Chương (2014) tại Bình Định và Đăk Lăk, tỷ lệ khỏi bệnh

103

ATGĐC với liều albendazol 15 mg/kg cân nặng/ngày trong 21 ngày đạt 86,3%,

tác dụng ngoại ý của thuốc như buồn nôn 3,1-3,5%; chán ăn 2,7-5,3%; đau đầu

4,4-5,3%; dị ứng da 2,7-3,8%; tức ngực 0,9-3,1%; đau bụng 2,7-3,1% [6]. Tác

dụng ngoại ý của thuốc thường diễn ra sau 2 đến 3 ngày đầu điều trị, sau đó thì

giảm dần, thông thường sau một tuần sẽ hết các tác dụng ngoại ý. Điều này cho

thấy, sử dụng albendazole liệu trình 21 ngày có hiệu lực rất tốt trong điều trị các

ca bệnh ATGĐC.

Thay đổi triệu chứng lâm sàng sau điều trị cho thấy các triệu chứng lâm

sàng đã giảm rõ rệt từ 74,6-90,5%. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014),

sau điều trị 6 tháng bằng albendazol, các triệu chứng lâm sàng giảm từ 92,5-

100% [6]. Nghiên cứu của Lương Trường Sơn (2013) tại TP Hồ Chí Minh cũng

với liều điều trị 21 ngày với albendazol, các triệu chứng lâm sàng giảm từ 73,0-

100% [31].

Tỷ lệ huyết thanh dương tính sau điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi

giảm 86,7%, tỷ lệ BCAT từ 6% trở lên sau điều trị đã giảm 83,8%. Kết quả này

cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014) (sau 6 tháng điều

trị bệnh ATGĐC, tỷ lệ huyết thanh dương tính giảm 78,6%, tỷ lệ BCAT từ 6%

trở lên đã giảm từ 87,8%) [6] và nghiên cứu của Lương Trường Sơn (2013), (tỷ

lệ huyết thanh dương tính sau điều trị bằng albendazol cũng giảm 88% và tỷ lệ

BCAT từ 6% trở lên cũng giảm 100%) [31]. Như vậy cho thấy việc sử dụng

albendazol liều 15 mg/kg cân nặng/ngày trong 21 ngày điều trị bệnh ATGĐC

mang hiệu quả cao đồng thời tác dụng ngoại ý rất thấp không cần phải can thiệp.

4.2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh

4.2.2.1. Thay đổi tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó

Thực hiện tẩy giun cho chó vào 2 đợt, mỗi đợt cách nhau 6 tháng. Cán bộ

y tế xã, thôn, cộng tác viên kết hợp với thú y xã cấp phát thuốc tẩy giun cho chó

tại từng hộ gia đình nuôi chó. Tỷ lệ tẩy giun cho chó tại các hộ gia đình chiếm tỷ

lệ rất cao (96%). Ngoài ra còn tuyên truyền cho các hộ gia đình đến tại Trạm y

104

tế để nhận thuốc tẩy giun cho chó trong trường hợp có nuôi chó mới. Sau can

thiệp, tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó đã giảm rõ rệt (80,9%), hiệu quả can thiệp

phòng chống cao (64,4%). So sánh hiệu quả can thiệp tẩy giun cho chó theo

nghiên cứu của Bùi Ngọc Thúy Linh, sử dụng ivermectin tiêm cho hiệu quả

100% [24] thì kết quả của chúng tôi thấp hơn, điều này có thể là do việc xét

nghiệm lại phân chó được tiến hành sau 6 tháng nên cũng khó xác định do hiệu

quả của thuốc hay do tái nhiễm. Mặt khác, những thuốc tiêm được dùng tẩy giun

cho chó có thể có hiệu quả cao hơn thuốc uống, nhưng sử dụng gặp nhiều bất

lợi, người tiêm phải là cán bộ thú y và phải nhốt chó và bịt mõm của chó. Trong

nghiên cứu này chúng tôi sử dụng thuốc viên pyrantel pamoate 125 mg (Sanpet)

theo đường uống để các gia đình dễ dàng sử dụng khi nghiền nhỏ pha trộn với

thức ăn. Với chỉ số hiệu quả đạt 80,9% cho thấy hiệu quả tẩy giun cho chó cao.

4.2.2.2. Thay đổi tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở ngoại cảnh

Sau can thiệp, xét nghiệm mẫu đất tại các hộ gia đình cho thấy tỷ lệ mẫu

đất nhiễm trứng giun đũa chó tại xã can thiệp giảm đáng kể (p < 0,01), tại xã đối

chứng tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó giảm thấp (p > 0,05). Đối với các mẫu đất

nơi công cộng, tỷ lệ nhiễm có giảm nhưng không có sự khác biệt (p>0,05). Kết

quả xét nghiệm rau sau can thiệp với 200 mẫu rau các loại tại xã can thiệp cho

thấy tỷ lệ mẫu rau nhiễm trứng giun đũa chó cũng giảm đáng kể (p < 0,05), tại

xã đối chứng có giảm nhưng không có sự khác biệt (p > 0,05). Điều này cho

thấy giải quyết mầm bệnh bằng tẩy giun cho chó và truyền thông thay đổi thực

hành bằng vệ sinh môi trường, xử lý phân chó đạt hiệu quả cao, giảm được mầm

bệnh ra ngoại cảnh. Đối với sự thay đổi tỷ lệ nhiễm ở đất nơi công cộng của xã

can thiệp không có sự khác biệt mặc dù chỉ số hiệu quả cao (66,6%) là do cỡ

mẫu xét nghiệm đất nơi công cộng nhỏ (10 mẫu cho 1 xã) nên tính toán thống kê

có thể bị sai lệch.

105

4.2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục nâng cao kiến thức thái độ, thực

hành của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó

4.2.3.1. Thay đổi kiến thức về bệnh ấu trùng giun đũa chó

Kết quả bảng 3.33; bảng 3.34; bảng 3.35 cho thấy sau can thiệp, có sự

thay đổi rõ rệt kiến thức về bệnh ATGĐC trong cộng đồng tại xã can thiệp. Kiến

thức về nguy cơ nhiễm, triệu chứng bệnh và cách phòng chống đều được tăng

lên, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01), tại xã đối chứng có tăng kiến

thức ít và không có sự khác biệt (p>0,05). Các nghiên cứu phòng chống sán lá

gan lớn tại cộng đồng như của Nguyễn Văn Chương sau 1 năm can thiệp bằng

truyền thông và điều trị, kiến thức về nguy cơ lây nhiễm tăng từ 57% lên 88,5%,

kiến thức về triệu chứng bệnh tăng từ 44,3% lên 83,5% [5]; nghiên cứu của

Nguyễn Khắc Lực (2008) tại Quảng Nam cho thấy sau can thiệp hiểu đúng về

đường lây truyền tăng từ 45,7% lên 86,2%, hiểu đúng về tác hại tăng từ 62,4 lên

91,2%, hiểu đúng về phòng chống tăng từ 38,6% lên 93,4% [25] hay nghiên cứu

của Trần Minh Quý (2016) tại Bình Định cũng cho thấy tăng kiến thức về nguy

cơ nhiễm sán lá gan lớn từ 62,7% lên 85,3%, kiến thức về triệu chứng bệnh tăng

từ 43,8% lên 88,1%, kiến thức về phòng chống tăng từ 52,2% lên 84,1% [100].

Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với các kết quả phòng chống sán lá gan lớn

của các nghiên cứu trên nhưng hiệu quả can thiệp trong nghiên cứu của chúng tôi

có thấp hơn, điều này có thể là do bệnh sán lá gan lớn đã được nghiên cứu nhiều

và có thông tin đại chúng nên người dân tiếp cận tốt hơn. Đối với bệnh ATGĐC

là bệnh mới nổi, chưa có can thiệp phòng chống nào trước đây nên kiến thức

người dân còn hạn chế. Mặc dù vậy, nhưng hiệu quả can thiệp về kiến thức đạt

được từ 23,4-24,7% cho thấy kết quả truyền thông giáo dục trong phòng chống

bệnh ATGĐC cũng đạt được hiệu quả cao.

4.2.3.2. Thay đổi thái độ của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó

Kết quả bảng 3.36 cho thấy tại xã đối chứng, sau can thiệp thái độ đúng

về phòng chống bệnh ATGĐC thay đổi tăng lên nhưng không có sự khác biệt so

106

với trước can thiệp (p > 0,05). Tại xã can thiệp, sự thay đổi tăng lên có sự khác

biệt (p<0,05). Kết quả sau can thiệp cho thấy thái độ đúng của người dân cho

rằng cần thiết không nuôi chó thả rông tăng từ 36% lên 56,5%, cần thiết xử lý

phân chó tăng từ 35% lên 65,5%, cần thiết tẩy giun cho chó tăng từ 45% lên

60,5%. Hiệu quả can thiệp đạt 38,1%; 60,4% và 20,8% tương ứng. Kiến thức

người dân về bệnh ATGĐC tăng lên rõ rệt nên thái độ cũng chuyển biến theo

mặt tích cực. Kết quả này cũng phù hợp theo nghiên cứu phòng chống sán lá gan

lớn của Trần Minh Quý [100].

4.2.3.3. Thay đổi về thực hành của người dân liên quan đến bệnh ATGĐC

* Thực hành của người dân về nuôi chó

Sau can thiệp, tỷ lệ nuôi chó thả rông tại các điểm nghiên cứu đều có giảm

nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tại Việt Nam, hiện

nay chưa có luật cấm nuôi chó thả rông, chỉ có trong chương trình phòng chống

bệnh dại tại một số thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có áp

dụng luật tiêm vác xin phòng dại đồng thời cấm chó ra đường, nếu có dắt chó đi

dạo thì phải bịt mõm chó. Tại các tỉnh trong khu vực miền Trung chưa có luật

này, mặt khác đối với điểm nghiên cứu là vùng nông thôn, tỷ lệ nuôi chó cao để

chủ yếu là giữ nhà nên hầu hết là thả rông. Qua giám sát việc nuôi chó cho thấy

rất khó khăn trong việc cấm nuôi chó thả rông, hầu hết các hộ gia đình nuôi chó

cho rằng đây là tập quán đồng thời khi nhốt chó sẽ tạo cho chó dữ hơn, dễ cắn

người gây ảnh hưởng đến sức khỏe về thương tích cũng như gây nhiễm bệnh dại.

Như vậy truyền thông giáo dục đến người dân về cấm nuôi chó thả rông chưa

được hiệu quả nên thực hành của người dân có sự thay đổi không khác biệt.

Một thành công sau can thiệp là thực hành tẩy giun cho chó tăng lên. Tại xã

can thiệp, tỷ lệ tự mua thuốc tẩy giun cho chó tăng từ 13,9% lên 50,9% (p <

0,01), tại xã đối chứng, tỷ lệ tự mua thuốc tẩy giun cho chó tăng từ 9,7% lên

15,6% (p > 0,05), hiệu quả can thiệp đạt 205,4%. Tại xã can thiệp, đã tiến hành

tẩy giun cho chó 2 đợt, một đợt vào cuối tháng 9 năm 2016 và một đợt vào cuối

107

tháng 3 năm 2017, đánh giá tỷ lệ tẩy giun cho chó trong khoảng từ tháng 7 đến

tháng 10 năm 2017 (thời điểm phỏng vấn đánh giá sau can thiệp) cho thấy tỷ lệ

tự mua thuốc tẩy giun đã tăng lên rõ rệt, điều này cho thấy người dân đã nhận

thức được chó chính là nguồn bệnh gây ra bệnh ATGĐC cho con người. Tuy

nhiên vẫn còn 49,1% số hộ nuôi chó nhưng không tẩy giun cho chó mặc dù

khoảng cách tẩy giun cho chó đợt cuối của hoạt động can thiệp đến lúc điều tra

là khoảng 7 tháng, qua phân tích chúng tôi thấy rằng hầu hết những người không

thực hiện tẩy giun cho chó là do chủ quan đợi chương trình cấp thuốc tẩy giun

giống như 2 đợt can thiệp trước đó, một số hộ nuôi chó mới nên chưa được tiếp

cận với nguồn thuốc tẩy giun, do đó tỷ lệ tẩy giun cho chó chưa được cao. Giải

quyết được nguồn bệnh là rất quan trọng trong phòng chống bệnh ATGĐC, vì

vậy cần thiết phải tuyên truyền thêm nữa cho người dân, đặc biệt là tẩy giun cho

chó định kỳ.

* Thực hành của người dân về ăn uống, sinh hoạt liên quan đến bệnh ATGĐC

Thay đổi về ăn rau sống và thực hành rửa rau tại xã can thiệp và xã đối

chứng sau 1 năm có sự thay đổi nhưng không đáng kể. Sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê (p > 0,05). So với nghiên cứu can thiệp phòng chống sán lá gan

lớn của Trần Minh Quý, có sự khác biệt về thực hành rửa rau trước và sau can

thiệp (p < 0,01) [100], điều này có thể là do trong phòng chống sán lá gan lớn,

nguy cơ nhiễm chính là ăn thực vật thủy sinh chưa nấu chín nên truyền thông chỉ

tập trung mạnh vào vấn đề rửa rau đúng cách. Đối với nghiên cứu của chúng tôi,

người dân tại các điểm nghiên cứu, món ăn rau sống là quen thuộc trong các bữa

ăn nên truyền thông trong phòng chống bệnh ATGĐC tập trung vào thực hành

rửa rau. Tại xã can thiệp và xã đối chứng đều không có sự thay đổi lớn về tỷ lệ

rửa rau đúng cách sau can thiệp là do người dân đã ý thức được rửa rau sạch là

vấn đề quan trọng trong nhiễm giun sán chung và quan trọng nhất là loại bỏ bớt

độc hại do thuốc trừ sâu (hiện nay người dân thường sử dụng thuốc trừ sâu bón

108

rau) nên tỷ lệ rửa rau đúng cách tại 2 điểm nghiên cứu trước can thiệp rất cao

(khoảng 90%) nên sau can thiệp có tăng nhưng không có sự khác biệt.

Về thực hành rửa tay trước khi ăn cho thấy tại xã đối chứng, sau can thiệp

thực hành rửa tay trước khi ăn thay đổi tăng lên nhưng không có sự khác biệt so

với trước can thiệp (p > 0,05), hiệu quả can thiệp thấp, chỉ đạt 6%, điều này là do

tỷ lệ rửa tay trước khi ăn trước can thiệp tại xã can thiệp rất cao (80%) nên sau

can thiệp tăng lên có sự khác biệt nhưng hiệu quả can thiệp thấp.

Trong điều tra một số yếu tố liên quan cho thấy tiếp xúc đất thường xuyên

có nguy cơ nhiễm bệnh ATGĐC cao hơn không thường xuyên và không tiếp

xúc, tuy nhiên việc tiếp xúc đất của người dân tại xã can thiệp và xã đối chứng

sau 1 năm không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) vì đây là vùng nông

thôn, người dân chủ yếu làm nghề nông là chính nên việc tiếp xúc đất là thường

xuyên. Vì vậy trong truyền thông phòng chống có đưa ra nguy cơ nhiễm bệnh do

tiếp xúc đất nhưng biện pháp phòng chống chính là rửa tay sau khi tiếp xúc đất.

Sau 1 năm can thiệp cho thấy tại xã đối chứng, thực hành rửa tay sau khi tiếp xúc

đất thay đổi tăng lên nhưng không có sự khác biệt so với trước can thiệp (p >

0,05), tại xã can thiệp, điều tra trước can thiệp có 70,5% số người rửa tay sau khi

tiếp xúc đất, sau can thiệp rửa tay sau khi tiếp xúc đất là 85,5% (p < 0,01), hiệu

quả can thiệp đạt 14,4%, điều này cho thấy truyền thông đạt hiệu quả cao.

Mặc dù tỷ lệ nuôi chó thả rông không có sự khác biệt nhưng thực hành xử

lý phân chó tại các hộ gia đình có sự thay đổi. Tại xã can thiệp, tỷ lệ xử lý phân

chó tăng từ 49% lên 64,5% (p < 0,01), tại xã đối chứng, tỷ lệ xử lý phân chó tăng

thấp từ 42% lên 44,5% (p > 0,05), hiệu quả can thiệp đạt 25,6%. Như vậy người

dân cũng đã có ý thức trong việc giảm mầm bệnh của giun đũa chó ở ngoài môi

trường.

Thực hành bồng bế chó sau can thiệp giảm rõ rệt (p<0,01), hiệu quả can

thiệp cao (61,9%). Đây là yếu tố nguy cơ rất quan trọng trong lây nhiễm bệnh

109

ATGĐC, hiệu quả can thiệp đạt cao một lần nữa cho thấy công tác truyền thông

giáo dục đạt kết quả tốt.

Như vậy biện pháp truyền thông giáo dục đóng vai trò rất quan trọng trong

phòng chống bệnh ATGĐC, các yếu tố liên quan đến nhiễm bệnh ATGĐC được

mô tả trong phần đặc điểm dịch tễ như tiếp xúc đất, không rửa tay sau tiếp xúc

đất, bồng bế chó thì sau khi can thiệp đều có sự thay đổi theo hướng tích cực, sự

khác biệt đều có ý nghĩa thống kê thông qua hiệu quả can thiệp cao.

4.2.3.4. Hiệu quả của việc huy động sự tham gia phối hợp của các ban ngành

liên quan trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó

Trước khi áp dụng các biệp pháp can thiệp, kiến thức và kỹ năng phòng

chống bệnh ATGĐC cũng còn khá xa lạ đối với cán bộ y tế xã và thôn ở địa

phương. Tuy nhiên, họ cũng đã có một số kiến thức chung về các bệnh tật truyền

nhiễm ở địa phương như lao phổi, các bệnh về đường tiêu hóa và đặc biệt họ vừa

thực hiện xong dự án phòng chống nhiễm cúm gia cầm (H5N1), nên ít nhiều

cũng có những kỹ năng TTGD. Sau khi được tập huấn và quan sát kỹ năng thực

hành TTGD về phòng chống bệnh ATGĐC, cũng như các nhận xét trong các đợt

giám sát và đánh giá tại các buổi giao ban hàng quý, kiến thức và kỹ năng của

cán bộ y tế xã, thôn và cộng tác viên được nâng lên rõ rệt.

Sự phối hợp của các ban ngành và tổ chức là một trong những yếu tố góp

phần làm nên sự thành công của bất cứ một mô hình can thiệp y tế nào. Các

nghiên cứu trước đây của Nguyễn Văn Chương (2011); Trần Minh Quý (2016)

về mô hình phòng chống sán lá gan lớn tại cộng đồng cho thấy sự phối hợp giữa

ngành y tế với chính quyền địa phương[5],[100]. Kết quả can thiệp trong nghiên

cứu này theo bảng 2.1 cho thấy có sự phối hợp rất tốt giữa các ban ngành liên

quan như y tế, thú y, giáo dục và chính quyền, ngoài ra có sự tham gia của các

đoàn thể như hội phụ nữ, hội nông dân … trong các hoạt động phòng chống

bệnh ATGĐC.

110

Nghiên cứu của chúng tôi cũng sử dụng sự phối hợp giữa chính quyền,

ngành y tế, giáo dục, thú y và các đoàn thể trong phòng chống ATGĐC. Tại Đức

Phong là xã can thiệp, sự phối hợp giữa ngành y tế, giáo dục, thú y, các tổ chức

đoàn thể dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương để thể hiện rất tốt và đã

góp phần giúp các hoạt động của các biện pháp được thực hiện một cách hiệu

quả. Chính quyền địa phương với vai trò là “người giữ cổng”[120] đã xem việc

chăm sóc sức khỏe nhân dân là nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Ngành y tế đã phối

hợp giữa các tuyến từ trên xuống dưới một cách hiệu quả cũng tạo điều kiện cho

các biện pháp được thực hiện với những kết quả tốt. Sự phối hợp hoạt động cũng

còn thể hiện giữa ngành y tế với các ban ngành khác vì thứ nhất nó được ủng hộ

từ chính quyền địa phương, và những hoạt động phối hợp với các ban ngành

khác cũng đã có từ lâu, nên đối với các biện pháp phòng chống bệnh ATGĐC,

đây cũng là một điều thuận lợi. Sự tham gia của ngành giáo dục cũng là nhân tố

góp phần vào việc thực hiện hiệu quả của can thiệp. Học sinh đã có ý thức vệ

sinh ăn uống, rửa tay sau khi tiếp xúc đất, trước khi ăn, không bồng bế chó mèo,

nhà trường cũng đã đặt công tác phòng chống ATGĐC vào các hoạt động tại

trường học và hộ gia đình. Ngành thú y cũng đã phối hợp với y tế trong hướng

dẫn và giám sát tẩy giun cho chó. Các đoàn thể cũng có ý thức hơn về bệnh

ATGĐC, tuyên truyền phòng chống bệnh ATGĐC trực tiếp qua các đợt họp dân

lồng ghép với các chương trình khác và cũng đã tham gia tích cực vào các hoạt

động giữ gìn vệ sinh môi trường.

Việc giám sát các hoạt động phòng chống cũng rất quan trọng. Nghiên cứu

sinh và lãnh đạo của Trung tâm y tế dự phòng huyện Mộ Đức đã tiến hành giám

sát tại điểm can thiệp mỗi ba tháng một lần. Giám sát các hoạt động truyền thông

giáo dục của y tế và các ban ngành tham gia đồng thời giám sát tại các hộ gia

đình để rút ra những nhận xét và kinh nghiệm. Mỗi đợt giám sát đều có họp các

cán bộ ở địa phương là những người tham gia trực tiếp trong truyền thông giáo

dục phòng chống bệnh ATGĐC như chính quyền, y tế, giáo dục, thú y, các tổ

111

chức đoàn thể và trưởng các khu dân cư. Qua những đợt giám sát, đã khuyến

khích, hỗ trợ kỹ thuật và tạo động lực cho các cán bộ tham gia thực hiện tốt hơn.

Như vậy sau 1 năm áp dụng các biện pháp can thiệp, tỷ lệ nhiễm bệnh

ATGĐC đã giảm rõ rệt. Mặc dù đây là nghiên cứu phòng chống bệnh ATGĐC

đầu tiên tại Việt Nam, nghiên cứu dựa vào các mô hình phòng chống bệnh ký

sinh trùng của Molyneux [88], tham khảo thêm các mô hình phòng chống sán lá

gan lớn có hiệu quả của Trần Minh Quý, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Khắc

Lực để chọn lựa các biện pháp can thiệp, kết quả đã làm giảm được tỷ lệ nhiễm

bệnh ATGĐC trong cộng đồng, giảm được tỷ lệ nhiễm ở nguồn bệnh, môi

trường đồng thời nâng cao kiến thức thái độ, thực hành của người dân trong

phòng chống bệnh ATGĐC. Nghiên cứu này đóng góp thêm dẫn liệu khoa học

cũng như đề xuất các biện pháp phòng chống bệnh ATGĐC trong tương lai.

Bệnh ấu trùng giun đũa chó là bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang

người mới nổi lên với số trường hợp nhiễm ngày càng được phát hiện nhiều. Tuy

nhiên, các cơ sở y tế hiện nay chỉ quan tâm đến khám, điều trị chứ chưa đi sâu

vào nghiên cứu dịch tễ của bệnh cũng như nghiên cứu các biện pháp phòng

chống. Mặt khác, người dân cũng chưa có kiến thức về bệnh này nhiều nên cần

có những can thiệp phòng chống cộng đồng trong tương lai. Can thiệp phòng

chống được xem là có hiệu quả khi nó đạt được các mục tiêu và mục đích được

mong đợi bằng việc sử dụng các nguồn lực khá hiệu quả. Hiệu quả của các biện

pháp phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó trong nghiên cứu này đã được

chứng minh qua các kết quả đánh giá sau can thiệp đã làm giảm từ 17,9% xuống

còn 9,9% (giảm 44,7%, p<0,01); nhận thức về phòng chống bệnh ấu trùng giun

đũa chó của người dân cao hơn rất nhiều so với trước khi can thiệp; năng lực

cán bộ tại địa phương được nâng cao, nhất là trong các hoạt động truyền thông

giáo dục phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó, điều này cho thấy việc áp

dụng các biện pháp can thiệp đã được sự chấp nhận của cộng đồng rất tốt.

Việc đạt được mức độ tham gia của cộng đồng cao trong các biện pháp

112

phòng chống bệnh này sẽ chỉ có thể đạt được khi các thành viên cộng đồng đều

nhận thức được căn bệnh là một mối đe dọa y tế công cộng và biện pháp can

thiệp được coi là có hiệu quả. Các giải pháp truyền thông, giáo dục sức khỏe là

những nội dung rất được ưu tiên trong các nỗ lực bảo vệ, nâng cao sức khỏe của

người dân nói chung. Đây là nội dung đầu tiên trong công tác chăm sóc sức khỏe

ban đầu được công bố tại hội nghị Alma – Ata (1978), cũng là nội dung đầu tiên

trong chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Việt Nam. Truyền thông, giáo dục sức khỏe

ít tốn kém về chi phí và dễ dàng thực hiện, đã cho thấy được hiệu quả nâng cao

kiến thức, thái độ, thực hành của người dân trong nghiên cứu này. Đồng thời,

người dân ý thức được nguồn bệnh quan trọng trong lây nhiễm là chó, từ đó có

những thực hành phòng bệnh tốt hơn trong ăn uống, sinh hoạt cũng như tẩy giun

cho chó định kỳ. Do đó, hiệu quả can thiệp phòng chống bệnh ATGĐC đạt được

thành công trong nghiên cứu này có thể duy trì thành quả trong tương lai.

4.3. Đánh giá những ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu

4.3.1. Ưu điểm

- Phương pháp nghiên cứu đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp

kết quả nghiên cứu chính xác và có ý nghĩa. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử

dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích để xác định tỷ lệ nhiễm

ATGĐC ở người, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở chó, đất, rau và mô tả các

yếu tố liên quan đến nhiễm bệnh. Thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng có

đối chứng được lựa chọn tại 2 xã có những đặc điểm tương đồng về địa lý, dân

số, phong tục tập quán và tỷ lệ nhiễm bệnh cũng như các yếu tố liên quan. Lựa

chọn ngẫu nhiên có đối chứng được sử dụng trong nghiên cứu này nhằm làm

giảm các sai số và nhiễu trong việc đánh giá hiệu quả của các giải pháp can

thiệp. Việc chọn 2 xã cách xa nhau (10 km) về mặt địa lý cũng đảm bảo tránh

được các sai số ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu.

113

- Cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả tỷ lệ nhiễm và can thiệp đủ lớn để xác định

tỷ lệ hiện mắc, mô tả yếu tố liên quan và đánh giá hiệu quả can thiệp. Do vậy,

kết quả của nghiên cứu này mang tính tin cậy khá cao.

- Thiết kế bộ câu hỏi có cấu trúc, các biểu mẫu thu thập thông tin, các

hướng dẫn chi tiết về cách sử dụng và thu thập thông tin cho các biểu mẫu một

cách rõ ràng, dễ hiểu, bộ câu hỏi được thử nghiệm và chỉnh sửa trước khi chính

thức thu thập số liệu.

- Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được thực trạng nhiễm ATGĐC tại hai điểm

nghiên cứu của khu vực miền Trung, một bệnh hiện nay có nhiều người mắc và

quan tâm. Trên cơ sở đó, thông tin khoa học, đào tạo cho các tỉnh biết, nắm rõ

thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm bệnh và các biện pháp phòng

chống thích hợp để có hướng triển khai phòng chống tiếp theo.

4.3.2. Hạn chế của nghiên cứu

- Địa bàn nghiên cứu chỉ thực hiện trong 2 xã nên cũng chưa đại diện cho

các điểm còn lại ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi và khu vực miền Trung-Tây

Nguyên.

- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là người dân sống tại khu vực nông thôn,

nên trình độ dân trí còn hạn chế, chất lượng phỏng vấn KAP cũng chưa khai thác

hết.

- Nghiên cứu nguồn nhiễm ở vật chủ chính chỉ thực hiện trên chó do tại địa

điểm nghiên cứu người dân chủ yếu nuôi chó, chỉ có một số ít hộ nuôi mèo. Mặt

khác việc lấy được phân mèo để xét nghiệm cũng là rất khó khăn.

- Xác định tỷ lệ nhiễm ATGĐC bằng kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể

IgG ở người kháng với giun đũa chó cũng còn hạn chế, mặt khác cũng khó phân

biệt được tái nhiễm hay nhiễm mới, do kháng thể IgG tồn tại lâu trong cơ thể.

- Về mặt đánh giá hiệu quả của các biệp pháp can thiệp, hiện nay trong

nghiên cứu y văn cũng chưa tìm thấy được những mô hình can thiệp phòng

chống ATGĐC, cho nên việc so sánh hiệu quả dựa vào các nghiên cứu phòng

114

chống sán lá gan lớn, do đó việc đánh giá hiệu quả cũng còn mang tính chủ

quan.

4.4. Điểm mới của nghiên cứu

- Đề tài là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng, một

số yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun đũa chó và hiệu quả của các biện pháp

can thiệp nhằm giảm tỷ lệ nhiễm ở cộng đồng.

- Đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về các biện pháp can thiệp phòng

chống bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người và đã cho thấy việc áp dụng các biện

pháp này đã mang lại hiệu quả cao.

115

KẾT LUẬN

1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó

1.1. Thực trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó chung tại 2 xã khá cao (17,3%), trong đó

xã Đức Phong là 17,9%; xã Đức Chánh là 16,7%. Tỷ lệ nhiễm ở nữ là 19,2%, ở

nam là 15,3%. Nhóm tuổi trên 15 tuổi (19,9%) nhiễm cao hơn nhóm từ 2 đến 15

tuổi (12,8%).

Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó tại các điểm nghiên cứu là 9%, trong đó xã

Đức Phong là 9,2%; xã Đức Chánh là 8,9%. Một số triệu chứng lâm sàng chính

của bệnh ấu trùng giun đũa chó bao gồm: ngứa, nổi mẩn (69,2%), đau đầu

(52,5%), đau bụng (22,5%), nhức mỏi chân tay, tê bì (24,2%).

1.2. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó

Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó chung tại 2 xã cao (32,8%), tại xã Đức Phong là

33,3%; xã Đức Chánh là 32,1%, tỷ lệ nhiễm giảm dần theo tuổi của chó.

Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các hộ gia đình là 27,8%, tại sân

chơi công cộng là 25%. Tỷ lệ nhiễm trên rau tại các điểm nghiên cứu là 6,8%.

Kiến thức, thái độ của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó còn thấp,

chỉ đạt khoảng 50% có kiến thức và thái độ đúng.

Có mối liên quan giữa bồng bế chó thường xuyên (OR= 4,9; CI 95%: 2,5-

9,7); tiếp xúc đất thường xuyên (OR= 2,8; CI 95%: 2,0-7,0); không rửa tay sau

khi tiếp xúc đất (OR= 2,6; CI 95%: 1,6-6,5) với nhiễm ấu trùng giun đũa chó.

2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ấu trùng giun

đũa chó

2.1. Hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở

người

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người trước và sau can thiệp ở xã can

thiệp giảm từ 17,9% xuống còn 9,9%, hiệu quả can thiệp đạt 32,7%.

116

Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó tại xã can thiệp giảm từ 9,2% xuống còn

5,3%, hiệu quả can thiệp đạt 34,5%.

2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh

Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó trước và sau can thiệp tại xã can thiệp giảm

mạnh từ 33% xuống còn 6,3%, hiệu quả can thiệp tẩy giun cho chó đạt 64,4%.

Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất trước và sau can thiệp tại xã can thiệp

giảm từ 29,5% xuống còn 9,0%, hiệu quả can thiệp đạt 50,3%.

Tỷ lệ nhiễm ở rau tại xã can thiệp giảm từ 7,0% xuống còn 2,0%, hiệu quả

can thiệp đạt 71,4%.

2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục nâng cao kiến thức, thái độ, thực

hành của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó

Tăng tỷ lệ có kiến thức và thái độ đúng về bệnh ấu trùng giun đũa chó, hiệu

quả can thiệp về kiến thức đạt từ 23,4-24,7% và thái độ đạt từ 20,8-60,4%.

Tăng tỷ lệ thực hành tẩy giun cho chó từ 13,9% lên 50,9%, hiệu quả can

thiệp đạt 205,4%; thực hành xử lý phân chó tăng từ 49% lên 64,5%, hiệu quả

can thiệp đạt 25,6%; rửa tay sau khi tiếp xúc đất tăng từ 70,5% lên 85,5%, hiệu

quả can thiệp đạt 14,4%; giảm bồng bế chó từ 13,5% xuống còn 4,5%, hiệu quả

can thiệp đạt 61,9%.

117

KHUYẾN NGHỊ

1. Đối với Bộ Y tế

Xây dựng Chương trình hoặc Dự án phòng chống giun sán quốc gia, thiết

lập hệ thống phòng chống giun sán từ tuyến Trung ương đến địa phương.

2. Đối với các Viện Sốt rét-ký sinh trùng-côn trùng và Trung tâm kiểm soát

bệnh tật các tỉnh

Tiếp tục nghiên cứu thực trạng và yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun

đũa chó mèo tại một số vùng khác, đặc biệt những vùng có nuôi mèo nhiều.

Áp dụng các biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó

tại các tỉnh, tập trung vào truyền thông giáo dục qua thông tin đại chúng, tờ rơi,

pa nô và khuyến cáo tẩy giun cho chó.

3. Đối với y tề cơ sở, ban ngành khác và người dân

Huy động các ban ngành liên quan như chính quyền, các tổ chức xã hội,

giáo dục và thú y cùng tham gia truyền thông giáo dục phòng chống bệnh ấu

trùng giun đũa chó cho cộng đồng. Duy trì truyền thông qua loa đài, nói chuyện

trực tiếp tại trường học, lồng ghép với các chương trình khác để truyền thông.

Cần nhấn mạnh đến nguy cơ nhiễm bệnh và các thực hành phòng chống như vệ

sinh cá nhân, vệ sinh môi trường và tẩy giun cho chó định kỳ.

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ XUẤT BẢN

1. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Lý Chanh Ty, Trần Phương Duyên,

Vũ Sinh Nam (2017), “Tỷ lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó ở người

và một số yếu tố liên quan tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi năm 2016”,

Tạp chí Y học Dự phòng; tập 27, số 8-2017, tr 572-578.

2. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Vũ Sinh Nam (2017), “Tỷ lệ nhiễm

giun đũa ở chó và trứng giun đũa chó ở đất, rau tại một số điểm huyện Mộ

Đức, tỉnh Quảng Ngãi năm 2016”, Tạp chí Phòng chống sốt rét và các bệnh

ký sinh trùng; số đặc biệt (96)/2017, tr 241-246.

3. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Lý Chanh Ty, Vũ Sinh Nam (2018),

“Hiệu quả của một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ấu trùng giun

đũa chó tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi”, Tạp chí Y học dự phòng, tập

28-số 2/2018, tr 38-44.

1.

Vũ Thị Lâm Bình (2015), "Báo cáo ca bệnh: nhân một trường hợp

Toxocara thể mắt điều trị thành công bằng albendazole phối hợp với

corticoide", Công trình NCKH, Báo cáo Hội nghị toàn quốc chuyên ngành

Sốt rét-KST-CT năm 2015, Nhà xuất bản y học, tr 231-235.

Bộ Y tế (2009), Cẩm nang phòng chống bệnh truyền nhiễm, trang 382.

2.

Bộ Y tế (2017), "Tài liệu Định nghĩa trường hợp bệnh truyền nhiễm". Ban

3.

hành kèm theo Quyết định số 4283/2006/QĐ-BYT ngày 8/8/2016 ".

4.

Nguyễn Văn Chương và Đồng Thị Huệ (2012), "Nhân hai ca bệnh ấu trùng

giun đũa chó/mèo thể di chuyển nội tạng", Y học TP hồ Chí Minh. Phụ bản

của tập 16, số 1, 2012. Đại học y dược TP HCM, chuyên đề Ký sinh trùng.

ISSN 1859-1779, tr.37-40.

5.

Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Văn Khá, Bùi Văn Tuấn và Trần Minh Qúi

(2011), "Xây dựng mô hình phòng chống sán lá gan lớn ở 2 xã của huyện

Phù Cát, tỉnh Bình Định", Tạp chí Y học thực hành, số 796-2011. Bộ Y tế

xuất bản, ISSN 1859-1663, tr.152-156.

6.

Nguyễn Văn Chương, Huỳnh Hồng Quang và Bùi Văn Tuấn (2014),

"Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh ấu trùng giun đũa

chó ở người tại miền Trung-Tây Nguyên và hiệu lực điều trị bằng

Albendazole", Tạp chí phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện

Sốt rét-KST-CT Trung ương, ISSN 0868-3735, số 4, 2014, tr. 3-13.

7.

Nguyễn Văn Chương, Bùi Văn Tuấn và Huỳnh Hồng Quang (2014),

"Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo ở

người tại Bình Định và Đăk Lăk, Việt Nam", Tạp chí phòng chống sốt rét và

các bệnh ký sinh trùng. Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, ISSN 0868-3735,

số 2, 2014, tr. 83-90.

8.

Nguyễn Văn Chuương và Bùi Văn Tuấn (2017), "Kết quả hoạt động phòng

chống giun sán khu vực miền Trung-Tây Nguyên", Tạp chí phòng chống sốt

TÀI LIỆU THAM KHẢO

rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, ISSN 0868-

3735, số đặc biệt (96)/2017, tr. 175-180.

9.

Đỗ Trung Dũng, Trần Thanh Dương và Nguyễn Thị Hợp (2016), "Thực

trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó, mèo trên người tại một số điểm nghiên

cứu thuộc Hà Nội và Hưng Yên năm 2014-2015, " Tạp chí phòng chống sốt

rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, ISSN 0868-

3735, số 3 (92), tr. 10-16.

10.

Trần Thị Kim Dung và Trần Phủ Mạnh Siêu (2009), Bệnh do giun lươn và

giun đũa chó mèo, Nhà xuất bản y học, TP Hồ Chí Minh, 2009

11. Hoàng Đình Đông, Đỗ Văn Dũng, Phan Anh Tuấn và Nguyễn Thị Ngọc

Dung (2011), "Tỉ lệ nhiễm Toxocara sp. Và các yếu tố liên quan của người

dân Quận 2 trên 20 tuổi đến khám tại Bệnh viện Quận 2 TPHCM năm 2010",

Y Học TP. Hồ Chí Minh, Tập 15, Phụ bản của Số 1/2011, 137-141.

12.

Trần Vinh Hiển và Trần Thị Kim Dung (2004), "Các bộ sinh phẩm chẩn

đoán bệnh do ký sinh trùng", Tạp chí Y học thực hành(447), tr. 112- 116.

13.

Trần Vinh Hiển, Trần Thị Kim Dung và Phạm Văn Lực (2008), "Xác định

tỷ lệ huyết thanh dương tính Toxocara sp của cư dân tại hai xã Chư Pả và H’

Bông tỉnh Gia Lai", Tạp chí Y dược học Quân sự-Học Viện Quân Y, 33 (2),

tr 89-93.

14.

Phạm Thị Thu Hoài, Nguyễn Thu Hương, Lê Xuân Hùng và Trần Thanh

Dương (2014), "Thực trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo ở trẻ em tiểu

học xã Yên Lạc, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, năm 2014", Tạp chí

phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung

ương, ISSN 0868-3735, số 4, 2014, trang 89-94.

15.

Lưu Ngọc Hoạt (2015), Phương pháp viết đề cương nghiên cứu, Tập 1,

Nghiên cứu khoa học y học. Nhà xuất bản y học Hà Nội-2015.

16.

Trần Thị Hồng (2001), "Nghiên cứu một số đặc điểm của bệnh do giun

Toxocara spp ở người tại Việt Nam", Luận án Tiến sĩ y học. Đại học y dược

TP Hồ Chí Minh, 2001.

17.

Trần Thị Hồng, Đỗ Văn Dũng, Trần Thị Kim Dung và Trần Vinh Hiển

(2000), "Điều tra tình hình nhiễm giun đũa chó mèo Toxocara sp ở cộng

đồng dân xã An Phú, huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh", Thông tin phòng

chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng-côn trùng Trung ương; số 4, tr

74-79.

18. Nguyễn Hữu Hưng và Lê Trung Hoàng (2012), "Tình hình nhiễm giun tròn

ký sinh ở chó tại thành phố Cần Thơ, " Tạp chí y Dược học quân sự, Học

viện Quân Y, số chuyên đề KC.10, tr. 154-160.

19. Nguyễn Thu Hương, Phạm Thị Thu Hoài, Lê Xuân Hùng và Trần Thanh

Dương (2014), "Yếu tố nguy cơ lây nhiễm Toxocara trên trẻ em tiểu học xã

Yên Lạc, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, năm 2014", Tạp chí phòng

chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương,

ISSN 0868-3735, số 4, 2014, tr 83-88.

20.

Lê Thị Ngọc Kim, Vũ Đình Phương An và Trần Thị Hồng (2007), "Khảo

sát ký sinh trùng trên rau sống bán tại các siêu thị trên địa bàn TPHCM", Phụ

bản của tập 11, số 2, 2007. Đại học y dược TP HCM, chuyên đề Ký sinh

trùng. ISSN 1859-1779, tr 130-135.

21. Võ Thị Hải Lê và Nguyễn Văn Thọ (2009), "Tình hình nhiễm giun tròn

đường tiêu hóa của chó ở một số địa điểm thuộc tỉnh Nghệ An", Tạp chí

Khoa học và Phát triển 2009, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội .Tập 7,

số 5: 637 - 642.

22. Võ Thị Hải Lê và Nguyễn Văn Thọ (2011), "Tình hình nhiễm giun tròn

đường tiêu hóa của chó tại một số địa phương tỉnh Thanh Hóa", Khoa học kỹ

thuật thú y. 18(6), tr 66-71

23. Nguyễn Hồ Phương Liên và Trần Phủ Mạnh Siêu (2015), Tỷ lệ huyết thanh

dương tính với Toxocara sp ở người trưởng thành quận 12, TP HCM năm

2012 và một số yếu tố liên quan, Công trình NCKH. Báo cáo Hội nghị toàn

quốc chuyên ngành Sốt rét-KST-CT năm 2015, Nhà xuất bản y học, trang

148-159.

24. Bùi Ngọc Thúy Linh (2003), Tình hình nhiễm Toxocara canis ở chó và

người tại TP Hồ Chí Minh, hiệu quả tẩy trừ giun đũa chó của Fenbendazole

và Ivermectin trên chó, Luận văn Thạc sĩ khoa học, Đại học Nông lâm TP

Hồ Chí Minh, 2003.

25. Nguyễn Khắc Lực, Đặng Thị Cẩm Thạch và Tô Mười (2008), "Nhiễm SLGL

ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam và hiệu quả biện pháp phòng chống bệnh

tại cộng đồng", Tạp chí y Dược học quân sự, Học viện Quân Y, số 33(2), tr.

71-74. .

26. Đào Trịnh Khánh Ly (2017), "Tình hình bệnh nhân nhiễm giun sán được

khám phát hiện tại Phòng Khám Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn", Tạp chí

phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung

ương, ISSN 0868-3735, số đặc biệt (96)/2017, tr. 105-111.

27.

Lê Thị Cẩm Ly và Trần Phủ Mạnh Siêu (2015), "Đặc điểm lâm sàng, cận

lâm sàng bệnh nhiễm Toxocara canis trên bệnh nhân tại Bệnh viện Nhiệt đới

TPHCM", Báo cáo khoa học toàn văn. Hội nghị Ký sinh trùng học toàn quốc

lần thứ 42 năm 2015.

28.

Trần Xuân Mai (1992), Góp phần nghiên cứu ngõ cụt ký sinh lây truyền từ

phân chó mèo sang người, Luận án Phó Tiến sĩ y học, Đại học Y dược TP

Hồ Chí Minh, 1992.

29. Nguyễn Thị Nga, Bùi Thị Hồng Thanh và Hoàng Cao Sạ (2015), "Thực trạng

và một số yếu tố liên quan đến nhiễm Toxocara spp. ở bệnh nhân đến khám

và điều trị tại Bệnh viện 103 (2012-2013)", Báo cáo khoa học toàn văn. Hội

nghị Ký sinh trùng học toàn quốc lần thứ 42 năm 2015.

30.

Lê Đình Vĩnh Phúc và Huỳnh Hồng Quang (2015), Một vài đặc điểm dịch

tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng trên bệnh nhân huyết thanh dương tính

Toxocara sp tại Trung tâm y khoa MEDIC TPHCM, Công trình NCKH. Báo

cáo Hội nghị toàn quốc chuyên ngành Sốt rét-KST-CT năm 2015. Nhà xuất

bản y học, tr 182-190.

31.

Lương Trường Sơn và các cộng sự. (2013), "Tìm hiểu các yếu tố dịch tễ,

lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị đối với những bệnh nhân nhiễm

ký sinh trùng đường ruột đến khám tại Viện Sốt rét-KST-CT TPHCM", Y

học TP hồ Chí Minh. Phụ bản của tập 17, số 1, 2012. Đại học y dược TP

HCM, chuyên đề Ký sinh trùng. ISSN 1859-1779, tr.87-94.

32. Đỗ Thị Thu Thúy, Nguyễn Thị Lan Anh và Đoàn Hữu Hoàn (2015), "Tình

hình nhiễm giun đũa Toxocara spp ở chó, mèo tại Thanh Oai và Thường Tín,

Hà Nội", Báo cáo khoa học toàn văn. Hội nghị Ký sinh trùng học toàn quốc

lần thứ 42 năm 2015. Nhà xuất bản khoa học tự nhiên và công nghệ, ISBN

978-604-913-380-0, tr 237-243.

33. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Hữu Giáo và Huỳnh Thị

Thanh Xuân (2013), "Tình hình nhiễm trứng giun đũa Toxocara spp ở đất tại

một số điểm của Quảng Ngãi và Đăk Lăk", Y học TP hồ Chí Minh. Phụ bản

của tập 17, số 1, tr.87-94.

34. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Hải Khánh và Trần Ngọc

Thảo (2012), "Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và yếu tố nguy cơ nhiễm

ấu trùng giun Toxocara spp ở một số điểm tại Bình Định và Gia Lai", Tạp

chí y học TP Hồ Chí Minh. Phụ bản của tập 16, số 3, 2012. Đại học y dược

TP HCM, chuyên đề Y tế công cộng. ISSN 1859-1779, tr 91-95.

35.

Phan Anh Tuấn, Trần Thị Kim Dung, Trần Phủ Mạnh Siêu và Trần Vinh

Hiển (2009), "Tỷ lệ huyết thanh dương tính với kháng nguyên Toxocara

canis trên các bệnh nhân có triệu chứng dị ứng", Tạp chí y học quân sự. Số

CD91. 2009. ISSN 1859-1655. Cục Quân y xuất bản, tr 147-152.

36. Abdi J, Farhadi M, Aghace S and Sayehmiri K (2014), "Parasitic

Contamination of Raw Vegetables in Iran", A Systematic Review and Meta-

Analysis.J. Med. Sci., 14(3): 137-142.

37. Abougrain A. K, Nahaisi M. H, Madi N. S, Saied M. M and Ghenghesh K. S

(2010), "Parasitological contamination in salad vegetables in Tripoli-Libya",

Food Control, 2010, 21(5), 760-762.

38. Ahmad N, Maqbool A and Saeed K et al. (2011), "Toxocariasis: It's zoonotic

importance and chemotherapy in dogs, " The Journal of animal and plant

sciences, ISSN: 1018-7081, 21(2), 2011, 142-145. .

39. Akeredolu A. B and Sowemino O. A (2014), "Prevalence, intensity and

associated risk factors for Toxocara canis infection in Nigerian dogs",

Journal of parasitology and vector Biology, ISSN: 2141-2510, 6 (8), 111-

116.

40. Alonso J. M, Bojanich M. V, Chamorro M and Gorodner J. O (2000),

"Toxocara seroprevalence in children from a subtropical city in Argentina",

Rev Inst Med Trop Sao Paulo. 42(4), 235-7.

41. Beaver P. C, Snyder C. H and Carrera G. M (1952), "Chronic eosinophilia

due to visceral larva migrans", Pediatrics. 1952;9:7–19.

42. Berger S (2016), Toxocariasis. Global Status, Gideon, 2016 Edition.

43. Borecka A. and Kłapeć T. (2015), "Epidemiology of human toxocariasis in

Poland—a review of cases 1978–2009", Annals of Agricultural and

Environmental Medicine. 2015;22(1):28–31.

44. Btaszkowska J, Goralska K, Wojcik A, Kurnatowski P and Szwabe K

(2015), "Presence of Toxocara spp. eggs in children's recreation areas with

varying degrees of access for animals", Annals of Agricultural and

Environmental Medicine 2015, Vol 22, No 1, 23-27.

45. CAPC (2012), "Companion Animal Parasite Council", Recommendations

Intestinal Parasites – Ascarid, www.capcvet.org.(reviewed July 2012).

46. Chiodo P, Basualdo J, Ciarmela L, Pezzani B, Apezteguia M and Minvielle

M (2006), "Related factors to human toxocariasis inarural community of

Argentina", Mem. Inst. Oswaldo Cruz 101,397-400.

47. Choi D, Lim J. H, Choi D. C, Paik S. W, Kim S. H and Huh S (2008),

"Toxocariasis and ingestion of raw cow liver in patients with eosinophilia",

Korean J Parasitol. 46(3), 139-43.

48. Chomel BB, Kasten R and Adams C (1993), "Serosurvey of some major

zoonotic infections in children and teenagers in Bali, Indonesia.", Southeast

Asian J Trop Med Public Health. 1993 Jun. 24(2), 321-6.

49. Coelho LMPS and Silva MV

(2004),

"Hman Toxocariasis: A

seroepidemiological survey in schoolchildren of Sorocaba, Brazil", Mem Inst

Oswaaldo Cruz. Rio de Janeiro. 99(6), 533-557.

50. Dar Z. A, Tanveer S, Yattoo G. N, Sofi B. A and Perviz (2014), "Prevalence

of Toxocara canis in Stray Dogs of Kashmir Valley", Journal of Zoological

Sciences. ISSN : 2321-6190, 2 (3), 2014, 20-23.

51. Deshayes S and Bonhomme J (2016), "Neurotoxocariasis: a systematic

literature review ", Infection 2016; 44: 565–74.

52. Despommier D (2003), "Toxocariasis: clinical aspects, epidemiology,

medical ecology, and molecular aspects", Clin Microbiol Rev 2003; 16: 265–

72.

53. Dogan N, Dinleyici E. C, Bor O, Toz S. O and Ozbel Y (2007),

"Seroepidemiological survey

for Toxocara canis

infection

in

the

northwestern part of Turkey", Turkiye Parazitol Derg. 31(4), 288-91.

54.

Ei-Shazly A. M, Abdel Baset S. M, Kamal A, Mohammed K. A, Sakr T. I

and Hammad S. M (2013), "Seroprevalence of human Toxocariasis", AAMJ,

11(3).

55.

ESCCAP (2010), (European Counsel for Companion Animal Parasites),

Worm Control in Dogs and Cats Guideline 01, 2nd ed, pp. 5–6,

(www.esccap.org).

56.

Fajutag A. J and Paller V. G (2013), "Toxocara egg soil contamination and

its seroprevalence among publicschool children in Losbanos, Laguna,

Philippines", Southeast Asian J Trop Med Public Health. 44(4). 2013, 551-

560.

57.

Fan CK, Lan HS and Hung CC ( 2004), " Seroepidemiology of Toxocara

canis infection among mountain aboriginal adults in Taiwan", Am J Trop

Med Hyg. 2004 Aug;71(2):216-21.

58.

Fan CK, Liao CW and Cheng YC et al. (2013), "Factors affecting disease

manifestation of toxocarosis in humans: Genetics and environment, " Vet

Parasitol 193: 342-352.

59.

Fernando S. D, Wickramasinghe V. P, Kapilananda G. M. G, Devasurendra

R. L, Amarasooriya J. D. M. S and Dayaratne H. G. A. K (2007),

"Epidemiological aspects and risk factors of Toxocariasis in a pediatric

population in Srilanka", Southeast Asian J TropMed Public Health , 2007,

38(6), 983-991.

60.

Fu CJ, Chuang TW, Lin HS, Wu CH and et al. Liu YC (2014),

"Seroepidemiology of Toxocara

canis

infection

among primary

schoolchildren in the capital area of the Republic of the Marshall Islands",

BMC Infect Dis 14: 261.

61. Gawor J, Borecka A, Marczyńska M, Dobosz S and Zarnowska-Prymek H

(2014), "Risk of human toxocarosis in Poland due to Toxocara infection of

dogs and cats", Acta Parasitol. 2014 Mar;60(1):99-104. doi: 10.1515/ap-

2015-0012.

62. Grandemange E, Claerebout E, Genchi C and Franc M (2007), "Field

evaluation of the efficacy and the safety of a combination of oxantel/

pyrantel/ praziquantel in the treatment of naturally acquired gastrointestinal

nematode and/ or cestode infestations in dogs in Europe", Vet. Parasitol,

145:94-99.

63. Gurel F. S, Ertug S and Okyay P (2005), "Prevalence of Toxocara spp. eggs

in public parks of the city of Aydin, Turkey", Turkiye Parazitol Derg. 29(3),

tr. 177-9.

64. Guzma H.O, Delfino BM and Martins AC et al. (2014), "Epidemiology and

control of child toxocariasis in the western Brazilian Amazon: A population

based study", Am. J. Trop. Med. Hyg., 90(4):670-681.

65. Hakim S.L (1993), "ELISA seropositivity for Toxocara canis Antibodies in

Malaysia, 1989-1991", Original Article. Med J Malaysia, 48 (3), 303-307.

66. Haq S, Maqbool A, Khan UJ, Yasmin G and Sultana R (2014), "Parasitic

Contamination of Vegetables Eaten Raw in Lahore", Pakistan J.Zool, 46(5),

1303-1309, 2014.

67. Hombu A, Yoshida A, Kikuchi T, Nagayasu E, Kuroki M and Maruyama H.

(2017), "Treatment of larva migrans syndrome with long-term administration

of albendazole", J Microbiol Immunol Infect. 2017 Jul 14. pii: S1684-

1182(17)30142-1.

68. Hotez P. J (2008), "Neglected infections of poverty in the United States of

America", PLoS Negl Trop Dis. 2(6), e256.

69. Hotez P. J, Dumonteil E, Heffernan M. J and Bottazzi M. E (2013),

"Innovation for the‘bottom 100 million': eliminating neglected tropical

diseases in the Americas", Adv. Exp. Med. Biol. 764, 1-12.

70.

Ishiyamna S, Ono K, Rai S. K and Uga S (2009), Method for detecting

circulating Toxocara canis antigen and its application in human serum

samples, Nepal Med Coll J. 2009 Mar;11(1):9-13.

71.

Jenkins E. J and et al (2013), "Tradition and transition: parasitic zoonoses of

peopleand animals in Alaska, Northern Canada, and Greenland", Adv.

Parasitol. 82,33–204.

72.

Jesus A P and Holsback L et al. (2015), "Efficacy of pyrantel pamoate and

ivermectin for the treatment of canine nematodes", Semina Ciencias

Agrarias, Londrina, vol. 36, No. 6:3731-3740.

73.

Jin Y (2013), "Serodiagnosis of Toxocariasis by ELISA Using Crude

Antigen of Toxocara canis Larvae", Korean J Parasitol; 51(4): 433–439.

74. Kondo K, Akao N, Ohyama T and Okazawa (1998), "Sero-epidemiology investigation of Toxocariasis in Asian area", In the 5th Asian. Pacific

Congress for parasitic zoonoses. In: Yamaguchi T, Araki T. The Organizing

Committee of Asian-Parasitic Congress for Parasitic Zoonoses, 1998, 65-70.

75. Kuenzli E, Neumayr A, Chaney M and Blum J (2016), "Toxocariasis-

associated cardiac diseases—a systematic review of the literature", Acta Trop

2016; 154: 107–20.

76. Kwon N.H, Oh M.J and Lee S.P et al (2006), "The prevalence and diagnostic

value of toxocariasis in unknown eosinophilia", Ann. Hematol.;85(4):233-8.

77. Kyei G, Ayi I, Boampong J. N and Turkson P. K (2015), "Sero-

Epidemiology of Toxocara Canis Infection in Children Attending Four

Selected Health Facilities in the Central Region of Ghana", Ghana Med J.

49(2), 77-83.

78.

Lee RM, Moore LB, Bottazzi ME and Hotez PJ. (2014), "Toxocariasis in

North America: a systematic review", PLoS Negl Trop Dis;8(8).

79.

Liao C. W, Sukati H, D'Lamini P, Chou C. M and Liu Y. H (2010),

"Seroprevalence of Toxocara canis infection among children in Swaziland,

southern Africa", Ann Trop Med Parasitol. 2010 Jan;104(1):73-80.

80. Ma G and Holland C.V (2017), "Human toxocariasis", The Lancet Infectious

Diseases, 3099(17)30331-6.

81. Macpherson C. et al. (2005), "Human behaviour and the epidemiology of

parasitic zoonoses", Int. J. Parasitol. 35, 1319-1331.

82. Macpherson C. N (2013), "The epidemiology and public health importance

of toxocariasis: A zoonosis of global importance", Int. J. Parasitol, 43(12-

13):999-1008.

83. Magnaval J. F, Glickman L. T, Dorchies P and Morassin B (2001),

"Highlights of human toxocariasis", Korean J Parasitol. 39(1), 1-11.

84. Magnaval J. F, Michault A and Calon N (1994), "Epidemiology of human

toxocariasis in La Reunion", Trans R Soc Trop Med Hyg. 1994. 88(5), 531-3.

85. Maizels R. M. (Eds.) (2013), Toxocara canis: Molecular basis of immune

recognition and evasion, Vet Parasitol. 2012 Dec 20. pii: S0304-

4017(12)00680-2.

86. Martínez-Pulgarin DF, Munoz-Urbano M, Gomez-Suta DL, Delgado OM

and Rodriguez-Morales AJ (2015), "Ocular toxocariasis: new diagnostic and

therapeutic perspectives", Recent Pat Antiinfect Drug Discov 2015; 10: 35–

41.

87. Messier V and et al (2012), "Sero prevalence of seven zoonotic infections in

Nunavik, Quebec(Canada)", Zoonoses Public Health 59,107–117.

88. Molyneux D. H (2006), "Control of human parasitic diseases: Context and

overview", Adv Parasitol. 61, 1-45.

89. Moreira GM, Telmo Pde L, Mendona M et al (2014), "Human toxocariasis:

Current advances in diagnostics, treatment, and interventions", Trends

Parasitol 30:456-464.

90. Nijsse E.R (2016), A critical reflection on current control of Toxocara canis

in household dogs, PhD thesis. University of Utrecht.

91. O’Lorcain P (1994), "Prevalence of Toxocara canis ova in public

playgrounds in the Dublin area of Ireland", J Helminthol. 1994; 68: 237–241

92. Oge S, Oge H, Gonenc B, Ozbaki G and Yildiz C (2013), "Presence of

Toxocara eggs on the hair of dogs and cats", Ankara University, Faculty of

Veterinary Medicine, 60, 171-176.

93. Oryan A and Alidadi S (2015), "Toxocariasis: A neglected parasitic disease

with public health importance", Tropical Medicine & Surgery, 3:2.

94. Oryan A, Sadjjadi SM and Azizi S (2010), "Longevity of Toxocara cati

larvae and pathology in tissues of experimentally infected chickens", Korean

J Parasitol, 48:79-80.

95. Overgaauw P. A and Van Knapen F (2013), "Veterinary and public health

aspects of Toxocara spp", Vet Parasitol. 193(4), 398-403.

96.

Palmer C. S, Robertson I. D, Traub R. J, Rees R and Thompson R. C. A

(2010), "Intestinalparasites of dogs and cats in Australia: the veterinarian's

perspective and petowner awareness", Vet. J. 183, 358-361.

97.

Pezeshki A, Haniloo A and Alezafar A (2017), "Detection of Toxocara spp.

Eggs in the Soil of Public Places in and Around of Ardabil City,

Northwestern Iran", Iran J Parasitol: Vol. 12, No. 1, pp.136-142

98.

Pivetti-Pezzi P (2009), "Ocular toxocariasis", Int J Med Sci 2009; 6: 129–30.

99. Quattrocchi G, Nicoletti A, Marin B and Bruno E et al. (2012), "Toxocariasis

and epilepsy: Systematic review and meta-analysis, " PLoS Negl Trop Dis 6:

e1775.

100. Quy T.M (2016), Evaluation of a Broadly-based Control Model of

Fascioliasis (Liver fluke) in Central Vietnam, PhD thesis. University of

Wollongong.

101. Rai S.K (2000), "Contamination of soil with helminth parasite eggs in

Nepal", Southeast Asian J Trop Med Public Health, Vol 31 No. 2: pp 388-

393

102. Rai SK, Uga S, Ono K, Nakanishi M, Shrestha HG and Matsumura T (1996),

"Seroepidemiological study of Toxocara infection in Nepal.", Southeast

Asian J Trop Med Public Health. . 27(2), 286-90.

103. Roldan W. H, Cavero Y. A, Espinoza Y. A, Jimenez S and Gutierrez C. A

(2010), "Human

toxocariasis: a seroepidemiological survey

in

the

Amazonian city of Yurimaguas, Peru", Rev. Inst. Med. Trop. SaoPaulo

52,37–42.

104. Romanenko N. A (1968), Methods of the examination of soil and sediment of

wastewater on helminth eggs, Med. Parazit. Bolezni 6, 723-729.

105. Rubinsky-Elefant G, Hirata C. E and Yamamoto J. H (2010), "Human

toxocariasis: diagnosis, worldwide seroprevalences and clinical expression of

the systemic and ocular forms", Ann Trop Med Parasitol, 104(1):3-23.

106. Rubinsky-Elefant G, Hoshino-Shimizu S, Jacob C. M, Sanchez M. C and

Ferreira A. W (2011), Potential immunological markers for diagnosis and

therapeutic assessment of toxocariasis, Rev Inst Med Trop Sao Paulo. 2011

Mar-Apr;53(2):61-5.

107. Sadjjadi SM, Khosravi M, Mehrabani D and Orya A (2000), "Seroprevalence

of toxocara infection in school children in Shiraz, southern Iran", J Trop

Pediatr 46: 327-330.

108. Sager H, Moret Ch. S, Grimm F, Deplazes P, Doherr M. G and Gottstein B

(2006), "Coprological study on intestinal helminths in Swiss dogs: temporal

aspects of anthelminthic treatment", Parasitol Res. 98(4), 333-8.

109. Said D. E. S (2012), "Detection of parasites in commonly consumed raw

vegetables", Alexandria Journal of Medicine, 2012, 48, 345-352.

110. Salvador S, Ribeiro R, Winckler MI, Ohlweiler L and Riesgo R (2010),

"Pediatric neurotoxocariasis with concomitant cerebral, cerebellar, and

peripheral nervous system involvement: Case report and review of the

literature", J Pediatr (Rio J) 86: 531-534.

111. Santarem V. A, Franco Eda C, Kozuki F. T, Fini D and Prestes-Carneiro L. E

(2008), "Environmental contamination by Toxocara spp. eggs in a rural

settlement in Brazil", Rev Inst Med Trop Sao Paulo. 50(5), 279-81.

112. Schnieder T, Laabs E. M and Welz C (2011), "Larval development of

Toxocara canis in dogs", Vet Parasitol. 175(3-4), 193-206.

113. Stensvold CR, Skov J and Moller LN (2009), "Seroprevalence of Human

Toxocariasis in Denmark", CLINICAL AND VACCINE IMMUNOLOGY,

Sept. 2009, 16(9), 1372–1373.

114. Stojcevic D, Susic V and Lucinger S (2010), "Contamination of soil and sand

with parasite elements as a risk factor for human health in public parks and

playgrounds in Pula, Croatia", Vet. arhiv 80, 733-742, 2010.

115. Sturchler D, Schubarth P, Gualzata M, Gottstein B and Oettli A (1989),

"Thiabendazole vs. albendazole in treatment of toxocariasis: a clinical trial",

Ann Trop Med Parasitol. 1989;83:473–478.

116. Sudhakar N. R and et al (2013), "Prevalence of Toxocara species eggs in soil

samples of public health importance in and around Bareilly, Uttar Pradesh,

India", Vet World 6(2): 87-90.

117. Tavassoli M, Javadi S, Firozi R, Rezaei F, Khezri A. R and Hadian M

(2012), "Hair Contamination of Sheepdog and Pet Dogs with Toxocaracanis

Eggs", Iranian J Parasitol 7(4), 110-115.

118. Uga S (1995), "Measures to Control Toxocara Egg Contamination in

Sandpits of Public Parks", The American Journal of Tropical Medicine and

Hygiene, Volume 52, pp. 21 – 24.

119. Walsh M.G and Haseeb M.A (2014), "Toxocariasis and lung function:

relevance of a neglected infection in an urban landscape", Acta Parasitol

2014; 59: 126–31.

120. Willis. K, J. Green and J. Daly (2009), "Perils and possibilities: achieving

best evidence from focus groups in public health research", Aust N Z J Public

Health, 33, 131-136.

121. Woodhall D. M, Eberhard M. L and Parise M. E (2014), "Neglected parasitic

infections in the United States: toxocariasis", Am J Trop Med Hyg. 90(5),

810-3.

122. Woodhall D. M and et al. (2012), Ocular toxocariasis: epidemiologic,

anatomic, and therapeutic variations based on a survey of ophthalmic

subspecialists, Ophthalmology. 2012 Jun;119(6):1211-7.

123. Yakhchali M and Ebn-Adamnezhad A (2014), "A study on Toxocara canis

(Ascaridida: Ascaridae) infection in dogs and soil of public parks of

Piranshahr city, West Azarbaijan province, Iran", Journal of Veterinary

Research 2014 Vol. 69 No. 4 ISSN 2008-2525 ,355-362.

Hóa trị liệu

124. Youn H, Ra JR and Kim BK et al. (2011), "The anti-parasitic efficacy of

ivermectin and pyrantel pamoate compound against canine Toxocara canis

and Trichuris vulpis", Korean J. Vet. Res, 51(4): 289-295.

125. Zibaei M (2017), "Helminth Infections and Cardiovascular Diseases:

Toxocara Species is Contributing to the Disease", Current Cardiology

Reviews, 13, 56-62

126. https://web.stanford.edu/class/humbio103/ParaSites2005/Toxocariasis/

whole%20thing.htm.

PHỤ LỤC 1

DANH SÁCH XÉT NGHIỆM

TT Họ tên Chủ hộ BCAT

Địa chỉ Nuôi chó

Tuổi Nam Nữ OD/ ngưỡng

PHỤ LỤC 2 DANH SÁCH KHÁM LÂM SÀNG

TT

Họ tên

Tuổi

Địa chỉ

Ngứa ĐĐ ĐB

Sốt Mắt Khác

RLTH

Triệu chứng LS Nhức CT, tê bì

PHỤ LỤC 3 DANH SÁCH ĐIỀU TRA VÀ XÉT NGHIỆM CHÓ Chó < 3 th

Tuổi Địa

3 – 6 th

> 6 th

Tên

Tổng

TT

chủ hộ

chỉ

Số

(+)

Số

(+)

Số

(+)

Số

(+)

XN

XN

XN

XN

PHỤ LỤC 4 DANH SÁCH XÉT NGHIỆM ĐẤT TẠI HỘ ĐIỀU TRA Tuổi Địa chỉ Nuôi

Tên chủ hộ

Kết quả XN

Vị

TT

chó

trí

Số trứng/mẫu

đất

PHỤ LỤC 5 DANH SÁCH XÉT NGHIỆM ĐẤT TẠI SÂN CHƠI CÔNG CỘNG Vị trí đất

Kết quả XN

Khu dân cư

TT

Số trứng/mẫu

PHỤ LỤC 6 DANH SÁCH XÉT NGHIỆM RAU

TT

Loại rau

Địa chỉ nơi thu

Kết quả XN

hiệu

thập

(Số trứng/mẫu)

mẫu

PHỤ LỤC 7.

BẢNG CÂU HỎI ĐIỀU TRA KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH (KAP) CỦA HỘ GIA ĐÌNH VỀ BỆNH ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ

I. Thông tin chung:

Họ và tên chủ hộ: ..........................................................................................................

Họ và tên người được phỏng vấn:.....................................................Dân tộc: ............

Chỗ ở: Khu dân cư …Thôn..................xã....................huyện..................tỉnh….........

Câu hỏi

Trả lời

Chuyển

II. Thông tin cụ thể: Mã I

_ _ (số tuổi)

Thông tin hành chính Q1 Tuổi Q2 Giới tính

Q3 Trình độ học vấn

Q4 Nghề nghiệp

Nam Nữ Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông trở lên Làm nông Làm biển Cán bộ viên chức Học sinh, sinh viên Già Khác (nêu rõ)

1 2 1 2 3 1 2 3 4 5 6

II

Kiến thức về bệnh ATGĐC

Q5 Bạn có nghe nói về bệnh

ATGĐC

Q6 Nếu có thì từ nguồn thông

tin nào

Q7 Nguy cơ nhiễm bệnh

ATGĐC? (không gợi ý)

1 Có 2 Q14 Không 3 Q14 Không biết 1 Ti vi, đài, báo 2 CBYT 3 Người thân 4 Khác (nêu rõ) Ăn rau, hoa quả sống 1 Ăn gan sống một số động vật 2 3 Tiếp xúc đất 4 Bồng bế chó mèo 5 Không biết

Câu hỏi

Trả lời

Mã Q8 Triệu chứng của bệnh

ATGĐC? (không gợi ý)

Q9

Phòng chống bệnh ATGĐC? (không gợi ý)

Ngứa, nổi mẩn Đau đầu Đau bụng, RLTH Nhức mỏi chân tay, tê bì Sốt, thở khò khè Khác (nêu rõ)….. Không biết Ăn chín uống chín Tẩy giun cho chó Xử lý phân chó Rửa tay sau khi tiếp xúc đất Rửa tay trước khi ăn Không bồng bế chó mèo Không biết

Chuyển

1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7

III Thái độ với bệnh ATGĐC

Q10 Bạn có đồng ý rằng bệnh ATGĐC có nguy hiểm?

Q11 Bạn có thấy cần thiết

không nuôi chó thả rông?

Q12 Bạn có thấy cần thiết tẩy

giun cho chó?

Q13 Bạn có thấy cần thiết xử lý phân chó để tránh bị nhiễm bệnh ATGĐC?

Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết

1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3

IV Thực hành phòng chống

bệnh ATGĐC Q14 Nhà bạn có nuôi chó

không?

Q15 Bạn có nuôi chó thả rông

không?

Q16 Bạn có tẩy giun cho chó

không?

Q17 Chó hàng xóm có chạy qua

nhà bạn không? Q18 Bạn có xử lý phân chó

Có Không Có Không Có Không Có Không Có Không

trong sân, vườn nhà mình không?

1 2 Q17 1 2 1 2 1 2 1 Q20 2

Câu hỏi

Trả lời

Mã Q19 Xử lý phân chó bằng cách

nào?

Q20 Bạn có bồng bế chó mèo?

Q21 Bạn có ăn rau sống?

Q22 Bạn rửa rau sống như thế

nào?

Q23 Bạn có tiếp xúc đất không?

Q24 Bạn có rửa tay sau khi tiếp

xúc đất?

Q25 Bạn có rửa tay trước khi

ăn?

Q26 Bạn có ăn gan sống một số

động vật không?

Chuyển 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 Q25 1 2 1 2 1 2

Quét dọn Chôn Khác (ghi rõ) Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Dưới vòi nước ≥ 3 lần < 3 lần Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Có Không Có Không Có Không

Cảm ơn bạn đã tham gia phỏng vấn

.

Ngày…../……../……

.

Người được phỏng vấn

Người phỏng vấn

PHỤ LỤC 7a

BẢNG CÂU HỎI ĐIỀU TRA KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH (KAP) CỦA HỘ GIA ĐÌNH VỀ BỆNH ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ

(sau can thiệp)

I. Thông tin chung:

Họ và tên chủ hộ: ..........................................................................................................

Họ và tên người được phỏng vấn:......................................................Dân tộc: ............

Chỗ ở: Khu dân cư …..Thôn..................xã....................huyện..................tỉnh…...

Câu hỏi

Trả lời

Chuyển

II. Thông tin cụ thể: Mã I

Thông tin hành chính

_ _ (số tuổi)

Q1 Tuổi Q2 Giới tính

Q3 Trình độ học vấn

Q4 Nghề nghiệp

Nam Nữ Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông trở lên Làm nông Làm biển Cán bộ viên chức Học sinh, sinh viên Già Khác (nêu rõ)

1 2 1 2 3 1 2 3 4 5 6

II

Kiến thức về bệnh ATGĐC

Q5 Bạn có nghe nói về bệnh

ATGĐC

Q6 Nếu có thì từ nguồn thông

tin nào

Q7 Nguy cơ nhiễm bệnh

ATGĐC? (không gợi ý)

Có Không Không biết Ti vi, đài, báo CBYT Người thân Khác (nêu rõ) Ăn rau, hoa quả sống Ăn gan sống một số động vật Tiếp xúc đất Bồng bế chó mèo Không biết

1 2 Q14 3 Q14 1 2 3 4 1 2 3 4 5

Câu hỏi

Trả lời

Mã Q8 Triệu chứng của bệnh

ATGĐC? (không gợi ý)

Q9

Phòng chống bệnh ATGĐC? (không gợi ý)

Ngứa, nổi mẩn Đau đầu Đau bụng, RLTH Nhức mỏi chân tay, tê bì Sốt, thở khò khè Khác (nêu rõ)….. Không biết Ăn chín uống chín Tẩy giun cho chó Xử lý phân chó Rửa tay sau khi tiếp xúc đất Rửa tay trước khi ăn Không bồng bế chó mèo Không biết

Chuyển

1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7

III Thái độ với bệnh

ATGĐC

Q10 Bạn có đồng ý rằng bệnh ATGĐC có nguy hiểm?

Q11 Bạn có thấy cần thiết

không nuôi chó thả rông?

Q12 Bạn có thấy cần thiết tẩy

giun cho chó?

Q13 Bạn có thấy cần thiết xử

lý phân chó để tránh bị nhiễm bệnh ATGĐC?

Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết

1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3

IV Thực hành phòng chống

bệnh

Q14 Nhà bạn có nuôi chó

không?

Q15 Bạn có nuôi chó thả rông

không? Nếu có, lý do tại sao?

Q16 Bạn có tẩy giun cho chó

không? Nếu không, lý do tại sao?

1 Có 2 Q17 Không 1 Có 2 Không Tập quán 1 Khác…………………………. 2 1 Có 2 Không Không được phát thuốc tẩy 1 Khác…………………………. 2

Câu hỏi

Trả lời

Mã Q17 Chó hàng xóm có chạy

qua nhà bạn không?

Q18 Bạn có xử lý phân chó

Có Không Có Không

Chuyển 1 2 1 2 Q20

trong sân, vườn nhà mình không?

Q19 Xử lý phân chó bằng cách

nào?

Q20 Bạn có bồng bế chó mèo?

Q21 Bạn có ăn rau sống?

Q22 Bạn rửa rau sống như thế

nào?

Q23 Bạn có tiếp xúc đất

không?

Q24 Bạn có rửa tay sau khi

tiếp xúc đất?

Q25 Bạn có rửa tay trước khi

ăn?

1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 Q25 1 2 1 2

Quét dọn Chôn Khác (ghi rõ) Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Dưới vòi nước ≥ 3 lần < 3 lần Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Có Không Có Không

Cảm ơn bạn đã tham gia phỏng vấn

.

Ngày…../……../…….

Người được phỏng vấn

Người phỏng vấn

PHỤ LỤC 8

KỸ THUẬT ELISA CHẨN ĐOÁN GIUN ĐŨA CHÓ MÈO

(Bộ sinh phẩm của Công ty TNHH-sản xuất thương mại hóa chất Việt Sinh)

Bộ kít chẩn đoán của Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại hóa chất

Việt Sinh với độ nhạy là 100%, độ đặc hiệu là 97%.

Bộ thử ELISA phát hiện kháng thể IgG đặc hiệu Toxocara sp trong huyết

thanh người bị nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp.

Nguyên tắc hoạt động của bộ thuốc thử:

Bộ thuốc thử hoạt động bằng nguyên tắc của phản ứng ELISA gián tiếp

phát hiện kháng thể: kháng nguyên Toxocara sp đã gắn các giếng nhựa

polystyrene tóm bắt kháng thể đặc hiệu có trong huyết thanh người và phát hiện

kháng thể bám trên giếng nhựa bằng cộng hợp kháng IgG người đánh dấu men

peroxidase.

- Thực hiện kỹ thuật ELISA:

+ Rửa giếng ELISA 4 lần với PBS-T-1x, ngâm 1 phút ở lần rửa cuối.

+ Cho vào giếng 90l dung dịch pha loãng PBS-T-BSA 1x giữ ở 370C

trong 1 giờ.

+ Pha các huyết thanh chứng (+), 15 chứng (-) và huyết thanh thử nghiệm

1/40 trong nước muối sinh lí.

+ Cho 10 l huyết thanh chứng (+), chứng (-), huyết thanh thử nghiệm đã

pha sẵn vào các giếng, trộn đều.

+ Đậy giếng lại bằng băng keo, ủ ở tủ ấm 370C trong 1 h.

+ Rửa giếng ELISA 4 lần với PBS-T 1x ngâm 1 phút ở lần rửa cuối.

+ Cho vào mỗi giếng 100 l kháng thể kháng huyết thanh người có gắn

men peroxidase đã được pha loãng 1/250 với PBS-T-BSA 1x

+ Đậy giếng lại bằng băng keo, ủ ở tủ ấm 370C trong 1 h.

+ Rửa giếng 4 lần với PBS-T 1x.

+ Cho vào các giếng 100l dung dịch đài chất. Ủ ở nhiệt độ phòng thí nghiệm 300C trong 5 -15 phút, một khi màu phân biệt rõ chứng (+) và (-), làm

ngừng phản ứng bằng 50l dung dịch ngừng phản ứng.

- Đọc kết quả: Sử dụng máy đọc ELISA với bước sóng 450 nm và 620 nm

để đọc kết quả, ghi lại mật độ quang (OD) của từng giếng.

Ngưỡng dương tính = Trung bình cộng chứng âm + 3 SD

PHỤ LỤC 9

KỸ THUẬT LY TÂM CẶN LẮNG FORMALIN-ETHER

Kỹ thuật ly tâm cặn lắng formaline- ether: để tìm trứng giun sán (giun

đũa, giun tóc, giun móc, các lọai trứng sán lá, trứng giun đũa chó mèo) và bào

nang đơn bào … theo hướng dẫn của WHO (1995).

- Dùng que lấy phân lấy 1-1,5g phân cho vào 10 ml formalin trong tube ly

tâm và khuấy đều tạo thành một dịch treo.

- Lọc dịch treo qua lưới lọc có kích thước lỗ lọc 400 m hay qua hai lớp

vải gạc vào một tube ly tâm khác hoặc vào một cốc đong nhỏ. Bỏ lưới lọc.

- Thêm formalin 10% vào chất dịch trong tube để được thể tích 10 ml.

- Thêm 3ml ether vào dịch treo ở trong tube và trộn đều bằng cách đậy nắp

cao su và lắc mạnh trong vòng 10 giây.

- Mở nắp cao su, đặt tube vào máy ly tâm, cân bằng tube và ly tâm ở tốc độ

1.500 vòng/phút trong 2- 3 phút.

- Lấy tube ra khỏi máy ly tâm, chất dịch trong tube chia làm 4 lớp:

+ Lớp trên cùng: ether

+ Lớp thứ 2: gồm các mảnh chất béo bám thành ống.

+ Lớp thứ 3: lớp formalin

+ Lớp thứ 4: cặn

- Dùng que lấy nhẹ nhàng lớp chất béo ra khỏi thành ống bằng cách xoáy

theo hình xoắn và sau đó đổ 3 lớp trên cùng bằng một động tác nhanh gọn, dốc

ngược ống ly tâm ít nhất 5 giây. Sau khi làm xong sẽ có một lượng nhỏ chất dịch

còn lại trên thành ống chảy trở lại cặn dưới đáy ống.

- Trộn chất dịch với cặn (đôi khi nếu cần thêm một giọt nước muối sinh lý

để có đủ dịch hòa cặn) bằng pipet thủy tinh. Lấy 1 giọt cặn nhỏ lên phiến kính,

phủ lá kính và xét nghiệm.

PHỤ LỤC 10

KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM NGOẠI CẢNH ROMANENKO

Dùng để xét nghiệm trứng giun sán ở đất, rau, nước, móng tay, ruồi, …

1. Kỹ thuật xét nghiệm đất

- Lấy khoảng 100 gam cho một mẫu đất cần xét nghiệm. - Chỉ lấy đất từ trên bề mặt xuống khoảng 1cm trong phạm vi 1 m2. - Nếu chưa xét nghiệm có thể để mẫu đất trong tủ lạnh ở 40C để bảo quản.

- Khi xét nghiệm cân mỗi mẫu đất (100g) chia đều vào 4 ống nghiệm (chia

cho đều bằng cân tiểu ly).

- Dùng NaOH 0,5% nhỏ vào ½ ống nghiệm. Lấy que thủy tinh ngoáy tan

đất từ 5-10 phút (khi ngoáy nếu thấy những sỏi đá, rác rưởi có thể dùng que đưa

ra khỏi ống). Tác dụng của NaOH sẽ làm tách trứng ra khỏi đất.

- Tiếp tục ngoáy xong cho NaOH 0,5% vào đầy 4 ống nghiệm, đem cân và

đặt vào 4 ống ly tâm (1.000 vòng/phút) trong thời gian 3 phút.

- Lấy ống nghiệm ra gạn bỏ lớp dung dịch trên đi, giữ lại cặn, tiếp tục bổ

sung vào dung dịch NaNO3 bão hòa cho đầy và ngoáy nhẹ sau đó đem ly tâm

thêm lần 2 cũng thời gian 3-5 phút.

- Lấy ống nghiệm ra và bổ sung thêm lượng dung dịch NaNO3 bão hòa

cho đầy vồng lên như mặt kính đồng hồ.

- Dùng lam kính (tùy theo cỡ ống to nhỏ cho vừa) đặt lên. Để yên 10-15

phút nhấc ngửa nhanh lam kính lên và thả lamen vào rồi soi tìm trứng giun dưới

kính hiển vi. Mỗi ống nghiệm làm 2 lam kính để xét nghiệm.

2. Kỹ thuật xét nghiệm rau

- Lấy 200 gam cho một mẫu rau cần xét nghiệm.

- Rau được rửa 3 lần trong 1 lít nước.

- Ly tâm và soi trứng trong phần cặn.

Phụ lục 11 BẢN THÔNG TIN DÀNH CHO ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU

Tên nghiên cứu: Đặc điểm dịch tễ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người và hiệu quả

một số biện pháp can thiệp tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi (2016-2017)

Nhà tài trợ: Hoạt động phòng chống giun sán do Bộ Y tế cấp.

Nghiên cứu viên chính: ThS Bùi Văn Tuấn

Đơn vị chủ trì: Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn

I.THÔNG TIN VỀ NGHIÊN CỨU

1. Mục đích và tiến hành nghiên cứu

Tên tôi là Bùi Văn Tuấn, đang làm việc tại Viện Sốt rét - KST - CT Quy

Nhơn, Bộ Y tế. Hiện chúng tôi đang nghiên cứu về bệnh ấu trùng giun đũa chó ở

người. Bệnh ấu trùng giun đũa chó là một bệnh phổ biến trong khu vực; tuy vậy

bệnh có thể điều trị khỏi bằng thuốc. Mục đích của nghiên cứu xác định được tỷ lệ

nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người, các yếu tố nguy cơ, hiệu quả các biện pháp

phòng chống trong đó có điều trị ca bệnh bằng thuốc Albendazole.

Nghiên cứu sẽ được tiến hành tại xã Đức Phong và xã Đức Chánh của huyện

Mộ Đức, thời gian dự kiến từ tháng 7/2016-12/2017. Chúng tôi mời những người

lớn và trẻ em từ 2 đến 70 tuổi trong các hộ được chọn ngẫu nhiên (200 hộ cho 1

xã), đang sống ở vùng này tham gia vào nghiên cứu để giúp xác định tỷ lệ bệnh và

hiệu quả biện pháp phòng chống. Mỗi người tham gia sẽ được lấy máu tĩnh mạch

(1,5 ml) để xét nghiệm tìm kháng thể kháng giun đũa chó. Nếu bị nhiễm bệnh ấu

trùng giun đũa chó, bạn (hoặc con bạn) sẽ được điều trị miễn phí với thuốc

Albendazole. Tôi sẽ cung cấp thêm thông tin cho ông/bà và mời ông/bà (hoặc con

ông/bà) tham gia nghiên cứu này. Trước khi quyết định xem ông/bà (hoặc con

ông/bà) có tham gia hay không, ông/bà có thể trao đổi thêm với bất kỳ ai nếu bạn

thấy phù hợp. Có thể có một số từ ông/bà không hiểu. Nếu không hiểu thì nhắc tôi

dừng lại và tôi sẽ giải thích cho ông/bà hiểu. Nếu sau này ông/bà có vấn đề gì thì có

thể hỏi tôi, bác sỹ khác hoặc cán bộ trong nhóm nghiên cứu.

Nếu ông/bà đáp ứng tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu và bị nhiễm bệnh ấu trùng

giun đũa chó, chúng tôi sẽ cung cấp cho ông/bà thuốc chống giun sán Albendazole

400mg với biệt dược là Unaben với liệu trình điều trị 21 ngày.

- Tuần thứ 1: Liều 15 mg/kg x 7 ngày + thuốc bổ trợ + kháng histamin.

- Tuần thứ 2: Liều 15 mg/kg x 7 ngày + thuốc bổ trợ

- Tuần thứ 3: Liều 15 mg/kg x 7 ngày + thuốc bổ trợ

2. Các nguy cơ và bất lợi

Tất cả các thuốc đều có thể gây ra các tác dụng không mong muốn. Ông/bà có

thể bị đau bụng, hoa mắt chóng mặt nhẹ (nhưng hiếm). Các tác dụng không mong

muốn khác thỉnh thoảng xảy ra đó là đau bụng, buồn nôn. Ông/bà nên báo cho bác

sỹ khi các tác dụng không mong muốn này xảy ra. Khi điều trị thời gian ngắn

(không quá 3 ngày) có thể thấy vài trường hợp bị khó chịu ở đường tiêu hóa (đau

vùng thượng vị, tiêu chảy) và nhức đầu.

Thông thường các tác dụng không mong muốn không nặng và hồi phục được

mà không cần điều trị. Trong quá trình điều trị, ông/bà (hoặc con ông/bà) không

được dùng thêm bất kỳ thuốc nào khác nếu không được phép của bác sỹ. Chúng tôi

sẽ theo dõi ông/bà (hoặc con ông/bà) chặt chẽ để phát hiện biểu hiện này nếu có

hoặc theo dõi các vấn đề khác. Tôi sẽ cho ông/bà số điện thoại để gọi nếu có gì bất

thường hoặc nếu ông/bà cần hỏi. Ông/bà cũng có thể đếm Trạm y tế bất kỳ lúc nào

để gặp bác sỹ. Nếu ông/bà (hoặc con ông/bà) có xuất hiện các tác dụng phụ của

thuốc, chúng tôi có thể cấp một số thuốc miễn phí cho ông/bà để giúp giảm các triệu

chứng/phản ứng hoặc chúng tôi có thể dừng thuốc. Chúng tôi sẽ luôn hỏi ý kiến của

ông/bà mỗi khi thay đổi.

3. Lợi ích của đối tượng khi tham gia nghiên cứu

Khi tiến hành nghiên cứu, những bệnh nhân đủ điều kiện tiêu chuẩn sẽ được

các bác sĩ trưởng nhóm nghiên cứu giải thích kỹ về quyền lợi và nghĩa vụ của bệnh

nhân mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó tham gia nghiên cứu. Họ sẽ được khám bệnh,

lập phiếu theo dõi, lấy máu làm xét nghiệm, uống thuốc của nghiên cứu đề ra (thuốc

giun sán và một số thuốc bổ trợ khác nếu nhiễm bệnh ấu trùng giun đũa chó) theo

đúng quy trình trong đề cương nghiên cứu. Mỗi đối tượng tham gia nghiên cứu

(được lấy máu để xét nghiệm) sẽ được hỗ trợ 10.000 đồng (Mười nghìn đồng). Tất

cả chi phí điều trị (thuốc giun sán, thuốc điều trị triệu chứng, vitamin, các xét

nghiệm,…) trong suốt thời gian nghiên cứu đều được miễn phí.

Tất cả đối tượng được khám bệnh kỹ, nếu bị nhiễm bệnh ấu trùng giun đũa

chó (huyết thanh dương tính kết hợp với ít nhất một triệu chứng lâm sàng) sẽ được

bác sĩ trực tiếp cho uống thuốc, được theo dõi sát trong thời gian nghiên cứu, được

giải thích chu đáo, được quyền rút khỏi nghiên cứu bất cứ lúc nào nếu họ không

muốn hợp tác.

Đề cương này đã được thông qua và chấp thuận của Hội đồng y đức y sinh học

của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và Hội đồng y đức y sinh học của Viện Vệ

sinh dịch tễ Trung ương. Hội đồng khẳng định những người tham gia nghiên cứu

không bị tác hại gì trong nghiên cứu. Nếu ông/bà muốn tìm hiểu kỹ hơn về hội đồng

phê duyệt, ông/bà có thể liên hệ với họ. Nếu ông/bà có câu hỏi gì liên quan tới

nghiên cứu này thì hãy tới địa điểm nghiên cứu.

4. Bồi thường/điều trị khi có tổn thương liên quan đến nghiên cứu:

Nếu ông/bà (hoặc con ông/bà) quyết định tham gia nghiên cứu này, những ốm

đau liên quan đến giun sán hoặc tới điều trị giun sán sẽ được điều trị miễn phí cho

ông/bà. Ông/bà (hoặc con ông/bà) tham gia sẽ giúp chúng tôi đánh giá hiệu quả

thuốc chống giun sán và như vậy sẽ có lợi cho xã hội và thế hệ tương lai.

5. Người liên hệ

Về vấn đề y đức trong nghiên cứu, nếu bạn có câu hỏi, đừng ngần ngại gọi

cho ThS Bùi Văn Tuấn là chủ nhiệm đề tài (Điện thoại: 0982847539) hoặc PGS.TS

Hồ Văn Hoàng, đại diện cho Hội đồng y đức của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn

( Điện thoại: 0914.004629).

6. Sự tự nguyện tham gia

Người tham gia được quyền tự quyết định, không hề bị ép buộc tham gia.

Người tham gia có thể rút lui ở bất kỳ thời điểm nào mà không bị ảnh hưởng

gì đến việc điều trị/chăm sóc mà họ đáng được hưởng.

Trong trường hợp là người vị thành niên, suy giảm trí tuệ hoặc mất khả năng,

việc lấy bản chấp thuận tham gia từ người đại diện hợp pháp.

7. Tính bảo mật

Chúng tôi sẽ không chia sẻ thông tin về những người tham gia trong nghiên

cứu này với bất kỳ ai. Thông tin thu thập từ nghiên cứu này được giữ bí mật. Các

thông tin mà ông/bà (hoặc con ông/bà) cung cấp đề được ghi mã số chứ không ghi

tên ông/bà (hoặc con ông/bà). Chỉ có những người tham gia nghiên cứu mới biết số

nào là của ông/bà. Thông tin sẽ bị khoá.

Chúng tôi sẽ chia sẻ kiến thức mà chúng tôi có được trong nghiên cứu này với

ông/bà trước khi công bố rộng rãi. Những thông tin bí mật sẽ không được chia sẻ.

Sẽ có cuộc họp nhỏ ở xã, và cuộc họp này sẽ không công bố công khai. Sau đó

chúng tôi sẽ công bố kết quả và số liệu để những người khác quan tâm đến lĩnh vực

này học hỏi được từ nghiên cứu này.

II. CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU

Tôi đã đọc và hiểu thông tin trên đây, đã có cơ hội xem xét và đặt câu hỏi về

thông tin liên quan đến nội dung trong nghiên cứu này. Tôi đã nói chuyện trực tiếp

với nghiên cứu viên và được trả lời thỏa đáng tất cả các câu hỏi. Tôi nhận một bản

sao của Bản Thông tin cho đối tượng nghiên cứu và chấp thuận tham gia nghiên cứu

này. Tôi tự nguyện đồng ý tham gia.

Chữ ký của người tham gia:

Họ tên___________________ Chữ ký ___________________

Ngày tháng năm_________________

Chữ ký của người làm chứng hoặc của người đại diện hợp pháp (nếu áp dụng):

Họ tên___________________ Chữ ký ___________________

Ngày tháng năm_________________

Chữ ký của Nghiên cứu viên/người lấy chấp thuận:

Tôi, người ký tên dưới đây, xác nhận rằng bệnh nhân/người tình nguyện tham gia

nghiên cứu ký bản chấp thuận đã đọc toàn bộ bản thông tin trên đây, các thông tin

này đã được giải thích cặn kẽ cho Ông/Bà và Ông/Bà đã hiểu rõ bản chất, các nguy

cơ và lợi ích của việc Ông/Bà tham gia vào nghiên cứu này.

Họ tên ___________________ Chữ ký ___________________

Ngày tháng năm_________________

Phụ lục 13. BỘ SINH PHẨM CHẨN ĐOÁN KÝ SINH TRÙNG CỦA

CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT THƯƠNG MẠI HÓA CHẤT VIỆT SINH

Phụ lục 14. MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC HIỆN TRONG ĐỀ TÀI

Trạm y tế xã Đức Chánh

Trạm y tế xã Đức Phong

Phỏng vấn KAP Lấy máu xét nghiệm

Lấy mẫu đất xét nghiệm Xét nghiệm đất

Tập huấn phòng chống bệnh ATGĐC

Phát tờ rơi tại Trường tiểu học

Băng rôn tại Trạm y tế xã Băng rôn tại Trường tiểu học

Phát tờ rơi tại hộ gia đình

Vãng gia tại hộ gia đình

Phát thuốc tẩy giun cho chó

Giám sát tại hộ gia đình

Họp trưởng khu dân dư, đoàn thể