BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG -----------------*------------------- BÙI VĂN TUẤN THỰC TRẠNG, MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN NHIỄM ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ (Toxocara canis) Ở NGƯỜI TẠI HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI 2016 VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG
HÀ NỘI – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG -----------------*------------------- BÙI VĂN TUẤN
THỰC TRẠNG, MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN NHIỄM ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ (Toxocara canis) Ở NGƯỜI TẠI HUYỆN MỘ ĐỨC, TỈNH QUẢNG NGÃI 2016 VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP
Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 62 72 03 01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Nguyễn Văn Chương 2. GS.TS Vũ Sinh Nam HÀ NỘI – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và nhóm nghiên
cứu thực hiện tại 2 xã Đức Phong và Đức Chánh thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2016-2017. Các số liệu và kết quả trình bày trong luận án
là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào
khác.
Tác giả luận án
Bùi Văn Tuấn
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc, Phòng Đào tạo Sau
đại học, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương luôn tạo điều kiện cho tôi trong suốt
quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn
Chương và GS.TS Vũ Sinh Nam, những người thầy có nhiều kiến thức, kinh
nghiệm đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, thực
hiện đề tài cũng như hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban lãnh đạo Viện Sốt rét-ký sinh trùng-côn
trùng Quy Nhơn, cán bộ Khoa Ký sinh trùng của Viện đã hỗ trợ cho tôi thực hiện
đề tài về kinh phí cũng như nguồn nhân lực.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Y tế tỉnh Quảng Ngãi, Trung tâm phòng
chống sốt rét-ký sinh trùng-côn trùng tỉnh Quảng Ngãi, Trung tâm y tế dự phòng
huyện Mộ Đức, Ủy ban nhân dân xã Đức Phong và xã Đức Chánh đã quan tâm
và tạo điều kiện cho tôi thực hiện đề tài.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn cha mẹ, vợ, con, các cháu, anh chị em và những
người thân trong gia đình đã hết lòng ủng hộ, động viên tôi trong suốt quá trình
học tập và là động lực giúp tôi vượt qua những khó khăn để đạt được kết quả
khoá học và hoàn thành luận án.
Tác giả luận án
Bùi Văn Tuấn
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Albendazole ALB
ATGĐC Ấu trùng giun đũa chó
ATGĐCM Ấu trùng giun đũa chó/mèo
BCAT Bạch cầu ái toan
BN Bệnh nhân
Companion Animal Parasite Council CAPC
(Hội Thú y phòng chống các bệnh ký sinh trùng trên động vật)
CBVC Cán bộ viên chức
Computed tomography (Chụp cắt lớp vi tính)
CSHQ Chỉ số hiệu quả
CT
CTV Cộng tác viên
ĐT Đối tượng
Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay ELISA
(Thử nghiệm miễn dịch hấp phụ gắn men)
European Scientific Counsel Companion Animal Parasites ESCCAP
(Hội Thú y phòng chống các bệnh ký sinh trùng trên
động vật châu Âu)
GĐC Giun đũa chó
HQCT Hiệu quả can thiệp
HT (+) Huyết thanh dương tính
HT (-) Huyết thanh âm tính
KAP Knowledge Attitude Practice (Kiến thức Thái độ Thực hành)
KHV Kính hiển vi
KST Ký sinh trùng
NC Nghiên cứu
OD Optical density (Mật độ quang)
Phương pháp PP
Trung bình TB
T. canis Toxocara canis
Toxocara cati T. cati
Truyền thông giáo dục TTGD
Xét nghiệm XN
WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới )
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................ 3
1.1. Lịch sử nghiên cứu bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo. ................................. 3
1.1. Trên Thế giới ...................................................................................................... 3
1.2. Tại Việt Nam ...................................................................................................... 4
1.2. Đặc điểm sinh học của giun đũa chó mèo Toxocara spp ............................... 4
1.2.1. Tác nhân gây bệnh .......................................................................................... 4
1.2.2. Chu kỳ của giun đũa chó ................................................................................. 6
1.3. Tình hình nghiên cứu và phân bố bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo .......... 7
1.3.1. Trên Thế giới ................................................................................................... 7
1.3.2. Tại Việt Nam .................................................................................................10
1.4. Triệu chứng lâm sàng, chẩn đoán và điều trị bệnh ấu trùng giun đũa
chó/mèo ở người ....................................................................................................11
1.4.1. Triệu chứng lâm sàng ....................................................................................11
1.4.2. Chẩn đoán ......................................................................................................14
1.4.3. Điều trị ...........................................................................................................17
1.5. Một số yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo .........................19
1.5.1. Nguồn nhiễm giun đũa chó/mèo ở vật chủ chính .........................................19
1.5.2. Mầm bệnh ở ngoại cảnh ................................................................................21
1.5.3. Yếu tố môi trường .........................................................................................25
1.5.4. Yếu tố kinh tế, văn hóa xã hội.......................................................................25
1.5.5. Yếu tố hành vi con người ..............................................................................27
1.6. Phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo ...........................................28
1.6.1. Một số biện pháp phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo trên thế
giới ...........................................................................................................................29
1.6.2. Phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo ở Việt Nam .......................35
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................37
2.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................37
2.2. Thời gian nghiên cứu ....................................................................................37
2.3. Địa điểm nghiên cứu .....................................................................................37
2.4. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................39
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu .......................................................................................39
2.4.2. Nội dung nghiên cứu .....................................................................................42
2.4.3. Phương pháp thu thập số liệu. ......................................................................46
2.4.4. Tổ chức thực hiện ..........................................................................................47
2.4.5. Biến số và các chỉ số đánh giá trong nghiên cứu ..........................................50
2.4.6. Vật liệu nghiên cứu .......................................................................................54
2.5. Xử lý số liệu ....................................................................................................55
2.6. Các biện pháp khống chế sai số ...................................................................56
2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ................................................................56
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...........................................................58
3.1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở
người .......................................................................................................................58
3.1.1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người ..................................................58
3.1.2. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người ....................................................63
3.1.3. Một số yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người ....................64
3.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống ....................................75
3.2.1. Hiệu quả giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người .....75
3.2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh .................................77
3.2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục làm tăng kiến thức, thái độ, thực hành
của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó ..............................79
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ..................................................................................88
4.1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở
người .......................................................................................................................88
4.1.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ..................................................88
4.1.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên cứu ...........88
4.1.3. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người .............94
4.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống ..................................101
4.2.1. Hiệu quả giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người ...101
4.2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh ...............................103
4.2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục làm tăng kiến thức, thái độ, thực hành
của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó ............................104
4.3. Đánh giá những ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu ..............................112
4.4. Điểm mới của nghiên cứu ............................................................................114
KẾT LUẬN ..........................................................................................................115
1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun đũa chó .......... 115
2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ấu trùng giun
đũa chó .................................................................................................................115
KHUYẾN NGHỊ ..................................................................................................117
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ XUẤT BẢN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Truyền thông giáo dục đã thực hiện tại điểm can thiệp .........................44
Bảng 3.1. Đặc tính về giới và nhóm tuổi của mẫu nghiên cứu ...............................58
Bảng 3.2. Đặc tính về trình độ học vấn và nghề nghiệp của mẫu nghiên cứu ........58
Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên cứu ....59
Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người theo giới tính tại các điểm
nghiên cứu ...............................................................................................................59
Bảng 3.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người theo nhóm tuổi ..................60
Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người theo yếu tố gia đình ...........61
Bảng 3.7. Thống kê triệu chứng lâm sàng trên số trường hợp bệnh ấu trùng giun
đũa chó ....................................................................................................................63
Bảng 3.8. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó tại các điểm nghiên cứu ....................63
Bảng 3.9. Tỷ lệ có triệu chứng lâm sàng trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó ......64
Bảng 3.10. Tỷ lệ nuôi chó tại các điểm nghiên cứu ................................................64
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại các điểm nghiên cứu ...........................65
Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm giun đũa chó theo nhóm tuổi ở chó tại các điểm nghiên
cứu ...........................................................................................................................65
Bảng 3.13. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các điểm nghiên cứu ...........66
Bảng 3.14. Mật độ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các điểm nghiên cứu .....66
Bảng 3.15. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau tại các điểm nghiên cứu ...........67
Bảng 3.16. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau theo vị trí thu thập ....................67
Bảng 3.17. Mật độ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau tại các điểm nghiên cứu ........68
Bảng 3.18. Tỷ lệ có nghe nói và nguồn thông tin về bệnh ấu trùng giun đũa chó .68
Bảng 3.19. Kiến thức về bệnh ấu trùng giun đũa chó .............................................69
Bảng 3.20. Thái độ về bệnh ấu trùng giun đũa chó ................................................70
Bảng 3.21. Thực hành về ăn uống và thói quen sinh hoạt ......................................71
Bảng 3.22. Liên quan giữa nuôi chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó ...................72
Bảng 3.23. Liên quan giữa ăn rau sống và nhiễm ấu trùng giun đũa chó ...............73
Bảng 3.24. Liên quan giữa thói quen sinh hoạt và nhiễm ấu trùng giun đũa chó ...74
Bảng 3.25. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm ở người sau can thiệp .....................................75
Bảng 3.26. Thay đổi về tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó sau can thiệp ................75
Bảng 3.27. Hiệu quả điều trị bệnh ấu trùng giun đũa chó bằng albendazole .........76
Bảng 3.28. Hiệu quả điều trị làm giảm triệu chứng lâm sàng.................................76
Bảng 3.29. Thay đổi về tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan sau can thiệp điều trị ..............77
Bảng 3.30. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó sau can thiệp .........................77
Bảng 3.31. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất sau can thiệp ..........78
Bảng 3.32. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau sau can thiệp ..........79
Bảng 3.33. Thay đổi kiến thức về nguy cơ nhiễm ..................................................79
Bảng 3.34. Thay đổi kiến thức về triệu chứng bệnh ...............................................80
Bảng 3.35. Thay đổi kiến thức về phòng chống bệnh .............................................80
Bảng 3.36. Thay đổi thái độ về phòng chống bệnh.................................................81
Bảng 3.37. Thực hành nuôi chó tại xã can thiệp sau can thiệp ...............................82
Bảng 3.38. Thay đổi về thực hành nuôi chó ...........................................................83
Bảng 3.39. Thay đổi về bồng bế chó, xử lý phân chó .............................................84
Bảng 3.40. Thay đổi về ăn rau sống, rửa rau ..........................................................85
Bảng 3.41. Thay đổi về thói quen tiếp xúc đất, rửa tay ..........................................86
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Giun đũa Toxocara canis trưởng thành ................................................... 5
Hình 1.2. Trứng giun đũa chó ................................................................................... 5
Hình 1.3. Ấu trùng giun đũa chó ............................................................................... 5
Hình 1.4. Chu kỳ phát triển của giun đũa chó ........................................................... 6
Hình 1.5. Bản đồ phân bố huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo ..................... 9
Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi .............................38
Hình 2.2. Thiết kế và quy trình triển khai nghiên cứu ............................................42
Hình 2.3. Các biện pháp can thiệp thực hiện tại điểm nghiên cứu .........................43
Hình 2.4. Khung lý thuyết nghiên cứu bệnh ấu trùng giun đũa chó .......................45
Hình 2.5. Thuốc Unaben .........................................................................................55
Hình 3.1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo trình độ học vấn ......................60
Hình 3.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo nghề nghiệp .............................61
Hình 3.3. Mức độ OD/ngưỡng của số nhiễm ấu trùng giun đũa chó ......................62
Hình 3.4. Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó ...........62
Hình 3.5. Thực hành nuôi chó thả rông và tẩy giun cho chó ..................................71
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo thuộc nhóm “bệnh động vật” (zoonosis)
tức bệnh từ thú có xương sống lây truyền sang người. Giun đũa ở chó là
Toxocara canis, ở mèo là Toxocara cati. Người bị nhiễm do tình cờ nuốt trứng
có ấu trùng của Toxocara spp nhiễm trong đất, nước, hoặc thức ăn do chất phóng
uế bừa bãi của những con chó/mèo bị nhiễm bệnh. Các ấu trùng đi vào trong
ruột, di chuyển đến nội tạng, nơi đây chúng có thể sống nhiều năm ở dạng tự do
hay hóa kén nhưng không bao giờ phát triển thành giun trưởng thành. Quan
trọng nhất là ấu trùng giun đũa chó/mèo chu du khắp nơi trong cơ thể và có thể
đến các cơ quan như: não, mắt, gan, phổi...gây ra một số triệu chứng nguy hiểm
như động kinh (ký sinh ở não), giảm thị lực hoặc mù (ký sinh ở mắt) [10].
Bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo cùng với bệnh Chagas, ấu trùng sán dây
lợn, bệnh toxoplamosis và trùng roi sinh dục được xem là năm bệnh ký sinh
trùng bị lãng quên có tầm ảnh hưởng lớn nhất [89]. Bệnh ấu trùng giun đũa
chó/mèo cũng gây ra một hiểm họa y tế công cộng lớn đặc biệt là ở các nước
đang phát triển [93]. Tỷ lệ nhiễm cao thường ở các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới
và các cộng đồng nông thôn hơn là các cộng đồng công nghiệp hóa, thành thị, ôn
đới [81],[94],[105]. Các nghiên cứu cho thấy, những quần thể người có tỷ lệ
huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo cao thường ở những nơi có nhiều chó
bị nhiễm Toxocara canis, môi trường bị ô nhiễm trứng nhiều, đặc biệt là môi
trường đất. Phân bố nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo rất rộng, từ cực Nam bán
cầu đến các vùng nhiệt đới với tỷ lệ huyết thanh dương tính khác nhau từ 0,7% ở
New Zealand cho đến 93% ở La Reunion (châu Phi) [82],[125].
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo chưa
nhiều, chỉ có một số nghiên cứu xác định tỷ lệ huyết thanh dương tính với giun
đũa chó ở người tại một số điểm như ở miền Bắc là 58,7-74,9% [9],[14]; miền
Nam từ 38,4-53,6% [17],[23],[35]; ở miền Trung từ 13-50% [7],[13],[34].
2
Tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên, tình hình nhiễm ấu trùng giun đũa
chó/mèo có xu hướng ngày một gia tăng. Qua theo dõi tại Viện Sốt rét-Ký sinh
trùng-Côn trùng Quy Nhơn cho thấy mỗi năm phát hiện hàng nghìn trường hợp
có huyết thanh dương tính với ấu trùng giun đũa chó/mèo, đa số đến từ các tỉnh
Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên, Gia Lai, Đăk Lăk, Khánh Hòa [8],[26].
Công tác phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo cũng chưa được
quan tâm. Các nghiên cứu trên thế giới chỉ tập trung vào dịch tễ, các yếu tố nguy
cơ và đưa ra các khuyến cáo về phòng bệnh; còn tại Việt Nam cho đến nay chưa
có nghiên cứu can thiệp phòng chống nào trong cộng đồng, điều này có thể làm
cho tỷ lệ nhiễm ngày càng tăng cao, gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Mộ Đức là một huyện đồng bằng thuộc tỉnh Quảng Ngãi có những đặc điểm
về địa lý, kinh tế xã hội gần tương tự như các khu vực đồng bằng khác của Việt
Nam. Nghiên cứu thực trạng, các yếu tố liên quan và hiệu quả các biện pháp can
thiệp phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại huyện Mộ Đức sẽ rất cần
thiết để góp phần vào tìm hiểu sự phân bố và đề xuất triển khai các biện pháp
can thiệp phòng chống một cách hiệu quả tại các địa phương khác. Chính vì vậy,
giun đũa chó (Toxocara canis) ở người tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi 2016
và hiệu quả một số biện pháp can thiệp” với các mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm ấu trùng giun
đũa chó (Toxocara canis) ở người tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, 2016.
2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng, chống nhiễm ấu trùng giun
đũa chó ở người tại điểm nghiên cứu (2016-2017).
chúng tôi tiến hành đề tài: “Thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử nghiên cứu bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo
1.1.1. Trên thế giới
Năm 1824: Bệnh ấu trùng giun đũa mèo do Toxocara cati (T. cati) được
phát hiện đầu tiên, sau đó giới khoa học tiếp tục quan tâm đến những năm gần
đây, rất tiếc không gặp nhiều ca nhiễm T. cati trên người (số liệu y văn từ năm
1824-2005 chỉ có 36 trường hợp nhiễm ấu trùng giun đũa mèo T. cati kể từ ca
bệnh đầu tiên).
Năm 1908, tác giả Nutall và Strickland xét nghiệm các con chó ở
Cambridge (Anh) tìm thấy 17/24 con chó có nhiễm loài ký sinh trùng này.
Năm 1950, Mercer và cộng sự (1950) đã phát hiện ca bệnh đầu tiên nhiễm
ấu trùng giun đũa chó Toxocara canis (T. canis) ở người và tiếp đó họ mô tả
nhiễm trùng ở gan và u hạt ở mắt bởi tác giả Wilder [126].
Năm 1952, Beaver và cộng sự đã chứng minh có sự hiện diện của ấu trùng
T. canis ở người và gọi đó là bệnh “ấu trùng di chuyển nội tạng”. Vì là ký sinh
trùng lạc chủ, không trưởng thành được ở người nên y văn ghi nhận đây là hiện
tượng “ngõ cụt ký sinh” hoặc “bệnh động vật không hoàn chỉnh” [41]. Cũng
trong năm này, nhiều ca bệnh nhiễm T. canis tương tự được báo cáo và liên kết
giữa bệnh giun đũa chó ở người và chó được thiết lập.
Năm 1958: Sprent mô tả những điểm nổi bật nhất mở ra sự hiểu biết về
bệnh do giun đũa chó T. canis khi ông nghiên cứu về chu kỳ sinh học và phát
triển của T. canis rồi vẽ ra cơ chế lan truyền của loài ký sinh trùng này. Các
nghiên cứu tương lai làm rõ thêm nhiều khía cạnh quan trọng về bệnh giun đũa
chó, mặc dù sự chú ý chủ yếu tập trung vào chẩn đoán thể ấu trùng di chuyển ở
mắt. Đến năm 1979, Ehrhard và Kernbaum tổng kết 350 ca bệnh ấu trùng giun
đũa chó/mèo (ATGĐCM) bao gồm nhiều thể lâm sàng khác nhau và đã công bố
từng ca hay hàng loạt ca về bệnh ATGĐCM [126].
4
Vì không trải qua giai đoạn trưởng thành được ở người, chỉ ký sinh giai
đoạn ấu trùng nên không đẻ trứng; do đó việc chẩn đoán bệnh phải dựa vào
phương pháp miễn dịch học, tìm kháng thể kháng giun trong huyết thanh bệnh
nhân. Bằng phản ứng miễn dịch học, nhiều tác giả trên thế giới đã phát hiện
nhiều trường hợp nhiễm ATGĐCM lạc chủ ở người. Qua thời gian, người ta tiếp
tục khám phá ra rằng các thể bệnh ấu trùng di chuyển nội tạng thường gặp hơn
thể mắt. Các nghiên cứu sau đó tiếp tục tiến hành cho đến ngày nay với hy vọng
hiểu biết hơn về tính phức tạp trong bệnh ATGĐCM và tiềm năng các liệu pháp
điều trị mới.
1.1.2. Tại Việt Nam
Trường hợp bệnh đầu tiên được phát hiện vào năm 1988 tại Bệnh viện Nhi
đồng II, thành phố Hồ Chí Minh. Một cháu bé có bệnh lý về gan, bạch cầu ái
toan (BCAT) tăng cao, huyết thanh của cháu bé được chuyển sang Pháp để chẩn
đoán bệnh, kết quả có kháng thể kháng T. canis dương tính trong máu [10]. Chó
là con vật thân thiết đối với nhiều gia đình nên chắc chắn bệnh không phải là
hiếm ở nước ta, vì vậy ứng dụng huyết thanh chẩn đoán đã phát hiện hàng nghìn
người có huyết thanh dương tính với loại giun tròn này. Năm 1988, Trần Vinh
Hiển và cộng sự gặp ở Bệnh viện Nhi đồng 2, thành phố Hồ Chí Minh một bệnh
nhi ở Long An bị sốt kéo dài, BCAT tăng rất cao trong máu, sau đó huyết thanh
của bệnh nhân được gởi sang Pháp xét nghiệm xác định nhiễm T. canis [10].
Từ năm 2000 đến nay, việc nghiên cứu nhiễm ATGĐCM tại Việt Nam mới
thực sự được quan tâm và ngày càng nhiều nghiên cứu tập trung vào các mảng
khác nhau đối với căn bệnh này.
1.2. Đặc điểm sinh học của giun đũa chó mèo Toxocara spp.
1.2.1. Tác nhân gây bệnh
Trong số các loài giun thuộc giống Toxocara thì chỉ có 2 loài Toxocara
canis (T. canis) và Toxocara cati (T. cati) được chứng minh là tác nhân gây bệnh
cho người, vật chủ chính của T. canis là chó và T. cati là mèo [41].
5
* Hình thể của giun T. canis
- Giun trưởng thành:
+ Con đực dài 4 - 6 cm
+ Con cái dài 5 - 10 cm
- Ấu trùng : kính thước 400 µm x 20 µm
- Trứng : hình cầu, kích thước 85 µm x 75 µm, vỏ màu đậm [10].
Hình 1.1. Giun đũa Toxocara canis trưởng thành
Nguồn: https://parasitipedia.net
Hình 1.2. Trứng giun đũa chó Hình 1.3. Ấu trùng giun đũa chó
Nguồn: https://veteriankey.com Nguồn: https://www.sciencedirect.com
* Phân loại
Giun Toxocara spp. thuộc:
Ngành: Nematoda
Nhóm: Phasmida
Họ: Ascaridoidea
Giống: Toxocara
Loài: Toxocara canis, Toxocara cati [10]
6
1.2.2. Chu kỳ của giun đũa chó
Hình 1.4. Chu kỳ phát triển của giun đũa chó
Nguồn: http://www.dpd.cdc.gov/dpdx
* Ở chó:
Khi chó cái nuốt phải trứng có ấu trùng của giun đũa chó, trứng nở trong dạ
dày và ruột non, trứng giải phóng ấu trùng giai đoạn 2 xâm nhập vào thành ruột
rồi theo đường máu di chuyển khắp nơi trong cơ thể. Khoảng một tuần sau, tất cả
ấu trùng giai đoạn 2 đã có mặt trong nhu mô gan, phổi, thận, não. Vì vậy, không
có giun trưởng thành ở ruột chó cái, ấu trùng có thể tồn tại trong các mô của chó
cái trên hàng tháng hay hàng năm mà không phát triển thêm nữa. Nếu chó cái có
thai, ấu trùng di chuyển qua bánh nhau, tới mô gan và phổi của thai. Sự xâm
nhập vào thai không xảy ra trước ngày thứ 42 của thai kỳ và cũng không thể xảy
ra khi chó mẹ mới bị nhiễm khoảng nửa tháng. Ấu trùng xâm nhập vào thai
thường do chó mẹ bị nhiễm từ cả năm trước. Lúc sinh ra, ấu trùng giai đoạn 3
được tìm thấy chủ yếu trong mô phổi của chó con. Từ đó, ấu trùng di chuyển đến
khí quản, đi lên và đi xuống lại thực quản đến dạ dày, phát triển thành ấu trùng
7
giai đoạn 4 vào khoảng 3 ngày tuổi. Khoảng từ ngày tuổi thứ 11 đến ngày 21, số
giun trưởng thành tăng trong ruột non và sau 3 tuần, trứng bắt đầu xuất hiện
trong phân chó con. Lúc này, chó mẹ có thể nuốt phân chó con, nếu trứng chưa
có phôi thì chính chó mẹ lại thải một lượng lớn trứng trong phân theo cơ chế cơ
học. Khi tiếp xúc với không khí, với môi trường ngoài, trứng phát triển đến ấu
trùng giai đoạn 1, kế đó là ấu trùng giai đoạn 2 nằm trong vỏ trứng. Thời gian
này mất khoảng 12 ngày hoặc hơn, tùy thuộc điều kiện môi sinh. Song ở giai
đoạn phát triển đủ độ, thời gian trứng có khả năng gây nhiễm kéo dài hàng năm,
chó con có thể nuốt trứng có ấu trùng suốt 3 tuần sau sinh, sẽ cho ra giun trưởng
thành sau này trong ruột [10].
* Ở người:
Người là vật chủ ngẫu nhiên, nhiễm do nuốt trứng có ấu trùng của giun đũa
chó. Ấu trùng thoát vỏ khỏi trứng, xâm nhập thành ruột và được chuyên chở theo
đường máu đến gan, phổi và những cơ quan khác. Ở những cơ quan này, ấu
trùng di chuyển hàng tuần hay hàng tháng hoặc ở “trạng thái im lặng”, thành
những vật lạ gây viêm và kích thích tạo ra u hạt thâm nhiễm bạch cầu ái toan
[10].
1.3. Tình hình nghiên cứu và phân bố bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo
1.3.1. Trên thế giới
Bệnh ATGĐCM xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Các nghiên cứu tại một số
châu lục cho thấy những nước vùng nhiệt đới có tỷ lệ nhiễm cao hơn. Nhiễm
ATGĐCM phân bố rộng, từ cực Nam bán cầu cho đến Nam Mỹ, vùng Caribê,
Châu Phi, Trung Đông, Nam Á và Đông Nam Á [42],[71],[87],[96],[106],[125].
Tại Châu Âu, nghiên cứu của Stensvold (2009) xét nghiệm huyết thanh với
3.247 người dân tại Đan Mạch, cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 2,4%
[113]. Nghiên cứu của Dogan (2007) bằng cách chọn ngẫu nhiên 430 trẻ em
vùng nông thôn và 141 trẻ em vùng thành thị vùng đông bắc Thổ Nhĩ Kỳ, kết
quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính chung cả hai nhóm là 12,9%, trong đó
8
vùng nông thôn là 16,9% và vùng thành thị là 0,7% (có sự khác biệt giữa hai
nhóm với p < 0,01) [53]. Tại Ba Lan, tổng hợp các nghiên cứu từ năm 1994 đến
2005, xét nghiệm huyết thanh 18.367 người nghi ngờ bị nhiễm ấu trùng giun đũa
chó, kết quả cho thấy 16,6-75,6% dương tính với giun đũa chó. Thống kê từ năm
1978 đến năm 2009, có tất cả 1.022 trường hợp bệnh ATGĐCM [43].
Tại Mỹ, tỷ lệ huyết thanh dương tính theo tổng hợp của Woodhall (2014)
cho thấy cũng rất cao (13,9%) và ước tính có khoảng 1,3-2,8 triệu người bị
nhiễm. Tác giả cũng chỉ ra rằng thậm chí đối với quốc gia giàu nhất trên thế giới
vẫn có thể bị nhiễm cao. Bệnh ATGĐCM cùng với các bệnh giun sán khác như
giun lươn, giun đũa, ấu trùng sán dây lợn được công nhận là bệnh nhiệt đới bị
lãng quên nhưng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người [121].
Tác giả Lee phân tích tổng hợp 18 bài báo về thực trạng nhiễm Toxocara
spp. tại khu vực Bắc Mỹ, ước tính mức độ nhiễm dao động từ 0,6% ở cộng đồng
người Inuit Canada đến 30,8% ở trẻ em bị hen suyễn ở Mexico Các yếu tố nguy
cơ gồm: chủng tộc người Mỹ gốc Phi, nghèo đói, giới tính nam và sở hữu vật
nuôi hoặc ô nhiễm môi trường bởi phân động vật. Tại Mexico, một số nghiên
cứu cho thấy sự gia tăng tỷ lệ nhiễm Toxocara spp. có liên quan đến một số
nhóm nguy cơ cao bao gồm người thu gom rác, trẻ em mắc bệnh hen và bệnh
nhân tâm thần. Tác giả cho rằng gánh nặng bệnh tật là rất lớn nhưng cần những
nghiên cứu sâu hơn để xác định gánh nặng thực sự của bệnh ở Bắc Mỹ [78].
Tại Nam Mỹ, nghiên cứu của Rondan (2010) tại thành phố Amazonian của
Peru từ tháng 3 đến tháng 8/2008, sử dụng Toxocara ELISA-IgG test khảo sát
300 mẫu, kết quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 35,6%. Có đến 95,3%
số huyết thanh dương tính có các triệu chứng lâm sàng như đau đầu (66,3%), đau
bụng (54,2%), ngứa (40,29%), có triệu chứng ở mắt (36,5%) [103]. Một nghiên
cứu tại thành phố Sorocala, bang Sao Paulo, Braxin, xét nghiệm 180 em học sinh
cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính chung là 38,3%, trong đó số trẻ em ở ngoại
ô nhiễm 47,4%, số trẻ em ở trung tâm thành phố nhiễm 11,1% [49].
9
Ở Châu Phi, điều kiện khí hậu nhiệt đới nên thuận lợi cho sự phát triển của
mầm bệnh ở ngoại cảnh nên nhiễm bệnh ATGĐCM có thể cao hơn các vùng
khác. Nghiên cứu của Liao (2010) tại Swaziland trên 92 trẻ em từ 3 đến 12 tuổi ở
một vùng nông thôn cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 44,6%, không có sự
khác biệt nhiễm giữa nam (46,9%) và nữ (41,8%) [79]. Trong một nghiên cứu tại
vùng miền Trung của Ghana với 566 trẻ em từ 1 đến 15 tuổi, tỷ lệ huyết thanh
dương tính là 53,5%. Nghiên cứu này cho thấy trẻ có tiền sử tiếp xúc đất, nghịch
đất, bồng bế chó mèo cưng, không rửa tay trước khi ăn có tỷ lệ huyết thanh
dương tính cao hơn những trẻ không có thói quen này, sự khác biệt có ý nghĩa
thông kê (p<0,05) [77]. Nghiên cứu của Magnaval (1994) tại đảo La Reunion
trên huyết thanh 387 người dân trên 15 tuổi sử dụng kháng nguyên chất tiết của
T. canis, kết quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính rất cao (92,8%) [84].
Tại khu vực Châu Á, các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính
cũng khác nhau tùy theo từng vùng. Nghiên cứu của Kondo ở Nhật xét nghiệm
3.277 người dân, tỷ lệ huyết thanh dương tính là 1,6% [74]. Đối với các nước
đang phát triển thì tỷ lệ huyết thanh dương tính cao hơn, như nghiên cứu của Rai
(1996) tại Nepal khi xét nghiệm 200 người dân từ 14 tuổi trở lên thì cho kết quả
dương tính đến 81%; hoặc nghiên cứu của Chomel BB (1993) ở Bali, Indonesia,
cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo là 63,2% [48],[102].
Hình 1.5. Bản đồ phân bố huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo trên thế giới
Nguồn: https://www.researchgate.net/publication
10
1.3.2. Tại Việt Nam
Từ năm 2000 đến nay đã có một số nghiên cứu về tỷ lệ huyết thanh dương
tính giun đũa chó/mèo ở cộng đồng cho thấy tỷ lệ này cũng rất khác nhau theo
từng vùng. Ở phía Bắc, theo điều tra của Phan Thị Thu Hoài, năm 2014 trên trẻ
em học sinh tiểu học tại xã Yên Lạc, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, tỷ lệ
huyết thanh dương tính rất cao (74,9%) [14]. Điều tra của Đỗ Trung Dũng
(2016) tiến hành tại 2 xã của huyện Tả Thanh Oai, thành phố Hà Nội và 2 xã của
huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên năm 2014-2015 bằng sử dụng kỹ thuật ELISA
phát hiện kháng thể kháng ATGĐCM trong huyết thanh đã cho kết quả tỷ lệ
huyết thanh dương tính tại Hà Nội là 58,7%, tại Hưng Yên là 58,8% [9].
Tại khu vực phía Nam, nghiên cứu của Trần Thị Hồng tại xã An Phú, Củ
Chi, TP Hồ Chí Minh (2000) cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 38,4%,
Nguyễn Hồ Phương Liên điều tra trên người trưởng thành quận 12, TP Hồ Chí
Minh, tỷ lệ huyết thanh dương tính với Toxocara spp. ở người là 53,58%.
[17],[23].
Tại khu vực miền Trung cũng đã có những nghiên cứu tỷ lệ huyết thanh
dương tính với giun đũa chó ở cộng đồng tại một số tỉnh trong khu vực như
nghiên cứu của Trần Vinh Hiển (2008) tại xã H Bông và xã Chư Pả (huyện Chư
Pả, tỉnh Gia Lai) cho thấy tỷ lệ là 50% [13]. Nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn
(2012) tại Bình Định và Gia Lai cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính tại Bình
Định từ 13,5-16,8%, tại Gia Lai từ 13,1-14,4%. Nghiên cứu của Nguyễn Văn
Chương (2014) tại Bình Định và Đăk Lăk cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính
tại Bình Định từ 29,4-30%, tại Đăk Lăk từ 19,4-26,9% [7],[34].
Bên cạnh nghiên cứu ở cộng đồng thì tại các cơ sở điều trị cũng đã có
những đánh giá tỷ lệ nhiễm trên những bệnh nhân đến khám như nghiên cứu
Phan Anh Tuấn và cộng sự từ năm 2005-2007 với 397 bệnh nhân đến xét
nghiệm tại bộ môn Ký sinh học- Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh có các triệu
chứng dị ứng cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính với kháng nguyên T. canis là
11
46,9% [35]. Lê Thị Cẩm Ly (2015) tổng hợp số bệnh nhân nghi ngờ đến khám
tại Bệnh viện nhiệt đới TP. Hồ Chí Minh từ năm 2010-2011 cho thấy tỷ lệ huyết
thanh dương tính là 49,68% [27]. Nguyễn Thị Nga (2015) tổng hợp số bệnh nhân
nghi ngờ nhiễm Toxoscara spp tại Bệnh viện 103 từ tháng 9/2012-3/2013 cho
thấy trong số 235 bệnh nhân có chỉ định xét nghiệm tìm kháng thể kháng giun
đũa chó, tỷ lệ dương tính là 45,1% [29].
1.4. Triệu chứng lâm sàng, chẩn đoán và điều trị bệnh ấu trùng giun đũa
chó/mèo ở người
1.4.1. Triệu chứng lâm sàng
Sau khi ấu trùng Toxocara spp. đi vào cơ thể, chúng sẽ xuyên thành niêm
mạc ruột đến các cơ quan gan, phổi, não, tim, cơ xương, mắt thông qua cơ chế
cơ học và sự tham gia của các enzyme protease. Các ấu trùng di chuyển sẽ bị
ngăn chặn hoặc ảnh hưởng bởi đáp ứng miễn dịch dẫn đến phản ứng viêm tại
chỗ, tăng bạch cầu ái toan, các cytokine và các kháng thể đặc hiệu. Trong thực
hành lâm sàng, một số trường hợp nhiễm ấu trùng Toxocara spp. không biểu
hiện triệu chứng, nhưng khi có triệu chứng có thể biểu hiện dưới nhiều hội
chứng và thể bệnh khác nhau [80].
Triệu chứng lâm sàng bệnh ATGĐCM ở người phần lớn là do sự di chuyển
của ấu trùng giai đoạn 3 của Toxocara spp. qua đường máu đến các tổ chức
trong cơ thể bao gồm ở cơ, gan, não và mắt. Sự di chuyển của ấu trùng có thể
dẫn tới nhiều triệu chứng, và các triệu chứng này phụ thuộc vào cơ quan hoặc tổ
chức bị ấu trùng ký sinh, thời gian, số lượng ấu trùng, tuổi và đáp ứng miễn dịch
với ấu trùng từ cơ thể. Nhiều trường hợp không biểu hiện triệu chứng nếu nhiễm
nhẹ, tuy nhiên ở những bệnh nhân khác, ấu trùng có thể di chuyển đến các tạng
gan, phổi, tim, não, mắt và có thể gây ra các vấn đề về sức khoẻ như: hội chứng
tăng bạch cấu ái toan mạn tính, tăng bạch cầu chung, sốt, gan to, viêm phế quản,
giả hen, viêm phổi, viêm cơ tim, động kinh, viêm võng mạc, viêm kết mạc, viêm
màng bồ đào, viêm nhãn cầu [122]. Chính vì triệu chứng lâm sàng không đặc
12
hiệu do dễ nhầm lẫn với các bệnh khác và việc không thể thực hiện được các kỹ
thuật chẩn đoán miễn dịch cần thiết tại nhiều cơ sở y tế tuyến dưới nên các ca
bệnh này rất dễ bỏ sót. Tử vong do bệnh ATGĐCM là hiếm nhưng cũng đã gặp
một số trường hợp ấu trùng ký sinh ở gan, phổi hoặc nào nếu không điều trị kịp
thời. Những trường hợp ấu trùng ký sinh ở mắt có thể gây giảm thị lực và mù
vĩnh viễn. Hiện nay tại Mỹ, bệnh ATGĐCM là một trong năm bệnh nhiệt đới bị
lãng quên đang được quan tâm vì theo thống kê mỗi năm có ít nhất 70 người
(chủ yếu là trẻ em) bị mù do bệnh này [121].
Mặc dù triệu chứng lâm sàng của bệnh ấu trùng giun đũa chó không rõ ràng
và đặc hiệu nhưng việc chẩn đoán có thể dựa trên những biểu hiện của một số
thể lâm sàng như thể nội tạng, thể ở mắt, thể thần kinh và thể thông thường [80].
* Thể nội tạng: là hội chứng thường gặp nhất ở những người bị nhiễm bệnh,
đặc biệt là trẻ em, với các dấu hiệu lâm sàng như ho, thở khò khè, đau cơ hoặc
biểu hiện da (ví dụ ngứa, phát ban, chàm, viêm túi mật và viêm mạch máu) [52].
Mặc dù ở hầu hết các trường hợp thể nội tạng, ấu trùng di cư không gây ra các
triệu chứng, ngoại trừ một số triệu chứng liên quan đến hạch bạch huyết, viêm
gan siêu vi, viêm gân nách, viêm thận, viêm khớp xảy ra ở một số người [75].
Ngoài ra, những tác dụng lâu dài, như sự phát triển của bệnh hen và thúc đẩy xơ
phổi, cũng bị nghi là có liên quan đến những trường hợp bị ấu trùng di chuyển
nội tạng.
* Thể ở mắt: phổ biến và thường gặp ở trẻ em từ 3 đến 16 tuổi [98]. Ấu
trùng có thể gây giảm thị lực thường ở một bên mắt, ngoại lệ cũng có ảnh hưởng
hai bên mắt. Soi đáy mắt thấy dạng viêm hạt ở võng mạc, viêm kết mạc, u hạt
trong mắt, viêm nội nhãn do ấu trùng di chuyển còn sống, hoặc đã chết gây tái
hoạt miễn dịch. Mù có thể xảy ra do tình trạng viêm mống mắt, phù mô và bong
võng mạc không điều trị kịp thời [86].
* Thể thần kinh: rất hiếm và xảy ra chủ yếu ở những người trung niên [51].
Hội chứng này liên quan đến sự di chuyển ấu trùng ở hệ thần kinh trung ương và
13
tiếp theo là viêm màng não, viêm não, viêm mạch máu não, hoặc viêm tủy,
thường liên quan đến các triệu chứng lâm sàng tương đối không đặc hiệu , sốt và
nhức đầu.
* Thể không điển hình hoặc thể thông thường: gồm các triệu chứng lâm
sàng như sốt, chán ăn, nhức đầu, thở khò khè, buồn nôn, đau bụng, nôn mửa, lơ
mơ, buồn ngủ và rối loạn hành vi, phổi, viêm phế quản, viêm phế quản, các triệu
chứng, đau chân tay, viêm đại tràng và gan lớn xảy ra ở trẻ em, trong khi đó suy
nhược, ngứa, phát ban, rối loạn chức năng phổi, suy giảm phổi và đau bụng có
thể thấy chủ yếu ở người lớn. Cũng có những mối liên hệ giữa bệnh ấu trùng
giun đũa chó và hen suyễn. Những đặc điểm lâm sàng này thường kết hợp với
các mức độ kháng thể huyết thanh kháng Toxocara từ trung bình đến cao [119].
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Trần Thị Hồng (2001) tại Tp. Hồ Chí Minh
cũng phân loại tỷ lệ trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó theo các thể lâm
sàng cho thấy thể thần kinh - cơ (56%), thể ngoài da (15%), thể tiêu hóa (11%),
thể hô hấp (4%), thể không đặc hiệu (13%) [16].
Có một số báo cáo trường hợp bệnh về thể nội tạng và thể ở mắt tại các cơ
sở y tế như nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương về 2 ca bệnh ấu trùng giun đũa
chó thể di chuyển nội tạng chủ yếu về hô hấp (ho, đau ngực, tràn dịch màng
phổi), về thần kinh (đau đầu, co giật, liệt tay trái) [4]. Vũ Thị Lâm Bình báo cáo
ca bệnh thể ở mắt: bệnh nhân nữ 34 tuổi có biểu hiện nhìn mờ 2 mắt được chẩn
đoán ban đầu là viêm màng bồ đào, điều trị thuốc kháng vi rút nhưng thị lực cải
thiện chậm, sau đó thị lực giảm đột ngột còn 2/10, đau và đỏ mắt. Xét nghiệm
huyết thanh dương tính, các xét nghiệm khác cũng được tiến hành để loại trừ các
nguyên nhân khác. Điều trị bằng albendazole phối hợp với medrol trong 15
ngày, kết quả thị lực đã tăng lên 8/10, hiệu giá kháng thể kháng giun đũa chó
giảm rõ rệt. Từ trường hợp lâm sàng trên cho thấy bệnh ấu trùng giun đũa chó
thể mắt dễ nhầm với các bệnh khác [1].
Một số nghiên cứu khác tổng hợp theo tần suất của triệu chứng lâm sàng
14
như nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014), các triệu chứng chiếm tỷ lệ
cao như ngứa, nổi mẩn (69%), đau đầu (63,9%), đau bụng (45,6%), nhức chân
tay (38,8%), mệt mỏi (35%), tê bì (31,6%), khác như tức ngực, đau thượng vị,
sốt …(10,5%) [6]. Nghiên cứu của Lương Trường Sơn tại Viện Sốt rét-KST-CT
TP Hồ Chí Minh và của Lê Thị Cẩm Ly tại Bệnh viện nhiệt đới TP Hồ Chí Minh
cho thấy các triệu chứng chiếm tỷ lệ cao như ngứa, nổi mề đay từ 83,1-94,2%,
đau đầu từ 25,2-38,9%, rối loạn tiêu hóa từ 30-32%; nghiên cứu của Lê Đình
Vĩnh Phúc (2015) tại Trung tâm Y khoa Medic, TP Hồ Chí Minh: ngứa chiếm
78,5%, mề đay 50,2%, nhức đầu 30,6%, ăn kém 13,9%, đau bụng 7,7%, rối loạn
tiêu hóa 9,1% [27],[30],[31].
1.4.2. Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định dựa trên sự phát hiện ấu trùng Toxocara spp. trong
mẫu mô xét nghiệm, tuy nhiên sinh thiết lấy mẫu mô chứa ấu trùng có thể gặp
khó khăn và phức tạp, thậm chí có biến chứng. Vì vậy việc chẩn đoán thường
dựa vào đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm huyết thanh, tuy nhiên chẩn đoán lâm
sàng thường không chắc chắn bởi lẽ các triệu chứng của bệnh do ATGĐCM
không điển hình, với những dấu chứng trên lâm sàng không đặc hiệu nên dẫn
đến việc chẩn đoán không chính xác hoặc thiếu cơ sở [70]. Các kỹ thuật chẩn
đoán hình ảnh có thể trợ giúp chẩn đoán lâm sàng cho các thể ấu trùng di chuyển
ở mắt hay nội tạng. Siêu âm, CT (Computed tomography) và MRI (Magnetic
resonance imaging) giúp kiểm tra các trường hợp liên quan đến ấu trùng di
chuyển nội tạng. Chụp cắt lớp ở mắt, chụp mạch có chất màu fluorescein, chụp
CT và siêu âm mắt có thể có ích trong chẩn đoán thể mắt [80].
Các xét nghiệm huyết thanh miễn dịch như ELISA (Enzyme-Linked
ImmunoSorbent Assay) và Immunoblot thường được áp dụng trên người. Các
xét nghiệm ngưng kết Ouchterlony precipitation và phản ứng khuếch đại chuỗi
DNA như PCR đã phát triển nhưng hiện chưa được sử dụng tại các quốc gia một
cách phổ biến. Test huyết thanh miễn dịch ELISA phát hiện kháng thể IgG rất có
15
ích trong hỗ trợ chẩn đoán nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo. Sử dụng ELISA
đặc hiệu với kháng nguyên giai đoạn ấu trùng (kháng nguyên tiết – TES) sẽ có
độ đặc hiệu và độ nhạy hơn các test chẩn đoán khác nếu huyết thanh được hấp
phụ lần đầu tiên với kháng nguyên trong huyết thanh giun đũa để loại bỏ những
kháng thể gây ra phản ứng chéo. Trong thập kỷ qua, thử nghiệm immunoblot đã
được phát triển bằng cách sử dụng các protein ES tái tổ hợp, sử dụng kháng thể
đơn dòng cho các protein ES Toxocara giúp khả năng phân biệt nhiễm trùng hiện
tại [85],[125].
Tuy nhiên, sử dụng bộ kít xét nghiệm chỉ cho kết quả huyết thanh dương
tính hay âm tính với giun đũa chó, vì có nhiều trường hợp dương tính nhưng
không có triệu chứng lâm sàng. Do đó việc chẩn đoán xác định bệnh ấu trùng
giun đũa chó cần phải kết hợp thêm các triệu chứng lâm sàng. Nghiên cứu của
Nguyễn Văn Chương tại Bình Định và Đăk Lăk xác định bệnh ấu trùng giun đũa
chó với 2 tiêu chí là huyết thanh dương tính kết hợp với ít nhất 1 triệu chứng lâm
sàng, kết quả cho thấy tỷ lệ có triệu chứng lâm sàng trên số ca huyết thanh
dương tính giun đũa chó là 52% (142/273) [6].
Ngoài ra, nhiễm ATGĐCM là một trong những nguyên nhân gây tăng bạch
cầu ái toan (BCAT) trong máu ngoại vi và kích thích sự thâm nhiễm BCAT
trong các cơ quan nội tạng. Nghiên cứu của Kwon N.H (2006) đánh giá sự phổ
biến của nhiễm ATGĐCM trong chứng tăng BCAT không rõ và để phân tích
hiệu quả của xét nghiệm huyết thanh miễn dịch ELISA. Bệnh nhân có tăng
BCAT máu trong máu ngoại vi (> 500 tế bào/µl hoặc ≥ 10% tổng số bạch cầu).
Trong 103 bệnh nhân có tăng bạch cầu ái toan, có 70 bệnh nhân (68,0%) huyết
thanh dương tính giun đũa chó. Điều này cho thấy tỷ lệ mắc bệnh này là cao ở
những bệnh nhân có tình trạng tăng BCAT và xét nghiệm ELISA tìm kháng thể
kháng giun đũa chó là cần thiết để xác định nguyên nhân [76].
Một số nghiên cứu đánh giá tỷ lệ tăng BCAT trên số ca huyết thanh dương
tính giun đũa chó cho thấy tỷ lệ cũng khác nhau như nghiên cứu của Nguyễn
16
Văn Chương (2014) tại Bình Định và Đăk Lăk, tỷ lệ BCAT trên 8% là 27,1%;
của Bùi Văn Tuấn (2012) tại Bình Định và Gia Lai là 30,8% hay của Trần Thị
Hồng (2000) tại Củ Chi là 52% [7],[17],[34].
Tuy nhiên, tỷ lệ mắc các loại giun sán gây tăng BCAT có thể khác nhau tùy
từng quần thể và phụ thuộc vào nguồn gốc địa lý, tiền sử phơi nhiễm và các hoạt
động của quần thể đó liên quan đến phơi nhiễm. Mặc dù tăng BCAT khi được
chẩn đoán xét nghiệm là một dấu ấn hữu ích giúp hướng tới một bệnh ký sinh
trùng nhưng cũng có rất nhiều bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng không có hiện
tượng tăng BCAT khi xét nghiệm. Nghiên cứu của Lê Thị Cẩm Ly (2015) thu
thập 383 bệnh nhân nghi nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại Bệnh viện Nhiệt đới
Tp. Hồ Chí Minh. Số ca có huyết thanh dương tính giun đũa chó là 190 (49,7%),
tuy nhiên khi so sánh số lượng BCAT trung bình cho thấy ở nhóm có huyết
thanh dương tính là 824,6 tế bào/ml và nhóm huyết thanh âm tính là 807,5 tế
bào/ml, sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê [27].
* Định nghĩa trường hợp bệnh ATGĐCM
Theo tài liệu “Định nghĩa trường hợp bệnh truyền nhiễm”, ban hành kèm
theo Quyết định số 4283/QĐ-BYT ngày 8/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế:
- Trường hợp bệnh nghi ngờ:
Là trường hợp có các triệu chứng sau:
+ Ngứa, nổi mẩn;
+ Đau đầu, đau bụng, khó tiêu;
+ Đau nhức mỏi, tê bì;
+ Sốt, thở khò khè;
+ Có thể kèm theo một hoặc các triệu chứng sau: gan to, viêm phổi,
đau bụng mãn tính, rối loạn thần kinh khu trú, tổn thương ở mắt, giảm thị
lực, viêm mắt, tổn thương võng mạc.
- Trường hợp bệnh có thể:
Không áp dụng
17
- Trường hợp bệnh xác định:
Là trường hợp bệnh nghi ngờ và tìm thấy ấu trùng giun đũa chó, mèo hoặc
xác định được kháng thể kháng ấu trùng giun đũa chó, mèo bằng xét nghiệm
ELISA hoặc phát hiện đoạn gen đặc hiệu của ấu trùng giun đũa chó, mèo bằng
kỹ thuật sinh học phân tử [3].
1.4.3. Điều trị
Các nhà nghiên cứu lâm sàng đều thống nhất là không cần điều trị cho
những trường hợp chỉ có huyết thanh dương tính giun đũa chó mà không có triệu
chứng lâm sàng. Điều trị bệnh ATGĐCM chỉ được tiến hành khi có kết quả xét
nghiệm huyết thanh dương tính kết hợp với triệu chứng lâm sàng ở các thể thông
thường, thể nội tạng và thể ở mắt. [6],[31],[83]. Mặc dù kháng thể kháng IgG có
thể tồn tại trong cơ thể người từ 6 tháng đến 1 năm, thậm chí có trường hợp kéo
dài đến 2 năm, nhưng theo một số tác giả cho rằng khi ấu trùng giun đũa chó lưu
hành trong máu nếu không ký sinh ở tổ chức thì sẽ chết và bị đào thải, kháng thể
sẽ giảm dần từ 6 tháng đến 1 năm (trong trường hợp không tái nhiễm) và những
trường hợp ấu trùng giun đũa chó ký sinh ở tổ chức (có gây triệu chứng lâm
sàng), khi điều trị bằng albendazol liều 15 mg/kg cân nặng trong 21 ngày, tỷ lệ
kháng thể giảm sau 6 tháng là 78,6% và 88% [6],[31].
Các thuốc chống giun sán có thể sử dụng điều trị hội chứng ấu trùng di
chuyển nội tạng. Điều trị bằng các loại thuốc này có thể dẫn đến các phản ứng
quá mẫn nghiêm trọng gây ra bởi ấu trùng chết, do đó các thuốc chống viêm như
corticosteroids được chỉ định đồng thời trong các trường hợp bệnh đặc biệt. Điều
trị bệnh lý ở mắt có thể can thiệp phẫu thuật, áp lạnh laser hoặc thuốc giảm tổn
thương mắt [106].
Hiện tại có rất nhiều loại thuốc trên thị trường có hiệu quả với bệnh
ATGĐCM này, song mỗi loại thuốc có cơ chế tác dụng riêng và có những tác
dụng ngoại ý nhất định, phần lớn liệu trình điều trị thuốc nào cũng dài ngày.
Dưới đây là một số thuốc có hiệu quả và đã được nghiên cứu:
18
Thiabendazol dùng liều 25mg/kg cân nặng/ngày [83] và 50mg/kg cân
nặng/ngày [115] trong 3 đến 7 ngày, hiệu quả cải thiện về lâm sàng 50% và 53%
tương ứng. Tác dụng phụ gồm chóng mặt, buồn nôn và ói mửa chiếm 50% và
60%.
Mebendazol liều 20-25mg/kg cân nặng/ngày trong 3 tuần, hiệu quả đạt 70%
cải thiện lâm sàng. Tác dụng ngoại ý gồm chóng mặt, buồn nôn, đau bụng chiếm
17% [83].
Sử dụng albendazol điều trị liều dài ngày cũng đã được đề nghị như nghiên
cứu của Hombu. A (2017) tại Nhật, điều trị 246 ca với liều albendazol 10-
15mg/kg cân nặng trong 4 tuần cho hiệu quả khỏi bệnh là 78%, tác dụng phụ là
15% nhưng mức độ nhẹ không cần phải can thiệp [67]. Vì vậy albendazole hiện
nay đang là thuốc được lựa chọn ưu tiên để điều trị do tác dụng ngoại ý rất thấp
và thuốc sẵn có tại khắp nơi trên thế giới.
Tại Việt Nam, theo “Cẩm nang phòng chống bệnh truyền nhiễm” của Bộ Y
tế (2009), có hướng dẫn điều trị bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo bằng
albendazol với liệu trình 3 đến 4 tuần [2]. Một số nghiên cứu về điều trị như của
Lương Trường Sơn tại Phòng khám Viện Sốt rét-KST-CT thành phố Hồ Chí
Minh với phác đồ albendazol liệu trình 21 ngày cũng cho kết quả khả quan, với
73% bệnh nhân hết ngứa, 92% hết mề đay và 88% xét nghiệm lại ELISA âm tính
[31].
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương tại khu vực miền Trung với
albendazole liều 15mg/kg cân nặng liệu trình 14 ngày đối với cộng đồng và 21
ngày với bệnh nhân tại cơ sở điều trị cho thấy sau 6 tháng, tỷ lệ khỏi tại cộng
đồng là 71,7%, tại cơ sở điều trị là 86,3% [6]. Tác dụng ngoại ý của thuốc điều
trị tại cộng đồng và cơ sở điều trị đều thấp. Một số triệu chứng do tác dụng ngoại
ý của thuốc như buồn nôn 3,1-3,5%; chán ăn 2,7-5,3%; đau đầu 4,4-5,3%; dị ứng
da 2,7-3,8%; tức ngực 0,9-3,1%; đau bụng 2,7-3,1%. Tác dụng ngoại ý của thuốc
19
thường diễn ra sau 2 đến 3 ngày đầu điều trị, sau đó thì giảm dần, thông thường
sau một tuần sẽ hết [6].
1.5. Một số yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo
Có nhiều nghiên cứu mô tả yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến nhiễm ấu trùng
giun đũa chó/mèo bao gồm: nguồn nhiễm giun đũa chó/mèo ở vật chủ chính,
môi trường ngoại cảnh (đất, rau), điều kiện khí hậu phù hợp cho sự phát triển và
sống sót của trứng ở ngoại cảnh, các yếu tố về kinh tế, xã hội và hành vi của con
người.
1.5.1. Nguồn nhiễm giun đũa chó/mèo ở vật chủ chính
Chó và mèo đóng vai trò quan trọng trong việc lan truyền bệnh ký sinh
trùng, trong đó bệnh giun đũa chó/mèo lưu hành với phạm vi rộng. Ở nhiều quốc
gia, số lượng chó/mèo được nuôi giữ ở nhà tăng lên dẫn đến sự gia tăng nguy cơ
nhiễm đối với người. Tại châu Âu, tỷ lệ nhiễm giun đũa khác nhau từ 3,5-34% ở
chó và 8-76% ở mèo. Ở chó, đường lây truyền quan trọng là qua nhau thai với
gần 100% chó con bị nhiễm bởi ấu trùng qua đường này. Ngoài ra chó con còn
có thể nhiễm qua đường sữa mẹ [95].
Việc không tẩy giun cho chó mèo sẽ dẫn đến một số lượng lớn trứng thải ra
môi trường. Nghiên cứu trên những chó con 6 tháng tuổi nhiễm 12 con giun đũa
cái T. canis thải ra 300 nghìn trứng trong 1 lần thải phân, tính ra trong 1 tuần
khoảng 10 triệu trứng và khoảng 20 tuần là 200 triệu trứng [112].
Nghiên cứu tại nhiều điểm ở Ấn Độ cho thấy: trong số 968 mẫu phân chó
khảo sát, tỷ lệ nhiễm từ 12,1-27% (nhiễm chung là 19,4%). Tỷ lệ nhiễm cao nhất
ở chó nhỏ, với chó càng lớn thì tỷ lệ nhiễm càng giảm [50].
Trong một nghiên cứu cắt ngang xác định tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại
vùng Tây Nam Nigeria từ 2011-2012, xét nghiệm 474 mẫu phân chó bằng kỹ
thuật Kato-Katz cho thấy tỷ lệ nhiễm là 34,6%, cường độ nhiễm trứng trên 1
gam phân là 4301,2 ± 348,4. Tuổi của chó liên quan đến tỷ lệ nhiễm, chó từ 6
tháng tuổi trở xuống nhiễm gấp 7,9 lần chó lớn hơn. Chó thả rông nhiễm gấp 2,7
20
lần chó nhốt chuồng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng tỷ lệ nhiễm ở chó con cao hơn
chó lớn; chó thả rông cao hơn chó nhốt chuồng. Nghiên cứu cũng đề xuất
chương trình tẩy giun cho chó nhằm giảm nguồn bệnh [39].
Yakhchali. M (2014) điều tra ngẫu nhiên 150 mẫu phân chó ở thành phố
Piranshahr, Iran, tỷ lệ nhiễm ở chó là 31,3%. Cường độ nhiễm trứng trung bình
trên 1 gam phân là 2195,7 ± 983,7. Có sự khác biệt giữa nhóm tuổi của chó và
nhiễm giun, chó dưới 1 tuổi nhiễm 54,54%, trên 1 tuổi nhiễm 22,4%. Nhiễm ở
chó đực (38,46%) cao hơn ở chó cái (25%) có ý nghĩa thống kê [123].
Bùi Ngọc Thúy Linh (2003) xét nghiệm phân 2204 con chó và mổ khám
230 chó nuôi tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ nhiễm T. canis bằng xét nghiệm
phân là 37,84%, bằng mổ khám là 32,17% và chỉ phát hiện một loài giun đũa T.
canis. Tỷ lệ nhiễm T. canis cao trên chó dưới 3 tháng tuổi (60,05%) và có
khuynh hướng giảm dần theo tuổi, không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm T. canis
giữa chó đực và chó cái [24]. Võ Thị Hải Lê (2009) điều tra tình hình nhiễm
giun tròn đường tiêu hóa của chó tại một số điểm đại diện 3 vùng miền núi, đồng
bằng và ven biển tỉnh Nghệ An. Mổ khám 128 chó cho thấy tỷ lệ nhiễm T. canis
từ 23,1-26,4%, trong đó chó từ 1-6 tháng tuổi nhiễm 40,98%; từ 7-12 tháng tuổi
nhiễm 29,6%; từ 12 tháng tuổi trở lên nhiễm 33,08% [21]. Năm 2011, cùng tác
giả cũng đã điều tra tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó tại một số
điểm tỉnh Thanh Hóa cho thấy tỷ lệ nhiễm T. canis bằng xét nghiệm phân là
22,8-40%, bằng mổ khám 10-25%; phân tích nhiễm theo nhóm tuổi cho thấy chó
càng nhỏ tỷ lệ nhiễm càng cao, từ 2 tháng đến 6 tháng nhiễm từ 30-41,2%, chó
từ 7 tháng đến 12 tháng nhiễm từ 22,5-25%, chó trên 12 tháng nhiễm từ 7,5-
22,5% [22].
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Hưng (2012) xét nghiệm 810 mẫu phân chó,
mổ khảo sát 241 con chó tại 4 huyện của thành phố Cần Thơ cho thấy tỷ lệ
nhiễm giun đũa chó chung qua xét nghiệm phân là 10,9% và qua mổ khám là
22,4% [18]. Bùi Văn Tuấn (2012) điều tra xét nghiệm phân chó tại một số điểm
21
của Bình Định và Gia Lai cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại Bình Định
từ 34,37-46,67%; tại Gia Lai từ 35,29-43,1% [34]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn
Chương (2014) cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại Bình Định từ 22,8-
32,4%, tại Đăk Lăk nhiễm từ 32,1-35,8% [7].
Đỗ Thị Thu Thúy (2015) điều tra tình hình nhiễm giun đũa chó mèo tại
Thanh Oai và Thường Tín, Hà Nội cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó là
35,75%, ở mèo là 45,84%. Chó/mèo dưới 1 năm tuổi nhiễm cao hơn chó mèo
trưởng thành. Nghiên cứu chỉ ra rằng với lượng chó nuôi nhiều hơn mèo, cường
độ nhiễm trứng trung bình khá cao (2863 trứng/gam phân), lượng phân thải ra
trong ngày nhiều hơn mèo nên dẫn đến số lượng trứng thải ra môi trường nhiều
hơn, do vậy chó đóng vai trò quan trọng hơn mèo trong việc lây truyền bệnh ấu
trùng giun đũa chó/mèo sang con người [32].
1.5.2. Mầm bệnh ở ngoại cảnh
Trứng giun đũa chó/mèo được thải ra ngoại cảnh theo đường phân, trứng sẽ
phát triển ở ngoại cảnh cho đến giai đoạn trứng có ấu trùng mới gây nhiễm được.
Ô nhiễm trứng ở ngoại cảnh phát hiện chủ yếu ở môi trường đất, rau, thực phẩm.
Tại châu Âu, Gurel (2005) đã xét nghiệm 111 mẫu đất ở những công viên
thành phố Ayden, Thổ Nhĩ Kỳ và phát hiện tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo
ở đất là 18,91% [63]. Một nghiên cứu tại vùng Pula, Croatia bằng việc xét
nghiệm trứng giun đũa chó/mèo nhiễm trong các mẫu đất được lấy theo hai mùa
tại các công viên và sân chơi công cộng. Trong tổng cộng 90 mẫu đất và cát
được thu thập từ 9 công viên vào tháng 6 và tháng 12, tỷ lệ nhiễm trứng ở đất
vào 2 mùa khác nhau, với 15,5% vào tháng 6 (mùa khô) và 23,3% vào tháng 12
(mùa mưa), tuy nhiên sự khác biệt này có không có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ
nhiễm trứng trên đất và cát [114]. Tương tự, một nghiên cứu khác được tiến
hành tại Lodz, Ba Lan trên 88 mẫu đất và cát trong 2 lần năm 2011, một lần vào
mùa thu và một lần vào mùa xuân năm 2012. Một nửa số mẫu đất cát được thu
thập nơi có kiểm soát chó mèo và một nửa số mẫu được thu thập nơi không có
22
kiểm soát. Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm cao ở vùng mà chó mèo ít được kiểm
soát (tỷ lệ nhiễm ở đất, cát là 15,8%, mật độ nhiễm 1,2 trứng/100 gam). Tại vùng
có kiểm soát chó mèo, mật độ nhiễm trứng giun ở đất ít hơn 6 lần và ở cát ít hơn
3 lần so với vùng không được kiểm soát chó mèo. Nghiên cứu này chỉ ra sự cần
thiết có chương trình giáo dục để bảo vệ người dân tránh bị nhiễm bệnh ấu trùng
giun đũa chó [44].
Tại Nam Mỹ, một nghiên cứu tại vùng nông thôn thuộc khu ổ chuột ở bang
Sao Paolo, Brazil cho thấy tỷ lệ đất nhiễm trứng giun đũa chó/mèo là 29,03%.
Đây là vùng có tỷ lệ nuôi chó/mèo cao (87,1% và 54, 8% tương ứng). Tuy nhiên,
nghiên cứu này chưa thấy mối liên quan giữa các hộ nuôi chó/mèo và nhiễm
trứng giun đũa chó/mèo ở đất, nguyên nhân chính có thể xuất phát từ nuôi
chó/mèo thả rông. Tuy nhiên với tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo ở môi
trường như vậy cộng với điều kiện sống nghèo nàn có thể là yếu tố nguy cơ quan
trọng trong việc lây truyền bệnh ATGĐCM ở người [111].
Tại châu Á, một nghiên cứu tại một quận của Ấn Độ với 4 vị trí: công viên,
sân chơi, đường đi bộ và đất trước cửa nhà người dân, đồng thời cũng phân loại
đất cát và đất sét. Kết quả cho thấy tỷ lệ đất vùng công viên nhiễm trứng giun
đũa chó/mèo là 17,02%. Tỷ lệ nhiễm ở đất vùng công viên cao hơn các vị trí
khác, tiếp theo là đất ở trước cửa nhà (13,33%), tiếp theo là đất trên đường đi bộ
(11,7%), nhiễm thấp nhất là ở các sân chơi (8,33%). Nghiên cứu còn cho thấy tỷ
lệ nhiễm trứng trên đất sét cao hơn trên đất cát (17,64% và 10,66% tương ứng)
[116]. Sự phát triển trứng giun đũa chó/mèo ở đất còn theo mùa. Tại Iran, nghiên
cứu của Pezeshki (2017) điều tra ngẫu nhiên trên đất tại 41 nơi công cộng ở các
vùng khác nhau của Ardabil từ tháng 3/2013 đến tháng 3/2014 cho thấy tỷ lệ
nhiễm chung là 7%, và tỷ lệ nhiễm vào mùa xuân (12%) cũng như mùa đông
(12%) thì cao hơn mùa hè (2%) và mùa thu (2%) [97]. Một nghiên cứu ở vùng
thành thị Kathmandu của Nepal cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo ở
đất là 22,85%, trong đó tỷ lệ nhiễm tại mùa mưa (31,6%) cao hơn mùa khô
23
(18,4%) [101]. Yakhchali (2014) điều tra ngẫu nhiên 150 mẫu đất ở Piranshahr,
Iran từ tháng 2012-2013, tỷ lệ nhiễm là 8%. Tỷ lệ đất nhiễm cao nhất vào mùa
xuân (13,15%) hơn các mùa khác (p < 0,05) [121].
Nghiên cứu của Fajutag (2015) tại Laguna, Philippine vừa xét nghiệm đất
vừa xét nghiệm huyết thanh ở học sinh cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa
chó/mèo ở đất là 43%, trong đó nhiễm ở sân trường học là 42%, sân vườn là
45% và nơi đất trống là 40%. Tỷ lệ huyết thanh dương tính chung ở học sinh là
49%. Kết quả cho thấy mối liên quan giữa nhiễm ở đất và ở người. Nghiên cứu
này cũng kết luận rằng đất bị ô nhiễm trứng giun cao thì tỷ lệ huyết thanh dương
tính ở người cũng cao [56].
Tại Việt Nam, Bùi Văn Tuấn (2012) điều tra xét nghiệm đất tại một số điểm
của Bình Định và Gia Lai cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo ở đất tại
những hộ có nuôi chó ở các điểm nghiên cứu từ 35,71-42,85%, tại những hộ
không nuôi chó từ 8,57-20,45%. Có sự khác biệt giữa việc có nuôi chó hay
không và hiện tượng nhiễm trứng giun Toxocara sp. ở đất, vì nghiên cứu cho
thấy nguy cơ các mẫu đất bị nhiễm trứng giun Toxocara sp. ở những hộ có nuôi
chó cao gấp từ 2,9-9,4 lần ở những hộ không nuôi chó [34]. Năm 2013, cùng tác
giả trên cũng điều tra đất tại một số điểm của hai tỉnh Quảng Ngãi và Đăk Lăk
cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo ở đất tại Quảng Ngãi từ 14-26%,
tại Đăk Lăk từ 34-37% [33]. Trong khi đó, Nguyễn Văn Chương (2014) điều tra
tại một số điểm của Bình Định, Đăk Lăk cho kết quả tương tự: tỷ lệ nhiễm trứng
giun đũa chó mèo ở đất tại Bình Định từ 20-25%, tại Đăk Lăk từ 36,7-38,3% [7].
Ngoài đất ra thì rau cũng là một nguồn nhiễm trứng giun đũa chó mèo, mà nguyên nhân có thể là do sự phóng uế của chó/mèo vào các vườn rau. Abougrain
(2010) điều tra tại các chợ ở Tripoly, Lybia trên 4 loại rau là cà chua, dưa chuột,
diếp cá, cải xoong cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo lần lượt trên mỗi
loại là 3%; 8%, 37% và 33% [37]. Said (2012) điều tra ở Ai Cập trên 300 mẫu
của 5 loại rau thường ăn sống như ngò tây, diếp cá, tỏi, hành…; những mẫu rau
24
này thường thu thập hàng tháng tại các vườn trồng, chợ nhỏ, siêu thị. Kết quả
cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo là 19%, tỷ lệ nhiễm vào mùa xuân
và mùa hè cao hơn mùa thu và mùa đông (p<0,01) [109]. Haq (2014) nghiên cứu
khảo sát trên những loại rau thường ăn sống tại các chợ lớn và những vườn trồng
rau tại Lahore, Pakistan. Tất cả có 10 loại rau được chọn, mỗi loại 50 mẫu, kết
quả tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó/mèo là 3,8% [66].
Abdi (2014) phân tích tổng hợp các bài báo có liên quan đến nhiễm trứng
giun đũa chó/mèo ở rau quả tại Iran. Xét nghiệm 4.359 mẫu rau quả gồm hành,
tỏi, rau quế, cải, ngò tây, diếp cá … cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó
chung là 75%, nhiễm cao nhất là ở rau hành. Tác giả đã kết luận mặc dù có cải
thiện về mặt vệ sinh, các điều kiện về kinh tế, xã hội và điều kiện nông nghiệp
nhưng ký sinh trùng vẫn còn phổ biến trên rau quả người dân thường ăn sống.
Đây là vấn đề cần thiết để cải thiện sức khỏe cộng đồng và hướng dẫn phương
pháp rửa rau [36].
Tại Việt Nam, điều tra của Lê Thị Ngọc Kim (2007) trên một số rau sống
bán tại các siêu thị ở địa bàn TP. Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ nhiễm trứng giun
đũa chó/mèo chung trên rau là 11,5% [20]. Điều tra của Nguyễn Văn Chương
(2014) cho thấy tỷ lệ nhiễm ở một số loài rau thường ăn sống tại Bình Định từ 4-
8%, tại Đăk Lăk từ 1-3% [7].
Mầm bệnh còn gặp trên lông chó mèo, Tavassoli (2012) điều tra trên 138
mẫu lông chó cảnh và chó giữ nhà ở vùng Tây Bắc, Iran cho thấy có 60 (36,2%)
mẫu nhiễm trứng giun đũa chó. Qua phân tích thấy lông chó con từ 6 tháng tuổi
trở xuống nhiễm đến 82%. Nhiễm ở lông chó giữ nhà cao hơn ở chó cảnh [117].
Oge (2013) khảo sát trên 130 con chó, mèo thả rông ở Thổ Nghĩ Kỳ, tỷ lệ trứng
giun đũa trên lông chó là 49%, trên lông mèo là 13,3%. Trên lông chó tính được
là 857 trứng giun đũa, trong đó 439 (51,2%) trứng chưa phát triển, 131 (15,3%)
trứng đang phát triển, 89 (10,4%) trứng đã phát triển đến giai đoạn ấu trùng và
25
198 (28,1%) trứng bị thoái hóa. Nghiên cứu này chỉ ra nguy cơ nhiễm bệnh ấu
trùng giun đũa chó nếu tiếp xúc hoặc bồng bế chó [92].
1.5.3. Yếu tố môi trường
Giai đoạn gây nhiễm của trứng giun đũa chó/mèo là từ lúc trứng phát triển
đến khi phát triển thành trứng chứa ấu trùng giai đoạn 3. Dưới điều kiện thích hợp như nhiệt độ từ 25-300C, độ ẩm 85-95%, sự phát triển từ trứng đến giai đoạn
gây nhiễm mất từ 9-15 ngày. Ngoài ra, sự phát triển của trứng còn phụ thuộc vào
điều kiện khí hậu và loại đất, có thể từ 3 đến 6 tuần, có khi đến vài tháng. Ở giai
đoạn gây nhiễm, trứng có thể tồn tại trong đất đến 1 năm [112].
Một nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm trứng T. canis trong các sân chơi công cộng
trong các vùng Dublin của Ireland. Với tổng số 228 mẫu đất tại 9 sân chơi ở
thành phố và các hạt ở Dublin được điều tra, kết quả cho thấy có 15% số mẫu
dương tính với trứng T. canis và mật độ trung bình là 1,4 trứng/100g đất. Không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các mẫu đất dương tính với trứng giun
đũa chó thu thập được từ các vị trí cả bên trong và bên ngoài sân chơi. Không có
bằng chứng cho thấy trứng của T. cati được phát hiện ở đây, tuy nhiên có trên
50% số trứng T. canis được xác định còn sống và phát triển. Thử nghiệm trong
nghiên cứu này cũng cho thấy thành phần chất ẩm trong đất góp phần cho thời
gian dài sống sót của trứng giun Toxocara sp. trong môi trường [91].
1.5.4. Yếu tố kinh tế, văn hóa xã hội
Ở nhiều quốc gia, việc nuôi chó và mèo để giữ nhà, làm cảnh, lấy thịt cũng
được quan tâm nhiều, vì số lượng chó mèo tăng lên có thể góp phần vào nguy cơ
nhiễm đến con người. Ví dụ như ở Mỹ, từ năm 1989-2006, số lượng mèo tăng
khoảng 50% (từ 54,6-81,7 triệu con), số lượng chó tăng khoảng 38% (từ 52,4
đến 72,1 triệu con) [61]. Do đó, việc tẩy giun đũa cho chó/mèo là biện pháp làm
giảm ô nhiễm trứng ra môi trường, tuy nhiên người dân thường ít quan tâm đến
điều này.
26
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo ở nông thôn cao hơn thành thị,
nghiên cứu của Dogan (2007) tại vùng Tây Bắc, Thổ Nhĩ Kỳ với 430 trẻ em
vùng nông thôn và 141 trẻ em ở thành phố, kết quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh
dương tính ở trẻ em vùng nông thôn là 16,97%, thành phố là 0,71% [53]. Hầu
hết các nghiên cứu trên thế giới đều tập trung vào lứa tuổi trẻ em vì các tác giả
cho rằng trẻ em có nguy cơ phơi nhiễm hơn người lớn do thường tiếp xúc đất,
nghịch đất, tiếp xúc với chó nhiều hơn người lớn. Tuy nhiên tại Việt Nam, bệnh
được phát hiện ở trẻ em cũng như người lớn, nam cũng như nữ [7],[34].
Bệnh ATGĐCM là bệnh nhiệt đới ít được quan tâm, nhưng trong vài năm
gần đây ở Việt Nam, bệnh nổi lên với số ca nhiễm ngày càng tăng. Mặc dù vậy
kiến thức người dân về bệnh ATGĐCM còn thấp. Nghiên cứu tại Bình Định và
Đăk Lăk cho thấy tỷ lệ người dân biết về bệnh ATGĐCM là dưới 50% [7]. Mặt
khác, chưa có luật nghiêm cấm nuôi chó thả rông và người dân cũng chưa có ý
thức xử lý phân chó ở ngoại cảnh nên khả năng phát tán trứng giun đũa ra ngoại
cảnh rất cao là mối nguy cơ nhiễm cho con người.
Tại Việt Nam, người dân nuôi chó nhiều hơn nuôi mèo, nuôi chó cảnh rất ít,
chủ yếu là nuôi chó giữ nhà, và để bán cho các quán thịt chó. Tỷ lệ nuôi chó
vùng nông thôn rất cao (28-56%) [7], chủ yếu là nuôi chó thả rông nhưng tỷ lệ
tẩy giun cho chó rất thấp. Điều này sẽ tạo điều kiện phát tán mầm bệnh ra ngoại
cảnh rất lớn. Theo điều tra của Bùi Văn Tuấn tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ
nuôi chó thả rông từ 46,6-90,9%, và tỷ lệ hộ gia đình tẩy giun chó chiếm 7,2-
30%. Nguyễn Văn Chương điều tra Bình Định và Đăk Lăk cho thấy tỷ lệ hộ gia
đình nuôi chó thả rông từ 53-85%, tẩy giun cho chó chiếm 4-12%. Nguyễn Thu
Hương điều tra ở Thanh Hóa cho thấy tỷ lệ hộ gia đình nuôi chó thả rông là
95,7%, và tẩy giun cho chó chiếm 50,5% [7],[19],[34].
1.5.5. Yếu tố hành vi con người
Nhiễm ATGĐCM do nuốt phải trứng ở giai đoạn có ấu trùng gây nhiễm.
Rất nhiều nghiên cứu tập trung vào hành vi nguy cơ chủ yếu là do tiếp xúc đất,
27
ăn đất, tiếp xúc chó/mèo, bồng bế chó/mèo, ăn rau quả sống. Tuy nhiên, các
nghiên cứu chỉ ra mối liên quan giữa hành vi và tỷ lệ nhiễm cũng khác nhau.
Nghiên cứu của Chiodo (2006), xét nghiệm 100 người dân tại Achentina, tỷ
lệ huyết thanh dương tính là 23% và những người bị nhiễm này cho biết là họ
đều có tiếp xúc với chó tại nhà [46]. Một số nghiên cứu khác cho thấy yếu tố
nguy cơ là phơi nhiễm với chó dưới 3 tháng tuổi và tiếp xúc với đất [54],[59].
Kyei (2015) nghiên cứu tại vùng miền Trung Ghana bằng việc xét nghiệm
huyết thanh 566 trẻ em, đồng thời thiết kế một bảng câu hỏi bao gồm tuổi, giới,
trình độ học vấn, thói quen rửa trái cây, hoa quả và rửa tay trước khi ăn, nuôi chó
mèo, tiền sử tiếp xúc với đất và chó mèo. Kết quả tỷ lệ huyết thanh dương tính
rất cao (53,5%), có mối liên quan giữa tiếp xúc đất, rửa tay trước khi ăn với
huyết thanh dương tính giun đũa chó. Nghiên cứu này đề xuất phòng ngừa nhiễm
ATGĐCM bằng vệ sinh cá nhân [77].
Tại Việt Nam, nghiên cứu về một số yếu tố nguy cơ, hầu hết các tác giả cho
rằng có mối liên quan giữa tiếp xúc đất, bồng bế chó. Riêng việc ăn rau sống thì
kết quả của Phan Anh Tuấn cho thấy có mối liên quan giữa ăn rau sống và nhiễm
bệnh, nhưng theo Nguyễn Văn Chương và Bùi Văn Tuấn thì chưa thấy có mối
liên quan này [7],[34],[35].
Hoàng Đình Đông (2011) khảo sát trên bệnh nhân đến khám tại bệnh viện
Quận 2, TP. Hồ Chí Minh. Tổng cộng xét nghiệm và phỏng vấn theo bộ câu hỏi
với 362 người về hành vi có liên quan đến nhiễm ATGĐCM, kết quả cho thấy có
thêm mối liên quan giữa rửa tay trước khi ăn và nhiễm [11]. Nguyễn Thu Hương
(2014) nghiên cứu trên trẻ em học sinh tiểu học ở Thanh Hóa đã chỉ ra có mối
liên quan giữa giữa các hành vi nguy cơ với nhiễm ATGĐCM như: không rửa
tay; chơi đùa, bồng bế chó mèo; thường xuyên tiếp xúc đất; thói quen nuôi chó,
mèo thả rông [19].
Ngoài các yếu tố hành vi nguy cơ trên thì nghiên cứu Choi và cộng sự
(2008) tại Trung tâm Y học Samsung, Hàn Quốc nghi ngờ ăn sống gan sống một
28
số động vật cũng có thể có nguy cơ bị nhiễm bệnh ATGĐCM do ấu trùng ký
sinh ở gan động vật. Tác giả nhận thấy rằng với 120 bệnh nhân đến xét nghiệm,
tỷ lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó/mèo là 86,7%, trong số người có
huyết thanh dương tính thì có 87,5% người có tiền sử ăn gan bò sống, trong số
người huyết thanh âm tính chỉ có 25% người có tiền sử ăn gan bò sống. Trong 28
bệnh nhân ăn gan bò sống thường xuyên (≥ 4 lần/năm), thì tỷ lệ dương tính là
95,6%. Có 21 trường hợp nhiễm cũng có ăn sống gan động vật khác như lợn,
chó, dê, gà, thỏ, vịt nhưng họ cũng có tiền sử (95,2%) ăn sống gan bò. Có 19
trường hợp nhiễm có uống tiết sống của các loại động vật như: nai, dê, vịt , bò,
lợn. Nghiên cứu này đề nghị phân tích sâu hơn về mối liên hệ nhân-quả giữa ăn
gan sống động vật và nhiễm ATGĐCM [47].
1.6. Phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo
Bệnh ATGĐCM gây ra một hiểm họa y tế công cộng lớn đặc biệt là ở các
nước đang phát triển [93]. Nhiễm ATGĐCM phổ biến hơn ở các nước nhiệt đới,
cận nhiệt đới và các cộng đồng nông thôn hơn là các cộng đồng công nghiệp
hóa, thành thị, ôn đới [81],[94],[105]. Tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới,
khí hậu ẩm ướt giúp cho trứng giun sống sót lâu hơn trong đất và điều này làm
hạn chế các chương trình phòng chống, dự phòng và tiêu diệt chúng [82]. Vệ
sinh kém và các biện pháp điều trị giun không hợp lý cho những con chó tại các
bối cảnh nông thôn làm cho trứng Toxocara spp. nhiễm trong môi trường vẫn
phổ biến ở các công viên ngoài trời của các vùng đô thị và ngoại ô
[82],[99],[105].
Các tác nhân gây bệnh nhiễm vào chó mèo thông qua nhiều đường khác
nhau bao gồm lan truyền chiều dọc, qua nhau thai (ở chó), qua bú sữa mẹ và
chiều ngang. Lan truyền chiều ngang xảy ra thông qua nuốt phải trứng có phôi từ
môi trường hoặc nuốt phải ấu trùng các cơ quan bị nhiễm của các vật chủ chứa
[82]. Phân bố nhiễm ATGĐCM xảy ra trên toàn cầu và phổ biến hơn ở trẻ em
[107]. Nuôi chó hoặc mèo trong nhà và tiếp xúc gần gũi thường xuyên với chúng
29
đặc biệt là trẻ em có thể dễ nuốt phải trứng Toxocara spp. [60],[105],[107]. Vệ
sinh kém, nghèo túng và sự hạn chế tiếp cận đến việc giáo dục có thể làm trầm
trọng hơn việc tiếp xúc với Toxocara spp. [99]. Dù nhiễm ấu trùng giun đũa
chó/mèo không có sự ưa chuộng đặc biệt với chủng tộc nào, nam giới thường bị
ảnh hưởng nhiều hơn nữ giới [58],[110].
Vì các biểu hiện lâm sàng của bệnh ATGĐCM là không cụ thể, việc chẩn
đoán chính xác căn bệnh là một thách thức. Mặt khác, vì tình trạng đa ký sinh
cũng phổ biến ở các nước nhiệt đới, việc chẩn đoán các ca bệnh thể nội tạng và
thể ẩn cũng khó khăn [105]. Vì có rất nhiều các vật chủ chính, vật chủ chứa và
sự đa dạng các con đường lan truyền bệnh của các loài Toxocara khiến việc
kiểm soát, phòng chống và loại trừ KST này trở nên rất khó khăn. Tỷ lệ nhiễm
KST cao ở chó và mèo và những khó khăn trong việc ngăn ngừa nhiễm bệnh cho
môi trường và con người làm nổi bật thêm tầm quan trọng của căn bệnh truyền
từ động vật sang người này [82]. Cho đến nay, việc phát triển một loại vắc-xin
hữu hiệu giúp phòng chống nhiễm ATGĐCM vẫn còn là mục tiêu khó đạt. Điều
này cộng với những thách thức trong việc hình thành một chương trình phòng
chống cụ thể và phù hợp đã làm tăng thêm gánh nặng cho những nỗ lực cần thiết
để định hướng những hoạt động phòng chống căn bệnh lãng quên này [93].
1.6.1. Một số biện pháp phòng chống nhiễm ATGĐCM trên thế giới
1.6.1.1. Phòng ngừa mầm bệnh ra môi trường
Trứng Toxocara sp. có sức chịu đựng tốt trong các điều kiện môi trường
không thuận lợi và vẫn còn khả năng lây nhiễm bệnh trong nhiều năm. Vì không
có biện pháp thực tế nào tồn tại cho việc giảm thiểu mức độ trứng ở môi trường,
việc phòng ngừa nhiễm bệnh ban đầu qua môi trường là biện pháp tiếp cận quan
trọng nhất. Điều này có thể đạt được qua một số biện pháp như là loại trừ nhiễm
bệnh ở chó và mèo, ngăn ngừa sự phóng uế của thú nuôi ra các khu vực công
cộng, vệ sinh và giáo dục quần chúng trong thay đổi hành vi. Các biện pháp
nhằm giảm nhiễm bệnh bao gồm: hạn chế chó và mèo thả rông, người sở hữu
30
chó/mèo phải dọn sạch phân khỏi nền đất và trên vỉa hè, ngăn chặn chó và mèo
tiếp cận các khu vực công cộng và sử dụng điều trị thuốc tẩy giun cho chó/mèo
theo chiến lược, chú trọng vào đối tượng chó con, mèo con, chó đẻ và mèo cái
trưởng thành [95].
1.6.1.2. Tẩy giun cho chó và mèo
Nguồn trứng Toxocara spp. nhiễm nhiều nhất trong môi trường là T. canis
từ những con chó cái đang cho con bú và chó con. Những con chó con nên được
điều trị với các loại thuốc tẩy giun hợp lý bắt đầu từ 2 tuần tuổi và lặp lại điều trị
là cần thiết vì sự truyền bệnh qua sữa cũng xảy ra liên tục trong ít nhất 5 tuần sau
sinh. Do đó kế hoạch này là tẩy giun vào thời điểm 2, 4, 6, 8 tuần và sau đó hàng
tháng cho tới khi chúng đạt 6 tháng tuổi. Vì sự nhiễm bệnh trước khi sinh không
xảy ra ở mèo con, việc điều trị 2 tuần một lần có thể bắt đầu vào 3 tuần tuổi.
Những con chó cho con bú và mèo cái trưởng thành nên được điều trị đồng thời
cùng với con cái của chúng vì chúng thường có biểu hiện rõ trạng thái nhiễm
bệnh vào thời gian này [55].
Đối với chó và mèo trưởng thành, việc điều trị định kỳ bằng thuốc tẩy giun,
hoặc điều trị dựa trên các kết quả xét nghiệm phân chẩn đoán định kỳ rất quan
trọng trong việc kiểm soát bệnh giun sán đường ruột ở chó/ mèo. Điều trị hàng
năm hoặc 2 năm một lần không có tác động đáng kể trong việc ngăn chặn nhiễm
bệnh biểu hiện rõ cùng trong một quần thể [108]. Do đó, một tần suất điều trị
trung bình 4 lần một năm được đề xuất là một khuyến nghị chung phụ thuộc vào
lối sống và tuổi thọ của chó và mèo. Dựa trên giai đoạn ủ bệnh ở chó trưởng
thành, việc điều trị thường xuyên mỗi 4-6 tuần sẽ ngăn nhiễm bệnh tốt nhất.
* Các thuốc tẩy giun đũa chó mèo
Nghiên cứu của Ahamad (2011) sử dụng levamisol và ivermectin trong tẩy
giun cho chó. Với 60 chó bị nhiễm giun đũa được chia làm 3 nhóm, 20 chó được
dùng Levamisol, 20 chó được dùng ivermectin và 20 chó làm nhóm chứng. Kết
31
quả cho thấy tỷ lệ sạch trứng giun đũa ở nhóm dùng levamisol là 97,4%, nhóm
dùng ivermectin là 97,3% [38].
Nghiên cứu của Jesus (2015) so sánh pyrantel pamoate và ivermectin trong
tẩy giun cho chó. Với 45 chó bị nhiễm giun đũa được chia làm 3 nhóm, 15 chó
được dùng pyrantel pamoate (viên 125 mg) với liều 1 viên cho 10 kg cân nặng,
15 chó được dùng Ivermectin (viên 3 mg) cũng với liều 1 viên cho 10 kg cân
nặng, và 15 chó làm nhóm chứng. Kết quả cho thấy tỷ lệ sạch trứng giun đũa ở
nhóm dùng pyrantel là 93,5%, nhóm dùng Ivermectin là 98,3%,[72].
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Bùi Ngọc Thúy Linh (2003) sử dụng
fenbendazole liều 60 mg/kg thể trọng trong 2 ngày liên tục tẩy giun cho chó, kết
quả đạt tỷ lệ sạch trứng là 100% và dùng ivermectin liều 0,4 mg/kg thể trọng liều
duy nhất, hiệu quả đạt 96,6% [24].
Có những nghiên cứu kết hợp các loại thuốc tẩy giun sán để nâng cao hiệu
quả tẩy giun ở chó mèo như nghiên cứu của Youn H (2011) sử dụng thuốc phối
hợp giữa ivermectin và praziquantel, hiệu quả đạt 94,4% [124]. Grandemange E
(2007) nghiên cứu sử dụng thuốc phối hợp giữa pyrantel pamoate và
praziquantel, đánh giá hiệu quả sạch trứng sau 7 ngày; 14 ngày và 21 ngày là
99,1%; 98,8% và 98,9% [62].
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thuốc tẩy giun sán cho chó mèo,
có thể chọn lựa những thuốc levamisol, fenbendazole, ivermectin, pyrantel
pamoate hoặc là thuốc phối hợp. Các thuốc phối hợp đều tẩy được cả giun và sán
dây nên thường được ưu tiên sử dụng. Việc chọn lựa thuốc tẩy giun sán trong
cộng đồng còn phụ thuộc nhiều vào sự sẵn có trên thị trường, hiệu quả cao, độc
tính thấp, dễ sử dụng và giá thành rẻ. Tại Việt Nam hiện nay, người dân thường
sử dụng thuốc tẩy giun sán là loại phối hợp giữa pyrantel pamoate và
praziquantel (sanpet). Đây là loại thuốc sản xuất tại Việt Nam, có hiệu quả cao, ít
tác dụng phụ, là dạng viên dễ uống, đặc biệt là giá thành rẻ nên dễ chấp nhận
trong cộng đồng (3.000 đồng/viên, sử dụng 1 viên cho 5 kg thể trọng).
32
* Các hướng dẫn tiêu chuẩn cho phòng chống và điều trị ký sinh trùng
Dựa trên các nguy cơ lây bệnh đã được xác định rõ ràng (ví dụ thả rông tự
do, tiếp cận thoải mái tới loài gặm nhấm hoặc thú vật chết thối, tiếp xúc với các
động vật khác) can thiệp bằng điều trị cụ thể cho thú nuôi được tiến hành để cải
thiện hiệu lực điều trị. Các hướng dẫn tiêu chuẩn chung cho việc phòng chống và
điều trị ký sinh trùng ở động vật thú nuôi đã được xây dựng và phổ biến bởi
CAPC (Companion Animal Parasite Council-Hội Thú y phòng chống các bệnh
ký sinh trùng trên động vật) tại Mỹ [45] và ESCCAP (European Scientific
Counsel Companion Animal Parasites- Hội Thú y phòng chống các bệnh ký sinh
trùng trên động vật Châu Âu) [55]. Những hướng dẫn này cung cấp một cái nhìn
tổng thể về các loài giun sán khác nhau, đặc điểm tiêu biểu lâm sàng bệnh truyền
động vật sang người và đưa ra các biện pháp phòng chống tối ưu đối với các loài
quan trọng nhất nhằm ngăn chặn lây nhiễm động vật và/ hoặc người. Tuy nhiên,
dù có sự tuân thủ nghiêm ngặt bởi các chủ thú nuôi, những hướng dẫn này cũng
không thể áp dụng được trong việc giảm thiểu sự ô nhiễm ra môi trường của
trứng T. canis từ những loài thú hoang dã. Các chương trình phòng chống phối
hợp được nhắm vào việc làm giảm thiểu hóa áp lực lây nhiễm từ các ký sinh
trùng lây từ động vật sang người gây ra bởi các quần thể mèo đi lạc và cáo Châu
Âu cho tới nay vẫn chưa được tiến hành [95].
1.6.1.3. Phòng ngừa nuốt trứng và ấu trùng giun đũa chó/mèo
Vệ sinh sạch sẽ và ăn thức ăn nấu chín có thể ngăn chặn việc nuốt phải
trứng từ môi trường và ấu trùng từ các vật chủ ngẫu nhiên. Tuy nhiên, về mặt
thực hành thì các biện pháp vệ sinh như vậy gần như khó có thể thực hiện được,
đặc biệt ở trẻ em, do vậy con đường lây nhiễm này vẫn tiếp tục tồn tại. Xu
hướng toàn cầu về ăn thịt, gan và rau sống, chưa nấu chín kỹ, hun khói, ngâm
dầm hoặc phơi khô tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc lan truyền một số các
bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người [81]. Những thay đổi trong
hành vi con người nhằm giảm thiểu lan truyền ký sinh trùng rất khó vì một phần
33
nào đó là do các giai đoạn ủ bệnh lâu dài. Từ khi nhiễm bệnh ATGĐCM chủ yếu
nhiễm ở trẻ em nhỏ thì việc giáo dục, đặc biệt là hướng đến các cha mẹ mới sinh
con, sẽ là một phần quan trọng trong chương trình phòng chống.
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về nhiễm ATGĐCM nhưng
chủ yếu tập trung vào dịch tễ, các yếu tố nguy cơ, chẩn đoán, điều trị và đề xuất
các biện pháp phòng chống. Tuy nhiên các nghiên cứu về phòng chống rất ít, chỉ
tập trung khuyến cáo về tẩy giun cho chó mèo, quản lý vật nuôi, giáo dục và đưa
ra luật nuôi động vật cưng.
Sự thay đổi về điều kiện sống, môi trường, kinh tế xã hội cũng ít làm thay
đổi nguy cơ nhiễm ATGĐCM nếu không có các biện pháp can thiệp hữu hiệu.
Một nghiên cứu dịch tễ và phòng chống nhiễm ATGĐCM dựa vào cộng đồng
được thực hiện bởi Guzman (2014) tại vùng thành thị Assis, Brasil thuộc bang
Acre của Brazil. Đây là một nghiên cứu không can thiệp, chỉ theo dõi và đánh
giá theo sự phát triển kinh tế xã hội tự nhiên. Sau 7 năm, đã diễn ra rất nhiều sự
thay đổi tại khu vực nghiên cứu, thay đổi nhiều nhất là điều kiện kinh tế, sử dụng
nguồn nước, cơ cấu nhà cửa và hệ thống rác thải. Điều tra cho thấy năm 2003, tỷ
lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó là 28,08% (95% CI: 21,43-35,86%), năm
2010 là 23,35% (95% CI: 18,74-28,71%), sự khác biệt không có ý nghĩa (p=0,2).
Tiếp tục theo dõi và so sánh huyết thanh dương tính trẻ 6 đến 59 tháng tuổi năm
2010 và năm 2011, kết quả cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó là
13,9% và 12,3%, không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm trong 1 năm. Kết quả
nghiên cứu cho thấy sau 7 năm có sự thay đổi 5% về huyết thanh dương tính
giun đũa chó nhưng không có nghĩa về sự khác biệt mặc dù có sự thay đổi nhiều
về điều kiện xã hội, kinh tế, môi trường, còn sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm sau 1
năm gần như không đáng kể (13,9% và 12,3%) …Tác giả cho rằng cần phải có
những can thiệp sâu hơn về vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, phát hiện và
điều trị ca bệnh, tẩy giun cho chó mèo, tăng cường tuyên truyền phòng chống
bệnh mới có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm trong cộng đồng [64].
34
Theo Woodhall (2014), nhiễm ATGĐCM là có thể ngăn ngừa được. Các
cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ phải nhận thức được các dấu hiệu và
triệu chứng của bệnh ATGĐCM và giáo dục bệnh nhân và phụ huynh về cách
phòng tránh nguy cơ nhiễm. Các gia đình có nuôi chó hoặc mèo nên được
khuyến khích thường đưa thú vật của họ đến bác sĩ thú y để tẩy giun, bởi vì
những vật nuôi này thường không có triệu chứng bệnh tật bất chấp việc phát tán
trứng Toxocara spp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các gia đình có con
mèo mới hoặc chó con, bởi vì chó/mèo con có khả năng bị nhiễm bệnh cao hơn
với Toxocara spp. Chủ vật nuôi nên tránh cho vật nuôi thải phân ở những nơi trẻ
em chơi, hoặc kịp thời loại bỏ và xử lý đúng cách phân chó mèo ở những nơi
này. Sự ban hành của luật cộng đồng địa phương thực thi ngay lập tức và khuyến
cáo nên xử lý phân của chó và mèo. Những hành động này đảm bảo rằng nếu
trứng Toxocara có mặt, chúng không có đủ thời gian để phát triển thành ấu trùng
và trở nên dễ lây nhiễm. Ngành thú y nên cung cấp giáo dục cho chủ nuôi thú
nuôi liên quan đến nguy cơ nhiễm Toxocara spp. Ngay cả khi gia đình không sở
hữu thú vật, cha mẹ cần phải hiểu rằng con của họ có thể tiếp xúc với đất bị ô
nhiễm với trứng Toxocara spp. lây nhiễm, đặc biệt là ở các khu vực thường
xuyên có thú cưng và chó và mèo hoang dã như công viên hoặc sân chơi. Tăng
cường vệ sinh bàn tay và dạy trẻ em không ăn đất sẽ làm giảm nguy cơ nuốt phải
trứng Toxocara spp. [121].
Nghiên cứu của Uga (1995) tại Nhật Bản sử dụng tấm ni lông trong suốt
phủ lên cát để diệt trứng giun đũa chó mèo. Khi bãi cát được phủ ni lông, nhiệt độ của cát độ sâu 3 cm là 420C trở lên trong 3 giờ khi nhiệt độ không khí cao hơn 300C, quy trình này sẽ làm trứng bị phá hủy không thể gây nhiễm được, tuy
nhiên việc phủ hết các nơi công cộng bằng ni lông là điều khó khả thi [118].
Nghiên cứu của Nijsse (2016) tại Hà Lan bằng áp dụng tẩy giun cho chó
theo định kỳ cho thấy: tẩy giun 2 lần trong 1 năm, tỷ lệ chó nhiễm giảm từ 3,3-
13,8%; tẩy giun 4 lần trong năm, tỷ lệ nhiễm giảm từ 8,5-29,1%; tẩy 6 lần trong
35
năm, giảm từ 13,8-44,1%; tẩy 12 lần trong năm, giảm từ 28,8-89,6%. Tuy nhiên
việc áp dụng cộng đồng về tẩy giun cho chó còn phụ thuộc vào tuổi của chó (chó
dưới 3 tháng tuổi cần tẩy nhiều lần) và mức độ tuân thủ của người dân [90].
1.6.2. Phòng chống nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo ở Việt Nam
Các bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người là các bệnh mới nổi ở
Việt Nam, gây ra các tác động đáng kể đối với sức khỏe con người. Các bệnh
này đã trở thành một mối lo ngại y tế công cộng lớn ở Việt Nam do các nhân tố
sinh thái, môi trường, hành vi, văn hóa xã hội, và kinh tế. Bệnh ATGĐCM cùng
với những căn bệnh gây ra bởi những loài giun sán khác được coi là những bệnh
bị lãng quên, ảnh hưởng không cân đối lên những khu vực dân cư con người
nghèo khổ. Sự tồn tại của chúng tiếp tục đẩy con người vào nghèo túng và nên
được xử lý [68],[69]. Việc phòng chống được mong đợi là sẽ mang lại lợi ích to
lớn cho sức khỏe cho con người và chăn nuôi sản xuất nếu được tiến hành [117].
Trong chương trình phòng chống bệnh dại ở Việt Nam, hiện nay đã có
những luật qui định (Nghị định số 05/2007 của Chính phủ về phòng, chống bệnh
dại ở động vật) đối với các chủ nuôi động vật có liên quan như chó mèo, cấm thả
rông vật nuôi ở những nơi đông dân cư, nơi công cộng, nếu có thì phải bịt mõm
chó bằng rọ mõm. Tuy nhiên chưa có những khuyến cáo và luật qui định về xử
lý phân chó mèo ở nơi công cộng đối với các chủ nuôi. Mặt khác, người dân Việt
Nam đến 70% sống ở vùng nông thôn, với tập quán nuôi chó thả rông nên mầm
bệnh phát tán ra ngoại cảnh điều hiển nhiên. Vì vậy, cần có những biện pháp can
thiệp phòng chống nhiễm ATGĐCM đối với cộng đồng nhằm nâng cao kiến
thức, thực hành của người dân về bệnh đồng thời giảm tỷ lệ nhiễm trong cộng
đồng.
Một số bệnh KST khác như sán lá gan lớn, giun đầu gai, ấu trùng sán dây
lợn cũng là bệnh KST truyền từ động vật sang người. Bệnh ATGĐCM có nguồn
bệnh, đường lan truyền gần giống như bệnh sán lá gan lớn nhưng có nhiều yếu tố
36
nguy cơ và phức tạp hơn nên các biện pháp phòng chống có thể tham khảo các
nghiên cứu phòng chống bệnh sán lá gan lớn đã được thực hiện có hiệu quả.
Cho đến nay chưa có nghiên cứu phòng chống bệnh ATGĐCM tại Việt
Nam, vì đây là một trong những bệnh nhiệt đới ít được quan tâm. Trong những
năm gần đây, số trường hợp nhiễm được phát hiện tăng cao nên Bộ Y tế yêu cầu
xây dựng kế hoạch nghiên cứu phòng chống từ năm 2016 đến năm 2020. Nghiên
cứu các biện pháp phòng chống bệnh ATGĐCM nhằm kiểm soát căn bệnh và
nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho người dân là điều cần thiết.
Mặc dù chưa có những can thiệp phòng chống bệnh ATGĐCM nào nhưng
dựa vào mô hình phòng chống ký sinh trùng chung của Molyneux [88] và tham
khảo thêm một số mô hình phòng chống sán lá gan lớn có hiệu quả của Nguyễn
Văn Chương, Trần Minh Quý [5],[100], dựa vào tình hình nuôi chó mèo ở địa
điểm nghiên cứu (nuôi chó là chủ yếu, chỉ có một số rất ít hộ nuôi mèo), đã lựa
chọn những biện pháp phòng chống phù hợp và chỉ can thiệp đối với bệnh ấu
trùng giun đũa chó (ATGĐC) tại điểm nghiên cứu.
37
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Khung mẫu là hộ gia đình được chọn, đối tượng gồm thành viên trong
hộ tuổi từ 2 tuổi đến 70 tuổi, chó nuôi, đất và rau trồng trong hộ.
- Đất ở sân chơi công cộng và rau tại chợ của điểm nghiên cứu.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn đối tượng phỏng vấn kiến thức, thái độ, thực hành
- Chủ hộ (vợ hoặc chồng).
- Hiện đang sống tại địa bàn nghiên cứu từ tháng 4/2016-12/2017.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng phỏng vấn
- Không đủ khả năng để trả lời phỏng vấn (tâm thần, câm điếc ...).
- Hiện đang mắc các bệnh mãn tính như suy gan, thận …
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 4 năm 2016 đến tháng 12 năm 2017
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Theo số
liệu tại Phòng khám Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, số trường hợp có huyết
thanh dương tính với ATGĐC cao nhất ở Quảng Ngãi đến từ huyện Mộ Đức. Mộ
Đức là một huyện đồng bằng ven biển, nằm ở vị trí 109 độ vĩ Bắc, 15 độ kinh Đông, tổng diện tích tự nhiên của huyện là 212,23 km2. Dân số của huyện là 129.983 người với mật độ là 612,5 người/1 km2. Phía Bắc giáp với huyện Tư
Nghĩa, phía Nam giáp huyện Đức Phổ, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp
huyện Nghĩa Hành và Ba Tơ. Toàn huyện có 13 đơn vị hành chính nhỏ hơn, gồm
12 xã và 1 thị trấn. Nghề nghiệp chính của người dân là nông nghiệp và một số ít
là ngư nghiệp. Qua khảo sát sơ bộ về tình hình nuôi chó mèo ở tại một số xã
trong huyện thì cho thấy người dân chủ yếu nuôi chó chứ không nuôi mèo.
38
Vì các xã trong huyện có những đặc điểm tương đồng về địa lý, dân số,
nghề nghiệp và nuôi chó nên khả năng tỷ lệ nhiễm ATGĐC và các yếu tố nguy
cơ tương đồng nên chọn chủ đích 2 xã, mỗi xã bốc thăm ngẫu nhiên chọn 1 thôn
(vì dân số trên 1 xã rất lớn nên chọn đến thôn). Hai xã chọn chủ đích là xã Đức
Phong và Đức Chánh. Xã Đức Phong có 5 thôn với dân số là 20.724 người sống
trong 4.685 hộ; xã Đức Chánh gồm có 6 thôn với 18.726 người trong 4.443 hộ.
Khoảng cách từ xã Đức Phong đến xã Đức Chánh khoảng 10 km. Nghề nghiệp
chính của người dân tại 2 xã là nghề nông, chỉ có một số ít người dân làm nghề
biển.
Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi
39
2.4. Phương pháp nghiên cứu.
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu
- Mục tiêu 1 : Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích.
- Mục tiêu 2 : Thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng.
2.4.1.1. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích
* Cỡ mẫu :
- Cỡ mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm ATGĐC trên người:
Cỡ mẫu điều tra cắt ngang được tính toán theo công thức tính cỡ mẫu cho
nghiên cứu cắt ngang mô tả [15].
Z2(1/2).p.(1-p)
n = ---------------- x DE (pƐ)2
n: cỡ mẫu tối thiểu;
Z1-α/2: hệ số tin cậy, với độ tin cậy 95% thì Z(1-α/2) = 1,96;
p: tỷ lệ nhiễm ước đoán của cộng đồng: p= 0,16 theo kết quả nghiên cứu của
Bùi Văn Tuấn tại Bình Định, tỷ lệ nhiễm ATGĐC là 16% [34].
Ɛ: sai số tương đối. Chọn Ɛ = 0,2
Do thực hiện chọn mẫu cụm 2 lần (lần thứ nhất chọn cụm 2 thôn, lần thứ hai
chọn cụm là các hộ gia đình) nên hệ số thiết kế được tính 2 lần. Chọn hệ số thiết
kế mỗi lần là 1,5 nên DE = 1,5 x 1,5 = 2,25, cỡ mẫu tính được là n = 1.147
Để bổ sung các trường hợp không thu thập được số liệu, cộng thêm 10%
vào mẫu, cỡ mẫu điều tra sẽ là 1.280 cho cả huyện Mộ Đức. Chia đều cho 2 thôn,
mỗi thôn cần điều tra 640 người. Giả sử mỗi hộ có từ 3-4 người, số hộ cần điều
tra cho 1 thôn là 200 hộ.
- Cỡ mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm giun đũa trên chó:
Toàn bộ số chó trong 200 hộ được chọn của mỗi xã.
- Cỡ mẫu điều tra đất:
Điều tra đất trên số hộ được chọn, mỗi hộ một mẫu.
40
Điều tra đất tại các sân chơi công cộng: 10 mẫu/xã (mỗi sân chơi 1 mẫu).
- Cỡ mẫu điều tra rau: Tại mỗi xã điều tra 200 mẫu rau
- Cỡ mẫu điều tra kiến thức, thái độ và thực hành của người dân:
Điều tra mỗi hộ 1 người. Mỗi xã điều tra 200 người.
* Chọn mẫu:
- Bước 1: Chọn thôn
Bốc thăm ngẫu nhiên mỗi xã 1 thôn, chọn được thôn Văn Hà của xã Đức
Phong và thôn 4 của xã Đức Chánh.
Thôn Văn Hà của xã Đức Phong có dân số 5.615 người, gồm 967 hộ, chia
làm 7 khu dân cư. Thôn 4 của xã Đức Chánh có dân số 3.926 người, gồm 886
hộ, cũng chia làm 7 khu dân cư. Mặc dù bốc thăm ngẫu nhiên nhưng 2 thôn có
những tương đồng về địa lý, dân số và các điều kiện về kinh tế, văn hóa xã hội.
- Bước 2: Chọn hộ gia đình
Chọn ngẫu nhiên hệ thống từ danh sách hộ gia đình của thôn, lấy 200 hộ
theo khoảng cách K = Số hộ trong xã/200. Chọn ngẫu nhiên 1 hộ gia đình, sau
đó lấy theo khoảng cách K cho đủ 200 hộ.
- Chọn mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm ATGĐC trên người
Tất cả đối tượng trong 200 hộ được chọn từ 2 đến 70 tuổi sẽ được đưa vào
nghiên cứu (bỏ những đối tượng theo tiêu chuẩn loại trừ).
- Chọn mẫu điều tra kiến thức, thái độ, thực hành
Chọn mỗi hộ 1 người là chủ hộ (có thể vợ hoặc chồng). Trong trường hợp
chủ hộ đi vắng thì chọn một người trưởng thành trong hộ.
- Chọn mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm trên chó
Chọn tất cả chó trong 200 hộ được chọn. Xét nghiệm phân chó tìm trứng
giun đũa chó. Khối lượng mẫu phân chó được lấy để xét nghiệm khoảng 10 gam.
- Chọn mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm trên đất
Thu thập đất trong 200 hộ được chọn, mỗi hộ một mẫu. Mẫu đất được lấy ở
sân hoặc vườn. Ngoài ra chọn 10 mẫu đất tại các sân chơi công cộng trong thôn,
41
mỗi sân chơi lấy 1 mẫu. Khối lượng mỗi mẫu đất được lấy để xét nghiệm là 100
gam.
- Chọn mẫu điều tra tỷ lệ nhiễm trên rau
Tại mỗi xã, chọn 5 loại rau người dân thường ăn sống gồm: rau cải, xà lách,
rau má, rau diếp cá, một số loại rau thơm (rau quế, ngò), mỗi loại xét nghiệm 40
mẫu (tổng cộng 200 mẫu/xã). Rau được chọn tại các vườn trồng rau của các hộ
gia đình và tại chợ trong xã. Rau sẽ được thu thập tại 5 điểm (4 điểm trong thôn
và 1 điểm tại chợ), mỗi điểm điều tra 40 mẫu rau (mỗi loại 8 mẫu). Khối lượng
mỗi mẫu rau xét nghiệm là 200 gam.
2.4.1.2. Thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng
Sau khi có số liệu điều tra dịch tễ, chọn 1 xã can thiệp và 1 xã đối chứng.
Thực tế chọn Đức Phong làm điểm can thiệp và Đức Chánh làm điểm đối chứng.
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu so sánh hai tỷ lệ của hai nhóm.
Z1-α/2: hệ số tin cậy, ứng với độ tin cậy 95% thì Z(1-α/2) = 1,96; Z1-β: = 0,84 khi 1- (lực của nghiên cứu) = 80%; (, ) = 7,8.
∆ = p1 - p2 , = (p1 + p2)/2
p1: tỷ lệ nhiễm ATGĐC ước đoán điểm đối chứng sau can thiệp, p1=0,16
p2: tỷ lệ nhiễm ATGĐC ước đoán tại điểm can thiệp sau can thiệp, p2 = 0,11
Thay vào công thức, cỡ mẫu tính được: n1 = n2 = 577. Cộng thêm 10% mất
mẫu ta được n1 = n2 = 635. Vì cỡ mẫu điều tra trong nghiên cứu can thiệp tương
đương cỡ mẫu trong điều tra thực trạng trước can thiệp nên lấy số liệu điều tra
thực trạng làm số liệu trước can thiệp và cỡ mẫu điều tra sau can thiệp sẽ chọn
bằng cỡ mẫu điều tra trước can thiệp (n1 = n2 = 640 người). Đây là nghiên cứu
can thiệp, theo dõi và đánh giá hiệu quả sau 1 năm. Đối tượng nghiên cứu trước
can thiệp và sau can thiệp giống nhau. Cỡ mẫu và chọn mẫu điều tra trên người,
chó, đất, rau giống như điều tra trước can thiệp.
42
Hình 2.2. Thiết kế và quy trình triển khai nghiên cứu
2.4.2. Nội dung nghiên cứu
2.4.2.1. Nghiên cứu thực trạng và yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa
chó ở người
- Xác định tỷ lệ nhiễm ATGĐC ở người bằng xét nghiệm huyết thanh phát
hiện kháng thể kháng Toxocara canis ở người. Khám lâm sàng trên số người có
huyết thanh dương tính để xác định trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó.
43
- Xét nghiệm phân chó, đất, rau xác định tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở
chó, đất, rau.
- Phỏng vấn người dân về kiến thức, thái độ, thực hành liên quan đến nhiễm
ATGĐC. Phân tích và lựa chọn một số yếu tố liên quan, trên cơ sở đó chú trọng
đến những biện pháp can thiệp nào để tăng hiệu quả phòng chống.
2.4.2.2. Nghiên cứu hiệu quả các biện pháp can thiệp
* Áp dụng các biện pháp can thiệp
Dựa vào mô hình can thiệp phòng chống các bệnh ký sinh trùng chung của
Molyneux [88] và tham khảo các mô hình phòng chống sán lá gan lớn có hiệu
Điều trị trường hợp bệnh
quả tại Việt Nam, các biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ATGĐC gồm:
Giảm tỷ lệ nhiễm ATGĐC
Tẩy giun
cho chó
Truyền thông giáo dục
Hình 2.3. Các biện pháp can thiệp thực hiện tại điểm nghiên cứu
* Nội dung can thiệp
- Điều trị trường hợp bệnh bằng thuốc albendazol 400 mg, liều 15mg/kg cân
nặng trong 21 ngày.
- Truyền thông thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của người dân. Thực
tế đã thực hiện được truyền thông giáo dục như bảng 2.1.
44
Bảng 2.1. Truyền thông giáo dục đã thực hiện tại điểm can thiệp
Hoạt động Số lần Kết quả thực hiện
20 lần Truyền Tại xã: 4 lần/ngày x 5 ngày
thông Tại 7 cụm DC: 4 lần/ngày x 5 ngày 140 lần
trong đợt Phát tờ rơi tại hộ gia đình: mỗi hộ 1 tờ 841 tờ (93,9%)
chiến dịch Phát tờ rơi tại trường tiểu học 383 tờ (100%)
Treo băng rôn: nơi đông dân cư 5 băng rôn
Tập huấn nâng cao năng lực cán bộ 1 lớp 40 người
Truyền thông trên loa đài trong 1 năm
+ Tại xã: 4 lần/tháng x 12 tháng 48 lần Huy động
+ Tại 7 KDC: 4 lần/tháng x 12 tháng 336 lần ban ngành
Họp dân tại khu dân cư: 7 khu dân cư 28 1.936 lượt tham gia
truyền Truyền thông học sinh Trường tiểu học 36 13.680 lượt
thông giáo Họp phụ nữ (1 lần/3 tháng x 4 lần) 4 420 lượt
dục trong Họp nông dân 4 485 lượt
1 năm Họp cựu chiến binh 4 400 lượt
Họp Đoàn thanh niên 4 350 lượt
Vãng gia: 30 hộ/tháng x12 tháng x 7 84 2.520 lượt hộ
- Tẩy giun cho chó tại xã can thiệp bằng pyrantel pamoate 125 mg, liều
dùng 1 viên cho 5 kg cân nặng. Tẩy giun hai đợt, mỗi đợt cách nhau 6 tháng
(tháng 9/2016 và tháng 3/2017), số hộ có chó được tẩy giun trong đợt một là 425
hộ đạt tỷ lệ 97,5% (698 con chó được tẩy giun) và đợt hai là 398 hộ đạt tỷ lệ
94,5% (640 con chó được tẩy giun).
- Giám sát các hoạt động phòng chống bệnh ATGĐC mỗi 3 tháng 1 lần.
* Đánh giá hiệu quả can thiệp
- So sánh tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ATGĐC ở người tại xã can thiệp và xã
đối chứng trước và sau can thiệp.
45
- So sánh tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở chó, đất, rau tại xã can thiệp và
xã đối chứng trước và sau can thiệp.
- So sánh kiến thức, thái độ và thực hành liên quan đến bệnh ATGĐC của
người dân tại xã can thiệp và xã đối chứng trước và sau can thiệp.
Nhiễm ATGĐC
Mắc bệnh ATGĐC
Kiến thức, Thái độ, Thực hành chưa cao
Mầm bệnh ở ngoại cảnh cao (đất, rau)
Thiếu thông tin
Vệ sinh cá nhân chưa tốt
Vệ sinh môi trường chưa tốt
Nguồn nhiễm ở chó cao
Trứng phát triển tốt ở ngoại cảnh
Ăn rau sống
Không xử lý phân chó
Nuôi chó thả rông
Thông tin truyền đạt chưa
Tẩy giun cho chó thấp
Tiếp xúc đất, bồng bế chó
Không rửa tay sau TX đất và trước khi ăn
Điều kiện khí hậu thuận lợi
có
Tẩy giun
Điều trị trường hợp bệnh
Truyền thông Giáo dục
cho chó
Các biện pháp can thiệp
Hình 2.4. Khung lý thuyết nghiên cứu bệnh ấu trùng giun đũa chó
46
2.4.3. Phương pháp thu thập số liệu
2.4.3.1. Bộ công cụ nghiên cứu
- Bảng ghi kết quả xét nghiệm máu trên người (phụ lục 1);
- Bảng ghi kết quả khám lâm sàng trên người (phụ lục 2);
- Bảng ghi kết quả xét nghiệm phân chó (phụ lục 3);
- Bảng ghi kết quả xét nghiệm đất tại hộ gia đình (phụ lục 4);
- Bảng ghi kết quả xét nghiệm đất tại nơi công cộng (phụ lục 5);
- Bảng ghi kết quả xét nghiệm rau (phụ lục 6);
- Phiếu phỏng vấn đối tượng: dùng cho cả hai lần điều tra trước và sau can
thiệp (phụ lục 7 và 7a);
- Bảng ghi kết quả hoạt động can thiệp, nội dung bao gồm:
+ Số trường hợp bệnh được điều trị.
+ Số trường hợp có tác dụng ngoại ý.
+ Tập huấn: thành phần, số lượng tham gia.
+ Truyền thông: trên loa đài (số lần), số tờ rơi đã phát, băng rôn treo.
+ Tẩy giun cho chó: số lượng chó được tẩy giun.
- Bảng ghi kết quả hoạt động giám sát (1 lần/3 tháng), nội dung bao gồm:
+ Truyền thông trực tiếp tại khu dân cư do trưởng thôn, trưởng khu dân
cư chủ trì (số lần, số người tham gia).
+ Truyền thông trực tiếp tại khu dân cư do các đoàn thể chủ trì (số lần,
số người tham gia).
+ Truyền thông trực tiếp tại trường học (số lần)
+ Vãng gia: số lần vãng gia, số hộ được truyền thông.
+ Số chó được tẩy giun.
2.4.3.2. Lựa chọn điều tra viên và giám sát viên
- Điều tra viên: là các cán bộ khoa Ký sinh trùng của Viện Sốt rét-KST-CT
Quy Nhơn. Các điều tra viên có đủ các tiêu chuẩn như kỹ năng, kinh nghiệm
điều tra, nhiệt tình, trách nhiệm, nghiêm túc và có thời gian.
47
- Giám sát viên: là các cán bộ của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương và
nghiên cứu sinh.
2.4.3.3. Các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu
- Kỹ thuật hỏi bệnh, thăm khám lâm sàng: Hỏi người bệnh về tiền sử xuất
hiện từng đợt, hoặc hiện tại có các triệu chứng lâm sàng có liên quan đến bệnh
ATGĐC.
- Kỹ thuật xét nghiệm miễn dịch: Kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể IgG
đặc hiệu Toxocara sp trong huyết thanh người (Phụ lục 8). Sử dụng bộ sinh
phẩm của Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại hóa chất Việt Sinh
với độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 97%.
- Kỹ thuật ly tâm cặn lắng formaline- ether: để tìm trứng giun đũa chó trong
phân chó, theo hướng dẫn của WHO (1995). (Phụ lục 9)
- Kỹ thuật xét nghiệm đất, rau theo phương pháp Romanenko [104] (Phụ
lục 10).
- Kỹ thuật xét nghiệm giọt máu đàn: Nhuộm Giemsa 7- 10%, soi và đếm
công thức bạch cầu bằng kính hiển vi quang học. BCAT được cho là tăng khi tỷ
lệ BCAT chiếm từ 6% trở lên trong công thức bạch cầu.
- Kỹ thuật phỏng vấn: Hỏi trực tiếp theo mẫu phỏng vấn điều tra liên quan
bệnh ATGĐC ở người (phụ lục 7 và 7a)
- Kỹ thuật truyền thông giáo dục: trực tiếp và gián tiếp
2.4.4. Tổ chức thực hiện
2.4.4.1. Giai đoạn 1: Điều tra thực trạng và yếu tố liên quan đến nhiễm ATGĐC
Dựa trên danh sách các hộ gia đình trong thôn, chọn ngẫu nhiên hệ thống
theo khoảng cách K sẽ lấy được danh sách 200 hộ được chọn vào nghiên cứu.
Thông báo cho lãnh đạo chính quyền xã, trạm y tế xã, trưởng thôn và các hộ dân
về thời gian điều tra tại hộ gia đình (chia lịch theo từng khu dân cư).
- Tổ chức thu thập mẫu đất, mẫu phân chó (nếu có) vào ngày đã định tại
từng hộ gia đình. Phỏng vấn đối tượng trong các hộ được chọn (mỗi hộ 1 người)
48
về kiến thức, thái độ và thực hành về bệnh ATGĐC theo mẫu soạn trước (Phụ
lục 7). Các hộ có chó được phát lọ lấy phân xét nghiệm, yêu cầu chủ hộ nhốt chó
để lấy phân (phụ lục 3). Phát giấy mời cho tất cả những người trong hộ được
chọn, hẹn lịch đến Trạm y tế xã để lấy máu xét nghiệm vào ngày hôm sau.
- Lấy máu tại Trạm y tế xã, lấy 1,5 ml máu tĩnh mạch, ly tâm lấy huyết
thanh cho vào tuýp efendot và bảo quản ở tủ lạnh 40C.
- Thu thập mẫu rau tại các hộ trồng rau và tại chợ của địa phương.
- Các mẫu máu, phân chó và mẫu đất, mẫu rau thu thập được tại thực địa sẽ được bảo quản ở nhiệt độ 40C và chuyển về khoa Ký sinh trùng của Viện Sốt rét-
KST-CT Quy Nhơn để thực hiện các xét nghiệm về công thức bạch cầu, xét
nghiệm phân chó tìm trứng giun đũa chó theo kỹ thuật ly tâm cặn lắng
formaline- ether, xét nghiệm đất, rau tìm trứng giun đũa chó mèo bằng kỹ thuật
Romanenko. Riêng xét nghiệm ELISA được thực hiện tại Phòng Khám của Viện
Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn (ISO 15189: 2012).
2.4.4.2. Giai đoạn 2: Can thiệp cộng đồng
- Điều trị trường hợp bệnh: Điều trị những trường hợp bệnh ATGĐC. Tất cả
những trường hợp huyết thanh dương tính phát hiện được qua điều tra cắt ngang
tại xã can thiệp và xã đối chứng đều được sẽ được mời đến Trạm y tế xã để
khám lâm sàng. Tất cả những trường hợp bệnh ATGĐC (gồm huyết thanh dương
tính kết hợp với ít nhất một triệu chứng lâm sàng) đều được điều trị. Sử dụng
thuốc albendazol điều trị theo phác đồ 15 mg/kg cân nặng/ngày, liều dùng 21
ngày, uống 1 ngày 2 viên chia 2 lần, uống sau bữa ăn. Theo dõi bệnh nhân trong 21 ngày điều trị, ghi nhận tác dụng ngoại ý và xử lý (nếu có).
- Truyền thông giáo dục:
Tập huấn cho cán bộ y tế cơ sở và cán bộ chủ chốt của xã, cán bộ thú y,
giáo viên, y tế thôn, trưởng thôn, phụ nữ thôn, trưởng khu dân cư, cộng tác
viên… để nâng cao năng lực trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó.
Huy động các ban ngành liên quan: chính quyền, y tế, giáo dục, thú y, các đoàn
49
thể cùng tham gia phòng chống bệnh. Phát tờ rơi cho từng hộ trong thôn can
thiệp, từng học sinh tiểu học trong thôn và treo băng rôn tại điểm đông dân cư.
Tiếp tục duy trì truyền thông trong vòng 12 tháng qua loa phát thanh, nói
chuyện trực tiếp với học sinh tiểu học vào sáng thứ Hai hàng tuần. Tuyên truyền
trực tiếp qua họp dân: trưởng khu dân cư, các đoàn thể như Hội nông dân, Hội
phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh…truyền thông lồng ghép với các cuộc họp
khác khoảng 1 lần/3 tháng. Ngoài ra còn kết hợp với các chương trình y tế khác,
y tế thôn và cộng tác viên trực tiếp vãng gia tại từng hộ gia đình để truyền thông
giáo dục.
Nội dung truyền thông đại chúng bao gồm nguồn bệnh, đường lây truyền,
tác hại, triệu chứng, điều trị, các yếu tố nguy cơ, cách phòng chống bệnh.
Truyền thông trực tiếp sử dụng thông điệp truyền thông ngắn gọn:
+ Ăn rau sống, hoa quả phải rửa sạch
+ Rửa tay trước khi ăn
+ Hạn chế tiếp xúc đất, phải rửa tay sau khi tiếp xúc đất
+ Không bồng bế chó
+ Không nuôi chó thả rông
+ Xử lý phân chó
+ Tẩy giun cho chó định kỳ
+ Khi nghi ngờ bị nhiễm ấu trùng giun đũa chó, đến cơ sở y tế để
xét nghiệm và điều trị.
- Tẩy giun cho chó:
Toàn bộ số chó tại thôn can thiệp sẽ được tẩy giun. Việc tẩy giun cho chó
được thực hiện bởi cán bộ thú y của xã kết hợp với nhân viên y tế. Sử dụng
Sanpet 125 mg để tẩy giun cho chó, đối với chó dưới 3 tháng tuổi sẽ được tẩy
vào lúc 4 tuần tuổi, 8 tuần tuổi và 12 tuần tuổi (cách 4 tuần tuổi tẩy 1 lần). Đối
với chó lớn hơn 3 tháng tuổi sẽ tẩy 1 lần và 6 tháng sau sẽ tẩy lần 2. Liều dùng
50
duy nhất 1 viên cho 5 kg thể trọng. Trong thời gian 1 năm can thiệp, nếu các hộ
có nuôi chó mới, sẽ đến tại Trạm y tế của xã để nhận thuốc tẩy giun cho chó.
Ngoại trừ việc điều trị và theo dõi trường hợp bệnh ATGĐC tiến hành tại 2
xã, các hoạt động truyền thông giáo dục và tẩy giun cho chó chỉ tiến hành tại xã
can thiệp. Không thực hiện các biện pháp truyền thông giáo dục và tẩy giun cho
chó tại xã đối chứng.
2.4.4.3. Giai đoạn 3: Điều tra sau can thiệp
Tiến hành điều tra giống như điều tra trước can thiệp
2.4.5. Biến số và các chỉ số đánh giá trong nghiên cứu
2.4.5.1. Biến số và giải thích từ ngữ liên quan đến các biến số
* Biến số
TT Tên biến số Định nghĩa/chỉ số Phân loại PP thu thập
Thông tin chung
1 Tuổi Tuổi tính theo năm Rời rạc Số liệu thứ cấp
2 Giới Giới tính của đối tượng Phân loại Số liệu thứ cấp
3 Trình độ học vấn Cấp học cao nhất Thứ bậc Số liệu thứ cấp
4 Nghề nghiệp Nghề hiện tại Phân loại Số liệu thứ cấp
Kiến thức
5 Nhị phân Số liệu thứ cấp
6 Phân loại Số liệu thứ cấp
7 Phân loại Số liệu thứ cấp
8 Phân loại Số liệu thứ cấp Có nghe nói về bệnh ATGĐC Kiến thức về nguy cơ nhiễm Kiến thức về triệu chứng bệnh Kiến thức về phòng chống Đã được nghe nói về bệnh Những nguy cơ có thể nhiễm bệnh Những triệu chứng của bệnh Những biện pháp phòng chống
Thái độ
Phân loại Số liệu thứ cấp 9 Cần thiết không nuôi chó thả rông
thiết xử lý 10 Cần Phân loại Số liệu thứ cấp phân chó Cần thiết, không và không biết Cần thiết, không và không biết
51
11 Cần thiết tẩy giun Phân loại Số liệu thứ cấp cho chó Cần thiết, không và không biết
Thực hành
12 Nuôi chó Nuôi chó tại nhà Nhị phân Số liệu thứ cấp
13 Nuôi chó thả rông Thả rông Nhị phân Số liệu thứ cấp
14 Tẩy giun cho chó Có tẩy giun Nhị phân Số liệu thứ cấp
15 Tiếp xúc đất Mức độ tiếp xúc Thứ bậc Số liệu thứ cấp
16 Bồng bế chó Mức độ tiếp xúc Thứ bậc Số liệu thứ cấp
17 Ăn rau sống Mức độ ăn Thứ bậc Số liệu thứ cấp
18 Rửa tay trước khi Có rửa tay Nhị phân Số liệu TC ăn
Xét nghiệm, triệu chứng lâm sàng
19 Nhiễm ATGĐC Rời rạc Số liệu thứ cấp
20 Bệnh ATGĐC Nhị phân Số liệu thứ cấp
21 BCAT Huyết thanh dương tính Huyết thanh (+) kết hợp ít nhất 1 TCLS Tỷ lệ bạch cầu ái toan Rời rạc Số liệu thứ cấp
22 Triệu chứng lâm Phân loại Số liệu thứ cấp sàng Dấu hiệu lâm sàng có liên quan bệnh ATGĐC
* Một số định nghĩa và tiêu chí đánh giá
- Nhóm tuổi: phân theo 2 nhóm: từ 2-15 tuổi và trên 15 tuổi;
- Trình độ học vấn: là mức độ học vấn đạt được, xếp theo các mức: tiểu
học trở xuống, trung học cơ sở, trung học phổ thông trở lên;
- Nghề nghiệp: là công việc thường ngày, mang lại nguồn thu nhập chính
cho đối tượng trong quần thể nghiên cứu, được xếp thành: cán bộ viên chức, làm
nông, và nhóm khác (bao gồm: buôn bán, học sinh-sinh viên, người già...).
- Kiến thức về nguy cơ nhiễm: Chia làm các giá trị: ăn rau sống, không rửa
tay trước khi ăn, tiếp xúc đất, bồng bế chó/mèo, khác và không biết (KB).
- Có kiến thức về nguy cơ nhiễm:
+ Có kiến thức: Trả lời đúng ít nhất một nguy cơ nhiễm: ăn rau sống,
không rửa tay trước khi ăn, tiếp xúc đất, bồng bế chó/mèo.
52
+ Không có kiến thức: Trả lời sai hoặc không biết.
- Kiến thức về triệu chứng: Chia làm các giá trị: ngứa, nổi mề đay, nhức
đầu, đau nhức mỏi, tê bì, đau bụng, rối loạn tiêu hóa (RLTH) và khác (triệu
chứng lâm sàng hiếm gặp) và không biết.
+ Có kiến thức: Trả lời đúng ít nhất một triệu chứng: ngứa, nổi mề đay,
nhức đầu, đau nhức mỏi, tê bì, đau bụng, RLTH và khác (triệu chứng lâm sàng
hiếm gặp).
+ Không có kiến thức: Trả lời sai hoặc không biết.
- Kiến thức về phòng ngừa: Chia làm các giá trị: Ăn chín uống chín, tẩy
giun cho chó, xử lý phân chó, rửa tay khi tiếp xúc đất, rửa tay trước khi ăn,
không bồng bế chó/mèo và không biết.
+ Có kiến thức: Trả lời đúng ít nhất một biện pháp: Ăn chín uống chín,
tẩy giun cho chó, xử lý phân chó, rửa tay khi tiếp xúc đất, rửa tay trước khi ăn,
không bồng bế chó/mèo.
+ Không có kiến thức: Trả lời sai hoặc không biết.
- Ăn rau sống: phân theo 3 mức độ ăn
+ Thường xuyên: từ 1 lần trở lên/tuần
+ Không thường xuyên: 1 lần/2 tuần hoặc ít hơn
+ Không: chưa bao giờ ăn
- Rửa rau sống: phân theo 2 mức độ
+ Đúng cách: tối thiểu 3 lần với nước sạch hoặc rửa dưới vòi nước máy.
+ Không đúng: rửa dưới 3 lần hoặc rửa với nước không sạch (ao, hồ…)
- Rửa tay trước khi ăn: phân theo 2 mức độ
+ Thường xuyên: trước khi ăn đều rửa tay
+ Không: Không thường xuyên hoặc không rửa
- Tiếp xúc đất: phân theo 3 mức độ
+ Thường xuyên: từ 1 lần trở lên/tuần
+ Không thường xuyên: 1 lần/2 tuần hoặc ít hơn
53
+ Không: chưa bao giờ tiếp xúc đất
- Rửa tay sau khi tiếp xúc đất: phân theo 2 mức độ
+ Thường xuyên: sau khi tiếp xúc đất đều rửa tay
+ Không: Không thường xuyên hoặc không rửa
- Bồng bế chó/mèo: phân theo 3 mức độ
+ Thường xuyên: từ 1 lần trở lên/tuần
+ Không thường xuyên: 1 lần/2 tuần hoặc ít hơn
+ Không: chưa bao giờ bồng bế chó/mèo
- Nhiễm giun đũa ở chó: phân theo 2 giá trị
+ Nhiễm: xét nghiệm phân chó có trứng giun đũa
+ Không nhiễm: xét nghiệm âm tính
- Nhiễm trứng giun đũa chó ở đất: phân theo 2 giá trị
+ Nhiễm: xét nghiệm đất có trứng giun đũa chó
+ Không nhiễm: xét nghiệm âm tính
- Nhiễm trứng giun đũa chó ở rau: phân theo 2 giá trị
+ Nhiễm: xét nghiệm rau có trứng giun đũa chó
+ Không nhiễm: xét nghiệm âm tính
- Nhiễm ấu trùng giun đũa chó: phân theo 2 giá trị
+ Nhiễm: Huyết thanh dương tính: OD/ngưỡng ≥ 1
+ Không nhiễm: Huyết thanh âm tính: OD/ngưỡng < 1
- Trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó: phân theo 2 giá trị
+ Bệnh: Dựa vào định nghĩa trường hợp bệnh theo hướng dẫn của Bộ Y
tế. Tiêu chuẩn chẩn đoán ca bệnh ATGĐC bao gồm huyết thanh dương tính giun
đũa chó kết hợp ít nhất một triệu chứng lâm sàng [3].
+ Không bệnh: Huyết thanh âm tính hoặc huyết thanh dương tính nhưng
không có triệu chứng lâm sàng.
54
2.4.5.2. Các chỉ số đánh giá trong nghiên cứu
* Nghiên cứu thực trạng và yếu tố liên quan đến nhiễm ATGĐC:
- Tỷ lệ nhiễm ATGĐC bằng kỹ thuật ELISA;
- Phân bố nhiễm ATGĐC theo nhóm tuổi, giới …;
- Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó;
- Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trong phân chó và trong đất, rau;
- Các chỉ số về kiến thức, thái độ, thực hành của người dân liên quan đến
nhiễm ATGĐC.
* Nghiên cứu can thiệp
- So sánh sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm, tỷ lệ bệnh ở người, tỷ lệ nhiễm ở chó,
đất, rau, sự khác biệt về tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành liên quan phòng
chống bệnh ATGĐC trước và sau can thiệp giữa nội bộ xã can thiệp, nội bộ xã
đối chứng bằng chỉ số hiệu quả và so sánh giữa xã can thiệp và xã đối chứng
bằng hiệu quả can thiệp.
| p1- p2 |
Chỉ số hiệu quả (%) = x 100
p1
p1: chỉ số đánh giá trước can thiệp tại xã can thiệp/đối chứng;
p2: chỉ số đánh giá sau can thiệp tại xã can thiệp/đối chứng.
Hiệu quả can thiệp (HQCT) sau can thiệp giữa 2 xã can thiệp và đối
chứng của mỗi một giải pháp can thiệp sẽ là hiệu số của các chỉ số hiệu quả
(CSHQ) tính toán ở trên tại xã can thiệp và xã đối chứng
HQCT = CSHQ xã can thiệp - CSHQ xã đối chứng
2.4.6. Vật liệu nghiên cứu
- Dụng cụ dùng trong khám lâm sàng (nhiệt kế, ống nghe...);
- Dụng cụ lấy máu (bơm kim tiêm 5ml, ống nghiệm lấy máu …);
- Dụng cụ xét nghiệm phân, đất, rau (kính hiển vi, máy ly tâm, ống đong,
tube nhọn đầu, hóa chất formaline, ether, lamen…);
55
- Hệ thống ELISA gồm: máy đọc ELISA, máy rửa, tủ ấm, máy ly tâm …;
- Bộ kit thử ELISA cho Toxocara canis của Công ty trách nhiệm hữu hạn
sản xuất thương mại hóa chất Việt Sinh. Bộ kít thử có độ nhạy 100%, độ đặc
hiệu 97%. Đây là bộ kít chẩn đoán được Bộ Y tế duyệt và cho sử dụng (phụ lục
13).
- Thuốc albendazole 400mg để điều trị các trường hợp bệnh ATGĐC. Dùng
biệt dược Unaben 400 mg, được sản xuất từ Công ty cổ phần KOREA UNITED
PHARM INTL, Số đăng ký: VD-5018-08. Dựa vào tài liệu của Bộ Y tế “Cẩm
nang phòng chống bệnh truyền nhiễm” [2] và theo các NC của Nguyễn Văn
Chương (2014), Lương Trường Sơn (2013) [6],[31], dùng liều điều trị 15 mg/kg
cân nặng dùng trong 21 ngày
Hình 2.5. Thuốc Unaben
- Thuốc tẩy giun cho chó: sử dụng pyrantel pamoate 125 mg, biệt dược
Sanpet (hãng Hanvet), liều dùng duy nhất 1 viên cho 5 kg thể trọng.
- Máy chiếu, giấy bút, loa, máy tính xách tay…;
- Tờ rơi (phụ lục 12), băng rôn;
- Phiếu phỏng vấn kiến thức, thái độ, thực hành (phụ lục 7 và 7a).
2.5. Xử lý số liệu
Số liệu được nhập vào phần mềm Epidata, Excel, xử lý và phân tích bằng
phần mềm thống kê Stata 12.0. Các thông số thống kê, tính toán bao gồm:
- Số lượng, tỷ lệ phần trăm.
56
- So sánh 2 tỷ lệ bằng kiểm định Khi bình phương, giá trị p (p-value).
- Tính chỉ số OR với khoảng tin cậy 95% (CI 95%).
- Tính chỉ số hiệu quả, hiệu quả can thiệp.
2.6. Các biện pháp khống chế sai số
Để đảm bảo độ chính xác, hạn chế sai số cần thực hiện:
- Cỡ mẫu được tính đủ lớn để hạn chế sai số.
- Bộ công cụ được thiết kế rõ ràng, thống nhất có sự cố vấn của các chuyên
gia về lĩnh vực y tế công cộng, ký sinh trùng.
- Tiến hành điều tra thử bộ câu hỏi.
- Địa bàn can thiệp và đối chứng đảm bảo tương đồng các chỉ số liên quan.
- Điều tra viên đều được tập huấn, giao nhiệm vụ cụ thể và được giám sát
khi thực hiện các đợt điều tra. Các kỹ thuật tại la bô được thực hiện bởi những
kỹ thuật viên có kinh nghiệm của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn.
- Sai số có thể gặp trong phỏng vấn do sử dụng ngôn từ địa phương giữa
người phỏng vấn và người được phỏng vấn. Hạn chế bằng cách chọn người địa
phương là cán bộ y tế xã hoặc thôn cùng đi phỏng vấn và làm phiên dịch khi cần.
2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
2.7.1. Sự chấp thuận của Hội đồng đạo đức y sinh của Viện Vệ sinh Dịch tễ
Trung ương
- Đề tài thực hiện với đề cương đã được thông qua Hội đồng Đạo đức Y
sinh học của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (Chứng nhận chấp thuận của Hội
đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh, số: IRB-VN01057-24/2016);
- Tất cả thời điểm, tính an toàn phải luôn đảm bảo cho bệnh nhân;
- Bất kỳ sự thay đổi nào cũng phải xin ý kiến chấp thuận của Hội đồng đạo
đức y sinh học của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương trước;
- Nghiên cứu viên chính có trách nhiệm tuân theo các đánh giá của Hội
đồng đạo đức y sinh học về quá trình thực hiện nghiên cứu.
57
2.7.2. Cam kết tham gia nghiên cứu thông qua
- Bệnh nhân hoặc người nhà, người giám hộ đồng ý, chấp thuận sau khi
nghe rõ quyền lợi và trách nhiệm khi tham gia nghiên cứu, hoặc trong trường
hợp không biết tiếng có thể sử dụng người địa phương chuyển dịch bằng ngôn
ngữ địa phương nghe rõ trước khi tham gia nghiên cứu;
- Tất cả câu hỏi của bệnh nhân hoặc thân nhân đều phải được nhóm nghiên
cứu trả lời rõ ràng, cụ thể. Giải thích về lợi ích, quyền lợi và cả nguy cơ có thể
xảy ra sau uống thuốc (các biến cố bất lợi).
2.7.3. Bảo mật thông tin và số liệu
- Tất cả thông tin liên quan đến đối tượng nghiên cứu sẽ được bảo mật và
chỉ chia sẻ với các thành viên trong nhóm nghiên cứu;
- Trưởng nhóm nghiên cứu phải đảm bảo cất giữ hồ sơ và sản phẩm nghiên
cứu (mẫu máu, mẫu ghi kết quả) cẩn trọng.
2.7.4. Dịch vụ chăm sóc y tế
- Chăm sóc y tế hoàn toàn miễn phí về bệnh ATGĐC trong suốt quá trình
nghiên cứu (thuốc điều trị giun), theo dõi bệnh nhân sau uống thuốc;
- Nếu có vấn đề y tế khác không liên quan nhiễm ATGĐC, nghiên cứu viên
có trách nhiệm chuyển bệnh nhân điều trị trong khả năng tốt nhất.
2.7.5. Sự khích lệ và động viên đối tượng tham gia hoàn tất
- Tất cả bệnh nhân trong diện nghiên cứu sẽ được xét nghiệm và dùng thuốc
(nếu có) hoàn toàn miễn phí;
- Luôn luôn khuyến khích họ đến điểm nghiên cứu để đạt số mẫu như yêu
cầu đề cương.
58
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó
3.1.1. Thực trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người
3.1.1.1. Một số đặc tính của mẫu nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc tính về giới và nhóm tuổi của mẫu nghiên cứu
Xã Đức Phong (n=662) Xã Đức Chánh (n=665) Đặc tính
% % % Số lượng Cộng (n=1.327) Số lượng Số lượng
Nam 318 48,0 323 48,6 641 48,3 Giới Nữ 344 52,0 342 51,4 686 51,7
> 15 435 65,7 415 62,4 850 64,1
Nhóm tuổi 2 – 15 227 34,3 250 37,6 477 35,9
Mẫu nghiên cứu gồm 1.327 người, trong đó: xã Đức Phong là 662 người,
tại Đức Chánh là 665 người. Sự phân bố các đặc tính về giới và nhóm tuổi của
mẫu tại 2 xã là tương đồng với nhau.
Bảng 3.2. Đặc tính về trình độ học vấn, nghề nghiệp của người được phỏng vấn
Xã Đức Phong (n=200) Xã Đức Chánh (n=200) Đặc tính
% % % Số lượng Số lượng Cộng (n=400) Số lượng
53 26,5 51 25,5 104 26,0
75 37,5 82 41,0 157 39,3
Trình độ học vấn
72 36,0 67 33,5 139 34,7 Tiểu học trở xuống Trung học cơ sở Trung học phổ thông trở lên
Nông 137 68,5 155 77,5 292 73,0
CBVC 36 18,0 24 12,0 60 15,0
Nghề nghiệp Khác 27 13,5 21 10,5 48 12,0
59
Trình độ học vấn: bậc tiểu học trở xuống chiếm 26%, trung học cơ sở
chiếm 39,3%, phổ thông trung học trở lên chiếm 34,7%. Về nghề nghiệp: nhóm
làm nông cao nhất chiếm 73%. Sự phân bố các đặc tính về trình độ học vấn và
nghề nghiệp của mẫu tại 2 xã cũng tương đồng với nhau.
3.1.1.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên cứu
Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm NC
Xã Số nhiễm % p Số mẫu máu XN ELISA
Đức Phong 662 119 17,9
> 0,05
Đức Chánh 665 111 16,7
Cộng 1.327 230 17,3
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người chung tại 2 xã là 17,3%. Tỷ lệ
nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại xã Đức Phong là 17,9%; xã Đức Chánh là
16,7%. Không có sự khác biệt nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại 2 xã nghiên cứu.
3.1.1.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo một số đặc tính
Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo giới tính tại các điểm NC
Xã Giới Số nhiễm Tỷ lệ % p
Nam Số mẫu máu XN ELISA 318 53
> 0,05 Nữ 66 344 Đức Phong
Nam 45 323
Nữ 66 342 Đức Chánh > 0,05
Nam 98 641
Cộng > 0,05 Nữ 132 686
16,7 19,2 13,9 19,3 15,3 19,2
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nam là 15,3%; ở nữ là 19,2%. Không
có sự khác biệt về nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo giới tính.
60
Bảng 3.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo nhóm tuổi
p Xã Nhóm tuổi Số nhiễm Tỷ lệ %
Số mẫu máu XN ELISA 435 > 15 90 20,7
< 0,05 2 - 15 227 29 12,8 Đức Phong
> 15 415 79 19,0
< 0,05 2 - 15 250 32 12,8 Đức Chánh
> 15 850 169 19,9
Cộng < 0,01 2 - 15 477 61 12,8
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nhóm tuổi trên 15 tuổi là 19,9%; ở
nhóm từ 2-15 tuổi là 12,8%. Có sự khác biệt giữa nhiễm ấu trùng giun đũa chó
và nhóm tuổi tại các điểm nghiên cứu (p<0,05).
Hình 3.1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo trình độ học vấn
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nhóm tiểu học trở xuống là 34,6%; ở
nhóm THCS là 16,6% và nhóm trung học phổ thông trở lên là 15,1%.
61
Hình 3.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo nghề nghiệp
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nhóm làm nông là 22,9%; ở nhóm
CBVC là 10% và khác là 20,8%.
Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo yếu tố gia đình
Số người nhiễm Đức Chánh Cộng
Đức Phong trong hộ SL % SL % SL %
1 người 77 38,5 74 37,0 151 37,8
2 người 15 7,5 14 7,0 29 7,3
3 người 4 2,0 3 1,5 7 1,8
4 người 0 0 0 0 0 0
Không có người nhiễm 104 52,0 109 54,5 213 53,5
Cộng 200 100,0 200 100,0 400 100,0
Tỷ lệ hộ gia đình có người nhiễm ATGĐC là 46,5%, trong đó chủ yếu là hộ
có một người nhiễm chiếm 37,8%, có 2 người là 7,3%, có 3 người là 1,8%.
62
3.1.1.4. Mức độ OD/ngưỡng của số nhiễm ấu trùng giun đũa chó
Hình 3.3. Mức độ OD/ngưỡng của số nhiễm ấu trùng giun đũa chó
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó với OD/ngưỡng từ 1-< 1,25 là chủ yếu
(64,8%); OD/ngưỡng từ 1,25-< 1,5 chiếm 23%, OD/ngưỡng ≥ 1,5 chiếm 12,2%.
3.1.1.5. Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó
Hình 3.4. Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó
Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số nhiễm ấu trùng giun đũa chó từ 6-10%
chiếm 36,1%; tăng trên 10% chiếm 19,6%.
63
3.1.1.5. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người
Bảng 3.7. Triệu chứng lâm sàng trên số trường hợp bệnh ATGĐC
Đức Phong (n=61)
Đức Chánh (n=59)
Cộng (n=120)
TCLS
SL
%
SL
%
%
SL 83
Ngứa, nổi mẩn
46
75,4
37
69,2
62,7
63
Đau đầu, chóng mặt
29
47,5
34
52,5
57,6
27
Đau bụng, RLTH
14
22,9
13
22,5
22,0
29
Nhức chân tay, tê bì
14
22,9
15
24,2
25,4
5
Sốt, thở khò khè
3
4,9
2
4,2
3,4
0
Triệu chứng về mắt
0
0
0
0
0
8
Khác
4
6,6
4
6,7
6,8
Khám lâm sàng bệnh nhân ATGĐC gồm 61 trường hợp tại xã Đức Phong
và 59 trường hợp tại xã Đức Chánh cho thấy một số triệu chứng chiếm tỷ lệ cao
như ngứa, nổi mẩn (69,2%), đau đầu (52,5%), đau bụng (22,5%), nhức mỏi chân
tay, tê bì (24,2%). Một số triệu chứng khác ít gặp chiếm 6,7% như tức ngực, đau
thượng vị…Chưa thấy trường hợp bệnh có triệu chứng về mắt.
Bảng 3.8. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên cứu
Xã Số XN p %
Đức Phong 662 Số huyết thanh (+) kết hợp TCLS 61 9,2
> 0,05
Đức Chánh 665 8,9 59
Cộng 1.327 9,0 120
64
Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó tại các điểm nghiên cứu là 9%. Trong đó xã
Đức Phong là 9,2%; xã Đức Chánh là 8,9%.
Bảng 3.9. Tỷ lệ có triệu chứng lâm sàng trên số nhiễm ATGĐC
Huyết thanh và Cộng (n= 230) TCLS Đức Phong (n= 119) Số lượng % Đức Chánh (n= 111) Số lượng % Số lượng %
HT (+) kết hợp 61 51,3 59 53,2 120 52,2 TCLS
HT (+) không có 58 48,7 52 46,8 110 47,8 TCLS
Cộng 119 100,0 111 100,0 230 100,0
Tỷ lệ có triệu chứng lâm sàng trên số nhiễm ATGĐC tại các điểm nghiên
cứu là 52,2%. Trong đó xã Đức Phong là 51,3%; xã Đức Chánh là 53,2%.
3.1.2. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người
3.1.2.1. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó
Bảng 3.10. Tỷ lệ nuôi chó tại các điểm NC
Số hộ điều tra Số hộ nuôi chó p
Xã Đức Phong 200 115 % 57,5
> 0,05
Đức Chánh 200 103 51,5
Cộng 400 218 54,5
Tỷ lệ chung về số hộ nuôi chó tại các điểm nghiên cứu là 54,5%, tại xã
Đức Phong là 57,5% và tại xã Đức Chánh là 51,5%. Không có sự khác biệt về tỷ
lệ nuôi chó tại các điểm nghiên cứu (p > 0,05).
65
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại các điểm nghiên cứu
Xã Số chó XN Số chó nhiễm % p
Đức Phong 126 42 33,3
> 0,05
Đức Chánh 109 35 32,1
Cộng 235 77 32,8
Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó chung tại các điểm nghiên cứu là 32,8%. Trong
đó, tỷ lệ chó nhiễm tại xã Đức Phong là 33,3%; tại xã Đức Chánh là 32,1%.
Không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại các điểm nghiên cứu
(p>0,05).
Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm giun đũa chó theo nhóm tuổi ở chó tại các điểm NC
< 3 tháng tuổi
3 – 6 tháng
> 6 tháng tuổi
Tổng số
Xã
Số XN
Số XN
Số XN
Số XN
Số nhiễm (%) 12
25
Số nhiễm (%) 9
79
Số nhiễm (%) 21
126
Số nhiễm (%) 42
Đức Phong
22
(54,5)
(36,0)
(26,6)
(33,3)
21
8
73
20
109
35
Đức Chánh
15
7
(46,7)
(38,1)
(27,4)
(32,1)
37
19
46
17
152
41
235
77
Cộng
(51,4)
(36,9)
(27,0)
(32,8)
Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó giảm dần theo tuổi của chó, tỷ lệ nhiễm ở chó
dưới 3 tháng tuổi là 51,4%; chó từ 3 đến 6 tháng tuổi nhiễm 37,0%; chó trên 6
tháng tuổi nhiễm 27%.
66
3.1.2.2. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất
Bảng 3.13. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các điểm nghiên cứu
Số mẫu Số mẫu Vị trí đất Xã % p nhiễm XN
Đức Phong 200 59 29,5 > 0,05 Hộ gia đình Đức Chánh 200 52 26,0
Cộng 400 111 27,8
Đức Phong 10 3 30,0 > 0,05 Sân chơi Đức Chánh 10 2 20,0 công cộng
Cộng 20 5 25,0
Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các hộ gia đình là 27,8%, tại sân
chơi công cộng là 25%. Không có sự khác biệt nhiễm trứng giun đũa chó ở đất
tại hộ gia đình và sân chơi công cộng ở các điểm nghiên cứu.
Bảng 3.14. Mật độ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các điểm nghiên cứu
Số mẫu Số trứng trên Xã Vị trí Số XN nhiễm 100 gam đất
Hộ gia đình 59 7 200 Đức Phong Sân chơi CC 3 2 10
Hộ gia đình 52 6 200 Đức Chánh Sân chơi CC 2 1,5 10
Hộ gia đình 111 6,5 400 Cộng Sân chơi CC 5 1,8 20
Số trứng giun đũa chó trung bình trên 100 gam đất tại hộ gia đình là 6,5
trứng; tại các sân chơi công cộng là 1,8 trứng.
67
3.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau
Bảng 3.15. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau tại các điểm NC
Đức Phong Đức Chánh Cộng
Loại rau
Số mẫu XN Số mẫu XN Số mẫu XN
40 Rau cải 80 40
40 Rau xà lách 80 40
40 Rau má 80 40
40 Rau diếp cá 80 40
40 Rau thơm 80 40
Cộng 200 200 400 Số nhiễm (%) 2 (5,0) 5 (12,5) 1 (2,5) 3 (7,5) 3 (7,5) 14 (7,0) Số nhiễm (%) 1 (2,5) 4 (10,0) 2 (5,0) 4 (10,0) 2 (5,0) 13 (6,5) Số nhiễm (%) 3 (3,8) 9 (11,3) 3 (3,8) 7 (8,8) 5 (6,3) 27 (6,8)
Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên các loại rau chung là 6,8%. Trong đó
nhiễm trên rau xà lách là 11,3%; rau diếp cá là 8,8%; các loại rau thơm là 6,3%;
rau má là 3,8% và rau cải là 3,8%.
Bảng 3.16. Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau theo vị trí thu thập
Đức Phong Đức Chánh Cộng
Vị trí thu thập Số mẫu XN Số mẫu XN Số mẫu XN
160 320 160 Vườn
40 80 40 Chợ
200 400 200 Cộng Số nhiễm (%) 11 (6,8) 3 (7,5) 14 (7,0) Số nhiễm (%) 10 (6,2) 3 (7,5) 13 (6,5) Số nhiễm (%) 21 (6,5) 6 (7,5) 27 (6,8)
Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau thu thập tại các vườn rau của các hộ
gia đình trong các điểm nghiên cứu là 6,5%, rau thu thập tại chợ nhiễm 7,5%.
68
Bảng 3.17. Cường độ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau tại các điểm NC
Số trứng trung bình trên 1 kg rau
Loại rau Đức Phong Đức Chánh Chung
Rau cải 2,5 2 2,3
8 7 7,5 Rau xà lách
2 4 3 Rau má
4 6 5 Rau diếp cá
4 3 3,5 Rau thơm
4,5 4,4 4,5 Chung
Cường độ nhiễm trứng GĐC trên rau tại các điểm NC là 4,5 trứng/kg.
3.1.2.4. Kiến thức của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó
Bảng 3.18. Tỷ lệ có nghe nói và nguồn thông tin về bệnh ATGĐC
Đức Chánh (n=200) Cộng (n=400) Nội dung
Có nghe nói về bệnh Đức Phong (n=200) Số lượng % 49,5 99 Số lượng % 47,0 94 Số lượng % 48,2 193
Không nghe 101 50,5 106 53,0 207 51,8
Nghe từ nguồn thông tin
Ti vi, đài 12 6,0 9 4,5 21 5,2
Cán bộ y tế 66 33,0 60 30,0 126 31,5
Người thân 92 46,0 88 44,0 180 45,0
Khác 9 4,5 4 2,0 13 3,3
Tỷ lệ có nghe nói về bệnh ấu trùng giun đũa chó chung tại 2 điểm nghiên
cứu là 48,2%. Nghe về bệnh qua tivi, đài là 5,2%; qua cán bộ y tế là 31,5%; qua
người thân cao nhất là 45%.
69
Bảng 3.19. Kiến thức về bệnh ấu trùng giun đũa chó
Đức Phong Đức Chánh Cộng
Kiến thức % % % Số lượng Số lượng Số lượng
Ăn rau, hoa quả sống 47,5 87 43,5 182 45,5 95
Tiếp xúc đất 11,0 20 10,0 42 10,5 22
Nguy cơ nhiễm Bồng bế chó 7,5 13 6,5 28 7,0 15
Không biết 105 52,5 113 56,5 218 54,5
Ngứa, nổi mề đay 47,5 90 45,0 185 46,3 95
Đau đầu 43,5 87 43,5 174 43,5 87
Đau bụng, RLTH 8,0 20 10,0 36 9,0 16
Nhức chân tay, tê bì 3,5 6 3,0 13 3,3 7 Triệu chứng bệnh
Khác 2,0 4 2,0 8 2,0 4
Không biết 103 51,5 110 55,0 213 53,3
Ăn uống chín 45,5 86 43,0 177 44,3 91
Tẩy giun cho chó 42,5 82 41,0 167 41,8 85
Xử lý phân chó 21,5 34 17,0 77 19,3 43
Rửa tay sau TX đất 6,5 13 6,5 26 6,5 13 Phòng chống
Rửa tay trước khi ăn 6,5 11 5,5 24 6,0 13
Không bồng bế chó 5,5 11 5,5 22 5,5 11
Không biết 107 53,5 115 57,5 222 55,5
Kiến thức về bệnh ATGĐC thấp, tỷ lệ không biết về nguy cơ nhiễm là
54,5%; không biết về triệu chứng 53,3%; không biết về phòng chống là 55,5%.
70
3.1.2.5. Thái độ của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó
Bảng 3.20. Thái độ về bệnh ấu trùng giun đũa chó
Cộng
Thái độ % % % Đức Phong Số lượng Đức Chánh Số lượng Số lượng
Đồng ý 96 48,0 93 46,5 189
Bệnh nguy hiểm
Không, KB 104 52,0 107 53,5 211
Cần thiết 72 36,0 69 34,5 141
Không nuôi chó thả rông
Không, KB 128 64,0 131 65,5 259
Cần thiết 71 35,5 79 39,5 150
Xử lý phân chó
Không, KB 129 64,5 121 60,5 250
Cần thiết 90 45,0 81 40,5 171
Tẩy giun cho chó
Không, KB 110 55,0 119 59,5 229
47,3 52,8 35,3 64,8 37,5 62,5 42,8 57,3
Người dân có thái độ đồng ý bệnh ATGĐC nguy hiểm là 47,3%; thái độ
cần thiết không nuôi chó thả rông là 35,3%; cần thiết xử lý phân chó 37,5% và
cần thiết tẩy giun cho chó là 42,8%.
71
3.1.2.6. Thực hành của người có liên quan về bệnh ấu trùng giun đũa chó
Bảng 3.21. Thực hành về ăn uống và thói quen sinh hoạt
Đức Phong Đức Chánh Cộng
Ăn uống, sinh hoạt (%) (%) (%)
Ăn rau sống thường xuyên Số lượng 85 42,5 Số lượng 64 32,0 Số lượng 149 37,3
Tiếp xúc đất thường xuyên 115 57,5 115 57,5 230 57,5
Không rửa tay sau TX đất 59 29,5 56 28,0 115 28,8
Không rửa tay trước khi ăn 40 20,0 47 23,5 87 21,8
Bồng bế chó thường xuyên 27 13,5 21 10,5 48 12,0
Thực hành về ăn uống và thói quen sinh hoạt có liên quan đến nhiễm bệnh
ATGĐC cho thấy tỷ lệ ăn rau sống thường xuyên là 37,3%; tiếp xúc đất thường
xuyên là 57,5%; bồng bế chó thường xuyên là 12%; không rửa tay sau khi tiếp
xúc đất là 28,8%; không rửa tay trước khi ăn là 21,8%.
Hình 3.5. Thực hành nuôi chó thả rông và tẩy giun cho chó
Tỷ lệ nuôi chó thả rông tại các điểm nghiên cứu là 83,5%; chỉ có 11,9% số
hộ có tẩy giun cho chó.
72
3.1.2.7. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người
Bảng 3.22. Liên quan giữa nuôi chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó
Xã Nuôi chó Tổng p Nhiễm (%) OR (CI 95%)
Nuôi chó 115 Không nhiễm (%) 89 (77,4)
1,2 (0,6-2,6)
> 0,05 26 (22,6) 16 (18,8) 69 (81,2) Không nuôi Đức Phong (n=200)
Tổng
Nuôi chó 42 23 (22,3) 85 200 103
97
Không nuôi 158 80 (77,7) 79 (81,4) Đức Chánh (n=200) 1,2 (0,6-2,6) > 0,05
18 (18,6) 41 159 Tổng
200 218
Nuôi chó 49 (22,5)
182
Không nuôi 34 (18,7) Cộng (n=400) 1,2 (0,7-2,1) > 0,05
83 169 (77,5) 148 (81,3) 317 Tổng 400
Không có mối liên quan giữa nhiễm ấu trùng giun đũa chó với người ở hộ
có nuôi chó và không nuôi chó (p>0,05).
73
Bảng 3.23. Liên quan giữa ăn rau sống và nhiễm ấu trùng giun đũa chó
Xã p Ăn rau sống thường xuyên Nhiễm (%) OR (CI 95%)
19 (22,4) Có Tổng 85
1,1 (0,5-2,4)
> 0,05 23 (20,0) Không 115 Đức Phong (n=200)
Tổng
42 14 (21,9) Có 200 64
136
27 (19,9) Không 1,1 (0,5-2,4) > 0,05 Đức Chánh (n=200)
41 Không nhiễm (%) 66 (77,6) 92 (80,0) 158 50 (78,1) 109 (80,1) 159 Tổng
200 149
33 (22,1) Có
251
50 (19,9) Không Cộng (n=400) 1,1 (0,6-1,9) > 0,05
83 116 (77,9) 201 (80,1) 317 Tổng 400
Không có mối liên quan giữa ăn rau sống và nhiễm ấu trùng giun đũa chó
(p>0,05).
74
Bảng 3.24. Liên quan giữa thói quen sinh hoạt và nhiễm ấu trùng giun đũa chó
chung tại hai xã
Thói quen sinh hoạt p Nhiễm (%) OR (CI 95%)
Có 24 (50,0) Tổng 48
4,9 (2,5-9,7)
< 0,01 Không 59 (16,8) 352
Bồng bế chó thường xuyên
Tổng
Có 83 63 (27,4) 400 230
170 2,8 (2-7,0) Không 20 (11,8) < 0,01 Tiếp xúc đất thường xuyên
Tổng
400 115
Không 83 38 (33,0)
285
Có 45 (15,8) 2,6 (1,6-4,5) < 0,01 Rửa ray sau khi tiếp xúc đất 83 Không nhiễm (%) 24 (50,0) 293 (83,2) 317 167 (72,6) 150 (88,2) 317 77 (67,0) 240 (84,2) 317 Tổng
400 87
Không 22 (25,3)
313
61 (19,5) Có 1,4 (0,8-1,9) > 0,05
Rửa tay trước khi ăn thường xuyên
Tổng 400 83
65 (74,7) 252 (80,5) 317 Có mối liên quan giữa tiếp xúc đất, bồng bế chó, không rửa tay sau khi tiếp
xúc đất với nhiễm ấu trùng giun đũa chó (p<0,05).
75
3.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống
3.2.1. Hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở
người
3.2.1.1. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm ở người sau can thiệp
Bảng 3.25. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm ở người sau can thiệp
Xã Số XN % CSHQ%
Số nhiễm 119 HQCT% p 2&4 Đức Phong Trước CT (1) 662 17,9 p
44,7 (can thiệp) Sau CT (2) 627 62 9,9 < 0,01 32,7
< 0,01 Đức Chánh Trước CT (3) 665 111 16,7 12,0
> 0,05 (đối chứng) Sau CT (4) 632 93 14,7
Sau 1 năm can thiệp, tiến hành xét nghiệm lại tại 2 xã. Kết quả cho thấy
tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại xã can thiệp giảm từ 17,9% xuống còn
9,9% (p < 0,01) và tại xã đối chứng giảm từ 16,7% xuống còn 14,7% (p > 0,05).
Hiệu quả can thiệp phòng chống đạt 32,7%.
Bảng 3.26. Thay đổi về tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó sau can thiệp
Xã % CSHQ%
Số điều tra 662 Số bệnh 61 p 42,4 HQCT% p 2&4 Xã can Trước CT (1) 9,2
thiệp < 0,01 Sau CT (2) 627 5,3 33 34,5
Xã đối Trước CT (3) 665 8,9 7,9 59 < 0,05
chứng > 0,05 Sau CT (4) 632 8,2 52
Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh ATGĐC tại xã can thiệp giảm từ 9,2% xuống
còn 5,3% (p < 0,01) và tại xã đối chứng giảm từ 8,9% xuống còn 8,2%
(p > 0,05). Hiệu quả can thiệp phòng chống đạt 34,5%.
76
3.2.1.2. Hiệu quả điều trị trường hợp bệnh ATGĐC của albendazol
Bảng 3.27. Hiệu quả điều trị trường hợp bệnh ATGĐC bằng albendazol
Xã Huyết thanh (+) Trường hợp bệnh ATGĐC
Trước Sau CSHQ (%) Trước CSHQ (%) Sau
(%) (%) (%) (%)
61 5 Can 61 91,8 3 95,1
thiệp (100,0) (8,2) (100,0) (4,9)
Đối 59 11 81,4 59 8 86,4
chứng (100,0) (18,6) (100,0) (13,6)
Tổng 120 16 86,7 120 11 90,8
(100,0) (13,3) (100,0) (9,2)
Điều trị bằng albendazole đạt hiệu quả cao, tỷ lệ huyết thanh dương tính
sau 1 năm giảm 86,7%, tỷ lệ bệnh ATGĐC giảm 90,8%.
Bảng 3.28. Hiệu quả điều trị làm giảm triệu chứng lâm sàng (n=120)
Triệu chứng lâm sàng Trước điều trị Sau điều trị CSHQ (%)
83
69,2
SL SL % %
Ngứa, nổi mẩn
63
52,5
8 6,7 90,3
Đau đầu, chóng mặt
27
22,5
6 5,0 90,5
Đau bụng, RLTH
29
24,2
5 4,2 81,3
Nhức chân tay, tê bì
5
4,2
5 4,2 82,6
Sốt, thở khò khè
8
6,7
1 0,8 80,9
Triệu chứng khác
2 1,7 74,6
Các triệu chứng lâm sàng sau điều trị đã giảm rõ rệt từ 74,6-90,5%.
77
Bảng 3.29. Thay đổi về tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan sau điều trị
BCAT ≥ 6% CSHQ (%) Xã % % Trước điều trị Sau điều trị
59,0 5 8,2 86,1 Can thiệp 36
(n=61)
54,2 6 10,2 81,2 Đối chứng 32
(n=59)
56,7 11 9,2 83,8 Tổng 68
(n=120)
Sau 1 năm điều trị, tiến hành xét nghiệm BCAT cho toàn bộ số ca được
điều trị cho thấy tỷ lệ bạch cầu ái toan từ 6% trở lên đã giảm rõ rệt (83,8%).
3.2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh
3.2.2.1. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó sau can thiệp
Bảng 3.30. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó sau can thiệp
XN chó Số mẫu Số mẫu % CSHQ% HQCT%
XN nhiễm p p 2&4
126 42 33,0 80,9 Xã can
<0,01 64,4 thiệp 111 7 6,3
<0,01 109 35 32,1 16,5 Xã đối
>0,05 chứng 97 26 26,8
Trước CT (1) Sau CT (2) Trước CT (3) Sau CT (4)
Sau can thiệp, tỷ lệ chó nhiễm giun đũa tại xã can thiệp giảm đáng kể từ
33,3% xuống còn 6,3%, chỉ số hiệu quả đạt 80,9% (p < 0,01), tại xã đối chứng
tỷ lệ nhiễm chỉ giảm từ 32,1% xuống còn 26,8%, chỉ số hiệu quả chỉ đạt 16,5%
(p > 0,05). Hiệu quả can thiệp phòng chống cao (64,4%).
78
3.2.2.2. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất sau can thiệp
Bảng 3.31. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất sau can thiệp
Xã % CSHQ%
XN đất HQCT% p 2&4 p
Số mẫu XN Số mẫu nhiễm
Xã can Trước CT (1) 200 59 29,5 69,5
thiệp Đất hộ < 0,01 50,3 Sau CT (2) 200 18 9,0
gia < 0,01 Xã đối Trước CT (3) 200 52 26,0 19,2 đình
chứng > 0,05 Sau CT (4) 200 42 21,0
Đất Xã can Trước CT (1) 10 30,0 66,6 3
nơi thiệp > 0,05 66,6 Sau CT (2) 10 10,0 1
công > 0,05 Xã đối Trước CT (3) 10 20,0 0 2 cộng
chứng > 0,05 Sau CT (4) 10 20,0 2
Sau can thiệp, tỷ lệ mẫu đất ở hộ gia đình nhiễm trứng giun đũa chó tại xã
can thiệp giảm đáng kể từ 29,5% xuống còn 9,0%, chỉ số hiệu quả đạt 69,5% (p
< 0,01), tại xã đối chứng tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó chỉ giảm từ 26% xuống
còn 21%, chỉ số hiệu quả chỉ đạt 19,2% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp phòng
chống cao (50,3%).
Tỷ lệ mẫu đất ở sân chơi công cộng nhiễm trứng giun đũa chó tại xã can
thiệp cũng giảm từ 30% xuống còn 10%. Tại xã đối chứng tỷ lệ nhiễm trên đất
sân chơi công cộng không giảm.
79
3.2.2.3. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau sau can thiệp
Bảng 3.32. Thay đổi về tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau sau can thiệp
XN rau % CSHQ%
Số mẫu XN 200 Số mẫu nhiễm 14 7,0 HQCT% p 2&4 p Trước CT (1)
Xã can 71,4 200 4 2,0 Sau CT (2) thiệp < 0,05 71,4
<0,05 200 13 6,5 Trước CT (3)
Xã đối 0 200 13 6,5 Sau CT (4) chứng > 0,05
Tỷ lệ mẫu rau nhiễm trứng giun đũa chó tại xã can thiệp là 2,0%, so với
trước can thiệp có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), tại xã đối chứng
tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở rau là 6,5%, so với trước can thiệp không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp đạt 71,4%.
3.2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục làm tăng kiến thức, thái độ, thực
hành của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó
3.2.3.1. Thay đổi kiến thức về bệnh ấu trùng giun đũa chó
Bảng 3.33. Thay đổi kiến thức về nguy cơ nhiễm
Xã Đúng %
Trước CT (1) 95
Can thiệp (n=200) CSHQ % p 44,2 < 0,01 Sau CT (2) 137
HQCT % p 2&4 24,7 < 0,01 Trước CT (3) 87
Đối chứng (n=200) 19,5 > 0,05 Sau CT (4) 104
47,5 68,5 43,5 52,0
Tại xã can thiệp, có sự tăng kiến thức về nguy cơ nhiễm từ 47,5% lên
68,5% (p<0,01), tại xã đối chứng có tăng nhưng không có sự khác biệt. Hiệu quả
can thiệp đạt 24,7%.
80
Bảng 3.34. Thay đổi kiến thức về triệu chứng bệnh ATGĐC
Xã Đúng % CSHQ % HQCT %
p 2&4 p
Trước CT (1) 97
Can thiệp (n=200) 42,3 < 0,01 Sau CT (2) 138
23,4 < 0,01 Trước CT (3) 90
Đối chứng (n=200) 18,9 > 0,05 Sau CT (4) 107
48,5 69,0 45,0 53,5
Tại xã can thiệp, có sự tăng kiến thức về triệu chứng bệnh từ 48,5% lên
69,0% (p<0,01), tại xã đối chứng có tăng nhưng không có sự khác biệt. Hiệu quả
can thiệp đạt 23,4%.
Bảng 3.35. Thay đổi kiến thức về phòng bệnh ATGĐC
Xã Đúng % CSHQ % HQCT %
p 2&4 p
Trước CT (1) 93
Can thiệp (n=200)
44,1 < 0,01
Sau CT (2) 134
24,1 < 0,01
Trước CT (3) 85
Đối chứng (n=200)
20,0 > 0,05
Sau CT (4) 102
41,5 67,0 42,5 51,0
Tại xã can thiệp, có sự tăng kiến thức về phòng bệnh từ 41,5% lên 67%
(p<0,01), tại xã đối chứng có tăng nhưng không có sự khác biệt. Hiệu quả can
thiệp đạt 24,1%.
81
3.2.3.2. Thay đổi thái độ về bệnh ấu trùng giun đũa chó
Bảng 3.36. Thay đổi thái độ về phòng chống bệnh
CSHQ %
HQCT %
Thái độ Xã Đúng %
p
p 2&4
Cần thiết Can thiệp Trước CT (1) 72 36,0 56,9
không (n=200) < 0,01 38,1 Sau CT (2) 113 56,5
nuôi chó < 0,01 Đối chứng Trước CT (3) 69 34,5 18,8
thả rông (n=200) > 0,05 Sau CT (4) 82 41,0
Cần thiết Can thiệp Trước CT (1) 71 35,5 84,5
xử lý (n=200) < 0,01 60,4 Sau CT (2) 131 65,5
phân chó < 0,01 Đối chứng Trước CT (3) 79 39,5 24,1
(n=200) > 0,05 Sau CT (4) 98 49,0
Cần thiết Can thiệp Trước CT (1) 90 45,0 34,4
tẩy giun (n=200) < 0,01 20,8 Sau CT (2) 121 60,0
cho chó < 0,01 Đối chứng Trước CT (3) 81 40,5 13,6
(n=200) > 0,05 Sau CT (4) 92 46,0
Tại xã đối chứng, sau can thiệp thái độ phòng chống bệnh thay đổi tăng lên
nhưng không có sự khác biệt so với trước can thiệp (p > 0,05). Tại xã can thiệp,
điều tra trước can thiệp chỉ có 36% số người có thái độ cho rằng cần thiết không
nuôi chó thả rông; 35,5% cần thiết xử lý phân chó; 45% cần thiết tẩy giun cho
chó. Sau can thiệp thái độ phòng chống bệnh thay đổi tăng lên có sự khác biệt so
với trước can thiệp: 56,5% có thái độ cần thiết không nuôi chó thả rông; 65,5%
cần thiết xử lý phân chó; 60,5% cần thiết tẩy giun cho chó (p < 0,01). Hiệu quả
can thiệp đạt 38,1%; 60,4% và 20,8% tương ứng.
82
3.2.3.3. Thay đổi thực hành về phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó
Bảng 3.37. Thực hành nuôi chó tại xã can thiệp sau can thiệp
Thực hành nuôi chó Số lượng %
Nuôi chó thả rông Có 75 69,4
(n=108) Không 33 30,6
Tại sao nuôi chó Tập quán 60 80,0
thả rông Thả rông để giữ nhà 22 29,3
(n=75) Nhốt sẽ tạo chó dữ thêm 45 60,0
Lý do khác 2 2,7
Tẩy giun cho chó Có 55 50,9
(n=108) Không 53 49,1
Tại sao không tẩy Chó mới nuôi 26 49,1
giun cho chó Đợi cấp thuốc tẩy giun 43 81,1
(n=53) Không cần thiết phải tẩy 2 3,8
Lý do khác 2 3,8
Sau can thiệp, tỷ lệ nuôi chó thả rông tại xã can thiệp là 69,4%. Có nhiều
lý do các hộ gia đình nuôi chó thả rông, chủ yếu là do tập quán (80%); tiếp theo
là do nhốt chó sẽ tạo cho chó hung dữ hơn dễ cắn người (60%); ngoài ra thả rông
còn để giữ nhà (29,3%).
Số hộ tự mua thuốc tẩy giun cho chó sau can thiệp là 50,9%. Số hộ nuôi
chó nhưng không mua thuốc tẩy giun cho chó tại xã can thiệp là do mới nuôi chó
nên chưa kịp mua thuốc tẩy (49,1%); và 81% hộ đợi cán bộ y tế, thú y đến cấp
thuốc giống như trong can thiệp phòng chống bệnh ATGĐC.
83
Bảng 3.38. Thay đổi về thực hành nuôi chó
Xã Có % CSHQ % HQCT % Thực
p p 2&4 hành nuôi
chó
Trước CT (1) 92 80,0
(n=115) 13,2 Can
> 0,05 thiệp Sau CT (2) 75 69,4
Nuôi chó 5,0 (n=108)
thả rông > 0,05 Trước CT (3) 90 87,4
(n=103) 8,2 Đối
> 0,05 chứng Sau CT (4) 77 80,2
(n=96)
Trước CT (1) 16 13,9
(n=115) 266,2 Can
< 0,01 thiệp Sau CT (2) 55 50,9
Tẩy giun 205,4 (n=108)
cho chó < 0,01 Trước CT (3) 10 9,7
(n=103) 60,8 Đối
> 0,05 chứng Sau CT (4) 15 15,6
(n=96)
Sau can thiệp, tỷ lệ nuôi chó thả rông tại các điểm nghiên cứu đều có
giảm nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Thực hành tẩy giun cho chó tăng lên. Tại xã can thiệp, tỷ lệ tự mua thuốc
tẩy giun cho chó tăng từ 13,9% lên 50,9% (p < 0,01). Tại xã đối chứng, tỷ lệ tẩy
giun cho chó tăng từ 9,7% lên 15,6% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp đạt 205,4%.
84
Bảng 3.39. Thay đổi về bồng bế chó, xử lý phân chó
Xã Có % CSHQ % HQCT % Thực
p p 2&4 hành nuôi
chó
Trước CT (1) 27 13,5 Can 66,7 thiệp Bồng bế < 0,01 Sau CT (2) 9 4,5 (n=200) chó 61,9
thường < 0,01 Trước CT (3) 21 10,5 Đối
xuyên 4,8 chứng
> 0,05 (n=200) Sau CT (4) 20 10,0
Trước CT (1) 98 49,0 Can
31,6 thiệp
< 0,01 (n=200) Sau CT (2) 129 64,5
Xử lý 25,6
phân chó < 0,01 Trước CT (3) 84 42,0 Đối
6,0 chứng
Kết quả cho thấy có sự giảm bồng bế chó từ 13,5% xuống 4,5% tại xã can
> 0,05 (n=200) Sau CT (4) 89 44,5
thiệp (p < 0,01), chỉ số hiệu quả đạt 66,7%. Tại xã đối chứng tỷ lệ có giảm
nhưng không có sự khác biệt (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp đạt 61,9%.
Thực hành xử lý phân chó tại các hộ gia đình có sự thay đổi. Tại xã can
thiệp, tỷ lệ xử lý phân chó tăng từ 49% lên 64,5% (p < 0,01). Tại xã đối chứng,
tỷ lệ xử lý phân chó tăng thấp từ 42% lên 44,5% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp
đạt 25,6%.
85
Bảng 3.40. Thay đổi về ăn rau sống, rửa rau
Xã Có % CSHQ % HQCT % Ăn rau
sống p 2&4 p
Trước CT (1) 85 42,5
Can 18,8
> 0,05 thiệp Sau CT (2) 69 34,5
Ăn rau (n=200) 12,5
sống > 0,05
Trước CT (3) 64 32,0
Đối 6,3
chứng > 0,05 Sau CT (4) 60 30,0
(n=200)
Trước CT (1) 187 93,5
Can 1,6
thiệp > 0,05 Sau CT (2) 190 95,0
Rửa rau (n=200) 0,6
đúng cách > 0,05
Trước CT (3) 187 93,5
Đối 1,1
chứng > 0,05 Sau CT (4) 189 94,5
(n=200)
Thay đổi về ăn rau sống thường xuyên tại xã can thiệp và xã đối chứng sau
1 năm không có sự thay đổi lớn. Thực hành rửa rau đúng trước và sau can thiệp
đều đạt tỷ lệ cao. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
86
Bảng 3.41. Thay đổi về thói quen tiếp xúc đất, rửa tay
Xã Có %
115 57,5
CSHQ % p 11,3 > 0,05 102 51,5
Trước CT (1) Sau CT (2)
HQCT % p 2&4 8,7 > 0,05
TX đất, rửa tay Tiếp xúc đất thường xuyên 115 57,5
2,6 > 0,05 112 56,0
Trước CT (3) Sau CT (4)
141 70,5
21,3 < 0,01 171 85,5
Trước CT (1) Sau CT (2)
14,4 < 0,05
Rửa tay sau tiếp xúc đất 144 72,0
6,9 > 0,05 154 77,0
Trước CT (3) Sau CT (4)
160 80,0
10,6 < 0,05 Rửa tay trước khi ăn 177 88,5
Trước CT (1) Sau CT (2)
6,0 < 0,05
153 76,5
4,6 > 0,05 160 80,0
Trước CT (3) Sau CT (4)
Can thiệp (n=200) Đối chứng (n=200) Can thiệp (n=200) Đối chứng (n=200) Can thiệp (n=200) Đối chứng (n=200)
Thay đổi về tiếp xúc đất của người dân tại xã can thiệp và xã đối chứng sau
1 năm không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Tại xã đối chứng, sau can thiệp thực hành rửa tay sau khi tiếp xúc đất thay
đổi tăng lên nhưng không có sự khác biệt so với trước can thiệp (p > 0,05). Tại
87
xã can thiệp, số người rửa tay sau khi tiếp xúc đất sau can thiệp tăng lên từ 70,5-
85,5% (p < 0,01). Hiệu quả can thiệp đạt 14,4%.
Tại xã đối chứng, sau can thiệp thực hành rửa tay trước khi ăn thay đổi
tăng lên nhưng không có sự khác biệt so với trước can thiệp (p > 0,05). Tại xã
can thiệp, điều tra trước can thiệp có 80% số người rửa tay trước khi ăn, sau can
thiệp rửa tay trước khi ăn là 88,5% (p < 0,05). Hiệu quả can thiệp thấp, chỉ đạt
6%.
88
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó
(Toxocara canis) ở người
4.1.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được tính toán là 640 người cho mỗi xã. Tuy nhiên,
trên thực tế số đối tượng tham gia nghiên cứu cao hơn cỡ mẫu được tính toán, cụ
thể tại xã Đức Phong là 662 người và xã Đức Chánh là 665 người. Phân bố đặc
tính chung của đối tượng nghiên cứu cho thấy có sự phù hợp nhờ kỹ thuật chọn
mẫu ngẫu nhiên hệ thống, tỷ lệ tham gia nghiên cứu ở nam giới là 48,3%, nữ
giới là 51,7%; nhóm tuổi từ 16 tuổi đến 70 tuổi chiếm 64,1%, nhóm dưới 16 tuổi
chiếm 35,9%. Về nghề nghiệp do hai xã thuộc vùng nông thôn nên nghề nông là
chủ yếu (73%).
So sánh các đặc điểm về đối tượng nghiên cứu tại hai xã Đức Phong và xã
Đức Chánh cho thấy có những sự tương đồng với nhau. Đó là hai xã này đều
thuộc vùng đồng bằng, với các đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế văn hóa xã hội
gần giống nhau; nên sự phân bố các đặc tính của đối tượng gần tương đương
nhau.
4.1.2. Thực trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người tại các điểm nghiên
cứu
4.1.2.1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó chung tại 2 xã là 17,3%. Tỷ lệ nhiễm ấu
trùng giun đũa chó tại xã Đức Phong là 17,9%; xã Đức Chánh là 16,7%. Không
có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại hai xã nghiên
cứu. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Dogan N (2007) ở Thỗ Nhĩ Kỳ
(12,9-16,9%) [53], của Bùi Văn Tuấn (2012) tại Bình Định và Gia Lai (13,05-
16,78%) [34]. So với nghiên cứu tại một số nước phát triển thì kết quả chúng tôi
cao hơn như ở Đan Mạch (2,4%), Nhật Bản (1,6%), Mỹ (13,9%)
89
[74],[113],[121]. Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của một số
nước Nam Mỹ (Peru 35,6%, Brazil 36,5%) [77],[49], châu Phi (Swaziland
44,6%, Ghana 53,5%, La Reunion 92,8%) [77],[79],[84], châu Á (Indonexia
63,2%, Nepal 81%)[48],[102] và ở tại Việt Nam như của Nguyễn Văn Chương
(2014) tại Bình Định (29,4-30%) và Đăk Lăk (19,4-26,9%) [7], của Trần Thị
Hồng (2000) tại TP HCM là 38,4%[17], của Trần Vinh Hiển (2008) tại hai xã Chư Pả và H’ Bông tỉnh Gia Lai (50%) [13], của Phạm Thị Thu Hoài (2014) tại
Thanh Hóa là 74,9%[14], của Đỗ Trung Dũng (2016) tại Hà Nội (58,7%), tại
Hưng Yên (58,8%) [9].
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn
các nghiên cứu tại các nước phát triển như Nhật Bản, Đan Mạch là điều hiển
nhiên. Tại các nước phát triển người dân đã ý thức tốt về về quản lý vật nuôi, vệ
sinh môi trường tốt và các vệ sinh cá nhân như ăn uống, sinh hoạt đều được thực
hành tốt nên giảm thiểu các yếu tố nguy cơ.
Kết quả của chúng tôi thấp hơn NC của Nguyễn Văn Chương (2014) [7] tại
Bình Định và Đăk Lăk có thể là do chọn điểm và chọn mẫu. Nghiên cứu của
Nguyễn Văn Chương chọn điểm chủ đích và không chọn mẫu ngẫu nhiên, vì vậy
đối tượng được chọn có nguy cơ nhiễm cao hơn. Kết quả của chúng tôi thấp hơn
nghiên cứu của Trần Thị Hồng (2000) [17] và Trần Vinh Hiển (2008) [13] có thể
là do ngưỡng dương tính ở mức hiệu giá kháng thể khác nhau. Trần Thị Hồng và
Trần Vinh Hiển sử dụng mức hiệu giá kháng thể dương tính là 1/800, còn nghiên
cứu của chúng tôi sử dụng ngưỡng dương tính bằng trị số mật độ quang trung
bình chứng âm cộng với 3 độ lệch chuẩn tương đương mức hiệu giá kháng thể
1/1600 nên kết quả dương tính của chúng tôi thấp hơn. Việc sử dụng ngưỡng
dương tính bằng trung bình chứng âm cộng với ba độ lệch chuẩn của nhà sản
xuất bộ kít cho thấy cũng phù hợp với một số nghiên cứu của các tác giả ở
Malaysia, Hàn Quốc [65],[73].
90
Kết quả này cũng thấp hơn nghiên cứu của một số nước ở Nam Mỹ, Châu
Phi, Châu Á và nghiên cứu ở miền Bắc của Việt Nam có thể là do việc sử dụng
các bộ kít chẩn đoán khác nhau. Ngoài ra, có nhiều lý do liên quan đến tỷ lệ
huyết thanh dương tính với giun đũa chó, như đặc thù của từng nước, thời điểm
điều tra, số lượng vật nuôi và tập quán của người dân về nuôi và chăm sóc chó,
vì vậy cần có những nghiên cứu sâu hơn tiếp theo.
Nghiên cứu của chúng tôi đã sử dụng bộ kít của Công ty TNHH-SXTM hóa
chất Việt Sinh. Bộ kít chẩn đoán ấu trùng giun đũa chó có độ nhạy 100%, độ đặc
hiệu 97%, bộ kít này đã được nghiệm thu qua đề tài cấp Bộ và có chứng nhận
của Viện Kiểm nghiệm (Phụ lục 13) [12]. Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã sử
dụng bộ kít của Việt Sinh từ năm 2004 đến nay và đã đánh giá bộ kít cho kết quả
chẩn đoán phù hợp với lâm sàng và giúp cho Viện trong việc phát hiện bệnh
nhiễm ký sinh trùng trong thời gian qua.
Trên thực tế tại Việt Nam hiện nay có nhiều bộ kít thương mại trong nước
và nước ngoài (Mỹ, Nhật, Thái Lan…) được sử dụng để chẩn đoán bệnh ấu trùng
giun đũa chó, hầu hết các bộ kít đều phát hiện kháng thể IgG ở người kháng với
ấu trùng giun đũa chó. Tuy nhiên các bộ kít có thể khác nhau về ngưỡng dương
tính do sử dụng nguồn kháng nguyên Toxocara sp ở mỗi quốc gia khác nhau, các
đoạn kháng nguyên cắt ra có trọng lượng phân tử khác nhau phù hợp từng quốc
gia, từng vùng nên việc sản xuất ra các bộ kít có thể khác nhau, do đó kết quả có
thể khác nhau.
4.1.2.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo giới và nhóm tuổi
Kết quả bảng 3.4 cho thấy không có sự khác biệt tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun
đũa chó giữa nam và nữ tại các điểm nghiên cứu. Theo phân tích tổng hợp các
bài báo của Lee RM tại khu vực Bắc Mỹ tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở
nam cao hơn ở nữ [78] vì tác giả cho rằng trẻ nam thường xuyên tiếp xúc đất,
nghịch đất, bồng bế chó nhiều hơn trẻ gái. Tuy nhiên của chúng tôi phù hợp với
kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả khác như của Nguyễn Văn Chương [7] (tại
91
Bình Định: nam 29,1%, nữ 30,2%; tại Đăk Lăk: nam 20,2%, nữ 25,9%), của Đỗ
Trung Dũng [9] tại Hà Nội và Hưng Yên (nam 56,9%, nữ 59,6%), của Phan Anh
Tuấn tại Bộ môn Ký sinh trùng, trường Đại học Y Dược TP HCM [35] và
nghiên cứu ở Đài Loan [57], có thể là vì sự tiếp xúc môi trường và các sinh hoạt
của hai giới như nhau.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở nhóm
tuổi trên 15 tuổi cao hơn nhóm từ 2-15 tuổi, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương tại Đăk
Lăk [7]. Một số nghiên cứu khác trong nước như của Nguyễn Văn Chương tại
Bình Định [7], của Phan Anh Tuấn tại Bộ môn Ký sinh trùng Trường Đại học y
dược TP HCM [35], của Bùi Văn Tuấn [34] tại Bình Định và Gia Lai, của Trần
Thị Hồng tại xã An Phú, huyện Củ Chi, TPHCM [17] và nghiên cứu ở Đài Loan,
Argentina [40],[57] đều cho thấy không có sự khác biệt nhiễm ấu trùng GĐC so
với nhóm tuổi. Các nghiên cứu trên thế giới hầu hết tập trung vào nhóm tuổi trẻ
em và cho rằng nhóm tuổi trẻ em có nguy cơ nhiễm cao hơn nhóm tuổi người
lớn do thói quen tiếp xúc đất, ăn đất, bồng bế chó mèo [46],[77]. Tại Việt Nam,
nguy cơ nhiễm có thể xảy ra cả người lớn và trẻ em có thể là do mầm bệnh giun
đũa chó tồn tại trong môi trường ngoại cảnh nhiều, cộng với phần lớn tỷ lệ người
dân làm nghề nông sống tại khu vực nông thôn nên việc tiếp xúc đất ở họ là phổ
biến. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy người lớn nhiễm cao hơn trẻ em
có thể là do đặc điểm của nghiên cứu được thực hiện tại khu vực nông thôn,
người lớn hầu hết là nông dân (bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ người dân là nông dân
tham gia nghiên cứu chiếm 73%). Do đó, việc tiếp xúc đất thường xuyên, chăm
sóc chó nhiều hơn trẻ em nên nguy cơ nhiễm cao hơn.
4.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó theo nghề nghiệp và trình độ học vấn
Phân tích theo nghề nghiệp thì nhóm làm nông có tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun
đũa chó cao hơn các nhóm khác. Ở Việt Nam, đến 70% người dân làm nông nên
việc tiếp xúc với đất là thường xuyên, một số cán bộ công chức ngoài công việc
92
chính cũng tham gia làm vườn, trồng cây cảnh nên cũng có tiếp xúc với đất. Đất là
môi trường cho trứng giun đũa chó phát triển, nên khả năng lây nhiễm đối với hầu
hết những người có tiếp xúc với đất. Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với
nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương 2014, nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn 2012,
nghề làm nông có tỷ lệ nhiễm cao hơn các nghề khác [7],[34].
Về trình độ học vấn, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ nhiễm ấu
trùng giun đũa chó ở nhóm có trình độ học vấn từ tiểu học trở xuống là cao nhất
(chiếm 34,6%), tiếp theo là nhóm có trình độ ở bậc trung học cơ sở là 16,6%.
Nhóm trung học phổ thông trở lên có tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó thấp
nhất, chiếm 15,1%. So với các nghiên cứu trước đây của Trần Thị Hồng năm
2000, Bùi Văn Tuấn năm 2012, Nguyễn Văn Chương năm 2014, nhóm trình độ
học vấn càng cao thì nhiễm ấu trùng giun đũa chó càng thấp thì kết quả chúng tôi
cũng phù hợp[7],[17],[34].
4.1.2.4. Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan trên số trường hợp nhiễm ấu trùng giun đũa
chó
Tăng bạch cầu ái toan là một đáp ứng trong cơ chế điều hòa miễn dịch xảy
ra ở nhiều quá trình bệnh lý, bao gồm cả dị ứng, ung thư và nhiễm trùng. Tăng
BCAT là một dấu hiệu về huyết học cần được tìm hiểu và chẩn đoán. Mặc dù rất
nhiều căn nguyên có thể gây tăng BCAT, sự xuất hiện của hiện tượng này ở một
người sống ở vùng nhiệt đới gợi ý nhiều đến nhiễm ký sinh trùng. Kết quả hình
3.4 cho thấy tỷ lệ tăng BCAT từ 6-10% chiếm 36,1%, tăng trên 10% chiếm
19,6%. Đối với các bệnh do nhiễm ký sinh trùng, thường bạch cầu toan tính tăng
cao, đặc biệt là nhiễm ký sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng. Ngoài việc chẩn đoán
các bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người như sán lá gan lớn, ấu
trùng giun đũa chó, giun đầu gai…thì bạch cầu ái toan tăng cao cũng là một tiêu
chí về mặt cận lâm sàng để cho các bác sĩ chẩn đoán hướng về các bệnh ký sinh
trùng [6],[76]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu trước
như nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương, tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng trên 6%
93
chiếm 70% trong số nhiễm ấu trùng giun đũa chó, nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn
tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng trên 8% chiếm 30,8%,
nghiên cứu của Trần Thị Hồng tại Củ Chi, tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng trên 8%
chiếm 52% trong số nhiễm ấu trùng giun đũa chó [7],[17],[34].
4.1.2.5. Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người tại điểm nghiên cứu
Cho đến nay, việc xác định trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó vẫn còn
nhiều tranh cãi do lâm sàng và cận lâm sàng chưa đặc hiệu. Trong nghiên cứu
này, dựa vào Quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế số 4283/QĐ-BYT ngày
8/8/2016 về việc ban hành Tài liệu “Định nghĩa trường hợp bệnh truyền
nhiễm”[3] trong đó có định nghĩa trường hợp bệnh ATGĐCM, chúng tôi xác
định trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó bằng huyết thanh dương tính kết
hợp với ít nhất một triệu chứng lâm sàng có liên quan. Kết quả bảng 3.7 và bảng
3.8 cho thấy tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó chung tại hai xã là 9%, trong đó xã
Đức Phong là 9,2% và xã Đức Chánh là 8,9%. Nếu tính tỷ lệ bệnh ATGĐC trên
số trường hợp nhiễm ấu trùng giun đũa chó là 52,2%, trong đó xã Đức Phong là
51,3%, xã Đức Chánh là 53,2%. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của
Nguyễn Văn Chương tại Bình Định và Đăk Lăk, trong số 273 trường hợp nhiễm
ấu trùng giun đũa chó thì có 153 người có các triệu chứng lâm sàng liên quan
đến bệnh ấu trùng giun đũa chó chiếm tỷ lệ 56% [6].
Thống kê các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân nhiễm ATGĐC gồm 61
trường hợp tại xã Đức Phong và 59 trường hợp tại xã Đức Chánh cho thấy một
số triệu chứng chiếm tỷ lệ cao như ngứa, nổi mẩn; đau đầu; đau bụng; nhức mỏi
chân tay, tê bì, một số triệu chứng khác ít gặp chiếm 6,7% như tức ngực, đau
thượng vị…chưa thấy trường hợp bệnh nào có triệu chứng về mắt. Kết quả này
cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014), số trường hợp
bệnh ấu trùng giun đũa chó cũng có một số triệu chứng chiếm tỷ lệ cao như
ngứa, nổi mẩn (69%), đau đầu (63,9%), đau bụng (45,6%), nhức mỏi chân tay
(38,8%), mêt mỏi (35%), tê bì (31,6%), một số triệu chứng khác ít gặp chiếm tỷ
94
lệ 10,5% như tức ngực, đau thượng vị, sốt…[6]. Kết quả của chúng tôi cũng phù
hợp với một số nghiên cứu khác trong nước như của Lương Trường Sơn tại Viện
Sốt rét-KST-CT TP Hồ Chí Minh, Lê Thị Cẩm Ly tại Bệnh viện nhiệt đới TP Hồ
Chí Minh cho thấy các triệu chứng chiếm tỷ lệ cao như ngứa, nổi mề đay từ
83,1-94,2%, đau đầu từ 25,2-38,9%, rối loạn tiêu hóa từ 30-32%; của Lê Đình
Vĩnh Phúc (2015) tại Trung tâm Y khoa Medic, TP Hồ Chí Minh: ngứa chiếm
78,5%, mề đay 50,2%, nhức đầu 30,6%, ăn kém 13,9%, đau bụng 7,7%, rối loạn
tiêu hóa 9,1% [30],[31].
4.1.3. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người
4.1.3.1. Tỷ lệ nhiễm giun đũa trên chó và trứng giun đũa chó ở môi trường đất,
rau.
* Tỷ lệ nhiễm giun đũa trên chó
Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó tại các điểm nghiên cứu là 32,8%. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với một số nghiên cứu khác như nghiên
cứu tại vùng Tây Nam Nigeria từ 2011-2012, xét nghiệm 474 mẫu phân chó
bằng kỹ thuật Kato-Katz cho thấy tỷ lệ nhiễm là 34,6% [39], nghiên cứu của
Yakhchali M (2014) điều tra ngẫu nhiên 150 mẫu phân chó ở thành phố
Piranshahr, Iran, tỷ lệ nhiễm ở chó là 31,3% [123], của Nguyễn Văn Chương tại
Bình Định từ 22,8-32,4%, tại Đăk Lăk từ 35,8-37% [7], của Bùi Ngọc Thúy
Linh điều tra xét nghiệm 834 con chó, tỷ lệ nhiễm là 37,84% [24] của Võ Thị
Hải Lê xét nghiệm 177 con có tại Thanh Hóa, tỷ lệ nhiễm giun đũa là 31,1% [22]
và của Bùi Văn Tuấn tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ chó bị nhiễm giun Toxocara
canis tại các điểm nghiên cứu từ 34,4-46,8% [34].
Phân tích tỷ lệ nhiễm theo nhóm tuổi của chó cho thấy tỷ lệ nhiễm cao nhất
ở chó dưới 3 tháng tuổi (51,4%) và tuổi chó càng lớn tỷ lệ nhiễm càng giảm. Kết
quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Akeredolu A.B (2014) tại miền
Tây Nam Nigeria xét nghiệm 474 con chó cho thấy tỷ lệ nhiễm chung là 34,6%,
trong đó chó từ 6 tháng tuổi trở xuống nhiễm 56,6%, chó từ 6 tháng tuổi đến 12
95
tháng tuổi nhiễm 20,6% và chó trên 12 tháng tuổi nhiễm 15,9% [39], nghiên cứu
của Yakhchali M (2014) điều tra ngẫu nhiên 150 mẫu phân chó ở thành phố
Piranshahr, Iran, tỷ lệ nhiễm ở chó dưới 12 tháng tuổi nhiễm 54,54%, từ 12
tháng tuổi trở lên nhiễm 22,44%.
Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu khác Việt Nam như của Nguyễn
Văn Chương (2014), xét nghiệm 420 con chó tại Bình Định và Đăk Lăk, tỷ lệ
chó dưới 3 tháng tuổi nhiễm giun đũa 46,1%, từ 3 tháng đến 6 tháng tuổi nhiễm
31,1% và chó trên 6 tháng tuổi nhiễm 29,6% [7]. Nghiên cứu của Võ Thị Hải Lê
tại Thanh Hóa, tỷ lệ chó nhiễm giun đũa cao nhất ở nhóm từ 2 đến 6 tháng tuổi
(41,17%), tiếp theo là nhóm từ 7 tháng đến 12 tháng tuổi (25%) và nhóm trên 12
tháng tuổi nhiễm thấp (7,5%) [22]. Nghiên cứu của Đỗ Hài (1972) điều tra 174
chó săn từ 1-5 tháng tuổi ở miền Bắc, tỷ lệ nhiễm là 47,1%, nhiễm cao ở chó con
từ chưa mở mắt đến 1 tháng tuổi, đến 4-5 tháng tuổi thì tỷ lệ nhiễm mới giảm
dần [28], của Bùi Ngọc Thúy Linh năm 2003 điều tra xét nghiệm phân 2204 con
chó và mổ khám 230 chó nuôi tại TP Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ nhiễm
Toxocara canis bằng xét nghiệm phân là 37,84%, bằng mổ khám là 32,17%,
Toxocara canis có tỷ lệ nhiễm cao trên chó dưới 3 tháng tuổi (60,05%) và có
khuynh hướng giảm dần theo tuổi [24]. Các nghiên cứu của Đỗ Hài và của Bùi
Ngọc Thúy Linh cho thấy chó mẹ nuôi con và chó con dưới 3 tháng tuổi có tỷ lệ
nhiễm cao. Trong nghiên cứu của chúng tôi có hạn chế là không phân được chó
mẹ nên không xác định được tỷ lệ nhiễm trên chó mẹ đang nuôi con.
* Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên đất
Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các hộ gia đình là 27,8%, tại sân
chơi công cộng là 25%, số trứng giun đũa chó trung bình trên 100 gam đất tại hộ
gia đình là 6,5 trứng; tại các sân chơi công cộng là 1,8 trứng. Điều này cho thấy
mầm bệnh giun đũa chó được phát tán ra ngoại cảnh rất cao, đặc biệt là ở môi
trường đất. Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu khác như nghiên cứu của
Santarem V.A (2008) tại vùng nông thôn của bang Sao Paolo, Brazil cho thấy tỷ
96
lệ nhiễm trứng giun đũa chó mèo trên đất là 29,03% [111], của Nguyễn Văn
Chương, tỷ lệ nhiễm giun đũa ở đất tại Bình Định từ 20-25%; tại Đăk Lăk từ
36,7-38,3%, số trứng giun đũa chó trên 100 gam đất tại các điểm điều tra là 5,6
trứng [7]; nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ nhiễm
trứng giun ở đất là 26,8%, mật độ trứng GĐC trên 100 gam đất là 3,8 trứng [34]
hay nghiên cứu của Trần Xuân Mai, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó mèo thay đổi
từ 5-26% tùy theo từng vùng sinh địa cảnh [28].
Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó tại các sân chơi công cộng chung tại 2 điểm
nghiên cứu là 25%. Trong nghiên cứu này chúng tôi những sân chơi công cộng
là những nơi có nhiều người tập trung như trụ sở của khu dân cư, chợ, trường
học và tất nhiên là chó cũng thường hoạt động ở những khu vực này. Một số
nghiên cứu nhiễm trứng giun đũa chó mèo ở đất nơi công cộng trên thế giới cho
thấy tỷ lệ nhiễm cũng khác nhau như nghiên cứu của Sudhakar N.R (2013) tại
Ấn Độ, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó mèo là 17,02% trong đó nhiễm ở đất tại
vùng công viên cao hơn các vùng khác [116] hay nghiên cứu của Fajutag AJM
(2015) tại Laguna, Philippine, tỷ lệ đất nhiễm trứng giun đũa chó mèo ở sân
trường học là 42%, sân vườn là 45% và nơi đất trống là 40% [56]. Tỷ lệ nhiễm ở
đất công cộng khác nhau có thể tùy thuộc vào vị trí, tỷ lệ nuôi chó của hộ gia
đình và theo mùa. Tuy nhiên với tỷ lệ đất nhiễm trứng giun đũa chó cao như vậy
chắc chắn là nguy cơ quan trọng trong lây truyền bệnh ATGĐC cho người.
* Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên rau xanh
Rau sống là thực phẩm quan trọng trong cuộc sống của người dân, tuy
nhiên rau cũng dễ bị nhiễm ký sinh trùng như các loại trứng giun truyền qua đất,
trứng giun đũa chó …Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhiễm trứng giun
đũa chó trên rau xanh là 6,8%. Các loại rau người dân thường ăn rau sống được
chọn xét nghiệm như rau cải, xà lách, rau má, rau diếp cá, rau thơm đều bị nhiễm
trứng giun đũa chó, trong đó nhiễm cao nhất ở rau xà lách (11,3%). So với
nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên rau tại
97
Bình Định từ 4-8%; tại Đăk Lăk từ 1-3%, trong đó nhiễm ở rau diếp cá là 6,3%;
rau xà lách là 5%; rau cải là 5%; rau má là 2,5% và rau răm là 1,3% [7], nghiên
cứu của Lê Thị Ngọc Kim (2007) trên một số rau sống bán tại các siêu thị ở địa
bàn TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên rau là 11,5% [20],
nghiên cứu của Haq S (2014) khảo sát trên những loại rau thường ăn sống tại các
chợ lớn và những vườn trồng rau ở Lahore, Pakistan với 10 loại rau, mỗi loại 50
mẫu, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó trên rau là 3,8% [66] thì cũng phù hợp với
nghiên cứu của chúng tôi. Các loại rau này người dân trồng trên cạn, chủ yếu là
ở vườn nên khả năng chó vào các vườn rau để phóng uế là điều không tránh
khỏi.
4.1.3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa
chó
* Kiến thức, thái độ của người dân về bệnh ATGĐC
Tỷ lệ có nghe nói về bệnh ấu trùng giun đũa chó trước can thiệp là 48,2%,
điều này chứng tỏ sự hiểu biết của người dân còn nhiều hạn chế. Kết quả điều tra
về kiến thức người dân về nguy cơ lây nhiễm, triệu chứng bệnh và phòng chống
bệnh cho thấy tỷ lệ người dân không có kiến thức là 54,5%; 53,3% và 55,5%
tương ứng. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương tại
Bình Định và Đăk Lăk, tỷ lệ người dân không có kiến thức chung về bệnh ấu
trùng giun đũa chó là trên 50%, trong đó tỷ lệ không biết về nguy cơ nhiễm tại
Bình Định từ 57-64,1%, tại Đăk Lăk từ 55,9-62,1%; không biết về triệu chứng
bệnh tại Bình Định từ 44,1-56,5%, tại Đăk Lăk từ 48,9-51,6%; không biết về
phòng chống tại Bình Định từ 59,1-64,7%, tại Đăk Lăk từ 53,7-56,5% [7]. Kết
quả của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng (2016) tại
Hà Nội và Hưng Yên, tỷ lệ người dân biết về nguyên nhân lây nhiễm bệnh
ATGĐC là 53,4% và 52,3%. Hiện nay chưa có một chương trình phòng chống
bệnh ấu trùng giun đũa chó nào tại Việt Nam, hiểu biết về bệnh ATGĐC qua
người thân là chủ yếu do họ đã từng đi khám và xét nghiệm giun đũa chó tại
98
Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi. Ti
vi và đài báo là phương tiện truyền thông phổ biến nhất, tuy nhiên các kênh
thông tin lại hạn chế trong việc cung cấp thông tin bệnh này đến người dân, mặt
khác đây là bệnh mới nổi trong vài năm gần đây nên khả năng hiểu biết của
người dân còn bị hạn chế.
Kết quả điều tra về thái độ của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó
cho thấy thái độ đúng về bệnh cũng rất thấp. Vì kiến thức về bệnh ấu trùng giun
đũa chó còn hạn chế (có nghe nói về bệnh ATGĐC chỉ đạt khoảng 50%) nên
người dân chưa biết nhiều về bệnh này. Mặt khác người dân nuôi chó chủ yếu để
giữ nhà và lấy thịt chứ không quan tâm đến nhiễm giun của chó cũng như các
bệnh giun sán truyền từ chó sang người. Điều này cho thấy cần thiết có những
biện pháp tuyên truyền cho người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó để người
dân có được kiến thức và thay đổi thái độ.
* Thực hành của người dân có liên quan đến bệnh ATGĐC
Kết quả điều tra 400 hộ tại hai điểm nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nuôi chó
trong cộng đồng rất cao (54,5%), đây là vùng nông thôn nên người dân thường
nuôi chó để giữ nhà, mỗi nhà có thể nuôi từ 1-2 con chó, nhưng có đến 83,5% là
nuôi chó thả rông và tỷ lệ tẩy giun cho chó định kỳ rất thấp (11,9%). Kết quả này
phù hợp với các nghiên cứu khác như của Nguyễn Văn Chương tại Bình Định và
Đăk Lăk, tỷ lệ nuôi chó thả rông chung là 70,7%, tỷ lệ tẩy giun cho chó định kỳ
là 7,8% [7]; nghiên cứu của Trần Thị Hồng tại Củ Chi, tỷ lệ nuôi chó thả rông là
97% và tẩy giun định kỳ cho chó chỉ có 6% [17] hoặc nghiên cứu của Bùi Văn
Tuấn tại Bình Định và Gia Lai tỷ lệ nuôi chó thả rông là 69,2% và tẩy giun định
kỳ cho chó 18,6% [34]. Như vậy với tỷ lệ nuôi chó thả rông cao và ít quan tâm
đến việc tẩy giun định kỳ cho chó sẽ tạo điều kiện cho mầm bệnh phát tán nhiều
ở ngoại cảnh đặc biệt là ở môi trường đất, dễ gây nhiễm vào người qua đường
tiêu hóa.
99
Thống kê thực hành về ăn uống và thói quen sinh hoạt có liên quan đến
nhiễm bệnh ATGĐC cho thấy tỷ lệ ăn rau sống thường xuyên là 37,3%; tiếp xúc
đất thường xuyên là 57,5%; bồng bế chó thường xuyên là 12%; không rửa tay
sau khi tiếp xúc đất là 28,8%; không rửa tay trước khi ăn là 21,8%. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn (2012) tại Bình Định và Gia Lai, tỷ lệ
người dân có ăn rau sống thường xuyên là 30,3%, tiếp xúc đất và nghịch đất là
15%, bồng bế chó mèo là 11,9% [34].
* Một số yếu tố liên quan đến nhiễm bệnh ấu trùng giun đũa chó
Phân tích mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người và
nuôi chó cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của
chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014) tại Đăk Lăk
và nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng (2016) tại Hà Nội và Hưng Yên, cũng không
có sự khác biệt giữa nuôi chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó [7],[9]. Tuy nhiên
nhiều nghiên cứu khác như ở Bắc Mỹ, người nuôi chó có nguy cơ nhiễm cao hơn
người không nuôi chó [78], các nghiên cứu khác tại Việt Nam của Nguyễn Văn
Chương tại Bình Định, nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn tại Bình Định và Gia Lai
đều cho thấy có sự khác biệt giữa nuôi chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương cho thấy nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa
chó ở người nuôi chó cao gấp 1,9-2,0 lần ở người không nuôi chó (sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê p < 0,05) [7], nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn cho thấy nguy
cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người nuôi chó cao gấp 1,9-2,8 lần ở người
không nuôi chó (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0,05) [34]. Sự khác biệt
này có thể là do tại các điểm nghiên cứu của chúng tôi, người dân có tập quán
nuôi chó thả rông, chó hàng xóm chạy sang nhà không nuôi chó nên mầm bệnh
có thể được phát tán rộng khắp tại các hộ gia đình.
Khi phân tích mối liên quan giữa ăn rau sống với nhiễm ấu trùng giun đũa
chó cho thấy không có mối liên quan (p > 0,05), kết quả này phù hợp với kết quả
của Nguyễn Văn Chương (2014) và Bùi Văn Tuấn (2012). Kết quả của chúng tôi
100
khác với kết quả của Phan Anh Tuấn nghiên cứu tại TP HCM [35], có mối liên
quan giữa ăn rau sống và nhiễm. Sự khác nhau có thể là do sử dụng biến số thu
thập, chúng tôi chỉ sử dụng biến số có hai giá trị thường xuyên và không thường
xuyên, còn nghiên cứu của Phan Anh Tuấn sử dụng biến số có ba giá trị (thỉnh
thoảng, không thường xuyên, thường xuyên) để phân rõ mức độ ăn rau sống nên
có thể có sự khác biệt.
Kết quả phân tích cho thấy có mối liên quan giữa tiếp xúc đất và nhiễm ấu
trùng giun đũa chó tại các điểm nghiên cứu. Nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa
chó ở người tiếp xúc đất thường xuyên cao gấp 2,8 lần người tiếp xúc đất không
thường xuyên hoặc không tiếp xúc đất (p<0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của nhiều tác giả khác như nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương tại Bình
Định, người tiếp xúc đất thường xuyên có nguy cơ nhiễm gấp từ 2,2-2,6 lần
người không tiếp xúc đất hoặc tiếp xúc không thường xuyên (p < 0,05), tại Đăk
Lăk là gấp từ 2-2,2 lần (p < 0,05) [7], nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn, nguy cơ
nhiễm ở những người nghịch đất, tiếp xúc đất thường xuyên cao gấp từ 2,0-2,6
lần ở những người không thường xuyên [34]. Kết quả này cũng phù hợp với kết
quả của Phan Anh Tuấn tại TP HCM và kết quả ở Đài Loan [35],[57].
Có mối liên quan giữa người bồng bế chó và nhiễm ấu trùng giun đũa chó
tại điểm nghiên cứu. Nguy cơ nhiễm ở người bồng bế chó thường xuyên cao gấp
4,9 lần người bồng bế chó không thường xuyên hoặc không bồng bế chó
(p<0,01). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của của Nguyễn Văn Chương tại
Bình Định (gấp 3,4-3,5 lần), tại Đăk Lăk (gấp 2,6-2,9 lần) [7], của Bùi Văn
Tuấn, Phan Anh Tuấn và một số nghiên cứu ở Đài Loan, Indonesia, khi nuôi,
bồng bế chó mèo, nhất là chó con, khi chó bị nhiễm Toxocara canis, chó liếm
hậu môn, liếm lông hoặc liếm người, người sẽ có nguy cơ mắc bệnh
[34],[35],[48],[57].
Phân tích mối liên quan giữa vệ sinh cá nhân và nhiễm ấu trùng giun đũa
chó không thấy có mối liên quan rửa tay trước khi ăn nhưng có mối liên quan
101
giữa rửa tay sau khi tiếp xúc đất và nhiễm ấu trùng giun đũa chó. Nguy cơ nhiễm
ở người không rửa tay sau khi tiếp xúc đất cao gấp 2,7 lần người rửa tay sau khi
tiếp xúc đất (p<0,01). Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hương (2014) tại xã Yên
Lạc, huyện Yên Định, Thanh Hóa cho thấy có mối liên quan giữa rửa tay trước
khi ăn với nhiễm ấu trùng giun đũa chó. Nguy cơ nhiễm ở người không rửa tay
trước khi ăn cao gấp 4,4 lần người có rửa tay [19]. Nghiên cứu của Kyei G
(2015) tại vùng miền Trung của Ghana, xét nghiệm huyết thanh 566 trẻ em, đồng
thời thiết kế bảng câu hỏi để tìm mối liên quan, kết quả cho thấy có mối liên
quan giữa tiếp xúc đất, rửa tay trước khi ăn với nhiễm ấu trùng giun đũa chó
[77]. Điều này cho thấy khả năng mầm bệnh trứng giun đũa chó được phát tán ở
ngoại cảnh rất là cao đồng thời cho thấy việc rửa tay sau tiếp xúc đất và trước
khi ăn rất quan trọng giảm nguy cơ nhiễm ATGĐC.
4.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống
4.2.1. Hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở
người
4.2.1.1. Thay đổi tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người
Sau 1 năm can thiệp, tiến hành xét nghiệm lại tại 2 xã. Kết quả bảng 3.25
cho thấy tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó tại xã can thiệp (xã Đức Phong) giảm
từ 17,9% xuống còn 9,9% (p < 0,01) và tại xã đối chứng (xã Đức Chánh) giảm
từ 16,7% xuống còn 14,7% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp phòng chống đạt
32,7%. So sánh với kết quả can thiệp trong phòng chống sán lá gan lớn tại Bình
Định và Quảng Ngãi của Trần Minh Quý [100] tại điểm can thiệp toàn diện
giảm từ 8,8% xuống còn 4,2% (p<0,05); tại điểm can thiệp một phần giảm từ
8,4% xuống còn 5,4% (p>0,05); tại điểm đối chứng tăng từ 6,1% lên 6,4% thì
kết quả của nghiên cứu này cũng phù hợp. Đánh giá về bệnh ATGĐC cho thấy
tỷ lệ bệnh ATGĐC tại xã can thiệp giảm từ 9,2% xuống còn 5,3% (p < 0,01) và
tại xã đối chứng giảm từ 8,9% xuống còn 8,2% (p > 0,05). Hiệu quả can thiệp
phòng chống đạt 34,5% (bảng 3.26). Như vậy so với ước đoán ban đầu dự kiến
102
trong nghiên cứu sẽ giảm khoảng 30% (giảm từ 16% xuống còn 11%) thì kết
quả trong nghiên cứu này cho thấy hiệu quả can thiệp làm giảm tỷ lệ nhiễm
32,7% và giảm tỷ lệ bệnh 34,5% là đạt được hiệu quả trong nghiên cứu can
thiệp.
So sánh tỷ lệ nhiễm ATGĐC ở người trước và sau can thiệp bằng kỹ thuật
ELISA phát hiện kháng thể kháng IgG ở người. Do kháng thể kháng IgG có thể
tồn tại trong cơ thể người từ 6 tháng đến 1 năm, thậm chí có trường hợp kéo dài
đến 2 năm, mặc dù một số tác giả cho rằng khi ấu trùng giun đũa chó lưu hành
trong máu nếu không ký sinh ở tổ chức thì sẽ chết và bị đào thải, kháng thể sẽ
giảm dần từ 6 tháng đến 1 năm (trong trường hợp không tái nhiễm) và những
trường hợp ấu trùng giun đũa chó ký sinh ở tổ chức (có gây triệu chứng lâm
sàng), khi điều trị bằng albendazol liều 15 mg/kg cân nặng trong 21 ngày, tỷ lệ
kháng thể giảm sau 6 tháng là 78,6% và 88% [6],[31]. Ở đây nghiên cứu can
thiệp cộng đồng kéo dài đến 1 năm nên kháng thể sẽ giảm nhiều hơn, tuy nhiên
cũng có những trường hợp huyết thanh dương tính do kháng thể tồn tại lâu, vì
vậy cũng không thể phân biệt chính xác là nhiễm mới hay tái nhiễm, đây cũng là
hạn chế của nghiên cứu.
4.2.1.2. Hiệu quả điều trị bằng albendazol ở các trường hợp bệnh ấu trùng giun
đũa chó
Trong đợt điều tra ban đầu ở 2 xã, có 120 ca bệnh ATGĐC (huyết thanh
dương tính kết hợp với triệu chứng lâm sàng). Các bệnh nhân này được điều trị
bằng albendazole 400mg với liều 15mg/kg cân nặng/ngày và dùng trong 21
ngày. Vì nghiên cứu này được thực hiện tại thực địa, nên việc theo dõi liệu trình
điều trị và tác dụng ngoại ý được thực hiện tại Trạm y tế xã. Kết quả điều trị 120
ca bệnh được đánh giá sau 1 năm cho thấy tỷ lệ khỏi đạt 90,8%. Theo dõi tác
dụng ngoại ý của thuốc cho thấy rất thấp, một số triệu chứng do tác dụng ngoại ý
của thuốc như buồn nôn; chán ăn, đau đầu. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu
của Nguyễn Văn Chương (2014) tại Bình Định và Đăk Lăk, tỷ lệ khỏi bệnh
103
ATGĐC với liều albendazol 15 mg/kg cân nặng/ngày trong 21 ngày đạt 86,3%,
tác dụng ngoại ý của thuốc như buồn nôn 3,1-3,5%; chán ăn 2,7-5,3%; đau đầu
4,4-5,3%; dị ứng da 2,7-3,8%; tức ngực 0,9-3,1%; đau bụng 2,7-3,1% [6]. Tác
dụng ngoại ý của thuốc thường diễn ra sau 2 đến 3 ngày đầu điều trị, sau đó thì
giảm dần, thông thường sau một tuần sẽ hết các tác dụng ngoại ý. Điều này cho
thấy, sử dụng albendazole liệu trình 21 ngày có hiệu lực rất tốt trong điều trị các
ca bệnh ATGĐC.
Thay đổi triệu chứng lâm sàng sau điều trị cho thấy các triệu chứng lâm
sàng đã giảm rõ rệt từ 74,6-90,5%. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014),
sau điều trị 6 tháng bằng albendazol, các triệu chứng lâm sàng giảm từ 92,5-
100% [6]. Nghiên cứu của Lương Trường Sơn (2013) tại TP Hồ Chí Minh cũng
với liều điều trị 21 ngày với albendazol, các triệu chứng lâm sàng giảm từ 73,0-
100% [31].
Tỷ lệ huyết thanh dương tính sau điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi
giảm 86,7%, tỷ lệ BCAT từ 6% trở lên sau điều trị đã giảm 83,8%. Kết quả này
cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương (2014) (sau 6 tháng điều
trị bệnh ATGĐC, tỷ lệ huyết thanh dương tính giảm 78,6%, tỷ lệ BCAT từ 6%
trở lên đã giảm từ 87,8%) [6] và nghiên cứu của Lương Trường Sơn (2013), (tỷ
lệ huyết thanh dương tính sau điều trị bằng albendazol cũng giảm 88% và tỷ lệ
BCAT từ 6% trở lên cũng giảm 100%) [31]. Như vậy cho thấy việc sử dụng
albendazol liều 15 mg/kg cân nặng/ngày trong 21 ngày điều trị bệnh ATGĐC
mang hiệu quả cao đồng thời tác dụng ngoại ý rất thấp không cần phải can thiệp.
4.2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh
4.2.2.1. Thay đổi tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó
Thực hiện tẩy giun cho chó vào 2 đợt, mỗi đợt cách nhau 6 tháng. Cán bộ
y tế xã, thôn, cộng tác viên kết hợp với thú y xã cấp phát thuốc tẩy giun cho chó
tại từng hộ gia đình nuôi chó. Tỷ lệ tẩy giun cho chó tại các hộ gia đình chiếm tỷ
lệ rất cao (96%). Ngoài ra còn tuyên truyền cho các hộ gia đình đến tại Trạm y
104
tế để nhận thuốc tẩy giun cho chó trong trường hợp có nuôi chó mới. Sau can
thiệp, tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó đã giảm rõ rệt (80,9%), hiệu quả can thiệp
phòng chống cao (64,4%). So sánh hiệu quả can thiệp tẩy giun cho chó theo
nghiên cứu của Bùi Ngọc Thúy Linh, sử dụng ivermectin tiêm cho hiệu quả
100% [24] thì kết quả của chúng tôi thấp hơn, điều này có thể là do việc xét
nghiệm lại phân chó được tiến hành sau 6 tháng nên cũng khó xác định do hiệu
quả của thuốc hay do tái nhiễm. Mặt khác, những thuốc tiêm được dùng tẩy giun
cho chó có thể có hiệu quả cao hơn thuốc uống, nhưng sử dụng gặp nhiều bất
lợi, người tiêm phải là cán bộ thú y và phải nhốt chó và bịt mõm của chó. Trong
nghiên cứu này chúng tôi sử dụng thuốc viên pyrantel pamoate 125 mg (Sanpet)
theo đường uống để các gia đình dễ dàng sử dụng khi nghiền nhỏ pha trộn với
thức ăn. Với chỉ số hiệu quả đạt 80,9% cho thấy hiệu quả tẩy giun cho chó cao.
4.2.2.2. Thay đổi tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở ngoại cảnh
Sau can thiệp, xét nghiệm mẫu đất tại các hộ gia đình cho thấy tỷ lệ mẫu
đất nhiễm trứng giun đũa chó tại xã can thiệp giảm đáng kể (p < 0,01), tại xã đối
chứng tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó giảm thấp (p > 0,05). Đối với các mẫu đất
nơi công cộng, tỷ lệ nhiễm có giảm nhưng không có sự khác biệt (p>0,05). Kết
quả xét nghiệm rau sau can thiệp với 200 mẫu rau các loại tại xã can thiệp cho
thấy tỷ lệ mẫu rau nhiễm trứng giun đũa chó cũng giảm đáng kể (p < 0,05), tại
xã đối chứng có giảm nhưng không có sự khác biệt (p > 0,05). Điều này cho
thấy giải quyết mầm bệnh bằng tẩy giun cho chó và truyền thông thay đổi thực
hành bằng vệ sinh môi trường, xử lý phân chó đạt hiệu quả cao, giảm được mầm
bệnh ra ngoại cảnh. Đối với sự thay đổi tỷ lệ nhiễm ở đất nơi công cộng của xã
can thiệp không có sự khác biệt mặc dù chỉ số hiệu quả cao (66,6%) là do cỡ
mẫu xét nghiệm đất nơi công cộng nhỏ (10 mẫu cho 1 xã) nên tính toán thống kê
có thể bị sai lệch.
105
4.2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục nâng cao kiến thức thái độ, thực
hành của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó
4.2.3.1. Thay đổi kiến thức về bệnh ấu trùng giun đũa chó
Kết quả bảng 3.33; bảng 3.34; bảng 3.35 cho thấy sau can thiệp, có sự
thay đổi rõ rệt kiến thức về bệnh ATGĐC trong cộng đồng tại xã can thiệp. Kiến
thức về nguy cơ nhiễm, triệu chứng bệnh và cách phòng chống đều được tăng
lên, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01), tại xã đối chứng có tăng kiến
thức ít và không có sự khác biệt (p>0,05). Các nghiên cứu phòng chống sán lá
gan lớn tại cộng đồng như của Nguyễn Văn Chương sau 1 năm can thiệp bằng
truyền thông và điều trị, kiến thức về nguy cơ lây nhiễm tăng từ 57% lên 88,5%,
kiến thức về triệu chứng bệnh tăng từ 44,3% lên 83,5% [5]; nghiên cứu của
Nguyễn Khắc Lực (2008) tại Quảng Nam cho thấy sau can thiệp hiểu đúng về
đường lây truyền tăng từ 45,7% lên 86,2%, hiểu đúng về tác hại tăng từ 62,4 lên
91,2%, hiểu đúng về phòng chống tăng từ 38,6% lên 93,4% [25] hay nghiên cứu
của Trần Minh Quý (2016) tại Bình Định cũng cho thấy tăng kiến thức về nguy
cơ nhiễm sán lá gan lớn từ 62,7% lên 85,3%, kiến thức về triệu chứng bệnh tăng
từ 43,8% lên 88,1%, kiến thức về phòng chống tăng từ 52,2% lên 84,1% [100].
Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với các kết quả phòng chống sán lá gan lớn
của các nghiên cứu trên nhưng hiệu quả can thiệp trong nghiên cứu của chúng tôi
có thấp hơn, điều này có thể là do bệnh sán lá gan lớn đã được nghiên cứu nhiều
và có thông tin đại chúng nên người dân tiếp cận tốt hơn. Đối với bệnh ATGĐC
là bệnh mới nổi, chưa có can thiệp phòng chống nào trước đây nên kiến thức
người dân còn hạn chế. Mặc dù vậy, nhưng hiệu quả can thiệp về kiến thức đạt
được từ 23,4-24,7% cho thấy kết quả truyền thông giáo dục trong phòng chống
bệnh ATGĐC cũng đạt được hiệu quả cao.
4.2.3.2. Thay đổi thái độ của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó
Kết quả bảng 3.36 cho thấy tại xã đối chứng, sau can thiệp thái độ đúng
về phòng chống bệnh ATGĐC thay đổi tăng lên nhưng không có sự khác biệt so
106
với trước can thiệp (p > 0,05). Tại xã can thiệp, sự thay đổi tăng lên có sự khác
biệt (p<0,05). Kết quả sau can thiệp cho thấy thái độ đúng của người dân cho
rằng cần thiết không nuôi chó thả rông tăng từ 36% lên 56,5%, cần thiết xử lý
phân chó tăng từ 35% lên 65,5%, cần thiết tẩy giun cho chó tăng từ 45% lên
60,5%. Hiệu quả can thiệp đạt 38,1%; 60,4% và 20,8% tương ứng. Kiến thức
người dân về bệnh ATGĐC tăng lên rõ rệt nên thái độ cũng chuyển biến theo
mặt tích cực. Kết quả này cũng phù hợp theo nghiên cứu phòng chống sán lá gan
lớn của Trần Minh Quý [100].
4.2.3.3. Thay đổi về thực hành của người dân liên quan đến bệnh ATGĐC
* Thực hành của người dân về nuôi chó
Sau can thiệp, tỷ lệ nuôi chó thả rông tại các điểm nghiên cứu đều có giảm
nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tại Việt Nam, hiện
nay chưa có luật cấm nuôi chó thả rông, chỉ có trong chương trình phòng chống
bệnh dại tại một số thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có áp
dụng luật tiêm vác xin phòng dại đồng thời cấm chó ra đường, nếu có dắt chó đi
dạo thì phải bịt mõm chó. Tại các tỉnh trong khu vực miền Trung chưa có luật
này, mặt khác đối với điểm nghiên cứu là vùng nông thôn, tỷ lệ nuôi chó cao để
chủ yếu là giữ nhà nên hầu hết là thả rông. Qua giám sát việc nuôi chó cho thấy
rất khó khăn trong việc cấm nuôi chó thả rông, hầu hết các hộ gia đình nuôi chó
cho rằng đây là tập quán đồng thời khi nhốt chó sẽ tạo cho chó dữ hơn, dễ cắn
người gây ảnh hưởng đến sức khỏe về thương tích cũng như gây nhiễm bệnh dại.
Như vậy truyền thông giáo dục đến người dân về cấm nuôi chó thả rông chưa
được hiệu quả nên thực hành của người dân có sự thay đổi không khác biệt.
Một thành công sau can thiệp là thực hành tẩy giun cho chó tăng lên. Tại xã
can thiệp, tỷ lệ tự mua thuốc tẩy giun cho chó tăng từ 13,9% lên 50,9% (p <
0,01), tại xã đối chứng, tỷ lệ tự mua thuốc tẩy giun cho chó tăng từ 9,7% lên
15,6% (p > 0,05), hiệu quả can thiệp đạt 205,4%. Tại xã can thiệp, đã tiến hành
tẩy giun cho chó 2 đợt, một đợt vào cuối tháng 9 năm 2016 và một đợt vào cuối
107
tháng 3 năm 2017, đánh giá tỷ lệ tẩy giun cho chó trong khoảng từ tháng 7 đến
tháng 10 năm 2017 (thời điểm phỏng vấn đánh giá sau can thiệp) cho thấy tỷ lệ
tự mua thuốc tẩy giun đã tăng lên rõ rệt, điều này cho thấy người dân đã nhận
thức được chó chính là nguồn bệnh gây ra bệnh ATGĐC cho con người. Tuy
nhiên vẫn còn 49,1% số hộ nuôi chó nhưng không tẩy giun cho chó mặc dù
khoảng cách tẩy giun cho chó đợt cuối của hoạt động can thiệp đến lúc điều tra
là khoảng 7 tháng, qua phân tích chúng tôi thấy rằng hầu hết những người không
thực hiện tẩy giun cho chó là do chủ quan đợi chương trình cấp thuốc tẩy giun
giống như 2 đợt can thiệp trước đó, một số hộ nuôi chó mới nên chưa được tiếp
cận với nguồn thuốc tẩy giun, do đó tỷ lệ tẩy giun cho chó chưa được cao. Giải
quyết được nguồn bệnh là rất quan trọng trong phòng chống bệnh ATGĐC, vì
vậy cần thiết phải tuyên truyền thêm nữa cho người dân, đặc biệt là tẩy giun cho
chó định kỳ.
* Thực hành của người dân về ăn uống, sinh hoạt liên quan đến bệnh ATGĐC
Thay đổi về ăn rau sống và thực hành rửa rau tại xã can thiệp và xã đối
chứng sau 1 năm có sự thay đổi nhưng không đáng kể. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05). So với nghiên cứu can thiệp phòng chống sán lá gan
lớn của Trần Minh Quý, có sự khác biệt về thực hành rửa rau trước và sau can
thiệp (p < 0,01) [100], điều này có thể là do trong phòng chống sán lá gan lớn,
nguy cơ nhiễm chính là ăn thực vật thủy sinh chưa nấu chín nên truyền thông chỉ
tập trung mạnh vào vấn đề rửa rau đúng cách. Đối với nghiên cứu của chúng tôi,
người dân tại các điểm nghiên cứu, món ăn rau sống là quen thuộc trong các bữa
ăn nên truyền thông trong phòng chống bệnh ATGĐC tập trung vào thực hành
rửa rau. Tại xã can thiệp và xã đối chứng đều không có sự thay đổi lớn về tỷ lệ
rửa rau đúng cách sau can thiệp là do người dân đã ý thức được rửa rau sạch là
vấn đề quan trọng trong nhiễm giun sán chung và quan trọng nhất là loại bỏ bớt
độc hại do thuốc trừ sâu (hiện nay người dân thường sử dụng thuốc trừ sâu bón
108
rau) nên tỷ lệ rửa rau đúng cách tại 2 điểm nghiên cứu trước can thiệp rất cao
(khoảng 90%) nên sau can thiệp có tăng nhưng không có sự khác biệt.
Về thực hành rửa tay trước khi ăn cho thấy tại xã đối chứng, sau can thiệp
thực hành rửa tay trước khi ăn thay đổi tăng lên nhưng không có sự khác biệt so
với trước can thiệp (p > 0,05), hiệu quả can thiệp thấp, chỉ đạt 6%, điều này là do
tỷ lệ rửa tay trước khi ăn trước can thiệp tại xã can thiệp rất cao (80%) nên sau
can thiệp tăng lên có sự khác biệt nhưng hiệu quả can thiệp thấp.
Trong điều tra một số yếu tố liên quan cho thấy tiếp xúc đất thường xuyên
có nguy cơ nhiễm bệnh ATGĐC cao hơn không thường xuyên và không tiếp
xúc, tuy nhiên việc tiếp xúc đất của người dân tại xã can thiệp và xã đối chứng
sau 1 năm không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) vì đây là vùng nông
thôn, người dân chủ yếu làm nghề nông là chính nên việc tiếp xúc đất là thường
xuyên. Vì vậy trong truyền thông phòng chống có đưa ra nguy cơ nhiễm bệnh do
tiếp xúc đất nhưng biện pháp phòng chống chính là rửa tay sau khi tiếp xúc đất.
Sau 1 năm can thiệp cho thấy tại xã đối chứng, thực hành rửa tay sau khi tiếp xúc
đất thay đổi tăng lên nhưng không có sự khác biệt so với trước can thiệp (p >
0,05), tại xã can thiệp, điều tra trước can thiệp có 70,5% số người rửa tay sau khi
tiếp xúc đất, sau can thiệp rửa tay sau khi tiếp xúc đất là 85,5% (p < 0,01), hiệu
quả can thiệp đạt 14,4%, điều này cho thấy truyền thông đạt hiệu quả cao.
Mặc dù tỷ lệ nuôi chó thả rông không có sự khác biệt nhưng thực hành xử
lý phân chó tại các hộ gia đình có sự thay đổi. Tại xã can thiệp, tỷ lệ xử lý phân
chó tăng từ 49% lên 64,5% (p < 0,01), tại xã đối chứng, tỷ lệ xử lý phân chó tăng
thấp từ 42% lên 44,5% (p > 0,05), hiệu quả can thiệp đạt 25,6%. Như vậy người
dân cũng đã có ý thức trong việc giảm mầm bệnh của giun đũa chó ở ngoài môi
trường.
Thực hành bồng bế chó sau can thiệp giảm rõ rệt (p<0,01), hiệu quả can
thiệp cao (61,9%). Đây là yếu tố nguy cơ rất quan trọng trong lây nhiễm bệnh
109
ATGĐC, hiệu quả can thiệp đạt cao một lần nữa cho thấy công tác truyền thông
giáo dục đạt kết quả tốt.
Như vậy biện pháp truyền thông giáo dục đóng vai trò rất quan trọng trong
phòng chống bệnh ATGĐC, các yếu tố liên quan đến nhiễm bệnh ATGĐC được
mô tả trong phần đặc điểm dịch tễ như tiếp xúc đất, không rửa tay sau tiếp xúc
đất, bồng bế chó thì sau khi can thiệp đều có sự thay đổi theo hướng tích cực, sự
khác biệt đều có ý nghĩa thống kê thông qua hiệu quả can thiệp cao.
4.2.3.4. Hiệu quả của việc huy động sự tham gia phối hợp của các ban ngành
liên quan trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó
Trước khi áp dụng các biệp pháp can thiệp, kiến thức và kỹ năng phòng
chống bệnh ATGĐC cũng còn khá xa lạ đối với cán bộ y tế xã và thôn ở địa
phương. Tuy nhiên, họ cũng đã có một số kiến thức chung về các bệnh tật truyền
nhiễm ở địa phương như lao phổi, các bệnh về đường tiêu hóa và đặc biệt họ vừa
thực hiện xong dự án phòng chống nhiễm cúm gia cầm (H5N1), nên ít nhiều
cũng có những kỹ năng TTGD. Sau khi được tập huấn và quan sát kỹ năng thực
hành TTGD về phòng chống bệnh ATGĐC, cũng như các nhận xét trong các đợt
giám sát và đánh giá tại các buổi giao ban hàng quý, kiến thức và kỹ năng của
cán bộ y tế xã, thôn và cộng tác viên được nâng lên rõ rệt.
Sự phối hợp của các ban ngành và tổ chức là một trong những yếu tố góp
phần làm nên sự thành công của bất cứ một mô hình can thiệp y tế nào. Các
nghiên cứu trước đây của Nguyễn Văn Chương (2011); Trần Minh Quý (2016)
về mô hình phòng chống sán lá gan lớn tại cộng đồng cho thấy sự phối hợp giữa
ngành y tế với chính quyền địa phương[5],[100]. Kết quả can thiệp trong nghiên
cứu này theo bảng 2.1 cho thấy có sự phối hợp rất tốt giữa các ban ngành liên
quan như y tế, thú y, giáo dục và chính quyền, ngoài ra có sự tham gia của các
đoàn thể như hội phụ nữ, hội nông dân … trong các hoạt động phòng chống
bệnh ATGĐC.
110
Nghiên cứu của chúng tôi cũng sử dụng sự phối hợp giữa chính quyền,
ngành y tế, giáo dục, thú y và các đoàn thể trong phòng chống ATGĐC. Tại Đức
Phong là xã can thiệp, sự phối hợp giữa ngành y tế, giáo dục, thú y, các tổ chức
đoàn thể dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương để thể hiện rất tốt và đã
góp phần giúp các hoạt động của các biện pháp được thực hiện một cách hiệu
quả. Chính quyền địa phương với vai trò là “người giữ cổng”[120] đã xem việc
chăm sóc sức khỏe nhân dân là nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Ngành y tế đã phối
hợp giữa các tuyến từ trên xuống dưới một cách hiệu quả cũng tạo điều kiện cho
các biện pháp được thực hiện với những kết quả tốt. Sự phối hợp hoạt động cũng
còn thể hiện giữa ngành y tế với các ban ngành khác vì thứ nhất nó được ủng hộ
từ chính quyền địa phương, và những hoạt động phối hợp với các ban ngành
khác cũng đã có từ lâu, nên đối với các biện pháp phòng chống bệnh ATGĐC,
đây cũng là một điều thuận lợi. Sự tham gia của ngành giáo dục cũng là nhân tố
góp phần vào việc thực hiện hiệu quả của can thiệp. Học sinh đã có ý thức vệ
sinh ăn uống, rửa tay sau khi tiếp xúc đất, trước khi ăn, không bồng bế chó mèo,
nhà trường cũng đã đặt công tác phòng chống ATGĐC vào các hoạt động tại
trường học và hộ gia đình. Ngành thú y cũng đã phối hợp với y tế trong hướng
dẫn và giám sát tẩy giun cho chó. Các đoàn thể cũng có ý thức hơn về bệnh
ATGĐC, tuyên truyền phòng chống bệnh ATGĐC trực tiếp qua các đợt họp dân
lồng ghép với các chương trình khác và cũng đã tham gia tích cực vào các hoạt
động giữ gìn vệ sinh môi trường.
Việc giám sát các hoạt động phòng chống cũng rất quan trọng. Nghiên cứu
sinh và lãnh đạo của Trung tâm y tế dự phòng huyện Mộ Đức đã tiến hành giám
sát tại điểm can thiệp mỗi ba tháng một lần. Giám sát các hoạt động truyền thông
giáo dục của y tế và các ban ngành tham gia đồng thời giám sát tại các hộ gia
đình để rút ra những nhận xét và kinh nghiệm. Mỗi đợt giám sát đều có họp các
cán bộ ở địa phương là những người tham gia trực tiếp trong truyền thông giáo
dục phòng chống bệnh ATGĐC như chính quyền, y tế, giáo dục, thú y, các tổ
111
chức đoàn thể và trưởng các khu dân cư. Qua những đợt giám sát, đã khuyến
khích, hỗ trợ kỹ thuật và tạo động lực cho các cán bộ tham gia thực hiện tốt hơn.
Như vậy sau 1 năm áp dụng các biện pháp can thiệp, tỷ lệ nhiễm bệnh
ATGĐC đã giảm rõ rệt. Mặc dù đây là nghiên cứu phòng chống bệnh ATGĐC
đầu tiên tại Việt Nam, nghiên cứu dựa vào các mô hình phòng chống bệnh ký
sinh trùng của Molyneux [88], tham khảo thêm các mô hình phòng chống sán lá
gan lớn có hiệu quả của Trần Minh Quý, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Khắc
Lực để chọn lựa các biện pháp can thiệp, kết quả đã làm giảm được tỷ lệ nhiễm
bệnh ATGĐC trong cộng đồng, giảm được tỷ lệ nhiễm ở nguồn bệnh, môi
trường đồng thời nâng cao kiến thức thái độ, thực hành của người dân trong
phòng chống bệnh ATGĐC. Nghiên cứu này đóng góp thêm dẫn liệu khoa học
cũng như đề xuất các biện pháp phòng chống bệnh ATGĐC trong tương lai.
Bệnh ấu trùng giun đũa chó là bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang
người mới nổi lên với số trường hợp nhiễm ngày càng được phát hiện nhiều. Tuy
nhiên, các cơ sở y tế hiện nay chỉ quan tâm đến khám, điều trị chứ chưa đi sâu
vào nghiên cứu dịch tễ của bệnh cũng như nghiên cứu các biện pháp phòng
chống. Mặt khác, người dân cũng chưa có kiến thức về bệnh này nhiều nên cần
có những can thiệp phòng chống cộng đồng trong tương lai. Can thiệp phòng
chống được xem là có hiệu quả khi nó đạt được các mục tiêu và mục đích được
mong đợi bằng việc sử dụng các nguồn lực khá hiệu quả. Hiệu quả của các biện
pháp phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó trong nghiên cứu này đã được
chứng minh qua các kết quả đánh giá sau can thiệp đã làm giảm từ 17,9% xuống
còn 9,9% (giảm 44,7%, p<0,01); nhận thức về phòng chống bệnh ấu trùng giun
đũa chó của người dân cao hơn rất nhiều so với trước khi can thiệp; năng lực
cán bộ tại địa phương được nâng cao, nhất là trong các hoạt động truyền thông
giáo dục phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó, điều này cho thấy việc áp
dụng các biện pháp can thiệp đã được sự chấp nhận của cộng đồng rất tốt.
Việc đạt được mức độ tham gia của cộng đồng cao trong các biện pháp
112
phòng chống bệnh này sẽ chỉ có thể đạt được khi các thành viên cộng đồng đều
nhận thức được căn bệnh là một mối đe dọa y tế công cộng và biện pháp can
thiệp được coi là có hiệu quả. Các giải pháp truyền thông, giáo dục sức khỏe là
những nội dung rất được ưu tiên trong các nỗ lực bảo vệ, nâng cao sức khỏe của
người dân nói chung. Đây là nội dung đầu tiên trong công tác chăm sóc sức khỏe
ban đầu được công bố tại hội nghị Alma – Ata (1978), cũng là nội dung đầu tiên
trong chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Việt Nam. Truyền thông, giáo dục sức khỏe
ít tốn kém về chi phí và dễ dàng thực hiện, đã cho thấy được hiệu quả nâng cao
kiến thức, thái độ, thực hành của người dân trong nghiên cứu này. Đồng thời,
người dân ý thức được nguồn bệnh quan trọng trong lây nhiễm là chó, từ đó có
những thực hành phòng bệnh tốt hơn trong ăn uống, sinh hoạt cũng như tẩy giun
cho chó định kỳ. Do đó, hiệu quả can thiệp phòng chống bệnh ATGĐC đạt được
thành công trong nghiên cứu này có thể duy trì thành quả trong tương lai.
4.3. Đánh giá những ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu
4.3.1. Ưu điểm
- Phương pháp nghiên cứu đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp
kết quả nghiên cứu chính xác và có ý nghĩa. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử
dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích để xác định tỷ lệ nhiễm
ATGĐC ở người, tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở chó, đất, rau và mô tả các
yếu tố liên quan đến nhiễm bệnh. Thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng có
đối chứng được lựa chọn tại 2 xã có những đặc điểm tương đồng về địa lý, dân
số, phong tục tập quán và tỷ lệ nhiễm bệnh cũng như các yếu tố liên quan. Lựa
chọn ngẫu nhiên có đối chứng được sử dụng trong nghiên cứu này nhằm làm
giảm các sai số và nhiễu trong việc đánh giá hiệu quả của các giải pháp can
thiệp. Việc chọn 2 xã cách xa nhau (10 km) về mặt địa lý cũng đảm bảo tránh
được các sai số ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu.
113
- Cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả tỷ lệ nhiễm và can thiệp đủ lớn để xác định
tỷ lệ hiện mắc, mô tả yếu tố liên quan và đánh giá hiệu quả can thiệp. Do vậy,
kết quả của nghiên cứu này mang tính tin cậy khá cao.
- Thiết kế bộ câu hỏi có cấu trúc, các biểu mẫu thu thập thông tin, các
hướng dẫn chi tiết về cách sử dụng và thu thập thông tin cho các biểu mẫu một
cách rõ ràng, dễ hiểu, bộ câu hỏi được thử nghiệm và chỉnh sửa trước khi chính
thức thu thập số liệu.
- Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được thực trạng nhiễm ATGĐC tại hai điểm
nghiên cứu của khu vực miền Trung, một bệnh hiện nay có nhiều người mắc và
quan tâm. Trên cơ sở đó, thông tin khoa học, đào tạo cho các tỉnh biết, nắm rõ
thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm bệnh và các biện pháp phòng
chống thích hợp để có hướng triển khai phòng chống tiếp theo.
4.3.2. Hạn chế của nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu chỉ thực hiện trong 2 xã nên cũng chưa đại diện cho
các điểm còn lại ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi và khu vực miền Trung-Tây
Nguyên.
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là người dân sống tại khu vực nông thôn,
nên trình độ dân trí còn hạn chế, chất lượng phỏng vấn KAP cũng chưa khai thác
hết.
- Nghiên cứu nguồn nhiễm ở vật chủ chính chỉ thực hiện trên chó do tại địa
điểm nghiên cứu người dân chủ yếu nuôi chó, chỉ có một số ít hộ nuôi mèo. Mặt
khác việc lấy được phân mèo để xét nghiệm cũng là rất khó khăn.
- Xác định tỷ lệ nhiễm ATGĐC bằng kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể
IgG ở người kháng với giun đũa chó cũng còn hạn chế, mặt khác cũng khó phân
biệt được tái nhiễm hay nhiễm mới, do kháng thể IgG tồn tại lâu trong cơ thể.
- Về mặt đánh giá hiệu quả của các biệp pháp can thiệp, hiện nay trong
nghiên cứu y văn cũng chưa tìm thấy được những mô hình can thiệp phòng
chống ATGĐC, cho nên việc so sánh hiệu quả dựa vào các nghiên cứu phòng
114
chống sán lá gan lớn, do đó việc đánh giá hiệu quả cũng còn mang tính chủ
quan.
4.4. Điểm mới của nghiên cứu
- Đề tài là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng, một
số yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun đũa chó và hiệu quả của các biện pháp
can thiệp nhằm giảm tỷ lệ nhiễm ở cộng đồng.
- Đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về các biện pháp can thiệp phòng
chống bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người và đã cho thấy việc áp dụng các biện
pháp này đã mang lại hiệu quả cao.
115
KẾT LUẬN
1. Thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó
1.1. Thực trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó chung tại 2 xã khá cao (17,3%), trong đó
xã Đức Phong là 17,9%; xã Đức Chánh là 16,7%. Tỷ lệ nhiễm ở nữ là 19,2%, ở
nam là 15,3%. Nhóm tuổi trên 15 tuổi (19,9%) nhiễm cao hơn nhóm từ 2 đến 15
tuổi (12,8%).
Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó tại các điểm nghiên cứu là 9%, trong đó xã
Đức Phong là 9,2%; xã Đức Chánh là 8,9%. Một số triệu chứng lâm sàng chính
của bệnh ấu trùng giun đũa chó bao gồm: ngứa, nổi mẩn (69,2%), đau đầu
(52,5%), đau bụng (22,5%), nhức mỏi chân tay, tê bì (24,2%).
1.2. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó
Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó chung tại 2 xã cao (32,8%), tại xã Đức Phong là
33,3%; xã Đức Chánh là 32,1%, tỷ lệ nhiễm giảm dần theo tuổi của chó.
Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất tại các hộ gia đình là 27,8%, tại sân
chơi công cộng là 25%. Tỷ lệ nhiễm trên rau tại các điểm nghiên cứu là 6,8%.
Kiến thức, thái độ của người dân về bệnh ấu trùng giun đũa chó còn thấp,
chỉ đạt khoảng 50% có kiến thức và thái độ đúng.
Có mối liên quan giữa bồng bế chó thường xuyên (OR= 4,9; CI 95%: 2,5-
9,7); tiếp xúc đất thường xuyên (OR= 2,8; CI 95%: 2,0-7,0); không rửa tay sau
khi tiếp xúc đất (OR= 2,6; CI 95%: 1,6-6,5) với nhiễm ấu trùng giun đũa chó.
2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ấu trùng giun
đũa chó
2.1. Hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm và mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở
người
Tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người trước và sau can thiệp ở xã can
thiệp giảm từ 17,9% xuống còn 9,9%, hiệu quả can thiệp đạt 32,7%.
116
Tỷ lệ bệnh ấu trùng giun đũa chó tại xã can thiệp giảm từ 9,2% xuống còn
5,3%, hiệu quả can thiệp đạt 34,5%.
2.2. Hiệu quả làm giảm nguồn nhiễm ở chó và ngoại cảnh
Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó trước và sau can thiệp tại xã can thiệp giảm
mạnh từ 33% xuống còn 6,3%, hiệu quả can thiệp tẩy giun cho chó đạt 64,4%.
Tỷ lệ nhiễm trứng giun đũa chó ở đất trước và sau can thiệp tại xã can thiệp
giảm từ 29,5% xuống còn 9,0%, hiệu quả can thiệp đạt 50,3%.
Tỷ lệ nhiễm ở rau tại xã can thiệp giảm từ 7,0% xuống còn 2,0%, hiệu quả
can thiệp đạt 71,4%.
2.3. Hiệu quả của truyền thông giáo dục nâng cao kiến thức, thái độ, thực
hành của người dân trong phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó
Tăng tỷ lệ có kiến thức và thái độ đúng về bệnh ấu trùng giun đũa chó, hiệu
quả can thiệp về kiến thức đạt từ 23,4-24,7% và thái độ đạt từ 20,8-60,4%.
Tăng tỷ lệ thực hành tẩy giun cho chó từ 13,9% lên 50,9%, hiệu quả can
thiệp đạt 205,4%; thực hành xử lý phân chó tăng từ 49% lên 64,5%, hiệu quả
can thiệp đạt 25,6%; rửa tay sau khi tiếp xúc đất tăng từ 70,5% lên 85,5%, hiệu
quả can thiệp đạt 14,4%; giảm bồng bế chó từ 13,5% xuống còn 4,5%, hiệu quả
can thiệp đạt 61,9%.
117
KHUYẾN NGHỊ
1. Đối với Bộ Y tế
Xây dựng Chương trình hoặc Dự án phòng chống giun sán quốc gia, thiết
lập hệ thống phòng chống giun sán từ tuyến Trung ương đến địa phương.
2. Đối với các Viện Sốt rét-ký sinh trùng-côn trùng và Trung tâm kiểm soát
bệnh tật các tỉnh
Tiếp tục nghiên cứu thực trạng và yếu tố liên quan nhiễm ấu trùng giun
đũa chó mèo tại một số vùng khác, đặc biệt những vùng có nuôi mèo nhiều.
Áp dụng các biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ấu trùng giun đũa chó
tại các tỉnh, tập trung vào truyền thông giáo dục qua thông tin đại chúng, tờ rơi,
pa nô và khuyến cáo tẩy giun cho chó.
3. Đối với y tề cơ sở, ban ngành khác và người dân
Huy động các ban ngành liên quan như chính quyền, các tổ chức xã hội,
giáo dục và thú y cùng tham gia truyền thông giáo dục phòng chống bệnh ấu
trùng giun đũa chó cho cộng đồng. Duy trì truyền thông qua loa đài, nói chuyện
trực tiếp tại trường học, lồng ghép với các chương trình khác để truyền thông.
Cần nhấn mạnh đến nguy cơ nhiễm bệnh và các thực hành phòng chống như vệ
sinh cá nhân, vệ sinh môi trường và tẩy giun cho chó định kỳ.
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ XUẤT BẢN
1. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Lý Chanh Ty, Trần Phương Duyên,
Vũ Sinh Nam (2017), “Tỷ lệ huyết thanh dương tính giun đũa chó ở người
và một số yếu tố liên quan tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi năm 2016”,
Tạp chí Y học Dự phòng; tập 27, số 8-2017, tr 572-578.
2. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Vũ Sinh Nam (2017), “Tỷ lệ nhiễm
giun đũa ở chó và trứng giun đũa chó ở đất, rau tại một số điểm huyện Mộ
Đức, tỉnh Quảng Ngãi năm 2016”, Tạp chí Phòng chống sốt rét và các bệnh
ký sinh trùng; số đặc biệt (96)/2017, tr 241-246.
3. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Lý Chanh Ty, Vũ Sinh Nam (2018),
“Hiệu quả của một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh ấu trùng giun
đũa chó tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi”, Tạp chí Y học dự phòng, tập
28-số 2/2018, tr 38-44.
1.
Vũ Thị Lâm Bình (2015), "Báo cáo ca bệnh: nhân một trường hợp
Toxocara thể mắt điều trị thành công bằng albendazole phối hợp với
corticoide", Công trình NCKH, Báo cáo Hội nghị toàn quốc chuyên ngành
Sốt rét-KST-CT năm 2015, Nhà xuất bản y học, tr 231-235.
Bộ Y tế (2009), Cẩm nang phòng chống bệnh truyền nhiễm, trang 382.
2.
Bộ Y tế (2017), "Tài liệu Định nghĩa trường hợp bệnh truyền nhiễm". Ban
3.
hành kèm theo Quyết định số 4283/2006/QĐ-BYT ngày 8/8/2016 ".
4.
Nguyễn Văn Chương và Đồng Thị Huệ (2012), "Nhân hai ca bệnh ấu trùng
giun đũa chó/mèo thể di chuyển nội tạng", Y học TP hồ Chí Minh. Phụ bản
của tập 16, số 1, 2012. Đại học y dược TP HCM, chuyên đề Ký sinh trùng.
ISSN 1859-1779, tr.37-40.
5.
Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Văn Khá, Bùi Văn Tuấn và Trần Minh Qúi
(2011), "Xây dựng mô hình phòng chống sán lá gan lớn ở 2 xã của huyện
Phù Cát, tỉnh Bình Định", Tạp chí Y học thực hành, số 796-2011. Bộ Y tế
xuất bản, ISSN 1859-1663, tr.152-156.
6.
Nguyễn Văn Chương, Huỳnh Hồng Quang và Bùi Văn Tuấn (2014),
"Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh ấu trùng giun đũa
chó ở người tại miền Trung-Tây Nguyên và hiệu lực điều trị bằng
Albendazole", Tạp chí phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện
Sốt rét-KST-CT Trung ương, ISSN 0868-3735, số 4, 2014, tr. 3-13.
7.
Nguyễn Văn Chương, Bùi Văn Tuấn và Huỳnh Hồng Quang (2014),
"Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo ở
người tại Bình Định và Đăk Lăk, Việt Nam", Tạp chí phòng chống sốt rét và
các bệnh ký sinh trùng. Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, ISSN 0868-3735,
số 2, 2014, tr. 83-90.
8.
Nguyễn Văn Chuương và Bùi Văn Tuấn (2017), "Kết quả hoạt động phòng
chống giun sán khu vực miền Trung-Tây Nguyên", Tạp chí phòng chống sốt
TÀI LIỆU THAM KHẢO
rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, ISSN 0868-
3735, số đặc biệt (96)/2017, tr. 175-180.
9.
Đỗ Trung Dũng, Trần Thanh Dương và Nguyễn Thị Hợp (2016), "Thực
trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó, mèo trên người tại một số điểm nghiên
cứu thuộc Hà Nội và Hưng Yên năm 2014-2015, " Tạp chí phòng chống sốt
rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, ISSN 0868-
3735, số 3 (92), tr. 10-16.
10.
Trần Thị Kim Dung và Trần Phủ Mạnh Siêu (2009), Bệnh do giun lươn và
giun đũa chó mèo, Nhà xuất bản y học, TP Hồ Chí Minh, 2009
11. Hoàng Đình Đông, Đỗ Văn Dũng, Phan Anh Tuấn và Nguyễn Thị Ngọc
Dung (2011), "Tỉ lệ nhiễm Toxocara sp. Và các yếu tố liên quan của người
dân Quận 2 trên 20 tuổi đến khám tại Bệnh viện Quận 2 TPHCM năm 2010",
Y Học TP. Hồ Chí Minh, Tập 15, Phụ bản của Số 1/2011, 137-141.
12.
Trần Vinh Hiển và Trần Thị Kim Dung (2004), "Các bộ sinh phẩm chẩn
đoán bệnh do ký sinh trùng", Tạp chí Y học thực hành(447), tr. 112- 116.
13.
Trần Vinh Hiển, Trần Thị Kim Dung và Phạm Văn Lực (2008), "Xác định
tỷ lệ huyết thanh dương tính Toxocara sp của cư dân tại hai xã Chư Pả và H’
Bông tỉnh Gia Lai", Tạp chí Y dược học Quân sự-Học Viện Quân Y, 33 (2),
tr 89-93.
14.
Phạm Thị Thu Hoài, Nguyễn Thu Hương, Lê Xuân Hùng và Trần Thanh
Dương (2014), "Thực trạng nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo ở trẻ em tiểu
học xã Yên Lạc, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, năm 2014", Tạp chí
phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung
ương, ISSN 0868-3735, số 4, 2014, trang 89-94.
15.
Lưu Ngọc Hoạt (2015), Phương pháp viết đề cương nghiên cứu, Tập 1,
Nghiên cứu khoa học y học. Nhà xuất bản y học Hà Nội-2015.
16.
Trần Thị Hồng (2001), "Nghiên cứu một số đặc điểm của bệnh do giun
Toxocara spp ở người tại Việt Nam", Luận án Tiến sĩ y học. Đại học y dược
TP Hồ Chí Minh, 2001.
17.
Trần Thị Hồng, Đỗ Văn Dũng, Trần Thị Kim Dung và Trần Vinh Hiển
(2000), "Điều tra tình hình nhiễm giun đũa chó mèo Toxocara sp ở cộng
đồng dân xã An Phú, huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh", Thông tin phòng
chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng-côn trùng Trung ương; số 4, tr
74-79.
18. Nguyễn Hữu Hưng và Lê Trung Hoàng (2012), "Tình hình nhiễm giun tròn
ký sinh ở chó tại thành phố Cần Thơ, " Tạp chí y Dược học quân sự, Học
viện Quân Y, số chuyên đề KC.10, tr. 154-160.
19. Nguyễn Thu Hương, Phạm Thị Thu Hoài, Lê Xuân Hùng và Trần Thanh
Dương (2014), "Yếu tố nguy cơ lây nhiễm Toxocara trên trẻ em tiểu học xã
Yên Lạc, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, năm 2014", Tạp chí phòng
chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương,
ISSN 0868-3735, số 4, 2014, tr 83-88.
20.
Lê Thị Ngọc Kim, Vũ Đình Phương An và Trần Thị Hồng (2007), "Khảo
sát ký sinh trùng trên rau sống bán tại các siêu thị trên địa bàn TPHCM", Phụ
bản của tập 11, số 2, 2007. Đại học y dược TP HCM, chuyên đề Ký sinh
trùng. ISSN 1859-1779, tr 130-135.
21. Võ Thị Hải Lê và Nguyễn Văn Thọ (2009), "Tình hình nhiễm giun tròn
đường tiêu hóa của chó ở một số địa điểm thuộc tỉnh Nghệ An", Tạp chí
Khoa học và Phát triển 2009, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội .Tập 7,
số 5: 637 - 642.
22. Võ Thị Hải Lê và Nguyễn Văn Thọ (2011), "Tình hình nhiễm giun tròn
đường tiêu hóa của chó tại một số địa phương tỉnh Thanh Hóa", Khoa học kỹ
thuật thú y. 18(6), tr 66-71
23. Nguyễn Hồ Phương Liên và Trần Phủ Mạnh Siêu (2015), Tỷ lệ huyết thanh
dương tính với Toxocara sp ở người trưởng thành quận 12, TP HCM năm
2012 và một số yếu tố liên quan, Công trình NCKH. Báo cáo Hội nghị toàn
quốc chuyên ngành Sốt rét-KST-CT năm 2015, Nhà xuất bản y học, trang
148-159.
24. Bùi Ngọc Thúy Linh (2003), Tình hình nhiễm Toxocara canis ở chó và
người tại TP Hồ Chí Minh, hiệu quả tẩy trừ giun đũa chó của Fenbendazole
và Ivermectin trên chó, Luận văn Thạc sĩ khoa học, Đại học Nông lâm TP
Hồ Chí Minh, 2003.
25. Nguyễn Khắc Lực, Đặng Thị Cẩm Thạch và Tô Mười (2008), "Nhiễm SLGL
ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam và hiệu quả biện pháp phòng chống bệnh
tại cộng đồng", Tạp chí y Dược học quân sự, Học viện Quân Y, số 33(2), tr.
71-74. .
26. Đào Trịnh Khánh Ly (2017), "Tình hình bệnh nhân nhiễm giun sán được
khám phát hiện tại Phòng Khám Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn", Tạp chí
phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện Sốt rét-KST-CT Trung
ương, ISSN 0868-3735, số đặc biệt (96)/2017, tr. 105-111.
27.
Lê Thị Cẩm Ly và Trần Phủ Mạnh Siêu (2015), "Đặc điểm lâm sàng, cận
lâm sàng bệnh nhiễm Toxocara canis trên bệnh nhân tại Bệnh viện Nhiệt đới
TPHCM", Báo cáo khoa học toàn văn. Hội nghị Ký sinh trùng học toàn quốc
lần thứ 42 năm 2015.
28.
Trần Xuân Mai (1992), Góp phần nghiên cứu ngõ cụt ký sinh lây truyền từ
phân chó mèo sang người, Luận án Phó Tiến sĩ y học, Đại học Y dược TP
Hồ Chí Minh, 1992.
29. Nguyễn Thị Nga, Bùi Thị Hồng Thanh và Hoàng Cao Sạ (2015), "Thực trạng
và một số yếu tố liên quan đến nhiễm Toxocara spp. ở bệnh nhân đến khám
và điều trị tại Bệnh viện 103 (2012-2013)", Báo cáo khoa học toàn văn. Hội
nghị Ký sinh trùng học toàn quốc lần thứ 42 năm 2015.
30.
Lê Đình Vĩnh Phúc và Huỳnh Hồng Quang (2015), Một vài đặc điểm dịch
tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng trên bệnh nhân huyết thanh dương tính
Toxocara sp tại Trung tâm y khoa MEDIC TPHCM, Công trình NCKH. Báo
cáo Hội nghị toàn quốc chuyên ngành Sốt rét-KST-CT năm 2015. Nhà xuất
bản y học, tr 182-190.
31.
Lương Trường Sơn và các cộng sự. (2013), "Tìm hiểu các yếu tố dịch tễ,
lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị đối với những bệnh nhân nhiễm
ký sinh trùng đường ruột đến khám tại Viện Sốt rét-KST-CT TPHCM", Y
học TP hồ Chí Minh. Phụ bản của tập 17, số 1, 2012. Đại học y dược TP
HCM, chuyên đề Ký sinh trùng. ISSN 1859-1779, tr.87-94.
32. Đỗ Thị Thu Thúy, Nguyễn Thị Lan Anh và Đoàn Hữu Hoàn (2015), "Tình
hình nhiễm giun đũa Toxocara spp ở chó, mèo tại Thanh Oai và Thường Tín,
Hà Nội", Báo cáo khoa học toàn văn. Hội nghị Ký sinh trùng học toàn quốc
lần thứ 42 năm 2015. Nhà xuất bản khoa học tự nhiên và công nghệ, ISBN
978-604-913-380-0, tr 237-243.
33. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Hữu Giáo và Huỳnh Thị
Thanh Xuân (2013), "Tình hình nhiễm trứng giun đũa Toxocara spp ở đất tại
một số điểm của Quảng Ngãi và Đăk Lăk", Y học TP hồ Chí Minh. Phụ bản
của tập 17, số 1, tr.87-94.
34. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Hải Khánh và Trần Ngọc
Thảo (2012), "Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và yếu tố nguy cơ nhiễm
ấu trùng giun Toxocara spp ở một số điểm tại Bình Định và Gia Lai", Tạp
chí y học TP Hồ Chí Minh. Phụ bản của tập 16, số 3, 2012. Đại học y dược
TP HCM, chuyên đề Y tế công cộng. ISSN 1859-1779, tr 91-95.
35.
Phan Anh Tuấn, Trần Thị Kim Dung, Trần Phủ Mạnh Siêu và Trần Vinh
Hiển (2009), "Tỷ lệ huyết thanh dương tính với kháng nguyên Toxocara
canis trên các bệnh nhân có triệu chứng dị ứng", Tạp chí y học quân sự. Số
CD91. 2009. ISSN 1859-1655. Cục Quân y xuất bản, tr 147-152.
36. Abdi J, Farhadi M, Aghace S and Sayehmiri K (2014), "Parasitic
Contamination of Raw Vegetables in Iran", A Systematic Review and Meta-
Analysis.J. Med. Sci., 14(3): 137-142.
37. Abougrain A. K, Nahaisi M. H, Madi N. S, Saied M. M and Ghenghesh K. S
(2010), "Parasitological contamination in salad vegetables in Tripoli-Libya",
Food Control, 2010, 21(5), 760-762.
38. Ahmad N, Maqbool A and Saeed K et al. (2011), "Toxocariasis: It's zoonotic
importance and chemotherapy in dogs, " The Journal of animal and plant
sciences, ISSN: 1018-7081, 21(2), 2011, 142-145. .
39. Akeredolu A. B and Sowemino O. A (2014), "Prevalence, intensity and
associated risk factors for Toxocara canis infection in Nigerian dogs",
Journal of parasitology and vector Biology, ISSN: 2141-2510, 6 (8), 111-
116.
40. Alonso J. M, Bojanich M. V, Chamorro M and Gorodner J. O (2000),
"Toxocara seroprevalence in children from a subtropical city in Argentina",
Rev Inst Med Trop Sao Paulo. 42(4), 235-7.
41. Beaver P. C, Snyder C. H and Carrera G. M (1952), "Chronic eosinophilia
due to visceral larva migrans", Pediatrics. 1952;9:7–19.
42. Berger S (2016), Toxocariasis. Global Status, Gideon, 2016 Edition.
43. Borecka A. and Kłapeć T. (2015), "Epidemiology of human toxocariasis in
Poland—a review of cases 1978–2009", Annals of Agricultural and
Environmental Medicine. 2015;22(1):28–31.
44. Btaszkowska J, Goralska K, Wojcik A, Kurnatowski P and Szwabe K
(2015), "Presence of Toxocara spp. eggs in children's recreation areas with
varying degrees of access for animals", Annals of Agricultural and
Environmental Medicine 2015, Vol 22, No 1, 23-27.
45. CAPC (2012), "Companion Animal Parasite Council", Recommendations
Intestinal Parasites – Ascarid, www.capcvet.org.(reviewed July 2012).
46. Chiodo P, Basualdo J, Ciarmela L, Pezzani B, Apezteguia M and Minvielle
M (2006), "Related factors to human toxocariasis inarural community of
Argentina", Mem. Inst. Oswaldo Cruz 101,397-400.
47. Choi D, Lim J. H, Choi D. C, Paik S. W, Kim S. H and Huh S (2008),
"Toxocariasis and ingestion of raw cow liver in patients with eosinophilia",
Korean J Parasitol. 46(3), 139-43.
48. Chomel BB, Kasten R and Adams C (1993), "Serosurvey of some major
zoonotic infections in children and teenagers in Bali, Indonesia.", Southeast
Asian J Trop Med Public Health. 1993 Jun. 24(2), 321-6.
49. Coelho LMPS and Silva MV
(2004),
"Hman Toxocariasis: A
seroepidemiological survey in schoolchildren of Sorocaba, Brazil", Mem Inst
Oswaaldo Cruz. Rio de Janeiro. 99(6), 533-557.
50. Dar Z. A, Tanveer S, Yattoo G. N, Sofi B. A and Perviz (2014), "Prevalence
of Toxocara canis in Stray Dogs of Kashmir Valley", Journal of Zoological
Sciences. ISSN : 2321-6190, 2 (3), 2014, 20-23.
51. Deshayes S and Bonhomme J (2016), "Neurotoxocariasis: a systematic
literature review ", Infection 2016; 44: 565–74.
52. Despommier D (2003), "Toxocariasis: clinical aspects, epidemiology,
medical ecology, and molecular aspects", Clin Microbiol Rev 2003; 16: 265–
72.
53. Dogan N, Dinleyici E. C, Bor O, Toz S. O and Ozbel Y (2007),
"Seroepidemiological survey
for Toxocara canis
infection
in
the
northwestern part of Turkey", Turkiye Parazitol Derg. 31(4), 288-91.
54.
Ei-Shazly A. M, Abdel Baset S. M, Kamal A, Mohammed K. A, Sakr T. I
and Hammad S. M (2013), "Seroprevalence of human Toxocariasis", AAMJ,
11(3).
55.
ESCCAP (2010), (European Counsel for Companion Animal Parasites),
Worm Control in Dogs and Cats Guideline 01, 2nd ed, pp. 5–6,
(www.esccap.org).
56.
Fajutag A. J and Paller V. G (2013), "Toxocara egg soil contamination and
its seroprevalence among publicschool children in Losbanos, Laguna,
Philippines", Southeast Asian J Trop Med Public Health. 44(4). 2013, 551-
560.
57.
Fan CK, Lan HS and Hung CC ( 2004), " Seroepidemiology of Toxocara
canis infection among mountain aboriginal adults in Taiwan", Am J Trop
Med Hyg. 2004 Aug;71(2):216-21.
58.
Fan CK, Liao CW and Cheng YC et al. (2013), "Factors affecting disease
manifestation of toxocarosis in humans: Genetics and environment, " Vet
Parasitol 193: 342-352.
59.
Fernando S. D, Wickramasinghe V. P, Kapilananda G. M. G, Devasurendra
R. L, Amarasooriya J. D. M. S and Dayaratne H. G. A. K (2007),
"Epidemiological aspects and risk factors of Toxocariasis in a pediatric
population in Srilanka", Southeast Asian J TropMed Public Health , 2007,
38(6), 983-991.
60.
Fu CJ, Chuang TW, Lin HS, Wu CH and et al. Liu YC (2014),
"Seroepidemiology of Toxocara
canis
infection
among primary
schoolchildren in the capital area of the Republic of the Marshall Islands",
BMC Infect Dis 14: 261.
61. Gawor J, Borecka A, Marczyńska M, Dobosz S and Zarnowska-Prymek H
(2014), "Risk of human toxocarosis in Poland due to Toxocara infection of
dogs and cats", Acta Parasitol. 2014 Mar;60(1):99-104. doi: 10.1515/ap-
2015-0012.
62. Grandemange E, Claerebout E, Genchi C and Franc M (2007), "Field
evaluation of the efficacy and the safety of a combination of oxantel/
pyrantel/ praziquantel in the treatment of naturally acquired gastrointestinal
nematode and/ or cestode infestations in dogs in Europe", Vet. Parasitol,
145:94-99.
63. Gurel F. S, Ertug S and Okyay P (2005), "Prevalence of Toxocara spp. eggs
in public parks of the city of Aydin, Turkey", Turkiye Parazitol Derg. 29(3),
tr. 177-9.
64. Guzma H.O, Delfino BM and Martins AC et al. (2014), "Epidemiology and
control of child toxocariasis in the western Brazilian Amazon: A population
based study", Am. J. Trop. Med. Hyg., 90(4):670-681.
65. Hakim S.L (1993), "ELISA seropositivity for Toxocara canis Antibodies in
Malaysia, 1989-1991", Original Article. Med J Malaysia, 48 (3), 303-307.
66. Haq S, Maqbool A, Khan UJ, Yasmin G and Sultana R (2014), "Parasitic
Contamination of Vegetables Eaten Raw in Lahore", Pakistan J.Zool, 46(5),
1303-1309, 2014.
67. Hombu A, Yoshida A, Kikuchi T, Nagayasu E, Kuroki M and Maruyama H.
(2017), "Treatment of larva migrans syndrome with long-term administration
of albendazole", J Microbiol Immunol Infect. 2017 Jul 14. pii: S1684-
1182(17)30142-1.
68. Hotez P. J (2008), "Neglected infections of poverty in the United States of
America", PLoS Negl Trop Dis. 2(6), e256.
69. Hotez P. J, Dumonteil E, Heffernan M. J and Bottazzi M. E (2013),
"Innovation for the‘bottom 100 million': eliminating neglected tropical
diseases in the Americas", Adv. Exp. Med. Biol. 764, 1-12.
70.
Ishiyamna S, Ono K, Rai S. K and Uga S (2009), Method for detecting
circulating Toxocara canis antigen and its application in human serum
samples, Nepal Med Coll J. 2009 Mar;11(1):9-13.
71.
Jenkins E. J and et al (2013), "Tradition and transition: parasitic zoonoses of
peopleand animals in Alaska, Northern Canada, and Greenland", Adv.
Parasitol. 82,33–204.
72.
Jesus A P and Holsback L et al. (2015), "Efficacy of pyrantel pamoate and
ivermectin for the treatment of canine nematodes", Semina Ciencias
Agrarias, Londrina, vol. 36, No. 6:3731-3740.
73.
Jin Y (2013), "Serodiagnosis of Toxocariasis by ELISA Using Crude
Antigen of Toxocara canis Larvae", Korean J Parasitol; 51(4): 433–439.
74. Kondo K, Akao N, Ohyama T and Okazawa (1998), "Sero-epidemiology investigation of Toxocariasis in Asian area", In the 5th Asian. Pacific
Congress for parasitic zoonoses. In: Yamaguchi T, Araki T. The Organizing
Committee of Asian-Parasitic Congress for Parasitic Zoonoses, 1998, 65-70.
75. Kuenzli E, Neumayr A, Chaney M and Blum J (2016), "Toxocariasis-
associated cardiac diseases—a systematic review of the literature", Acta Trop
2016; 154: 107–20.
76. Kwon N.H, Oh M.J and Lee S.P et al (2006), "The prevalence and diagnostic
value of toxocariasis in unknown eosinophilia", Ann. Hematol.;85(4):233-8.
77. Kyei G, Ayi I, Boampong J. N and Turkson P. K (2015), "Sero-
Epidemiology of Toxocara Canis Infection in Children Attending Four
Selected Health Facilities in the Central Region of Ghana", Ghana Med J.
49(2), 77-83.
78.
Lee RM, Moore LB, Bottazzi ME and Hotez PJ. (2014), "Toxocariasis in
North America: a systematic review", PLoS Negl Trop Dis;8(8).
79.
Liao C. W, Sukati H, D'Lamini P, Chou C. M and Liu Y. H (2010),
"Seroprevalence of Toxocara canis infection among children in Swaziland,
southern Africa", Ann Trop Med Parasitol. 2010 Jan;104(1):73-80.
80. Ma G and Holland C.V (2017), "Human toxocariasis", The Lancet Infectious
Diseases, 3099(17)30331-6.
81. Macpherson C. et al. (2005), "Human behaviour and the epidemiology of
parasitic zoonoses", Int. J. Parasitol. 35, 1319-1331.
82. Macpherson C. N (2013), "The epidemiology and public health importance
of toxocariasis: A zoonosis of global importance", Int. J. Parasitol, 43(12-
13):999-1008.
83. Magnaval J. F, Glickman L. T, Dorchies P and Morassin B (2001),
"Highlights of human toxocariasis", Korean J Parasitol. 39(1), 1-11.
84. Magnaval J. F, Michault A and Calon N (1994), "Epidemiology of human
toxocariasis in La Reunion", Trans R Soc Trop Med Hyg. 1994. 88(5), 531-3.
85. Maizels R. M. (Eds.) (2013), Toxocara canis: Molecular basis of immune
recognition and evasion, Vet Parasitol. 2012 Dec 20. pii: S0304-
4017(12)00680-2.
86. Martínez-Pulgarin DF, Munoz-Urbano M, Gomez-Suta DL, Delgado OM
and Rodriguez-Morales AJ (2015), "Ocular toxocariasis: new diagnostic and
therapeutic perspectives", Recent Pat Antiinfect Drug Discov 2015; 10: 35–
41.
87. Messier V and et al (2012), "Sero prevalence of seven zoonotic infections in
Nunavik, Quebec(Canada)", Zoonoses Public Health 59,107–117.
88. Molyneux D. H (2006), "Control of human parasitic diseases: Context and
overview", Adv Parasitol. 61, 1-45.
89. Moreira GM, Telmo Pde L, Mendona M et al (2014), "Human toxocariasis:
Current advances in diagnostics, treatment, and interventions", Trends
Parasitol 30:456-464.
90. Nijsse E.R (2016), A critical reflection on current control of Toxocara canis
in household dogs, PhD thesis. University of Utrecht.
91. O’Lorcain P (1994), "Prevalence of Toxocara canis ova in public
playgrounds in the Dublin area of Ireland", J Helminthol. 1994; 68: 237–241
92. Oge S, Oge H, Gonenc B, Ozbaki G and Yildiz C (2013), "Presence of
Toxocara eggs on the hair of dogs and cats", Ankara University, Faculty of
Veterinary Medicine, 60, 171-176.
93. Oryan A and Alidadi S (2015), "Toxocariasis: A neglected parasitic disease
with public health importance", Tropical Medicine & Surgery, 3:2.
94. Oryan A, Sadjjadi SM and Azizi S (2010), "Longevity of Toxocara cati
larvae and pathology in tissues of experimentally infected chickens", Korean
J Parasitol, 48:79-80.
95. Overgaauw P. A and Van Knapen F (2013), "Veterinary and public health
aspects of Toxocara spp", Vet Parasitol. 193(4), 398-403.
96.
Palmer C. S, Robertson I. D, Traub R. J, Rees R and Thompson R. C. A
(2010), "Intestinalparasites of dogs and cats in Australia: the veterinarian's
perspective and petowner awareness", Vet. J. 183, 358-361.
97.
Pezeshki A, Haniloo A and Alezafar A (2017), "Detection of Toxocara spp.
Eggs in the Soil of Public Places in and Around of Ardabil City,
Northwestern Iran", Iran J Parasitol: Vol. 12, No. 1, pp.136-142
98.
Pivetti-Pezzi P (2009), "Ocular toxocariasis", Int J Med Sci 2009; 6: 129–30.
99. Quattrocchi G, Nicoletti A, Marin B and Bruno E et al. (2012), "Toxocariasis
and epilepsy: Systematic review and meta-analysis, " PLoS Negl Trop Dis 6:
e1775.
100. Quy T.M (2016), Evaluation of a Broadly-based Control Model of
Fascioliasis (Liver fluke) in Central Vietnam, PhD thesis. University of
Wollongong.
101. Rai S.K (2000), "Contamination of soil with helminth parasite eggs in
Nepal", Southeast Asian J Trop Med Public Health, Vol 31 No. 2: pp 388-
393
102. Rai SK, Uga S, Ono K, Nakanishi M, Shrestha HG and Matsumura T (1996),
"Seroepidemiological study of Toxocara infection in Nepal.", Southeast
Asian J Trop Med Public Health. . 27(2), 286-90.
103. Roldan W. H, Cavero Y. A, Espinoza Y. A, Jimenez S and Gutierrez C. A
(2010), "Human
toxocariasis: a seroepidemiological survey
in
the
Amazonian city of Yurimaguas, Peru", Rev. Inst. Med. Trop. SaoPaulo
52,37–42.
104. Romanenko N. A (1968), Methods of the examination of soil and sediment of
wastewater on helminth eggs, Med. Parazit. Bolezni 6, 723-729.
105. Rubinsky-Elefant G, Hirata C. E and Yamamoto J. H (2010), "Human
toxocariasis: diagnosis, worldwide seroprevalences and clinical expression of
the systemic and ocular forms", Ann Trop Med Parasitol, 104(1):3-23.
106. Rubinsky-Elefant G, Hoshino-Shimizu S, Jacob C. M, Sanchez M. C and
Ferreira A. W (2011), Potential immunological markers for diagnosis and
therapeutic assessment of toxocariasis, Rev Inst Med Trop Sao Paulo. 2011
Mar-Apr;53(2):61-5.
107. Sadjjadi SM, Khosravi M, Mehrabani D and Orya A (2000), "Seroprevalence
of toxocara infection in school children in Shiraz, southern Iran", J Trop
Pediatr 46: 327-330.
108. Sager H, Moret Ch. S, Grimm F, Deplazes P, Doherr M. G and Gottstein B
(2006), "Coprological study on intestinal helminths in Swiss dogs: temporal
aspects of anthelminthic treatment", Parasitol Res. 98(4), 333-8.
109. Said D. E. S (2012), "Detection of parasites in commonly consumed raw
vegetables", Alexandria Journal of Medicine, 2012, 48, 345-352.
110. Salvador S, Ribeiro R, Winckler MI, Ohlweiler L and Riesgo R (2010),
"Pediatric neurotoxocariasis with concomitant cerebral, cerebellar, and
peripheral nervous system involvement: Case report and review of the
literature", J Pediatr (Rio J) 86: 531-534.
111. Santarem V. A, Franco Eda C, Kozuki F. T, Fini D and Prestes-Carneiro L. E
(2008), "Environmental contamination by Toxocara spp. eggs in a rural
settlement in Brazil", Rev Inst Med Trop Sao Paulo. 50(5), 279-81.
112. Schnieder T, Laabs E. M and Welz C (2011), "Larval development of
Toxocara canis in dogs", Vet Parasitol. 175(3-4), 193-206.
113. Stensvold CR, Skov J and Moller LN (2009), "Seroprevalence of Human
Toxocariasis in Denmark", CLINICAL AND VACCINE IMMUNOLOGY,
Sept. 2009, 16(9), 1372–1373.
114. Stojcevic D, Susic V and Lucinger S (2010), "Contamination of soil and sand
with parasite elements as a risk factor for human health in public parks and
playgrounds in Pula, Croatia", Vet. arhiv 80, 733-742, 2010.
115. Sturchler D, Schubarth P, Gualzata M, Gottstein B and Oettli A (1989),
"Thiabendazole vs. albendazole in treatment of toxocariasis: a clinical trial",
Ann Trop Med Parasitol. 1989;83:473–478.
116. Sudhakar N. R and et al (2013), "Prevalence of Toxocara species eggs in soil
samples of public health importance in and around Bareilly, Uttar Pradesh,
India", Vet World 6(2): 87-90.
117. Tavassoli M, Javadi S, Firozi R, Rezaei F, Khezri A. R and Hadian M
(2012), "Hair Contamination of Sheepdog and Pet Dogs with Toxocaracanis
Eggs", Iranian J Parasitol 7(4), 110-115.
118. Uga S (1995), "Measures to Control Toxocara Egg Contamination in
Sandpits of Public Parks", The American Journal of Tropical Medicine and
Hygiene, Volume 52, pp. 21 – 24.
119. Walsh M.G and Haseeb M.A (2014), "Toxocariasis and lung function:
relevance of a neglected infection in an urban landscape", Acta Parasitol
2014; 59: 126–31.
120. Willis. K, J. Green and J. Daly (2009), "Perils and possibilities: achieving
best evidence from focus groups in public health research", Aust N Z J Public
Health, 33, 131-136.
121. Woodhall D. M, Eberhard M. L and Parise M. E (2014), "Neglected parasitic
infections in the United States: toxocariasis", Am J Trop Med Hyg. 90(5),
810-3.
122. Woodhall D. M and et al. (2012), Ocular toxocariasis: epidemiologic,
anatomic, and therapeutic variations based on a survey of ophthalmic
subspecialists, Ophthalmology. 2012 Jun;119(6):1211-7.
123. Yakhchali M and Ebn-Adamnezhad A (2014), "A study on Toxocara canis
(Ascaridida: Ascaridae) infection in dogs and soil of public parks of
Piranshahr city, West Azarbaijan province, Iran", Journal of Veterinary
Research 2014 Vol. 69 No. 4 ISSN 2008-2525 ,355-362.
Hóa trị liệu
124. Youn H, Ra JR and Kim BK et al. (2011), "The anti-parasitic efficacy of
ivermectin and pyrantel pamoate compound against canine Toxocara canis
and Trichuris vulpis", Korean J. Vet. Res, 51(4): 289-295.
125. Zibaei M (2017), "Helminth Infections and Cardiovascular Diseases:
Toxocara Species is Contributing to the Disease", Current Cardiology
Reviews, 13, 56-62
126. https://web.stanford.edu/class/humbio103/ParaSites2005/Toxocariasis/
whole%20thing.htm.
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH XÉT NGHIỆM
TT Họ tên Chủ hộ BCAT
Địa chỉ Nuôi chó
Tuổi Nam Nữ OD/ ngưỡng
PHỤ LỤC 2 DANH SÁCH KHÁM LÂM SÀNG
TT
Họ tên
Tuổi
Địa chỉ
Ngứa ĐĐ ĐB
Sốt Mắt Khác
RLTH
Triệu chứng LS Nhức CT, tê bì
PHỤ LỤC 3 DANH SÁCH ĐIỀU TRA VÀ XÉT NGHIỆM CHÓ Chó < 3 th
Tuổi Địa
3 – 6 th
> 6 th
Tên
Tổng
TT
chủ hộ
chỉ
Số
(+)
Số
(+)
Số
(+)
Số
(+)
XN
XN
XN
XN
PHỤ LỤC 4 DANH SÁCH XÉT NGHIỆM ĐẤT TẠI HỘ ĐIỀU TRA Tuổi Địa chỉ Nuôi
Tên chủ hộ
Kết quả XN
Vị
TT
chó
trí
Số trứng/mẫu
đất
PHỤ LỤC 5 DANH SÁCH XÉT NGHIỆM ĐẤT TẠI SÂN CHƠI CÔNG CỘNG Vị trí đất
Kết quả XN
Khu dân cư
TT
Số trứng/mẫu
PHỤ LỤC 6 DANH SÁCH XÉT NGHIỆM RAU
TT
Loại rau
Ký
Địa chỉ nơi thu
Kết quả XN
hiệu
thập
(Số trứng/mẫu)
mẫu
PHỤ LỤC 7.
BẢNG CÂU HỎI ĐIỀU TRA KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH (KAP) CỦA HỘ GIA ĐÌNH VỀ BỆNH ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ
I. Thông tin chung:
Họ và tên chủ hộ: ..........................................................................................................
Họ và tên người được phỏng vấn:.....................................................Dân tộc: ............
Chỗ ở: Khu dân cư …Thôn..................xã....................huyện..................tỉnh….........
Câu hỏi
Trả lời
Chuyển
II. Thông tin cụ thể: Mã I
_ _ (số tuổi)
Thông tin hành chính Q1 Tuổi Q2 Giới tính
Q3 Trình độ học vấn
Q4 Nghề nghiệp
Nam Nữ Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông trở lên Làm nông Làm biển Cán bộ viên chức Học sinh, sinh viên Già Khác (nêu rõ)
1 2 1 2 3 1 2 3 4 5 6
II
Kiến thức về bệnh ATGĐC
Q5 Bạn có nghe nói về bệnh
ATGĐC
Q6 Nếu có thì từ nguồn thông
tin nào
Q7 Nguy cơ nhiễm bệnh
ATGĐC? (không gợi ý)
1 Có 2 Q14 Không 3 Q14 Không biết 1 Ti vi, đài, báo 2 CBYT 3 Người thân 4 Khác (nêu rõ) Ăn rau, hoa quả sống 1 Ăn gan sống một số động vật 2 3 Tiếp xúc đất 4 Bồng bế chó mèo 5 Không biết
Câu hỏi
Trả lời
Mã Q8 Triệu chứng của bệnh
ATGĐC? (không gợi ý)
Q9
Phòng chống bệnh ATGĐC? (không gợi ý)
Ngứa, nổi mẩn Đau đầu Đau bụng, RLTH Nhức mỏi chân tay, tê bì Sốt, thở khò khè Khác (nêu rõ)….. Không biết Ăn chín uống chín Tẩy giun cho chó Xử lý phân chó Rửa tay sau khi tiếp xúc đất Rửa tay trước khi ăn Không bồng bế chó mèo Không biết
Chuyển
1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7
III Thái độ với bệnh ATGĐC
Q10 Bạn có đồng ý rằng bệnh ATGĐC có nguy hiểm?
Q11 Bạn có thấy cần thiết
không nuôi chó thả rông?
Q12 Bạn có thấy cần thiết tẩy
giun cho chó?
Q13 Bạn có thấy cần thiết xử lý phân chó để tránh bị nhiễm bệnh ATGĐC?
Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết
1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3
IV Thực hành phòng chống
bệnh ATGĐC Q14 Nhà bạn có nuôi chó
không?
Q15 Bạn có nuôi chó thả rông
không?
Q16 Bạn có tẩy giun cho chó
không?
Q17 Chó hàng xóm có chạy qua
nhà bạn không? Q18 Bạn có xử lý phân chó
Có Không Có Không Có Không Có Không Có Không
trong sân, vườn nhà mình không?
1 2 Q17 1 2 1 2 1 2 1 Q20 2
Câu hỏi
Trả lời
Mã Q19 Xử lý phân chó bằng cách
nào?
Q20 Bạn có bồng bế chó mèo?
Q21 Bạn có ăn rau sống?
Q22 Bạn rửa rau sống như thế
nào?
Q23 Bạn có tiếp xúc đất không?
Q24 Bạn có rửa tay sau khi tiếp
xúc đất?
Q25 Bạn có rửa tay trước khi
ăn?
Q26 Bạn có ăn gan sống một số
động vật không?
Chuyển 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 Q25 1 2 1 2 1 2
Quét dọn Chôn Khác (ghi rõ) Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Dưới vòi nước ≥ 3 lần < 3 lần Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Có Không Có Không Có Không
Cảm ơn bạn đã tham gia phỏng vấn
.
Ngày…../……../……
.
Người được phỏng vấn
Người phỏng vấn
PHỤ LỤC 7a
BẢNG CÂU HỎI ĐIỀU TRA KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH (KAP) CỦA HỘ GIA ĐÌNH VỀ BỆNH ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ
(sau can thiệp)
I. Thông tin chung:
Họ và tên chủ hộ: ..........................................................................................................
Họ và tên người được phỏng vấn:......................................................Dân tộc: ............
Chỗ ở: Khu dân cư …..Thôn..................xã....................huyện..................tỉnh…...
Câu hỏi
Trả lời
Chuyển
II. Thông tin cụ thể: Mã I
Thông tin hành chính
_ _ (số tuổi)
Q1 Tuổi Q2 Giới tính
Q3 Trình độ học vấn
Q4 Nghề nghiệp
Nam Nữ Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông trở lên Làm nông Làm biển Cán bộ viên chức Học sinh, sinh viên Già Khác (nêu rõ)
1 2 1 2 3 1 2 3 4 5 6
II
Kiến thức về bệnh ATGĐC
Q5 Bạn có nghe nói về bệnh
ATGĐC
Q6 Nếu có thì từ nguồn thông
tin nào
Q7 Nguy cơ nhiễm bệnh
ATGĐC? (không gợi ý)
Có Không Không biết Ti vi, đài, báo CBYT Người thân Khác (nêu rõ) Ăn rau, hoa quả sống Ăn gan sống một số động vật Tiếp xúc đất Bồng bế chó mèo Không biết
1 2 Q14 3 Q14 1 2 3 4 1 2 3 4 5
Câu hỏi
Trả lời
Mã Q8 Triệu chứng của bệnh
ATGĐC? (không gợi ý)
Q9
Phòng chống bệnh ATGĐC? (không gợi ý)
Ngứa, nổi mẩn Đau đầu Đau bụng, RLTH Nhức mỏi chân tay, tê bì Sốt, thở khò khè Khác (nêu rõ)….. Không biết Ăn chín uống chín Tẩy giun cho chó Xử lý phân chó Rửa tay sau khi tiếp xúc đất Rửa tay trước khi ăn Không bồng bế chó mèo Không biết
Chuyển
1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7
III Thái độ với bệnh
ATGĐC
Q10 Bạn có đồng ý rằng bệnh ATGĐC có nguy hiểm?
Q11 Bạn có thấy cần thiết
không nuôi chó thả rông?
Q12 Bạn có thấy cần thiết tẩy
giun cho chó?
Q13 Bạn có thấy cần thiết xử
lý phân chó để tránh bị nhiễm bệnh ATGĐC?
Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết Đồng ý Không đồng ý Không biết
1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3
IV Thực hành phòng chống
bệnh
Q14 Nhà bạn có nuôi chó
không?
Q15 Bạn có nuôi chó thả rông
không? Nếu có, lý do tại sao?
Q16 Bạn có tẩy giun cho chó
không? Nếu không, lý do tại sao?
1 Có 2 Q17 Không 1 Có 2 Không Tập quán 1 Khác…………………………. 2 1 Có 2 Không Không được phát thuốc tẩy 1 Khác…………………………. 2
Câu hỏi
Trả lời
Mã Q17 Chó hàng xóm có chạy
qua nhà bạn không?
Q18 Bạn có xử lý phân chó
Có Không Có Không
Chuyển 1 2 1 2 Q20
trong sân, vườn nhà mình không?
Q19 Xử lý phân chó bằng cách
nào?
Q20 Bạn có bồng bế chó mèo?
Q21 Bạn có ăn rau sống?
Q22 Bạn rửa rau sống như thế
nào?
Q23 Bạn có tiếp xúc đất
không?
Q24 Bạn có rửa tay sau khi
tiếp xúc đất?
Q25 Bạn có rửa tay trước khi
ăn?
1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 Q25 1 2 1 2
Quét dọn Chôn Khác (ghi rõ) Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Dưới vòi nước ≥ 3 lần < 3 lần Thường xuyên Không thường xuyên Không bao giờ Có Không Có Không
Cảm ơn bạn đã tham gia phỏng vấn
.
Ngày…../……../…….
Người được phỏng vấn
Người phỏng vấn
PHỤ LỤC 8
KỸ THUẬT ELISA CHẨN ĐOÁN GIUN ĐŨA CHÓ MÈO
(Bộ sinh phẩm của Công ty TNHH-sản xuất thương mại hóa chất Việt Sinh)
Bộ kít chẩn đoán của Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại hóa chất
Việt Sinh với độ nhạy là 100%, độ đặc hiệu là 97%.
Bộ thử ELISA phát hiện kháng thể IgG đặc hiệu Toxocara sp trong huyết
thanh người bị nhiễm ấu trùng giun Toxocara spp.
Nguyên tắc hoạt động của bộ thuốc thử:
Bộ thuốc thử hoạt động bằng nguyên tắc của phản ứng ELISA gián tiếp
phát hiện kháng thể: kháng nguyên Toxocara sp đã gắn các giếng nhựa
polystyrene tóm bắt kháng thể đặc hiệu có trong huyết thanh người và phát hiện
kháng thể bám trên giếng nhựa bằng cộng hợp kháng IgG người đánh dấu men
peroxidase.
- Thực hiện kỹ thuật ELISA:
+ Rửa giếng ELISA 4 lần với PBS-T-1x, ngâm 1 phút ở lần rửa cuối.
+ Cho vào giếng 90l dung dịch pha loãng PBS-T-BSA 1x giữ ở 370C
trong 1 giờ.
+ Pha các huyết thanh chứng (+), 15 chứng (-) và huyết thanh thử nghiệm
1/40 trong nước muối sinh lí.
+ Cho 10 l huyết thanh chứng (+), chứng (-), huyết thanh thử nghiệm đã
pha sẵn vào các giếng, trộn đều.
+ Đậy giếng lại bằng băng keo, ủ ở tủ ấm 370C trong 1 h.
+ Rửa giếng ELISA 4 lần với PBS-T 1x ngâm 1 phút ở lần rửa cuối.
+ Cho vào mỗi giếng 100 l kháng thể kháng huyết thanh người có gắn
men peroxidase đã được pha loãng 1/250 với PBS-T-BSA 1x
+ Đậy giếng lại bằng băng keo, ủ ở tủ ấm 370C trong 1 h.
+ Rửa giếng 4 lần với PBS-T 1x.
+ Cho vào các giếng 100l dung dịch đài chất. Ủ ở nhiệt độ phòng thí nghiệm 300C trong 5 -15 phút, một khi màu phân biệt rõ chứng (+) và (-), làm
ngừng phản ứng bằng 50l dung dịch ngừng phản ứng.
- Đọc kết quả: Sử dụng máy đọc ELISA với bước sóng 450 nm và 620 nm
để đọc kết quả, ghi lại mật độ quang (OD) của từng giếng.
Ngưỡng dương tính = Trung bình cộng chứng âm + 3 SD
PHỤ LỤC 9
KỸ THUẬT LY TÂM CẶN LẮNG FORMALIN-ETHER
Kỹ thuật ly tâm cặn lắng formaline- ether: để tìm trứng giun sán (giun
đũa, giun tóc, giun móc, các lọai trứng sán lá, trứng giun đũa chó mèo) và bào
nang đơn bào … theo hướng dẫn của WHO (1995).
- Dùng que lấy phân lấy 1-1,5g phân cho vào 10 ml formalin trong tube ly
tâm và khuấy đều tạo thành một dịch treo.
- Lọc dịch treo qua lưới lọc có kích thước lỗ lọc 400 m hay qua hai lớp
vải gạc vào một tube ly tâm khác hoặc vào một cốc đong nhỏ. Bỏ lưới lọc.
- Thêm formalin 10% vào chất dịch trong tube để được thể tích 10 ml.
- Thêm 3ml ether vào dịch treo ở trong tube và trộn đều bằng cách đậy nắp
cao su và lắc mạnh trong vòng 10 giây.
- Mở nắp cao su, đặt tube vào máy ly tâm, cân bằng tube và ly tâm ở tốc độ
1.500 vòng/phút trong 2- 3 phút.
- Lấy tube ra khỏi máy ly tâm, chất dịch trong tube chia làm 4 lớp:
+ Lớp trên cùng: ether
+ Lớp thứ 2: gồm các mảnh chất béo bám thành ống.
+ Lớp thứ 3: lớp formalin
+ Lớp thứ 4: cặn
- Dùng que lấy nhẹ nhàng lớp chất béo ra khỏi thành ống bằng cách xoáy
theo hình xoắn và sau đó đổ 3 lớp trên cùng bằng một động tác nhanh gọn, dốc
ngược ống ly tâm ít nhất 5 giây. Sau khi làm xong sẽ có một lượng nhỏ chất dịch
còn lại trên thành ống chảy trở lại cặn dưới đáy ống.
- Trộn chất dịch với cặn (đôi khi nếu cần thêm một giọt nước muối sinh lý
để có đủ dịch hòa cặn) bằng pipet thủy tinh. Lấy 1 giọt cặn nhỏ lên phiến kính,
phủ lá kính và xét nghiệm.
PHỤ LỤC 10
KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM NGOẠI CẢNH ROMANENKO
Dùng để xét nghiệm trứng giun sán ở đất, rau, nước, móng tay, ruồi, …
1. Kỹ thuật xét nghiệm đất
- Lấy khoảng 100 gam cho một mẫu đất cần xét nghiệm. - Chỉ lấy đất từ trên bề mặt xuống khoảng 1cm trong phạm vi 1 m2. - Nếu chưa xét nghiệm có thể để mẫu đất trong tủ lạnh ở 40C để bảo quản.
- Khi xét nghiệm cân mỗi mẫu đất (100g) chia đều vào 4 ống nghiệm (chia
cho đều bằng cân tiểu ly).
- Dùng NaOH 0,5% nhỏ vào ½ ống nghiệm. Lấy que thủy tinh ngoáy tan
đất từ 5-10 phút (khi ngoáy nếu thấy những sỏi đá, rác rưởi có thể dùng que đưa
ra khỏi ống). Tác dụng của NaOH sẽ làm tách trứng ra khỏi đất.
- Tiếp tục ngoáy xong cho NaOH 0,5% vào đầy 4 ống nghiệm, đem cân và
đặt vào 4 ống ly tâm (1.000 vòng/phút) trong thời gian 3 phút.
- Lấy ống nghiệm ra gạn bỏ lớp dung dịch trên đi, giữ lại cặn, tiếp tục bổ
sung vào dung dịch NaNO3 bão hòa cho đầy và ngoáy nhẹ sau đó đem ly tâm
thêm lần 2 cũng thời gian 3-5 phút.
- Lấy ống nghiệm ra và bổ sung thêm lượng dung dịch NaNO3 bão hòa
cho đầy vồng lên như mặt kính đồng hồ.
- Dùng lam kính (tùy theo cỡ ống to nhỏ cho vừa) đặt lên. Để yên 10-15
phút nhấc ngửa nhanh lam kính lên và thả lamen vào rồi soi tìm trứng giun dưới
kính hiển vi. Mỗi ống nghiệm làm 2 lam kính để xét nghiệm.
2. Kỹ thuật xét nghiệm rau
- Lấy 200 gam cho một mẫu rau cần xét nghiệm.
- Rau được rửa 3 lần trong 1 lít nước.
- Ly tâm và soi trứng trong phần cặn.
Phụ lục 11 BẢN THÔNG TIN DÀNH CHO ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU
Tên nghiên cứu: Đặc điểm dịch tễ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người và hiệu quả
một số biện pháp can thiệp tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi (2016-2017)
Nhà tài trợ: Hoạt động phòng chống giun sán do Bộ Y tế cấp.
Nghiên cứu viên chính: ThS Bùi Văn Tuấn
Đơn vị chủ trì: Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn
I.THÔNG TIN VỀ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích và tiến hành nghiên cứu
Tên tôi là Bùi Văn Tuấn, đang làm việc tại Viện Sốt rét - KST - CT Quy
Nhơn, Bộ Y tế. Hiện chúng tôi đang nghiên cứu về bệnh ấu trùng giun đũa chó ở
người. Bệnh ấu trùng giun đũa chó là một bệnh phổ biến trong khu vực; tuy vậy
bệnh có thể điều trị khỏi bằng thuốc. Mục đích của nghiên cứu xác định được tỷ lệ
nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người, các yếu tố nguy cơ, hiệu quả các biện pháp
phòng chống trong đó có điều trị ca bệnh bằng thuốc Albendazole.
Nghiên cứu sẽ được tiến hành tại xã Đức Phong và xã Đức Chánh của huyện
Mộ Đức, thời gian dự kiến từ tháng 7/2016-12/2017. Chúng tôi mời những người
lớn và trẻ em từ 2 đến 70 tuổi trong các hộ được chọn ngẫu nhiên (200 hộ cho 1
xã), đang sống ở vùng này tham gia vào nghiên cứu để giúp xác định tỷ lệ bệnh và
hiệu quả biện pháp phòng chống. Mỗi người tham gia sẽ được lấy máu tĩnh mạch
(1,5 ml) để xét nghiệm tìm kháng thể kháng giun đũa chó. Nếu bị nhiễm bệnh ấu
trùng giun đũa chó, bạn (hoặc con bạn) sẽ được điều trị miễn phí với thuốc
Albendazole. Tôi sẽ cung cấp thêm thông tin cho ông/bà và mời ông/bà (hoặc con
ông/bà) tham gia nghiên cứu này. Trước khi quyết định xem ông/bà (hoặc con
ông/bà) có tham gia hay không, ông/bà có thể trao đổi thêm với bất kỳ ai nếu bạn
thấy phù hợp. Có thể có một số từ ông/bà không hiểu. Nếu không hiểu thì nhắc tôi
dừng lại và tôi sẽ giải thích cho ông/bà hiểu. Nếu sau này ông/bà có vấn đề gì thì có
thể hỏi tôi, bác sỹ khác hoặc cán bộ trong nhóm nghiên cứu.
Nếu ông/bà đáp ứng tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu và bị nhiễm bệnh ấu trùng
giun đũa chó, chúng tôi sẽ cung cấp cho ông/bà thuốc chống giun sán Albendazole
400mg với biệt dược là Unaben với liệu trình điều trị 21 ngày.
- Tuần thứ 1: Liều 15 mg/kg x 7 ngày + thuốc bổ trợ + kháng histamin.
- Tuần thứ 2: Liều 15 mg/kg x 7 ngày + thuốc bổ trợ
- Tuần thứ 3: Liều 15 mg/kg x 7 ngày + thuốc bổ trợ
2. Các nguy cơ và bất lợi
Tất cả các thuốc đều có thể gây ra các tác dụng không mong muốn. Ông/bà có
thể bị đau bụng, hoa mắt chóng mặt nhẹ (nhưng hiếm). Các tác dụng không mong
muốn khác thỉnh thoảng xảy ra đó là đau bụng, buồn nôn. Ông/bà nên báo cho bác
sỹ khi các tác dụng không mong muốn này xảy ra. Khi điều trị thời gian ngắn
(không quá 3 ngày) có thể thấy vài trường hợp bị khó chịu ở đường tiêu hóa (đau
vùng thượng vị, tiêu chảy) và nhức đầu.
Thông thường các tác dụng không mong muốn không nặng và hồi phục được
mà không cần điều trị. Trong quá trình điều trị, ông/bà (hoặc con ông/bà) không
được dùng thêm bất kỳ thuốc nào khác nếu không được phép của bác sỹ. Chúng tôi
sẽ theo dõi ông/bà (hoặc con ông/bà) chặt chẽ để phát hiện biểu hiện này nếu có
hoặc theo dõi các vấn đề khác. Tôi sẽ cho ông/bà số điện thoại để gọi nếu có gì bất
thường hoặc nếu ông/bà cần hỏi. Ông/bà cũng có thể đếm Trạm y tế bất kỳ lúc nào
để gặp bác sỹ. Nếu ông/bà (hoặc con ông/bà) có xuất hiện các tác dụng phụ của
thuốc, chúng tôi có thể cấp một số thuốc miễn phí cho ông/bà để giúp giảm các triệu
chứng/phản ứng hoặc chúng tôi có thể dừng thuốc. Chúng tôi sẽ luôn hỏi ý kiến của
ông/bà mỗi khi thay đổi.
3. Lợi ích của đối tượng khi tham gia nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu, những bệnh nhân đủ điều kiện tiêu chuẩn sẽ được
các bác sĩ trưởng nhóm nghiên cứu giải thích kỹ về quyền lợi và nghĩa vụ của bệnh
nhân mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó tham gia nghiên cứu. Họ sẽ được khám bệnh,
lập phiếu theo dõi, lấy máu làm xét nghiệm, uống thuốc của nghiên cứu đề ra (thuốc
giun sán và một số thuốc bổ trợ khác nếu nhiễm bệnh ấu trùng giun đũa chó) theo
đúng quy trình trong đề cương nghiên cứu. Mỗi đối tượng tham gia nghiên cứu
(được lấy máu để xét nghiệm) sẽ được hỗ trợ 10.000 đồng (Mười nghìn đồng). Tất
cả chi phí điều trị (thuốc giun sán, thuốc điều trị triệu chứng, vitamin, các xét
nghiệm,…) trong suốt thời gian nghiên cứu đều được miễn phí.
Tất cả đối tượng được khám bệnh kỹ, nếu bị nhiễm bệnh ấu trùng giun đũa
chó (huyết thanh dương tính kết hợp với ít nhất một triệu chứng lâm sàng) sẽ được
bác sĩ trực tiếp cho uống thuốc, được theo dõi sát trong thời gian nghiên cứu, được
giải thích chu đáo, được quyền rút khỏi nghiên cứu bất cứ lúc nào nếu họ không
muốn hợp tác.
Đề cương này đã được thông qua và chấp thuận của Hội đồng y đức y sinh học
của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và Hội đồng y đức y sinh học của Viện Vệ
sinh dịch tễ Trung ương. Hội đồng khẳng định những người tham gia nghiên cứu
không bị tác hại gì trong nghiên cứu. Nếu ông/bà muốn tìm hiểu kỹ hơn về hội đồng
phê duyệt, ông/bà có thể liên hệ với họ. Nếu ông/bà có câu hỏi gì liên quan tới
nghiên cứu này thì hãy tới địa điểm nghiên cứu.
4. Bồi thường/điều trị khi có tổn thương liên quan đến nghiên cứu:
Nếu ông/bà (hoặc con ông/bà) quyết định tham gia nghiên cứu này, những ốm
đau liên quan đến giun sán hoặc tới điều trị giun sán sẽ được điều trị miễn phí cho
ông/bà. Ông/bà (hoặc con ông/bà) tham gia sẽ giúp chúng tôi đánh giá hiệu quả
thuốc chống giun sán và như vậy sẽ có lợi cho xã hội và thế hệ tương lai.
5. Người liên hệ
Về vấn đề y đức trong nghiên cứu, nếu bạn có câu hỏi, đừng ngần ngại gọi
cho ThS Bùi Văn Tuấn là chủ nhiệm đề tài (Điện thoại: 0982847539) hoặc PGS.TS
Hồ Văn Hoàng, đại diện cho Hội đồng y đức của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn
( Điện thoại: 0914.004629).
6. Sự tự nguyện tham gia
Người tham gia được quyền tự quyết định, không hề bị ép buộc tham gia.
Người tham gia có thể rút lui ở bất kỳ thời điểm nào mà không bị ảnh hưởng
gì đến việc điều trị/chăm sóc mà họ đáng được hưởng.
Trong trường hợp là người vị thành niên, suy giảm trí tuệ hoặc mất khả năng,
việc lấy bản chấp thuận tham gia từ người đại diện hợp pháp.
7. Tính bảo mật
Chúng tôi sẽ không chia sẻ thông tin về những người tham gia trong nghiên
cứu này với bất kỳ ai. Thông tin thu thập từ nghiên cứu này được giữ bí mật. Các
thông tin mà ông/bà (hoặc con ông/bà) cung cấp đề được ghi mã số chứ không ghi
tên ông/bà (hoặc con ông/bà). Chỉ có những người tham gia nghiên cứu mới biết số
nào là của ông/bà. Thông tin sẽ bị khoá.
Chúng tôi sẽ chia sẻ kiến thức mà chúng tôi có được trong nghiên cứu này với
ông/bà trước khi công bố rộng rãi. Những thông tin bí mật sẽ không được chia sẻ.
Sẽ có cuộc họp nhỏ ở xã, và cuộc họp này sẽ không công bố công khai. Sau đó
chúng tôi sẽ công bố kết quả và số liệu để những người khác quan tâm đến lĩnh vực
này học hỏi được từ nghiên cứu này.
II. CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU
Tôi đã đọc và hiểu thông tin trên đây, đã có cơ hội xem xét và đặt câu hỏi về
thông tin liên quan đến nội dung trong nghiên cứu này. Tôi đã nói chuyện trực tiếp
với nghiên cứu viên và được trả lời thỏa đáng tất cả các câu hỏi. Tôi nhận một bản
sao của Bản Thông tin cho đối tượng nghiên cứu và chấp thuận tham gia nghiên cứu
này. Tôi tự nguyện đồng ý tham gia.
Chữ ký của người tham gia:
Họ tên___________________ Chữ ký ___________________
Ngày tháng năm_________________
Chữ ký của người làm chứng hoặc của người đại diện hợp pháp (nếu áp dụng):
Họ tên___________________ Chữ ký ___________________
Ngày tháng năm_________________
Chữ ký của Nghiên cứu viên/người lấy chấp thuận:
Tôi, người ký tên dưới đây, xác nhận rằng bệnh nhân/người tình nguyện tham gia
nghiên cứu ký bản chấp thuận đã đọc toàn bộ bản thông tin trên đây, các thông tin
này đã được giải thích cặn kẽ cho Ông/Bà và Ông/Bà đã hiểu rõ bản chất, các nguy
cơ và lợi ích của việc Ông/Bà tham gia vào nghiên cứu này.
Họ tên ___________________ Chữ ký ___________________
Ngày tháng năm_________________
Phụ lục 13. BỘ SINH PHẨM CHẨN ĐOÁN KÝ SINH TRÙNG CỦA
CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT THƯƠNG MẠI HÓA CHẤT VIỆT SINH
Phụ lục 14. MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC HIỆN TRONG ĐỀ TÀI
Trạm y tế xã Đức Chánh
Trạm y tế xã Đức Phong
Phỏng vấn KAP Lấy máu xét nghiệm
Lấy mẫu đất xét nghiệm Xét nghiệm đất
Tập huấn phòng chống bệnh ATGĐC
Phát tờ rơi tại Trường tiểu học
Băng rôn tại Trạm y tế xã Băng rôn tại Trường tiểu học
Phát tờ rơi tại hộ gia đình
Vãng gia tại hộ gia đình
Phát thuốc tẩy giun cho chó
Giám sát tại hộ gia đình
Họp trưởng khu dân dư, đoàn thể