BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
TRẦN THỊ DIỄM HẠNH
ĐẶC ĐIỂM CA TỪ TRONG HÁT XOAN PHÚ THỌ
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 9.22.90.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. TẠ VĂN THÔNG
2. PGS.TS. ĐẶNG THỊ HẢO TÂM
Hà Nội - 2020
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nghiên cứu, số liệu trình bày trong luận án là trung thực, những kết
luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Nội dung luận án có tham khảo và sử dụng ngữ liệu được
trích dẫn từ các tác phẩm và nguồn tư liệu đăng tải trên các trang thông tin
điện tử theo danh mục tài liệu của luận án.
Tác giả luận án
Trần Thị Diễm Hạnh
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn Thầy Cô thuộc Bộ môn Ngôn ngữ thuộc Khoa
Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đã chỉ dạy và dành những ý kiến
đóng góp quý báu cho đề tài nghiên cứu này.
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy Tạ Văn
Thông và Cô Đặng Thị Hảo Tâmđã hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận án.
Nhân dịp này, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, tổ Văn và các
đơn vị liên quan của trường THPT Chuyên Hùng Vương, Phú Thọ; Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ; Nhạc viện Quốc gia Việt Nam tại Hà
Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã chia sẻ, động
viên và tiếp thêm nghị lực để tôi hoàn thành luận án.
Hà Nội, tháng năm 2021
Tác giả luận án
Trần Thị Diễm Hạnh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1.Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2.Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 2
3.Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
6.Những đóng góp của luận án ....................................................................... 6
7. Cấu trúc của luận án ................................................................................... 6
CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU;CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .............................................................................. 7 1.1.Tổng quan về tình hìnhnghiêncứu về ca từ trong hát Xoan Phú Thọ ........... 7
1.1.1.Những nghiên cứu về “ca từ” nói chung ............................................. 7
1.1.2. Những nghiên cứu về hát Xoan Phú Thọ ......................................... 12
1.2. Cơ sở lí luận ........................................................................................ 23
1.2.1. Cơ sở ngôn ngữ học ......................................................................... 23
1.2.2. Cơ sở văn hóa học ........................................................................... 44
1.3.Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 53
1.4. Tiểu kết
CHƯƠNG 2.ĐẶC ĐIỂM CA TỪ HÁT XOAN PHÚ THỌXÉTVỀ MẶT HÌNH THỨC ................................................................................... 54 2.1. Kết cấu “đoạn” của văn bản hát Xoan ............................................... 54
2.1.1. Dạng kết cấu một đoạn .................................................................... 54
2.1.2. Dạng kết cấu hai đoạn ..................................................................... 57
2.1.3. Dạng kết cấu ba đoạn ...................................................................... 59
2.2. Thể trong hát Xoan ............................................................................. 61
2.2.1. Thể 4 tiếng và biến thể .................................................................... 62
2.2.2. Thể lục bát và biến thể ..................................................................... 66
2.2.3. Thể thất ngôn và biến thể................................................................. 71
2.2.4. Thể song thất lục bát và thể tự do .................................................... 75
2.3. Vần trong hát Xoan ............................................................................. 77
2.3.1.Vần trong một khổ ............................................................................ 78
2.3.2.Vần giữa các khổ .............................................................................. 79
2.4. Nhịp và sự hòa phối thanh điệu hát Xoan .......................................... 81
2.4.1. Nhịp ................................................................................................ 81
2.4.2. Sự hòa phối thanh điệu .................................................................... 85
2.5.Tiểu kết ................................................................................................. 88
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM CA TỪHÁT XOAN PHÚ THỌ XÉT VỀ
MẶT NGỮ NGHĨA .................................................................................... 90
3.1. Ngữ nghĩa qua hệ thống tiêu đề các bài hát Xoan ............................. 90
3.1.1. Tiêu đề trong mối quan hệ với đề tài ............................................... 90
3.1.2. Đề tài và mạch lạc trong ca từ hát Xoan .......................................... 94
3.2. Các trường từ vựng trong ca từ hát Xoan ...................................... 100
3.2.1. Trường từ vựng “con người” .......................................................... 100
3.2.2. Trường từ vựng“thời gian” ............................................................ 118
3.2.3. Trường từ vựng “vũ trụ” ................................................................ 121
3.2.4. Trường từ vựng “thực vật” ............................................................ 126
3.2.5. Trường từ vựng “động vật” ........................................................... 127
3.2.6. Trường từ vựng “lễ hội” ................................................................ 129
3.3. Một số biểu tượng ngôn ngữ - văn hóa trong hát Xoan ....................... 131
3.3.1. Một số biểu tượng trong ca từ hát Xoan ............................................ 131
3.3.2. Một số nhận xét .............................................................................. 147
3.4. Tiểu kết .............................................................................................. 148
KẾT LUẬN ............................................................................................... 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 153
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Danh sách các làng, xã có phường hát Xoan ở tỉnh Phú Thọ và
Vĩnh Phúc ................................................................................... 46
Bảng 2.1. Đoạn và sự phân loại các bài hát Xoan ....................................... 54
Bảng 2.2. Mô hình kết cấu một đoạn gồm 3 trổ .......................................... 55
Bảng 2.3. Mô hình kết cấu hai đoạn trong hát Xoan ................................... 58
Bảng 2.4. Tên gọi và nội dung 3 đoạn ........................................................... 59
Bảng 2.5. Mô hình kết cấu ba đoạn trong hát Xoan .................................... 60
Bảng 2.6. Thể và sự phân loại các bài hát Xoan .......................................... 61
Bảng 2.7. Số dòng 4 tiếng và dòng biến thể 5 - 6 tiếng trong hát Xoan ....... 63
Bảng 2.8. Số dòng 4 tiếng và các dòng biến thể 7 tiếng trở lên ................... 64
Bảng 2.9. Các bài hát Xoan thể lục bát và biến thể ...................................... 67
Bảng 2.10. Các bài hát và số dòng biến thể trong thể lục bát.......................... 69
Bảng 2.11. Các bài hát Xoan thể thất ngôn và biến thể của thất ngôn ................. 71
Bảng 2.12. Các bài hát Xoan thể tự do .......................................................... 77
Bảng 2.13. Các loại vần trong bài hát Xoan .................................................. 78
Bảng 2.14. Các loại vần trong một khổ ............................................................ 78
Bảng 2.15. Cách phân nhịp phổ biến theo thể trong bài hát Xoan ..................... 81
Bảng 2.16. Số dòng phối thanh đúng luật và thất luật ................................... 86
Bảng 2.17. Số dòng phối đúng luật BT chia theo thể .................................... 86
Bảng 2.18. Số dòng phối thanh thất luật BT ................................................. 87
Bảng 3.1. Nhan đề các bài hát Xoan ứng với đề tài ..................................... 93
Bảng 3.2. Từ ngữ thuộc các trường từ vựng .............................................. 100
Bảng 3.3. Số lượng từ ngữ các tiểu trường thuộc trường “con người” ........ 101
Bảng 3.4. Tiểu trường từ vựng “tình thái” .................................................. 102
Bảng 3.5. Tiểu trường “hoạt động” của con người ..................................... 108
Bảng 3.6. Tiểu trường từ vựng “địa vị xã hội” ............................................ 112
Bảng 3.7. Tiểu trường từ vựng “giới tính” .................................................. 114
Bảng 3.8. Tiểu trường từ vựng “nghề nghiệp” ............................................ 116
Bảng 3.9. Tiểu trường từ vựng “bộ phận cơ thể người” .............................. 117
Bảng 3.10. Trường từ vựng“thời gian” ....................................................... 118
Bảng 3.11. Tiểu trường từ vựng “thời gian – mùa” ..................................... 119
Bảng 3.12. Trường từ vựng “vũ trụ” ........................................................... 122
Bảng 3.13. Tiểu trường từ vựng “sự vật, hiện tượng tự nhiên” ..................... 122
Bảng 3.14. Tiểu trường từ vựng “không gian” ............................................ 123
Bảng 3.15. Trường từ vựng “thực vật” ....................................................... 126
Bảng 3.16. Trường từ vựng “động vật” ...................................................... 127
Bảng 3.17. Trường từ vựng “lễ hội” ........................................................... 129
Bảng 3.18. Một số biểu tượng nổi bật trong ca từ hát Xoan ........................ 131
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn học dân gian
từ góc nhìn Ngôn ngữ học đã có lịch sử lâu dài và đạt được những thành tựu
đáng kể.Nhưng nghiên cứu ca từ của một thể loại dân ca vùng miền thì vẫn
còn một khoảng trống lớn cần được lấp đầy. Đây là một hướng đi nhiều triển
vọng, hấp dẫn và hứa hẹn những thành tựu mới.
1.2. Hát Xoan là hình thức nghệ thuật diễn xướng tổng hợp: ca – múa -
nhạc, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng; là di sản văn hóa phi vật thể
quý báu của vùng đất Tổ Phú Thọ nói riêng và của kho tàng di sản văn hóa dân
tộc Việt Nam nói chung. Đây là hình thức dân ca được sinh ra ở một vùng văn
hóa cổ, mang đậm tính nghi lễ, phong tục - còn gọi là hát cửa đình hay “khúc
môn đình”, được trình diễn vào hội làng mùa xuân. Lối hát này có bề dày lịch
sử, có tổ chức phường hội chặt chẽ, không gian văn hóa rộng lớn và từng có sức
lan tỏa mạnh mẽ khắp cộng đồng. Hát Xoan Phú Thọ đã được UNESCO vinh
danh là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại vào ngày 3 – 2 năm
2018.
1.3. Cũng như nhiều di sản văn hóa phi vật thể khác, hát Xoan đang đứng
trước sự tiếp biến văn hóa và nguy cơ mai một. Các nghệ nhân hát Xoan lâu
đời (các cụ trùm Xoan - những báu vật nhân văn sống, những người lưu giữ
nghệ thuật trình diễn hát Xoan)không còn nhiều. Điều này ảnh hưởng rất lớn
đến quá trình truyền dạy di sản này cho các thế hệ kế tiếp. Các bài bản Xoan
gốc nhiều năm đã bị mai một, hiện tại không tránh khỏi “tam sao thất bản”,
làm mất đi tính nguyên gốc của di sản hoặc diễn xướng không đầy đủ nội
dung.
Tìm hiểu và nghiên cứu ca từtrong các bài hát Xoan Phú Thọ giúp chúng
ta hiểu biết thêm được cái hay, cái đẹp, sự độc đáo trong loại hình âm nhạc dân
2
gian này, từ đó góp phần giới thiệu, tôn vinh những giá trị văn hóa của di sản
phi vật thể đại diện nhân loại. Việc làm này còn nhằm khẳng định những tâm
huyết, tài năng của các nghệ sĩ dân gian Việt trong sáng tạo nghệ thuật; đồng
thời góp phần quan trọng lí giải sự hấp dẫn đặc biệt của loại hình nghệ thuật
hát Xoan từ góc nhìn Ngôn ngữ học.
Xuất phát từ những lí do trên, luận án đã lựa chọn đề tài “Đặc điểm ca
từtronghát Xoan Phú Thọ” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu
Từ góc nhìn của Ngôn ngữ học, để tìm hiểu đặc điểm ca từ trong hát
Xoan Phú Thọ, luận án đặt ra mục đích nghiên cứu nhằm góp phần chứng tỏ
những nét đặc sắc, những biểu hiện độc đáo về ngôn ngữ - văn hóa của nghệ
thuật hát Xoan.
Qua đó, từng bước làm lộ diện những giá trị đẹp đẽ của mạch nguồn văn
hóa dân gian của người Việt.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài.
- Khảo sát và tập hợp tư liệu có liên quan về hát Xoan.
- Miêu tả đặc điểm ca từ trong hát Xoan Phú Thọtrên hai phương diện:
hình thức (các hình thức kết cấu văn bản, thể, vần, nhịp, sự hòa phối thanh
điệu) và ngữ nghĩa(tiêu đề, các trường từ vựng, một sốbiểu tượng ngôn ngữ
trong ca từ hát Xoan).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung xem xét lời bài hát (ca từ)trong 42 bài hát Xoan Phú
Thọ. 42 bài hát Xoan này được thu thập từ các nguồn: văn bản đã được các nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian sưu tầm và ghi chép lại; các văn bản đã được xuất
bản trước đây và hiện tại; các bài hátphổ biến được diễn xướng tại các làng
Xoan, cuộc thi hát Xoan ởcác địa phương tỉnh Phú Thọ.
3
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là các đặc điểm về mặt hình thức (kết
cấu văn bản, thể, vần, nhịp, sự hòa phối thanh điệu) và các đặc điểm về mặt
ngữ nghĩa (tiêu đề, trường từ vựng và một số biểu tượng ngôn ngữ).
Phạm vi nguồn ngữ liệu của luận án là ca từ của 42 bài hát Xoan Phú
Thọ trong 7 công trình được kể tên ở dưới. Tổng số bài trong 7 công trình này
là 115. Trong quá trình thu thập, sưu tầm và đi điền dã các làng Xoan ở địa
phương, tác giả luận án thấy có sự trùng hợp của 73 bài chúng tôi nênchọn 42
bài. Căn cứ để tác giả luận án chọn những bài này vì đây là 42 bài được hát
nhiều nhất, phổ biến nhất và đặc sắc nhất. Các con số ở từng công trình là các
con số biểu hiện cho số bài hát được dẫn [xem PL 3 & PL4]. Cụ thể 7 công
trình đó là:
1. Hát Xoan – dân ca nghi lễ phong tục (Tú Ngọc, NXB Âm nhạc, 1997) (lấy
5/12 bài).
2.Hát Xoan Phú Thọ (Nguyễn Khắc Xương, Sở VH – TT & DL Phú Thọ,
1998) (8 bài)
3. Tổng tập văn học dân gian Đất Tổ (Nhiều tác giả, Tập 4, Sở VH – TT &
DL Phú Thọ, 2005) (16 bài)
4 .Tuyển chọn những làn điệu hay và đặc sắc hát Xoan, hát Ghẹo, Ả đào,
Trầu văn(Tuấn Giang, NXB Thanh niên, 2009) (7 bài)
5. Hát Xoan, Dân ca cội nguồn (Dương Huy Thiện, NXB Khoa học xã hội,
2015) (lấy 26/26 bài)
6.Tổng tập hát Xoan Phú Thọ (Nhiều tác giả, Sở VH TT & DL Phú Thọ,
2018) (lấy 6/21 bài)
7. Tổng tập nghiên cứu về hát Xoan Phú Thọ (Viện Âm nhạc, NXB Văn hóa
dân tộc, 2017) (lấy 5/21 bài)
Tác giả đã sử dụng 26 bài của công trình số 5; 5 bài ở công trình số 1; 6
4
bài ở công trình số 6và 5bài ở công trình số 7. Trong đó, 26 bài ở công trình
số 5 đã được khảo sát cụ thể [X pl6]. Các bài hát Xoan ởPhần ca từ trong các
công trình 2, 3, 4đểtham khảo trong quá trình khảo sát.
Tính đến thời điểm hiện nay thì đây là các nguồn tư liệu mới nhất, đầy đủ
nhất về hát Xoan Phú Thọ.Toàn bộ phần khảo sát và các bảng số liệu cũng như
các nhận xét và kết luận của đề tài đều được tổng kết từ phạm vi nguồn ngữ liệu
này.
5. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu
5.1. Ngôn ngữ học điền dã
Tiến hành nghiên cứu đề tài, tác giả đã đi thực tế ở các làng Xoan được
cho là các làng Xoan gốc tại các xã An Thái, Kim Đức (thành phố Việt Trì),
làng Xoan Cao Mại (huyện Lâm Thao), làng Xoan An Đạo, Phù Ninh (huyện
Phù Ninh), làng Xoan Hương Nộn (huyện Tam Nông). Tác giả đã gặp gỡ, trò
chuyện và phỏng vấn các nghệ nhân hát Xoan lão thành (Nghệ nhân ưu tú
Nguyễn Thị Lịch, phường Xoan An Thái;nghệ nhân Nguyễn Văn Lợi,
phường Xoan Phượng Lâu; nghệ nhân Nguyễn Xuân Hội, phường Xoan Kim
Đức; nghệ nhân Lê Thị Tú, phường Xoan Kim Đức; nghệ nhân Nguyễn Văn
Bình, phường Xoan Hương Nộn; nghệ nhân Vũ Văn Dinh, phường Xoan Tiên
Du; nghệ nhân Trần Thị Bạch Lê, phường Xoan Cao Mại,...), được xem và
nghe biểu diễn các tiết mục Xoan; thưởng thức các tiết mục hát Xoan tại các
Hội diễn, Hội thi hát Xoan được tổ chức tại thành phố Việt Trì và tỉnh Phú
Thọ trong thời gian các năm từnăm 2015 – 2019.
5.2. Phân tích - miêu tả
5.2.1. Phân tích nghĩa
Luận án sẽ tiến hành phân tích nghĩa của các từ thuộc cùng một trường
từ vựng, nhằm tách ra những đặc trưng ngữ nghĩa khu biệt của từ, nhóm từ
dựa trên nguyên tắc đối lập lưỡng phân các từ vị, kết hợp với sự căn cứ vào
5
ngữ cảnh (bài, đoạn, trổ, khổ, dòng,...) hát Xoan. Phương pháp này giúp tìm
ra cấu trúc ngữ nghĩa chung của các đơn vị ngôn ngữ được nghiên cứu.
Phương pháp này sẽ được chúng tôi sử dụng trong chương 2 và chương 3.
5.2.2. Miêu tả
Luận án miêu tả kết hợp với phân tích mô hình các bài thơ (bài hát
Xoan), miêu tả về khổ thơ với thanh điệu bằng – trắc, cách gieo vần, ngắt
nhịp. Luận án tiến hành mô tả có định lượng để có những nghiên cứu định
tính về vần, nhịp và sự phối hợp thanh điệu của ca từ trong hát Xoan Phú Thọ.
Phương pháp miêu tả cũng được dùng để chỉ ra tính quy luật của ngữ nghĩa
(ngữ nghĩa qua hệ thống tiêu đề, các trường từ vựng, biểu tượng) trong hát
Xoan.
5.3. Phân tích diễn ngôn
Sử dụng phương pháp này, luận án nhằm tìm những kiểu lựa chọn và
kết hợp tiêu biểu để chỉ ra giá trị của ca từ hát Xoan trong quá trình diễn
xướng. Trong khi vận dụng phương pháp này, luận án luôn quan tâm đến
chức năng thẩm mĩ của ca từ hát Xoan trong mối quan hệ với toàn bộ cuộc
diễn xướng hát Xoan và các yếu tố của ngữ cảnh, đặc biệt là nhân tố chủ thể
văn hóa.
5.4. Nghiên cứu liên ngành
Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu và tư liệu khảo sát của luận án liên
quan đến tác phẩm âm nhạc dân gian (phần lời trong các bài hát dân ca) nên
ngoài những tri thức ngôn ngữ làm nền tảng, luận án có sử dụng một số tri
thức và kĩ năng của một số ngành khác như: văn học dân gian, âm nhạc dân
gian, văn hóa học, lịch sử.
5.5. Thủ pháp thống kê, phân loại
Đây là thủ pháp hỗ trợ cho phương pháp phân tích - miêu tả. Thủ pháp
này sẽ được sử dụng trong chương 2 và chương 3.
6
6. Những đóng góp của luận án
- Về mặt lý luận:
Những kết quả đạt được của luận án có thể làm phong phú hơncho
những nghiên cứu về ca từ của một thể loại dân ca vùng miền trên đất
nước.Hướng nghiên cứu của đề tài có thể vận dụng trong nghiên cứu ca từ của
các tác phẩm âm nhạc có lời (dân gian và hiện đại)của Việt Nam từ góc nhìn
Ngôn ngữ học.
- Về mặt thực tiễn:
Những kết quả đạt được của luận án có thể giúp giải mã sức hấp dẫn,
sự độc đáo, giá trị của loại hình âm nhạc hát Xoan Phú Thọ dưới góc độ
Ngôn ngữ học.Đây cũng có thể là một đóng góp làm giàu thêm cho phần tư
liệu và cách nhìn nhận, đánh giá về di sản hát Xoan.
Các kết quả của luận án có thể là những tiền đề lí luận để địa phương
Phú Thọ xây dựng chương trình và sách giáo khoa dạy hát Xoan trong các
cấp học phổ thông theo hướng lồng ghép vào bộ môn Âm nhạcvà phân bố
trong chương trình giáo dục địa phương.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận
án gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu: cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Đặcđiểm ca từhát Xoan Phú Thọ xét về mặt hình thức.
Chương 3: Đặc điểm ca từhát Xoan Phú Thọ xét về mặt ngữ nghĩa.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan về tình hìnhnghiêncứu về ca từtrong hát Xoan Phú Thọ 1.1.1. Những nghiên cứu về “ca từ”nói chung
1.1.1.1. “Ca từ”là gì?
Khái niệm ca từ(lyric - lời ca, lời bài hát) xuất phát từ tiếng
Latin (lyricus) và từ Hy Lạp (λυρικός - lyrikós ), hình thức tính từ của đàn
Lia. Nó xuất hiện lần đầu trong tiếng Anh trong giữa thế kỷ thứ XVI trong
một tài liệu do Bá tước Bernard Surrey soạn thảo. Khái niệm này lần đầu tiên
được tác giả Stainer và Barrett sử dụng vào năm 1876 trong tác phẩm “Từ
điển các thuật ngữ âm nhạc”: “Ca từ(Lyric) là lời thơ hay câu trống dự định
sẽ được đặt vào âm nhạc và hát lên"[dt 135].
Vào những năm 1930, khái niệm “ca từ”bắt đầu được sử dụng rộng rãi
hơn; và được tiêu chuẩn hóa kể từ những năm 1950. “Ca từ” (lyric – lời bài
hát)được coi là phần lời, phần ngôn ngữ của các tác phẩm âm nhạc dùng để hát
lên [dt 146].
Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã viết: “Ca từ là biểu tượng sự thuần
khiết nhất, tượng trưng cho sự biểu hiện của bản thểtự suy nghĩ và tự thể hiện
mình, hoặc được thấu hiểu và được giao hòa với một bản thể khác” [35, tr. 528].
Tác giả Lauren Meeker cho rằng: “Ca từ là chất liệu, là tín hiệu vật chất
nhìn thấy được của một bài ca…là phần hồn của bài ca ấy” [145, tr.73].
Ở Việt Nam, khái niệm “ca từ” có những cách hiểu và định nghĩa khác
nhau. Theo Từ điển tiếng Việt thì “ca từ là lời của bài hát” [92, tr. 97]. Phan
Ngọc cho rằng “nói đến ca từ tức là nói đến mặt lời của âm nhạc…chủ yếu là
lời thơ” [78, tr.78]
8
Tác giả Dương Viết Á định nghĩa: “Ca từ là một thuật ngữ với nội dung
khái niệm khá rộng, kể từ nhỏ như tên gọi, tiêu đề, lời đề từ, ghi chú, chỉ
dẫn…đến như lời ca, kịch bản của nhạc cảnh, nhạc kịch, kịch hát truyền
thống…”[1, tr.21].
Vũ Tự Lân quan niệm: “Ca từ sẽ bao gồm: phần tiêu đề, đề từ, ghi chú,
chỉ dẫn và phần lời ca. Trong đó tên gọi của bài hát có thể ngắn, có thể dài, có
thể vừa mang tính định hướng, vừa mang tính gợi mở. Còn về lời ca sẽ là tất
cả những từ, những ngữ được ca lên, hát lên, nghĩa là được vang lên theo cao
độ, trường độ, cường độ… ghi trên bản phổ các ca khúc” [68, tr.49].
Như vậy, từ các quan niệm trên, luận án cho rằng“ca từ” là tất cả phần
ngôn ngữ nghệ thuật trong bài hát bao gồm nhan đề và phần lời để hát.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về“ca từ” trong tác phẩm âm nhạc dân gian
i/ Ngoài nước
Trên thế giới, có một số quan điểm nghiên cứu khác nhau về ca từ trong
các tác phẩm âm nhạc dân gian. Có thể điểm qua một số ý kiến nổi bật sau:
Theo Marcia Herndon: “Hai yếu tố trong tổ chức âm thanh của một
ngôn ngữ - cao độ và trường độ - có ảnh hưởng tực tiếp lên bản chất của sự
hát. Những khía cạnh của sự hát như diễn biến của âm điệu, tính đơn điệu (sự
lặp lại ở một mức độ cao duy nhất), ca từ (sự sử dụng những âm tiết không có
trong ngữ vực được phát thành âm), kiểu gam và biên độ (khoảng cao độ), tất
cả đều biến đổi theo ngôn ngữ đó là ngôn ngữ thiên về trường độ (như tiếng
Hán), hay ngôn ngữ thiên về cao độ (như tiếng Anh) [103, tr.82 – 83].
Ruth Finnegan viết về mối quan hệ giữa ca từ với phương thức diễn
xướng trong âm nhạc dân gian như sau: “Cái được truyền bá (ca từ) hoàn toàn
không phải là các lời văn ghi trong trí nhớ mà là các mớ các công thức thuộc
đủ mọi cấp độ (từ các dòng viết cho tới các tình tiết quan trọng, đề tài và
khuôn mẫu…mà nhà thơ viện vào phục vụ cho cuộc diễn xướng mang tính
9
sáng tạo của mình. Đó thực sự là một phương thức truyền miệng của sự sáng
– tác - khi - diễn - xướng, trong đó, khác với lời văn dạng viết, không có khái
niệm về một phiên bản chính xác” [103, tr.263].
Beverly J. Stoeltje chỉ ra mối quan hệ giữa ca từ, âm nhạc với nghệ
thuật múa trong lễ hội dân gian như sau: “…Các điệu múa bao gồm cả âm
nhạc và ca từ có thể được diễn xướng vì mục đích tôn giáo, như một phần của
truyền thống dân gian, hoặc như một hành vi xã hội. Phần nhạc, phần lời và
các động tác múa đã ngấm vào lễ hội, sâu tới mức chúng dẫn đầu hầu hết các
hoạt động và chi phối cảm xúc của người tham gia” [104, tr.146].
Hai tác giả Turpin M. & Stebbin T. trong bài tổng quan “The language
of song: some recent approaches in Description and Analysiss” đã viết về ca
từ và các yếu tố liên quan trong các bài hát dân ca ở nước Úc. Bài khảo cứu
17 trang đã đi vào phân tích một cách tỉ mỉ, chi tiết các 29 vấn đề của ca từ và
bài hát gồm: định nghĩa bài hát, hình thức tổ chức và cấu trúc của bài hát, các
yếu tố ngôn ngữ trong bài hát (câu, điệp khúc, câu thơ, khổ, đoạn), nhịp, giai
điệu, ý nghĩa của từ, ý nghĩa của lời bài hát, ý nghĩa tương tác của bài ca,...
Họ đã phân chia: “Cơ cấu tổ chức của một bài hát có thể có phạm vi cả văn bản và âm nhạc. Ví dụ, điệp khúc là một dòng văn bản và giai điệu lặp đi lặp lại. Mặt khác, câu nhạc có giai điệu giống nhau nhưng lời ca khác nhau. Mô hình âm thanh chẳng hạn như vần thường (nhưng không phải luôn luôn) xảy ra ở cuối các ca từ... Riêng thành phần âm nhạc có thể có cấu trúc riêng của nó. Ví dụ, cao độ của nốt nhạc bị giới hạn bởi cấu trúc âm sắc của thể loại âm nhạc cụ thể hoặc hệ thống âm nhạc của người nghe được kết hợp với văn hóa” [146].
Như vậy những nghiên cứu về ca từ trong các tác phẩm âm nhạc dân
gian trên thế giới thường từ góc nhìn từ lĩnh vực âm nhạc. Các nhà nghiên
cứu thường đặt ca từ trong mối quan hệ với các yếu tố khác như vũ đạo, âm
nhạc, tiết tấu và diễn xướng.
ii/ Ở Việt Nam
10
Ở nước ta,những nghiên cứu về ca từđã có trong các công trình [1], [2],
[5], [10], [32],[36], [41], [61], [68], [70], [73],[74], [76], [80] và [84].
Dương Viết Á nghiên cứu về ca từ ở Ca từ trong âm nhạc Việt Nam[1].
Một số nội dung mà tác giả đã làm rõ như: mối quan hệ giữa ca từ với thơ ca
và âm nhạc; vai trò, chức năng và đặc trưng của ca từ; tính khuynh hướng
trong ca từ; tính dân tộc trong ca từ; và thi pháp trong ca từ...
Các tác giả như Vũ Tự Lân [68], Thụy Loan [70], Phạm Phúc Minh
[74], Huyền Nga [76], Tú Ngọc [79], [80]... - những nhạc sĩ, nhà nghiên cứu
âm nhạc - cũng có những một số nhận định về ca từ trong các tác phẩmhoặc
trong nhiều giai đoạn khác nhau. Đây là những công trình nghiên cứu ca từ
dưới góc độ của lĩnh vực âm nhạc, lịch sử, văn hóa dân gian, dân tộc học…
Tất cả những công trình kể trên đều có liên quan ở các mức độ khác
nhau đếnca từ trong ca khúc; nhưng công trình tập trung chuyên sâu vào ca từ
dưới góc độ Ngôn ngữ học là rất ít.Trong số ít những công trình về lĩnh vực
này, có thể kể tới một số công trìnhcủa Trần Kim Phượng [128], Nguyễn Thị
Bích Hạnh [39], Trần Anh Tư [114],...
Trước hết cần nhắc tới các nghiên cứuBiểu tượng ngôn ngữ trong ca từ
Trịnh Công Sơn và Hệ thống biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc
độ ngôn ngữ học tri nhận của tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh. Trong các tác
phẩm này, tác giả chủ yếu tìm hiểu và nghiên cứu các hệ thống biểu tượng (từ
mẫu gốc văn hóa đến những biểu tượng trực quan) trong ca từ của nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn dưới góc độ của Ngôn ngữ học tri nhận. Tác giả đã xác định
hướng đi cụ thể như sau: chỉ rõ hệ thống các biểu tượng trong ca từ nhạc
Trịnh Công Sơn, từ đó chứng minh mối liên hệ về mặt nguồn gốc của biểu
tượng gắn với các quan niệm triết học, tôn giáo, văn hóa của nhân loại. Đồng
thời, tác giả cũng làm rõ sự kế thừa, sáng tạo để lại hình thành nên những ý
nghĩa biểu trưng của hệ biểu tượng cũng như các biến thể trong ca từ của nhạc
11
sĩ. Trên cơ sở phân tích sự kế thừa và chuyển đổi ý nghĩa của biểu tượng theo
hướng lịch đại, tác giả đã so sánh và đối chiếu trên mặt đồng đại, xác định
hướng nghĩa biểu trưng chủ yếu của hệ biểu tượng trong ca từ Trịnh Công
Sơn. Sau đó, tác giả đã chỉ ra bản chất sự tồn tại của các biểu tượng ngôn ngữ
trong ca từ của nhạc sĩ, ý nghĩa biểu trưng và mức độ khái quát của từng biểu
tượng. Từ đó, tác giả đã tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của nhạc sĩ về con
người, tình yêu và cõi thế.
Tìm hiểu về ca từ dưới góc nhìn Ngôn ngữ còn phải kể đến bài viết
Những kết hợp bất thường trongca từ Trịnh Công Sơn nhìn từ góc độ ngữ
pháp của Trần Kim Phượng [128]. Tác giả bài viết đã đi vào tìm hiểu bất
thường trong ca từ Trịnh Công Sơn ở các cụm danh từ (đảo trật tự các thành
tố, dùng danh từ đơn vị mang tính chất lạ hóa, dùng các định ngữ mang tính
bất thường); cụm động từ; cụm tính từ (kết hợp so sánh sắc màu của Trịnh);
sự chuyển hóa từ loại và những kết hợp bất thường trong cấu trúc câu (dưới
dạng định nghĩa, quan hệ bất thường về nghĩa giữa chủ ngữ và vị ngữ, đảo trật
tự cú pháp). Bài viết ghi nhận ở nhạc sĩ này một mẫn cảm ngôn ngữ tuyệt
diệu. Bằng những kết hợp lạ lẫm, những so sánh bất ngờ, những sắp xếp độc
đáo, thông qua một tri giác bén nhạy, nhiều tầng, đa chiều kích, và với một
tâm hồn lãng mạn của một thi sĩ, Trịnh Công Sơn đã làm phong phú thêm kho
tàng ngôn ngữ Việt.
Ngoài ra luận án Tiến sĩMối quan hệ giữa thanh điệu trong ca từ với
giai điệu của hát ví Nghệ Tĩnh của Trần Anh Tư [114]cũng góp thêm một
tiếng nói cho nghiên cứu về ca từ dưới góc độ Ngôn ngữ học. Tác giả đã
khẳng định:trong hát ví Nghệ Tĩnh, tần số xuất hiện của thanh bằng lớn hơn
nhiều so với thanh trắc. Điều này tạo nên đặc điểm trong âm hưởng chính của
giai điệu hát ví Nghệ Tĩnh là nhiều cung bậc trầm bổng, du dương, luyến láy
và hạn chế được những khó khăn trong quá trình phát âm, sự thay đổi đột
12
ngột về cao độ của giai điệu. Tác giả cũng cho rằng trong hát ví Nghệ Tĩnh,
thanh ngã và thanh nặng gần như không có sự phân biệt về cao độ. Khác với
dân ca Bắc Bộ, làn điệu hát ví nằm ở âm khu thấp như đặc điểm giọng nói
nặng và trầm của ngữ âm xứ Nghệ.
Bên cạnh đó còn một số công trình ít nhiều có liên quan đến đề tài luận
án như: Đặc trưng hình thức các thể thơ dân gian Nghệ Tĩnh của Ngô Văn
Cảnh [12]; Đặc điểm ngôn ngữ giới tính trong hát phường vải Nghệ Tĩnh của
Nguyễn Thị Mai Hoa [45]; Đặc điểm hình thức ngữ nghĩa thơ ca dân gian
Quảng Nam của Bùi Thị Lân [65], v.v.
Như vậy, lịch sử nghiên cứu về ca từ dưới góc nhìn Ngôn ngữ học chưa
có bề dày và kết quả còn hạn chế. Điều này cho thấy sự cần thiết có thêm các
công trình tìm hiểu về ca từ trong các tác phẩm âm nhạc có lời ở Việt Nam
nhất là vốn dân ca, nhạc cổ truyền.
1.1.2. Những nghiên cứu vềhát Xoan Phú Thọ
1.1.2.1. Trên các phương diện văn hóa, lịch sử, xã hội và nghệ thuật
Việc sưu tầm và tìm hiểu về hát Xoan ở Việt Nam được thực hiện từ
cuối những năm 1950. Trong những năm gần đây, kể từ khi hát Xoan được
UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp (2011)
rồi trở thành Di sản văn hóa đại diện của nhân loại (2018) thì hát Xoan đã trở
thành đối tượng thu hút nhiều sự quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu từ nhiều
góc độ khác nhau. Cho đến nay, đã có không ít các bài viết, công trình, sách
xuất bản mang tính tổng hợp hay chuyên sâu đề cập đến các khía cạnh khác
nhau của hát Xoan Phú Thọ.
Ngoại trừ các tài liệu tập trung viết về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, còn
lại phần lớn các tài liệu đều chung một nội dung mang tính giới thiệu khái
quát. Các công trình này đã điểm qua hoặc khảo sát về nguồn gốc, địa bàn
diễn xướng, lịch trình, tổ chức sinh hoạt ca hát, quy cách hát, nội dung mỗi
đoạn trình diễn, làn điệu âm nhạc và múa…với những mức độ khác nhau.
13
Một thành tựu nghiên cứu đáng kể nữa về hát Xoan nữa là các cuộc hội
thảo về hát Xoan. Từ khi hát Xoan được quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu đến
nay đã có 2 hội thảo lớn được diễn ra. Hội thảo về hát Xoan lần thứ I vào
tháng 10 năm 1994. Hội thảo này đã thu hút được 19 bản tham luận của các
nhà nghiên cứu trong nước. Nội dung chính của các bài viết trong Hội thảo
chủ yếu đặt vấn đề về thể loại trong sự phân biệt giữa hát Xoan và hát Ghẹo
Phú Thọ. Cụm từ “hát Xoan Ghẹo” thường được nhắc lại nhiều lần.
Hội thảo về hát Xoan lần thứ II là Hội thảo Khoa học Quốc tế diễn ra
ngày 16/1/2010. Hội thảo có 33 bản tham luận của các nhà khoa học trong
nước và 11 bản tham luận của các nhà khoa học nước ngoài.Chủ đề của cuộc
Hội thảo là: xác định nguồn gốc, tên gọi, nét đặc sắc, giá trị của hát Xoan;
một số bài học kinh nghiệm để bảo tồn và làm lan tỏa các giá trị của hát
Xoan; so sánh hát Xoan với các loại hình âm nhạc dân gian của Lào, Thái
Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc,...
Tại Hội thảo lần thứ II, trong các bài viết của các nhà nghiên cứu nước
ngoài, có thể một số ý kiến nổi bật sau:
Sheen Dae Cheol (Hàn Quốc) chú ý tới các biểu tượng trong hát Xoan.
Ông đã viết: Tôi rất thích thú cảnh hát Đúm, Mó cá… vì nó thể hiện tín
ngưỡng phồn thực, đạt giá trị thẩm mĩ cao”. Hiểu về các Quả cách rất hay
nhưng xin nhắc các bạn phải giới thiệu ý nghĩa biểu tượng của những quả
cách với khách nước ngoài để họ cảm nhận hát Xoan tốt hơn” [147, tr.60].
Xiao Mie (Trung Quốc) dành nhiều ý kiến cho hát Xoan với đạo cụ và
nhạc cụ đi kèm: “Tôi ấn tượng với việc sử dụng trống và nhạc cụ gõ bằng tre
trong hát Xoan bởi nó rất gần với đời sống nông dân – với số đông người
tham gia…Hát Xoan do vậy phổ biến ở vùng nông thôn từ lâu năm. Với sự kết
hợp giữa biểu diễn nhạc cụ và lời ca của con người, cộng thêm sự chuẩn bị kĩ
lưỡng của các nghệ sĩ nên những tác phẩm tạo ra đã thu hút được nhiều khán
14
giả”[147, tr.63].
Tác giả Panikos G. Giorgoudes (Hy Lạp) đã nhấn mạnh: “hát Xoan là
một trường hợp điển hình của dân ca vùng châu thổ Bắc Bộ Việt Nam kết hợp
tổng hợp các yếu tố như ca, múa, kịch. Nó là trường hợp sân khấu sơ khai
của lịch sử châu Á. Nó cần được bảo vệ và làm lan tỏa bằng nhiều cách khác
nhau” [147, tr.195].
Các nhà nghiên cứu khác như Gisa Jahnichen (Đức), Triyono
Bramantyo (In- đô – nê – xi - a), Joe Peter (Pháp),… đều có những bài viết
khoa học về hát Xoan ở các lĩnh vực như: đạo cụ, múa, trò diễn [147].
Dựa vào nội dung đặt ra trong các tài liệu, luận án tạm phân tài liệu
theo các mảng vấn đề sau:
a. Những vấn đề lịch sử, xã hội liên quan đến hát Xoan
Những vấn đề lịch sử, xã hội liên quan đến hát Xoan gồm các yếu tố được đề
cập nhiều như: nguồn gốc, tên gọi, lịch trình hát, địa điểm diễn xướng, dân
tộc học, xã hội học, múa hát, trò diễn, v.v. Ở đây, có thể chia nhỏ thành 2
nhóm nhỏ:
Nhóm một về nguồn gốc, tên gọi, mục đích, lịch trình, địa điểm diễn
xướng của hát Xoan. Ở đây, thấy nổi lên 2 phương pháp tiếp cận để xác định
nguồn gốc, tên gọi của hát Xoan. Đó là:
- Tìm hiểu nguồn gốc của hát Xoan thông qua các truyền thuyết lịch sử.
Từ đó nhận định có phải hát Xoan có từ thời Hùng Vương hay không?
Tìm hiểu nguồn gốc, thời gian ra đời và quan hệ họ hàng của hát Xoan với
các loại hình ca hát như hát Cửa đình, hát Nhà tơ, hát Chầu văn, hát Ả
đào.Liên quan đến chủ đề này, có thể kể tới một vài các bài viết trong [70],
[73], [74], [76], [79], [80], [82], [83], [84],[86].
- Tìm hiểu nguồn gốc và quá trình phát triển của hát Xoan qua việc
phân tích những đặc trưng của Xoan như ngôn ngữ, hình thức biểu hiện …để
15
từ đó xác định thời điểm ra đời của Xoan.
Các tài liệu kể trên mang đến hai luồng ý kiến về thời điểm ra đời của
hát Xoan. Một là: hát Xoan hình thành từ khi có những lễ nghi nông nghiệp
trên dải đất của người Việt cổ (thời Hùng Vương dựng nước). Hai là: hát
Xoan ra đời và được hoàn chỉnh chủ yếu vào thời Lê sơ (thế kỉ XV).
Một số tác giả nước ngoài đưa ra những nhận xét về nguồn gốc lịch sử
hát Xoan trong sự so sánh với thời điểm ra đời của các loại hình dân ca của
đất nước khác.
Nhóm haitập trung vào 6 đề tài chính:
- Thứ nhất: mục đích ra đời của hát Xoan [79], [80], [84], [147].
- Thứ hai: tên gọi của Xoan trong [82], [83], [94], [100], [102]
- Thứ ba: địa bàn và lịch trình đi hát của các phường Xoan [94], [100], [102],
[106], [107], [110], [147].
- Thứ tư: cơ cấu tổ chức phường Xoan [80], [84], [94], [100], [102],
[107], [110], [147].
- Thứ năm: các vấn đề liên quan tới tục lệ của hát Xoan [84], [100], [107],
[110], [117], [118]
- Thứ sáu: trang phục của các đào, kép Xoan [100], [115], [118], [124],
[130], [134].
b. Những vấn đề văn hóa, nghệ thuật liên quan đến hát Xoan
Đây là khía cạnh được quan tâm, chú ý nhiều nhất, tập trung
nhất.Trong số các tài liệu thu thập được, có khoảng 76% khảo tả các yếu tố
văn hóa, nghệ thuật của hát Xoan. Nằm trong khối những bài viết về văn hóa
của Xoan, có một bài về Nho giáo trong hát Xoan của tác giả Lê Cẩm Ly
[147, tr.107 – tr.117]. Sự biểu hiện của yếu tố đó được phản ánh ở một số
quan niệm về mối quan hệ vua - tôi; việc học hành, thi cử; các lớp người
trong xã hội; vị trí của người đàn ông; con đường của Nho giáo vào Xoan;
phạm vi, nội dung và mức độ thâm nhập của Nho giáo trong Xoan. Đây là
16
một bài nghiên cứu có hướng tới khía cạnh triết học của Xoan.
Bên cạnh đó, những bài viết của một số tác giả nước ngoài đã cho
thấycái nhìn bao quát, toàn diện hơn về các khía cạnh liên quan đến văn hóa,
nghệ thuật của hát Xoan. Bountheng Souksavatd đã bày tỏ quan điểm cá nhân
về văn hóa hát Xoan. Ông cho rằng hát Xoan là một hình thức diễn xướng văn
hóa độc đáo và đặc biệt của người Việt xưa. Tác giả nhấn mạnh vào yếu tố âm
nhạc và múa trong hát Xoan:“Nếu không có âm nhạc và múa thì Xoan sẽ
không còn hấp dẫn như nó đã từng” [147, tr.179].
Joe Peter (Pháp) đã thể hiện thái độ yêu thích dân ca Xoan không chỉ
vì nó là di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận, mà bởi Xoan
có giá trị nội tại của nó (lời ca, vũ điệu và cách diễn xướng của các nghệ
sĩ)[147, tr.167].
Là một loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp, hátXoan có sự tích
hợp giữa văn học, âm nhạc, múa và diễn xướng. Trong các khía cạnh liên
quan đến nghệ thuật, các bài viết bàn nhiều về phương thức trình diễn, âm
nhạc và vũ đạo trong hát Xoan.Cụ thể là:
i/ Về phương thức trình diễn hát Xoan
Trong số các tài liệu sưu tầm được có 10 – 12 tài liệu bàn về phương
thức, hệ thống bài trong một buổi trình diễn Xoan. Nhìn chung hệ thống bài
trong hát Xoan ở các tài liệu đều thống nhất nhưng cách phân chia số lượng
những bài đó ra thành từng chặng, hoặc từng phần thì chưa thống
nhất.Phương thức trình diễn hát Xoan có hai cách phân chia phổ biến:
Cách phân chia thứ nhất: chia hệ thống bài hát làm 3 chặng:
Chặng mở đầu: Hát chúc và khẩn nguyện (Các tên gọi khác: Hát thờ -
Hát nghênh thần)
Chặng 2: Hát 14 Quả cách (Quả: điệu hát; cách: cách thức trình diễn)
Chặng 3: Hát hội (gồm các bài hát - múa, giao duyên nam nữ).
17
Đây là cách phân chia được các tác giả Tú Ngọc, Nguyễn Khắc Xương,
Phạm Trọng Toàn và nhóm nghiên cứu của Viện Âm nhạc đề xuất.
Cách phân chia thứ hai: chia hệ thống bài hátlàm hai phần, chặng của Cao
Khắc Thùy và Đặng Hoành Loan.
Tác giả Cao Khắc Thùy [107] chia hệ thống bài hát thành hai phần.
Phần hát lễ (hát thờ, hát chúc, hát khẩn nguyện và hát Quả cách)
Phần hát hội (hát giao duyên, vui chơi)
Tác giả Đặng Hoành Loan [115] cho rằng phương thức trình diễn hát Xoan
được chia làm hai chặng.
Chặng 1: Hát hàng dọc (gồm các bài mở đầu và các Quả cách).
Chặng 2: Hát hàng ngang (gồm hai loại bài: đào hát múa và đào trình
diễn cùng trai làng).
Luận án sẽ triển khai theo cách phân chia thứ nhất: chia các bài hát
Xoan thành 3 chặng như đã trình bày ở trên [X. PL 3].
ii/ Về âm nhạc trong hát Xoan
Số lượng tài liệu mang tính lí luận nghiên cứu, tiếp cận dưới góc độ
thuần dạng âm nhạc học chiếm một tỉ lệ thấp. Trong số các tài liệu đó, có thể
nói tài liệu số [80] - Hát Xoan – dân ca nghi lễ phong tục của Tú Ngọc là tài
liệu đầu tiên đi vào phân tích kĩ về các thành tố âm nhạc bao gồm giai điệu và
các kiểu giai điệu, thang âm, điệu thức, khúc thức, nhịp điệu trong hát Xoan.
Nó được coi như một cuốn “kim chỉ nam”, một tài liệu nghiên cứu được nhiều
tác giả đi sau trích dẫn, tham khảo.
Tiếp thu những cơ sở nghiên cứu của Tú Ngọc, các tác giả của Viện Âm
nhạc trong công trình Cấu trúc bài bản một số thể loại dân ca người Việt vùng
đồng bằng châu thổ sông Hồng đã mở rộng và đi vào phân tích sâu, đối chiếu,
so sánh với nhiều dị bản của các nghệ nhân hát ở những thời điểm khác nhau.
Từ đó, người đọc có thể nhận biết được những dạng thức, quy luật trong lối
tiến hành giai điệu, cấu trúc thang âm, các mô hình nhịp điệu từng chặng của
18
hát Xoan.
Không đi vào phân tích chi tiết, trong bài viết của mình, Đặng Hoành
Loan nêu: “Trong dân ca Việt Nam chưa thấy lối hát hai giọng đào kép cách
nhau quãng 4 trong cùng một bài dân ca (lối hát hai giọng này khác với lối
hát chuyển hò trong Tài tử - Cải lương). Đây là đặc điểm nổi bật làm cho âm
nhạc trong hát Xoan có phong cách riêng. Chúng tôi gọi lối hát này là lối hát
dịch giọng” [115, tr.106].
Ngoài ra, những tài liệu như [83], [84], [110], [117], [147], …cũng
dành những phần nhất định cho việc bàn về âm nhạc trong hát Xoan.
iii/ Về vũ đạo trong hát Xoan
Có 9 tài liệu đề cập đến vũ đạo trong hát Xoan. Bài viết “Vai trò của
múa trong hát Xoan” [147, tr.202] là một trong số ít những bài giới thiệu sâu
về vũ đạo trong hát Xoan. Từ góc độ của người biên đạo múa, Phạm Hùng
Thoan đã phân tích ngôn ngữ, vai trò và chức năng biểu thị của múa trong
Xoan: đội hình, động tác, nhạc cụ đệm, đạo cụ, sự phối hợp với các yếu tố
nghệ thuật khác,…Tác giả đã viết: “Với tần suất có trong 36/42 bài, vai trò
của múa rất quan trọng trong Xoan, tạo nên sức hấp dẫn cho các tiết mục hát
thờ thần linh và cho con người”.
Đặng Hoành Loan đã mô tả một cách khái quát về múa trong hát Xoan
như sau: “Khởi đầu bao giờ cũng là đội hình hàng ngang, hoặc hai hàng dọc;
rồi dần chuyển sang đội hình hàng ngang, bốn hàng ngang và các kiểu đội
hình vòng tròn khác nhau. Khi đội hình biến đổi, đào nương vẫn giữ nguyên
hoặc di biến đôi chút động tác tay và chân” [147, tr.126].
Tóm lại, các yếu tố văn hóa, nghệ thuật trong hát Xoan đã được nghiên
cứu tương đối kĩ.
iv/ Về văn học trong hát Xoan
Những tài liệu đi vào phân tích chi tiết về các yếu tố có trong lời ca hát
19
Xoan không nhiều. Có 4 tài liệu dành một phần riêng để phân tích về vấn đề
này. Các tài liệu chủ yếu đi vào vẻ đẹp lời ca hát Xoan nhìn từ góc độ văn học
và lịch sử. Chưa có một tài liệu nào nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ trong
hát Xoan.
c. So sánh các đặc điểm của hát Xoan với các loại hình âm nhạc dân
tộc truyền thống của nước Việt và với các loại hình âm nhạc dân gian của các
nước trong khu vực và trên thế giới; đề xuất các biện pháp cần thiết nhằm bảo
vệ và làm lan tỏa các giá trị của hát Xoan.
Trong khía cạnh này, các bài viết tập trung bàn về ba vấn đề cơ bản:
Thứ nhất là mối liên hệ, so sánh giữa hát Xoan với các loại hình âm nhạc dân
tộc truyền thống của đất nước Việt Nam.
Tú Ngọc đặt hát Xoan trong mối quan hệvới một số thể loại như hát
Cửa đình, Ca trù, Chèo tàu, hát Dô, hát Dậm và đối chiếu hát Xoan với một số
hình thức diễn xướng và diễn trò tế thần ở đồng bằng sông Mã (Thanh Hóa)
[90]. Phạm Trọng Toàn đã bàn về mối quan hệ giữa hát Xoan và một số hình
thức sinh hoạt văn hóa âm nhạc ở vùng trung du và châu thổ Bắc bộ như: hát
Xoan với hát Ví, hát Đúm, hát Ghẹo và hát Trống quân; hát Xoan và mối quan
hệ với hát Dô, hát Dậm, hát Chèo tàu; hát Xoan và Quan họ; hát Xoan và hát Ả
đào. Tác giả cho rằng, hát Xoan là tiền đề cho những sinh hoạt văn hóa âm
nhạc dân gian của người Việt ở trung du và châu thổ sông Hồng nói riêng, của
cộng đồng người Việt ở nước ta nói chung [80]. Ngoài ra, Phạm Minh Hương
có những phần viết đề cập đến mối quan hệ mật thiết giữa hát Xoan và Trống
quân Đức Bác. Nhóm nghiên cứu Viện Âm nhạc có phần nghiên cứu, so sánh
những đặc điểm về tín ngưỡng, bài bản và âm nhạc giữa hát Xoan vàhát Chèo
Tàu [115, tr.123 – tr. 127].
Thứ hai là so sánh các đặc điểm của hát Xoan với các loại hình âm
nhạc dân gian của các đất nước khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia…
20
Sheen Dae – Cheol đã so sánh diễn xướng hát Xoan của Việt Nam với hoạt
động sân khấn dân gian của người Hàn Quốc vào những ngày đầu năm và
cuối năm. Ông đã nhìn thấy một số nét tương đồng về hình thức như vũ đạo,
động tác cũng như nội dung khẩn nguyện và giao duyên [147, tr.51 – tr.60].
Xiao Mei đã chứng minh những điểm tương đồng và khác biệt giữa thể loại
hát Xoan và thể loại dân ca xưa của Trung Hoa. Bà cho rằng dân ca xưa của
Trung Quốc với hát Xoan có những giá trị nội dung tương đồng nhất định đặc
biệt là ở các bài ca nghi lễ và các bài ca lao động [147, tr.61 – tr.64]. Các nhà
nghiên cứu khác như Triyono Bramantyo (Indonexia) [147, tr.80 – tr.97],
Bountheng Souksavatd (Lào) [147, tr.178 – tr.181], Maria Walcher (Áo)[147,
tr.182 – tr.183] cũng đã đưa ra một số nhận xét về sự so sánh các điểm tương
đồng và khác biệt giữa hát Xoan với các hình thức dân ca của các nước
Indonexia, Lào, Áo, …
Thứ ba là việc đề xuất các biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ và làm lan
tỏa các giá trị của hát Xoan.
Các nhà nghiên cứu của Việt Nam như Nguyễn Khắc Xương, Dương
Huy Thiện, Phạm Trọng Toàn, Đào Đăng Phượng, Cao Khắc Thùy, Nguyễn
Anh Tuấn,… đều chỉ ra thực trạng của hát Xoan. Trên cơ sở đó, các bài viết
đều gặp gỡ chung ở luận điểm đề xuất các biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ và
làm lan tỏa các giá trị của hát Xoan. Hơn nữa, một số tác giả nước ngoài cũng
chỉ ra cho Việt Nam một số bài học kinh nghiệm trong việc giữ gìn và phát huy
các giá trị bản sắc của hát Xoan. Bussakorn Binson (Thái Lan) cho rằng một
trong những cách bảo tồn lịch sử Việt Nam chính là bảo tồn hát Xoan. Nói
cách khác việc học các bài học về lịch sử và văn hóa Việt Nam có thể thông
qua việc truyền dạy hát Xoan trong trường học các cấp [147, tr.49]. Mag Maria
Walcher thì nhấn mạnh vào việc đưa diễn xướng hát Xoan vào đời sống sinh
hoạt của nhân dân vùng Xoan và các địa phương lân cận [147, tr.182 – tr.183].
Yves Defrance đề xuất một vài cách bảo tồn và duy trì hát Xoan cùng với việc
21
đưa ra một loạt các câu hỏi cho các nhà quản lí văn hóa của Việt Nam trong
việc thực hiện những hành động cụ thể và cần thiết cho sự sống của hát Xoan
[147, tr.184 – tr.192]. Panikos G. Giorgoudes (Hy Lạp) lại đưa ra một giải pháp
mới cho hát Xoan: lưu trữ âm nhạc trên mạng Inter net, một sự cần thiết và
những đóng góp đa dạng của hát Xoan [147, tr.193 – tr.198].
1.1.2.2. Những nhận xét về ca từ trong hát Xoan Phú Thọ
a/ Những nhận xét của các tác giả Việt Nam
Tú Ngọc đã dành chương V để phân tích về Thành tố văn chương (ca từ) trong
hát Xoan. Tác giả đã đưa ra những kiến giải ban đầu về nội dung tư tưởng, đề
tài, các điệu thể văn chương, các thể thơ và các thành phần bổ trợ trong ca từ[80,
tr.145 – tr.151]. Tài liệu thứ hai là phần phân tích về nội dung lời ca, thể thơ và
từ phụ của hát Xoan trong công trình nghiên cứu về Cấu trúc bài bản của một số
thể loại dân ca người Việt vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng do Viện Âm
nhạc thực hiện năm 2009. Kết quả cụ thể của những nghiên cứu này là: lời ca ở
đây được coi như một thành tố trong âm nhạc. Vì thế, khi phân tích, tác giảđã đi
vào thể thơ, từ phụ tương ứng với cấu trúc âm nhạc.
Nguyễn Khắc Xương nhìn nhận lời ca của Xoan dưới góc độ của nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian[117]. Kết quả cụ thể của nghiên cứu này là: bàn
về ngôn ngữ văn học trong Xoan, ông lí giải nguyên nhân lời ca của Xoan có
nhiều câu, từ “tối nghĩa, khó hiểu”. Sau đó, thông qua nội dung của một số lời
ca Xoan, tác giả bước đầu đi vào phân tích nội dung theo hai hệ thống: ngôn
ngữ văn chương bác học của trí thức Nho sĩ và ngôn ngữ dân gian của tầng lớp
bình dân.
Bàn về lời ca trong hát Xoan, Phạm Trọng Toàn cho rằng: “Lời ca phản
ánh khá nhiều tín ngưỡng cộng đồng người Việt (…) cùng với nội dung về thần
linh, thần quyền, vương quyền, vai trò của tứ dân, những nội dung trữ tình, giao
duyên…” [115, tr.83].
22
Các tác giả khác như Tú Ngọc, Trần Quang Hải, Nguyễn Thụy Loan,
Đặng Hoành Loan, Nguyễn Khắc Xương, Dương Huy Thiện có nhắc tới yếu tố
ca từ của các bài hát Xoan trong các tài liệu [100] , [102], [106], [107], [112],
[110], [115], [117], [118], [124],… Các ý kiến, nhận xét của các tác giả này có
một điểm chung là đề cập đến ca từ hát Xoan dưới góc nhìn của các nhà nghiên
cứu âm nhạc, văn hóa dân gian, lịch sử, dân tộc học và xã hội học.
b/ Những nhận xét của các tác giả nước ngoài
Triyono Bramantyo (Inđônêxia) đã nghiên cứu, đồng nhất quan điểm là sự
ra đời của hát Xoan từ rất sớm, có những giá trị tinh thần độc đáo, chỉ nhân dân
địa phương, bản địa mới có. Theo ông: “Bốn điểm độc đáo nhất của hát Xoan đó
là: lời hát trau chuốt gắn liền với múa, tính logic của hát Xoan trong một bối
cảnh văn hóa lịch sử, tính xác thực của nó dù đã được truyền khẩu từ đời này
sang đời khác. Để bảo tồn hát Xoan cần nhấn mạnh đến các giá trị phi vật thể
và đáp ứng được các tiêu chí: độc đáo ở lời ca, giai điệu, làn điệu, tính trung
thực… của nó”[147, tr.82].
Gisa Jahnichen (người Đức) xem ca từ hát Xoan: “là một phần không thể
tách rời của Hát Ả đào ở vùng nông thôn”[147; tr.72].
Bussakorn Binson quan tâm nhiều đến ca từ trong một bài Xoan cụ thể
(hát Đúm) và những ảnh hưởng của ca từ bài hát đối với các động tác múa và âm
nhạc [147, tr.175].
Trên đây là cácđề tài chínhtrong nghiên cứu và tìm hiểu hát Xoan.
1.1.2.3. Nhận xét chung
Có thể nói, khi nghiên cứu hát Xoan, các tác giả thường chú ý xác định
những yếu tố biểu trưng như nguồn gốc lịch sử, xã hội các khía cạnh văn hóa,
nghệ thuật. Việc tìm hiểu nghệ thuật hát Xoan đã có những công trình mang
tính chuyên sâu về từng mặt như âm nhạc, diễn xướng, vũ đạo, văn hóa,...Các
nghiên cứu về ca từ dưới góc nhìn Ngôn ngữ học nhìn chung còn rất ít và
chưa phải là những khảo sát chuyên sâu.
23
Mặc dù vẫn còn những điểm khuyết trong các tài liệu nghiên cứu về ca
từhát Xoan nhưng với các tài liệu sưu tầm được, một diện mạo chung về các
khía cạnh lịch sử, văn hóa, nghệ thuật của Xoan đã hiện lên tương đối rõ. Đó là
một quá trình nối tiếp những thành tựu nghiên cứu của nhiều thế hệ. Đã có một
số hình dung đại khái về ca từ hát Xoan từ góc nhìn văn hóa.
1.2.Cơ sở lí luận
1.2.1. Cơ sở Ngôn ngữ học
1.2.1.1. Diễn ngôn và phân tích diễn ngôn
a. Diễn ngôn và văn bản
“Diễn ngôn” (còn gọi là ngôn bản, tiếng Anh: discourse, tiếng Pháp:
discours) và “văn bản” (text) là hai khái niệm cơ bản trong lí luận phân tích
diễn ngôn.
Các tác giả J. McH. Sinclair và R. M. Coulthard (1975) I.Bellert, Cook,
Brown, G.Yule, D.Nunan, Widdowson,... đã đưa ra một số định nghĩa, những
cách hiểu khác nhauvề hai thuật ngữ trên.
Ở Việt Nam, các tác giả tiêu biểu nghiên cứu, tìm hiểu về diễn ngôn:
Đỗ Hữu Châu, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Đinh Văn Đức,
Nguyễn Hòa,...
Điểm chung trong quan niệm của các tác giả là: coi “diễn ngôn” là một
quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp nói và viết trong một hoàn cảnh giao
tiếp xã hội cụ thể. Còn “văn bản” là sản phẩm ngôn ngữ ghi nhận lại quá trình
đó. Nói cách khác, “diễn ngôn” được quan niệm là một sự kiện hay quá trình
giao tiếp thống nhất, trọn vẹn có mục đích trong hoàn cảnh giao tiếp và được
thể hiện qua “văn bản”.
Tóm lại, “diễn ngôn” là một quá trình giao tiếp qua sự tương tác. Kết
quả tình huống của quá trình này là sự thay đổi sự tình: thông tin được chuyển
tải, các ý định được làm rõ, và sản phẩm của quá trình này là “văn bản”.
24
“Diễn ngôn” thuộc về mặt nghĩa, mặt sử dụng của một sản phẩm ngôn ngữ,
gắn liền với ngữ cảnh cụ thể. Do đó, bản chất của việc phân tích (giải mã)
diễn ngôn là phân tích ngôn ngữ trong sử dụng để làm nổi bật giá trị và hiệu
quả giao tiếp của ngôn ngữ trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Căn cứ vào các khái niệm đã nêu trên, luận án coi các văn bản hát Xoan
đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của diễn ngôn.
b. Phân tích diễn ngôn
Thuật ngữ “Phân tích diễn ngôn” (Discourse Analysis) xuất hiện lần
đầu tiên năm 1952 doZ.Harris đề xướng. Từ đây, các công trình của M.
Stubbs (1983); G. Brown và G. Yule (1983); S. C. Levinson (1983), D.Nunan
(1993) đã nghiên cứu chuyên sâu về phân tích diễn ngôn.
Các tác giả T. A. Van Dijk, George Yule, Schiffrin, David Nunan,
Austin và Searle đã trình bày và chỉ rõ các khía cạnh khác nhau của phân tích
diễn ngôn gồm:khái niệm; yếu tố ngôn ngữ trong diễn ngôn; ngữ cảnh; tìm
hiểu diễn ngôn về mặt nghĩa; phát triển năng lực diễn ngôn; phương thức để
giải mã diễn ngôn;bản chất của phân tích diễn ngôn, các đường hướng phân
tích diễn ngôn.
Ở Việt Nam, sự quan tâm tới phân tích diễn ngôn bắt đầu từ đầu thập kỉ
80 của thế kỉ XX. Các tác giả như Hoàng Phê, Đỗ Hữu Châu (1985), Trần
Ngọc Thêm (1985), Nguyễn Đức Dân, Cao Xuân Hạo (1991), Diệp Quang Ban
(1998), Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đinh Văn Đức (2002),…đã nghiên cứu
những khía cạnh của phân tích diễn ngôn. Nguyễn Thiện Giáp quan niệm:
“Trong phạm vi ngôn ngữ học, phân tích diễn ngôn tập trung vào quá trình sử
dụng ngôn ngữ để thể hiện ý định trong ngữ cảnh nào đó” [34, tr. 398]. Diệp
Quang Ban (2011) cho rằng: “Phân tích diễn ngôn là đường hướng tiếp cận tài
liệu ngôn ngữ nói và viết bậc trên câu (diễn ngôn/văn bản) từ tính đa diện hiện
thực của nó, bao gồm các mặt ngôn từ và ngữ cảnh tình huống, với các mặt
hữu quan thể hiện trong khái niệm ngôn vực (register) mà nội dung hết sức
phong phú và đa dạng (gồm các hiện tượng thuộc thể loại và phong cách chức
25
năng, phong cách cá nhân, cho đến các hiện tượng xã hội, văn hóa, dân tộc)”
[8,tr.158].
Quan điểm của Diệp Quang Ban đã đề cập đến ba yếu tố quan trọng nhất
trong phân diễn ngôn là: a) đối tượng khảo sát (tài liệu ngôn ngữ nói và viết
bậc trên câu – diễn ngôn hay văn bản); b) đối tượng nghiên cứu (tính đa hiện
thực của tài liệu ngôn ngữ đó); c) phương pháp tiếp cận (phân tích ngôn ngữ
trong sử dụng).
c. Các giai đoạn chính trong nghiên cứu phân tích diễn ngôn
c1/Giai đoạn thứ nhất: ngữ pháp văn bản
Giai đoạn “ngữ pháp văn bản” là giai đoạn tìm đường tiếp cận diễn
ngôn. Các nghiên cứu đã cho thấy con đường theo ngữ pháp câu là không
thỏa đáng với diễn ngôn.
Zellig Harris đã quan tâm tới việc phân bổ các yếu tố ngôn ngữ trong
các văn bản và mối quan hệ giữa văn bản và hoàn cảnh xã hội. Nghiên cứu
với đầu đề “Phân tích diễn ngôn” (Harris 1952) được coi là mở đường cho
lĩnh vực phân tích diễn ngôn. Tuy chưa vượt ra được khung quen thuộc là
“câu” nhưng ông đã gợi ra một hướng nghiên cứu mới với đối tượng mới. Các
tác giả Van Dijick (1972), Halliday và Hassan (1976), De Beaugrand (1990)
đã có những tác động to lớn trong lĩnh vực này. Song các nhà nghiên cứu ở
giai đoạn này vẫn sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ học theo lối hình
thức (như đã làm với câu) khi nghiên cứu diễn ngôn. Vì thế, cách tiếp cận
diễn ngôn ở giai đoạn này thường được coi là cách tiếp cận hình thức và nằm
trong khuôn khổ của “ngữ pháp văn bản”.
c.2. Giai đoạn thứ hai: phân tích diễn ngôn
Đã có hai tên gọi được đề nghị cho giai đoạn nghiên cứu diễn ngôn.
R.Barthes (1970) đã đề xướng một thuật ngữ từ đầu giai đoạn nghiên cứu này
là “xuyên ngôn ngữ học” (translinguistique). Sau đó, R. De Beaugrande
(1990) đã đề nghị một thuật ngữ khác là “ngôn ngữ học văn bản tính”
26
(textuality linguistics). Tuy nhiên, hai tên gọi này không được sử dụng phổ
biến. Trong nhiều bài viết của các tác giả, tên gọi “phân tích diễn ngôn” được
sử dụng trực tiếp hơn.
J. McH. Sinclair và R. M. Coulthard (1975 – 1977), M. Stubbs (1983), G.
Brown và G. Yule (1983), S. C. Levinson (1983) đã sử dụng trực tiếp thuật
ngữ “Phân tích diễn ngôn” trong các công trình nghiên cứu của mình. “Phân
tích diễn ngôn” đã thực sự được thừa nhận rộng rãi như thuật ngữ chính thức
của giai đoạn tiếp theo giai đoạn ngữ pháp văn bản. Trong đó, Phân tích diễn
ngôn (Discourse Analysis) của G. Brown và G. Yule (1983) được coi như
công trình về cơ sở lí thuyết của việc nghiên cứu diễn ngôn.
Công trình này đã chỉ rõ: khi phân tích diễn ngôn cần xác định những
yếu tố tham gia vào nội dung của diễn ngôn. Cụ thể:
- Mục đích giao tiếp, ý định của người nói
- Các chiến lược văn hóa, diễn ngôn sẵn có trong một cộng đồng ngôn ngữ
- Hoàn cảnh xã hội (các cá nhân tham gia tương tác, mối quan hệ, bản
chất của bối cảnh tình huống)
- Tính chất của các thể loại diễn ngôn đã được quy ước hóa
- Khung văn hóa, niềm tin và hành động của các thành viên xã hội.
d. Một số đường hướng phân tích diễn ngôn
Một số đường hướng chính trong phân tích diễn ngôn đã được Nguyễn
Hòa miêu tả là: dụng học, biến đổi ngôn ngữ, ngôn ngữ học xã hội tương tác,
dân tộc học giao tiếp, tâm lí học xã hội, phê phán, giao tiếp liên văn hóa, và
phương pháp phân tích diễn ngôn tổng hợp [50].
e. Hướng phân tích diễn ngôn của luận án
Luận án dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn đường hướng giao tiếp liên văn
hóa- inter – cultural communication – IC[50, tr.138 – tr.154] (nghiên cứu các
giá trị văn hóa trong sự hoạt động của diễn ngôn thể hiện mối quan hệ giữa
ngôn ngữ - giao tiếp – văn hóa)và phương pháp phân tích diễn ngôn tổng hợp
27
– integrated [50, tr. 155 – 159] (“vì mạch lạc thực sự là một hàm hay tích hợp
của rất nhiều biến, trong đó có thể đến các biến quan trọng chủ yếu như: tính
tổ chức, liên kết và tính quan yếu” [50, tr. 158]) để triển khai các phần nội
dung cụ thể.
1.2.1.2. Những lý thuyết và quan niệmvề đoạn, khổ, thể, vần, nhịp và sự
hòa phối thanh điệu
a. Đoạn
Đoạn là một bộ phận của văn bản. Mỗi đoạn của một văn bản có tính
độc lập tương đối. Nếu tách đoạn ra khỏi văn bản thì đoạn đó có tư cách như
một văn bản nhỏ; còn đoạn nằm trong văn bản thì từng đoạn vẫn luôn luôn có
sự liên kết với các đoạn khác [7; tr139].
Đoạn trong thi ca là “một tập hợp của những câu thơ biểu thị một ý
hoàn chỉnh. Sự phân đoạn một bài thơ chủ yếu dựa vào ý chứ không lệ
thuộc vào vần, nhịp, cú pháp, ngữ điệu như đối với một khổ. Số lượng câu
trong một đoạn không hạn định” [37, tr.105].Bài thơ có thể bao gồm nhiều
đoạn. Số lượng đoạn trong mỗi bài rất khác nhau. Những bài thơ ngắn nhìn
chung không cần phân đoạn (ca dao hay thơ tứ tuyệt).
Căn cứ vào độ dài ngắn, chặng hát, chức năng cấu trúc của từng bài
hát Xoan và khái niệm đoạn, đoạn thơ đã nêu trên, luận án đã chia kết cấu
văn bản các bài hát Xoan theo đoạn. Ví dụ 1:
Bia truyền cổ tích
Có cô gái lành
Đi chơi một mình
Đến chưng quán ấy
Náng ấy, thấy vậy.
Cầm lấy đôi sênh
Ngân nga một mình
28
Ca bằng tiếng dế.
Nhớ xưa: vua Hán Vũ Đế
(Mới lại) sinh (ra) được một con (gái)
(Kiều Dương cách)
Đây là đoạn thân bài hát (còn gọi là đoạn đưa cách). Một đoạn trong
bài hát Xoan có thể bao gồm 2 khổ trở lên.
b. Khổ
Theo Từ điển Tiếng Việt, “khổ” được hiểu theo nghĩa là “Đoạn ngắn được
ngắt ra trong một bài văn vần (thường để hát hoặc phổ nhạc)” [92, tr.508].
Khái niệm “khổ” được IU. M. LotMan cho rằng đi liền với khái niệm
“khung”: “Khung khổ của tác phẩm văn học được tạo nên từ hai yếu tố: mở
đầu và kết thúc” [72, tr.373].
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đưa ra định nghĩa: “Khổ
(thơ) là sự kết hợp của các câu thơ thành từng nhóm, thống nhất với nhau về
vần, cú pháp, ngữ điệu. Mỗi khổ được kết thúc bằng một khoảng nghỉ dài”
[37,tr.108].
Như vậy, có thể quan niệm: khổ là tập hợp một số câu, dòng được sắp
xếp thành một đơn vị có quy cách nhất định về vần, luật, âm thanh, nhịp điệu,
cú pháp; là vế tương đương lớn nhất trong ngôn từ thi ca. Mỗi khổ được kết
thúc bằng một khoảng nghỉ dài. Ví dụ 2:
Khổ 1: Bắt ngang thuyền lại hỏi ngưông
Có cá bán chăng đưa một đồng.
Dạ, dạ! thưa rằng: thuyền còn đang bủa lưới
Những mảng trông nguyệt phút liền không.
Khổ 2: ngư tiền (là) canh mục
(Mới lại là) tứ túc (hỡi a) nhà nho
29
Ngư phủ ban cho ở đâu
(Mới lại) buông câu (là) thả lưới
(Mới lại là) phấp phới (hỡi a) áo tơ
(Ngư tiều canh mục cách)
Xét về dung lượng, khổcó thể ngắn hơn đoạn.Như trên đã nêu, từ 2 khổ
trở lên có thể tạo thành một đoạn.
c. Thể
Theo Nguyễn Thái Hòa: “Thể là kiểu mẫu của văn bản hình thành trong
quá trình phát triển của sự giao tiếp bằng lời tương đối ổn định, trở thành quy
ước chung, tồn tại trong kí ức của mọi người như một mô hình cấu tạo văn bản,
một thứ siêu ngôn ngữ vừa để biểu đạt vừa để định hướng cho sự tiếp thu biểu
đạt” [52, tr. 210].
Theo truyền thống, cách xác định thểtrong một bài chính là căn cứ vào số
tiếng trong một dòng và tần số của số tiếng ấy xuất hiện trong một khổ. Mỗi
thểcó những quy tắc riêng về số chữ trong câu, khổ, bài, về cách gieo vần, luật,
đối, niêm. Trong các thể loại thơ ở Việt Nam, có một số thể như 4 tiếng, 5 tiếng,
lục bát, song thất lục bát, các thể loại thơ Đường luật nhưthất ngôn,ngũ ngôn rồi
đến các loại thơ mới và thơ tự do. Ngoại trừ thơ tự do, một hình thức không có
một cấu trúc rõ rệt, các loại thơ khác đều có cấu trúc và cách luật nhất định.
Luận án căn cứ theo cách gọi truyền thống ở các tài liệu để gọi tên và
phân loại các thể như 4 tiếng, lục bát, song thất lục bát, biến thể và tự do. Các thể
4 tiếng, lục bát, song thất lục bát tuân thủ đúng đặc điểm về số tiếng trong một
dòng, số dòng trong một khổ sẽ được coi là chính thể. Biến thể nghĩa là không
theo thể chính và có thể biến đổi về hình thức (có hiện tượng “giãn ra” và “co
lại”).Phan Diễm Phương đã nêu: “Giãn ra” nghĩa là thêm số tiếng vào câu
chính thể; “co lại” nghĩa là bớt đi số tiếng ở câu chính thể. Tác giả cũng chỉ
rõ: trong lục bát chính thể, có bốn khả năng biến thể ở dòng lục bát là: “Dòng
30
lục co lại, dòng bát giữ nguyên; dòng lục giữ nguyên, dòng bát giãn ra; dòng
lục giãn ra, dòng bát giữ nguyên và cả hai dòng đều giãn ra” [93, tr. 143]. Đây
có thể xem là căn cứ để phân chia các thể của hát Xoan.
Câu –Dòng
Các tác giả Aristote [6], Chafe [15], Nguyễn Phan Cảnh [13], Mai
Ngọc Chừ [22], Phan Huy Dũng [25] cùng chỉ ra rằng: câu thơ là đơn vị cơ
bản nhỏ nhất của lời thơ.
IU. M. Lotman cho rằng: “Câu thơ – đó là đơn vị phân chia nhịp điệu –
cú pháp và phân chia ngữ điệu của văn bản thơ” [72, tr.313 – tr.314]. Ông
cũng coi câu thơ như một tổng thể giai điệu (ngữ điệu – nhịp điệu) và cũng
đồng thời là một tổng thể ngữ nghĩa.
Luận án quan niệm một dòng có thể bao gồm nhiều câu. Ví dụ 3:
Ơn vua mà lại nhờ trời,
Làm ăn thịnh vượng muôn đời giàu sang.
Giai thời thi đỗ làm quan,
Võng anh đi trước, võng nàng theo sau.
(Hát đúm)
Thì dòng Võng anh đi trước, võng nàng theo sau là một dòng gồm hai câu.
d. Vần
Vần là đối tượng nghiên cứu của một phân môn trong thi học được gọi
là thi vận. Trong văn học xưa nay, vần được coi là một trong những yếu tố
quan trọng nhất của thi ca, là yếu tố xây dựng nên sự hòa âm giữa các câu
góp phần tạo nên tính nhạc của thi ca.
Có nhiều các định nghĩa khác nhau về “vần thơ” (rhyme). Diệp Quang
Ban cho rằng: “Trong thơ ca, một sự phù hợp về tính đồng nhất hoặc gần
đồng nhất trong một đoạn âm thanh thường trùm lên một âm tiết (trong ngôn
ngữ châu Âu) hay ở phần cuối có chứa nguyên âm chính của một tiếng (được
gọi là “phần vần” trong một tiếng của tiếng Việt)” [7, tr.518].
31
Nguyễn Thiện Giáp viết: “Vần là một bộ phận của âm tiết tiếng Việt,
sau khi trừ đi phần âm đầu và thanh điệu” [34, tr.587].
Nguyễn Thái Hòa chỉ ra: “Vần là bộ phận của âm tiết trừ phần phụ âm
đầu, còn gọi là khuôn vần. Trong thơ, khuôn vần được lặp lại ở dòng tiếp
theo, gọi là “hiệp vần” (đối với thơ Việt)” [52, tr.268].
Lý Toàn Thắng đã viết: “ Vần là sự tương hợp, sự tương đồng, sự cộng
hưởng, sự hài hòa, sự lặp lại của các đặc trưng về nguyên âm, phụ âm, trọng
âm, thanh điệu v.v của hai từ hay âm tiết được hiệp vần” [99, tr.67].
Tóm lại, luận án dựa trên định nghĩa của tác giả Lý Toàn Thắng để
triển khai phần nội dung cụ thể về vần ở chương 2.
Theo Nguyễn Thái Hòa [52], có những cách phân chia vần trong các
thể như sau: căn cứ vào vị trí hiệp vần, có các loại: vần lưng, vần chân, vần
liền, vần cách, vần ôm, vần giao nhau, vần hỗn hợp; căn cứ vào tính chất của
vần, có ba loại: vần chính, vần thông và vần áp.
Lý Toàn Thắng [99] có cách phân chia tương đồng như quan điểm trên.
Ông bổ sung thêm các loại vần như: vần lặp (điệp vận), vần sai (lạc vận), vần
ép (cưỡng vận/ áp vận).
Luận ánsẽ được tiếp cận cách phân loại vần trong ca từ hát Xoan theo
quan điểm của Nguyễn Thái Hòa.Cách tiếp cận này sẽ được triển khai ở
chương 2 của luận án.
e. Nhịp
Nhịp với đầy đủ các yếu tố của nó, là một phạm trù rất phức tạp trong hệ
thống ngôn ngữ âm nhạc. Thậm chí, các nhà nghiên cứu đã phải thừa nhận nhịp
là “linh hồn” so với các yếu tố khác. “Âm nhạc dân gian Việt Nam nói chung
và Xoan nói riêng là loại âm nhạc đơn điệu, vận động theo chiều ngang” [63, tr.
114]. Vì vậy, việc hình thành chủ đề và phát triển nhịp mang những đặc điểm
riêng của phương thức truyền miệng. Giai điệu của một bài dân ca đều đã trải
32
qua một quá trình “trau chuốt” nên nó không mang tính bất biến như nền âm
nhạc cung đình mà linh hoạt, mềm dẻo. Các dị bản thường có trong dân ca là
một biểu hiện rõ nhất.
Nhịp trong quan niệm của các nhà Ngôn ngữ thì khác. Nguyễn Thiện
Giáp cho rằng: “Sự luân phiên đều đặn của sự nhanh và chậm, căng và lơi, dài
và ngắn, giống nhau và khác nhau trong sản phẩm của lời nói. Nhịp điệu của
âm nhạc được gọi là tiết tấu” [34, tr. 376].
Nguyễn Thái Hòa cho rằng:“Nhịp điệu là yếu tố tổ chức biểu đạt nghệ thuật
và là phương tiện nghệ thuật thuộc các chủng loại khác nhau mà trong nghệ
thuật thính giác như âm nhạc, thơ ca,…thể hiện tiêu biểu. Vì vậy, tính nhịp
điệu là bản chất của nghệ thuật” [52, tr.163].
Mỗi thể khác nhau thì sẽ có nhịp khác nhau. Ở ca từ hát Xoan, nhịp
thường có chu kì ngắn, láy đi láy lại liên tục, thể hiện ở hai bậc: nhịp dòng và
nhịp tiết tấu trong dòng. Ví dụ: thể lục bát được ngắt dòng 6/8 và các nhịp tiết
tấu 2/2/2 (nhịp chẵn). Ví dụ 4:
Đi đâu từ sáng đến giờ?
Để cho tôi đợi, tôi chờ, tôi mong
(Trống quân đón đào)
Câu 6 có nhịp là 2/2/2; câu 8 ngắt nhịp là 4/2/2. Đây là cách ngắt
nhịp theo luật. Nhịp của luật là giống nhau nhưng điệu của thơ khác nhau
tạo ra cảm giác nhanh chậm khác nhau trong thơ. Nhịp điệu gắn với cảm
xúc và hình tượng hơn là luật thơ.
Luận án xin tiếp cận quan điểm về “nhịp” của luật thơ. Cách tiếp cận
này sử dụng khi tìm hiểu nhịp hát Xoan.
g. Sự hòa phối thanh điệu
“Thanh điệu là sự nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm tiết có
tác dụng cấu tạo và khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị”[144]
Trong những ngôn ngữ có thanh điệu, tiếng Việt là ngôn ngữ giàu
thanh điệu. Tiếng Việt hiện đại có 6 thanh điệu có giá trị âm vị học, trong đó
33
trên chữ viết năm thanh được ghi lại bằng 5 dấu: huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng và
một thanh không được biểu hiện bằng dấu, có thể gọi là thanh không dấu hoặc
Thanh điệu là đơn vị không có tính âm đoạn, nhưng có đường nét, độ cao, tồn tại trong âm tiết. Do đó, các thanh điệu phân biệt với nhau theo hai đặc trưng chủ yếu là độ cao và đường nét vận động. Dựa vào hai đặc trưng đó có thể phân loại thanh điệu theo hai cách: - Dựa vào độ cao của điểm kết thúc: + Các thanh có âm vực cao: thanh ngang, ngã, sắc. + Các thanh có âm vực thấp: thanh huyền, hỏi, nặng. Sự đối lập về âm vực này là cơ sở để cấu tạo từ láy âm. - Dựa vào âm điệu hay theo đường nét vận động: + Các thanh có đường nét bằng phẳng: thanh ngang, huyền. Gọi là thanh bằng. + Các thanh có đường nét không bằng phẳng, gãy khúc: thanh ngã, hỏi, sắc, nặng. Gọi là thanh trắc. Sự đối lập về âm điệu là tiền đề để xây dựng luật bằng - trắc trong thơ. Hai mặt đối lập đó tạo nên giá trị biểu trưng của thanh điệu tiếng Việt.
thanh ngang.
Những phẩm chất âm thanh trên làm cho âm tiết tiếng Việt lúc bổng lúc
trầm, lúc rút ngắn lúc kéo dài dàn trải, lúc mềm mại nhẹ nhàng lúc mạnh mẽ,
dứt khoát, tạo hiệu quả về âm thanh khi sử dụng. Trong sáng tác văn chương,
thanh điệu làm nên tính nhạc, nhất là đối với thơ. Tính nhạc và âm hưởng tạo
ra từ việc phối thanh mang lại hiệu quả về nhận thức và cảm xúc lớn. “Sự hòa
phối thanh điệu trong âm nhạc sẽ tuân theo một nguyên tắc là: sự “êm tai”,
“dễ nghe”, hài hòa về luật bằng – trắc trong ca từ” [68, tr. 201].
1.2.1.3. Lý thuyết khái quát về trường từ vựng – ngữ nghĩa
Trường nghĩa (trường từ vựng - ngữ nghĩa - senmantics field), là một lĩnh
vực được nghiên cứu vào những năm 20, 30 của thế kỷ XX. Lý thuyết này bắt
nguồn từ những tiền đề duy tâm của trường phái W.Humboldt và những tư tưởng
của F.de Saussure về tính cấu trúc của ngôn ngữ, đặc biệt là vấn đề về quan hệ liên
tưởng và quan hệ ngữ đoạn trong ngôn ngữ.
34
Sau khi xuất hiện vào những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, khái niệm về
trường nghĩa (semantic fields hay lexical fields) nhanh chóng được phổ biến
và đạt được những thành tựu quan trọng. Lý thuyết về trường nghĩa gắn với
tên tuổi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ như G.Ipsen (1924), J.Trier (1934), W.
Porzig (1934)…Tư tưởng cơ bản của lí thuyết này là khảo sát từ vựng một
cách hệ thống. Tiếp theo đó là hàng loạt các nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu về
ngữ nghĩa của ngôn ngữ, tiêu biểu là Talmy (1981), Langacker (1987) và
Lakoff (1987). Những nghiên cứu trên đã góp phần bước đầu tìm ra những
nhân tố cho hệ thống khái niệm về ngữ nghĩa.
Ở Việt Nam, một số tác giả tiêu biểu có các công trình có vai trò nền tảng
quan trọng về trường từ vựng như Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Hữu
Châu, Bùi Minh Toán, Mai Ngọc Chừ, Đỗ Việt Hùng, Hoàng Dũng, Bùi Mạnh
Hùng, Nguyễn Thiện Giáp,…
Tác giả Đỗ Hữu Châu đã đưa ra quan niệm về trường từ vựng như
sau: “Trường từ vựng là một tập hợp các đơn vị từ vựng căn cứ vào một nét
đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa” [17, tr.35].
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Phạm vi những đơn vị từ vựng có
quan hệ lẫn nhau về ý nghĩa, trong đó, đơn vị từ vựng có thể là một từ vị hay một
đơn vị thành ngữ. Các đơn vị từ vựng trong một trường nghĩa phải chung một
thành tố nghĩa. Sự phân tích các trường nghĩa sẽ bắt đầu sau khi phân xuất được
chúng. Người ta đã nghiên cứu các trường nghĩa như: quan hệ thân tộc, màu sắc,
bộ phận thân thể, động vật, thực vật, hoạt động thị giác, hoạt động nói năng, thời
tiết,v.v. Trong trường nghĩa, ý nghĩa của mỗi đơn vị từ vựng được xác định trong
mối quan hệ với những đơn vị từ vựng khác cũng thuộc trường ấy. Nhiệm vụ của
việc phân tích các trường nghĩa là xác định tính hệ thống của những quan hệ về
nghĩa giữa các yếu tố ở trong trường. Những quan hệ về nghĩa ở trong các trường
nghĩa có thể là những quan hệ sau đây: đồng nghĩa, trái nghĩa, bao nghĩa, tổng
phân nghĩa, đa nghĩa, bất tương thích...”[34, tr.542].
35
Như vậy, có thể hiểu, trường từ vựng là tập hợp những đơn vị từ vựng
có nghĩa liên quan đến nhau, phụ thuộc lẫn nhau và tạo nên một cấu trúc khái
niệm cho một khu vực nào đó của hiện thực.
Đặc điểm quan trọng nhất của trường từ vựng là có tính hệ thống. Khi
tìm hiểu về trường, các nhà nghiên cứu đều khẳng định, lí thuyết trường
được “chấp nhận như là sự cụ thể hóa lí thuyết về tính hệ thống của ngôn ngữ
trong lĩnh vực từ vựng” [17, tr. 36].
Không những thế, trường từ vựng cũng là một khái niệm có tính thứ
bậc hay còn gọi là tính cấp bậc, tôn ti (hierarchique), có nghĩa là một trường
có thể chia ra nhiều trường nhỏ hơn. Nói cách khác, trong mỗi hệ thống đó lại
có những tiểu hệ thống. Trong đó, có những trường có quan hệ trái ngược
nhau, có những trường có quan hệ bình đẳng, có những trường có quan hệ đan
xem lồng vào nhau. Ngược lại, có những trường có quan hệ tôn ti, cấp bậc đối
với nhau. Một trường lớn có thể bao hàm trong nó một hoặc một vài trường
nhỏ. Toàn bộ những quan hệ trong hệ thống đó lập thành cấu trúc của hệ
thống từ vựng.
Hơn nữa, một từ nhiều nghĩa có thể thuộc nhiều trường từ vựng khác
nhau. Các từ không chỉ đơn thuần có một nghĩa mà trong lòng mỗi từ có thể có
nhiều nghĩa. Mỗi nghĩa lại có thể thuộc một trường, miền khác nhau. Điều này
tạo ra hiện tượng giao thoa hay còn gọi là tính giao thoa trong các trường.
Những từ chỉ thuộc một trường nghĩa chiếm tỉ lệ không lớn.
Dẫn những đặc điểm cơ bản nhất về trường từ vựng – ngữ nghĩa để
luận án làm cơ sở triển khai cho các nội dung liên quan ở chương 3.
1.2.1.4. Lý thuyết biểu tượng và biểu tượng ngôn từ
Nghiên cứu biểu tượng là một khoa học có từ lâu đời, liên quan đến
nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ, văn học, văn hóa. Về mặt
thuậtngữ, biểutượng (symbol trong tiếng Anh) là một từ bắt nguồn từ ngôn
36
ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong tiếng La Mã và symbolon trong tiếng Hy
Lạp). Nghiên cứu biểu tượng như một khoa học độc lập phải kể đến thời gian
vào khoảng đầu thế kỷ XX với sự hình thành của ký hiệu
học (semiotics/semiology). Ký hiệu học là bộ môn nghiên cứu ý nghĩa của các
ký hiệu, tín hiệu, biểu tượng, hiện tượng văn hoá… và hành vi sử dụng chúng.
Ký hiệu học giải nghĩa các thành tố văn hoá do con người tạo ra trong quá
trình phát triển của văn hoá như ngôn ngữ, biểu tượng, hoạt động, hành vi
sống… của con người. Các nhà ký hiệu học hiện đại như Claude Lévi -
Strauss, Jacques Lacan, Michel Foucault, Jacques Derrida, Roland Barthes...
đã áp dụng cấu trúc luận dưới góc nhìn ký hiệu học cho nhiều lĩnh vực như
mỹ học, nhân học, tâm lý, truyền thông, ngôn ngữ...
Ở Việt Nam, nghiên cứu theo hướng biểu tượng trong văn hóa được thực
hiện chủ yếu từ đầu thế kỉ XX với các công trình của Từ Chi. Một số nghiên cứu
biểu tượng trong nhân học và ngôn ngữ học có phần muộn hơn của Nguyễn Thị
Ngân Hoa(2005) và Đinh Hồng Hải (2006).
Luận án này dược triển khai theo hướng quan điểm cho rằng biểu tượng
mang tính đa nghĩa. Tác giả Jean Chevaliervà Alain Gheerbrant chỉ ra rằng:
“Biểu tượng theo nghĩa rộng nhất là một tín hiệu mà mặt hình thức cảm tính (tồn
tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người: cái
biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang tính có lí do, tính tất
yếu”[35, tr.423]. Trong cuốn Từ điển biểu tượng (Dictionary of Symbols), C. G.
Liungman cho rằng “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm
người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho chính bản thân
nó” [dt 47]. Như vậy, biểu tượng có thể chia thành phần biểu hình và biểu ý.
Biểu tượng xuất hiện từ thời tiền sử và đi vào lịch sử nhân văn như những
huyền thoại hoặc mẫu gốc. Trong công trình Sự ra đời của các huyền thoại, A.H.
Krape đã phân loại thành: các biểu tượng thuộc về trời (bầu trời, mặt trời, mây,
mưa, sấm, chớp, gió, chim lạc, tiên, bụt,…) và các biểu tượng thuộc về đất (mặt
đất, cánh đồng, đồng ruộng, nước, núi, sông, suối, cá, thuyền, bến, hoa quả, cây
37
cối, khăn, áo,…). Qua khảo sát kho tàng thơ ca dân gian Việt Nam, tác giả
Nguyễn Thị Ngân Hoa cho rằng: “Dường như chúng đông rắn lại và đã được
lịch sử hóa (pháp vân, pháp vũ, pháp lôi, tiên, chim lạc, bụt,…). Trái lại, hệ biểu
tượng thuộc về đất vừa phong phú hơn vừa tiếp tục sinh sôi, nảy nở với nhiều
biến thể cho đến tận ngày nay” [57,tr.243].
Trong công trình này, để giải mã biểu tượng, một mặt, luận án tham khảo
mô hình của Nguyễn Thị Ngân Hoa (46, tr.48), chú trọng biểu tượng trong bối
cảnh ngôn từ:
Hơn nữa, tác giả luận án cũng muốn nhấn mạnh rằng , hát Xoan vừa là sự
sắp xếp ca từ theo quy luật của âm nhạc và ngữ nghĩa, vừa là một diễn xướng
gắn chặt với hành động, không gian, trang phục, con người, điệu bộ. Vì thế,
trong khi phân tích, tác giả cũng dựa vào phương pháp của tín hiệu học, đặc biệt
có liên hệ với bối cảnh diễn xướng và áp dụng phương pháp diễn giải sâu
(Cliffort Geerzt) để chỉ ra những ý nghĩa linh thiêng bên ngoài lời hát tách biệt
trên trang giấy.
Lí thuyết về biểu tượng và biểu tượng ngôn từ sẽ được dùng để triển khai cụ
thể phần nội dung này ở chương 3 của luận án.
1.2.2. Cơ sở văn hóa học
1.2.2.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ văn học với âm nhạc
a. Đặc trưng của hình tượng âm nhạc
Âm nhạc là bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh, nhịp điệu để diễn tả tư
tưởng, tình cảm và đời sống.Âm nhạc xuất hiện từ thời xa xưa của lịch sử loài
người. Đầu tiên, âm nhạc chủ yếu thực hiện vai trò có tính chất thực tiễn, vì
38
nhạc điệu thích ứng với nhịp điệu của các động tác lao động, nhằm liên kết
mọi cá nhân trong một quá trình lao động tập thể, làm lao động trở nên nhẹ
nhàng, có năng suất cao. Bên cạnh đó, âm nhạc còn được thực hiện trong nghi
lễ tôn giáo. “Về sau, cùng với sự phát triển của cảm quan âm nhạc, trình độ
sáng tác và thưởng thức, trình độ chế tạo nhạc cụ, âm nhạc trở thành một loại
hình nghệ thuật phổ biến” [89, tr.219].
b. Đặc trưng ngôn ngữ văn học trong tương quan với các nghệ thuật khác
Về chất liệu, văn học sử dụng ngôn từ (ngôn ngữ nghệ thuật) làm chất liệu
xây dựng hình tượng. Vì vậy hình tượng ngôn từ mang tính phi vật thể, nghĩa là
chúng ta không thể nhìn ngắm, chiêm ngưỡng hình tượng văn học như các hình
tượng mang tính vật thể (hội họa, kiến trúc, điêu khắc…) của các loại hình nghệ
thuật khác. Do vậy, về mặt cảm thụ, hình tượng văn học chỉ sống lại trong trí
tưởng tượng, trong hình dung của người đọc. Đứng về ấn tượng trực tiếp, hình
tượng văn học có thể không có sức mạnh bằng các loại hình nghệ thuật khác,
song nó lại có ưu thế đặc biệt ở chính những giới hạn này.
Hình tượng văn học tồn tại trong cả hai chiều không gian và thời gian.
Đó có thể là những không gian thực: bao la, rộng lớn, trải dài hoặc nhỏ bé,
gần gũi, thân thuộc. Và cũng có khi chiều không gian được đo bằng tâm
tưởng con người nên có những chiều kích đặc biệt. Về thời gian, thời gian
trong văn học có thể được xáo trộn, lắp ghép, đẩy nhanh, hãm chậm, đồng
hiện…hoàn toàn phụ thuộc vào ý tưởng của nhà văn. “Văn học còn có khả
năng miêu tả các hình tượng của các loại hình nghệ thuật khác (những trang
văn miêu tả tiếng đàn, vẻ đẹp của các điệu nhảy, điệu múa, các bức tranh, bức
tượng)” [89, tr.129 – 130].
Hơn các loại hình nghệ thuật khác, văn học có khả năng phản ánh trực
tiếp dòng ý thức, các trạng thái tình cảm và dòng tư duy của con người.Cho
nên có thể nói, văn học là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, có khả năng vô
hạn trong việc nhận thức và phản ánh đời sống con người, từ trạng thái vĩ mô
đến vi mô.
39
Trong mối tương quan với các loại hình nghệ thuật khác,theo Vissarion
Belinsky, thơ ca thuộc loại hình nghệ thuật cao cấp nhất. “Thơ ca thể hiện
trong lời nói tự do của con người, mà lời nói vừa là âm thanh, vừa là bức
tranh, vừa là khái niệm. Do vậy, thơ ca mang trong mình tất cả các yếu tố
nghệ thuật khác, nó như đồng thời sử dụng không tách rời phương thức của
tất cả các loại hình nghệ thuật riêng biệt” [dt22, tr.38].
c. Sự tương tác giữa ngôn ngữ văn học với các loại hình nghệ thuật khác
Các nghệ thuật khác cũng góp phần nâng cao giá trị của văn học.
Những hiểu biết về hết thảy các lĩnh vực nghệ thuật khác như hội họa, kiến
trúc, điêu khắc và âm nhạc nhất định sẽ làm phong phú thế giới bên trong của
người viết văn, và đưa lại cho lời văn một khả năng diễn đạt đặc biệt. “Trong
lời văn sẽ tràn đầy ánh sáng và màu sắc của hội họa, tính cân xứng của kiến
trúc, tính chất rõ nét có hình khối của điêu khắc và tính chất uyển chuyển của
âm nhạc”[89, tr.132].
1.2.2.2. Nguyên tắc phổ nhạc trên cơ sở lời thơ
Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc và các nhạc sĩ như Dương Viết Á
[2], Đặng Hoành Loan [dt 94, tr. 28], Vũ Tự Lân [68] thì các ca khúc được
phổ nhạc dưa trên cơ sở lời thơ cần phải tuân thủ một số nguyên tắc sau:
a. Ngôn ngữ và âm nhạc hỗ trợ cho nhau, nâng đỡ nhau
Ngôn ngữ làm nền cho nhạc, nhạc cất cánh cho ngôn từ.Trong các tác
phẩm âm nhạc có giá trị nói chung và các bài thơ được phổ nhạc nói riêng,
phần nhạc và phần lời có mối quan hệ khăng khít, tương hỗ lẫn nhau mà làm
nên những giá trị mới mà bản thân nó chưa có.
Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của âm nhạc, tiếng nói có nhịp điệu – nhịp
điệu của những âm thanh vật chất, của tiếng nói thực tế hòa với nhịp điệu cảm xúc
bên trong tâm hồn nhà thơ.Tính nhạc được tạo nên bởi những âm hưởng gắn liền
với hình ảnh, cảm xúc do sử dụng phối hợp âm thanh, nhịp điệu, từ ngữ… phù
hợp với nội dung tư tưởng, tình cảm được biểu đạt. Vì vậy, trong thơ vốn dĩ đã có
40
tính nhạc nên khi bài thơ được phổ nhạc, tính nhạc của nó được tăng lên nhiều
phần. Âm nhạc có tác dụng làm tăng sức diễn cảm của ngôn từ, và đôi khi giai
điệu góp phần nảy sinh âm điệu và ngữ nghĩa lời nói. Nếu như lời của bài ca kể về
biến cố, tình thế, hoàn cảnh, biểu hiện tư tưởng, phác họa hình tượng thì nhạc (giai
điệu, nhịp) khai triển mạch ngầm trữ tình và nội dung cảm xúc.
Ngược lại, ngôn từ cũng có sức gợi mở cho âm nhạc.“Bằng ngôn ngữ
văn học, ca từ có nhiệm vụ cụ thể hóa hình tượng âm nhạc bằng hình tượng
ngôn ngữ” [2, tr.23]. Ngôn từ định hướng cho âm nhạc, giúp mở cánh cửa
tâm hồn cho hình tượng âm nhạc đi vào lòng người.Vì vậy có nhiều nhạc sĩ đã
sử dụng các bài thơ làm phần ngôn từ cho nhạc phẩm của mình. Điều này giải
thích tại sao một số bài hát ra đời là được phổ nhạc từ các bài thơ.Các bài hát
này chính là một sự giao duyên, sự kết hợp hài hòa giữa thơ và nhạc.
Thơ và nhạc đều lấy trữ tình làm phương thức thể hiện. Thơ gợi cảm
hứng, khơi nhạc hứng ở nghệ sĩ. Thơ là loại ngôn ngữ có cơ cấu để làm chỗ
dựa cho các phương pháp diễn đạt âm nhạc. Lời ca từ thơ sang nhạc có quá
trình chọn lọc theo quy luật ngôn ngữ. Thơ để phổ nhạc có những yêu cầu
riêng, trong đó lời cần đạt tới độ chuẩn. Thơ và nhạc có những điểm tương
đồng.Nói như vậy nhưng không có nghĩa thơ của bất kì nhà thơ nổi tiếng nào
cũng có thể phổ nhạc.
b. Lời được gọt giũa để phù hợp với nhạc
Các ca từ được phổ nhạc được người nhạc sĩ trau chuốt, gọt giũa để phù
hợp với các cung âm thanh. Có ba cách để phổ nhạc cho thơ: giữ nguyêntiêu
đề, lời thơ, ý thơ; giữ nguyên tiêu đề, lấy một vài khổ, không lấy cả bài; thay
đổi cảtiêu đề, chỉ phỏng ý thơ.
Trong ba cách kể trên, các nhạc sĩ đã sử dụng một số thủ pháp tương
ứng là giữ nguyên liwf thơ để phổ nhạc; hoặc cắt ghép các hình ảnh, biểu
tượng lại gần nhau để tạo điểm nhấn; hoặc sử dụng phép điệp, phép lặp các
câu hát để tạo nhịp.
Vì luận án tìm hiểu các văn bản hát Xoan (chủ yếu là phần lời thơ) nên
41
cần thiết phải nói rõ mối quan hệ khăng khít giữa thơ và nhạc cũng như
nguyên tắc phổ nhạc trên cơ sở lời thơ. Đây cũng là một cơ sở để đi vào tìm
hiểu đặc điểmca từ trong các bài hát Xoan.
1.2.2.3. Một số khái niệm cơ sở của âm nhạc và hát Xoan được sử dụng trong
luận án
a.Trổ hát
“Trổ hát là một khái niệm dùng trong hát Chèo, là một đoạn nhạc trong
một điệu hát hay một bài hát được hợp thành từ phần chính (giai điệu của bài
ca) và các phần khác, tạo nên lối biểu hiện riêng” [68, tr. 113].Về sau, khái
niệm được sử dụng rộng rãi trong các loại hình dân ca và âm nhạc dân gian
Việt Nam, đặc biệt là các hình thức hát giao duyên nam nữ đối ca.
Một trổ hát thông thường từ 2– 4 hoặc câu. Tương ứng với thuật ngữ
này trong thơ là “khổ thơ”.(Đôi khi, trong dân ca và nhạc cổ truyền, một khổ
bao gồm 2 – 3 trổ hát). Trong hát Xoan, các bài ca lao động và giao duyên là
những bài ca có nhiều trổ hát. Ví dụ5 có 2 trổ hát:
Trổ 1:Bái ra ta xá bái ra
Đôi tay sửa mũ đồng cân đội đầu
Đôi anh lại đây cho em thết trầu
Thưa rằng em ngỏ túi trầu ra thết đôi anh
Trổ 2: Trầu anh trầu túi trầu khăn
Trầu em giải yếm để lâu cũng tàn
Anh xuôi kẻ chợ mới về
Nghìn vàng chẳng tiếc, xin kể chút hơi
Kẻo còn thương nhớ anh ơi
(Bợm gái)
b. Bẻ làn, nắn điệu
Đây là hai mức độ xử lí một mô hình làn điệu âm nhạc dân gian đã có
sẵn. Bẻ làn là làm cho biến dạng các âm điệu cũ của điệu hát. Bẻ làn có thể
42
chuyển âm điệu mềm mại sang thô cứng và ngược lại bằng cách vận dụng
ngữ khí; thêm hay lược bớt, lèo láy, thay đổi nhịp độ và tiết tấu. Ví dụ như Sử
ghé xuân, gốc là làn điệu Sử thường, nhưng đã vận dụng bẻ làn làm cho âm
điệu đượm chất vui tươi. Bẻ làn thường dùng trong hình thức hát Nói như
ngâm, vỉa, nói sử, nói chênh, nói lệch,...[dt 68]
Nắn điệu là biến đổi điệu hát trên cơ sở âm điệu cũ. Có mấy cách nắn:
giữ lại đoạn cao trào của điệu cũ (đoạn giữa), đoạn đầu và đoạn cuối của điệu
đã được sửa thành câu mới; giữ lại trổ thân bài; thêm vào trổ mở đầu hoặc kết
thúc; lấy trổ kết của điệu cũ, giữ lại cách cấu trúc (phân câu), nhưng sửa đổi
giai điệu,...
Trong hát Xoan, Bỏ bộ là tổ hợp bài ca sử dụng kĩ thuật bẻ làn nắn điệu
nhiều nhất. Bỏ bộ nghĩa là hát đâu điệu bộ đó, như xe chỉ thì tay đưa mô
phỏng động tác xe chỉ; giương cung bắn cò thì người hát Xoan làm động tác
như người cầm cung đi săn. Cái hay và đặc sắc trong âm nhạc của Bỏ bộ là
nghệ nhân Xoan đã sáng tạo ra một cầu nối rất linh động là tám từ nối: “tềnh
là tềnh tang, tềnh là tang tềnh”. Với cầu nối này, người nghệ sĩ hát Xoan có
thể bẻ làn nắn điệu ra hàng trăm câu hát Bỏ bộ khác nhau.
c. Quả cách
Đây là tên gọi nguyên gốc chỉ các bài hát Xoan thuộc chặng thứ hai của
phần hát lễ. Quả cách là lõi của nghệ thuật hát Xoan. Âm nhạc của Quả cách
có cấu trúc đa dạng, phong phú, khi thưa khi nhặt ăn khớp với sự chuyển đổi
của từng dòng ca từ: khi thì nói về sự luân chuyển bốn mùa xuân – hạ - thu –
đông; khi thì nói về công việc của sĩ, nông, công, thương cùng những khát
vọng về đời sống bình an, mùa màng tươi tốt, học hành đỗ đạt,… Điều này lí
giải vì sao ở phần cuối của tên các bài luôn có chữ “cách”. Ví dụ: Trường mai
cách, Nhàn ngâm cách, Đông thời cách,…Chặng này có 14 bài, thường gọi là
14 Quả cách. Đây là 14 bài dùng để các phường Xoan thi hát và đòi hỏi độ
chính xác cao, thường được các trùm Xoan đối chiếu với các bản Nôm chép
tay. Luận án sử dụng khái niệm này và in nghiêng.
43
d. Phong cách hát Nói
Hát Nói là một thể thơ dân tộc được sinh ra từ nhu cầu của bộ môn
nghệ thuật ca Trù và trở nên một thể thơ độc đáo trong nền văn học Việt
Nam nói chung, văn học chữ Nôm nói riêng. Hát Nói xuất hiện sớm nhưng
phải đợi đến đầu thế kỷ thứ XIX mới có những tác phẩm lưu truyền đến nay
như các tác phẩm của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê,... Cùng
với thể lục bát, hát Nói là thể thơ sáng tạo riêng của dân tộc Việt Nam.
Hát Nói là biến thể của thể thơ song thất lục bát. Nhưng khi đã phát triển,
hát Nói là một thể tài hỗn hợp gồm: thơ, phú, lục bát, song thất, tứ tự, nói
lối...Hát Nói tuân thủ chặt chẽ luật thơ. Trong lối hát Cửa đình có nhiều loại như:
Dâng hương, Giáo trống, Gửi thư, Thét nhạc thì hát Nói là lối hát thông dụng và
có tính văn chương lý thú nhất [137]. Hát Xoan là một trong những thể loại của
hát Cửa đình (tên gọi khác là Khúc môn đình). Cho nên, một số bài hát Xoan sử
dụng lối hát Nói khi trình diễn và mang phong cách này khá rõ.
Như vậy, phong cách hát Nói là cách hát, kiểu hát dựa trên luật của bài
hát Nói. Phong cách hát Nói là phong cách thông dụng, phổ biến trong hát Xoan.
Phong cách hát Nói thường được sử dụng chiếm ưu thế trong các bài hát thuộc
chặng 1.
e. Phong cách hát Ngâm Ngâm (chữ Hán:吟) là tên gọi của một hình thức diễn
xướng thi phú bằng lối luyến láy, cầm và nhả chữ. Hát của Ngâm khá gần ca
Trù, nhưng đôi lúc được kết hợp với hát Nói để gia tăng sự đặc sắc, thông
thường phải dạo một khúc ngâm rồi mới hát [138].
Xét về thời gian ra đời, những bài dân ca mang phong cách hát Ngâm
xuất hiện muộn hơn các bài dân ca thuộc phong cách hát Nói. Sự khác biệt
giữa phong cách hát Ngâm với hát Nói là ở chỗ nhịp điệu của hát Ngâm
thường thể hiện tính dàn trải, tự do, tốc độ chậm, không khuôn nhịp.
Xét về luật thơ, thanh bằng trắc và số tiếng, thì hát Ngâm có sự mở
44
rộng và linh hoạt hơn. Đó là sự tương đồng giữa luật BT của lời với âm điệu
của nhạc trong phạm vi cho phép. Trên cơ sở đó, hát Ngâm hình thành các âm
tô điểm, làm cho âm thanh mềm mại, thích nghi với nhịp điệu tự do, tiết tấu
có độ co dãn lớn. Các dạng từ phụ, hư từ (ơ, a, i,…) hay các tiếng đệm đơn
(ấy mấy, mà, thời, rằng…) bắt đầu tham gia vào thành phần lời ca để chuyển
tải các nét giai điệu ngân nga, luyến láy [138]. Phong cách hát Ngâm thường
được sử dụng trong các bài hát Xoan thuộc chặng hai – hát Quả cách.
g. Phong cách ca Xướng
Theo Tú Ngọc: “Ca Xướng là kiểu giai điệu tổng hợp những đặc tính
của cả hát Nói và hát Ngâm. Nhịp điệu, cú pháp tương đối mạch lạc (tiếp nối
từ hát Nói) nhưng không đơn điệu, thô sơ mà tương đối linh hoạt, đa dạng.
Đường nét giai điệu có sự uyển chuyển linh hoạt, có khi khá tinh tế (tiếp thu
từ hát Ngâm) nhưng không quá phức tạp hóa đường âm, không thiên về sự
trau chuốt tô điểm” [79, tr.69].
Như vậy, do tính chất tổng hợp nên phong cách ca Xướng thường có ưu
thế diễn đạt được nhiều sắc thái tình cảm, cảm xúc hơn hai phong cách hát
Nói và hát Ngâm. [140]. Các bài hát Xoan chặng 3 chủ yếu sử dụng phong
cách Ca Xướng.
Trên đây là các khái niệm được sử dụng và nhắc lại trong các chương
sau của luận án.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1.Hát Xoanlà gì?
Hát Xoan là tên gọi của một loại hình dân ca xưa của vùng đất trung du
Phú Thọ. Hát Xoan được tổ chức trong dịp tiễn năm cũ và chào đón năm mới.
Xoan(có nghĩa là mùa xuân) được người xưa đọc chệch đi của từ Xuân. Hát
Xoan là điệu hát múa để chào đón mùa Xuân. Hát Xoan có nguồn gốc từ lối
hát Cửa đình – khúc môn đình.
45
Các nhà nghiên cứu âm nhạc và văn hóa còn cho rằng: hát Xoan được
hình thành từ rất lâu, là lối hát dân gian trong các lễ hội ở vùng đất Tổ, tới khi
tín ngưỡng thờ thành hoàng phát triển nó được hát ở cửa đình trong các hội
làng trở thành dân ca nghi lễ, phong tục [134].
Các nhà nghiên cứu đi trước đã gọi hát Xoan bằng các tên: hát Xoan,
Xoan, dân ca Xoan, bài Xoan, bài hát Xoan để chỉ cùng một đối tượng. Luận
án sẽ sử dụng những cách gọi này.
Ở Phú Thọ có 21 làng có tục hát Xoan song chỉ có 4 làng đi hát sang các
làng khác: Kim Đơi (Kẻ Đơi), Phù Đức, Thét (ba làng này đều thuộc xã Kim
Đức, thành phố Việt Trì) và làng An Thái (xã Phượng Lâu, thành phố Việt Trì).
Bởi vậy vào mùa lễ hội, 4 phường Xoan của làng sau khi khai xuân bằng múa
hát ở đình làng mình từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4 Tết (âm lịch), thì từ ngày
mùng 5 Tết các phường Xoan phải chia nhau đến hát ở các cửa đình làng bạn.
Ngoài 4 làng Xoan gốc, các làng ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc có tục hát Xoan là:
46
Bảng 1.1. Danh sách các làng, xã có phường hát Xoanở
tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc
Xã Làng, xóm
Huyện – Thành phố Phù Ninh
Lâm Thao Tỉnh Phú Thọ
Đoan Hùng Tử Đà Phù Ninh An Đạo Tiên Du Cao Mại Thanh Đình Kinh Kệ Hy Cương Tây Cốc
Tam Nông Việt Trì Hương Nộn Thụy Vân Nông Trang Dữu Lâu
Kim Đức
Vĩnh Phúc
Nhìn vào bảng trên thấy rõ địa bàn của Xoan chủ yếu là ở Phú Thọ. Vì
Lập Thạch Vĩnh Lạc Xóm 6, 9 Xóm 1, 3 An Đạo Xóm 2,5 Thùy Nhật Thanh Mai Hữu Bổ Cổ Tích Thăng Long, Y Kỳ Hương Nộn Vân Phú Xuân Nương Phượng Lâu, An Thái Thét, Kim Đới, Phù Đức, Nha Môn Đức Bác Xậu Kim Xá Hồng Châu Đức Bác Tử Du Kim Xá Hoàng Chuế
vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án là 42 bài hát Xoan ở Phú Thọ.
1.3.2. Cơ cấu tổ chức và các thành viên của phường Xoan
Theo lời của các nghệ nhân cao tuổi Nguyễn Thị Lịch, Nguyễn Xuân
Hội và Lê Xuân Ngũ thì: những người đi hát Xoan được tập hợp thành nhóm
với nhau gọi là phường Xoan (hoặc họ Xoan). Phường Xoan từ 12 - 18 người,
trong đó 4- 5 người là nam, nữ từ 10 -15 người. Nam gọi là kép. Nữ gọi là
đào. Kép có thể đã lập gia đình nhưng trong phường ít nhất phải có một kép
trẻ, tuổi từ 12 -16. Đào đều là các cô gái xinh đẹp hát hay, tuổi từ 16 – 20 và
chưa kết hôn.
47
Thời xưa, đứng đầu phường Xoan là một người đàn ông trung niên,
thuộc nhiều bài hát Xoan, biết chữ Nôm, được dân làng tín nhiệm bầu làm
trùm. Ông trùm là người hướng dẫn đào kép hát, múa, đồng thời là người
quản lý, liên lạc và kết nối với các làng mà phường Xoan đến hát. Để có uy
tín với các làng kết nghĩa, vai trò của ông trùm rất quan trọng.Ông trùm
phường Xoan thường là kép của phường, đã tham gia đi hát nhiều năm, có
nhiều kinh nghiệm, biết nhiều điển tích. Ông trùm đảm nhiệm các vai trò:
nhạc công thuần thục giữ nhịp trống phách, kép hát dẫn thành thạo, chỉ đạo
nghệ thuật, thầy dạy các đào, kép hát múa.Hiện nay các “trùm” Xoan (nghệ
nhân hát Xoan) gốc không chỉ là nam mà còn có nữ. Nghệ nhân ưu tú Nguyễn
Thị Lịch là một trường hợp tiêu biểu.
Trong cuộc phỏng vấn, các nghệ nhân cũng nói về thời gian diễn xướng
hát Xoan. Hàng năm vào tháng chạp âm lịch, phường Xoan được tập hợp dưới
sự luyện tập hướng dẫn của ông trùm để ra giêng đi hát.Những người đi hát
không phải vì kế sinh nhai, nghề chính vẫn là làm ruộng. Họ chỉ đi hát trong
lúc nông nhàn. Địa điểm luyện tập tại nhà ông trùm. Hoạt động như một đơn vị
hoạt động nghệ thuật bán chuyên nghiệp, nhưng khâu tuyển chọn đào kép cho
phường Xoan rất được chú trọng. Kép trong phường Xoan là nghệ sĩ nam, hát
đồng thời là nhạc công với tay trống, tay phách điêu luyện. Đào phường Xoan
là nữ, phải đảm bảo có hai tiêu chuẩn là thanh và sắc.Thiếu một trong hai tiêu
chuẩn, đào không được nhập phường.Khi đã lập gia đình, các cô đào không đi
hát nữa. Ngoài khả năng về thanh nhạc, các cô đào được truyền dạy các kĩ năng
về hát múa, được giảng dạy tỉ mỉ về các điển tích trong bài hát, được trau dồi
bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức văn học,âm nhạc dân gian và bác học.
Phường Xoan lưu diễn từ làng này qua làng khác theo thời gian quy ước, mỗi
làng sở tại đều có những yêu cầu riêng.Có làng yêu cầu ngoài phần hát lề lối,
các cô đào cùng các chàng trai sở tại hát Đúm giao duyên. Có làng có những
gia đình khá giả mời phường Xoan đến hát tại nhà, chủ yếu là hát các bài, các
48
làn điệu thuộc giọng ngoài như: Hátlý, Hát Ru, Hát Phú…đây là các bài có âm
điệu, lời ca mở và lối hát thuộc chặng hát thứ ba, khác với chặng hát thứ nhất
và chặng hát thứ hai. Nhất là các bài hát phú, chỉ hát những điển tích của văn
chương bác học: Phú Kiều, Phú Lưu Bình Dương Lễ, Phú Thị Kính, Phú Xích
Bích. Với những yêu cầu của các làng sở tại thì từ ông trùm đến các đào, kép
phải có một trình độ Nho học nhất định và khả năng văn hoá âm nhạc tương
đối phong phú mới đáp ứng được.
1.3.3. Giao tiếp ứng xử và địa điểm diễn xướng của hát Xoan
Các nghệ nhân được phỏng vấn cho biết cuộc lưu diễn của các phường Xoan
thường diễn ra trong hơn 2 tháng. Lệ giữ cửa đình quy ước mỗi phường Xoan
chỉ có một số cửa đình chính để hàng năm đến hát thờ. Ví dụ phường Kim
Đới giữ cửa đình Hữu Bổ, Thanh Mai, Nha Môn…phường Phù Đức giữ các
đình Phù Ninh, Đức Bác, Y Kỳ, Tây Cốc… “Phường Xoan mời cả làng đến
hát chung với nhau bằng “tục kết chạ” (nước nghĩa) anh em. Phường Xoan là
em, làng sở tại là anh. Tình cảm anh em này rất được trân trọng, xưng là anh -
em nhưng bình đẳng. Tục kết nghĩa cũng quy định đào, kép phường Xoan
không được kết hôn với trai gái của làng mình kết nghĩa. Quy định này phản
ánh tình cảm đạo đức trong sáng giữa đào kép phường Xoan với trai gái làng
kết nghĩa” [147, tr.79].
Nơi diễn ra cuộc hát Xoan ở khoang giữa đình, trước bàn thờ, xung
quanh có các quan viên (chức sắc), các bô lão, trai làng tham gia trong cuộc
hát với các đào, kép phường Xoan và dân làng tới xem. Địa điểm diễn xướng
ở cửa đình nhưng còn hát ở trong đình. “Ngày xưa trước cuộc hát Xoan, đào
phường Xoan thường hát Trống quân với trai làng Đức Bác ở bến sông, trên
đường làng, rồi mới vào hát ở cửa đình. Một cuộc hát Xoan có thể bắt đầu vào
buổi sáng hoặc vào buổi tối do làng sở tại ấn định thời gian” [83, tr.61].
1.3.4. Mục đích ca hát và trang phục, đạo cụ và nhạc cụ của hát Xoan
49
Các nghệ nhân lão thành của Xoan cho rằng: mục đíchcủa sinh hoạt hát
Xoan là để thoả mãn nhu cầu tâm linh: tế thần, cầu mong mưa thuận gió hòa,
quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt; nhu cầu giao tiếp: nam nữhát giao duyên
và nhu cầu giải trí, thầm mĩ.Hàng năm phường Xoan thường trích một khoản
thù lao thu nhập từ đi hát để mua sắm trang bị đạo cụ và nhạc cụ. Khi đi hát,
các cô đào thường mặc váy sồi hay quần láng đen, áo tứ thân, năm thân, (hoặc
là bao xanh bao hồng), đầu vấn khăn nhung đen, hay khăn mỏ quạ. Kép và
những chàng trai làng tham gia trong cuộc hát Xoan mặc quần ống sớ màu
trắng, áo the thâm dài tới đầu gối, cổ quàng dải nhiễu điều, đầu đội khăn hay
khăn xếp đen.Trong quan niệm của phường Xoan, trang phục khi đi hát phải
đẹp, trang trọng không những biểu lòng tôn kính với thần linh mà còn biểu lộ
sự tôn trọng của mình đối với dân các làng kết nghĩa. Đây cũng là biểu hiện
văn hoá ứng xử của phường Xoan.
Đạo cụ của phường Xoan đơn giản, chỉ có quạt giấy với một quyển
sách chép đầy đủ 14 Quả cách bằng chữ Nôm. Nhạc cụ của phường Xoan
cũng rất đơn giản, chỉ gồm một trống nhỏ bằng gỗ (thường làm bằng gỗ mít
già) hoặc cặp trống bịt bằng da trâu hoặc da bò, và một cặp phách.
1.3.5. Đặc điểm diễn xướng và trình tự cuộc hát Xoan
Mỗi cuộc hát Xoan dựa vào nội dung và cách trình bày có thể chia làm
3 chặng
1.3.5.1.Chặng nghi thức - Chặng hát thờ (Hát nghênh thần, hát khẩn nguyện)
Phần này do phường Xoan hát, không có sự tham gia của trai gái làng sở
tại, khi hát mặt hướng lên bàn thờ. Phường Xoan thường đi hát ở các làng kết
nghĩa, nên phần nghi thức ông trùm phường cùng ông chủ tế làng sở tại phải
đứng trước hương án của làng, chắp tay kính cẩn vái lạy các thần linh. Sau đó
ông trùm phường hát những lời thỉnh mời, được xướng theo kiểu vãi tế gọi là
Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng. Nối tiếp bài Hát nhập tịch chào
50
vua và Hát chúc thành hoàng là bài Giáo trống. Bài Giáo trống do kép trẻ nhất
phường với chiếc trống nhỏ đeo trước bụng và nhảy múa. Phường Xoan phụ hoạ
phần diễn của kép trẻ, bốn đào ra trước hương án, tay nâng quạt làm điệu bộ
dâng hương, chân bước lên bước xuống, hát các bài Giáo pháo, Thơ nhang,
Đóng đám. Nội dung chủ yếu của những bài hát ở phần nghi thức là thỉnh mời,
cầu chúc các vị thần linh về dự lễ tế, che chở cho quốc thái dân an, dân làng
được an khang, no đủ, mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa.
1.3.5.2.Chặng hát các Quả cách (Hát cách)
Tiếp theo là chặng hát 14 Quả cách (nội dung chính của phần hát lễ).
Xét về dung lượng, đây là những bài dài nhất trong ba chặng của cuộc hát
Xoan. Mỗi Quả cách (tương ứng với một bài hát Xoan) là một bức tranh âm
thanh khi thì nói về sự luân chuyển của thiên nhiên bốn mùa xuân, hạ, thu,
đông; khi thì nói lên khát vọng trong cuộc sống của bốn lớp người trong xã
hội lúc bấy giờ: sĩ, nông, công, thương; hoặc kể lại những chuyện xưa, tích
xưa. Riêng hai bài Kiều Giang cách và Chơi dâu xướng cách là những Quả
cách chỉ được hát trong lễ tế kị của phường Xoan.
Về diễn xướng thì mỗi Quả cách có nhiều vẻ nhưng cơ bản là hát theo
phong cách Ngâm và hát Nói. Ông trùm Xoan hay một kép ngồi ở giữa khoang
đình đánh trống phách và hát dẫn. Các đào đứng sau, hát phụ hoạ bằng cách hát
lại nguyên một câu hay một đoạn vừa hát, có khi chỉ là nhưng câu đưa hơi. Các
Quả cách là những áng thơ Nôm được ghép vào bài Xoan do một số nhà Nho
viết ra, mang những yếu tố của văn chương bác học. Một trong những biểu
hiện của sự cấy ghép này là một số các đình làng như Cao Mại, Hữu Bổ,
Hương Nộn... có tổ chức mời các phường Xoan đến hát thi các Quả cách. Hát
thi có giải nhất, nhì, ba tuỳ theo sự chính xác về lời ca của người thi so với
sách.Chặng hát này mang đậm màu sắc Xoan nhất, như một sợi chỉ đỏ xuyên
suốt nghệ thuật hát Xoan. Nó chứa đựng những yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ
về âm nhạc, múa, diễn xướng, Cách trình bày: một kép hát trước, tốp đào hát
51
sau và múa; cách nhau một quãng 4, quãng 5. Sự thay đổi giọng giữa nam và
nữ không chỉ để cho vừa giọng mà còn tạo cho người nghe cảm thấy màu sắc
luôn thay đổi để không bị nhàm chán.
Về âm nhạc, chặng hát thờ và hát cách đơn giản cả về tiết tấu và giai
điệu,tính chất trang nghiêm, thành kính.
1.3.5.3. Chặng ba:hát hội (hát giao duyên)
Hát hội là chặng sôi nổi nhất, sinh động nhất và kết thúc một cuộc hát
Xoan. Chặng này gồm nhiều bài được kết nối với nhau theo hình thức tổ khúc
hay liên khúc hát, múa, diễn trò. Không chỉ có đào kép phường Xoan hát, múa
các tiết mục mà còn có sự tham gia biểu diễn của trai, gái làng sở tại. Khi hát
nam, nữ có thể quay mặt lại với nhau hoặc cùng vui múa, diễn với khán giả
xung quanh. Trình tự hát hội có các phần: Bợm gái, Bỏ Bộ, Xin hoa - Đố chữ,
Gài Hoa, Giã Cá. Ngoài những điệu hát trong quy định trên còn có những
trường hợp hát mở rộng thêm những điệu hát ngoài lề lối (các nghệ nhân gọi
là giọng ngoại) như: hát ru, các điệu lí, điệu phú,…
Như vậy, từ tìm hiểu thực tế, tiến hành thực hiện đề tài Đặc điểm ca
từtrong hát Xoan Phú Thọ tác giả luận án mong muốn và hi vọng có thể
bước đầu góp thêm một cái nhìn, một hướng đi khác về di sản tinh thần quan
trọng này. Đó là tìm hiểu hát Xoan Phú Thọ từ góc nhìn của Ngôn ngữ học.
Diện mạo, sức sống và bản chất của ca từ hát Xoan như thế nào sẽ được
đề cập trong chương tiếp theo của luận án.
1.3.6. Hát Xoan trong đời sống đương đại
Ngày 8/12/2017, tại Hội nghị lần thứ 12, Ủy ban liên Chính phủ về Bảo
vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO đã chính thức đưa hát Xoan Phú
Thọ ra khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp và trở thành Di sản văn hóa phi vật thể
đại diện của nhân loại. Đây là trường hợp đầu tiên và duy nhất trong lịch sử
vinh danh của UNESCO. Sự kiện này đã đánh dấu thành công bước đầu của
52
tỉnh Phú Thọ và cộng đồng đã nỗ lực, quyết tâm thực hiện cam kết bảo vệ di
sản hát Xoan trong tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp suốt 7 năm (năm 2011, hát
Xoan được công nhận là di sản văn hóa cần bảo vệ khẩn cấp). Trải qua tiến
trình phát triển của lịch sử, từ thời đại các vua Hùng dựng nước Văn Lang đến
hiện tại, hát Xoan vẫn tồn tại và đang hiện diện với nghệ thuật đặc sắc riêng
biệt: hát thờ vua Hùng, tướng lĩnh và Thành hoàng làng; hát trước cửa đình và
hát vào mùa xuân; hát lễ và hát đám. Trong 9 năm qua, hát Xoan đã thực sự
hồi sinh cùng những tập tục liên quan như tục hát cửa đình và tục kết nghĩa
giữa các làng có đình, miếu liên quan với các phường Xoan, càng phát huy
tính cộng đồng và sức sống của nó.Chức năng trình diễn nghệ thuật của hát
Xoan, đặc biệt là phần hát giao duyên, ngày nay không những đang được duy
trì đều đặn trong mọi dịp lễ, Tết mà còn được mở rộng dưới nhiều hình thức
như hội diễn văn nghệ, các cuộc thi trong trường học các cấp, sinh hoạt cộng
đồng, công đoàn, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên địa phương,
dịp gặp gỡ bạn bè, liên hoan văn nghệ cơ quan. Khi đó, hát Xoan được phát
huy như một sự tự giới thiệu về văn hóa và bản sắc địa phương của cộng đồng
cư dân Phú Thọ. Tối thứ 7 hàng tuần, tại công viên Văn Lang vẫn duy trì nếp
sinh hoạt giữa các phường Xoan với nhau. Gần đây, vẫn dựa trên các bài bản
Xoan cổ, những người yêu Xoan còn sáng tác, phổ biến những lời Xoan mới
thích ứng với lứa tuổi và sở thích của lớp trẻ, để đáp ứng nhu cầu giáo dục
đạo đức, lối sống mới và cả việc bảo vệ môi trường.
Với mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành mũi nhọn của tỉnh Phú Thọ,
Hát Xoan có cơ hội khởi sắc và tham gia vào phát triển kinh tế, văn hóa địa
phương, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Theo Chương trình phát triển du lịch Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2010 và định
hướng đến năm 2020 (số 987/2006/CTr - UBND ngày 02 tháng 6 năm 2006
của tỉnh Phú Thọ) và Dự án Xây dựng điểm du lịch lễ hội của ngành Văn hóa,
Thể thao và Du lịch năm 2008, hội Xoan An Thái (Việt Trì) sẽ được xây dựng
53
thành một trong 10 điểm du lịch lễ hội của tỉnh Phú Thọ, trong đó xây dựng
các phân điểm chức năng như văn hóa - lễ hội, mua sắm, ẩm thực, vui chơi
giải trí… nhằm đưa lễ hội làng Xoan và hát Xoan tham gia vào du lịch, thu
hút du khách tìm đến với Xoan ngay chính trong môi trường văn hóa và cộng
đồng của nó.
1.4. Tiểu kết
Hát Xoan là loại hình dân ca xưa của vùng đất Phú Thọ, được tổ chức trong
dịp tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Xoan được người xưa đọc chệch đi của
từ Xuân (có nghĩa là mùa xuân). Hát Xoan là điệu hát múa để chào đón mùa
Xuân. Đây là lối hát dân gian trong các lễ hội ở vùng trung du Bắc Bộ, tới khi
tín ngưỡng thờ thành hoàng phát triển nó được hát ở cửa đình trong các hội
làng trở thành dân ca nghi lễ, phong tục.
Dù có một số công trình nghiên cứu đề cập đến hát Xoan Phú Thọ ở
các góc độ lịch sử, xã hội, văn hóa và nghệ thuật nhưng chưa có bất cứ một
công trình nào có hướng nghiên cứu về đặc điểm ca từ hát Xoan Phú Thọ (từ
góc độ Ngôn ngữ học).
Dựa trên cơ sở lí thuyết về Ngôn ngữ học (phân tích diễn ngôn;một số
khái niệm cơ bản về đoạn, khổ,…; trường từ vựng – ngữ nghĩa; biểu tượng
ngôn ngữ) và Văn hóa học (mối quan hệ giữa ngôn ngữ văn học với âm nhạc;
nguyên tắc phổ nhạc trên cơ sở lời thơ; một số khái niệm âm nhạc - văn học
cơ bản và cơ sở thực tiễn (hát Xoan trong đời sống xã hội, văn hóa), luận án
xác định hướng nghiên cứu là tập trung vào các đặc điểm hình thức và ngữ
nghĩa của ca từ hát Xoan.
54
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂMCA TỪ HÁT XOAN PHÚ THỌ
XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC
2.1. Kết cấu “đoạn”của văn bản hát Xoan
Kết cấu văn bản hát Xoan gắn bó chặt chẽ với kết cấu giai điệu âm
nhạc và khuôn khổ bài hát. Văn bản hát Xoan có thể chia làm 3 dạng kết cấu
đoạn chính. Đó là kết cấu một đoạn, hai đoạn và ba đoạn. Dưới đây là bảng
thống kê các bài hát Xoan chia kết cấu theo đoạn.
Bảng 2.1. Đoạn và sự phân loại các bài hát Xoan
Tên bài hát Số bài Tỉ lệ % Kết cấu “đoạn”
1 đoạn 12 28,6
2 đoạn 13 30,9
3 đoạn 17 40,5
Bỏ bộ, Hát đúm, Trèo lên cây bưởi, Hát lý, Gài huê - Bắt cá, Đường đi trên suối dưới đầm, Giương cung bắn cò, Xe chỉ vá may, Cầu Bạch cầu Bông, Trồng bông luống đậu, Dệt gấm thêu hoa, Xẻ ván bắc cầu. Giáo pháo, Thơ nhang, Đóng đám, Bợm gái, Thết trầu, Xin huê – đố chữ, Đánh cá (Giã cá, Mó cá, Bắt cá), Mời rượu, Phú Xích Bích, Phú Kiều, Bút huê thảo,Trống quân Đức Bác, Trống quân đón đào. Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Giáo trống, 14 bài Quả cách.
42 100% Tổng số
2.1.2. Dạng kết cấu một đoạn
Kết cấu một đoạn trong bài nghĩa là bài hát Xoan chỉ gồm một đoạn thân
bài, không có đoạn mở và đoạn kết. Dạng kết cấu một đoạn chiếm vị trí ít
nhất,12/42 bài hát (~ 28,6 %). Điều dễ thấy là 100% bài thuộc chặng hát hội
(chặng 3). Nhìn vào bảng 2.1 trên, thấy rõ các bài hát Xoan có kết cấu một đoạn
không có bài nào thuộc chặng hát Nghênh thần (chặng 1) và chặng hát Quả cách
(chặng 2). Điều này cũng khẳng định tính chất mở, linh hoạt, không theo lề lối, bài
55
bản quy định như các bài hát ở chặng 1 và chặng 2. Nhằm truyền tải nội dung lời
ca dài, dạng kết cấu này thường vận dụng lối hát theo trổ. Thông thường, mỗi trổ
lời ca tương ứng với một đoạn nhạc, trong đó mỗi câu nhạc hình thành trọn vẹn
trên một dòng thơ. Trong 12 bài Xoan này, dài nhất là bài Hát đúm (207 câu),
ngắn nhất là bài Xẻ ván bắc cầu (27 câu). Trích đoạn hai khổ hát đầu bài Gài huê
dưới đây, mỗi trổ gồm hai câu nhạc, câu một ứng với dòng sáu tiếng, câu hai ứng
với dòng tám tiếng. Câu hát có tính chất đưa đẩy Kìa hỡi í a trống quân có tác
dụng vừa báo hiệu kết thúc trổ, vừa mở ra một trổ hát mới. Ví dụ 6:
Khổ 1
Tam thanh một cảnh huê nhài
Lòng anh muốn lấy cô cài cành huê
kìa hỡi í a trống quân
Khổ 2
Tam thanh một cảnh huê hồng
Chàng đã có lòng thiếp cũng xin vâng
kìa hỡi í a trống quân…
Khổ 3
Tam thanh một cảnh huê cà
Đôi ta thấp bé làm nhà ở chung
kìa hỡi í a trống quân…
(Gài huê)
Như vậy, một khổ bao gồm một trổ hát cùng với câu hát đưa đẩy, câu hát đệm.
Từ trên, có thể mô hình hóa dạng kết cấu một đoạn của các bài hát Xoan như sau:
Khổ 1
Khổ 2
Khổ 3
Bảng 2.2. Mô hình kết cấu một đoạn gồm 3 trổ
Trổ 1 Câu hát đưa đẩy Trổ 2 Câu hát đưa đẩy Trổ 3 Câu hát đưa đẩy
56
Mô hình trên cho thấy ở các bài Xoan kết cấu một đoạn có bao nhiêu
trổ hát sẽ có bấy nhiêu câu hát đưa đẩy. Bài hát càng có nhiều trổ hát cũng là
bài hát có nhiều câu hát đưa đẩy được nhắc lại.
Một số bài như Hát ru, Hát lý đã vận dụng các thủ pháp như vay - trả,
nhắc lại, thêm cụm từ cố định và thoát khỏi sự chi phối của ca từ. Vì vậy kết
cấu âm nhạc được mở rộng, mỗi trổ hát gồm ba câu nhạc tương ứng với hai
câu thơ. Trong mỗi trổ hát của bài Hát ru, câu một ứng với câu 6 tiếng, câu
hai ứng với câu 8 tiếng. Khi hát, câu hai vay thêm hai từ cuối của câu 6 tiếng,
rồi hát trả lại toàn bộ câu 8 tiếng, câu thứ ba và thứ tư được mở rộng với câu
hát đưa đẩy Ru hời ru hỡi…thể hiện tính chất công việc cũng như báo để kết
thúc trổ hát. Câu hát đưa đẩy ở bài này là 2 câu Ru hời ru hỡi. Ví dụ 7:
Đố ai quét sạch lá rừng
(lá rừng) để ta khuyên gió, gió đừng rung cây…
(Ru hời ru hỡi ru hời i i i hời a lại ơi
Ấy mấy ru tình ru í ru là tình ru).
(Hát ru)
Bài Hát đúmcó câu đưa đẩy Vậy nên có thơ đúm rằng (được lặp lại 17
lần) ở giữa các khổ thơ, các trổ hát. Ví dụ 8:
…Trai khôn lấy được vợ khôn Trổ hát trước Khác nào cá vượt Vũ môn hóa rồng
Câu hát đưa đẩy Vậy có thơ đúm rằng:
Bút vui chơi họa một bài
Trổ hát kế tiếp Dặm trường tri kỷ nàng chớ nghe ai
Cách mặt, cách lời, lòng không cách
Phai duyên, phai phấn, tình không phai…
(Hát đúm)
Trường hợp của bài Bỏ bộ thì câu hát đưa đẩy là câu Tềnh là tang tềnh,
tềnh là tềnh tang. Câu hát đưa đẩy này cùng với kĩ thuật bẻ làn nắn điệu đã giúp
choBỏ bộ có hàng chục trổ hát với hàng trăm câu khác nhau. Có thể nói, các bài
57
hát Xoan có kết cấu một đoạn là các bài hát có tính chất linh hoạt và ngắn gọn
nhất trong toàn bộ cuộc hát Xoan. Các bài hát Xoan một đoạn vận dụng phong
cách hát Ca Xướng một cách triệt để.
2.1.3.Dạng kết cấu hai đoạn
Các bài Xoan thuộc dạng này không có đoạn kết bài. Dạng kết cấu hai đoạn
trong hát Xoan chủ yếu nằm ở các bài có đoạn mở đầu và đoạn thân bài. Đoạn mở
đầu có dung lượng từ 4 – 10 câu. Đoạn thân bài dài từ 25 – hơn 100 câu. Đoạn
mở đầu mang đặc điểm của lối hát Nói. Đoạn thân có sự phong phú hơn về nhịp
điệu và tiết tấu, hát theo phong cách hát Ngâm và ca Xướng. Đoạn mở đầu thường
không phân thành trổ, mỗi dòng ứng với một câu nhạc. Đoạn thân bài được hát
theo trổ. Mỗi trổ hát tương ứng với một khổ. Dạng cấu trúc hai đoạn có trong các
bài như Giáo pháo, Thơ nhang, Đóng đám, Bợm gái, Thết trầu, Xin huê – đố chữ,
Đánh cá (Giã cá, Mó cá, Bắt cá), Mời rượu, Phú Xích Bích, Phú Kiều, Bút huê
thảo,Trống quân Đức Bác. Bảng thống kê cho thấy các bài Xoan có dạng kết cấu
hai đoạn chiếm số lượng là 13/42 bài (30,9 %). Ở 11 bài Xoan này dài nhất là bài
Xin huê, đố chữ (116 câu), ngắn nhất là bài Hát lý (28 câu). Các bài Xoan Giáo
pháo, Thơ nhang được đào hát, Đóng đám do kép hát. Ba bài này chính là các bài
Xoan ở chặng hát nghênh thần, nên quy định chặt chẽ về người hát. Các bài Xoan
còn lại đều ở chặng hát giao duyên nên linh hoạt hơn trong vai người hát chính.
Với các bài Xin huê - đố chữ, Trống quân Đức Bác và Trống quân đón đào thì
đan xen cứ một trổ nam hát, một trổ nữ hát. Nam hát trước, nữ hát sau. Đến câu
đưa đẩy thì cả hai cùng hát. Mỗi bài hát Xoan sẽ có một câu hát đệm hoặc câu hát
đưa đẩy riêng, đặc trưng. Có thể coi câu hát đưa đẩy, câu hát đệm là câu kết của
các bài hát Xoan dạng này. Câu hát đưa đẩy ở phần Xin huê là câu Huê hời huê
hỡi là huê. Dưới đây là ví dụ cho kết cấu 2 đoạn của bài Xin huê, đố chữ. Ví dụ 9:
Đoạn mở
Hái huê ta ra hái huê
Chớ thấy huê tốt mà cầm cả
Nữa một mai huê rữa
Bán một đồng mười.
58
Đoạn thân
Trổ 1
Anh xin nàng chút huê, sao hỡi nàng?
Trình chàng quân tử, chàng chớ đãi bôi
Chàng bảo tôi huê là huê gì?
Đã vậy huê gì thời chàng phải nghĩ
Cho thiếp được hay.
Trổ 2
Anh xin nàng chút huê trong hộp
Huê trong hộp anh thuận huê gì?
Huê trong hộp anh thuận huê trầu
Trổ 3
Huê trầu mùa này nó chưa nở
Nữa một mai nó nở, thiếp lại bẻ cho chàng
Sợ chàng chẳng yêu, sợ chàng chẳng dấu
Để nụ huê héo
Huê hời huê hỡi là huê…
Cứ như thế cho đến hết bài: bên nam xin, bên nữ trả lời. Các bài Xoan đã kể
trên cũng có kết cấu tương tự. Các trổ hát trong những bài Xoan 2 đoạn
thường không cố định về số dòng, câu. Một trổ hát của bài hát Xoan có kết
cấu hai đoạn thường có từ 3 – 6 câu (tính cả câu hát đệm). Có thể mô hình hóa
các bài hát Xoan theo kết cấu hai đoạn như sau:
Bảng 2.3. Mô hình kết cấu hai đoạn trong hát Xoan
Mô hình – Dung lượng 1 – 2 khổ
Trổ 1 Vị trí đoạn Mở Nội dung Chào + Chúc + Giới thiệu Hát nội dung của bài theo nhan đề Thân
Trổ 2 Trổ 3
59
2.1.3. Dạng kết cấu bađoạn
Dạng kết cấu ba đoạn trong hát Xoan nghĩa là một bài hát Xoan gồm đầy
đủ 3 phần: đoạn giáo cách (mở bài), đưa cách (thân bài) và kết cách (kết bài).
Dạng kết cấu 3 đoạn là hình thức tiêu biểu nhất của hát Xoan. Dạng kết cấu này
chiếm 17/42 bài (40,5 %). Kết cấu này thể hiện tính chặt chẽ, mạch lạc, có quy
định rõ ràng của hệ thống 14 bài Quả cách. Ngoài 14 bài Quả cách, có 3 bài
Xoan khác có kết cấu ba đoạn là: Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành
hoàng, Giáo trống đều là các bài thuộc chặng hát nghênh thần. 17 bài này được
hát theo phong cách hát Nói và hát Ngâm là chủ yếu.
Mỗi Quả cách gồm có ba đoạn như bảng dưới đây
Bảng 2.4. Tên gọi và nội dung 3 đoạn
Stt
Nội dung Mở đầu: chào, giới thiệu nội dung của Quả cách. Đoạn 1 Tên gọi Giáo cách (còn gọi là giang đầu – bỉ đầu)
Đoạn 2 Đưa cách (dẫn cách) Đoạn 3 Kết cách Nội dung chính của Quả cách Kết thúc Quả cách
Ví dụ10:
Đoạn 1 - Giáo cách
Kính lại chiềng làng
Điểm trống gia tang
Lẳng lặng thuở này
Mà nghe tôi giáo
Kiều Dương mội cách.
Đoạn 2 - Đưa cách
Lưu truyền cổ tích
Có cô gái làng
Đi chơi một mình
Đến chưng quán ấy
Cầm lấy đôi sinh
Ngâm nga một mình…
60
Đoạn 3 - Kết cách Len là len hỡi, len hỡi là len
Giã tiệc này vua là Đại vương
(Kiều Giang /Dương cách)
Giáo cách thường có độ dài ngắn không nhất định. Đoạn mở đầu này
phổ biến hình thành trên thể 4 tiếng, không phân thành trổ, mỗi dòng ứng với
một câu ca.
Đoạn đưa cách được coi là phần chính, cốt lõi của mỗi quả cách. Đoạn
này được hát theo trổ, bao gồm cả phần hát của nam và nữ. Mỗi trổ hát tương
ứng với một đoạn.
Kết cách thường do nam và nữ hát đồng thanh. Kết cách thực ra rất
ngắn gọn thường được thể hiện bằng cấu trúc câu hát đệm, câu hát đưa đẩy.
14 bài Quả cách có chung câu hát đệm Len là len hỡi...Đây là những ca từ để
báo hết một bài Xoan ở chặng này.
Như vậy, có thể nhận thấy 3 bài hát thuộc chặng hát thờ và chặng hát
các Quả cách chủ yếu là những bài có kết cấu đầy đủ 3 đoạn. Có thể mô hình
hóa các bài hát Xoan có kết cấu 3 đoạn như sau:
Bảng 2.5. Mô hình kết cấu ba đoạn trong hát Xoan
Đoạn Giáo cách Mô hình – Dung lượng 1 khổ (16/17 bài) theo thể 4 tiếng
Đưa cách Nội dung chào làng nước, tuyên bố lí do, giới thiệu bài hát hát nội dung Quả cách theo nhan đề
Kết cách Trổ 1 Trổ 2 Trổ 3 … 2 câu hát chung cho cả 14 bài Quả cách Len là len hỡi, len hỡi là len, Ấy giã tiệc này vua là Đại vương
Như vậy, nhìn vào các mô hình có thể thấy các bài hát Xoan kết cấu
một đoạn và hai đoạn chủ yếu là các bài Xoan thuộc chặng hát hội (chặng hát
các bài hát giọng vặt hoặc hoạt cảnh, trò chơi). Các bài hát Xoan có kết cấu ba
đoạn là các bài Xoan thuộc chặng hát thờ và chặng hát quả cách. Từ đây,
61
người nghe thấy rõ có sự tương thích, phù hợp giữa tính chất của chặng hát
với kết cấu của một bài hát Xoan.
2.2. Thể trong hát Xoan
Các thể được vận dụng trong hát Xoan tương đối phổ biến. Đó là các
thể: 4 tiếng, 5 tiếng, lục bát, song thất lục bát, thất ngôn và các biến thể của
từng thể. Ngoài ra còn cần phải kể đến thể tự do - thể được hình thành từ
những câu dài ngắn khác nhau. Những trường hợp xuất hiện các câu 3 tiếng
hoặc là các câu hát đệm, các câu hát đưa đẩy không nằm trong danh mục khảo
sát. Khi khảo sát, chúng tôi căn cứ vào tần số xuất hiện chủ yếu của thể đó để
phân loại. Cần thiết phải nói rõ là không có một bài hát Xoan nào hoàn toàn
chỉ có một thể. Có những bài hát có sự kết hợp của nhiều thể khác nhau. Ví dụ
bài Nhàn ngâm cách dùng thể lục bát là chính có kết hợp với thể 4 tiếng và
các biến thể của thể lục bát. Bài Hát đúmthể lục bát là chính và kết hợp với
thể song thất lục bát và các biến thể. Biến thể của các thể, tác giả căn cứ vào
số tiếng trong một dòng để xem xét, bỏ qua các biến thể về nhịp, vần hay ngữ
âm. 42 bài hát Xoan được khảo sát đều có những thể nhất định chiếm ưu thế
và các biến thể của nó. Căn cứ vào phần Pl5, có bảng:
Bảng 2.6. Thể và sự phân loại các bài hát Xoan
Số lượng – Tỉ lệ %
Thể 4 tiếng và biến thể
9 – 21,4
14 – 33,3
Tên bài hát Hát nhập tịch chào vua Hát chúc thành hoàng Giáo pháo Thơ nhang Đóng đám Kiều giang (dương) cách Chơi giâu xướng cách Giương cung bắn cò Xẻ ván bắc cầu Thu thời cách Nhàn ngâm cách Thuyền chèo cách Trống quân Đức Bác Trống quân đón đào Mời rượu Bỏ bộ
62
Tên bài hát
Số lượng – Tỉ lệ %
Thể lục bát và biến thể
11 – 26,2
thất ngôn và biến thể
2 – 4,8
6 – 14,3
song thất lục bát và biến thể tự do
Hát ru Hát đúm Trồng bông luống đậu Gài huê Xe chỉ vá may Đường đi trên suối dưới khe Trèo lên cây bưởi Giáo trống Trường mai cách Ngư tiều canh mục cách Đối giãy cách Hồi liên cách Tứ dân cách Hát lý Phú Xích Bích Phú Kiều Phú năm canh Bút huê thảo Tứ mùa cách (Tứ đưa xoan cách) Giã cá (Mó cá, Đánh cá, Bắt cá) Xoan thời cách (Mừng xoan cách) Hạ thời cách (Mừng hạ cách) Đông thời cách (Đưa đông cách) Xin huê – Đố chữ Bợm gái Cầu Bạch cầu bông
2.2.1.Thể 4 tiếng và biến thể
Bảng trên cho thấy thể 4 tiếng chiếm số lượng 9/42 bài (21,4 %). Thể 4
tiếng và biến thể chiếm số lượng 5 bài ở chặng hát thờ, 2 bài ở chặng hát quả
cách và 2 bài ở chặng hát hội. Điều này cho thấy hình thức câu thơ phù hợp
với nội dung của bài hát. Cụ thể là phần lớn các bài hát thuộc chặng một (hát
thờ, hát nghênh thần) và chặng hai (Quả cách) mang nội dung khẩn nguyện
gần với lối hát Nói nên thích hợp với thể thơ 4 tiếng. Có thể chia 9 bài hát
Xoan theo thể 4 tiếng và biến thể của nó thành 2 loại: 4 tiếng và dòng biến thể
5, 6 tiếng; 4 tiếng và dòng biến thể 7 trở lên.
2.2.1.1. Thể 4 tiếng và dòng biến thể 5,6 tiếng
Tiểu loại này có 5/9 bài (55,5 %). Đó là các bài: Hát nhập tịch chào
vua, Hát chúc thành hoàng, Thơ nhang, Đóng đám, Kiều Giang cách. Đặc
63
điểm về thể của các bài hát Xoan này làthể 4 tiếng được sử dụng gần như
trong cả bài, đôi khi xen kẽ một số dòng 5 tiếng hoặc 6 tiếng. Có bảng sau:
Bảng 2.7. Số dòng 4 tiếng và dòng biến thể 5 - 6 tiếng trong các bài
hát Xoan
Tên bài hát Xoan
Hát nhập tịch chào vua Hát chúc thành hoàng Thơ nhang Đóng đám Kiều Giang cách Tổng số Số dòng 4 tiếng- tỉ lệ 24 – 63.1 14 – 70,0 55 – 87,3 34 – 75,6 61- 70,9 188 – 74,6 Số dòng biến thể 5 – 6 tiếng – tỉ lệ 14 – 36,9 6 – 30,0 8 – 12,7 11 – 24,4 25 – 29,1 64 – 25,4 Tổng số dòng – tỉ lệ 38 20 63 45 86 252 - 100
Từ bảng trên có thể thấy rõ số lượng câu thơ 4 tiếng ở 5 bài hát Xoan trung
bình chiếm 74,6 % trong cả bài; số lượng các câu thơ biến thể 5 và 6 tiếng trung
bình trong 5 bài chiếm 25,4%. Trong đó, bài có nhiều câu thơ biến thể 5 – 6 tiếng
nhất là bài Kiều Giang cách (25/86 câu tướng ứng với 29,1%), bài có ít câu thơ
biến thể nhất là bài Hát chúc thành hoàng (6/20 câu tương ứng với 30,0 %).
Có thể thấy vị trí dòng thể 4 và biến thể 5, 6 tiếng ở các khổ 1,2 và 3 ở
ví dụ 11:
Khổ
1
2
3
Số tiếng trong dòng Ví dụ11 4 4 4 4 4 4 4 4 5 – 6 4 4 4 4 5 – 6
Kính lạy chiềng làng Điểm trống gia tang Lẳng lặng mà nghe Tôi giáo Kiều Giang (Kiều Giang) một cách Bia truyền cổ tích Con gái nhà lành Đi chơi một mình Đến ngay quán ấy, nàng thấy Ngân nga một mình Ca bằng tiếng dế Nhớ xưa vũ Vũ Đế Sinh được một con Mềm mại lại nết na (Kiều Giang cách)
64
Các khổ ở thứ tự 4, 5, 7,8,10, 11, 13, 14,… sẽ có mô hình giống như
các khổ 1 và 2; các khổ 6,9, 12, 15,…sẽ có mô hình giống như khổ thứ 3. Quy
luật này cứ thế được lặp lại cho đến hết bài. Riêng khổ thứ 3 vị trí các câu thơ
biến thể 5 - 6 có thể được thay đổi. Điều này được thể hiện ở ví dụ 12:
Ví dụ12
Dòng 1 2 3 4 5
Số tiếng trong dòng 5 -6 4 4 5 - 6 5 - 6 4 6 Nhập tịch chào vua nẻo trước Vò nước nén nhang Rầm rập bốn phương Mời rước vua lên thượng vì. (Hỡi là) mời rước vua lên thượng vì (Ới lại) thăm kỳ linh tính. (Hát nhập tịch chào vua)
Trường hợp các câu thơ biến thể 5 – 6 tiếng được đặt ở vị trí khổ 1 thì
cách sắp xếp các câu thơ đó cũng tương tự như ví dụ 12 vừa nêu trên.
2.2.1.2. Thể thơ 4 tiếng và câu thơ biến thể 7 tiếng trở lên
Các bài hát Xoan có thể 4 tiếng và các dòng biến thể 7 – 8 tiếng có 4/9
bài (44,6 %). Đó là các bài: Giáo pháo, Chơi giâu xướng cách, Giương cũng
bắn cò và Xẻ ván bắc cầu. Đặc điểm của thể trong 5 bài hát Xoan này là thể 4
tiếng chiếm vai trò chủ đạo, các câu thơ biến thể từ 7 tiếng trở lên xuất hiện ít
hơn. Với cách làm tương tự về bảng như mục 2.2.1.1, có bảng sau:
Bảng 2.8.Số dòng 4 tiếng và các dòng biến thể 7 tiếng trở lên
Tên các bài hát Xoan Số dòng 4 tiếng
Nhận xét:
– Tỉ lệ % 89 – 84,8 30 – 57,7 24 – 66,7 15 – 55,6 158 – 71,8 Số dòng biến thể - Tỉ lệ % 16 – 15,2 22 – 42,3 12 – 33,3 12 – 44,4 62 – 28,2 Tổng số dòng – Tỉ lệ % 105 - 100 52 - 100 36 - 100 27 - 100 220 - 100 Giáo pháo Chơi giâu xướng cách Giương cung bắn cò Xẻ ván bắc cầu Tổng số
Trong 4 bài hát Xoan này có 1 bài ở chặng hát nghênh thần (Giáo pháo), 1
bài ở chặng hát Quả cách (Chơi giâu xướng cách) và 2 bài ở chặng hát hội
(Giương cung bắn cò, Xẻ ván bắc cầu). Tỉ lệ % trung bình giữa thể 4 tiếng và biến
65
thể câu 7 tiếng trở lên là 71,8/28,2. Trong đó, bài có nhiều câu 4 tiếng nhất là bài
Giáo pháo (89/105 – 84,8%), bài có ít câu 4 tiếng nhất là bài Xẻ ván bắc cầu
(15/27 câu – 55,6%). Những con số này cũng cho biết thể 4 tiếng thường chiếm
ưu thế vượt trội trong những bài hát Xoan ở chặng 1 và giảm dần ở các bài hát
Xoan thuộc chặng 3. Như vậy, đặc điểm về thể cũng phù hợp với tính chất riêng
của từng chặng hát, bài hát Xoan. Có thể các bài hát Xoan có thể 4 tiếng và các
dòng biến thể 7 tiếng trở lên và chia làm 3 loại. Sự phân chia này căn cứ vào vị trí
của các dòng biến thể 7 tiếng trở lên. Loại 1 làví dụ 13:
Khổ Số tiếng trong dòng Ví dụ13
1
2
3 4 4 4 7 – 8 - 9 7 – 8 - 9 4 4 4 4 4 4 7 – 8 - 9
Cô nào còn trẻ Dài tóc răng đen Cho hội múa tiên Một năm mới tới một tháng xuân Chẳng hội nào vui hơn hội này Ai có hồng nhan Vào mà chơi lấy Kẻo mười ba tuổi Sang cống hội quân Là tầm vông tập Vông vông tầm vông Đệ nhất pháo mừng tuổi đức vua (Giáo pháo)
Loại 2 là ví dụ 14:
Khổ Khổ 1
Khổ 2
Khổ 3
Số tiếng trong dòng 4 4 7 – 8 – 9 4 4 7 – 8 – 9 4 4 4 4 4 7 – 8 - 9
Ví dụ 14 Ta thấy con cò Giương cung ta bắn Ta bắn con cò, con cốc, con le Con cốc nó lặn Con le nó lội Rằng con cò qua nọ bay cao Cò ơi, mày bay Đừng thấp, chớ cao Bay qua cửa phủ Bay vào trong dinh Cò hỡi, cò ơi Bay qua cửa phủ, bay vào trong dinh (Giương cung bắn cò)
66
Loại 3 là ví dụ 15:
Khổ Số tiếng trong dòng Ví dụ 15
1
2
3
4 4 4 4 7 – 8 – 9 4 4 4 4 4 7 – 8 – 9 7 – 8 - 9
Kính trình làng nước Thượng hạ tây đông Dẫn cách chơi Giâu Mà cho phải lệ Vốn tích xưa kể hội chùa Giâu Chúa quan công hầu Phù lôi khánh hạ Chùa Giâu vui lạ Mồng tám tháng tư Vãi, sãi lên chùa Niệm kinh đọc tụng nàng ba thấu giọng Vãi ấy tốt thay đôi cánh thẳng ngay (Chơi Giâu xướng cách)
Vị trí của các dòng biến thể lớn hơn 7 tiếng có thể được thay đổi rất linh
hoạt tùy vào khổ. Một số trường hợp riêng lẻ có thể đến là: khổ 1 và khổ 2 dùng
thể thơ 4 tiếng, khổ 3 lại hoàn toàn biến thể 7 tiếng trở lên, khổ 4, 5 cho đến hết
hết bài lại trở về với thể thơ 4 tiếng. Hoặc khổ 1 là biến thể 7 tiếng trở lên, các
khổ tiếp theo là 4 tiếng. Xen giữa các khổ 4 tiếng sẽ có những câu biến thể. Các
bài hát ở chặng quả cách và chặng hát hội thường sử dụng câu thơ biến thể 7
tiếng trở lên nhiều hơn hẳn các bài hát Xoan ở chặng 1.
2.2.2. Thể lục bát và biến thể
Thể lục bát được coi là thể truyền thống phổ biến và quan trọng nhất của
thi ca dân tộc. Thể lục bát chính thể có một dòng 6 tiếng, một dòng 8 tiếng.
Quy luật của thể này là: tiếng thứ 6 của dòng 6 tiếng vần với tiếng thứ 6 của
dòng 8 tiếng, tiếng thứ8 của dòng 8 tiếng vần với tiếng thứ 6 của dòng 6 kế
tiếp. Vì vậy, thành tựu của thể lục bát vừa đem đến những tác phẩm ngôn từ chỉ
gồm 1 cặp lục bát (ca dao); lại vừa có những tác phẩm trường thiên kéo dài cả
mấy nghìn câu (trường hợp Truyện Kiều của Nguyễn Du và các truyện thơ
Nôm khuyết danh cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX). Quan sát bảng 2.6,
có thể thấy ở hát Xoan, thể lục bát đã tìm cho mình mảnh đất ở chặng hát thứ
67
ba để làm nơi phát triển là chủ yếu. Các bài hát Xoan có ca từ làm theo thể lục
bát và biến thểlà 14/42 bài ~ 30,9 %. Từ đây, có bảng sau:
Bảng 2.9. Các bài hát Xoan thể lục bát và biến thể
Stt Tên bài
Trồng bông luống đậu
1 Nhàn ngâm cách Thu thời cách 2 Thuyền chèo cách 3 4 Bỏ bộ 5 6 Gài huê 7 Hát ru 8 Xe chỉ vá may 9 Đường đi trên suối dưới hầm 10 Trống quân đón đào 11 Trống quân Đức Bác 12 Trèo lên cây bưởi hái hoa 13 Mời rượu 14 Hát đúm
câu lục bát – tỉ lệ 36 – 67,9 36 – 56,3 21 – 52,5 39 – 100 21 – 80,8 26 – 100 30 -100 34 – 53,1 20 – 62,5 26 - 100 48 - 100 52 - 100 24 – 70,6 170 - 100 583 – 78,7 Tổng số
câu biến thể số dòng - tỉ lệ thơ 17 – 32,1 53 28 – 43,7 64 19 – 47,5 40 0 – 0.0 39 5 – 19,2 26 0 - 0.0 26 0 - 0.0 30 30 - 46,9 64 12 – 37,5 32 0 - 0.0 26 0 - 0.0 48 0 - 0.0 52 10 – 29,4 34 37 - /0,0 207 158 – 21,3 741 Từ bảng trên, có thể chia làm hai tiểu loại: các bài hát Xoan có 100% là thể
lục bát và các bài hát Xoan có thể lục bát và biến thể của lục bát.
2.2.2.1. Thể lục bát
Thống kê chothấy có 3/14bài (21,4 %) bài thuộc chặng hát quả cách
(gồm: Nhàn ngâm cách, Thu thời cách và Thuyền chèo cách); 11/14 bài (78,6
%) đều thuộc chặng hát hội. Một số bài như: Trống quân Đức Bác, Trống quân
đón đào, Gài huê, Hát ru, Bỏ bộ, Trèo lên cây bưởi (6/14 ~ 42,9 %) xuất hiện
trọn vẹn thể thơ lục bát. Đặc điểm của thể lục bát trong các bài này phần lớn
là các bài thuộc chặng hát hội. Mỗi cặp lục bát là lời của một bên nam hoặc
nữ. Nam luôn luôn hát trước. Các cặp thơ lục bát thường sẽ là một câu hỏi
ứng với một câu trả lời; hoặc một câu xướng ứng với một câu xô; một câu đối
cảnh ứng với một câu họa cảnh. Hình thức của câu lục bát ở các bài Xoan này
68
có những nét tương đồng với hát đối và hát đố trong hát giao duyên nam nữ
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ví dụ 16 – 19 cho thấy điều này:
Ví dụ 16 - 19
Nam Ví dụ 16 - 19 hỏi Đi đâu từ sớm đến giờ?
Nữ đáp
Để cho anh đợi, anh chờ, anh mong
Vì chưng còn dở hội chùa Cho nên em phải sang trưa thế này
(Trống quân đón đào)
(Trống quân đón đào)
xô
Tam Thanh một cảnh huê cần Dân ta thi đỗ cử nhân rước về
xướng Tam Thanh một cảnh huê xoan Dân ta thi đỗ làm quan rước về (Gài huê)
(Gài huê)
đối cảnh
họa cảnh
Trèo lên cây bưởi hái hoa Mình thời hái hết để ta bẻ cành (Trèo lên cây bưởi)
đố
giải đố
Chữ gì làm ruộng nuôi ta Chữ gì nên việc cửa nhà hỡi em? (Bỏ bộ)
Hoa này em hái thời xanh Quýt làm cam chịu thời anh thế nào? (Trèo lên cây bưởi) Chữ “ngưu”(trâu) làm ruộng nuôi ta Chữ “thê” (vợ) nên việc cửa nhà hỡi anh (Bỏ bộ)
Có thể nói, thể lục bát chính thống được vận dụng một cách triệt để
trong các bài Xoan này. Như vậy, thể cũng là một đặc điểm cơ bản để phản
ánh tính chất của một chặng hát trong một cuộc hát Xoan.
Một điểm nữa là các từ phụ, các cụm từ cố định, các câu hát đưa đẩy
xuất hiện ít hơn trong các bài có thể lục bát 100%. Điểm đặc biệt của các bài
hát Xoan có 100% thể lục bát là điệu hát Bỏ bộ - với chiếc cầu nối là câu hát
đưa “tềnh là tang tềnh, tềnh là tềnh tang” cùng với kĩ thuật bẻ làn nắn điệu,
điệu hát này có hàng trăm câu lục bát phong phú, không trùng lặp. Điều này
cho thấy tính chất mềm dẻo của thể lục bát ở các bài Xoan.
2.2.2.2. Biến thể của lục bát
8 bài hát Xoan còn lại có sử dụng thể lục bát và biến thể là: Thu thời
cách, Nhàn ngâm cách, Thuyền chèo cách, Mời rượu, Trồng bông luống đậu,
Xe chỉ vá may, Hát đúm và Đường đi trên suối dưới hầm. Đây là những bài
69
hát Xoan có thể thơ lục bát là chủ yếu (~ 63, 4 %) cùng với các biến thể (~
36,6%). Như đã nêu ở mục Thể thuộc mục 1.2.1.1. cơ sở ngôn ngữ học,
chúng tôi xét biến thể trên hình thức của dòng. Trong số 158 dòng biến thể, có
thể chia nhỏ hơn thành 4 loại theo bảng sau:
Bảng 2.10.Các bài hát và số dòng biến thể trong thể lục bát
Dòng bát
Stt
Tên bài hát
Dòng lục Co lại Giãn
1 Thu thời cách 2 Nhàn ngâm cách 3 Thuyền chèo cách 4 Mời rượu 5 Trồng bông luống đậu 6 Xe chỉ vá may 7 Đường đi trên suối dưới hầm 8 Hát đúm
Tổng số
Tống số dòng biến thể 17 28 19 10 5 30 12 37 158
4 5 6 1 1 6 3 6 32
Giữ nguyên 2 4 2 2 1 4 2 5 22
Giãn ra 5 7 6 3 1 8 3 11 44
ra 6 12 5 4 2 12 4 15 60
Nhận xét:
Các dòng biến thể của thể lục bát trong hát Xoan thì hiện tượng “giãn
ra”, mở rộng ở các dòng 6 (60 – 37,9 %) và các dòng 8 (44 – 27,8 %) chiếm ưu
thế hơn hiện tượng “co lại” và giữ nguyên ở các dòng 6 (32 – 20,2 %) và dòng
8 (22 – 14,1 %). Sự co giãn của các dòng thơ này không hề phá vỡ âm luật của
thể lục bát truyền thống. Các bài Xoan có biến thể ngắn nhất là bài Trồng bông
luống đậu (26 câu) với 5 câu biến thể và dài nhất là bài Hát đúm (207 câu) với
37 câu biến thể. Một vài ví dụ về hiện tượng co lại ở dòng 6 tiếng như. Ví dụ
20 và 21:
Vi vu sáo ai thổi đâu
Đốt đèn thắp nến canh thâu đợi chờ
Đợi chờ chẳng thấy
(Mới ra) đứng đấy mà trông
(Thu thời cách – Mừng thu cách)
70
Chỉ xe xe chỉ (ru hời)
Chuỗi kim kim chuỗi (ru hời) mà may
Ngồi rồi dệt gấm thêu hoa
Thêu chim loan phượng thêu mà ta thêu
(Xe chỉ vá may)
Thể lục bát và biến thể co lại ở dòng 6 tiếng trong các bài Xoan này
thường là thể 4 tiếng và thêm vào các tiếng đệm cùng các từ phụ (Mới ra, ru
hời) như 2 ví dụ trên.
Biến thể giãn ra ở dòng 6 tiếng và dòng 8 tiếng thường thấy ở các bài
Xoan có dung lượng dài hơn, câu hát cũng vì thế mà dài hơn. Ví dụ 22 :
(Là hỡi) công kia khéo léo mười phần
Làm nên điện các (để) thánh nhân dõi truyền
(Là hỡi) thương nhân kia buôn ván bán thuyền
Bạc vàng vô số, của tiền đầy đa
(Thu thời cách – Mừng thu cách)
Có những trường hợp biến thể giãn ra ở dòng 6 tiếng và dòng 8 tiếng
trở thành thể song thất lục bát và biến thể như ví dụ 23:
Đào ơi đào xích lại đây
Anh cầm quả đúm trao tay cho đào
Trách con tạo ra lòng giáo giở
Nông nỗi này biết thuở nào khuây
Những lời anh nói trước dầy làm sao?
(Hát đúm)
Có thể nói chính những người nghệ sĩ khi hát đã khéo léo gieo vần
cho các ca từ biến thể từ lục bát. Điều này làm cho các bài Xoan hát theo thể
lục bát và biến thể có thể dễ dàng tiếp nhận với người nghe hơn.
Tóm lại, các bài hát Xoan kể trên có biến thể ở dòng 6 co lại thường là
thể 4 tiếng (~ 20,3 %), các biến thể ở dòng 6 giãn ra thường là thể 7, 8 tiếng
(~ 41,8 %); các biến thể ở dòng 8 giãn ra thường là 9, 10 tiếng (~ 27,8 %).
71
Như vậy, biến thể ở dòng 6 với hiện tượng giãn ra chiếm ưu thế hơn so với 3
loại còn lại.
2.2.3. Thể thất ngôn và biến thể
Hát Xoan là dân ca nghi lễ, phong tục và chịu ảnh hưởng của yếu tố
văn chương Nho học. Chính vì vậy, thể thất ngôn và biến thể của nó cũng
chiếm số lượng lớn trong ca từ Xoan. Thể thất ngôn (còn gọi là thể thất ngôn
Đường luật) là thể thơ ra đời từ thời Đường (618 – 907) ở Trung Quốc, mỗi
câu thơ có 7 tiếng và phải tuân theo một hệ thống niêm luật chặt chẽ, nghiêm
ngặt. Thể thất ngôn Đường luật khi vào Việt Nam xuất hiện những biến thể.
Nhìn vào bảng thống kê trên, thấy có 11/42 bài Xoan (~ 26,2%) sử dụng thể
thơ này; trong đó có 1 bài ở chặng hát thờ, 5 bài ở chặng hát cách và 5 bài ở
chặng hát giao duyên.
Bảng 2.11.Các bài hát Xoan thể thất ngôn và biến
thể của thất ngôn
Stt Tên bài hát Xoan
1 Giáo trống 2 Trường mai cách 3 Ngư tiều canh mục cách 4 Đối giãy cách 5 Hồi liên cách 6 Tứ dân cách 7 Phú Kiều 8 Bút huê thảo 9 Phú Xích Bích 10 Phú năm canh 11 Hát lý
Tổng số Tổng sô dòng 50 54 76 129 41 67 52 28 13 32 27 569 Số dòng thất ngôn 27 - 54,0 30 - 55,6 40 - 52,6 80 - 62,0 26 - 63,4 47 - 70,1 46 - 88,5 24 - 85,7 10 - 76,9 28 - 87,5 22 - 81,5 381 - 67,0 Số dòng biến thể 23 - 46,0 24 - 44,4 36 - 47,4 49 - 38,0 15 - 36,6 20 - 29,9 6 - 11,5 4 - 14,3 3 - 23,1 4 - 12,5 5 - 18,5 188 - 33,0
Căn cứ vào số dòng biến thể trong một bài hát Xoan, có thể chia thành
hai tiểu loại: các bài hát Xoan có thể thất ngôn và biến thể dưới 15 dòng và
các bài hát Xoan có thể thất ngôn biến thể từ 15 dòng trở lên.
72
2.2.3.1. Thể thất ngôn và biến thể dưới 15 dòng
Bảng trên cho thấy có 5 bài hát Xoan sử dụng thể thất ngôn và ít hơn
15 dòng biến thể. Đó là các bài: Phú Kiều, Phú Xích Bích, Bút huê thảo, Phú
năm canh và Hát lý. Về số lượng, các bài Xoan này chiếm 5/11 bài Xoan
(45,5 %).Đặc điểm chung của các bài Xoan này đều là các bài hát Xoan thuộc
chặng thứ 3 – chặng hát giao duyên. Xét về mặt quy phạm thì các bài hát này
không nằm trong phần thi hát giữa các làng Xoan. Vì thế nên ca từ của các bài
này không mang nhiều yếu tố quy phạm (Hán học) như các bài hát ở chặng
hát Quả cách và chặng hát nghênh thần. Xét về mặt đề tài thì đây đều là các
bài hát kể chuyện xưa, tích xưa (3 bài phú) và tức cảnh sinh tình (Bút huê
thảo và Hát lý). Thể thất ngôn được biểu hiện qua ca từ các bài Xoan này
không phải là thể thất ngôn luật Đường chính thống. Có 67/131 (~ 51,1%)
dòng thất ngôn theo đúng luật. Còn 64 dòng thất ngôn (~ 48,9 %) là không
theo đúng luật. Trung bình năm bài hát này có 84,02 % là thể thất ngôn. Kết
quả khảo sát cho thấy 51, 3% số dòng đúng luật, còn lại là các câu thơ có hình
thức là 7 tiếng nhưng không tuân theo luật. Ví dụ 24 và 25:
Xem truyện cũ triều Minh Gia Tĩnh
Có đôi người con gái họ Vương
Thúy Vân kia mặt mày nở nang
Nàng Kiều nọ khôn ngoan sắc sảo
(Phú Kiều)
Chàng Trịnh Quản lấy ả Thị Dương
Vợ chồng sắm thuyền lương xuôi chầy
Đêm tôi nằm chiêm bao lần thấy
Vợ thương chồng chẳng mấy khi rời
(Phú Xích Bích)
Như vậy, bản thân các dòng 7 tiếng thực ra đã có sự “biến thể” chứ
chưa nói đến các dòng biến thể. Các dòng biến thể trong Phú Kiều, Phú Xích
Bích, Phú năm canh và Bút huê thảo đều là các dòng 8 tiếng trở lên. Ví dụ 26,
27 và 28:
73
Thanh minh tiết đưa nhau đi viếng mả
Chật ven đường xe ngựa nghênh ngang
Xứ xứ đều quang sáng mùi nhang
Kìa một mả ven đường không kẻ thắp
Nàng Kiều thấy động tâm trắc ẩn
(Phú Kiều)
Hoặc:
Nhạn nhìn cá dám đơn sai
Sông với nước chớ nghe ai mà chểnh mảng
(Bút huê thảo)
Hay là:
Con chim xanh đậu cành núc nác
Anh hỏi thực nàng có chắc hay không?
(Hát lý)
Chỉ riêng bài Phú năm canh là có các dòng biến thể dưới 7 tiếng. Ví dụ 29:
Trong sách thánh hiền đã dạy
Văn chương cả chí thân
Mãn tiều tu tụ quý
Thư nhân đọc tân thư.
(Phú năm canh)
Như vậy, những bài hát Xoan có thể thất ngôn và các biến thể dưới 15
dòng mang những đặc điểm: câu thơ thất ngôn không tuân theo luật, số dòng
biến thể ít (chỉ dưới 10 câu), 72,8 % các dòng biến thể là từ 8 tiếng trở lên, chỉ
có 27, 2 % dòng biến thể từ 6 tiếng trở xuống. Đặc điểm về thể thơ này cũng
phù hợp với kiểu hát Ngâm và ca Xướng đối với các bài hát phú và các bài
hát thuộc chặng hát hội của cuộc hát Xoan.
2.2.3.2. Thể thất ngôn và biến thể trên 15 dòng
Đó là trường hợp của các bài Giáo trống, Trường mai cách, Ngư tiều
canh mục cách, Hồi liên cách, Tứ dân cách, Đối dãy cách. Có thểthấy đây là
74
các bài Xoan thuộc chặng hát nghênh thần và chặng hát Quả cách. Tiểu loại có
6/11 bài Xoan (~ 54,5%). Con số trên biểu thị các bài hát Xoan có thểthất ngôn
và biến thể trên 15 dòng chiếm ưu thế. Thể thất ngôn ở các bài Xoan này có
đặc điểm là số lượng dòng tuân thủ theo đúng luật nhiều hơn. Có 180/250 (~
72,0 %) dòng thất ngôn theo đúng luật, 70/250 (~ 28,0 %) dòng không tuân thủ
theo luật. Trong 167 dòng biến thể có 49 dòng (~ 29,3 %) theo thể 4 tiếng; 47
dòng (~ 28,1 %) theo thể lục bát; 30 dòng (~17,9 %) theo thể 6 tiếng; 23 dòng
theo thể 5 tiếng (~13,8 %) và 18 dòng (~10,9 %) theo thể thơ 8 tiếng trở lên.
Có thể thấy, các bài hát Xoan này có đặc điểm ngược với các bài Xoan
ở phần trên về hình thức dòng. Các dòng thất ngôn ở đây tuân theo luật chặt
chẽ hơn, số dòng biến thể nhiều hơn nhưng số tiếng trong các dòng biến thể
lại ít hơn. Thể thơ thất ngôn và các biến thể trong 6 bài hát Xoan này cũng thể
hiện yếu tố Nho học sâu sắc hơn 5 bài hát Xoan trên. Vì đây là các bài hát
thuộc chặng nghi thức và Quả cách. Hình thức thất ngôn rất phù hợp với
những bài Xoan theo phong cách hát Nói, âm nhạc gần với lối đọc. Đặc biệt
là các đoạn giáo cách. Ví dụ 30:
Tôi bước chân vào cùng giáo trống
Tìm đền Thượng cầu chúc cho minh
Năm trống cơm thiên hạ thái bình
Năm trống cơm mọi nhà no đủ
(Giáo trống)
Thể thất ngôn trong đoạn giáo cách thường không tuân thủ chặt chẽ
luật thơ Đường.
Như vậy, thể thơ thất ngôn và biến thể đã thực hiện vai trò biểu đạt phù
hợp và tương ứng với nội dung và cách thức của những bài hát Xoan ở từng
chặng. Ở những bài hát Xoan thuộc chặng nghi thức và Quả cách, thể thất
ngôn tuân thủ luật thơ chặt chẽ; yếu tố Nho học đậm đặc; các dòng biến thể
thường là những dòng ngắn (thể 4 tiếng chiếm ưu thế) phù hợp với phong
cách hát Nói. Vậy, ca từ của các bài hát Xoan này gần với văn chương bác
75
học. Còn ở những bài hát Xoan thuộc chặng hát giao duyên thì thể thất ngôn
thường không tuân thủ chặt chẽ luật thơ; các dòng biến thể thường dài hơn;
yếu tố Nôm nhiều hơn. Theo đó, ca từ của các bài Xoan trên gần với văn
chương bình dân hơn.
2.2.4. Thể song thất lục bát và thể tự do
2.2.4.1.Thể song thất lục bát và biến thể
Cùng với thể lục bát thì thể song thất lục bát và biến thể là thể mang
dấu ấn, bản sắc và sức sáng tạo của những người nghệ sĩ Việt hơn cả. Thể
thơ song thất lục bát (7 – 7- 6 - 8), cũng được gọi là lục bát gián thất (6 - 8
xen hai câu 7) (hay thể ngâm) là một thể văn vần (thơ) đặc thù của Việt Nam.
Song thất lục bát và biến thể của nó chỉ chiếm 2/42 (~ 4,7 %) bài hát Xoan.
Đó là các bài Tứ mùa cách (Tứ đưa Xoan cách) và Giã cá (Đánh cá – Mó cá).
Thể song thất lục bát ở bài Tứ mùa cách tuân thủ luật tương đối chặt chẽ; còn
thể song thất lục bát ở bài Giã cá không tuân thủ chặt chẽ theo luật thơ. Tứ
mùa cách là bài hát thuộc chặng Quả cách nên tính chất quy phạm và khuôn
khổ của nó thể hiện rõ nét. Giã cá là bài ca lao động thuộc chặng hát giao
duyên nên linh hoạt hơn trong việc vận dụng thể thơ song thất lục bát.
Ở Tứ mùa cách, song thất lục bát và biến thể của nó rất linh hoạt và nhịp
nhàng ở từng khổ thơ, từng trổ hát. Thể song thất lục bát phù hợp với việc mô
tả và biểu đạt nội dung của bài hát và thường được sử dụng ở đoạn đưa cách.
Đoạn đưa cách là các câu song thất lục bát và biến thể ít hơn 8 tiếng trong một
dòng thơ. Ví dụ 31:
Đưa cố nhân lòng còn khao khát
Tưởng lo sầu mọi mạch nhỏ to
Thương xoan đêm lắng ngày lo
Ngày nào được họp nhỏ to kẻo phiền?
Được như chàng tri kỷ
Nàng hỡi nàng nghĩ thấu lòng ta?
(Tứ mùa cách – Tứ đưa xoan cách)
76
Đoạn kết cách của bài Xoan này là một khổ trở về với thể song thất
lục bát nhưng khi hát các dòng 8 tiếng đã được ngân dài ra thành biến thể .
Ví dụ 32:
Khi sương sông thổi cơn tô hợp
Ngơ ngác nàng bảo thực Ngân châu
Thương nàng ngọc nữ (hỡi a) tần lâu
Vui hòa nhịp khí tay thâu gối vàng, gối bạc.
(Tứ mùa cách – Tứ đưa xoan cách)
Một số trường hợp đặc biệt dòng biến thể là những dòng 4 tiếng. Các
dòng biến thể này thường ở đoạn mở của bài ca. Ví dụ33:
Kính trình làng nước
Thượng hạ đông tây
Dân về thuở trước
Đường Ngu bắt được
Đem lên về tâu…
Giã cá (Đánh cá, Mó cá, Bắt cá)
Các dòng biến thể 4 tiếng phù hợp với nội dung một bài ca lao động và
vui chơi với nhịp điệu nhanh, gọn và khỏe khoắn.
Như vậy, thể song thất lục bát và biến thể của nó cũng là một yếu tố
hình thức góp phần thể hiện nội dung ca từ của các bài hát, phù hợp với tính
chất và nội dung của từng bài và từng chặng hát Xoan.
2.2.4.2. Thể tự do
Có 6/42 (14,3%) bài hát Xoan sử dụng thể tự do. Thể tự do là hình thức
cấu trúc bài gồm các câu dài ngắn khác nhau, đan xen, không ổn định theo
một thể nhất định. Số lượng tiếng trong một câu thơ có thể là bốn, năm đến
trên mười tiếng. Đó là các bài Thu thời cách (Mừng thu cách), Đông thời cách
(Đưa đông cách), Xoan thời cách (Mừng Xoan cách), Xin huê - Đố chữ, Bợm
gái và Cầu Bạch cầu bông. Căn cứ vào PL 5 có bảng sau:
77
Bảng 2.12.Các bài hát Xoan theo thể tự do
Tên bài hát Xoan
Stt 1 2 3 4 5 6
Xoan thời cách (Mừng Xoan cách), Hạ thời cách (Mừng hạ cách) Đông thời cách (Đưa đông cách) Xin huê - Đố chữ Bợm gái Cầu Bạch cầu bông Tổng số Số dòng – Tỉ lệ % 50 – 11,3 100 – 22,7 39 – 8,8 116 – 26,3 93 – 21,1 43 – 9,8 441 - 100
Trong 6 bài này, có 3 bài hát chỉ mùa là thuộc về chặng hát Quả cách;
3 bài hát thuộc chặng hát giao duyên. Trong tổng số 441 dòng của 6 bài Xoan
có sự kết hợp của 100 dòng 4 tiếng (22,7 %), 116 dòng lục bát (26,3%), 94
dòng 7 tiếng (21,3 %), 50 dòng (11,3 %) 8 tiếng trở lên, 40 dòng (9,1 %) 5
tiếng và 41 dòng 6 tiếng (9,3 %).
Như vậy, ở thể tự do thì các dòng 4 tiếng, lục bát và 7 tiếng chiếm số
lượng lớn hơn các dòng còn lại. 3 bài Xoan chỉ mùa có những dòng ngắn hơn
các dòng trong 3 bài Xoan ở chặng hát vui chơi, giao duyên.
Tóm lại, ca từ hát Xoan ghi nhận vai trò chủ đạo của thể lục bát, thể
bốn tiếng, thể thất ngôn và các biến thể. Thể bốn tiếng và biến thể phù hợp
với những bài có nội dung khẩn nguyện, cầu chúc ở chặng hát nghênh thần,
gần với hát Nói. Thể lục bát và biến thể thường được dùng nhiều ở các bài
ứng với phong cách ca Xướng, dồi dào chất nhạc nên thích hợp với những bài
ở chặng giao duyên. Thểthất ngôn và biến thể được vận dụng nhiều nhất trong
các bài Xoan ở chặng hát Quả cách – những bài có ca từ mang phong cách
hát Ngâm. Các biến thể cũng tùy nội dung và tính chất của bài hát, chặng hát
mà được đưa vào cho phù hợp.
2.3. Vần trong hát Xoan
Căn cứ vào lí thuyết về vần của Phan Ngọc trong [81], Nguyễn Tài Cẩn
trong [14], Nguyễn Phan Cảnh [13] và Lý Toàn Thắng trong [105], luận án dựa
theo vị trí của vần trong dòng thơ để phân loại. Vần trong ca từ hát Xoan được
chia làm hai nhóm: vần trong một khổ và vẫn giữa các khổ. Sự phân chia này chỉ
78
mang tính tương đối vì có những bài hát Xoan xuất hiện tất cả các tiểu loại vần
đã chia. Dựa trên ngữ liệu đã khảo sát, có bảng sau:
Bảng 2.13.Các loại vần trong bài hát Xoan
Phân loại Vần giữa các khổ Tổng số 561
Vần trong một khổ 807
Tổng số 1368 Kiểu vần Vần liền Vần cách Vần chân Vần lưng Tần số 179 382 363 444 Tỉ lệ % 13,1 27,9 26,5 32,5 100
Trong 2302 dòng của 42 bài hát Xoan, khảo sát được 1368 dòng (~
59,4%) xuất hiện vần. Trong đó, đứng ở vị trí cao nhất là loại vần lưng (vần
trong 1 khổ) chiếm 444/1368 dòng (~ 32,5%). Đứng thứ 2 là vần cách (vần
giữa các khổ)chiếm 382/1368 dòng (~ 27,9 %). Đứng thứ 3 là vần chân (vần
trong một khổ) chiếm 363/1368 dòng (~ 26,5%). Dưới đây là kết quả cụ thể: 2.3.1. Vần trong một khổ
Đây là loại vần chiếm số lượng và tỉ lệ cao nhất: 807/1368 dòng (~59,9
%). Căn cứ vào cách phân loại của Nguyễn Thái Hòa trong [58, tr.269] có thể
chia vần trong một khổ thơ thành các loại: vần lưng, vần chân, vần liền, vần
cách, vần ôm và vần hỗn hợp. Theo đó, có bảng sau:
Bảng 2.14.Các loại vần trong một khổ
Tên loại vần
Stt 1 2 3 4 5 6 Vần lưng – Yêu vận Vần chân – Cước vận Vần liền Vần cách Vần ôm Vần hỗn hợp
Tổng Tần số 204 189 66 87 98 163 807 Tỉ lệ % 25,3 23,4 8,2 10,8 12,1 20,2 100%
Nhận xét:
Ba loại vần chiếm ưu thế trong một khổcủa các bài hát Xoan là vần lưng
(204/807 - 25,3 %), vần chân (189/807 – 23,4 %) và vần hỗn hợp (163/807 –
20,2 %). Vần chân và vần lưng trong các bài hát Xoan thường tuân theo luật thơ
79
của các thể lục bát, 4 chữ và thất ngôn. Vần chân thường xuất hiện nhiều hơn
trong các bài hát Xoan thuộc chặng 1 hát thờ, nghênh thần. Vần lưng thường
xuất hiện nhiều hơn trong các bài hát Xoan thuộc chặng 3 hát giao duyên. Vần
hỗn hợp thường chiếm ưu thế ở các bài Xoan thuộc chặng hát 2 hát các bài Quả
cách. Loại vần hỗn hợp trong một khổ thơ rất phong phú. Có khi trong một khổ
thơ xuất hiện cả vần chân, vần lưng và vần liền. Những trường hợp như thếđược
xếp vào loại vần hỗn hợp. Loại vần này xuất hiện nhiều nhất ở các bài Xoan theo
thể thất ngôn và biến thể của nó. Các loại vần khác cũng xuất hiện trong tất cả
các bài hát Xoan thuộc 3 chặng nhưng chiếm số lượng ít hơn. Trong 42 bài hát
Xoan có 10 bài Xoan (~ 23,8 %) có bao nhiêu khổ thơ – trổ hát tương ứng có
bấy nhiêu vần, 6 bài có số vần thơ ít hơn số khổ thơ (~ 14,3 %) và 26 bài (~ 61, 9
%) có số vần nhiều hơn số khổ thơ – trổ hát. 2.3.2. Vần giữa các khổ
Vần giữa các khổ thơ mang đặc điểm là sự kết dính giữa các khổ thơ,
trổ hát trong một bài hát Xoan. Ca từ hát Xoan có 561/1368(~ 40,1%)
trường hợp vần giữa các khổ thơ. Sự hiệp vần giữa các khổ thơ trong các
bài hát Xoan tuy không phổ biến như hiện tượng vần trong một khổ thơ
nhưng lại không thể thiếu. Hiện tượng này đem lại sự liên kết tương đối
bền chặt cho các khổ thơ, các trổ hát trong một bài hát Xoan. Không những
thế sự hiệp vần giữa các khổ còn góp phần tạo ra giọng điệu riêng của mỗi
bài, một yếu tố quan trọng của cấu trúc thông điệp. Vần giữa các khổ trong
ca từ hát Xoan cũng ghi nhận các hình thức vần chân, vần ôm và vần hỗn
hợp trong đó. Ví dụ 34:
...Tiên tựa gió đưa hương phơi phới
Mượn quế hoa ngắt ngọn cành hồng
Duyên tơ trúc lộc sồi mấy đông
Mai hoa sặc sỡ đâm bông
Một vườn đào mận sánh cùng hoa tiên
(Tứ mùa cách – Tứ đưa xoan cách)
80
Tuy nhiên, cũng cần nói rõ một điều là hiện tượng vần giữa các khổ thơ
chiếm 47, 4 % là cùng thể thơ, cùng trong một đoạn (như giáo cách, đưa cách
hoặc kết cách). Kết quả khảo sát cũng cho thấy có 52,6 % trường hợp vần giữa
các khổ thơ mà thể khác nhau hoặc là vần từ đoạn nọ sang đoạn kia của bài hát
Xoan. Ví dụ 35:
Đoạn mở
Bây giờ sang hồi trống một
Chim bay về sườn núi Lịch San
Ve sầu gọi, nhạn nhủ dê đàn
Sông lai láng buồn về góc bể
Đoạn thân
Chiêng bằng gác non đoài xế xế
Thuyền đong đưa, đủng đỉnh tiếng chầy
Chú tiền phu hái củi chất đám mây
Mục eo éo dắt trâu về chuồng chạ
Ngư bắc cầu ngồi chơi thong thả…
(Phú năm canh)
Có trường hợp đoạn giáo cách sử dụng vần chân, đến đoạn đưa cách sử
dụng vần ôm, vần lưng, đoạn kết cách sử dụng vần liền và vần ôm. Vần hỗn hợp
giữa các khổ là những trường hợp phong phú nhất về các kiểu vần. [X. Pl 8].
Như vậy, vần trong hát Xoan được chia ra làm 2 loại: vần trong một
khổ và vẫn giữa các khổ. Vần trong một khổ được chia làm 6 loại nhỏ:
chân, lưng, liền, cách, ôm, hỗn hợp. Trong đó, vần hỗn hợp là loại chiếm
ưu thế. Trong một khổ thơ, nó bao gồm ít nhất là 2 loại vần. Cũng có khi
trong một khổ thơ, vần hỗn hợp bao chứa cả 5 loại kia. Cả 2 loại vần trong
các bài hát Xoan là một yếu tố hình thức vừa có chức năng liên kết giữa
dòng trước với dòng sau, giữa trổ hát trước với trồ hát sau, giữa khổ trước
với khổ sau, vừa tạo âm hưởng nhạc điệu cho ca từ đồng thời có chức năng
nhấn mạnh vị trí tu từ.
81
2.4. Nhịp và sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan
2.4.1. Nhịp
Hát Xoan không những đã trải qua quá trình gọt rũa trong dân gian, mà
quan trọng hơn là đã được trau chuốt bởi tâm hồn của giới nho sĩ đam mê
nghiệp ca hát. Điều này có thể thấy rõ nhất trong các bài Xoan thuộc chặng thư
nhất và chặng hai. Chính vì thế cách phân nhịp của ca từ hát Xoan chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như thể, nội dung cần diễn đạt, người hát, chặng hát,…
Hát Xoan ghi nhận 2 cấu trúc phân nhịp chính. Đó là: phân lời ca thành những
cú đoạn chẵn 2 hoặc 4 tiếng trong các dòng có số tiếng chẵn (4,6 và 8 tiếng) và
phân nhịp lẻ trong những dòng có số tiếng lẻ (5, 7 hoặc 9 tiếng). Cụ thể có
bảng sau:
Bảng 2.15.Cách phân nhịp phổ biến theo thể trong bài hát Xoan
Nhịp chẵn Nhịp lẻ
Nhịp 2/2 Dòng 5 tiếng Dòng 4 tiếng
7 tiếng 6 tiếng
Nhịp 3/2 3/1/1 3/2/2 3/4
9 tiếng
8 tiếng và 8 tiếng trở lên
3/4/2 3/2/2/2 3/2/4 3/5/1
2/2/2 4/2 2/4 2/2/2/2 2/2/4 2/4/2 4/2/2 4/4
2.4.1.1. Nhịp chẵn trong các dòng có số tiếng chẵn (4, 6 và 8 tiếng)
i/ Đối với các câu 4 tiếng
Thể 4 tiếng trong các bài hát Xoan có các cách chia nhịp: 1/1/1/1/;
1/1/2; 1/2/1 và 2/2. Loại nhịp 1/1/1/1; 1/1/2 và 1/2/1 xuất hiện rất ít (5,1%),
chủ yếu ở phần đầu của các bài hát thờ (chặng 1) hoặc 4 câu đầu của các bài
Quả cách.
82
Loại nhịp 2/2 trong thể thơ 4 tiếng chiếm 94,9% trên tổng số câu thơ
được khảo sát. Ranh giới phân nhịp được xác định bằng chỗ ngừng nghỉ, ngắt
giọng. Ví dụ 36:
Thăng quan/ tiến chức
Tiến tài/ tiến lộc
Tiến linh/ tiến khang
Đôi chữ/ tràng sinh
Rước về/ cho chạ
(Giáo trống)
Ranh giới sự phân nhịp này có thể được xác định bởi cụm từ phụ. Ví dụ 37:
(Mấy lại là) giang biên (là )nghìn dặm
(Mấy lại là) nước thẳm (hỡi a) mà lên
Đất dậm (mà) bởi hội
(mấy lại là) học mở (a ra là) thuyền rồng
(Ngư tiều canh mục cách)
Sự phân ngắt (2/2) này còn được xác lập bởi sự ngân dài trường độ của
tiếng thứ hai. Ví dụ 38:
Giầu têm (a) đẹp vàng
Năng têm (a) đẹp ngọc
Chén nước (a) vỏ xanh
Kén được (a) tháng (a) tốt ngày (a) lành
(Kiều giang cách)
ii/ Đối với các câu 6 và 8 tiếng
Đối với những bài Xoan hình thành trên thể thơ lục bát, lối phân nhịp 2
hoặc 4 chiếm ưu thế với các kiểu cấu trúc: câu 6 là 2/2/2; 2/4/ hoặc 4/2; câu 8
là 2/2/2/2 4/2/2; 2/4/2; 2/2/4 hoặc 4/4. Theo Nguyễn Xuân Kính thì: “có 89,3
% các câu ca daotheo thể lục bát thường phân chia nhịp chẵn” [65, tr.126].
Thông thường, ngay cả đối với dòng lục hay dòng bát, hai ca từ cuối luôn
được xác định ranh giới với các ca từ trước đó để nhấn mạnh vị trí kết. Lối
83
ngắt nhịp này xuất hiện trong các bài như Thuyền chèo cách (Hò đò cách),
Thu thời cách (Mừng thu cách), Đông thời cách (Đưa đông cách), Nhàn
ngâm cách, Tứ dân cách, Chơi dâu xướng cách, Bỏ bộ, Hát ru, Hát đúm, Gài
huê – bắt cá.
Lối phân nhịp nhờ thủ pháp bổ sung từ phụ trong bài Tứ dân cách là
một ví dụ điển hình. Ví dụ 39:
(Là hỡi) nông kia/ biết thuộc/ thiên thời (hơn)
Trăm ngàn/ giống lúa/ chầu về/ (mà) Lê quân
Việc kết hợp giữa lối phân nhịp chia đều trường độ với lối phân nhịp hai
từ nhằm nhấn mạnh hai tiếng cuối. Ngoài ra còn có một hình thức phân nhịp
khác, đó là 4/2 hoặc 6/2. Nam hát 5 hoặc 6 ca từ đầu, sau đó cùng đồng thanh hát
với nữ 2 ca từ cuối. Lối phân nhịp này có thể bắt gặp trong bài Giáo trống, đoạn
đầu trong bài Giáo pháo, đoạn giữa bài Thơ nhang, Đóng đám. Ví dụ 40:
Nam: Đêm ba mươi Tết/ mới
Nam + Nữ: đến (a) tối (a)
Nam: giời/tiếng pháo kêu vang đại
Nam + Nữ: Vương(a) vâng (a)
Nam: Hộ. pháo mừng tuổi chúa/ chúa được
Nam + Nữ: (ơ) trường (a) sinh
(Giáo pháo)
Vậy nhịp phổ biến trong ca từ hát Xoan có số tiếng chẵn là 2 hoặc 4. Sở dĩ có
cách phân nhịp này là bởi các bài hát Xoan được phát triển từ các bài thơ với
các thể thơ 4 tiếng, lục bát và các biến thể. Cách phân nhịp này cũng phản ánh
đặc điểm nhịp điệu của các câu đồng dao và ca dao xưa. Những bài hát Xoan
ngắt nhịp chẵn nhiều hơn thường là những bài theo phong cách hát Nói và hát
Ngâm.
2.4.1.2. Nhịp lẻ trong các dòng có số tiếng lẻ (5,7,9 tiếng)
Nhịp thơ trong các bài hát Xoan đã chi phối nhịp nhạc. Lối phân nhịp lẻ
trước chẵn sau (3/2 với thể 5 tiếng và 3/4 hoặc 3/2/2 với thể bảy tiếng) trong
84
câu thơ thất ngôn cũng là đặc trưng của thơ ca Việt Nam (khác với thơ thất
ngôn của Trung Quốc là chẵn trước lẻ sau). Ca từ hát Xoan cũng không nằm
ngoài cách ngắt nhịp này. Đặc trưng nổi bật của cấu trúc phân nhịp trong lời
thơ của hát Xoan tuân thủ theo nhịp lời thơ cũng như mục đích làm rõ nội dung
bài hát. Sự phân nhịp đó có thể nhờ sự ngân dài của trường độ, sự tham gia của
từ phụ hoặc thủ pháp nhắc lại. Các bài Xoan điển hình cho cách ngắt nhịp này là
Thơ nhang, Trường mai cách, Xoan thời cách, Giã cá (Đánh cá, Mó cá, Bắt cá),
Hát lý, Phú Kiều, Phú Xích Bích,...
Bài Thơ nhang sử dụng thể thơ 4 tiếng là chính.Vì nội dung bài hát là
lễ bái khẩn nguyện nên có xen vào một số dòng biến thể 7 tiếng với nhịp dàn
trải, để tỏ niềm thành kính với bề trên. Ví dụ 41:
Nhang này chính thực/ nhang thơm lừng
Dân ta nay/ rước lấy sắc rồng
Văn thái hư/ thái bảo/ thái đế
Võ tư đồ/ tư mã/ tư chiêng
(Thơ nhang)
Bài Giã cá bên cạnh các câu thơ 4, 6 tiếng với lối ngắt nhịp chẵn, thì
các câu 7 tiếng lời ca được thay bằng nhịp trống “tầm vông tập” thể hiện
cảnh múa hát tinh nghịch, nhịp điệu nhịp nhàng gắn với không khí lao động
sôi nổi. Ví dụ 42:
Tập tầm vông/ đôi ta đánh cá
Đánh cá/đầm làng
Là vông tầm/ vông tập tầm vông
Đôi ta đánh cá/ đầm bên
Đánh được con vền/ thờ đức đại vương
(Giã cá)
Nhịp điệu của bài Xoan này có sự thay đổi qua các đoạn diễn xướng.
Đoạn đầu chậm hơn, đoạn cuối nhịp nhanh dần lên nhằm diễn tả trò đuổi bắt
cá [X. Pl8].
85
Hát phú có nhịp dàn trải, thể hiện tình cảm ước nguyện lứa đôi. Ví dụ 40:
Nhớ tri kỉ/ ngẫm nghĩ mà sầu
Duyên kỳ này/ trắc trở vì đâu?
Cặp đôi mình/ xem ý càng xinh
Tình đây đó/ trăng gió đêm thanh
(Hát phú)
Những bài hát Xoan có cách ngắt nhịp lẻ nhiều hơn thường là những
bài hát mang phong cách ca Xướng.
Vậy nhịp điệu và tiết tấu trong ca từ hát Xoan có hai loại: ngắt nhịp
chẵn với các dòng có số tiếng chẵn và ngắt nhịp lẻ trước chẵn sau với các
dòng có số tiếng lẻ. Nhịp chẵn ứng với các câu, bài hát mang phong cách hát
Nói và hát Ngâm; nhịp lẻ ứng với các câu, bài hát mang phong cách ca
Xướng. Bên cạnh đó, những cách nhịp điệu còn có khả năng biểu hiện giá trị
nội dung và cảm xúc trong ca từ mỗi bài hát Xoan.
2.4.2. Sự hòa phối thanh điệu
Ca từ là hiện tượng độc đáo của văn học ở cơ chế vận hành bộ máy
ngôn ngữ của nó. Ca từ có được nhạc tính chủ yếu là nhờ vào ba thứ “ điệu”
sau: thanh điệu, vần điệu và nhịp điệu. Trong ba yếu tố này thì yếu tố thanh
điệu là quan trong nhất. Trong tiếng Việt, mỗi âm tiết được đặc trưng bằng
một độ cao khác nhau do thanh điệu đảm nhận. Thanh điệu tiếng Việt được
miêu tả bằng hai đặc trưng ngữ âm: âm vực (cao, thấp) và đường nét (bằng,
trắc). Ở phần này, luận án tập trung vào khảo sát thanh điệu của ca từ hát
Xoan trên đường nét (bằng, trắc).
Hát Xoan cũng chịu sự chi phối của luật bằng trắc (BT) này. Sự biến
thiên về cao độ của các thanh điệu cũng được lấy làm một tiêu chí để khu biệt
chúng với nhau. Luật BT của thi ca quy định những thanh không dấu (thanh
ngang) và thanh huyền là bằng (B); những thanh ngã, sắc, hỏi, nặng là trắc
(T). Luật thơ lục bát và thất ngôn thường xét sự phối hợp các thanh B và
thanh T ở các tiếng thứ 2, 4 và 6 của câu thơ. Có câu “nhất tam ngũ bất luận,
86
nhị tứ lục phân minh”. Nghĩa là các tiếng thứ 2, 4 và 6 luôn luôn phải phối
hợp thanh BT tương ứng là B – T – B. Theo đó, nếu câu thơ nào không có sự
phối hợp BT đúng như trên nghĩa là phá luật BT. Căn cứ vào luật này, luận án
chia thanh điệu trong ca từ hát Xoan thành hai nhóm: thanh điệu phối đúng
luật BT và thanh điệu phối không đúng (thất) luật BT. Từ đây, có bảng
Bảng 2.16.Số dòng thơ phối thanh đúng luật và thất luật
Dòng
đúng luật BT thất luật BT đưa đẩy, câu đệm Tổng số Tần số xuất hiện 1187 917 198 2302 Tỉ lệ % 56,4 43,6 0 100
2.4.2.1. Thanh điệu phối đúng luật BT
Trong số 2302 dòng được khảo sát có 198 câu hát đưa đẩy, cụm từ phụ cố
định, câu hát chuyển đoạn, kết thúc trổ hát. Trong 2104 dòng còn lại có 1187
dòng (56,4 %) thanh điệu phối đúng luật BT. Kết quả khảo sát cho ra bảng sau:
Bảng 2.17.Số dòng phối đúng luật BT chia theo thể
Dòng
Stt 1 2 3 5. 4 tiếng lục bát thất ngôn biến thể
Tổng số Tần số - Tỉ lệ % 215 – 18,1 472 – 39,8 207 – 17,4 293 – 24,7 1187 - 100
Nhận xét: Trong 1187 dòng theo đúng luật BT này có 894 dòng (~ 75,3%) thể 4 tiếng,
lục bát và thất ngôn; còn 293 dòng (~ 24,7 %) là các dòng biến thể. Dòng lục bát
phối đúng luật đứng đầu với 472/1187 dòng (~ 39,8%), dòng 4 tiếng đứng ở vị trí
số 2 với 215/1187 dòng (~ 18,1%), dòng thất ngôn đứng thứ 3 với 207/1187 dòng
(~ 17,4%). Kết quả khảo sát cho thấy 14 bài hát ở chặng 2 và một số bài ở chặng 3
là những bài hát có thanh điệu phối đúng luật chiếm ưu thế. Tuy nhiên, trong một
đoạn của bài Xoan có cả những dòng đúng luật và cả những dòng không đúng
luật. Nhưng dòng phối đúng luật luôn chiếm ưu thế [X Pl 6].
87
2.4.2.2. Thanh điệu phối thất luật
Bảng 2.18.Số dòng phối thanh thất luật BT
Dòng
nhiều thanh B hơn nhiều thanh T hơn
Tổng số Tần số - Tỉ lệ % 543 – 59,2 374 – 40,8 917 - 100
Có 917/2104 dòng (~ 43,6 %) phối không đúng luật BT. Trong 917
dòng phối không đúng luật BT có thể chia nhỏ hơn: các dòng có nhiều
thanh B hơn (543/917 - 59,2 %), các dòng có nhiều thanh T hơn (374/917
dòng - 40,8 %). Các dòng phối không đúng luật thường nằm trong các bài
hát Xoan ở chặng 1 và chặng 3. Các dòng có nhiều thanh T hơn là các dòng
thuộc những bài hát Xoan chặng 1. Các dòng có nhiều thanh B hơn là các
dòng nằm trong chặng hát thứ 3. Điều này cũng phản ánh đúng giọng điệu
của các bài hát Xoan ở từng chặng. Chặng hát thờ - hát nghênh thần là
chặng hát có tính chất trang nghiêm, thành kính nên các dòng phối thất luật
sẽ nghiêng về hướng nhiều thanh T hơn. Chặng hát hội là chặng hát giao
duyên nên các dòng phối thất luật theo đó sẽ nghiêng về hướng nhiều thanh
B hơn. Chặng 2 – chặng hát Quả cách là chặng có ít các dòng phối không
đúng luật nhất. Vì tính quy phạm mực thước ở chặng này. Nếu có phối
không đúng luật thì cũng là ở các dòng biến thể.
Trên cơ sở đó, bên cạnh những ca từ chính thể hiện nội dung cần
biểu đạt thì các âm tô điểm (các từ phụ, các hư từ (ơ, a, i,...) hay các tiếng
đệm đơn (ấy mấy, mà, thời, rằng...) làm cho bài hát có nhịp điệu tự do hơn,
tiết tấu có độ co giãn lớn. Các âm tô điểm này còn có tác dụng tham gia
vào thành phần lời ca để thể hiện các nét giai điệu ngân nga, luyến láy.
Một biểu hiện nữa của những dòng, những bài thất luật BT đó là các
bài hát có sử dụng kĩ thuật bẻ làn nắn điệu như tổ khúc Bỏ bộ. Những dòng
thất luật BT không hề làm giảm giá trị của các bài hát Xoan. Việc phá luật
thơ đã làm cho các bài hát thể hiện rõ nét hơn, sâu sắc hơn nội dung tư
88
tưởng cần biểu đạt, một phần nào đó đem lại sự chú ý hơn cho người
thưởng thức [X. Phụ lục 8]. 2.5. Tiểu kết
Như vậy, chương 2 đã đi vào khảo sát và phân tích đặc điểm hình thức
của ca từ hát Xoan trên bốn vấn đề cơ bản.
Một là kết cấu văn bản của hát Xoan. Kết cấu văn bản hát Xoan được
chia theo đoạn. Kết cấu đoạn trong hát Xoan được chia thành 3 loại: một
đoạn, hai đoạn và ba đoạn. Kết quả khảo sát cho thấy kết cấu ba đoạn chiếm
ưu thế (17/42 bài ~ 40.5 %) và chủ yếu là các bài hát Xoan thuộc chặng hai
(chặng hát Quả cách). Điều này chứng minh rằng hình thức kết cấu của văn
bản hát Xoan quy định rõ nội dung của ca từ. Cụ thể là các bài hát thuộc
chặng Quả cách là các bài hát đủ 3 đoạn và là những bài hát mang tính quy
phạm và mực thước hơn so với các bài của chặng 1 và chặng 3.
Hai là thể trong hát Xoan. Thể trong ca từ hát Xoan đã được nhìn nhận
chủ yếu ở các thể: 4 tiếng và biến thể, lục bát và biến thể, thất ngôn và biến thể,
song thất lục bát và biến thể và thể tự do. Ba thể chiếm ưu thế hơn cả trong ca từ
hát Xoan là thể lục bát, 4 tiếng và thể thất ngôn. Thể 4 tiếng được sử dụng chủ
yếu trong các bài hát thuộc chặng hát nghênh thần. Thể thất ngôn chiếm ưu thế
trong các bài hát chặng quả cách. Thể lục bát xuất hiện nhiều ở chặng hát giao
duyên. Sở dĩ có đặc điểm này là vì thể trong các bài hát nghênh thần với nội
dung ngợi ca công đức của những người anh hùng, người có công,những vị vua
hay thành hoàng làng; thể thất ngôn trong các bài quả cách tương đồng với thể
thất ngôn các bài thơ Đường với nội dung gần với văn chương Nho giáo bằng
việc kể lại tích xưa, truyện xưa; còn chặng ba, người hát có thể thoải mái bộc lộ
tâm tình qua thể lục bát. Như vậy,hình thức của thể trong mỗi bài, chặng hát
Xoan cũng liên quan đến và phần nào quyết định nội dung của nó.
Ba là vần trong hát Xoan. Vần trong ca từ hát Xoan được chia thành các
loại: vần trong một khổ (vần chân, vần lưng,vần liền, vần cách, vần ôm,vần
89
hỗn hợp) và vần giữa các khổ thơ. Trong hai loại này chiếm ưu thế lớn nhất là
vần trong một khổ. Vần trong một khổ thơ có vần chân, vần lưng và vần hỗn
hợp có tần số xuất hiện nhiều hơn cả và mang lại giá trị liên kết cũng như giá
trị tu từ cao. Hơn thế nữa, vần trong hát Xoan còn là phương tiện biểu đạt nội
dung của nhân vật trữ tình trong ca từ hát Xoan.
Bốn là nhịp và sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan. Nhịp trong
ca từ hát Xoan có 2 loại: nhịp chẵn trong các câu thơ có số tiếng chẵn (4,6
hoặc 8 tiếng) và nhịp lẻ trong các câu thơ có số tiếng lẻ (5, 7 hoặc 9 tiếng). Sự
hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan được chia làm 2 nhóm: nhóm các
dòng có thanh điệu phối đúng luật BT ( ~ 57,3 %) và nhóm các dòng có thanh
điệu phối không đúng luật BT (~ 42,7 %). Nhóm các dòng có thanh điệu phối
không đúng luật BT được phân xuất nhỏ hơn thành hai loại: nhóm các câu thơ
có nhiều thanh B hơn và nhóm các câu thơ có nhiều thanh T hơn. Điều này
cho thấy hát Xoan là một loại hình âm nhạc dân gian linh hoạt trong việc vận
dụng sức mạnh của sự hòa phối thanh điệu để làm nên giá trị của các bài hát.
Nhìn chung, các đặc điểm về hình thức của ca từ hát Xoan đã cho thấy
ngôn ngữ tiếng Việt được sử dụng một cách linh hoạt, mềm mại và uyển
chuyển với nhiều sáng tạo mới mẻ, phong phú góp phần thể hiện được tư duy
độc đáo và những xúc cảm sâu lắng, tinh tế của người xưa về cuộc sống, tín
ngưỡng và tình yêu.
Chính những đặc điểm về hình thức này đã góp phần hữu hiệu trong
việc biểu đạt những đặc điểm về nội dung của ca từ hát Xoan; đồng thời cũng
tạo ra phong cách ngôn ngữ đặc trưng của Xoan trong ca từ âm nhạc dân gian
Việt Nam cũng như ngôn ngữ tiếng Việt nói chung.
90
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM CA TỪTRONG HÁT XOAN PHÚ THỌ
XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA
3.1.Ngữ nghĩa qua hệ thống tiêu đềcác bài hát Xoan
3.1.1. Tiêu đề trong mối quan hệ với đề tài
Như đã nêu ở mục 1.1.1.1. “Ca từ” là gì?, luận án quan niệm: ca từ của
một bài hát bao gồm cả tiêu đề và lời hát. Vì vậy, tìm hiểu tiêu đề là một bước
cần thiết để đi sâu hiểu ngữ nghĩa của văn bản ca từ.
Tiêu đề và đề tài của một tác phẩm nghệ thuật thường có mối quan hệ mật
thiết với nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực âm nhạc và văn học. Đối với một tác
phẩm âm nhạc thì toàn bộ ca từ - ngôn ngữ văn học trong tác phẩm âm nhạc –
bao gồm nhiều phần. Ngoài phần ca từ, lời ca (ngôn ngữ văn học được hát theo
nhạc) thì tên gọi tác phẩm (nhan đề, tiêu đề) cũng đóng vai trò giúp người
thưởng thức hiểu rõ hơn tác phẩm âm nhạc. Ngoài tiêu đề, tác phẩm âm nhạc
còn có lời đề từ, từ chỉ dẫn, lời ghi chú. Vị trí của những lời dẫn giải này thường
nằm trên phần ca từ chính. Trong các bài hát Xoan Phú Thọ lời đề từ, từ chỉ dẫn
hay lời ghi chú rất ít hoặc không có. Chính vì vậy, luận án chỉ xem xét ý nghĩa
tiêu đề của các bài hát Xoan. Có thể thấy, tiêu đề không những mang ý nghĩa chỉ
dẫn mà có khi còn có vai trò giải thích thêm về nội dung tác phẩm.
Tiêu đề của một bài hátlà tên gọi của bài hát, là phần ngôn từ đầu tiên
mà người sáng tác (hoặc người sưu tầm, ghi chép) nhắc đến. Chúng giúp
người thưởng thức hình dung khái quát được nội dung của cả bài. Chúng cũng
là dấu hiệu đầu tiên biểu hiện nội dung cốt lõi của văn bản.
Trong 42tiêu đề bài ca trong hát Xoan đã nêu, dựa vào sự biểu hiện ngữ
nghĩa qua tiêu đề bài hát ta có thể phân chia ra 3 đề tài chính, gồm: đề tài
“thiên nhiên” có 6/42 bài - 14,3%, đề tài “khẩn nguyện” và “tích xưa” có
14/42 bài -33,3% và đề tài “lao động” và “giao duyên” chiếm 22/42 bài -
52,4 %. Như vậy, nhóm tiêu đề của đề tài “lao động” và “giao duyên” chiếm
ưu thế. Nhóm tiêu đề thuộc đề tài “khẩn nguyện” và “tích xưa” đứng ở vị trí
số hai. Và nhóm tiêu đề thuộc các bài hát đề tài “thiên nhiên” đứng vị trí thứ
91
ba. Dưới đây là phần phân tích cụ thể 3 nhóm tiêu đề:
3.1.1.1. Nhóm tiêu đề “thiên nhiên”
Đề tài thiên nhiên ứng với các bài có tiêu đề chỉ mùa, chỉ thời gian như:
Xoan thời cách (Mừng Xoan cách), Hạ thời cách (Mừng hạ cách), Thu thời cách
(Mừng thu cách), Đông thời cách (Đưa đông cách), Tứ mùa cách, Nhàn ngâm
cách. Như vậy đề tài này chiếm 6/42tiêu đề (~14,3%). Các bài Xoan này được sắp
xếp theo trật tự bốn mùa: Xuân – hạ - thu – đông. Các bài hát này chủ yếu biểu đạt
nội dung thiên nhiên, thời tiết, sự vật bốn mùa xuân – hạ - thu – đông gắn với
công việc lao động, hội hè và những tâm tư, nỗi niềm của con người. Các bài hát
đề tài thiên nhiên có hai đặc điểm. Một là: sự luân chuyển, tuần hoàn về mặt thời
gian từ mùa này sang mùa khác được thể hiện rõ ở câu đầu và câu cuối của mỗi
bài hát. Lời giáo cách của cả 6 bài luôn là miêu tả mùa sẽ hát trong bài (nội dung
chính của bài hát). Câu kết cách của các bài sẽ là lời giới thiệu mùa kế tiếp. Ví dụ
bài Xoan thời cách có câu kết là: “bao giờ cho đến áng xoan bây giờ?” thì bài Hạ
thời cách có câu giáo đầu là: “Thảnh thơi những là xuân hỡi xuân/ hết cảnh xuân
sang cảnh hạ”. Câu kết của bài Hạ thời cách là: “Giáng phúc cho làng sống tuổi
muôn thu”, thì câu giáo đầu của bài Thu thời cách là: “Thảnh thơi hạ đã ra về/
mừng thấy tin thu mới đến”. Tương tự như vậy, câu giáo đầu của bài Đông thời
cách cũng mở đầu: Thảnh thơi thu đã ra về/ mừng thấy tin đông mới đến”. Điểm
đặc biệt thứ hai trong các bài ca này là tiêu đề mỗi bài chỉ một mùa nhưng ca từ
không miêu tả duy nhất mùa đó. Bài Đông thời cách (Đưa đông cách), Tứ mùa
cách có hiện diện đủ bốn mùa trong năm. Riêng ở bài Tứ mùa cách: mỗi mùa đều
được miêu tả kĩ ở một - 3 khổ, trổ hát cùng với lời cầu chúc cho mỗi mùa. Như
vậy, việc sắp xếp các bài ca chỉ mùa cho thấy sự nhìn nhận, tư duy về thời gian
của người xưa theo hướng vừa tuần hoàn (xuân sinh – hạ trưởng – thu thu – đông
tàn) lại vừa theo hướng vận động, tịnh tiến (thời gian như bóng câu qua cửa sổ,
một đi không trở lại). Đó là một cái nhìn biện chứng và tương đối toàn diện.
3.1.1.2. Nhóm tiêu đề “khẩn nguyện”và “tích xưa”
Nhóm tiêu đề ứng với đề tài “khẩn nguyện” và “tích xưa” có 14/42 bài hát -
92
33,3 %. Đề tài “khẩn nguyện” gồm 7/14 nhan đề (50,0%): Hát nhập tịch chào
vua, Hát chúc thành hoàng, Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Đóng đám,
Mời rượu. 7 bài hát này đều là những bài thuộc chặng 1 (hát thờ, hát chúc).
Trong nhóm tiêu đề ứng với đề tài “khẩn nguyện”, hình tượng trung tâm được
hướng đến là hình tượng đức vua, thành hoàng làng hoặc người anh hùng.Đó
là những bài ca ngợi công lao của đức vua, bày tỏ lòng thành kính với bề trên
và lời cầu chúc quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.
Nhóm tiêu đề ứng với các bài hát kể chuyện, ngâm vịnh các tích truyện
xưa chiếm 7/14 bài (50,0 %). Nhóm tiêu đề này gồm các bài: Kiều Giang
cách, Đối giãy cách, Trường mai cách,Phú Kiều,Phú Xích Bích,Chơi Giâu
xướng cách, Hồi liên cách.Các bài Xoan này kể lại câu chuyện của những
nhân vật xưa, những điển tích như nàng Kiều Giang (Kiều Giang cách), Thúy
Kiều (Phú Kiều), Thị Dương (Phú Xích Bích), các tích xưa hay các tích tế kị
của phường Xoan trong Trường mai cách, Đối dãy cách, Hồi liên cách và
Chơi Giâu xướng cách.Nhóm đề tài các bài hát kể chuyện xưa, tích xưa có 5
bài thuộc chặng hát Quả cách, 2 bài thuộc chặng hát hội (Phú Kiều và phú
Xích Bích).
Tóm lại, các bài hát thuộc đề tài “khẩn nguyện” và “tích xưa” có 12/14
bài (~ 85,7%) là những bài hát thuộc chặng 1 và chặng 2 – các chặng hát
mang tính nghi thức lề lối và bài bản. Chỉ có 2/14 bài (~ 14,3%) thuộc chặng
hát thứ 3 – chặng hát hội.
3.1.1.3. Nhóm tiêu đề “lao động”và “giao duyên”
Nhóm nhan đề ứng với đề tài“lao động” và “giao duyên” có 22/42bài (~
52,4 %). Đây là nhóm chiếm số lượng áp đảo các nhóm còn lại.
Nhóm các bài ca thuộc đề tài “giao duyên” chiếm số ưu thế 12/22 bài
(~ 54,5 %), gồm: Trống quân đón đào, Trống quân Đức Bác, Hát đúm, Bỏ
bộ, Xin huê – đố chữ, Bợm gái, Gài huê, Bút huê thảo, Hát ru, Phú năm
canh, Trèo lên cây bưởi, Hát lý. Trong đề tài “giao duyên”, các bài như
Trống quân Đức Bác, Trống quân đón đào, Xin huê – đố chữ, Gài huê, Bợm
93
gái, Bỏ bộ là những bài hát có nội dung hát đối và hát đố giữa bên nam và bên
nữ. Những bài Bút huê thảo, Hát ru, Phú năm canh, Trèo lên cây bưởi và Hát
lý là những bài bày tỏ trực tiếp nỗi lòng của nhân vật trữ tình – tâm trạng và
nỗi niềm của những chàng trai, cô gái trong tình yêu.
Nhóm các bài ca thuộc đề tài “lao động” có 10/22 bài (~ 45,5 %), gồm:
Ngư tiều canh mục cách, Tứ dân cách, Thuyền chèo cách, Cầu bạch cầu
bông, Xe chỉ - vá may, Xẻ ván bắc cầu, Đường đi trên suối, Trồng bông
luống đậu, Giương cung bắn cò, Đánh cá (Giã cá, Mó cá). Ở đề tài này có
thể chia nhỏ hơn thành các nhóm: đề tài”nghề nghiệp” và đề tài “quan hệ xóm
làng”. Nhóm đề tài “nghề nghiệp” gồm các bài Ngư tiều canh mục cách,
Thuyền chèo cách (Hò đò cách), Giã cá, Xe chỉ vá may, Giương cung bắn cò.
Các bài hát thuộc đề tài này hát về những nghề nghiệp phổ biến trong xã hội
xưa là: ngư – người câu cá; tiều – người kiếm củi; canh – người làm nghề
nông (canh tác),; mục – người chăn nuôi (Ngư tiều canh mục cách, Giã cá )
và một số công việc khác như chèo thuyền, may vá (Thuyền chèo cách - Hò
đò cách, Xe chỉ vá may), đi săn (Giương cung bắn cò). Nhóm đề tài “quan hệ
xóm làng” gồm các bài Tứ dân cách, Cầu bạch cầu bông, Xẻ ván bắc cầu.
Các bài hát này kể về 4 tầng lớp trong xã hội làng quê xưa: sĩ (học trò) – nông
(nông dân) – công (thợ thủ công) - thương(thương nhân) và mối quan hệ giữa
họ (Tứ dân cách). Các bài hát có đề tài “quan hệ xóm làng” cũng nhắc tới
nghề nghiệp, công việc của họ (Xẻ ván bắc cầu, Đường đi trên suối, Trồng
bông luống đậu).
Từ các phân tích và thống kê trên, có bảng sau
Bảng 3.1. Tiêu đề cácbài hát Xoan ứng với đề tài
Số bài – Tỉ lệ %
Stt Đề tài 1 Giao duyên 12 – 28, 6
Tiêu đề Trống quân đón đào,Trống quân Đức Bác, Hát đúm, Bỏ bộ, Xin huê – đố chữ, Bợm gái, Gài huê, Bút huê thảo, Hát ru, Phú năm canh, Trèo lên cây bưởi, Hát lý
94
Đề tài
Stt 2 Lao động Số bài – Tỉ lệ % 10 – 23,8
7 – 16,7 3 Khẩn nguyện
7 – 16,7 4 Tích xưa
6 – 14,2 5 Thiên nhiên
Tiêu đề Ngư tiều canh mục cách, Tứ chèo cách,Thuyền dân cách,Cầu bạch cầu bông,Xe chỉ - vá may,Xẻ ván bắc cầu,Đường đi trên suối, Trồng bông luống đậu,Giương cung bắn cò, Đánh cá (Giã cá, Mó cá Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Đóng đám, Mời rượu Kiều Giang cách, Đối giãy cách, Trường mai cách,Phú Kiều,Phú Xích Bích,Chơi Giâu xướng cách, Hồi liên cách. Xoan thời cách (Mừng Xoan cách), Hạ thời cách (Mừng hạ cách), Thu thời cách (Mừng thu cách), Đông thời cách (Đưa đông cách), Tứ mùa cách, Nhàn ngâm cách.
Tổng số 42 - 100
Tóm lại, đề tài trong mối quan hệ với tiêu đề của ca từ hát Xoan được
chia làm ba nhóm chính: “thiên nhiên”, “khẩn nguyện” và “tích xưa”; “lao
động” và “giao duyên”. Nhóm nhan đề ứng với đề tài “lao động” và “giao
duyên” chiếm vị trí cao nhất. Điều này có thể khẳng định: là dân ca nghi lễ,
phong tục (Tú Ngọc) nhưng nhan đề của hát Xoan cho thấy người xưa vẫn coi
cuộc sống lao động và tình duyên là những vấn đề chính, vấn đề quan trọng.
3.1.2. Đề tài và mạch lạc trong các bài hát Xoan
3.1.2.1. Đề tài được triển khai nhất quán
Mạch lạc là yếu tố quyết định việc tạo thành văn bản, trong đó nổi lên
rõ việc tạo thành tính thống nhất của chủ đề văn bản. Biểu hiện cơ bản nhất
của mạch lạc trong một văn bản là lần lượt đi qua khắp các phần, các đoạn
95
trong văn bản và thông suốt, liên tục, không đứt đoạn. Các bài hát Xoan là
văn bản nghệ thuật nên nó thể hiện tính mạch lạc rất rõ. Biểu hiện đầu tiên
của sự mạch lạc trong các bài hát Xoan là ở tiêu đề. Sau đó ứng với các đoạn
và các lớp ca từ trong cả bài.
Chẳng hạn như: ở nhóm đề tài “thiên nhiên” thì việc gọi đúng tên các
mùa ở từng bài hát; riêng mùa xuân được nói chệch đi thành Xoan. (Xem lại
mục 1.2.2.3). Tất cả các từ “xuân” trong các bài hát Xoan chỉ mùa đều được
gọi chệch đi như vậy. Cụm từ chính xuất hiện nhiều lần: trước tiên ở tiêu đề.
Sau đó, các đoạn mở, thân và kết các từ chính xuất hiện trở đi trở lại với tần
số cao. Ví dụ 41:
Xoan thời cách hơi dương đầm ấm
Gió lụy thanh thời tiết (mới lại) thổi qua
Mừng thấy tin xoan (là) mới đến
Nhạn én tin truyền
Một cảnh sơn xuyên (là) đầm ấm.
(Xoan thời cách - Mừng xoan cách)
Các danh từ chỉ mùa như xoan, hơi dương, gió, thời tiết; chỉ loài chim vào
mùa xuân như nhạn, én; các tính từ đầm ấm (lặp lại 2 lần), mừng đều thống
nhất để biểu đạt bức tranh thiên nhiên mùa xuân ấm áp, tốt lành. Người nghe
cũng bắt gặp ý niệm này ở ví dụ 42:
Lá điều rừng rực
Chim ríu rít đậu cành
Liễu lục xoan xanh.
(Là) chim ri mới nở
Đào tiên tươi đẹp nắng hồng
Người tiên đủng đỉnh tay nâng
(Xoan thời cách - Mừng xoan cách)
Các danh từ chỉ sự vật của mùa xuân: người tiên, đào tiên, chim, liễu,
lá, nắng cùng với các tính từ, từ láy chỉ trạng thái, màu sắc: rừng rực, ríu rít,
xanh, hồng, mới nở, tươi đẹp, đủng đỉnh cho thấy tất cả sự vật thiên nhiên và
96
con người cùng đang trong trạng thái tươi đẹp của mùa xuân. Vậy, đề tài của
các bài Xoan được triển khai nhất quán từ tiêu đề đến từng ca từ, từng đoạn
trong bài. Thiên nhiên, sự vật, thời tiết và con người trong các bài này đều
được miêu tả bằng những từ ngữ thuộc về trường nghĩa mà tiêu đề đã gọi
tên. Các bài hát về các mùa khác cũng được triển khai theo cách tương tự
như vậy.
Đề tài“lao động” cũng được triển khai và nhất quán theo tiêu đề. Đề tài
của các bài này hát về công việc lao động với những nghề phổ biến trong xã
hội xưa: ngư – tiều – canh – mục (Ngư tiều canh mục cách, Giã cá, Giương
cung bắn cò), mỗi nghề được hát ở một trổ. Mỗi trổ hát có các lớp từ ngữ liên
quan đặc trưng đến nghề đã nêu. Mạch triển khai đề tài thống nhất trong các bài
hát Xoan tương tự như trong bài Tứ dân cách với bốn tầng lớp: sĩ – nông –
công – thương.
Nhóm tiêu đề các bài hát thờ thuộc đề tài “khẩn nguyện” gồm các bài:
Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Đóng đám.Tiêu đề bài hát Giáo trống và
Giáo pháo nghĩa là bài hát mở đầu giới thiệu trò biểu diễn đánh trống và nổi
pháo trong một cuộc hát. Bài Thơ nhang mang ý nghĩa dâng hương lên thần
linh và thành hoàng khi bước vào cuộc hát với nhịp điệu chậm và trang
nghiêm. Từ đóng trong bài Đóng đám có nghĩa là bài hát kết thúc hội đám.
Đây là bài hát kết thúc của chặng đầu tiên của cuộc hát. Sau khi hết bài thì hát
đến bài Mời rượu. Các bài hát này theo đúng tiến trình của một buổi lễ: mời
vua về dự tiệc, chúc thành hoàng, đánh trống, nổi pháo, dâng hương, dâng
rượu và kết thúc buổi lễ. Tất cả những bài hát ở chặng này thường mang nội
dung khẩn nguyện (mời vua, các vị anh hùng, thành hoàng làng về dự lễ) và
cầu chúc (mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cuộc sống an khang, no đủ,
thuận hòa, của cải dồi dào).
Nhóm các bài ca kểchuyện xưa cũng được triển khai nhất quán theo
tiêu đề. Bài Kiều Giang cách hát về nàng Kiều Giang, một công chúa thời xưa
và những tâm sự, những nỗi niềm của nàng. Các bài phú: Phú Kiều và Phú
Xích Bích được đặt theo thể loại Phú – một thể loại văn chương cổ của Việt
97
Nam xuất phát từ văn học Trung Hoa. Phú Kiều kể lại cuộc đời, số phận sóng
gió của nàng Kiều theo thể loại thơ thất ngôn. Bài Phú Xích Bích kể lại tình
cảnh trớ trêu và mối duyên nồng thắm giữa chàng Trịnh Quản và nàng Thị
Dương. Riêng bài Hồi liên cách và Chơi Giâu xướng cách là những bài chỉ
được hát trong lễ tế kị của phường Xoan.
Nhóm các bài hát “giao duyên” thể hiện sự mạch lạc, nhất quán trong
tiêu đề như vậy. Từ khi đợi chờ, gặp gỡ, mong ngóng trong Trống quân đón
đào, Trống quân Đức Bácđến vui đùa, trêu ghẹo trong Bợm gái, bày tỏ và
biểu lộ trong Hát đúm, Bỏ bộ, Trèo lên cây bưởi, Hát lý,Gài huê, đố vui trong
Xin huê – đố chữ, kể chuyện trong Phú Kiều, Phú năm canh.
Như vậy, đề tài trong các bài hát Xoan trước hết đã được triển khai và
duy trì nhất quán từ tiêu đề đến từng đoạn, ca từ của nó. Điều này cũng cho
thấy sự mạch lạc, thống nhất trong tư duy của người xưa.
3.1.2.2. Đề tài được phát triển và mở rộng
Mạch đề tài của một bài hát Xoan không những được triển khai nhất
quán mà còn có khả năng mở rộng và phát triển sang các đề tài, chủ đề khác.
Thực chất là một bài hát Xoan thường có một đề tàichính và các tiểu đề tài.
Đặc điểm này được thể hiện rõ ở phần ca từ trong các bài hát về thiên nhiên -
đường dẫn liên kết giữa các tiểu đề tài (xuân, hạ, thu, đông) trong một đề tài
bao quát (tứ thời). Hoặc là đề tài bao quát tứ dân với các tiểu đề tài (sĩ, nông,
công, thương). Tương tự như vậy với đề tài bao quát nghề nghiệp và các tiều
đề tài (ngư, tiều, canh, mục),... Việc phát triển và mở rộng đề tài trong bài hát
Xoan giống như cách miêu tả và biểu đạt bằng tranh tứ bình của hội họa
phương Đông thời xưa. Ví dụ như bài Xoan thời cách (Mừng Xoan cách)
đoạn giáo cách và đưa cách có nội dung hát chính về mùa xuân. Đoạn kết
cách có nhắc tới mùa hạ. Bài Hạ thời cách, đoạn giáo cách có nhắc tới mùa
xuân, đoạn kết cách hát về mùa thu. Tương tự như vậy, các bài như Thu thời
cách (Mừng thu cách) hay Đông thời cách (Đưa đông cách) đều có đoạn giáo
cách và kết cách nhắc về mùa đã qua và kế tiếp. Riêng bài Tứ mùa cách thì cả
98
bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đều được nhắc đến. Dưới đây là các câu thuộc
đoạn giáo cách và kết cách của các bài hát chỉ mùa. Ví dụ 43 – 46:
- Mừng thấy tin xoan mới đến
Nhạn én tin truyền
Bao giờ cho đến hạ thời?
(Xoan thời cách - Mừng Xoan cách)
- Thảnh thơi những là xuân hỡi xuân
Hết cảnh xuân sang cảnh hạ
Giáng phúc cho làng tuổi sống muôn thu.
(Hạ thời cách - Mừng hạ cách)
- Thảnh thơi hạ đã ra về
Mừng thấy tin thu mới đến
Bao giờ cho đến đông thì?
(Thu thời cách - Mừng thu cách)
- Thảnh thơi thu đã ra về
Mừng thấy tin đông mới đến
Mùa đông rước chủ nhân lên đền
(Đông thời cách - Đưa đông cách)
Hiện tượng phát triển, mở rộng về đề tài còn thể hiện ở các bài ca giao
duyên đôi lứa. Các bài ca này thường được đan cài nội dung lao động. Các bài
Gài huê, Hát đúm, Bỏ bộ, v.v đều là những bài hát giao duyên nhưng có thêm
những câu hát mô tả cảnh lao động. Ví dụ 47:
Khuyên anh có chí học cho hay
Cơm ăn ba bữa sẵn có cha cày mẹ cấy
Áo bốn mùa sẵn có bác mẹ may
Cờ bạc cò quay xin anh lánh mặt
Bút nghiên đèn sách khuyên anh chớ rời tay
Đúm này em đã thơ rồi
(Hát đúm)
99
Điều này cho thấy, người xưa quan niệm tình cảm đôi lứa thường được
nảy sinh trong cuộc sống lao động nơi thôn quê. Đó là những tình cảm trong
sáng, tế nhị và đúng mực. Một số bài ca lao động đan cài thêm nội dung giao
duyên nam nữ. Đó là các bài Xin huê – đố chữ, Giã cá, Bợm gái vừa có nội
dung giao duyên trữ tình giữa nam với nữ lại vừa có nội dung ca ngợi lao động
hay công việc. Ví dụ 48:
Đôi ta đánh cá bóng đèn
Cá thời chẳng được làm quen với đào
Đôi ta đánh cá bóng trăng
Cá thời chẳng được thung thăng bắt đào
(Giã cá)
Đôi thanh niên nam nữ (đôi ta) cùng làm công việc đánh cá, nhưng trong
lao động cũng có lúc vui chơi, đùa giỡn: làm quen với đào, thung thăng bắt đào.
Công việc sẽ bớt nặng nhọc, vất vả khi người lao động được vui đùa như vậy.
Nhóm các bài ca kể chuyện, tích xưa còn cho người nghe nhận thấy
những bài học đạo đức như: thủy chung, hiếu nghĩa, tiết hạnh,… bên cạnh các
câu chuyện được kể. Ví dụ 49:
Chàng Trịnh Quản lấy ả Thị Dương
Vợ chồng sắm thuyền lương xuôi chầy
Đêm tôi nằm chiêm bao lần thấy
Vợ thương chồng chẳng mấy khi rời
(Phú Xích Bích)
Thực ra, ngay trong các bài ca này, người nghe có thể dễ dàng phát hiện
thấy một số nội dung khác được kín đáo gửi gắm có thể thấy ở những bài ca
thuộc nhóm các bài ca “lao động” hoặc nhóm những bài ca “giao duyên” đôi lứa.
Vì vậy, càng phải thấy sự phân chia chỉ mang tính chất tương đối.
Tóm lại, hiện tượng phát triển, mở rộng hay “lấn sân” sang các đề
tàikhác cho ta thấy đề tài của một bài hát Xoan không bị bó hẹp, không là
duy nhất. Đặc điểm này làm cho mỗi bài hát trong từng nhóm đề tài có thể
100
bổ sung và mở rộng cho nhau khiến cho từng nhóm bài ca cùng đề tài, chủ
đề từng chặng hát thêm sinh động, hấp dẫn. Như vậy, các tác giả dân gian đã
sử dụng lối “vẽ tranh tứ bình” trong các bài hát Xoan giúp họ mô tả được
một cách toàn diện và thâu tóm được những gì đặc trưng nhất của thiên
nhiên, nghi lễ và xã hội thời xưa.
3.2. Các trường từ vựng trong ca từ hát Xoan
Như đã nêu ở mục cơ sở lí luận (xem lại mục 1.2.1.3), trường từ vựng –
ngữ nghĩa (gọi tắt là trường từ vựng) là một vấn đề phong phú và phức tạp. Với
nguồn ngữ liệu là 42 bài hát Xoan, luận án đã khảo sát sự xuất hiện của 6
trường từ vựng cơ bản: con người,thời gian, vũ trụ,thực vật, động vật,lễ
hội.Theo đó, chúng tôi thu được kết quả về số lượng các trường từ vựng như
sau:
Bảng 3.2. Từ ngữ thuộc các trường từ vựng
Trường từ vựng
Stt 1 2 3 4 5 6 con người thời gian vũ trụ thực vật động vật lễ hội
Tổng Số lượng 2039 1083 967 915 854 726 6584 Tỉ lệ % 30,9 16,4 14,6 13,9 12,4 11,0 100
Nhìn vào bảng thống kê, ta thấy 3 trường từ vựng có tần số xuất hiện cao nhất
là trường từ vựng biểu thị con người (2039/6584 từ - 30,9%); trường từ vựng
biểu thị thời gian (1083/6584 từ - 16,4 %) và trường từ vựng biểu thị vũ trụ
(967/6584 từ - 14,6 %). Ba trường từ vựng còn lại là lễ hội, động vật và thực
vật, tác giả luận án xin điểm qua những nét nổi bật để minh họa thêm cho
những nhận xét và kết luận của mình.
3.2.1. Trường từ vựng“con người”
Với bất cứ loại hình nghệ thuật nào, con người là đối tượng trung tâm,
là chủ thể được miêu tả. Trường từ vựng biểu thị con người trong các bài hát
Xoan xuất hiện với tần số nhiều nhất (2039/6584 -30,9%) trong 6 trường từ
101
vựng kể trên và cũng là đối tượng chi phối 5 trường từ vựng còn lại. Con
người trong ca từ hát Xoan được định danh bằng các tiểu trường biểu thị địa
vị, nghề nghiệp, giới tính, bộ phận cơ thể, hoạt động và tình thái. Dưới đây là
bảng thống kê cụ thể:
Bảng 3.3. Số lượng từ ngữ các tiểu trường thuộc trường“con người”
Tiểu trường
Stt 1 2 3 4 5 6 tình thái hoạt động địa vị sự phân biệt giới tính nghề nghiệp bộ phận cơ thể
Tổng số Số lượng 401 390 383 361 332 172 2039 Tỉ lệ (%) 19,6 19,3 18,7 17,8 16,3 8,4 100
Nhận xét:
Nhìn vào bảng số liệu trên, ta thấy trường từ vựng định danh con người
thông qua tiểu trường chỉ tình tháicó tần số xuất hiện cao nhất 401/2039 lần
(~ 19,6 %). Nhóm định danh con người thông qua tiểu trường chỉ bộ phận cơ
thể có tần số xuất hiện ít nhất 172/2039 lần (~ 8,4 %). Nhóm định danh con
người có tần số xuất hiện lần lượt thông qua các tiểu trường chỉ hoạt
động:390/2039 (~ 19,2 %); địa vị: 383/2039 (~18,7); sự phân biệt giớitính:
361/2039 (~ 17,8 %) và nghề nghiệp là: và 332/2039 (~ 16,3%). Dưới đây là
các bảng thống kê và nhận xét chi tiết hơn về các tiểu trường.
3.2.1.1. Tiểu trường từ vựng“tình thái” của con người
Tiểu trường chỉtình thái có tần số xuất hiện cao nhất 401/2039 lần (~
19,6 %). Tiểu trường này gồm các lớp từ chỉ: đặc trưng tâm lí tình cảm; đặc
trưng trạng thái sự vật, hiện tượng; đặc trưng mùi vị, màu sắc; tính chất tuyệt
đối; đặc trưng về chiều hướng, nhiệt độ, số lượng. Ngữ liệu được khảo sát cho
thấy tiểu trường biểu thị cảm xúc, tình cảm của con người trong ca từ Xoan
được sử dụng linh hoạt và có mặt đầy đủ ở các phạm vi bình diện nghĩa. Căn
102
cứ vào sự phân loại trên, có bảng sau:
Bảng 3.4. Tiểu trường từ vựng“tình thái”
Lớp từ, nhóm từ chỉ đặc trưng
tâm lí, tình cảm sự vật, hiện tượng
Stt 1 2 3 mùi vị, màu sắc chiều hướng 4 số lượng 5 6 nhiệt độ tuyệt đối 7
Nhận xét:
Tổng số Tần số 98 77 73 58 39 31 25 401 Tỉ lệ % 24,4 19,2 18,3 14,5 9,7 7,7 6,2 100
Lớp từ ngữ đứng thứ nhất là lớp từ ngữ biểu thị trạng thái tâm lí, tình
cảm xuất hiện 98/401 lần – 24,4%. Đứng thứ hai là lớp từ ngữ biểu thị trạng
thái, tính chất sự vật, hiện tượng (chiếm 77/401 lần – 19,2%). Đứng thứ ba là
các từ ngữ biểu thị đặc trưng mùi vị và màu sắc (xuất hiện 73/401 lần –
18,3%). Dưới đây là phần phân tích cụ thể 3 lớp từ ngữ biểu thị đặc trưng
trong tiểu trường biểu thị cảm xúc, tình cảm của con người xuất hiện nhiều
nhất trong các bài hát Xoan:
i/Lớp từ ngữ biểu thị đặc trưng trạng thái tâm lý, tình cảm
Đây là lớp từ ngữ có tần số xuất hiện cao nhất: 98/401 lần – 24,4%
trongtiểu trường biểu thị cảm xúc, tình cảm của con người của các bài hát
Xoan. Một trong những nguyên nhân có thể lí giải là người Việt Nam vốn duy
tình. Người Việt thường dùng các lớp từ ngữ miêu tả trạng thái tâm lí, tình
cảm, cảm xúc để bộc lộ, bày tỏ nỗi lòng của mình. Điều này kéo theo hiện
tượng lớp từ ngữ chỉ đặc trưng tâm lý, tình cảm xuất hiện nhiều nhất ở các bài
Xoan giao duyên (thuộc đề tài xã hội). Lớp từ ngữ biểu thị đặc trưng tâm lí,
tình cảm vừa đảm nhiệm vai trò phục vụ cho miêu tả đặc trưng của sự vật,
hiện tượng một cách khách quan, chính xác vừa giúp người nghe tiếp nhận ca
từ với những cảm xúc sâu kín được gửi gắm.
Ở đề tài xã hội, lớp từ ngữ biểu thị đặc trưng tâm lí, tình cảm đã thể
hiện đúng vai trò miêu tả đặc trưng hay tính chất nào đó của sự vật một cách
103
cụ thể, tỉ mỉ và tường minh hóa về sự vật, hiện tượng. Ví dụ 50 và 51:
Nàng kia như thể Cúc Hoa
Nuôi chường ăn học đăng khoa bảng rồng
Vào chầu chấp quế niệm cung
Tay mở cửa rồng
Đẹp đẽ khôi nguyên
Bảng vàng choi chói bề trên…
(Bợm gái)
Hoặc:
Lừng lẫy Phù Ninh cùng Lập Thạch
Dập dìu tài tử với giai nhân
(Hát đúm)
Những từ ngữ biểu thị đặc trưng tâm lí trong các ví dụ này là: Đẹp đẽ,
choi chói, lừng lẫy, dập dìu được kết hợp với các danh từ như: bảng rồng, cửa
rồng, bảng vàng, tài tử, giai nhân và các động từ : đăng khoa, vào chầu, niệm
cung, mở cửa đã biểu đạt rõ hơn, chính xác hơn trạng thái tâm lí, tình cảm của
chủ thể trữ tình.
Điều này đã chứng minh người xưa khá tinh tế trong việc miêu tả và
cảm nhận thế giới: với tư duy định tính nhiều hơn là định lượng. Ngoài ra,
ngay cả việc thể hiện tâm trạng của chủ thể trữ tình trong bài hát, các nghệ sĩ
dân gian xưa cũng đem đến cho người tiếp nhận sự miêu tả ấy bằng những lời
kể, lời trần thuật về trạng thái tâm lí – tình cảm. Ví dụ 52:
Trước mừng thánh trị vạn bang
mừng vua (là) trị nước
dân được phong lưu.
(Trường mai cách)
Các danh từ chỉ những ngôi vị cao quý: thánh, vua ; kết hợp với các từ
104
chỉ trạng thái tâm lí, tình cảm như: mừng (lặp lại 2 lần), phong lưu và các
động từ: trị vạn bang, trị nước nhằm biểu đạt một thái độ cung kính, vui
mừng của người dân với thánh, vua.
Như vậy, có thể nói, nếu không có lớp từ ngữ chỉ đặc trưng trạng thái
tâm lí, tình cảm thì chủ thể là con người trong các bài hát Xoan sẽ không hiện
lên sinh động với đầy đủ các trạng thái, tình cảm như vậy.
ii. Lớp từ ngữ biểu thị đặc trưng trạng thái, tính chất sự vật, hiện tượng
Lớp từ ngữ biểu thị đặc trưng trạng thái, tính chất sự vật, hiện tượng
trong các bài hát Xoan xuất hiện 77/401 lần (19,2%), đứng vị trí số hai. Quy
chiếu lại thấy hiện tượng các từ ngữ biểu thị đặc trưng trạng thái sự vật, hiện
tượng xuất hiện chiếm ưu thế trong các bài hát Xoan ở đề tài nghi lễ và đề tài
lao động (thuộc đề tài xã hội). Chẳng hạn ở đề tài nghi lễ, các từ ngữ chỉ đặc
trưng trạng thái, sự vật hiện tượng được miêu tả, đánh giá dưới góc độ xuất
phát từ bản chất của nó. Sự vật, hiện tượng được miêu tả như những gì nó vốn
có. Ví dụ 53:
Thùng thùng mà đóng trống chầu
Đôi chân quýt nhẩy qua thiên hạ
Ngày thảnh thơi, già trẻ nhởn nhơ,
Đêm thanh vắng, gái trai tơ tưởng.
(Giáo trống)
Bốn câu ca trần thuật về cảnh những người dân khi nghe tiếng trống.
Các tính từ thùng thùng, thảnh thơi, nhởn nhơ, tơ tưởng không chỉ đóng vai
trò thể hiện đúng bản chất và đặc trưng trạng thái của sự vật và đối tượng
được miêu tả. Gián tiếp qua đó, khán giả như được cảm nhận bằng trải
nghiệm của bản thân với tiếng trống và tâm thế thảnh thơi, ung dung của
những con người được nhắc tới trong câu hát. Một đặc trưng nữa có thể nhận
105
thấy là lớp từ này thường được miêu tả để bổ sung cho lớp từ chỉ đặc trưng
trạng thái tâm lí, tình cảm nêu ở trên. Ví dụ 54:
Rượu không say nhưng say vì chén
Người chẳng bén nhưng bén vì duyên
Đồng tiền chì chúng anh mua vội mua vàng
Mua rau muống héo, mua nàng ngẩn ngơ
Đồng tiền chì chúng em mua được cá tươi
Mua rau mới hái, mua người thanh tân.
(Bỏ bộ)
Các từ ngữ say, bén, héo, ngẩn ngơ, tươi, mới, thanh tân,… đã vẽ nên
hai bức tranh đối lập nhau: vẫn đồng tiền chì (giá trị thấp) mà bên anh mua
vội mua vàng/ Mua rau muống héo, mua nàng ngẩn ngơ ; còn chúng em mua
được cá tươi/ Mua rau mới hái, mua người thanh tân. Câu ca muốn ngụ ý :
giá trị của đồng tiền không ở tự thân nó mà phụ thuộc vào người sử dụng nó.
Ca từ của đoạn này muốn khẳng định giá trị của các cô gái
Như vậy, có thể nói, nếu không có lớp từ chỉ đặc trưng trạng thái sự
vật, hiện tượng thì trường từ vựng biểu thị con người sẽ không thể nổi bật và
sáng rõ như đã được miêu tả.
iii. Lớp từ vựng biểu thị đặc trưng mùi vị, màu sắc
Lớp từ ngữ biểu thị đặc trưng mùi vị, màu sắc trong các bài hát Xoan
xuất hiện 73/401lần (18,3 %), đứng ở vị trí thứ ba. Lớp từ ngữ đặc trưng
này chiếm ưu thế vượt trội ở các bài hát Xoan thuộc đề tài thiên nhiên. Bức
tranh thiên nhiên bốn mùa sinh động hơn vì được điểm tô bằng lớp từ ngữ
này. Ví dụ 55 và 56:
Duyên tơ trúc lộc mấy đông
Mai hoa sặc sỡ đơm bông
Một vườn đào mận sánh cùng hoa tiên
Mây xanh một trận sầu tuôn
Hiu hiu gió cuốn tay hun lửa hồng
106
(Tứ mùa cách)
107
Hoặc:
Vào vườn thượng uyển
Nhìn xem cho khắp hết mọi nơi
Lá điều rừng rực
Chim ríu rít đậu cành
Liễu lục xoan xanh.
chim ri mới nở
Đào tiên tơi tỏ hồng hồng
(Xoan thời cách – Mừng Xoan cách)
Lớp tính từ chỉ màu sắc và trạng thái ở 2 ví dụ trên là: xanh, hồng, sặc
sỡ, rừng rực, ríu rít, lục, hồng hồng kết hợp với các danh từ chỉ sự vật như:
Duyên tơ, trúc lộc, mai hoa, vườn đào mận, gió, lửa, vườn thượng uyển, lá,
chim, đào tiên đã làm tăng hiệu quả biểu đạt cho bức tranh thiên nhiên mùa
xuân. Có những đoạn thơ, tác giả dân gian đã linh hoạt và tài tình trong việc
vận dụng cả ba lớp từ ngữ chỉ đặc trưng trạng thái tâm lí, tình cảm; trạng thái
sự vật, hiện tượng và cả màu sắc. Ví dụ 57:
Trăng tròn rồi lại khuyết đi
Có tròn lại đợi đến thì năm sau
Lời nói không đánh mà đau
Cơn vui bỗng hoá cơn sầu tự nhiên
Trách rằng cái số vô duyên
Chỉ hồng đang thắm tự nhiên phai dần.
(Hát đúm)
các từ chỉ trạng thái sự vật, hiện tượng là: tròn, khuyết; các từ chỉ màu
sắc: hồng, thắm, phai ; các từ chỉ đặc trưng trạng thái tâm lí, tình cảm là: đau,
vui, sầu đã được kết hợp một cách khéo léo và cộng hưởng để biểu đạt nỗi
buồn của chủ thể trong tình yêu đôi lứa.
Ở tất cả các bài hát Xoan, các đề tài, những nghi lễ tôn giáo, công việc
lao động, bức tranh thiên nhiên và tâm trạng con người sẽ không thể hiện lên
108
đầy đủ, chính xác và rõ nét nếu không có lớp từ biểu thị đặc trưng trạng thái,
tính chất.
Như vậy, vị trí của từng lớp từ ngữ chỉ trạng thái, tính chất của chủ thể
tương ứng với sự quan trọng của từng nhóm đề tài trong hát Xoan. Điều này
cũng minh chứng tầm quan trọng của từng nhóm đề tài căn cứ vào lớp từ ngữ
chỉ trạng thái, tính chất của chủ thể hát Xoan.
Tóm lại, tiểu trường từ vựng tình thái của con người trong ca từ hát
Xoan góp phần biểu đạt sáng rõ, đầy đủ các khía cạnh tình cảm, thái độ khác
nhau của người xưa. Cùng với các tiểu trường khác thuộc trường từ
vựng« con người », tiểu trường này đã làm cho các bài hát Xoan đạt được giá
trị biểu đạt và biểu cảm cao.
3.2.1.2. Tiểu trường từ vựng« hoạt động »của con người
Tiểu trường biểu thị hoạt động của con người xuất hiện 390/2039 lần –
19,1%, đứng ở vị trí thứ 2. Dưới đây là kết quả khảo sát sự xuất hiện của tiểu
trường biểu thị hoạt độngcủa con người trong 42 bài hát Xoan:
Bảng 3.5. Tiểu trường“hoạt động” của con người
Biểu thị hoạt động
Stt I độc lập 1 Tư thế 2 Tác động 3 Vận động, di chuyển 4 Trao nhận Sai khiến, cầu khiến 5 6 Cảm nghĩ, nói năng 7 Nối kết, gắn kết 8 Hoạt động tâm lí II không độc lập 1 Quan hệ 2 Tình thái
Tổng Số lượng 297 32 24 51 28 19 38 34 71 93 58 35 390 Tỉ lệ % 76,1 8,2 6,1 13,1 7,2 4,9 9,7 8,7 18,2 23,9 14,9 9,0 100
Qua bảng thống kê trên, chúng ta có thể thấy lớp từ vựng biểu thị hoạt
động độc lập chiếm 297/390 lần (~ 76,1 %). Lớp từ vựng chỉ quan hệ và tình
109
thái chỉ chiếm 93/390 lần (~ 23,9 %). Trong lớp từ ngữ chỉ hoạt động độc lập,
nhóm từ ngữ chỉ hoạt động tâm lí đứng vị trí số 1 (71/390 lần ~18,2%). Dưới
đây là những phân tích cụ thể.
i/ Lớp từ vựng chỉ hoạt động độc lập
Quan sát vào bảng trên, ta có thể thấy rõ ca từ hát Xoan thiên về sử
dụng các lớp từ chỉ hoạt động tâm lí (71/390 lần – 18,2 %), cảm nghĩ nói năng
(38/390 lần – 9,7%) và vận động di chuyển (51/390 lần – 13,1%) hơn các hoạt
động khác. Các lớp từ vựng này cho thấy con người trong các bài hát Xoan
hiện lên sinh động hơn và chân thực hơn bởi các lớp từ chỉ hoạt động tâm lí
và cảm nghĩ nói năng. Điều này cho thấy người xưa nghiêng nhiều về suy
nghĩ, cảm xúc hơn là hành động. Căn cứ vào tiểu trường biểu thị cảm xúc,
tình cảm của con người đã nêu trên, ta cũng có thể thấy đây cũng là một đặc
trưng trong tính cách của con người phương Đông thời xưa. Lớp từ ngữ chỉ
hoạt động tâm lí gắn nhiều hơn với không gian tín ngưỡng, lễ hội: cửa đình,
sân đình, nhà thờ tổ,…Ví dụ 58:
Trước mừng thánh trị vạn bang
mừng vua trị nước
cầu dân được phong lưu.
Bốn bể cửu châu dân thuận hòa
dân thuận hòa gần xa phủ phục…
(Trường mai cách)
Ở đây, người nghe thấy rõ các từ như mừng, cầu, thuận hòa, phủ phục thể
hiện rõ thái độ cung kính, khiêm nhường của người dân trước các bậc thánh,
vua của mình. Lớp từ ngữ này xuất hiện nhiều hơn trong các bài ca nghi lễ
của chặng 1 và 14 bài quả cách.
Các lớp từ vựng chỉ cảm nghĩ nói năng xuất hiện nhiều nhất ở các bài Hát
đúm, Bỏ bộ, Bợm gái, Gài huê, Xin huê – đố chữ, Phú Kiều, Bút huê thảo.
Lớp từ ngữ này (yêu, nhớ, vui, sầu, quên,…) gắn nhiều hơn với không gian
giao duyên: sân đình, bến sông, đầu làng, giếng làng,…Ví dụ 59 và 60:
110
Vì nàng anh phải đi đêm
Ngã năm ba cái, đất mềm không đau
Vì nàng anh phải đi thăm
Ngã sứt đầu gối, ngã thâm bánh chè!
(Hát đúm)
Hoặc:
Yêu nhau quá đỗi quá chừng
Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay.
(Hát đúm)
Ở ví dụ này các từ chỉ cảm nghĩ nói năng được kết hợp với các từ chỉ
trạng thái tâm lí, tình cảm như: mềm, đau, sứt, thâm, mệt, cay giúp chủ thể
bộc lộ rõ hơn tình cảm tha thiết của mình dành cho người thương.
Các lớp từ vựng chỉ vận động di chuyển xuất hiện nhiều trong các bài
ca lao động và chỉ nghề nghiệp (Đánh cá, Xe chỉ vá may, Dệt gấm thêu hoa,
Giương cung bắn cò, Đường đi trên suối, Trèo lên cây bưởi, Ngư tiều canh
mục cách, Bỏ bộ). Ví dụ 61 và 62:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Mình thời hái hết thời ta bẻ cành
(Trèo lên cây bưởi)
Ngồi rồi dệt gấm thêu hoa
Thêu chim loan phượng, thêu mà ta thêu
(Dệt gấm thêu hoa)
Tiểu trường từ vựng biểu thị hoạt động trong ca từ hát Xoan không chỉ
diễn đạt được đầy đủ nội dung ý nghĩa mà nó còn truyền tải thêm sắc thái tâm
trạng của nhân vật trữ tình trong bài ca: đó là những con người tha thiết yêu
thiên nhiên, sự sống; yêu lao động và thành kính trong tín ngưỡng, tôn giáo.
Như vậy, các lớp từ chiếm ưu thế này phù hợp với đề tài của các bài hát Xoan.
ii. Lớp từ vựng chỉ hoạt động không độc lập
Bên cạnh lớp từ ngữ chỉ hoạt động độc lập, nhóm từ quan hệ và tình
thái cũng được tác giả dân gian sử dụng, tuy ở mức độ không cao.
111
Cùng với lớp từ ngữ biểu thị con người và thiên nhiên, với lớp từ ngữ biểu
thị quan hệ khá phong phú. Tác giả dân gian thường sử dụng các từ ngữ so sánh
đối chiếu và quan hệ đồng nhất trong các bài hát Xoan thuộc chặng hát thờ và
chặng hát quả cách. Lớp từ ngữ chỉ quan hệ biến hóa và tồn tại được sử dụng
nhiều trong các bài hát Xoan chỉ mùa: nó biểu đạt bước đi của thời gian làm biến
đổi cảnh vật và tâm trạng của con người. Lớp từ vựng này thường kết hợp với
các tổ hợp từ thể hiện sự phỏng đoán với độ tin cậy cao (chắc, chắc là,…) hoặc
độ tin cậy thấp (hình như, có lẽ, phải chăng,…). Ví dụ 63:
Phải chăng con tạo hóa lạ nhường?
Đêm ngày thang vắng (hóa để) trao hương bán hàng
(Hồi liên cách)
Ví dụ 64 :
Hoa mai nở bởi cây mai
Hình như nàng đã thương ai, phụ mình?
(Hát đúm)
Lớp từ vựng chỉ hoạt động và quá trình không độc lập (tình thái) xuất
hiện nhiều ở các bài hát Xoan thuộc chặng hát giao duyên và chặng hát thờ.
Lớp từ này giúp cho nhân vật trữ tình dễ dàng hơn trong việc thể hiện và bộc
lộ tâm trạng và cảm xúc của mình: cảm xúc thành kính trang nghiêm trong
các nghi lễ tôn giáo và những tình cảm lành mạnh, đạo đức, trong sáng của
tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa.
3.2.1.3. Tiểu trường từ vựng “địa vị xã hội”
Đứng thứ ba là lớp từ định danh con người thông qua các từ ngữ biểu
thị địa vị xã hội trong các bài hát Xoan: 383/2039 lần – 18,7%. Tiểu trường từ
ngữ biểu thị địa vị xã hội của con người xuất hiện nhiều nhất trong các bài
Xoan ở chặng nghi thức và các bài Quả cách.Cụ thể như sau:
112
Bảng 3.6. Tiểu trường từ vựng “địa vị xã hội”
Từ vựng chỉ địa vị
vua vương chúa quan dân, dân làng
Tổng số
Tần số xuất hiện 104 71 42 29 137 383
Tỉ lệ % 27,2 18,5 11,0 7,5 35,8 100
Nhận xét:
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy từ vua xuất hiện 104 /383 lần (~ 27,2 %)
vương71/383 lần (~ 18,5%) và từ dân, dân làngxuất hiện 137/383 lần (~ 35,8%).
Như vậy, có thể thấy người xưa có cái nhìn công bằng và dân chủ đối với các tầng
lớp có địa vị khác nhau (từ bình dân đến cao quý) trong xã hội. Người xưa đề cao
vai trò của vua, vương, chúa và cũng khẳng định tầm quan trọng của dân.
Lớp từ đứng vị trí số một trong tiểu trường này là các từ dân, dân làng xuất hiện trực
tiếp 137/383 lần (~ 35,8 %). Dân, dân làng chính là những người thuộc tầng lớp
đông đảo nhất của một khu vực địa lí, hành chính trong quan hệ với làng, xã, đất
nước. Lớp từ này được hát lên ở các đoạn giáo cách, đưa cách trong bài thuộc chặng
hát thờ và hát Quả cách là chủ yếu. Họ xuất hiện trong vai trò đám đông ở các đoạn
hát, câu hát chúc quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, học hành
đỗ đạt, hiển vinh, gia đình thuận hòa, no ấm. Các ca từ mang ý niệm này được trở đi
trở lại nhiều lần trong các bài Xoan ở cả 3 chặng hát. Các ví dụ 66 – 70:
dân ta hưng thịnh
(Đóng đám)
Dân được phong lưu
(Trường mai cách)
Trị phủ bốn phương dân thái bình
(Ngư tiều canh mục cách)
Vạn dân đều phú quý vinh hoa
(Xoan thời cách –Mừng Xoan cách)
Dân ta mở tiệc xướng ca vui vầy
(Hát đúm)
113
Nhìn vào đây, ta cũng thấy dân xuất hiện ở tất cả các bài hát của 3 chặng.
Những câu hát về dân vừa là lời cầu chúc chung cho tất cả những người dân, đồng
thời cũng là những ước mong, cầu nguyện tốt đẹp, an lành cho cộng đồng làng
quê xưa. Như vậy, từ dân vừa được dùng để miêu tả hình tượng người dân trong
xã hội làng quê xưa nói chung vừa thể hiện nhân sinh quan của người xưa: coi
trọng vai trò của người dân trong bất cứ một thời kì, giai đoạn hay xã hội nào.
Lớp từ đứng ở vị trí số 2 và số 3 là vua104/383 – 27,2% và vương
71/383 – 18,5%.Vua, chúa, vương là hình tượng con người được nhắc tới
trong tất cả các bài Xoan thuộc cả 3 chặng và là hình tượng trung tâm trong
các bài hát ở chặng 1 và chặng 2. Đức vua xuất hiện trong các bài hát Xoan
không phải là một vị vua thuộc một triều đại nào cụ thể, mà là con người
tượng trưng, đại diện cho làng xã, dân tộc, đất nước. Vì vậy, thực chất các
biểu thức ngôn ngữ như vua, đại vương, chúa, Thành hoàng làng đều cùng
nhằm chỉ một đối tượng – người đứng đầu, người có công, cao quý nhất của
làng, xã, đất nước. Người hát luôn thể hiện lòng thành kính và trân trọng đối
với hình tượng này. Biểu hiện cụ thể cho sự thành kính và trân trọng này
chính là việc: các bài hát Xoan ở chặng hát nghênh thần luôn luôn có phần hát
nhập tịch chào vua. Tất cả 14 bài Quả cách luôn luôn có câu hát đệm “Ấy giã
tiệc này, vua là đại vương” ở phần cuối của mỗi bài để báo hiệu chuyển sang
một trổ hát mới hoặc một bài hát mới. Và ở các bài Xoan thuộc chặng 3 –
chặng hát vui chơi, giao duyên –– thì lớp từ ngữ chỉ vua, đại vương, chúa
hoặc vị Thành hoàng làng vẫn thường xuất hiện. Ở bài Giã cá (Đánh cá, Mó
cá, Bắt cá), sau khi bắt được cá, người hát sẽ làm động tác dâng cá lên cho
vua. Ví dụ 65:
Đôi ta đánh cá dưới sông
Đánh được con nhồng thờ đức đại vương
Đôi ta đánh cá dưới khe
Đánh được con mè thờ đức đại vương
(Giã cá – Đánh cá – Mó cá)
114
Sự xuất hiện của lớp từ ngữ chỉ vua, đại vương, thành hoàng làng với tần
số cao trong các bài Xoan là một trong những nguyên nhân lí giải hát Xoan được
cho là loại hình dân ca nghi lễ phong tục.
Qua tiểu trường từ ngữ định danh con người chỉ địa vị xã hội trong các
bài hát Xoan, có thể nói người xưa đã có được quan niệm tương đối hợp lý,
hài hòa về vị trí, vai trò của cả vuavà dân trong xã hội. Vua là tối cao, là đại
diện cho làng, xã, đất nước; là điểm tựa tâm linh, đời sống tinh thần cho dân;
dân là số đông, là sức mạnh tổng hợp, là nguồn lực của đất nước. Không thể
thiếu một trong hai hình tượng trên. Cả hai hình tượng này đều góp phần làm
nên sức sống của làng, xã và của đất nước thời xưa.
3.2.1.4. Tiểu trườngtừ vựng “giới tính con người”
Theo thống kê ở bảng 3.2 thì tiểu trường từ vựng chỉ giới tính của con
người có 361/2039 lần (~ 17,6%), đứng ở vị trí thứ 4. Với biểu thức mình,
bạn mình, luận án căn cứ vào ngữ cảnh cụ thể của ca từ để xếp vào nhóm nam
hoặc nữ. Kết quả khảo sát cụ thể như sau:
Bảng 3.7. Tiểu trường từ vựng“giới tính”
Tiểu trường chỉ giới tính
Nữ
Nam
em nàng đào nường gái cô nữ Tổng anh chàng chường ông Tổng Tổng số Số lần 101 32 28 25 20 17 12 235 62 31 22 11 126 361 Tỉ lệ % 28,0 8,9 7,8 6,9 5,5 4,7 3,3 65,1 17,2 8,6 6,1 3,0 34,9 100
115
Nhận xét:
Có thể thấy trong ca từ hát Xoan số lượng tiểu trường từ ngữ chỉ giới
đứng ở vị trí thứ tư(361/2039 từ – 17,7 %). Trong đó, có 235/361 từ (~ 65,1%)
từ chỉ nữ giới, gấp 1,8 lần số lượng từ ngữ chỉ nam giới (126/361 từ - 31,9%).
Chỉ nữ giới, ca từ Xoan dùng nhiều các định danh khác nhau: em, nàng, cô,
đào, nữ,…. Hình tượng người phụ nữ xuất hiện theo tần số từ nhiều đến ít chia
theo đề tài là: các bài ca giao duyên, các bài ca lao động và các bài ca khẩn
nguyện. Có một số lần, hình tượng người phụ nữ xuất hiện trùng với hình
tượng người lao động. Ca từ hát Xoan đã ghi nhận hình tượng người phụ nữ
trong các bài hát như: Kiều Giang cách, Đối giãy cách, Hồi liên cách, Mời
rượu, Trống quân Đức Bác, Trống quân đón đào, Bợm gái, Hát đúm, Hát ru,
Hát lý, Xe chỉ vá may, Dệt gấm thêu hoa, Gài huê, Xin huê – đố chữ,…Ở mảng
đề tài các bài ca nghi lễ, hình tượng người phụ nữ hiện lên là những nàng công
chúa có xuất thân cao quý (Kiều Giang cách, Hồi liên cách), hoặc là những
người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp (Đối giãy cách), hay là những người phụ nữ
chăm chỉ trong lao động lại có đời sống tâm hồn phong phú ở các bài Xoan
thuộc đề tài lao động và giao duyên. Có thể thấy, lớp từ ngữ chỉ người phụ nữ
là nhóm từ có tần số xuất hiện cao nhất (101/361 lần – 28,0%). Điều này chứng
tỏ hình tượng này là hình tượng nhân vật tiêu biểu nhất trong ca từ hát Xoan.
Như vậy cũng chứng minh quan niệm của tác giả dân gian các bài hát Xoan:
người phụ nữ trong xã hội xưa có vị trí quan trọng bậc nhất. Đây có thể coi là
một tư tưởng tiến bộ so với xã hội đương thời, vượt xa tư tưởng “trọng nam
khinh nữ” hay những ý niệm không coi trọng người phụ nữ.
3.2.1.5. Tiểu trường từ vựng“nghề nghiệp”
Đứng thứ năm là tiểu trường từ vựng chỉ nghề nghiệp, công việc
(332/2039 từ - 16,3 %). Trong Ngôn ngữ học nói chung và Việt ngữ học nói
riêng đã có nhiều quan niệm về từ nghề nghiệp. Trong thực tế đời sống và
ngay cả khi đi vào tác phẩm văn học, do đặc trưng ngữ nghĩa, rất nhiều từ ngữ
116
chỉ nghề nghiệp cụ thể được sử dụng để định danh con người. Ví dụ: bác sĩ,
cô giáo, anh bộ đội,…Trong ca từ hát Xoan, từ biểu thị nghề nghiệp, công
việc xuất hiện nhiều và không đồng đều trong các lĩnh vực khác nhau. Thực
ra, trong các bài hát Xoan, người lao động cũng chính là người dân của làng,
của xã; nhưng được định danh và xuất hiện trong các bài Xoan bằng những
nghề nghiệp, công việc cụ thể.
Bảng 3.8. Tiểu trườngtừ vựng “nghề nghiệp”
Từ ngữ chỉ nghề nghiệp
Sĩ (học trò) Nông (nông dân) Công (thợ thủ công) Thương (người buôn bán) Ngư (người đánh cá) Tiều (người đốn củi) Canh (người làm công việc cày cấy) Mục (người chăn nuôi) Tổng số Số lượng 38 62 42 34 31 27 58 40 332 Tỉ lệ (%) 11,4 18,7 12,7 10,2 9,3 8,1 17,5 12,1 100
Nhận xét:
Hệ thống tiểu trường này xuất hiện nhiều nhất trong các bài ca lao động
và các bài ca giao duyên. Sở dĩ như vậy là vì có sự mở rộng và phát triển về đề
tài, chủ đề trong các bài hát Xoan (Xem lại ý 3.1.2.2). Lớp từ ngữ này chỉ những
người lao động bình dân trong xã hội nông thôn thời xưa. Hình ảnh của họ xuất
hiện trong các bài ca: Tứ dân cách, Ngư tiều canh mục cách,Thuyền chèo cách
(Hò đò cách), Đường đi trên suối, Giương cung bắn cò, Giã cá (Mó cá, Đánh
cá, Bắt cá), Gài huê, Xe chỉ vá may,…Hai từ chỉ nghề nghiệp, công việc xuất
hiện với tần số cao nhất là “nông” (42/332 lần – 18,7 %) và “canh” (58/332 lần –
17,5 %). Điều này cho thấy quan niệm của người xưa về công việc lao động, về
nghề nghiệp khá rõ ràng. Với họ, công việc, nghề nghiệp nào trong xã hội xưa
cũng cần thiết và quan trọng. Hàng đầu là những người làm ra lương thực -người
nông dân, người làm công việc cày cấy.Việc nhìn nhận như vậy cho thấy những
117
tác giả của Xoan rất coi trọng thực tế với tư tưởng: có thực mới vực được đạo, ăn
chắc mặc bền,…Đây cũng là tư tưởng phổ biến nổi bật của cha ông ta hiện lên
qua thơ ca dân gian. Điều này chứng minh cho việc nhận thức về thế giới vừa
khái quát, phổ biến lại vừa đặc thù, riêng biệt của các tác giả hát Xoan: cuộc
sống con người cần lao động; những người lao động quan trọng nhất chính là
những người làm ra cái ăn, cái mặc; lao động chăm chỉ thì cuộc sống sẽ no đủ,
tốt đẹp. Những tầng lớp, nghề nghiệp khác cũng được coi trọng: học trò, thương
nhân, thợ thủ công, người đánh cá, người kiếm củi, người chăn nuôi. Họ giữ vị
trí bình đẳng trong các bài hát Xoan.
3.2.1.6. Tiểu trường từ vựng “bộ phận cơ thể người”
Nhóm thứ 6 là tiểu trường từ vựng biểu thị bộ phận cơ thể
người(172/2039 lần - 8,4%). Luận án khảo sát từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể
người dựa theo quan điểm của y học về đặc điểm cấu tạo cơ thể người. Dưới
đây là kết quả khảo sát cụ thể:
Bảng 3.9. Tiểu trườngtừ vựng “bộ phận cơ thể người”
Ví dụ
Khu vực thượng đình đầu, mắt, tóc, miệng, tai,… trung đình tứ chi ngực, tim, lòng, bụng,… tay, chân, bàn tay,…
Tổng số Số lượng 87 51 34 172 Tỉ lệ % 50,6 29,7 19,7 100
Nhận xét:
Tiểu trường chỉ bộ phận cơ thể người trong các bài hát Xoan dù chiếm
tần số nhỏ nhất trong 6 tiểu trường được khảo sát, nhưng cũng đã góp phần
miêu tả, định danh sáng rõ hơn cho 5 tiểu trường biểu thị cảm xúc, tình cảm;
hoạt động, trạng thái; giới, địa vị và nghề nghiệp. Tiểu trường từ ngữ biểu thị
bộ phận cơ thể người đã làm hiện lên rõ hơn các cảnh ngộ, trạng thái tinh
thần, tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong các bài ca.
Tóm lại, trường từ vựng biểu thị con người trong ca từ hát Xoan gồm 6tiểu
trường định danh thông qua biểu thị tình thái; hoạt động; địa vị; nghề nghiệp;
118
giới tính và bộ phận cơ thể. Tiểu trường“địa vị” con người xuất hiện nhiều hơn ở
các bài hát Xoan đề tài nghi lễ; tiểu trường“nghề nghiệp” xuất hiện phổ biến trong
các bài hát Xoan đề tài lao động và tiểu trường “giới tính” xuất hiện nhiều nhất ở
các bài hát Xoan đề tài giao duyên. Các tiểu trường “tình thái” và “hoạt động” của
con người phân bố đồng đều ở tất cả các bài hát của cả ba chặng hát cũng như ở
tất cả các đề tài của hát Xoan. Như vậy, sáu tiểu trường định danh con người trong
các bài hát Xoan hoàn toàn tương ứng và phù hợp với đề tài, chủ đề và nội dung
của từng bài hát, chặng hát Xoan.
3.2.2. Trường từ vựng “thời gian”
Trường từ vựng biểu thị thời gian trong ca từ hát Xoan đứng vị trí thứ
2: 1083/6584 lần - 16,4%.Luận án sắp xếp và quy về ba loại tiểu trường cơ
bản là thời gian – ngày, tháng, năm; thời gian – mùa; thời gian - quá khứ, hiện
tại, tương lai. Quá trình khảo sát cho kết quả như sau:
Bảng 3.10. Trường từ vựng“thời gian”
Tiểu trường chỉ
Stt 1 2 3
Mùa Ngày, tháng, năm Quá khứ, hiện tại, tương lai Tổng số
Số lượng 551 289 243 1083
Tỉ lệ (%) 50,9 26,7 22,4 100
Trong đó, nhóm danh từ chỉ thời gian mùa – thời tiết chiếm số lượng
lớn nhất (551/1083 lần – 50,9 %), đứng thứ 2 là từ ngữ chỉ thời gian ngày –
tháng - năm (289/1083 lần – 26,7 %). Đứng thứ 3 là từ ngữ chỉ thời gian quá
khứ - hiện tại – tương lai (243/1083 lần – 22,4%).
3.2.2.1. Tiểu trường từ vựng “thời gian – mùa”
Để chỉ thời gian mùa – thời tiết, ca từ Xoan đã sử dụng các biểu thức từ
ngữ: mùa xuân, xoan thì, xuân thì, mùa hạ, đầu hạ, hạ thời, mùa thu, trăng thu,
đầu thu, cuối thu, mùa đông, chiều đông, cuối đông, đêm đông, bốn mùa, tứ thời,
mùa gió, mùa nắng, mùa lúa, …Khảo sát các từ ngữ chỉ thời gian - mùa, có được
kết quả sau:
119
Bảng 3.11. Tiểu trường từ vựng“thời gian – mùa”
Stt Mùa I Mùa thiên văn 1 Mùa xuân 2 Mùa hạ 3 Mùa thu 4 Mùa đông II Mùa khí hậu 1 Mùa nắng 2 Mùa gió 3 Mùa mưa III Mùa vụ 1 Mùa lúa 2 Mùa ngô, khoai 3 Mùa hoa
Tổng số
Số lượng - Tỉ lệ % 311 – 56,4 121 – 21,9 89 – 16,2 56 - 10,1 45 - 8,2 103 – 18,7 27 – 4,9 41 – 7,4 35 – 6,4 137 – 24,9 55 – 10,0 43 – 7,8 39 – 7,1 551 - 100
Trong tiểu trường từ ngữ chỉ mùa thì đứng đầu là lớp từ ngữ chỉ mùa thiên
văn (311/551 – 56,4%). Mùa là một danh từ được dùng với nghĩa từ vựng, là
những phần của năm được chia theo những tiêu chí khác nhau: thiên văn, khí hậu,
vụ mùa nông nghiệp, đặc trưng hiện tượng. Nhìn chung, nó chia theo thứ tự vận
hành của trời đất. Trong ca từ hát Xoan, cảm thức về mùa xuất hiện nhiều và phổ
biến nhất. Điều này cũng phần nào phản ánh tư duy của người xưa – chủ nhân của
nền văn minh nông nghiệp lúa nước: sự vận hành thời gian trong một năm cũng là
sự tuần hoàn của bốn mùa; sự thay đổi của các hiện tượng tự nhiên đồng thời là sự
luân chuyển của các tiết khí nông nghiệp – mùa vụ. Tiểu trường từ ngữ biểu thị
thời gian – mùa trong hát Xoan thể hiện rõ nhất ở các bài đề tài thiên nhiên như
Xoan thời cách, Hạ thời cách, Thu thời cách, Đưa đông cách, Tứ mùa cách. Một
số bài ca giao duyên có tiểu chủ đề lao động cũng xuất hiện lớp từ ngữ này. Lớp
từ ngữ chỉ mùa thiên văn cho người nghe thấy được sự tuần hoàn trôi chảy của
thời gian: cảnh vật bốn mùa xuân, hạ, thu, đông gắn với công việc của nhà nông.
Đứng thứ hai trong tiểu trường từ ngữ chỉ mùa là mùa vụ theo tiết khí nông
nghiệp: 137/551 – 24,9%. Lớp từ vựng chỉ mùa vụ theo tiết khí nông nghiệp xuất
hiện nhiều nhất ở các bài ca lao động và giao duyên thuộc chặng hát thứ 2 và 3 như:
Ngư tiều canh mục cách, Trường mai cách, Tứ dân cách, Bợm gái, Bỏ bộ, Gài huê,
120
Xin huê – đố chữ, Giã cá. Lớp từ ngữ chỉ mùa vụ theo tiết khí nông nghiệp (mùa
lúa, mùa ngô, mùa khoai, mùa sắn,…) cho thấy cách tính thời gian đặc trưng của cư
dân nông nghiệp. Lớp từ ngữ này đã miêu tả cuộc sống lao động chăm chỉ và tâm
hồn tài hoa, tươi sáng của những người nông dân.
Đứng thứ ba trong tiểu trường từ ngữ chỉ mùa là lớp từ ngữ chỉ mùa khí
hậu: 103/511 – 18,7%. Lớp từ ngữ chỉ mùa khí hậu xuất hiện nhiều nhất trong
các bài hát như: Giáo trống, Thơ nhang, Hát nhập tịch chào vua,Tứ mùa
cách, Tứ dân cách, Ngư tiều canh mục cách. Lớp từ ngữ này biểu đạt ước
mong chung nhất của mọi người dân: mưa thuận gió hòa (hòa cốc phong
đăng) để có những vụ mùa bội thu.
Tóm lại, tiểu trường từ ngữ thời gian chỉ mùa cho người nghe thấy
được đặc trưng cuộc sống lao động và cách tính thời gian thể hiện tư duy của
các cư dân thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
3.2.2.2. Tiều trường từ vựng“thời gian - ngày, tháng, năm”
Tiểu trường từ ngữ chỉ ngày, tháng, năm trong hát Xoan đứng thứ 2 với
289/1083 lần – 26,7%. Tiểu trường này hiện lên với các biểu thức ngôn ngữ
cụ thể là: ngày vui, ngày mùa, ngày xuân, ngày đông, ngày hạ, ngày thu, ngày
lễ, ngày hội, ngày đăng khoa, ngày vinh quy, ngày mưa, ngày gió, ngày
sương, ngày nắng, tháng hội hè, tháng 3, tháng 10, tháng Tết, tháng cơm mới,
năm được mùa, năm đi thi, năm mở hội. Trong các biểu thức ngôn ngữ này thì
ca từ hát Xoan nhắc đến nhiều nhất là ngày. Tháng và năm xuất hiện với tần
số ít hơn. Các bài hát Xoan xuất hiện nhiều lớp từ ngữ như vừa nêu là Giáo
trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Kiều Giang cách, Trường mai cách, Ngư tiều
canh mục cách, Đối giãy cách, Giã cá, Hát đúm, Bút huê thảo, Bợm gái. Các
biểu thức ngôn ngữ kể trên chứng tỏ việc tính thời gian ngày, tháng, năm
của người xưa lại gắn với cách tính thời gian mùa, thời tiết (nhấn mạnh) và
gắn với các sự kiện lớn, với trạng thái tinh thần trong đời của các đối tượng sĩ,
nông, công, thương (nhất là sĩ và nông).
121
3.2.2.3.Tiểu trường từ vựng “thời gian - quá khứ, hiện tại và tương lai”
Tiểu trường từ ngữ thời gian chỉ quá khứ, hiện tại và tương lai đứng ở
vị trí thứ 3 với 243/1083 – 22,4%. Các biểu thức ngôn ngữ tiêu biểu của tiểu
trường này là: hôm qua, hôm nay, ngày mai, tháng trước, tháng này, tháng
sau, năm ngoái, năm nay, năm sau, 3 tháng trước, sau tháng sau, 10 năm
nữa, hôm nào, tháng nào, năm nào. Đó thường là khoảng thời gian phiếm chỉ,
không được xác định rõ. Lớp từ ngữ này xuất hiện nhiều ở các bài ca giao
duyên như: Hát đúm, Bỏ bộ, Bợm gái, Giã cá, Gài huê, Phú Kiều, Phú Xích
Bích. Lớp từ ngữ chỉ thời gian quá khứ, hiện tại và tương lai thường được chủ
thể các bài ca dùng để diễn tả tâm trạng nỗi niềm trong quá khứ và hiện tại
nhiều hơn về tương lai. Đó thường là nỗi hoài niệm, nỗi nhớ về những kỉ
niệm của tình bạn, tình yêu trong quá khứ, hoặc là những mong muốn gặp gỡ
ở hiện tại, mơ ước nên duyên, nên đôi lứa, nên gia đình ở tương lai.
Vậy, trường từ vựng“thời gian” trong hát Xoan cho thấy các nghệ sĩ dân gian
là những người có ý thức về thời gian và cảm nhận thời gian ở mọi chiều
kích: ngắn thì đo bằng buổi, ngày; vừa thì có tháng, mùa; lớn hơn thì cónăm,
đời người. Ứng với mỗi khoảnh khắc thời gian là tâm trạng của người nghệ sĩ:
lúc vui tươi, rộn ràng (Giã cá, Trồng bông luống đậu, Bợm gái…), khi kính
cẩn, trang nghiêm (Giáo trống, Thơ nhang (Dâng hương), Kiều Giang
cách,…), cũng có khi hoài niệm, nhớ nhung (Hát ru, Hát lý, Đưa đông
cách,…).
Tóm lại, trường từ vựng “thời gian”trong các bài hát Xoan đã biểu đạt tương
đối đầy đủ các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống lao động, sinh hoạt và
tinh thần của người xưa.
3.2.3. Trường từ vựng “vũ trụ”
Trường từ vựng “vũ trụ” trong hát Xoan đứng ở vị trí thứ 3 trong 6
trường từ vựng được khảo sát: 967/6584 – 14,6%.Trường này được chia thành
hai tiểu trường: sự vật hiện tượng tự nhiên và không gian vũ trụ. Kết quả khảo
sát được thể hiện ở bảng thống kê dưới đây:
122
Bảng 3.12. Trường từ vựng“vũ trụ”
Stt
1 2
Tiểu trường biểu thị Sự vật, hiện tượng tự nhiên Không gian vũ trụ Tổng số
Số lượng 627 340 967
Tỉ lệ 64,8 35,2 100
3.2.3.1. Tiểu trường từ vựng “sự vật – hiện tượng tự nhiên”
Tiểu trường từ ngữ biểu thị sự vật – hiện tượng tự nhiên xuất hiện
627/967 lần ~ 64,8 %. Quá trình khảo sát lớp từ ngữ này trong 42 bài hát
Xoan đem đến kết quả sau:
Bảng 3.13. Tiểu trườngtừ vựng “sự vật, hiện tượng tự nhiên”
Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Từ ngữ nắng mưa gió mây sông nước mặt trời mặt trăng núi đất biển sương
Tổng số
Số lượng 49 37 78 27 51 121 88 27 34 42 36 37 627
Tỉ lệ (%) 7,8 5,9 12,4 4,3 8,1 19,3 14,0 4,3 5,4 6,7 5,7 5,9 100
Nhận xét:
Trong tiểu trường sự vật, hiện tượng tự nhiên, đứng đầu là nước với
121/627 lần (~19,3%), thứ hai là mặt trời với 88/627 lần (~14,0 %), thứ
ba là gió với 78/627 lần (~12,4%). Điều này cũng phần nào phản ánh khả
năng nhận thức về thế giới thiên nhiên của người xưa. Đối với người xưa,
các yếu tố tự nhiên như nước, mặt trời và gió là những yếu tố thiên nhiên
quyết định và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ. Nếu không có
những yếu tố tự nhiên này, cuộc sống lao động cũng như đời sống tinh
thần của họ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Điều này phản ánh tư duy chủ
nhân của nền văn minh nông nghiệp lúa nướcđồng thời cho thấy tâm lý
thuận theo tự nhiên, sống hòa hợp với tự nhiên của người xưa. Chính vì
123
vậy, các yếu tố thiên nhiên xuất hiện đầy đủ trong các bài hát Xoan đề tài
nghi lễ, thiên nhiên và cả xã hội (ở nhóm đề tài lao động và giao duyên).
3.2.3. 2. Tiểu trường từ vựng “không gian”
Đi vào thế giới âm nhạc của hát Xoan, ta có thể nhận ra không gian
sống tồn tại ở rất nhiều dạng. Ở đây, có thể quy về ba loại chính: không gian
thiên nhiên, vũ trụ; không gian đời sống lao động và không gian hội hè, vui
chơi. Tuy chia làm ba nhưng những không gian trên lại có một mối dây liên
hệ gắn kết chặt chẽ. Không gian vũ trụ thiên nhiên là vật chứa cho không gian
đời sống lao động và không gian lễ hội, vui chơi. Quá trình khảo sát ba loại
không gian cho kết quả sau:
Bảng 3.14. Tiểu trường từ vựng“không gian”
Tiểu trường không gian
Stt 1 2 3
đời sống lao động lễ hội vũ trụ, thiên nhiên Tổng số Số lượng 127 94 119 340 Tỉ lệ (%) 37,4 27,6 35,0 100
Tư liệu thống kê cho thấy sự xuất hiện của ba loại không gian này có sự
chênh lệch tương đối. Trong đó, không gian đời sống lao động là loại chiếm ưu
thế hơn 127/340 lần (~ 37,4%), thứ hai là không gian vũ trụ thiên nhiên
119/340 lần (~ 35 %) và cuối cùng là không gian lễ hội 94/340 lần (~ 27,6 %).
Không gian đời sống lao động là không gian gần gũi, thân thuộc với
con người nhất vì nó gắn với cuộc sống hàng ngày của họ. Lớp từ ngữ biểu thị
không gian lao động xuất hiện 127/340 lần – 37,4% . Trở đi trở lại trong ca từ
hát Xoan là không gian lao động với vườn chè, bãi ngô, dòng sông, con đò,
cánh đồng ,…Trong đó, cánh đồng và dòng sông là hai không gian xuất hiện
nhiều nhất. Cánh đồng và dòng sông là không gian lao động chủ yếu của
những người dân như: ngư (người làm nghề đánh cá), mục (chăn trâu), canh
(người làm nghề nông, cày cấy). Cánh đồng và dòng sông xuất hiện nhiều
trong ca từ hát Xoan và tồn tại ở nhiều biểu thức ngôn ngữ như: ngoài đồng,
đầy đồng, rậm đồng, nội đồng, bờ sông, lòng sông, dưới sông, xuống sông,
124
quãng sông Ngân, sông lai láng, … Cánh đồng thường gắn với thời gian sáng
sớm hoặc buổi chiều; làm cho không gian trong ca từ hát Xoan mang đậm
màu sắc tâm trạng. Các bài hát Xoan có chứa nhiều ca từ liên quan đến hai
không gian này là: Trường mai cách, Ngư tiều canh mục cách, Đối giãy cách,
Giã cá (Mó cá, Đánh cá, Bắt cá), Tứ dân cách, Trèo lên cây bưởi, …
Ví dụ 75 và 76: (Là hỡi) cấy đã rậm đồng hay chưa
Cấy đi, cấy lại, lúa tốt như mưa.
(Ngư tiều canh mục cách)
Ấy bé ra rày, tôi lại mừng nông
Nông làng này đầy đồng lúa tốt.
(Kiều Giang cách)
Trong ca từ hát Xoan, không gian cánh đồng và dòng sông mang đậm
dấu ấn và hơi thở của con người lao động nông nghiệp, chủ nhân của nền văn
minh lúa nước thời xưa.
Không gian vũ trụ thiên nhiên trong ca từ hát Xoan gồm: trời, núi, đồi, sông,
suối,…Mặc dù đây là không gian xuất hiện chiếm vị trí thứ hai trong ca từ Xoan
(chiếm 119/340 lần –27,6 %) nhưng lại là miền không gian quan trọng đối với
cuộc sống sinh hoạt tín ngưỡng và cuộc sống lao động của con người. Ở đây, ta
có thể tập trung vào hai không gian chính: trời và núi. Trời và núi là những
không gian rộng lớn xuất hiện trong ca từ hát Xoan - được nhắc đến như những
không gian gần gũi chứ không chứa đầy trở ngại. Nó là nơi con người tìm đến,
vọng lên và nguyện cầu. Trời và núi xuất hiện trong các bài hát thờ và các bài
Quả cách với lòng thành kính được bày tỏ. Trời và núi trong các bài hát giao
duyên gần gũi và giản dị hơn, giống như những người bạn để nhân vật trữ tình
tâm tình, thổ lộ. Tuy nhiên, khi hát về trời và núi, các bài Xoan vẫn cho thấy
khoảng cách nhất định với con người. Các ví dụ từ 71– 74 cho thấy điều này:
Trời cho lúa tốt
(Ngư tiều canh mục cách)
125
Kho tàng chất để can qua
Rày trời lại để dân ta sang giàu
(Tứ dân cách)
Rủ nhau lên núi hái bông
(Bỏ bộ)
Đường trường cách trở núi non
Còn nhời vàng đá hãy còn đêm nay
(Hát đúm)
Không gian lễ hội xuất hiện trong ca từ Xoan 94/340 lần –27,6 %.
Không gian lễ hội, vui chơi gồm có: không gian lễ hội (đình, đình làng, miếu,
sân đình, nhà thờ Tổ) và không gian vui chơi (sân đình, bến sông, bến nước,
cổng làng, chái nhà, bờ sông, bờ ao, gốc đa). Như vậy, dễ dàng nhận thấy một
số địa điểm của không gian vui chơi trùng khớp với không gian lao động. Điều
này cho người nghe thấy: người xưa rất linh hoạt trong quan niệm về lao động
và vui chơi. Ở các không gian đình, sân đình người nghe Xoan thấy được sự
thành kính, trang nghiêm thuộc về phần lễ. Còn ở các không gian như gốc đa,
bến sông, đầu ngõ, cánh đồng…, ca từ Xoan hát cho người nghe về những giờ
lao động chăm chỉ, say mê; những giờ phút vui chơi thoải mái, thư giãn của
người dân lao động. Đó là một thế giới bình dị mà không kém phần thơ mộng
với những vườn đào, vườn hồng, vườn cà, cánh đồng lúa,…
Qua đây có thể thấy các ca từ hát Xoan biểu thị không gian đã phản ánh một
cách chính xác, chân thực và đầy đủ đời sống tâm hồn của người xưa. Đó là
những con người sống cung kính, khiêm nhường và hòa hợp trong không gian
vũ trụ, thiên nhiên rộng lớn, kì vĩ. Không gian đời sống lao động cho người
nghe thấy được những con người lao động chăm chỉ, siêng năng trong làng
quê yên bình và bé nhỏ. Không gian lễ hội cho người nghe thấy được sự vui
tươi, hào sảng trong đời sống tâm hồn của người lao động. Vậy, có thể khẳng
định rằng ba miền không gian kể trên đã góp phần mang lại hiệu quả nghệ
thuật cho những bài hát Xoan, giúp bắt rễ sâu vào đời sống tinh thần của nhân
dân và còn giá trị cho đến hôm nay.
126
3.2.4. Trường từ vựng “thực vật”
Trường từ vựng biểu thị thực vật trong hát Xoan đứng vị trí thứ 4, xuất
hiện 915/6584 lần – 13,9%.Dưới đây là bảng thống kê cụ thể các tiểu trường
thuộc trường từ vựng thực vật trong hát Xoan.
Bảng 3.15. Trường từ vựng “thực vật”
Số lượng Stt Tỉ lệ
1 389 42,5
2 361 39,5
3 165 28,0
Tiểu trường Cây (đào, mai,liễu,tùng,thông, trúc, tre, lúa, đa, si, cau, mít, na, sung, gạo, khế,...) Hoa (đào, mai, nhài, dẻ, thiên lí, sen, bưởi, ngâu, hồng, cúc, huệ, đại, dành dành, ngũ sắc, quỳnh, lục bình, lan...) Rau – củ - quả (muống, cải, ngót, lang, răm, bí, bầu, lạc, mướp, chanh, quýt, gừng, tỏi,...)
Tổng số 915 100
Nhận xét:
Trường thực vật có số lượng biến thể khá phong phú. Trong đó số lượng
biến thể thuộc nhóm Cây là nhiều nhất với nhiều biến thể, chiếm 389/915 lần
xuất hiện (42,5%). Riêng “cây” là biến thể bao trùm được nhắc tới 130 lần. Điều
này cho thấy đời sống thực vật thực sự có vai trò vô cùng quan trọng với cuộc
sống của con người. Các bài hát Xoan có tần số xuất hiện tiểu trường cây nhiều
nhất là các bài hát chỉ mùa, chỉ nghề nghiệp và các bài ca lao động.
Nhóm Hoa đứng vị trí số 2 với 361/915 lần ( 39,5%). Tiểu trường hoa xuất
hiện nhiều nhất trong các bài Gài huê, Xin huê – đố chữ, Đố huê, Hát đúm, Bỏ
bộ,…và các bài ca tứ thời. Các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán và chơi chữ
đã được các tác giả dân gian sử dụng rất hiệu quả trong tiểu trường hoa. Ví dụ: từ
hoa nhằm ẩn dụ cho người con gái đẹp; hay đào là tên một loài hoa phổ biến của
mùa xuân (đào hoa một nhánh tốt tươi – Bỏ bộ), cũng là cách gọi các cô gái đi hát
của phương Xoan (Đào ơi đào xích lại đây, anh cầm quả đúm trao tay cho đào –
Hát đúm). Trong đó các loại hoa dân dã có tần số xuất hiện nhiều hơn các loại hoa
127
được coi là thanh cao, cao quý. Kết quả này phản ánh một thực tế, hát Xoan giao
duyên là sản phẩm của người bình dân; do vậy những gì được chọn đưa vào bài
hát trước hết phải là những thứ gần gũi, thân quen với cuộc sống của họ.
Nhóm Rau – Củ - Quả đứng vị trí thứ 3, với 165/915 lần – 28%tần số
xuất hiện ít nhất trong trường thực vật. Mỗi loài rau, củ, quả chỉ xuất hiện một
vài lần mang nét nghĩa tả thực là chủ yếu. Do vậy, hướng nghĩa biểu trưng
của chúng cũng không mạnh như nhóm Cây và nhóm Hoa.
3.2.5. Trường từ vựng “động vật”
Trường từ vựng “động vật”xuất hiện 854/6584 lần – 12,4%, đứng thứ 5
trong các trường từ vựng của ca từ hát Xoan. Thế giới động vật trong tự nhiên
rất phong phú, đa dạng. Có nhiều cách để phân chia động vật trong thế giới tự
nhiên thành các ngành, lớp khác nhau (theo đặc điểm sinh học: có xương
sống, không xương sống; đẳng nhiệt, biến nhiệt; theo môi trường sống: trên
không, trên mặt đất, dưới nước;…). Tham khảo kết quả khảo sát của tác giả
Đỗ Thị Hòa trong luận án “Thế giới động vật trong ca dao người Việt”, cùng
với kết quả khảo sát và ý kiến cá nhân, luận án chia trường nghĩa động vật
thành các tiểu nhóm trong bảng thống kê sau:
Bảng 3.16. Trường từ vựng“động vật”
Số lượng
Tỉ lệ %
Stt
1
171
20,0
235
27,5
2
3
198
23,1
4
138
16,2
tượng (rồng,
tưởng
5
112
13,2
Nhóm Trùng (ong, bướm, chuồn chuồn, tằm, nhện,…) Ngư (cá, cua, ốc, tôm, ếch, trai, cá chép, cá rô, cá bống, cá anh vũ, hến,…) Điểu (chim, chim én, chim nhạn, chim công, chim cuốc, hạc, con cò, vạc, chim quyên, chim trả, chim sâu, bồ nông, chào mào, chèo bẻo, vàng anh,…) Thú (gà, trâu, bò, lợn, ngựa, vượn, hươu, nai, hổ, hùm,…) Động vật phượng, loan)
Tổng số
854
100
128
Đây là trường từ vựng chiếm số lượng nhỏ nhưng cũng góp phần làm
cho cuộc sống của con người trong các bài hát hiện lên thêm đầy đủ và sống
động. Đứng vị trí số một trong trường này là nhóm Ngư (235/854 từ, ngữ -
27,5 %). Trong tiểu trường này, cá, ngư là những yếu tố trung tâm và được
coi là hạt nhân của nhóm, được nhắc đến với tần số cao nhất (98/235 từ - 41,7
%). Nhóm từ ngữ này xuất hiện nhiều ở các bài ca lao động và các bài ca chỉ
nghề nghiệp như Đánh cá – Giã cá – Mó cá – Bắt cá, Ngư tiều canh mục
cách, Xin huê – đố chữ, Hát đúm, Tứ dân cách. Nhóm từ này phản ánh tâm lí
và tư duy đặc trưng của những cư dân nông nghiệp lúa nước – chủ nhân của
nền văn minh lúa nước.
Đứng vị trí thứ hai là nhóm Điểu (198/854 từ - 23,1%) với yếu tố trung
tâm là chim (xuất hiện 68/168 lần – 40,5%). Các yếu tố khác cũng xuất hiện
nhiều lần lượt là cò, cuốc, hạc, chim én,...Nhóm Điểu xuất hiện nhiều ở các
bài ca lao động và các bài hát chỉ mùa. Chim là loài động vật đẳng nhiệt, được
tự do bay bổng trên trời cao. Có lẽ vì ý nghĩa đó nên ca từ hát Xoan cũng nhắc
tới nó với ý nghĩa tượng trưng cho sự tự do, bay bổng đôi khi là tình yêu đôi
lứa, hạnh phúc và hòa bình.
Nhóm Trùng đứng thứ 3 với 171/854từ - 20,0 %. Nhóm này có một số
biến thể như con tằm, con ong, con bướm, con nhện xuất hiện nhiều hơn hẳn
các con khác trong cùng nhóm. Tiểu trường này được thể hiện nhiều nhất ở
các bài ca giao duyên và các bài ca lao động. Đây là những con vật có giá trị
biểu trưng đậm nét trong thế giới yêu đương.
Nhóm Thú đứng thứ 4 với 138/854 từ - 17,8 %. Nhóm thú xuất hiện hai
yếu tố hạt nhân là trâu và bò. Hai con vật này có tần số xuất hiện 61/129 từ -
47,3%. Hai yếu tố hạt nhân này cho thấy sự coi trọng chúng của người xưa.
Đối với họ, chúng thực sự là những con vật đứng “đầu cơ nghiệp”. Họ coi
chúng là những người bạn của mình. (Giống như bài ca dao Trâu ơi, ta bảo
trâu này!). Các bài ca lao động là các bài xuất hiện nhóm từ chỉ thú nhiều
nhất. Những loài vật khác trong nhóm này chủ yếu là những loài thú quen
129
thuộc, gần gũi với con người như gà,lợn, ngựa…Điểm chung của chúng là
đều không nằm trong sự lựa chọn của người bình dân để biểu trưng cho thế
giới tình yêu. Chỉ có con gà, con lợn đôi lúc được nhắc đến để thể hiện cách
ứng xử của người bình dân trong hôn nhân thời xưa (lễ vật cưới hỏi).
Nhóm động vật tưởng tượng chỉ có 3 biến thể nhưng tần số xuất hiện
không hề ít (112/854 từ - 13,1 %). Trong đó tập trung ở hai con vật là
rồng(long) và phượng (phụng). Hai loài này là sản phẩm của trí tưởng tượng
nhưng chúng có hình thức đẹp và mang đậm giá trị biểu trưng của văn hóa
nhân loại. Nhóm từ này có đến 72% xuất hiện ở các bài ca giao duyên (các
bài hát thuộc chặng thứ ba). Thế giới tình yêu vừa là thế giới của hạnh phúc
trần thế, vừa là sự thăng hoa của những rung động yêu đương. Vì vậy, chọn
những con vật huyền thoại này, người bình dân xưa đã vừa thực hiện được
chức năng thi vị hóa tình yêu, vừa đời thường hóa những con vật linh thiêng,
huyền thoại khi đưa chúng đến với thế giới của riêng mình.
3.2.6.Trường từ vựng “lễ hội”
Hát Xoan là loại hình dân ca nghi lễ phong tục nên trường từ vựng “lễ
hội” cũng chiếm một số lượng nhất định (726/6584 từ - 11,0 %). Quá trình
khảo sát đã chia thành các tiểu trường: tên gọi của lễ hội, tính chất của lễ hội
và hoạt động của lễ hội. Dưới đây là kết quả cụ thể:
Bảng 3.17. Trường từ vựng“lễ hội”
Tiểu trường
Stt 1 2 3
tên gọi của lễ hội tính chất của lễ hội hoạt động của lễ hội Tổng số Số lượng 281 250 195 726 Tỉ lệ 37,8 32,9 29,3 100
Nhận xét:
Tiểu trường tên gọi của lễ hội chiếm vị trí cao nhất trong trường từ
vựng biểu thị lễ hội của hát Xoan. Tiểu trường biểu thị tên gọi của lễ hội
chiếm 281/854 lần - 37,8%. Tiểu trường tên gọi của lễ hội có các biểu thức
từ, ngữ như lễ hội đền Hùng, hội Xoan, hội bơi trải, hội vật, hội cờ, hội đua
130
thuyền, hội chọi trâu, hội hát đúm,hội cơm mới, hội cầu mưa, lễ hội tịch điền,
lễ dâng hương, lễ mời rượu, lễ mời trầu, hội mừng công, hội làng, hội xuân,
hội chọi gà,…Các biểu thức ngôn ngữ này cho người nghe thấy người xưa
quan niệm rất rõ ràng, chi tiết và cân đối về lễ hội – đó là hoạt động tập thể có
cả phần lễ và phần hội.
Tiểu trường từ vựng biểu thị tính chất của lễ hội xuất hiện 250/726 lần
- 32,9 %. Tiểu trường này gồm các biểu thức ngôn ngữ như linh thiêng, thiêng
liêng, cung kính, linh, to, lớn, vui, đông, hân hoan, háo hức, mới mẻ, tinh
khôi, siêng năng, no đủ, thuận hòa, nhiều, dồi dào, mạnh mẽ, tràn đầy, đầy
đủ,…Tiểu trường biểu thị tính chất của lễ hội đã biểu đạt sáng rõ tính trang
nghiêm, kính cẩn trong những hoạt động thuộc về phần lễ (với đức vua,
Thành hoàng làng hay những người có công,…); tính chất vui tươi, hồn nhiên
và yêu đời của nhân dân trong những hoạt động của phần hội. Kết quả khảo
sát cũng cho thấy chủ nhân của các bài hát Xoan đã hài hòa, cân đối giữa các
nghi lễ cần có với thần linh với các hoạt động vui chơi của con người trong
cuộc sống.
Tiểu trường từ vựng biểu thị các hoạt động của lễ hội đứng ở vị trí số 3
(195/726 lần - 29,3%). Tiểu trường này bao gồm các biểu thức ngôn ngữ như
bái, dâng, bước, quỳ, niệm, cầu, mừng, mong, chúc, mời, cúi, lạy, xin, tạ ơn,
rước, đón, đưa,…Tiểu trường này xuất hiện nhiều nhất trong các bài hát Xoan
thuộc chặng 1 và chặng 2, chặng quả cách. Nhất là ở các đoạn mở đầu (giáo
cách) và đoạn thân (đưa cách). Cùng với tiểu trường tên gọi và tiểu trường
tính chất, tiểu trường này đã giúp biểu đạt, minh họa rõ hơn cho cả trường từ
vựng lễ hội trong ca từ hát Xoan.
Tóm lại, các trường từ vựng trong hát Xoan đã biểu đạt chính xác, đầy đủ sự
triển khai, duy trì và phát triển mở rộng đề tài, chủ đề cũng như nhan đề của các bài
hát ấy. Chúng cùng thống nhất với 3 đề tài của hát Xoan: thiên nhiên, xã hội và nghi
lễ. Trường từ vựng biểu thị con người là trường từ vựng lớn nhất và chi phối các
trường từ vựng khác như: lễ hội, động vật, thiên nhiên, thời gian và vũ trụ. Quan
131
niệm về thế giới tự nhiên, nghi thức tôn giáo, xã hội cùng với thế giới tâm hồn của
những nghệ sĩ dân gian xưa đã hiện lên chân thực, phong phú và sinh động là nhờ
sự xuất hiện của 6 trường từ vựng này.
3.3. Một số biểu tượng ngôn ngữ - văn hóa trong ca từ hát Xoan
3.3.1. Một số biểu tượng nổi bật trong ca từ hát Xoan
Căn cứ vào tiêu chí nhận diện biểu tượng đã trình bày ở chương I, mục iv.
Lí thuyết về biểu tượng và biểu tượng ngôn từ , trên bình diện ngữ đoạn ca từ hát
Xoan, tác giả nhận thấy có một số biểu tượng thuộc về đất nổi bật hiện lên trong
ca từ hát Xoan là: mái đình, quả đúm, con cá, hoa, cánh đồng, cây mận, cây đào,
con thuyền. Trong đời sống tinh thần của người dân vùng Xoan các biểu tượng
này được phản ánh qua ca từ hát Xoan có tần số xuất hiện lớn với nhiều biến thể
phong phú. Căn cứ để luận án đưa ra bảng thống kê dưới đây là dựa vào số lần
các biểu tượng xuất hiện, số bài xuất hiện. Luận án đặc biệt chú ý tới mối quan
hệ giữa ý nghĩa bản thểvà ý nghĩa liên hội để tìm ra được những lớp ý nghĩa biểu
trưng còn mang tính chất lâm thời trong ca từ hát Xoan. Dưới đây là bảng thống
kê các biểu tượng ngôn ngữ xuất hiện nhiều nhất trong hát Xoan.
Bảng 3.18. Một số biểu tượng nổi bật trong ca từ hát Xoan
Cái biểu đạt
Cái được biểu đạt
Bài hát
Tần số xuất hiện (lần) 62 - 79
Hoa – huê
Thời gian Sắc đẹp Tuổi trẻ Người con gái Phẩm chất tâm hồn
50 - 12
Cá – ngư
Thành quả lao động Sự hiểu biết, tri thức Sự may mắn Phẩm chất, địa vị của con người
Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Thơ nhang, 14 bài quả cách, Bợm gái, Phú Kiều, Hát ru, Xin huê – đố chữ, Gài huê, Đố huê, Hát đúm. Ngư tiều canh mục cách, Đối giãy cách, Thuyền chèo cách, Tứ dân cách, Giã cá, Bỏ bộ, Hát đúm, Phú năm canh, Bút huê thảo
132
Cái biểu đạt
Cái được biểu đạt
Bài hát
Tần số xuất hiện (lần) 20 – 9
Cánh đồng, đồng ruộng, Đồng lúa
Quả đúm
Giáo pháo, Trường mai cách, Ngư tiều canh mục cách, Đối giãy cách, Đố hoa, Đố chữ. Hát đúm
23
19
Mái đình, đình làng
Không gian lao động (vụ mùa no đủ). Không gian tâm tình (nỗi nhớ mong) Tín vật Người bạn tâm tình Trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo, lễ nghi. Không gian vui chơi, hội hè.
Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Đóng đám, Tứ dân cách, Kiều Giang cách, Xoan thời cách, Tứ mùa cách, Đối giãy cách, Giã cá, Bợm gái, Hát đúm, Bỏ bộ.
Từ bảng trên, chúng tôi xin đi vào từng biểu tượng nổi bật để phân tích.
3.3.1.1. “Hoa” (huê) – Biểu tượng của thời gian, của sắc đẹp, tuổi trẻ, người
con gái và của phẩm chất tâm hồn.
Trong biểu tượng văn hoá nhân loại, hoa có thể được coi là hình mẫu
phát triển, là biểu tượng của sự sốngvà sức sống, sự hoàn hảo về tinh thần,
tình yêu và sự phong tình, cái đẹp và sự mong manh, ngắn ngủi của cái đẹp.
Trong ca từ hát Xoan, biểu tượng hoa thường được nói chệch thành huê (để
tránh phạm húy) xuất hiện 141 lần. Đây là biểu tượng xuất hiện nhiều nhất về
tần số và số bài hát: 28/42 bài ở cả 3 chặng hát (chặng 2 và chặng 3 chiếm ưu
thế). Biểu tượng hoa đã được các nghệ sĩ dân gian phát triển dựa trên cả 3
mối quan hệ: tương đồng, bổ sung và liên tưởng.
Thứ nhất, trong hát Xoan, hoa trước hết mang nét nghĩa tả thực, thể
hiện bước đi của thời gian. Huê trong ca từ các bài Xoan như Tứ mùa cách,
Xoan thời cách (Mừng xoan cách), Kiều giang cách, Đưa đông cách đều biểu
đạt ý này. Cụ thể là trong ví dụ 75:
Thảo huê nao nức sum vầy
Huê đào đua nở đôi cây xuân tình
(Hát đúm)
133
huê được kết hợp với các từ thuộc trường từ vựng thực vật như: thảo(cỏ), đào,
cây; các tính từ nao nức, các động từ sum vầy, đua nở và từ chỉ mùa xuân là
tín hiệu chỉ mùa chuyển tiếp trong năm. Ở đây, huê là biểu tượng của mùa
xuân sắc xuân, sức xuân trong trẻo, tươi đẹp và giàu sức sống.
Thứ hai, hoa còn là biểu trưng cho cái đẹp như ví dụ 76:
Mai hoa sặc sỡ đơm bông
Một vườn đào mận sánh cùng hoa tiên
(Tứ mùa cách)
biểu tượng hoa được cụ thể hóa bởi hai biểu tượng khác là “đào” và “mận.”
Đây vốn là hai biểu tượng quen thuộc trong ca Việt Nam, chỉ các chủ thể của
tình yêu đôi lứa. Trong câu ca này, lớp từ chỉ hoa có mai hoa, đào mận, hoa
tiên cùng với từ láy sặc sỡ; động từ sánh cùng nhằm biểu đạt ý hoa là biểu
trưng cho cái đẹp, cho sự kết tinh những gì hương sắc nhất, tinh túy nhất. Hơn
thế nữa, câu ca sử dụng ẩn dụ này ngầm chỉ sự xứng đôi vừa lứa, sự tương
ứng, đẹp đôi của các chủ thể tình yêu.
Thứ ba, hoa trở thành biểu tượng cho những cô gái đang độ xuân thì.
Đó là trường hợp của các ví dụ 77 và 78:
- Tam thanh một cảnh huê cà
Đôi ta thấp bé làm nhà ở riêng
- Tam thanh một cảnh huê nhài
Lòng anh muốn lấy cô cài cành huê
(Gài huê)
huê cà (loài hoa quê mùa) và huê nhài (loài hoa khuê các) chỉ là cái cớ để chủ
thể - chàng trai hát lên ước mong được trở thành người một nhà (làm nhà ở
riêng, muốn lấy) với người con gái mà anh cho là phù hợp (thấp bé, cô cài
cành huê). Hoa trong bài ca trở thành biểu tượng thông qua mối quan hệ liên
tưởng tương đồng.
134
Thứ tư, hoa còn là tượng trưng cho các phẩm chất của tâm hồn con
người. Ở ví dụ 79, biểu tượng hoa được sử dụng như là một đối trọng thực tế
để qua đó nhân vật trữ tình luận bàn về các vấn đề đạo đức trong tình yêu:
Anh đố em biết huê gì nó nở trên rừng bạc bội?
Anh đố em biết huê gì nó nở nội đồng không?
Anh đố em biết huê gì nở bảy tám lần trông?
Anh đố em biết huê gì nở mùa đông vàng trắng vàng
Huê sim, huê mua nó nở trên rừng bạc bội
Nhược bằng huê lúa nở nội đồng không
Nhược bằng huê dứa nở bẩy tám lần chông
Nhược bằng huê cải nở mùa đông vàng trắng vàng
(Đố hoa)
Ở đây, nhân vật trữ tình đã miêu tả hoa với các đặc điểm sinh học bình
thường: vị trí (hoa nở ở nội đồng, hoa nở trong rừng), thời gian, số lần, màu
sắc (hoa nở muộn, hoa nở bảy tám lần trông, hoa nở mùa Đông và có
màutrắng vàng). Các cụm từ trong vai trò bổ ngữ cho động từ (quan hệ chính
phụ trên trục ngữ đoạn): trên rừng - nội đồng tạo ra giá trị tương phản giữa:
hoa sim, hoa mua với hoa lúa, hoa cải. Từ đó làm xuất hiện ý nghĩa liên
tưởng: hoa sim, hoa mua tượng tượng trưng cho kẻ xa lạ, hoa cải, hoa lúa
tượng trưng cho người thân quen, cùng trong một cộng đồng.
Tuy nhiên, đó chỉ là một đối trọng để nhân vật trữ tình khái quát hóa
lên thành các vấn đề liên quan đến đạo lí trong tình yêu: hoa nở trong rừng
thành huê sim, huê mua nở trên rừng bạc bội. Và điều đó khiến cho hoa nở
trong rừng không bằng huê lúa nở đồng nội, huê dứanở lâu, hay huê cải nở
mùa đông (thông qua điệp cấu trúc nhược bằng). Ở đây các hình ảnh hoa
đều mang nghĩa ẩn dụ, chỉ đến các loại chủ thể khác nhau: người bội bạc dù
có xuất thân thế nào thì không bằng những người thân quen, gần gũi trong
cùng một cộng đồng. Ca từ bài hát này như là lời răn dạy về sự chung thủy.
135
Biểu tượng hoa trong hát Xoan một mặt mang những đặc điểm phổ
biến có ý nghĩa khái quát như một mẫu số chung (sắc đẹp, người con gái);
mặt khác nó cũng thể hiện đậm nét những quan niệm thẩm mĩ, quan niệm
nhân sinh riêng biệt của người xưa (bước đi của thời gian, tuổi trẻ và phẩm
chất tâm hồn con người). Như vậy, có thể thấy hoa là biểu tượng ngôn từ
thiên về biểu đạt đời sống tinh thần, tình cảm của con người xuất hiện trong
thuộc chặng hát thứ 2 và những bài ca giao duyên chặng hát thứ 3.
3.3.1.2. “Cá - ngư” – biểu tượng cho thành quả lao động; sự hiểu biết, tri
thức của người xưa; sự may mắn và phẩm chất, địa vị cao quý của con người.
Cá có tên gọi chữ Hán là ngư nên luận án khảo sát cả biểu thức ngôn ngữ
ngư. Người Việt xưa có câu: “Nhất điểu, nhị xà, tam ngư, tứ tượng”. Chim, rắn,
cá là những loài động vật phổ biến nhất vùng sông nước. Chính vì vậy, ngư –cá
được coi là một trong những linh vật trong tâm thức người Việt. Biểu tượng cá -
ngư xuất hiện 62 lần trong các bài hát Xoan, đứng thứ 2 trong 5 biểu tượng được
khảo sát. Biểu tượng này xuất hiện trong các bài hát chặng 2 là: Ngư tiều canh
mục cách, Đối giãy cách, Thuyền chèo cách, Tứ dân cách và các bài hát chặng 3
là: Giã cá (Đánh cá, Mó cá, Bắt cá), Bỏ bộ, Hát đúm, Phú năm canh, Bút huê
thảo. Các biểu thức ngôn ngữ có chứa từ ngư trong ca từ hát Xoan gồm: ngư tiều
canh mục, ngư phủ (chỉ nghề nghiệp), tương phùng ngư thủy (như cá gặp nước)
trong các bài hát quả cách. Chỉ riêng bài ca Giã cá đã có đến ba bài biến thể
khác là: Đánh cá, Mó cá, Bắt cá. Cá trong cách nhìn của người xưa trong các bài
hát Xoan là dựa trên mối quan hệ tương đồng và liên tưởng.
Trên thực tế, cá được coi là nguồn thực phẩm dưới nước nuôi sống con người.
Đánh cá, bắt được cá là hoạt động thu hoạch thành quả lao động của người
dân. Ở lời hát Xoan, cá trước hết là biểu tượng cho sự hiểu hiết, cho tri thức
của người xưa như trong ví dụ 80:
Mồng một cá đi ăn thề
Mồng hai cá về cá vượt vũ môn.
(Giã cá)
136
Căn cứ vào cách tính thời gian ngày tháng (mồng một, mồng hai) và tập
tính sinh hoạt quen thuộc của cá chép (đi ăn thề, về, vượt vũ môn), người nghe biết
được cá ở câu ca này là biểu tượng cho vùng văn minh nông nghiệp lúa nước.
Hai là, cá còn là biểu trưng cho điều may mắn.Biểu thức ngôn ngữ “cá
chép vượt vũ môn” vốn được xem là biểu tượng cho sự an lành và sung túc,
thịnh vượng trong cuộc sống, may mắn về tài lộc trong kinh doanh, và thành
công trong học hành, thi cử. Ví dụ 81 cho người nghe hiểu một ý nghĩa khác
về điềm may:
Làm trai lấy được vợ khôn
Khác nào cá vượt vũ môn hóa rồng
(Hát đúm)
Cá trong ví dụ này là bên cạnh ý nghĩa là điềm may còn biểu tượng cho
khát vọng trong hạnh phúc lứa đôi, gia đình.
Ba là, trong ca từ hát Xoan, cá được coi là vật thiêng, là biểu tượng cho
sự thiêng liêng. Điều này có thể thấy ở ví dụ 82:
Đánh được con nhồng thờ đức đại vương
Đôi ta đánh cá dưới khe
Đánh được con mè thờ đức đại vương
hoặc ví dụ 83:
Cá bé anh phó cho đào
Bắt con cá lớn đem vào thờ vua
- Đôi ta đánh cá dưới sông
(Đánh cá)
Ở câu ca 82, cá được đặt trong các không gian cụ thể (dưới sông, dưới
khe), được gọi tên (con nhồng, con mè) và gắn với hoạt động (đánh được,
đem thờ đức đại vương). Những con cá được đem thờ vua phải là những con
cá lớn, khỏe, đẹp (Cá bé anh phó cho đào/ Bắt con cá lớn đem vào thờ vua). Lúc
này, cá là vật thiêng - để thờ cúng, dâng vua.
137
Đôi ta đánh cá bóng trăng
Cá thời chẳng được thung thăng bắt đào
Ở ví dụ 84:
(Mó cá)
đánh cá không còn là hoạt động lao động sông nước đơn thuần nữa,
đánh cá thực chất là để nhân gian vui chơi, đùa giỡn (hành động mọi người
đều được “bắt cá”, “mó cá”). Hoạt động đánh cá diễn ra vào ban đêm (bóng
thời chẳng được thung thăng bắt đào).
trăng), có cả nam và nữ, và đánh cá chỉ là cái cớ để vui đùa, trêu ghẹo (Cá
Bốn là,cá còn là biểu tượng cho đặc điểm phẩm giá và địa vị cao quý
của con người. Như trường hợp của ví dụ 85:
Anh bắt cá này như bông thiên lý
Anh bắt cá này cá quý hóa long
(Hát đúm)
điệp cấu trúc: anh bắt cá này và cách liệt kê tên, tính chất các loại cá: như
bông thiên lý, cá quý hóa long (các loài cá quý, hiếm) đem đến cho biểu
tượng cá một hàm nghĩa khác.Các cách nhìn nhận này về cá cho thấy kiểu tư
duy trực quan, tổng hợp của cư dân Việt cổ.
Như vậy, biểu tượng cá trong hát Xoan vừa có nét chung của con cá
mang ý nghĩa biểu tượng thông thường lại vừa có nét riêng của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước. Cũng có thể khẳng định, cá - ngư là biểu tượng cho
cuộc sống lao động hàng ngày của người dân; đồng thời là biểu tượng cho đời
sống tâm hồn của họ.
3.3.1.3. “Cánh đồng”, “đồng ruộng” , “đồng lúa” – biểu tượng của không gian
lao động (vụ mùa no đủ), và biểu tượng của không gian tâm tình (nỗi nhớ mong)
“Cánh đồng”, “đồng ruộng”, “đồng lúa” trong ca từ hát Xoan là biểu
tượng xuất hiện với tần số 29 lần, đứng ở vị trí thứ 3 trong các biểu tượng ngôn
từ được khảo sát. Xét về mặt đề tài, các bài hát Xoan có biểu tượng cánh đồng là
138
những bài ca lao động và giao duyên là chủ yếu. Xét về chặng hát, thì biểu tượng
cánh đồng xuất hiện chủ yếu ở các bài hát thuộc chặng 2 và chặng 3. Xét về mặt
ca từ, cánh đồng, đồng ruộng, đồng lúa được gọi tên chung là đồng. Trước hết,
đồng là không gian lao động chủ yếu và phổ biến nhất của người nông dân xưa.
Bên cạnh đó, cánh đồng còn là không gian tâm tình, giãi bày của người lao động.
Trước hết, trong ca từ hát Xoan, đồng là biểu tượng của vụ mùa no đủ,
tươi tốt. Ý nghĩa này được biểu hiện rõ thông qua ví dụ số 86:
No lòng lúa gié, lúa chiêm
Ngoài đồng dưới trên sum vầy
(Trường mai cách)
Tính từ chỉ sắc màu xanh mướt cùng với sự xuất hiện của danh từ chỉ
các loại lúa khác nhau lúa gié, lúa chiêm được thể hiện trong sự kết hợp với
các tính từ no lòng, sum vầy. Biểu tượng cánh đồng vì thế mang ý nghĩa là
ước mơ cuộc sống no đủ, thuận hòa. Ý nghĩa này của biểu tượng cánh đồng
còn được thể hiện ở ví dụ 87:
Lúa đồng mình vừa tươi vừa tốt
Thu hoạch về ta hốt đầy kho
Ước mong cuộc sống ấm no
Bốn phương hòa thuận, vô lo, sang giàu
(Tứ dân cách)
Ở đây, cánh đồng xuất hiện cùng với các tính từ miêu tả lúa mùa gặt tươi,
tốt, tính từ chỉ sự sung túc ấm no, hòa thuận, sang giàu, vô lo, các động từ thu
hoạch, hốt đầy, ước mong và cặp từ hô ứng trong tương quan so sánh vừa có tác
dụng làm tăng tiến thêm ý nghĩa mong ước cuộc sống no đủ, sung túc.
Ở ví dụ 88:
Trời mưa cho lúa thêm bông
Cho đồng thêm cá, cho sông thêm thuyền
(Ngư tiều canh mục cách)
139
biểu tượng cánh đồng xuất hiện lời cầu nguyện, mong ước (Trời mưa) của người
xưa về mưa thuận gió hòa để có mùa màng bội thu. Biểu tượng này xuất hiện
trong sự tương tác ý nghĩa với sự xuất hiện của điệp ngữ thêm (lặp lại 3 lần) và
các cặp danh từ sóng đôi: lúa – bông; đồng – cá,sông – thuyền. Vì thế, biểu
tượng cánh đồng ở ví dụ này quy chiếu đến nguồn sống thân thuộc của người
dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đó là nơi trồng lúa, nơi nuôi cá, nơi người dân
chèo thuyền đi lại. Và ở một nét nghĩa nào đó, cả 2 ví dụ 89 và 90, cánh đồng trở
thành biểu tượng được phát triển về nghĩa chỉ sự ấm no, sung túc.
Hai là, cánh đồng còn trở thành biểu tượng cho nỗi nhớ mong của tình
yêu đôi lứa. Đó là trường hợp của ví dụ 89:
Chiều chiều ra đứng ngắm đồng
Lòng ta tha thiết nhớ mong bạn mình(Bỏ bộ)
cánh đồng lúc này là vừa là không gian thực – nơi nhân vật trữ tình đứng –
vừa là đối tượng để chủ thể giãi bày tình cảm: nỗi nhớ về người bạn của mình.
Mô típ nghệ thuật chiều chiều, kết hợp với động từ, cụm động từ: ra đứng
ngắm, nhớ mong và tính từ tha thiết; đại từ xưng hô: ta – mình đã diễn tả nỗi
lòng của nhân vật trữ tình. Ý nghĩa này của biểu tượng cánh đồng cũng có thể
thấy trong ví dụ 90:
Thương ai rồi lại nhớ ai
Ra đồng ta đứng ngóng hoài trông mong
(Hát đúm)
Ở đây, các động từ thương, nhớ, đứng, ngóng, trông mong được diễn
đạt liệt kê với cấp độ tăng tiến; đại từ phiếm chỉ: ai; và phụ từ chỉ tần suất:
hoài làm cho đồng không còn chỉ là nơi đứng của chủ thể mà trở thành một
nhân chứng cho tình cảm của chủ thể với người thương.
Như vậy, có thể thấy cánh đồng trong ca từ hát Xoan được xuất phát từ
nét nghĩa tả thực khai thác từ cuộc sống lao động của người dân thời xưa. Đây là
một biểu tượng có tính đa nghĩa. Nó phản ánh lối tư duy của người nghệ sĩ hát
Xoan: một biểu tượng gắn liền với cuộc sống lao động và tâm hồn của họ. Biểu
140
tượng cánh đồng cho người nghe thấm thía một cuộc sống lao động vất vả với
những ước mơ giản dị, gần gũi (mưa thuận gió hòa, được mùa, no ấm, được nên
duyên và hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa, trong cuộc sống gia đình).
3.3.1.4.“Quả đúm” – biểu tượng cho tín vật, người bạn tâm tình trong hát
giao duyên nam nữ đối ca
Quả đúm là một biểu tượng nổi bật nhất trong bài hát Xoan thuộc
chặng ba. Hình ảnh này xuất hiện 23 lần trong bài Hát đúm (chặng 3). Quả
đúm là một vật có thật tượng trưng hai bên hát đối đáp và diễn trò (ném quả
đúm). Trong cuộc hát, quả đúm là một mảnh vải điều to bằng hai bàn tay,
trong có gói quả cau, lá trầu (đôi khi gói thêm cả đồng tiền kẽm). Trong ý
niệm dân gian, quả đúm vừa giống như một bức tình thư; lại vừa như một vật
làm tin; vật kỉ niệm. Vì vậy, biểu tượng này được phát triển dựa trên mối
quan hệ bổ sung và liên tưởng. Quả đúm xuất hiện trong các bài hát Xoan chủ
yếu qua biểu thức ngôn ngữ đúm. Hát đúm vừa là tên một bài hát dài nhất của
cuộc hát Xoan (209 câu) vừa được coi là một cuộc hát giao duyên độc lập.
Đây là bài hát, phần diễn xướng vui tươi nhất, sôi nổi nhất và được mong chờ
nhất trong một cuộc hát Xoan. Hình thức của cuộc hát đúm là nam một bên,
nữ một bên, những quả đúm làm cầu nối cho mỗi lời đối đáp của đôi bên. Hát
đúm đối đáp trong Xoan là một hình thức giao duyên tín ngưỡng.
Trong xã hội cổ truyền, hát Đúm là một loại hình dân ca phổ biến và bình
dân. Hát đúm không đòi hỏi kĩ thuật cao như các bài Xoan thuộc chặng hát thờ
và chặng Quả cách. Hát đúm trong Xoan có hai loại: đúm thờ và đúm ném. Phần
đúm thờ cũng có những quy định lề lối chặt chẽ. Phường Xoan sẽ hát đúm thờ
trước, sau đó mới hát đúm ném. Phần đúm ném bao gồm các bước: hát gặp, hát
đố, hát huê tình, hát mời trầu. Cuộc hát đúm ném ở đình làng có quy định cho
các cô đào phường Xoan được ném quả đúm. Nhưng không được ném vào cụ
Từ và người làm nhiệm vụ tế lễ trong hội đình. Khi các cô đào Xoan ném quả
đúm vào một vị quan viên nào đó thì người này phải đứng lên hát đáp và trao lại
141
quả đúm cho đào. Trong thực tế, nếu quan viên không hát được, có thể nhờ một
chàng trai nào đó đứng lên hát đáp lại thay cho mình.
Tính mở trong cuộc hát đúm còn biểu hiện ở hình thức ứng tác ngẫu
hứng lời ca tức thì ngay trong quá trình diễn xướng. Ứng tác lời ca luôn là
nguồn bổ sung, đáp ứng nhu cầu mở rộng không giới hạn về đề tài, nội dung
của cuộc hát. Đây cũng là dịp để trai gái thử tài nhau về trình độ văn thơ và
khả năng am hiểu, vận dụng các tích truyện cổ và những vấn đề về đời sống
xã hội đương thời. Tuy vậy, ứng tác không phải là yếu tố bắt buộc người hát
phải tuân thủ. Vì nó tùy thuộc vào khả năng, trình độ cá nhân và “vốn liếng”
văn học của người tham gia diễn xướng. Nếu người hát có khả năng ứng tác
lời ca mới, đưa ra được những câu thơ đúng niêm luật, đối, giàu hình ảnh thì
cuộc hát càng thêm hào hứng và có ý nghĩa. Ngược lại, người hát chỉ cần hát
những lời ca có sẵn đã được học thuộc từ trước.
Mở đầu cuộc hát bên nam thường vừa đọc, vừa ngâm ngợi đôi câu thơ,
sau đó mời bên nữ hát. Một cô đại diện cho bên nữ tay cầm quả đúm cất
giọng. Ở ví dụ 91:
Ơ… (vậy) đúm này em dặn thì nghe
Đúm bay cho tới áo the đúm vào
Đúm vào người hỏi làm sao?
Em là quả đúm em vào kết duyên
hình ảnh “đúm” được nhân cách hóa, biết lắng nghe lời dặn dò của chủ thể
nói và biết đối đáp lại. Đồng thời, quả đúm lại trở thành hoán dụ, quy chiếu
đến chính chủ thể nói, chủ thể tình yêu, khi thú nhận “em là quả đúm em vào
kết duyên”. Nếu ở ba câu đầu, việc nhân cách hóa quả đúm là một cách để chủ
thể nói gián tiếp bày tỏ tình cảm với đối tượng yêu thương thì ở câu cuối, chủ
thể nói lên tiếng trực tiếp, mạnh mẽ về tiếng lòng yêu thương của mình. Hát
xong, cô gái tung quả đúm về phía một chàng trai mà cô muốn đối đáp. Chàng
trai nhặt quả đúm lên, mở ra cho thêm một miếng trầu hay một quả cau rồi
túm lại, sau đó cất tiếng hát đáp.
142
Ở ví dụ 92:
Ơ… (vậy) đào ơiđào dích lại đây
Anh cầm quả đúm trao tay cho đào
biểu tượng đúm lại mang ý nghĩa như là vật làm tin trong giao duyên. Cuối
câu hát, chàng trai tiến lại phía đào, cầm tay cô và trao quả đúm. Cứ thế, lần
lượt đến cặp trai gái khác nối nhau vừa tung quả đúm, vừa hát. Cuộc hát
thường diễn ra một ngày (từ sáng đến tối), đôi khi lại hát từ chập tối cho đến
rạng sáng, tùy theo diễn biến của cuộc hát Xoan.
Quả đúm vừa là một tín vật tượng trưng để nam nữ dễ bày tỏ tình cảm;
vừanhư người bạn tâm tình giúp nói hộ nỗi lòng người trong cuộc. Ở ví dụ 93,
Đúm ơi! kì ngộ tương phùng
Bõ công ao ước trông mong xa gần
kết hợp với thành ngữ kì ngộ tương phùng, các động từ ao ước, trông mong,
đúm mang ý nghĩa hoán dụ, quy chiếu đến đối tượng hướng tới của chủ thể
đang tương tư. Tương tự như vậy, ở ví dụ 94:
Em đang tung đúm (về) người thương
Quả đúm bay vào chàng có yêu chăng?
Trong bài hát đúm, số lượng câu hỏi tu từ xuất hiện khá nhiều. Đây là
một dạng dùng câu hỏi để nhấn mạnh vào một ý tưởng hay một hình ảnh nào
đó, hoàn toàn mang dụng ý của người nghệ sĩ hát Xoan. Thông thường câu
hỏi tu từ thường được dùng để thuyết phục người đọc, người nghe hoặc tạo ấn
tượng đặc biệt về mặt hùng biện. Câu hỏi tu từ là dạng câu hỏi chứa đựng
hình thức nghi vấn phủ định hay khẳng định nhưng không chờ đợi sự trả lời.
Bởi bản thân câu hỏi tu từ vốn xác định điều đã biết với người nhận là không
cần trả lời. Câu ca trên là một câu hỏi tu từ: đúm được kết hợp với các từ yêu,
thương và câu hỏi có …chăng? Trong ngữ cảnh ca từ trên, câu hỏi tu từ có
…chăng? đã được khẳng định ngay bằng ý đi liền sau đó: Khen ai sao khéo
hẹn hò/ cách sông cũng lội, cách đò cũng sang. Ở đây, đúm là vật chỉ sự cam
kết, gắn kết trong tình yêu đôi lứa.
143
Nói tóm lại, quả đúm là biểu tượng cho tín vật giao duyên nam – nữ; là vật
biểu trưng để trai gái dễ dàng hơn trong việc bộc lộ, bày tỏ tâm tình; là tượng
trưng cho tín hiệu của tình yêu đôi lứa. Đây là biểu tượng phản ánh một phần
mối quan hệ con người với xã hội (con người trong tình yêu đôi lứa), phản
ánh thế giới tâm hồn của người dân. Biểu tượng này được phát triển dựa trên
mối quan hệ bổ sung và liên tưởng.
3.3.1.5.“Mái đình”, “đình làng” – biểu tượng cho trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo,
lễ hội đồng thời là biểu tượng cho không gian vui chơi, tâm tình của người xưa
Mái đình, đình làng là biểu tượng ngôn ngữ xuất hiện 19 lần trong 12
bài hát của cả 3 chặng: Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Đóng
đám (chặng 1); Tứ dân cách, Kiều Giang cách, Xoan thời cách, Tứ mùa cách,
Đối giãy cách (chặng 2); Giã cá, Bợm gái, Hát đúm, Bỏ bộ (chặng 3). Tuy
không phải là biểu tượng xuất hiện với tần số cao nhất nhưng lại là biểu tượng
chiếm vị trí quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng và tâm linh của người
dân vùng Xoan nói riêng và của vùng Bắc Bộ Việt Nam nói chung. Đình là
một ngôi nhà công cộng của làng thời xưa, dùng làm nơi thờ Thành hoàng và
họp các công việc chung của làng (thường là nhà to, rộng nhất làng). Đình
chính là hình ảnh phản chiếu của thế giới thần linh. Làng là tổ chức xã hội
nông nghiệp tiểu nông, tự cung tự cấp và còn là môi trường văn hóa. Với ý
thức cộng đồng, ý thức tự quản và những tập quán, nếp sống, tín ngưỡng tôn
giáo, làng là đơn vị xã hội của văn hóa Việt Nam. Người xưa thường hay nói
đình làng là vì như vậy. Người nghệ sĩ dân gian quan niệm: đìnhlàng chính là
biểu hiện cụ thể của hai tiếng quê hương thiêng liêng, là nơi họ sinh ra và lớn
lên. Đi vào hát Xoan, ca từ được thể hiện trực tiếp qua từ đình.
Là một miền quê thuộc trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhiều hoạt động
văn hóa của làng Xoan, đặc biệt là một cuộc hát Xoan được biểu diễn phần
lớn là ở đình làng hay nhà thờ tổ Đình. Ở đây, đình cũng là nơi để dân làng
bàn việc làng việc nước, nơi thờ Thành hoàng làng. Đó cũng là nơi để các
giáo phường, làng thôn, nhóm Xoan họp bàn, trình diễn nghệ thuật vào mùa
144
xuân hàng năm. Đình làng đã trở thành một biểu tượng văn hóa của làng
Xoan. Đó không chỉ là trung tâm hành chính, tín ngưỡng thể hiện phong tục
tập quán, đạo đức, nề nếp, truyền thống làng xã; mà còn là một trung tâm văn
hóa, một “nhà hát” cộng đồng làng xã của làng.
Thứ nhất, với các bài hát Xoan ở chặng 1 và chặng 2, mái đình,
đìnhlàng là biểu tượng được phát triển qua mối quan hệ tương đồng. Đầu tiên
nó xuất hiện như là một hình ảnh phản chiếu của thế giới tín ngưỡng, tượng
trưng cho không gian cầu nguyện trang nghiêm và thành kính của người xưa.
Ví dụ 95:
Kính lạy dưới sân đình
Vào lúc tiết thanh minh
Dâng lễ lên đấng anh minh
Cầu chúc cho dân làng ta
Nơi nơi thuận hòa, no đủ
(Hát chúc thành hoàng)
Ở đây, biểu thức ngôn ngữ đình xuất hiện trong một nghĩa kép: vừa là sự vật
chỉ một ngôi đình vật lí, có thật; vừa là biểu tượng của nơi thờ cúng linh
thiêng. Sở dĩ ý nghĩa biểu tượng này xuất hiện là do hình ảnh “sân đình” được
xuất hiện trong sự phối hợp một trường động từ thể miêu tả hoạt động cầu
kính trang nghiêm “kính lạy”, “dâng lễ”, “cầu chúc”. Lúc này đình là biểu
trưng cho địa điểm gắn với tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Đây là một tín
ngưỡng khá phổ biến ở làng xã của người Việt. Thờ Thành hoàng làng thực
chất là nét văn hoá đặc trưng trong sinh hoạt văn hoá làng, sự giao lưu văn
hoá giữa các làng xóm với nhau; là nơi để lưu giữ những phong tục, luật lệ
của mỗi làng. Đó là sự kết tinh ý thức hệ tôn giáo quanh một hình thái thờ
phụng tập thể. Thờ Thành hoàng là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng
đoàn kết, gắn bó với nếp sống “cộng sinh cộng cảm”. Vì lẽ đó, mỗi làng khi
muốn mở hội hoặc tổ chức việc gì đều phải có lễ cúng Thành hoàng để xin
phép trước. Tín ngưỡng Thành hoàng đóng vai trò liên kết cộng đồng làng xã,
145
là nơi quy tụ tâm linh cho cư dân. Mỗi người trong làng cần được sống giữa
cộng đồng, gắn kết với cộng đồng.
Ở ví dụ 96:
Nhân ngày xuân ta hát khúc môn đình
Cầu cho dân ta được một mùa xanh
Cầu cho làng ta được no đủ
Cầu cho mùa màng được hòa cốc phong đăng
(Hát nhập tịch chào vua)
Biểu tượng đình có ý nghĩa là không gian thiêng liêng và là nơi sinh hoạt
cộng đồng. Biểu tượng này được xuất hiện gián tiếp qua câu hát khúc môn
đình. Điệp ngữ cầu cho được lặp lại 3 lần với các từ ngữ như dân ta, làng ta,
mùa màng,…thể hiện mong ước của người xưa. Đây có thể là lí do chính mà
hát Xoan còn mang tên gọi khác là Khúc môn đình – hát cửa đình.
Ở một ví dụ khác, ví dụ 97:
Kén được tháng tốt lành
Rước vua về đình dự tiệc đêm nay
(Kiều Giang cách)
đình được nhắc tới gắn liền với vua, cùng với thành ngữ ngày lành tháng tốt,
các động từ rước, dự tiệc cho thấy sự thành kính, trang nghiêm của người hát
đối với vua. Vua ở đây không phải là một con người cụ thể, mà thực chất
chính là Thành hoàng của làng đó. Ý niệm này còn xuất hiện ở các bài hát Tứ
dân cách, Xoan thời cách, Tứ mùa cách, Đối giãy cách (chặng 2). Và ở các
bài hát này, vua luôn được nhắc tới và gắn liền với đình.Như vậy, ở chặng 1
và chặng 2, mái đình trở thành một ẩn dụ cho lòng yêu nước, tinh thần đoàn
kết, gắn kết với cộng đồng của nhân dân. Mái đình chính là biểu tượng tín
ngưỡng, tâm linh thiêng liêng nhất trong tâm thức người xưa. Lúc này, có thể
coi, mái đình chính là biểu tượng phản ánh mối quan hệ con người với quốc
gia, dân tộc.
Thứ hai, với một số bài hát Xoan ở chặng 2 và chặng 3, đình là được
phát triển qua mối quan hệ bổ sung. Đó cũng là không gian tượng trưng cho
146
hoạt động vui chơi, giao duyên của người xưa. Xét về trình tự cuộc hát, người
xưa sau khi hát các bài hát khẩn nguyện (chặng 1) ở bàn thờ đình, sẽ hát các
bài chặng Quả cách (chặng 2) và chặng hát hội (chặng 3) ở cửa đình, sân
đình. Các ví dụ 98, 99 và 100:
Ra đình gặp được anh hào
(Tứ dân cách)
Bước vào đứng giữa đình trung
Đôi tay vo áo thánh cung mới về
(Bợm gái)
Đình đây đóng hướng cũng xinh
Long, ly, qui, phượng tứ quý vi rồng chầu
(Hát đúm)
Ở hai ví dụ 98 và 99, đình có vai trò vừa là không gian xuất hiện của chủ
thể trữ tình, vừa là không gian chỉ hoạt động giao duyên, kết duyên. Ở ví dụ 100,
biểu tượng đình xuất hiện trong sự tương phản về ý với một loạt các biểu tượng
ngôn từ khác là “long, ly, qui, phượng” (tứ linh). Vì thế, nó trở thành biểu tượng
cho sự chân quê, giản dị, đối lập với những thứ cao sang, quyền quý. Sự xuất
hiện của đối trọng này khiến cho hình ảnh “đình” ở đây mang thêm một ý nghĩa
mới, đó là sự ẩn dụ cho một chủ thể trong tình yêu đôi lứa.
Các bài hát ở chặng hát giao duyên cũng xuất hiện biểu thức ngôn ngữ
đình, biểu trưng cho điểm hẹn của tình yêu hoặc là sự vật được ẩn dụ và hoán
dụ để các chàng trai, cô gái bày tỏ nỗi lòng. Điều này thể hiện ở ví dụ 101,
102 và 103:
Vậy có câu đúm rằng:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
(Hát đúm)
Hẹn nhau ở giữa sân đình
Vào đêm trăng sáng có mình với ta
(Bỏ bộ)
147
Ai kia ra đứng sân đình
Phất phơ dáng áo giống hình người thương
(Bút huê thảo)
Ở các ví dụ trên, biểu tượng đình được sử dụng như vừa mang nghĩa
thực, vừa mang nghĩa tượng trưng. Nghĩa thực là không gian đình làng. Nghĩa
tượng trưng là chỉ không gian gắn liền với sự đợi chờ tình yêu, sinh hoạt giao
duyên (ví dụ 102, 103), hay gợi nhắc về chủ thể yêu thương (ví dụ 100). Lúc
này, mái đình trở thành biểu tượng phản ánh một phần mối quan hệ con người
với xã hội.
Như vậy, mái đình hay đình làng là biểu tượng cho đời sống nghi lễ,
tôn giáo và một phần đời sống tâm hồn của người xưa. Biểu tượng đình được
phát triển trên hai mối quan hệ tương đồng và bổ sung.
3.3.2. Một số nhận xét
Như vậy, các biểu tượng đã phân tích xuất hiện khá đều ở các bài ca cả 3
chặng hát (hát thờ - hát chúc, hát quả cách, hát giao duyên). Giá trị biểu trưng
của các biểu tượng chủ yếu hướng đến các nghĩa biểu trưng chính của hệ biểu
tượng văn hóa thế giới và Việt Nam. Mặc dù vậy, ca từ hát Xoan trên cơ sở kế
thừa và sáng tạo lại, tạo ra những hình ảnh biểu trưng nhất quán mà vẫn mang
được phong cách riêng khó trộn lẫn của mình.
Cụ thể, biểu tượng đình mang giá trị về đời sống tôn giáo, nghi lễ chủ yếu xuất
hiện ở các bài hát thuộc chặng 1 và chặng 2. Thông qua đó, người nghe hiểu
được đời sống tâm linh của người xưa, cảm nhận được mối quan hệ giữa con
người với quốc gia, dân tộc là chủ yếu. Người nghe cũng một phần cảm nhận
được mối quan hệ giữa con người với xã hội (con người với làng, xã; với những
người hàng xóm, láng giềng,) Trong khi đó, biểu tượng đồng và cá là các biểu
tượng mang giá trị biểu trưng về đời sống lao động là chủ yếu, xuất hiện nhiều ở
các bài hát thuộc chặng 2 và chặng 3. Thông qua đó, người nghe hiểu được về
đời sống lao động của người xưa, cảm nhận được mối quan hệ giữa con người
với thế giới tự nhiên và con người với xã hội. Còn biểu tượng quả đúm và hoa là
148
các biểu tượng mang giá trị phản ánh đời sống tâm hồn của người xưa, xuất hiện
nhiều nhất ở các bài hát thuộc chặng 3 và chặng 2. Thông qua đó, người nghe
cảm nhận được đời sống tâm hồn, tình cảm của người xưa, cảm nhận được mối
quan hệ giữa con người với con người và ý thức về chính bản thân mình.
3.4.Tiểu kết
Như vậy, ở chương 3, đặc điểm nội dung của ca từ trong hát Xoan Phú
Thọ được xem xét trên ba phương diện: hệ thống tiêu đề; các trường từ vựng;
một số biểu tượng ngôn ngữ - văn hóa. Trong mối quan hệ với nhan đề, ca từ
hát Xoan được chia thành 3 nhóm đề tài: “khẩn nguyện” và “tích xưa”; “thiên
nhiên”; “lao động” và “giao duyên”. Nhóm đề tài “lao động” và “giao duyên”
đứng đầu với 22/42 bài – 52,4%, đề tài “khẩn nguyện” và “tích xưa” đứng thứ
hai với 14/42 bài – 33,3% và nhóm đề tài “thiên nhiên” chiếm 6/42 bài –
14,3%. Điều này cũng có thể khẳng định đây là nguyên nhân chính để coi hát
Xoan được coi là dân ca nghi lễ phong tục. Mạch triển khai đề tài trong ca từ
Xoan được ghi nhận theo 2 hướng: duy trì trong toàn bộ ca từ và được phát
triển, mở rộng. Hiện tượng này có tác động đến các bài hát Xoan ở chỗ: có
một đề tài lớn và đường dẫn đến các tiểu đề tài liên quan.
Các trường từ vựng trong hát Xoan được phân tích theosáutrường từ
vựng biểu thị: con người;thời gian; vũ trụ; thực vật; động vật và lễ hội.
Trường từ vựng biểu thị con người trong hát Xoan được định danh bằng các
tiểu trường biểu thị cảm xúc, tình cảm; hoạt động, trạng thái; địa vị xã hội;
giới tính; nghề nghiệp và bộ phận cơ thể. Tiểu trường từ ngữ biểu thị cảm
xúc, tình cảm và hoạt động, trạng thái của con người giúp ca từ hát Xoan
biểu đạt chân thực và chính xác về những con người tha thiết yêu thiên nhiên,
sự sống; yêu lao động, gia đình và thành kính trong tín ngưỡng, tôn giáo. Tiểu
trường từ ngữbiểu thị giới tính của con người trong hát Xoan phân xuất được
các từ chỉ giới nữ chiếm tần số cao nhất. Điều này cho thấy người xưa đã rất
coi trọng vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Đó là nhân vật trung tâm của
cuộc sống tín ngưỡng, tôn giáo; cuộc sống lao động và tình yêu, gia đình.
149
Tiểu trường từ ngữ biểu thị địa vị xã hội con người cho thấy vua(thành
hoàng làng)và dân là hai đối tượng được nhắc tới nhiều nhất trong hát Xoan.
Nó chứng minh rằng tác giả dân gian luôn đề cao và coi trọng hai đối tượng
này: vua là tối cao, là biểu tượng thiêng liêng cho trời và đất; dân là quan
trọng, không có dân thì cũng không thể có làng, xã và nước. Tiểu trường từ
ngữ biểu thị nghề nghiệp thể hiện rõ quan niệm của người xưa: coi trọng
những người trực tiếp tạo ra lương thực (coi trọng nghề nông) và cũng coi
trọng chuyện học hành, thi cử, đỗ đạt. Các trường từ vựng biểu thị lễ hội,
động vật, thực vật, thời gian và vũ trụ đã giúp cho ca từ hát Xoan thêm phong
phú trong việc biểu đạt thế giới quan và nhân sinh quan của người xưa: mong
cầu một cuộc sống lao động bình an, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt;
cuộc sống gia đình hòa thuận, đầy đủ phúc đức và một đời sống nghi lễ tôn
giáo hòa hợp giữa thiên nhiên, vũ trụ và xã hội làng quê xưa.
Các biểu tượng nổi bật trong ca từ hát Xoan lần lượt được nhìn nhận và
đánh giá: đình làng, quả đúm và hoa, cánh đồng và cá. Đây là năm biểu
tượng ngôn ngữ đặc trưng, có giá trị bền vững nhất xuất hiện trong tất cả các
bài hát, chặng hát, cuộc hát Xoan. Các biểu tượng ngôn ngữ đã biểu đạt được
ý nghĩa trong các mối quan hệ: con người với thế giới tự nhiên; với quốc gia, dân tộc; với xã hội và ý thức về bản thân.
150
KẾT LUẬN
1. Hát Xoan là tên gọi của một loại hình dân ca xưa của vùng đất Tổ
trung du Phú Thọ, được tổ chức trong dịp tiễn năm cũ và chào đón năm mới.
Xoan được người xưa đọc chệch đi của từ Xuân (có nghĩa là mùa xuân). Hát
Xoan là điệu hát múa để chào đón mùa Xuân. Đây là lối hát dân gian trong
các lễ hội tới khi tín ngưỡng thờ thành hoàng phát triển thì lối hát này được
hát ở cửa đình trong các hội làng trở thành dân ca nghi lễ, phong tục.
Dù có một số công trình nghiên cứu đề cập đến hát Xoan Phú Thọ ở
các góc độ lịch sử, xã hội, văn hóa và nghệ thuật nhưng chưa có bất cứ một
công trình nào có hướng nghiên cứu về đặc điểm ca từ hát Xoan Phú Thọ (từ
góc độ Ngôn ngữ học).
Dựa trên cơ sở lí thuyết về Ngôn ngữ học (phân tích diễn ngôn; từ vựng
– ngữ nghĩa; biểu tượng ngôn ngữ) và Văn hóa học (mối quan hệ giữa ngôn
ngữ văn học với âm nhạc; nguyên tắc phổ nhạc trên cơ sở lời thơ; một số khái
niệm âm nhạc - văn học cơ bản và cơ sở thực tiễn (hát Xoan và các yếu tố liên
quan trong đời sống xã hội, văn hóa), luận án xác định hướng nghiên cứu là
tập trung vào các đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của ca từ hát Xoan.
2.Về hình thức, các bài hát Xoan Phú Thọ có kết cấu văn bản tương đối
chặt chẽ, đầy đủ và phù hợp với nội dung của từng chặng hát, từng bài, từng
đoạn. Các yếu tố hình thức như thể, vần, nhịp, tiết tấu và sự hòa phối thanh
điệu tuân theo những quy tắc chung: đúng luật là chủ yếu; sự phá cách hay
không tuân theo luật chỉ là thứ yếu. Những điều này đã làm nên sự hài hòa với
tính chất, nội dung của từng bài, từng chặng trong cả cuộc hát Xoan.
Các đặc điểm hát Xoan về mặt hình thức được xem xét trên bốn khía cạnh:
Một là kết cấu văn bản của hát Xoan: Kết cấu văn bản hát Xoan được
chia theo đoạn. Kết cấu đoạn trong hát Xoan được chia thành 3 loại: một
đoạn, hai đoạn và ba đoạn. Kết quả khảo sát cho thấy kết cấu ba đoạn chiếm
ưu thế (17/42 bài - 40,5 %) và chủ yếu là các bài hát Xoan thuộc chặng hai
(chặng hát Quả cách). Vậy, hình thức của kết cấu văn bản hát Xoan quy định
151
rõ nội dung của ca từ.
Hai là thể trong hát Xoan: Thể trong ca từ hát Xoan gồm: 4 tiếng và
biến thể, lục bát và biến thể, thất ngôn và biến thể, song thất lục bát và biến
thể và thể tự do. Thể thơ chiếm ưu thế hơn cả trong ca từ hát Xoan là thể lục
bát, 4 tiếng và thể thất ngôn. Thể lục bát được sử dụng nhiều ở các bài hát
thuộc chặng giao duyên. Thể 4 tiếng xuất hiện nhiều ở chặng hát thờ. Thể thất
ngôn chiếm ưu thế trong chặng hát quả cách.Hình thức của thể cũng liên quan
đến và phần nào quyết định nội dung của ca từ.
Ba là vần trong hát Xoan:Vần trong ca từ hát Xoan gồm các loại: vần
trong một khổ (vần chân, vần lưng, vần liền, vần cách, vần ôm, vần hỗn hợp) và
vần giữa các khổ thơ. Trong hai loại này chiếm ưu thế hơn là vần trong một khổ.
Vần trong một khổ thơ có vần chân, vần lưng và vần hỗn hợp có tần số xuất hiện
nhiều hơn cả và mang lại giá trị liên kết cũng như giá trị tu từ cao.
Bốn là nhịp và sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan: Nhịp trong ca từ hát Xoan có 2 loại: nhịp chẵn trong các câu thơ có số tiếng chẵn (4,6 hoặc 8 tiếng) và nhịp lẻ trong các câu thơ có số tiếng lẻ (5, 7 hoặc 9 tiếng). Sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan được chia làm 2 nhóm: nhóm các dòng có thanh điệu phối đúng luật BT (chiếm 57,3 %) và nhóm các dòng có thanh điệu phối không đúng luật BT (42,7 %). Nhóm các dòng có thanh điệu phối không đúng luật BT được phân xuất nhỏ hơn thành hai loại: nhóm các câu thơ có nhiều thanh B hơn và nhóm các câu thơ có nhiều thanh T hơn. Điều này cho thấy vần và nhịp không chỉ mang lại giá trị liên kết, giá trị tu từ mà còn là phương tiện hữu hiệu để biểu đạt nội dung ca từ, tạo nên phong cách ngôn ngữ đặc trưng của hát Xoan.
3. Đặc điểm ngữ nghĩa của ca từ trong hát Xoan được thể hiện trên ba
phương diện: đề tài gắn với hệ thống tiêu đề; các trường từ vựng; một số
biểu tượng ngôn ngữ. Cụ thể:
Thứ nhất là trong mối quan hệ với tiêu đề, ca từ hát Xoan được chia
thành 3 nhóm đề tài: “khẩn nguyện” và “tích xưa”; “lao động” và “giao
duyên”;“thiên nhiên”. Mạch triển khai đề tài trong ca từ Xoan được ghi nhận
theo 2 hướng: duy trì trong toàn bộ ca từ và được phát triển, mở rộng.
152
Thứ hai là ca từ trong hát Xoan được chia thành6 trường từ vựng cơ bản:
con người; thời gian; vũ trụ; thực vật; động vật và lễ hội. Trong mỗi trường lại
có thể gồm các tiểu trường. Trong đó, trường từ vựng “con người” trong hát
Xoan là trường từ vựng chiếm tần số lớn nhất. Năm trường từ vựng còn lại đều
xoay quanh trường trung tâm – trường“con người” nhằmnhắc đến qua lời ca
những khía cạnh quen thuộc của cuộc sống lao động, tín ngưỡng và đời sống
tinh thần của con người: con người thành kính trước nghi lễ tôn giáo, sống thuận
theo tự nhiên, siêng năng trong lao động, sản xuất và chừng mực, hi vọng tha
thiết trong tình yêu đôi lứa và gia đình. Các trường từ vựng này cũng cho thấy sự
tương ứng, phù hợp với nhan đề và đề tài của các bài hát Xoan.
Thứ ba là một số biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ hát Xoan: máiđình,
quả đúmvà bông hoa, cánh đồng và con cá.Đây là những biểu tượng ngôn
ngữ thể hiện bản sắc riêng của loại hình dân ca này. Các biểu tượng trên phần
lớn do tác giả dân gian sáng tạo ra trong một thế giới nghệ thuật nơi “cửa đình”
vào dịp hội làng mùa xuân, là nhằm hướng tới những khát vọng tâm linh: an hòa,
may mắn, hạnh phúc,… Đặc biệt, trên cơ sở kế thừa và sáng tạo ra các lớp nghĩa
mới, người xưa đã đưa các vật vô tri, vô giác như cũng trở nên những sinh thể
sống động, có linh hồn, tâm trạng, cảm xúc,…để chuyên chở những dòng tâm
trạng của nhân vật trữ tình. Không những thế, các biểu tượng này còn đại diện
cho những trăn trở, khát khao của biết bao thế hệ người dân.
Có thể nói đặc điểm ca từ trong hát Xoan là sự tổng hợp của tất cả những đặc
điểm về hình thức và ngữ nghĩa nêu trên. Các ca từ này đã góp phần hữu hiệu
trong việc diễn tả các nội dung nghi lễ, lao động và tình duyên của hát Xoan.
4.Hướng nghiên cứu của đề tài có thể vận dụng trong nghiên cứu ca từ
của các tác phẩm âm nhạc dân gian và hiện đại có lời khác của Việt Nam.
153
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Viết Á (2000), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, NXB Âm nhạc, H.
2. Dương Viết Á (2006), Âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hóa, NXB Âm
nhạc, H.
3. Trần Thị An (1990), “Về một phương diện nghệ thuật của ca dao tình
yêu”, Văn học số 6, tr 54- 59, H.
4. Đào Duy Anh (2001), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa -
Thông tin, H.
5. Nguyễn Trọng Ánh (2000), Âm nhạc Quan họ, NXB Âm nhạc, H.
6. Aristote(1999), Nghệ thuật thơ ca, NXB Văn học, H.
7. Diệp Quang Ban (2010), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo
dục, H.
8. Diệp Quang Ban (2011), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản,
NXB Giáo dục Việt Nam, H.
9. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, H.
10. Nguyễn Chí Bền (2012), Quan họ Bắc Ninh, NXB Văn hóa – thông tin, H.
11. Brown Gillian – George Yule (2002), Phân tích diễn ngôn (Trần Thuần
dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
12. Ngô Văn Cảnh (2003), Đặc trưng hình thức các thể thơ dân gian Nghệ
Tĩnh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.
13. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa – Thông tin, H.
14. Nguyễn Tài Cẩn (2001), Một số chứng tích ngôn ngữ, văn tự và văn hóa,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
15. Chafe. W. L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, (Nguyễn Văn Lai
dịch) NXB Giáo dục, H.
16. Nguyễn Thị Phương Châm (2013), Ngôn ngữ và thể thơ trong ca dao
người Việt ở Nam Bộ, NXB Thời đại, H.
17. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, H.
154
18. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2002), Đại cương ngôn ngữ học, tập 1, NXB
Giáo dục, H.
19. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học, tập 1, NXB Đại học Sư phạm, H.
20. Đỗ Hữu Châu (2006), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, NXB Giáo dục, H.
21. Nguyễn Văn Chiến (2004), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt,
NXB Khoa học xã hội, H.
22. Mai Ngọc Chừ (2005), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ
học, NXB Văn hóa – Thông tin, H.
23. Mai Ngọc Chừ (cb), Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh
Toán, (2004), Nhập môn ngôn ngữ học, NXB Giáo dục Việt Nam, H.
24. Nguyễn Đức Dân (1987), Logic – Ngữ nghĩa – Cú pháp, NXB Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, H.
25. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình nhìn từ góc độ loại hình,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐH Sư phạm Hà Nội, H.
26. Phan Huy Dũng (2001), “Nhận diện nhịp điệu trong thơ trữ tình”,Ngôn
ngữ số 3, tr. 13 – 16.
27. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, H.
28. Hữu Đạt (1996), “Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ và ca dao
(nhìn từ góc độ giao tiếp ngôn ngữ)”, Ngôn ngữ số 4, tr. 21 – 27, H.
29. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
truyền thống người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐH Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh, HCM.
30. Nguyễn Kim Đính (1985), “Một số vấn đề thi pháp của nghệ thuật ngôn
từ”, Văn học số 5+6, H.
31. Đinh Văn Đức (2012), Ngôn ngữ học đại cương: Những nội dung quan
yếu, NXB Giáo dục Việt Nam, H.
32. Tuấn Giang (2009), Tuyển chọn những làn điệu hay và đặc sắc Hát
Xoan, hát ghẹo, ả đào, chầu văn, NXB Thanh niên, H.
155
33. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, NXB ĐH Quốc gia
Hà Nội, H.
34. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm Ngôn ngữ học, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, H.
35. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới, NXB Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du.
36. Dương Bích Hà (1997), Lý Huế, NXB Âm nhạc, H.
37. Lê Bá Hán (Chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, H.
38. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2011), Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ Trịnh
Công Sơn, NXB Khoa học xã hội, H.
39. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2014), Hệ thống biểu tượng trong ca từ Trịnh
Công Sơn dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, Luận án Tiến sĩ, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội, H.
40. Nguyễn Đức Hạnh (2001), “Một số biểu tượng thơ dân gian trong thơ
Việt Nam hiện đại”, Văn học số 3, tr. 29 – tr. 34, H.
41. Vũ Xuân Hào (2013), “Nét Huế trong các ca từ về Huế”, Ngôn ngữ và
Đời sống số 6, tr. 19 – tr. 23,H.
42. Cao Xuân Hạo (2007), Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa, NXB Giáo dục Việt Nam, H.
43. Nguyễn Đỗ Hiệp (2012), Hát Đúm của người Việt ở Bắc Bộ, Luận án
Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, H.
44. Nguyễn Văn Hiệp (2012), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, NXB
Giáo dục Việt Nam, H.
45. Nguyễn Thị Mai Hoa (2010), Đặc điểm ngôn ngữ giới tính trong hát
phường vải Nghệ Tĩnh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học
156
Vinh,Nghệ An.
46. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2005), Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng
trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Khoa học
Ngữ văn, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, H.
47. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2006), “Tìm hiểu những nhân tố tác động tới
quá trình biến đổi ý nghĩa của biểu tượng trong ngôn ngữ nghệ thuật”,
Ngôn ngữ, số 10, H.
48. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2013), “Mối quan hệ giữa ý nghĩa bản thể và ý
nghĩa biểu trưng của các biểu tượng ngôn từ”, Từ điển học và Bách khoa
thư, số 2 (22) tháng 3, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, H.
49. Đỗ Thị Hòa (2002), “Vài nét biểu tượng hoa trong ca dao người Việt”,
Kỷ yếu Ngữ học trẻ, tr. 624 – 629, H.
50. Nguyễn Hòa (2008), Phân tích diễn ngôn, một số vấn đề lí luận và
phương pháp, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
51. Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận phong cách học, NXB Giáo dục, H.
52. Nguyễn Thái Hòa (2005), Từ điển tu từ - phong cách, thi pháp học, NXB
Giáo dục, H, 2005.
53. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam
(2003), Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 3, NXB Từ điển bách khoa, H.
54. Nguyễn Quang Hồng, Phan Diễm Phương (2017), Âm tiết tiếng Việt và
ngôn từ thi ca, NXB ĐH Quốc gia HN, H.
55. Nguyễn Quang Hồng (2018), Ngôn ngữ văn tự ngữ văn, NXB KH Xã
hội, H.
56. Trần Sĩ Huệ (2013), Thời gian trong ca dao, NXB Thanh niên, H.
57. Đỗ Việt Hùng (2004), Nguyễn Thị Ngân Hoa, Phân tích phong cách
ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, NXB Đại học Sư phạm, H.
58. Đỗ Việt Hùng (2014), Ngữ nghĩa họctừ bình diện hệ thống đến hoạt
động, NXB ĐH Sư phạm, H.
59. Hà Thị Quế Hương (2002), “Hàm ý biểu trưng của từ chỉ hoa và tên hoa
157
trong ca dao”, Kỷ yếu Ngữ học trẻ 2002, tr.632 – 636.
60. John Lyons (2006), Dẫn luận ngữ nghĩa học, (Nguyễn Văn Hiệp dịch),
NXB Giáo dục, H.
61. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ (2002), Từ điển văn hóa
dân gian, NXB Văn hóa – Thông tin, H.
62. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, NXB Đại học Quốc gia, H.
63. Đinh Trọng Lạc (2005), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt,
NXB Giáo dục, H.
64. Nguyễn Lai (1996), “Tìm hiểu sự chuyển hóa từ mã ngôn ngữ sang mã
hình tượng”, Ngôn ngữ số 3, tr. 40 – 45, H.
65. Bùi Thị Lân (2012), Đặc điểm hình thức – ngữ nghĩa thơ ca dân gian
Quảng Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.
66. Trần Bảo Lân (2013), Bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trường đại học Văn hóa, H.
67. Mã Giang Lân (2011), Những cấu trúc thơ, NXB Đại học Quốc gia, H.
68. Vũ Tự Lân (2015), Từ điển Âm nhạc, NXB Hà Nội, HN.
69. Nguyễn Thế Lịch (1998), “Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật”,
Ngôn ngữ, số 4, tr. 30 – 37, H.
70. Thụy Loan (2005), Âm nhạc cổ truyền Việt Nam, Nxb Đại học Sư Phạm, H.
71. Lê Đình Mai (2007), “Chữ Xuân trong ca dao người Việt”, Ngôn ngữ và
đời sống số 1+2, tr.38 - 43, H.
72. IU.M. Lot man (2007), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB Đại học
Quốc gia, H.
73. Nguyễn Đức Mậu (2003), Ca trù nhìn từ nhiều phía, NXB Văn hóa
Thông tin, H.
74. Phạm Phúc Minh (1994), Tìm hiểu dân ca Việt Nam, NXB Âm nhạc, H.
75. Hà Quang Năng (2001), “Đặc trưng của phép ẩn dụ trong ca dao”,Ngôn
ngữsố 15, tr. 42 – tr. 48, H.
158
76. Huyền Nga (2013), Cấu trúc dân ca người Việt, NXB Lao động, H.
77. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình người
Việt, NXB Khoa học xã hội, H.
78. Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa – văn học bằng ngôn ngữ học, NXB
Thanh niên, H.
79. Tú Ngọc (1994), Dân ca người Việt - thể loại và hình thức, NXB Âm
nhạc, H.
80. Tú Ngọc (1997), Hát Xoan dân ca nghi lễ phong tục, NXB Âm nhạc, H.
81. Bùi Mạnh Nhị (1998), “Thời gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ
tình”, Văn hóa, số 4, tr.30 – 36, H.
82. Nhiều tác giả (1994), Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Hát Xoan, Hát Ghẹo
Vĩnh Phú, Sở Văn hóa – Thông tin Vĩnh Phú, Việt Trì.
83. Nhiều tác giả (1986), Địa chí Vĩnh Phú – Văn hóa dân gian vùng đất tổ,
Sở VH &TT Vĩnh Phú, Việt Trì.
84. Nguyễn Thị Nhung (2007), Hình thức và thể loại âm nhạc, NXB Âm
nhạc, H.
85. Triều Nguyên (2013), Tìm hiểu các cách tu từ ngữ nghĩa được sử dụng
trong ca dao người Việt, NXB Văn hóa Thông tin, H.
86. Triều Nguyên (2013), Hát đối và hát đố trong sinh hoạt hò hát dân gian
người Việt, NXB Văn hóa Thông tin, H.
87. Nunan. D (1997), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn (Bản dịch của Hồ Mỹ
Huyền – Trúc Thanh. Hiệu đính: Diệp Quang Ban), NXB Giáo dục, H.
88. Đặng Thị Oanh (2012), Biểu tượng nước từ văn hóa đến văn học dân
gian của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn,
Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, H.
89. Lê Lưu Oanh (2011), Văn học và các loại hình nghệ thuật, NXB ĐH Sư
phạm, H.
159
90. Vũ Ngọc Phan (1997), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB Khoa học
xã hội, H
91. Lê Trường Phát (2006), Thi pháp văn học dân gian, NXB Giáo dục, H.
92. Hoàng Phê - chủ biên (2010), Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển Bách
khoa, H.
93. Phan Diễm Phương (1998), Lục bát và song thất lục bát, NXB Khoa học
xã hội, H.
94. Đào Đăng Phượng (2013), Hát Ghẹo Phú Thọ, Luận án Tiến sĩ Văn hóa
học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, H.
95. Lê Thị Phượng (2016), Nghiên cứu chức năng tác động trong thơ kháng chiến
1945 - 1975 từ phương diện truyền thông xã hội, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ
học, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐH QGHN, H.
96. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, H.
97. Đặng Thị Hảo Tâm (2010), Hành động ngôn từ gián tiếp và sự tri nhận,
NXB ĐH Sư phạm, H.
98. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, NXB
Khoa học xã hội, H.
99. Lý Toàn Thắng (2015), Thi luật thơ lục bát trong Truyện Kiều, NXB
Giáo dục Việt Nam, H.
100. Dương Huy Thiện (1994), Dân ca Vĩnh Phú, Hội VHNT Vĩnh Phú.
101. Dương Huy Thiện (2010), Phú Thọ - Miền đất cội nguồn, NXB Trẻ, HCM.
102. Dương Huy Thiện (2015), Hát Xoan – dân ca cội nguồn, NXB Khoa học
xã hội, H.
103. Ngô Đức Thịnh – Frank Proschan (Đồng chủ biên) (2005), Folklore thế
giới – một số công trình nghiên cứu cơ bản, NXB Khoa học xã hội, H.
104. Ngô Đức Thịnh – Frank Proschan (Đồng chủ biên) (2005), Folklore- một
số thuật ngữ đương đại, NXB Khoa học Xã hội, H.
105. Trịnh Hoài Thu (2014), Ảnh hưởng của âm nhạc dân gian trong tác
160
phẩm khí nhạc mới Việt Nam thế kỉ XX, NXB Âm nhạc, H.
106. Trần Văn Thục (chủ biên), Dương Bích Liên, Cao Văn Thịnh (2009),
Văn hóa, văn học dân gian Phú Thọ, Trường ĐH Hùng Vương, PT.
107. Cao Khắc Thùy (2011), Hát Xoan – Hát Ghẹo dấu ấn một chặng đường,
NXB Âm nhạc, H.
108. Nguyễn Thị Phương Thùy (2008), Nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ
thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX (trên tư liệu tập thơ của một số tác giả),
Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân
văn, ĐH QG HN, H.
109. Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mĩ học của cái khác, NXB Hội nhà văn, H.
110. Phạm Trọng Toàn (2007), Tương đồng và khác biệt giữa hát Xoan, hát
Ghẹo phú Thọ và Quan họ Bắc Ninh, Luận án Tiến sĩ Văn hóa dân gian,
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, H.
111. Bùi Minh Toán (2012), Ngôn ngữ với văn chương, NXB Giáo dục, H.
112. Hoàng Trinh (1992), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, NXB Khoa học xã
hội, H.
113. Lưu Trọng Tuấn (2009), “Ẩn dụ tình yêu trong thơ ca”,Ngôn ngữ số 10,
tr.23 – 28, H.
114. Trần Anh Tư (2017), Mối quan hệ giữa thanh điệu trong ca từ với giai
điệu của hát ví Nghệ Tĩnh, Luận án Tiến sĩ, Viện Hàn lâm KHXH Việt
Nam, H.
115. Viện Âm nhạc (2017), Tổng tập nghiên cứu về hát Xoan Phú Thọ, NXB
Văn hóa dân tộc, H.
116. Viện Ngôn ngữ học và Trung tâm từ điển học Việt Nam (2000), Từ điển
tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, H.
117. Nguyễn Khắc Xương (2008), Hát Xoan Phú Thọ, Hội VHNT Phú Thọ, P.
118. Nguyễn Khắc Xương (2013), Ví giao duyên nam nữ đối ca, NXB Văn
hóa Thông tin, H.
119. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
161
học, NXB Giáo dục, H.
120. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo
dục, H.
121. Yule George (2003), Dụng học – Một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ
(Bản dịch: Trúc Thanh), Nxb Đại học Quốc gia, H.
Các tài liệu tham khảo trên các trang web:
122. Lâm Đào An, Gắn việc bảo tồn Hát Xoan với tín ngưỡng thờ Hùng
Vương, www.vietnam.plus.vn.
123. Mai An, Về đất Tổ đắm đuối khúc hát Xoan, Website:tinmoi.vn.
124. Trần Quang Hải, Nét đặc sắc loại hình nghệ thuật Hát Xoan, Website:
www.tranquanghai.info.
125. Thúy Hạnh, Vinh danh khúc ca xuân, Website:www.tinmoi.vn.
126. Phạm Bá Khiêm, Hát Xoan Phú Thọ đang cán đích đại diện của nhân
loại, Website: www.svhttdl.phutho.gov
127. Trung Kiên, Phú Thọ đề nghị chuyển Hát Xoan thành di sản “đại diện
nhân loại”, Website:www.ngaynay.online.
128. Trần Kim Phượng, Những kết hợp bất thường trong ca từ Trịnh Công Sơn
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Ngonngu/tabid/100/newstab/807/Default.aspx
dưới góc độ ngữ pháp.
129. Trần Lê Túy Phượng, Dân ca, dân nhạc Việt Nam – Hát Xoan Phú Thọ,
Website:www.dotchuoinon.vn.
130. Vũ Trường Thành, Sức sống trường tồn của Hát Xoan, Website:
www.svhttdl.phutho.gov
131. Đặng Đình Thuận, Ý nghĩa nhân văn trong Hát Xoan Phú Thọ,Website:
www.svhttdl.phutho.gov.
132. Đặng Đình Thuận, Hát Xoan Phú Thọ - truyền thống và lịch sử,
Website:www.svhttdl.phutho.gov.
133. Việt Văn, Hát Xoan ở Phú Thọ, Website:www.vietnamtourism.com.
134. https://vi.wikipedia.org/wiki/Hátxoan
162
135. https://vi.wikipedia.org/wiki/lyric
136. www.vietnamtourism.com/disan/index.php?catid=37
137. https://vi.wikipedia.org/wiki/hatnoi
138. https://vi.wikipedia.org/wiki/hatngam
139. svhttdl.phutho.gov.vn/tin/tuyen-tap-26-bai-hat-xoan-co_252.html
140. https://wikipedia.org/wiki/Ca Xuong
141. dsvh.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=347&c=40
142. baicadicungnamthang.net/dan-ca/hat-xoan
143. https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%95_th%C6%A1.
144. https://cvlc.edu.vn/tin-tuc-su-kien/28-thanh-dieu-trong-tieng-viet
Các tài liệu tham khảo tiếng nước ngoài
145. Meeker Lauren (2013), Sounding Out Heritage: Cultural Politics and the
Social Practice of Quan ho Folk Song in Northern Vietnam (Southeast
Asia: Politics, Meaning, and Memory), University of Hawai Press
Honolulu.
146. Turpin M. & Stebbin T. (2010, Australian Journal of Linguistics), The
language of song: some recent approaches in Description and Analysis,
147. Vietnamese Institute for Musicology (2010), Proceedings international
scientific conference: Xoan Singing in Phú Thọ, Department of Culture,
Sports and Tourism in Phú Thọ province.
PHỤ LỤC
1PL
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH CÁC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THẺ DANH SÁCH CÁC DI S Ẻ CỦA VIỆT
NAM ĐƯỢC UNESCO VINH DANH NAM ĐƯ
2PL
PHỤ LỤC 2 TÊN CÁC BÀI HÁT XOAN TRONG DANH MỤC KHẢO SÁT
Stt Phần lễ Phần hội
Hát nhập tịch chào vua Trống quân đón đào 1
Hát chúc thành hoàng Trống quân Đức Bác 2
3 Giáo trống Thết trầu (trong Bợm gái – Hát gái)
Giáo pháo Đường đi trên suối dưới đầm (trong 4 Bợm gái)
5 Thơ nhang Trèo lên cây bưởi hái hoa (trong Bợm gái)
6 Đóng đám Giương cung bắn cò (trong Bỏ bộ)
7 Kiều giang cách Trồng bông luống đậu(trong Bỏ bộ)
8 Nhàn ngâm cách Cầu Bạch cầu Bông (trong Bỏ bộ)
9 Trường mai cách Dệt gấm thêu hoa(trong Bỏ bộ)
10 Xoan thời cách Xe chỉ , vá may (trong Bỏ bộ)
11 Hạ thời cách Xẻ ván bắc cầu (trong Bỏ bộ)
12 Thu thời cách Xin huê
13 Đông thời cách Đố chữ (Đố huê làn điệu hát như Đố chữ)
14 Ngư tiều canh mục cách Gài huê (Cài huê – Cài hoa)
15 Đối giãy cách Giã cá (Bắt cá, Mó cá, Đánh cá)
16. Tứ mùa cách Hát đúm
17 Hồi liên cách Hát ru
18 Tứ dân cách Hát lý
19 Chơi giâu xướng cách Phú năm canh
20 Mời rượu Phú Kiều
21 Phú Xích Bích
22 Bút huê thảo
3PL
PHỤ LỤC 3 BẢNG TÓM TẮT TRÌNH TỰ DIỄN XƯỚNG CUỘC HÁT XOAN
Stt Bài hát Người hát Người múa Ý nghĩa
Chặng một: hát thờ, hát nghênh thần
Trùm xoan 4 đào
Bài mở đầu mời thần linh về hưởng lễ và nghe hát thờ. 1. 2.
Hát nhập tịch chào vua Hát chúc thành hoàng
Bốn bài lề lối mở đầu cuộc hát
3. Giáo trống Đào
4. Giáo pháo Đào
5. Thơ nhang Đào
Kép cầm phách múa Kép cầm phách múa Kép, đào cùng múa
Có ý nghĩa là nổi trống, đốt pháo, dâng hương. Mang tính nghi thức, chứa nội dung tế thần, cầu chúc an khang, no đủ. Vào đám 6. Đóng đám Kép Đào
Chặng hai: hát các quả cách
7. Kép, đào Không có múa Mang nội dung và
14 quả cách (14 bài Xoan)
nghệ thuật Hán Nho, văn chương bác học
Chặng ba: hát hội (hát giao duyên)
Bỏ bộ
8. 9. Hát đúm
10. Xin huê – đố
Đào Đào và trai địa phương Đào Múa hát mang nội dung sinh hoạt, vui chơi. Tiễn thánh ra về
chữ Cài huê
11. Mó cá Kép Đào và trai địa phương Trùm Đào Kép Kép + Đào Đào
(Giã cá, Bắt cá, Đánh cá) 12. Hát giã đám Đào + kép Kép + đào
Thể hiện vật linh mang dấu ấn nông nghiệp Chia tay, hẹn ngày hội ngộ
4PL
Stt PHỤ LỤC 4 BẢNG THỐNG KÊ SỐ DÒNG, THỂ VÀ KHỔ TRONG TỪNG BÀI HÁT XOAN Thể Số dòng Tên bài
Khổ , Trổ hát
1 2 3 Hát nhập tịch chào vua Hát chúc thành hoàng Giáo trống 38 20 50 8 3 11
4 5 6 7 105 63 45 86 4 tiếng và biến thể 4 tiếng và biến thể Thất ngôn và biến thể 4 tiếng và biến thể 4 tiếng và biến thể 4 tiếng và biến thể 4 tiếng và biến thể 27 16 12 23
8 Giáo pháo Thơ nhang Đóng đám Kiều Giang (Dương) cách Nhàn ngâm cách 53 14
9 Trường mai cách 54 14
10 Xoan thời cách
(Mừng Xoan cách) 4 tiếng và lục bát biến thể Thất ngôn và biến thể Tự do Tự do
11 Hạ thời cách 12 Thu thời cách (Mừng Bản A : 50 Bản B: 72 100 64 Bản A: 12 Bản B: 18 28 17 Tự do Lục bát và biến thể
thu cách) 13 Đông thời cách 39 Tự do 10
(Đưa đông cách)
14 Ngư tiều canh mục 76 20
cách
15 Đối giãy cách 129 33
16 Tứ mùa cách 72 18
(Tứ đưa xoan cách) Thất ngôn và biến thể Thất ngôn và biến thể Song thất lục bát và biến thể
17 Hồi liên cách 41 11
18 Tứ dân cách 67 17
19 Thuyền chèo cách 40 Thất ngôn và biến thể Thất ngôn và biến thể Lục bát biến thể 10
5PL
20 Chơi giâu xướng cách 22 Trống quân đón đào 23 24 25 26 Bợm gái Bỏ Bộ Xin hoa – Đố chữ Hát đúm 52 26 93 39 116 207 14 7 24 10 30 52
27 Giã cá (Bắt cá, mó cá,
Đánh cá) 4 tiếng và lục bát Lục bát và biến thể Tự do Lục bát biến thể Tự do Song thất lục bát và biến thể Song thất lục bát và biến thể
28 Gài huê 29 Phú Kiều Bản A: 33 Bản B: 53 26 52 Bản A: 9 Bản B: 14 7 13
30 Bút huê thảo 28 7
31 Phú Xích Bích 13 5
32 Phú năm canh 32 8
33 Hát ru 34 Hát lý 35 Cầu Bạch cầu Bông 36 Xe chỉ vá may 37 Giương cung bắn cò 38 Xẻ ván bắc cầu 39 Đường đi trên suối 30 27 43 64 36 27 32 Lục bát và biến thể Thất ngôn và biến thể Thất ngôn và biến thể Thất ngôn và biến thể Thất ngôn và biến thể Lục bát Thất ngôn Tự do Lục bát và biến thể 4 tiếng và biến thể 4 tiếng và biến thể Lục bát và biến thể 8 8 11 26 9 7 8
dưới khe
52 40 Trèo lên cây bưởi hái Lục bát và biến thể 13
hoa
41 Trống quân Đức Bác 42 Mời rượu
Tổng số 48 34 2302 Lục bát và biến thể Lục bát và biến thể 12 17
6PL
PHỤ LỤC 5 MỘT SỐ CA TỪ CỔ, TỪ ĐỊA PHƯƠNG, CA TỪ CHƯA RÕ NGHĨA TRONG CÁC BÀI HÁT XOAN
Từ, cụm từ, câu hát Nội dung, ý nghĩa Bài hát
Stt 1 2 3 4
Giáo pháo
5 6 kích Sợ Thánh minh Trường thọ, sống lâu Một tiếng sấm nổ trên mặt đất đi Cầu mong do ngưỡng mộ
7 8
9
Nhái Thánh miêng Thọ tràng Chữ rằng: bình địa nhất thanh lôi Vòng võng cường Khang ngưỡng Khảng khái Hòa thăng Lưng tròn bằng ống, mặt phẳng bằng gương Tài anh hùng bền ngựa sắt đanh
10 Đôi chân quýp nhảy Cứng cổ Tiếng đệm Lưng tròn, mặt phẳng (ý nói người béo tốt) Người anh hùng phải có tài phi ngựa Đi khắp thiên hạ
Giáo trống qua thiên hạ 11 Đôi tay niệm bộ 12 Đỗ sinh đồ khang 13 Ba mươi Cổ Tích
14 Chạ 15 Bên vông 16 Bên tầm 17 Trống tràng
18 Cày bừa ruộng Lê 19 Nhang hoa mùi nhục 20 Trúc hoa vi long 21 Càng dầy 22 Hàn lâm đông các Chắp tay vái lễ Thi đỗ Trạng nguyên Ba mươi con gái đẹp làng Cổ Tích, nơi có đền thờ vua Hùng làng Tay trái Tay phải Khi hát xong giáo trống, người ra giáo trống lấy hai tay đập vào trống cơm liên hồi để bỏ trống ra khỏi người. Ý nói ruộng nhà Lê ban cho Nơi thờ Cây trúc hình con rồng Nhiều Các chức quan về hàng văn Thơ nhang Đóng đám
7PL
23 phủ triều
Trưởng đường
24 Đào dẫy 25 Tiên thiều Nhàn ngâm cách
26 Phù tang
27 Song lôi 28 Ngọc cù
29 Nam Sơn
30 Vật ngang 31 Chuốc 32 Bỏ lưới 33 Tứ túc nhà no
Ngư tiều canh mục cách như: Hàn lâm học sĩ, Đông các học sĩ,… Các chức quan về hàng võ như: quan Trưởng phủ sự, … Đào dậy lên Khúc nhạc múa ở thời vua Thuấn, một thời thịnh trị ở Trung Quốc. Cây dâu lớn mọc ở bãi bể cực đông, người xưa cho đó là nơi mặt trời mọc. Cũng là một hoán dụ cho đất nước Nhật Bản (về sau). Cây mai Con đường ngọc, đường tiện đi Tên núi có đền thờ vua Hùng ở làng Cổ Tích. Có bản chép là Lâm San Bắt ngang Đưa, mua Bủa lưới Bốn nhà no đủ. Bốn nhà ở đây là Ngư, Tiều, Canh, Mục Gương – mặt nước 34 Nhang biên, giang biên
Hương biên 35 Nhơn nhởn 36 Nghiệp trọng 37 Giói nói 38 En én 39 Khóng khảy 40 Tết nhậm nhuần
41 Đại hải long chu 42 Đầu rồng đuôi phượng gấm cù tiên bay
Đối giãy cách Vui vẻ Nghiệp lớn Nhông nhốc Ren rén Dóng dảy Nguyên tiêu, Tết rằm tháng giêng Thuyền rồng đi bể Đầu rồng, đuôi phượng trông như một miếng vải gấm. Đầy 43 Dặm
8PL
Thái tạo, thái cô
Thổi Kho Đựng thóc Tên một thứ lúa nếp Đời xửa, đời xưa Ông vua đầu tiên đi Xen vào Gió dập dềnh xuôi
thời
Xoan cách
Thương 44 45 lãm 46 Nếp thông 47 48 Đế Nguyên Sỡi 49 50 Làm dặm 51 Gió lụy 52 53 Vào chùa thượng uyển Vào chùa dâng oản 54 Rừng rực Tơi tỏ 55 đòi 56 57 kíp 58 Giai cù 59 Điệu hoang 60 Vạn tử 61 Giai quần – gieo còn
Hạ thời cách Đỏ rực Tốt rộ mong Vội Đường cái Dạo quanh Vạn tía Ném quả còn – một trò chơi vào mùa xuân ở miền núi. Ngày dài Bướm Tên loài chim Bố Cốc Bình minh Mọi nơi, mọi chốn
Thu thời cách
Thóc, lõi
thời
đông
Đông cách (Đưa cách)
Trăng câu
62 Ngày rầy 63 Điệp 64 Bố 65 Bằng minh 66 Đòi thuở, mọi sở 67 Đỗ cần khúc nam huân Một khúc hát của vua Thuấn 68 Phong đình 69 Chỉ lau 70 Chật nội 71 Cửu 72 Chớ đôi 73 Danh thân 74 75 Giang khê 76 Cầm đõ 77 Hàn châm 78 Đề âm 79 Chẳng nhắp 80 81 Để Bức bình phong Cây lau ở bến nước Đồng nội ắt, chắc chắn Học đòi Vinh quy Lụa Sông, suối, khe Cám dỗ Hòn đá để giặt áo Dế ngâm Chẳng ngủ Ngắm trăng dây
9PL
82 Mân hoàng 83 Bến Dương 84 Gặp 85 Ngọc tinh
86 Đào tiên vương mẫu
Tứ mùa cách
87 Giải uốn 88 Dậm 89 Dậm bác lộc 90 Mây dong 91 Tô hợp
Tha la
92 93 Dậm cung bóng quế tha
đà Thái Thượng Hoàng Toàn no
Thuyền chèo cách (Hò đò cách) 94 95 96 Vui cười tương liên 97 Trời xanh Bến sông Ngân Hà Kịp Giếng ngọc Có thể là tên xóm Ngọc Tỉnh (thuộc xã Cao Mại, huyện Lâm Thao). Bà tiên Tây Vương Mẫu có cây đào tiên cứ ba năm ra hoa một lần, 9 năm mới đậu thành quả. Ăn quả đâò này sẽ được trường sinh bất lão. Giải nỗi buồn bực Vọng Đường cái xa xôi Mây kéo Thứ hương làm bằng nhiều chất hợp lại với nhau. La đà Bóng trăng đã tỏa khắp khu vườn Chỉ vua Lê Lợi Đầy đủ hoàn toàn Vui mừng liên tiếp Bẻ ra này một khúc chầu vua
Lại trở ra rầy một lúc mừng vua Long châu 98 Thuyền rồng
99 Vũ thuận phong điều Mưa thuận gió hòa Tứ dân cách Vũ cốc phong đăng
100 Đăng quang 101 Phù lôi
102 Tướng bụt 103 Chùa Giâu
giâu
Chơi xướng cách
104 Đôi cánh 105 Cấm nhau 106 bay thưa 107 Sáng suốt Hội Phù Lôi – gần xã Kim Đức, thành phố Việt Trì. Tướng cờ ở xã Kim Đức, nơi vua Hùng nghỉ chân. Đôi tay Ngắm nhau mây Đứt
10PL
Bỏ bộ
Bợm gái 108 Rở tục cù du 109 Nhác mắt 110 mong 111 Quan trào 112 Lưng đai 113 Tòng nạp 114 Lọt đồng hồ 115 Cầu muống 116 Cầu dền 117 Đôi tay vo áo 118 Đồng cân 119 Thết 120 Tồn 121 Niệm cung 122 Đỉnh đang 123 Trực tiết 124 Thần nông thần lực
125 Song tuyền 126 Tích tôn 127 Mùi tui 128 Thanh hao 129 Dấp dong
130 Động tâm tuất cập 131 Thơ thập thủ 131 Khinh cụ 132 Bởi anh xưa dòng ối ả
Kim Liên
Phú Kiều 133 Từ tạ rồi cáo các tan
hang (?)
134 Chắp mục thư hiên
134 Thung huyên 135 Một châu phiên với một Điều to tiếng nhỏ Liếc mắt Mỏng Quan triều Thắt lưng ngang Nhồi thuốc súng Ném đồng tiền hồ Rau muống Rau dền Sửa lại áo Mũ của vua đội đãi toàn Chắp tay vái lạy Sang trọng Không lấy hai đời chồng Ăn ở phúc hậu nên con cháu đều nên người Đầy đủ, vẹn toàn Phúc đức Rau mùi Rau hanh hao, thì là Chắn lối, dấp lối đi bằng cành dong. Động lòng thương xót 10 bài thơ tứ tuyệt Ngậm ngùi Giống như “tình trong như đã mặt ngoài còn e” (Truyện Kiều -Nguyễn Du) Giống như “Khách đà lên ngựa người còn ghé theo” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) Kim Trọng hàng ngày ra vườn, ra hiên nhà để ngóng Thúy Kiều. Cha mẹ Chỉ sự xa cách
ngân hà
11PL
135 Chường Đông Phương Bút huê thảo Sóc
136 Giao lưu cầu kề mình
Xích
năm
Phú Bích Phú canh
sánh vậc (?) 137 Phụ thường 138 Lịch San 139 Nhóm lửa thư trai 140 Ba đào 141 Trần lao 142 Khác khỏe 143 Đào tiên 144 Kỳ viên 145 Lữu bồ
Chàng Đông Phương Sóc – ông Thọ trong bộ Tam đa. Nằm cạnh nhau đến khi trời gần sáng. Phụ nghĩa Núi Lịch Chong đèn đọc sách, học bài Dâu bể Gian nan, khó nhọc Chắc khỏe, sẽ khỏe Cô đào Vườn đẹp Hữu Bổ: thuộc thôn Hữu Bổ, xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao thờ Đinh Công Tuấn, nơi phường Xoan Kim Đức thường đến hát. Sống lâu
Hát đúm Giã cá
146 Thọ vực 147 Tương phùng ngư thủy Như cá gặp nước Vui vẻ, long trọng 148 Long phiến linh đình Dáng phúc 149 Dáng phước Ăn gỏi cá 150 Gỏi tươi Cá Anh Vũ, một loại cá 151 Cá vũ không xương, sống nhiều ở ngã ba sông Bạch Hạc, Việt Trì, nổi tiếng là loại cá thơm, ngon và quý hiếm.
12PL
PHỤ LỤC 6 CA TỪ, VẦN, NHỊP VÀ SỰ HÒA PHỐI THANH ĐIỆU TRONG MỘT SỐ BÀI HÁT XOAN PHÚ THỌ
1. HÁT CHÚC THÀNH HOÀNG
Stt Ca từ 1 Nhập tịch chào vua nẻo trước Nhịp 2/2/2 Hài thanh B - T - B
2 Vò nước nén nhang 2/2 T - B
3 Rầm rập bốn phương 2/2 T - B
4 Mới rước vua lên thượng vì 2/2/2 T - B - B
5 Thần kỳ linh thính 2/2 B - T
6 7 Vua mặc mã hoa Rước vua lên thượng sàng 2/2 2/3 T - B B - T
8 Hộp nhang dâng đến 2/2 B - T
9 Vua xá hiến chơi 2/2 T - B
10 Có ván cơm xôi 1/2/1 T - B
11 Với ba cỗ thờ 1/1/2 B - B
12 Thịt gà nấu chín 2/2 B - T
13 Vua xá hiến chơi 2/2 T - B
14 No đủ ba tuần 2/2 T - B
2/2/3 15 Tiệc này giả tiệc đức Đại vương B – T - B
2/2/2 16 Hộp trầu vò nước nén nhang B – T - B
17 Của tôi thành kính dâng vua ngự trên 2/2/2/4 B – T - B
linh sàng
18 Vạn thần tất hưởng 2/2 B - T
19 Tôi mời vua cả 2/2 B - T
20 Người sang đất này 2/2 B - B
13PL
2. GIÁO TRỐNG
Stt Ca từ Hài thanh Nhịp
1 1/3/2 T – B - T Tôi bước chân vào giáo trống
2 Tìm đền Thượng chúc cho minh 1/2/3 B – T - B
3 Năm trống cơm thiên hạ thái bình 1/2/2/2 T – B - T
4 1/2/2/2 T – T - B Năm trống cơm mọi nhà no đủ
5 1/2/2/2 T – T - T Năm trống cơm mọi nhẽ mọi hay,
6 Được mùa hòa thănglấy cơm bưng trống 2/2/4 B – B - B
7 Lưng tròn bằng ống, mặt phẳng bằng gương 4/4 B – T - T
8 Tài anh hùng bền ngựa sắt đanh 3/2/2 B – B - T
9 Oai quân tử dâng lên sấm động 3/2/2 B – B - T
10 Thùng thùng mà đóng trống chầu 2/2/2 B – T - B
11 Đôi chân quýt nhẩy qua thiên hạ 2/2/3 B – T - B
12 Ngày thảnh thơi, già trẻ nhởn nhơ 3/2/2 T – B - T
13 Đêm thanh vắng, gái trai tơ tưởng 3/2/2 B – T - B
14 Vậy trống tôi chúc rằng 1/2/2 T - T
15 Đức chúa mở rộng độ lượng đôi bên. 2/2/4 T – T - T
16 Nhơn nhởn bước chân đôi tay niệm bộ 4/4 T – B - B
17 Ông nào chửa biết chữ 2/3 B - T
18 Nghe tiếng trống tôi, đỗ sinh đồ khang 4/4 T – B - B
19 Ông nào chửa được làm quan 2/2/2 B – T - B
20 Nghe tiếng trống tôi, vua yêu, chúa dấu 4/2/2 T – B - B
21 Ba mươi, cổ Tích 2/2 B - T
22 Trống đã bầy ra 2/2 T - B
23 Trống tôi đánh chầy 2/2 B - B
24 Mọi hồi mọi được 2/2 B - T
25 Trống tôi đánh trước 2/2 B - T
26 Giặc phải rẽ ngang 1/1/2 T - B
14PL
Stt Ca từ Nhịp Hài thanh
27 Cha con xứ Loan 2/2 B - B
28 Tìm về kẻ chợ 2/2 B - T
29 Kìa nước Nam ta 1/2/1 T - B
30 Tiến ngự ngai vàng 1/1/2 T - B
31 Mừng sĩ chạ ta. 1/1/2 T - B
32 Thăng quan tiến chức 2/2 B - T
33 Tiến tài tiến lộc, 2/2 B - T
34 Tiến linh tiến khang 2/2 B - B
35 Đôi chữ tràng sinh 2/2 T - B
36 Rước về cho chạ 2/2 B - T
37 Vào đám phải thì, 2/2 T - B
38 Lẳng lặng đêm khuya 2/2 T - B
39 Nghe tôi giáo trống 1/1/2 B - T
40 Vậy có thơ trống rằng: 1/1/2/1 T - T
4/2/2 41 Trống này be bé mà vẽ rỗng vàng. B – T - T
2/2/2 42 Đôi tay nâng giữa đám làng B – T - B
43 Trống tôi vỗ bên vông 1/2/2 B - B
44 Thờ vua thờ chúa 2/2 B - T
45 Trống tôi vỗ bên tầm 1/2/2 B - B
46 Thờ đức đại vương 1/3 T - B
47 Trống tôi vỗ bên vông, 1/2/2 B - B
48 Vua về tọa vị 1/1/2 B - T
49 Trống tôi vỗ bên tầm 1/2/2 B - B
50 Chúa ngự ngai vàng 1/3 T - B
51 Trống phỗng trống tràng 2/2 B - B
52 Khoan khoan múa nhịp 2/2 B - T
15PL
3. GIÁO PHÁO
Ca từ Trống tiệc mở đường Pháo sau nghiêm đám Be bé mà có tài làm dáng (pháo)
Chữ rằng bình địa đệ nhất thanh lôi
pháo mừng làng nước
(Năm mười hai tháng)2
(Cho ngựa vòng võng)
(Tôi nhớ (là) niêm ngoái)2
Stt 1 2 3 4 Hồ phất giấy, đôi bìa làm pháo 5 6 Đệ tam thời chẩy quan thiên hạ 7 Ngày thanh thời già trẻ nhởn nhơ 8 Đêm thanh vắng gái trai tơ tưởng 9 10 Dạy người đã được 11 Con phượng con rồng 12 Trai thời quận công 13 Gái thời công chúa. 14 Giầu thóc giầu lúa 15 Giầu bạc giầu tiền 16 Của cải thiên nhiên 17 Chữ phú chữ quý 18 Chữ thọ chữ san 19 20 Ở trong giữa nhà 21 Mới bước chân ra 22 23 Nhà thời đôi công 24 Đôi cái chèo lên (Công đường ở giữa) 25 26 (Trong sách có chữ) 27 Phú quý phong lưu 28 Ông này đà ưa 29 Cho luyện đà nhái 30 31 Con người đi thi Nhịp 2/2 2/2 2/2/3 3/2/2 2/4/2 2/2/3 2/3/2 3/2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/2/1 2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 Hài thanh T - B B - T T – T - B T – B - B B – T - T B – T - B B – B - T B – T - B B - T B - T T - B B - B B - T T - T T - B T - B T - T T - B B - T B - B T - B T - T B - B T - B B - T T - T T - B B - B T - T T - T B - B
16PL
Thuận lòng trời
Thuận lòng trời.
Ca từ Stt (Ba khoa đi thi)2 32 (Ba trai đỗ cống)2. 33 34 (Cô nào còn trẻ)2 35 Dài tóc răng đen 36 Cho múa hội tiên 37 Vậy có thơ pháo rằng. 38 Một năm mới tới một tháng xuân 39 Chẳng hội nào hơn hội vui này 40 Ai có hồng nhan vào chơi lầy 41 Kẻo mười ba tuổi sang cống hội quân. 42 Là tầm vông tập 43 Vông vông tầm vông 44 Đệ nhất pháo mừng tuổi vua 45 chăm chắm là ngựa hồng lô 46 Bát man là giai tảo công 47 48 Tứ di 49 Di phụ độ 50 Dân thời 51 Khang cường kích ngưỡng 52 53 Việt – Nam 54 Dắt ngựa lên tầu 55 Đức văn Nam dân thời 56 Khang cường kích ngưỡng 57 58 Việt – Nam 59 Dắt ngựa lên tầu 60 Đức văn đức võ 61 Vào yêu vào chầu 62 Tống hộ. 63 Ba tiếng để đâu 64 Chúc chúc Nhịp 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/1 3/1/3 3/1/3 2/2/3 1/3/2/2 1/2/1 2/2 2/2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/2 1/2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 Hài thanh B - B B - T B - T T - B T - B T - T B – T - T T – B - B T – B - B B – T - T B - T B - B T – B - B T – T - B B - B B - T T - B B - B B - T T - B B - T B - B T - B
17PL
Ca từ Thánh miêng thọ tràng Là chúa Ngọc Hoàng
Là núi Việt – Nam Lưu hỏa lưu hầu (?) Là tôi đức chúa Là tào thiên hạ
Là núi Việt – Nam Lưu hỏa lưu hầu (?) Là tôi đức chúa Là tào thiên hạ
Stt 65 66 67 Con vua khảng khái Là tầm giở lại 68 69 Nhà tôi nhà Lê 70 Là song bồ Đề 71 Nhớ về thiên hạ 72 73 74 75 76 Con cái hồng mao 77 Vua sang nước Lào. 78 Vua sang tiến cống là tầm vông tập 79 80 Vông vông tầm vông 81 Là tầm giở lại 82 Nhà tôi nhà Lê 83 Là song bồ đề 84 Nhớ về thiên hạ 85 86 87 88 89 Con cái hồng mao 90 Vua sang nước Lào. 91 Vua sang tiến cống? 92 là tầm vông tập 93 Vông vông tầm vông 94 Vông vông tầm vông 95 Đệ tam pháo mừng chúa ông 96 Đã nên đấng, lại anh hùng 97 Là đã dẹp hết Nhịp 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/2 3/3 2/2 Hài thanh B - B T - B B - T B - T B - B B - B B - T T - B T - B B - T B - T T - B B - B B - T B - T B - B B - T B - B B - B B - T T - B T - B B - T B - T T - B B - B B - T B - T B - B B - B B – B - B B – T - B T - T
18PL
Stt Ca từ
98 Đông tây nam bắc. 99 Lá thu đã về 100 Dẹp bắc đánh đông 101 Dẹp bắc đánh đông 102 Là rầy chẳng phải 103 Việc quan gì nữa. 104 Là ngồi bàn loan (?) 105 Đánh chén vuốt râu 106 Là tầm vông tập 107 Vông vông tầm vông 108 Đệ tứ pháo mừng hàng phe 109 Người ra đứng lại mà nghe 110 Người ngồi 111 Hể hả đánh chén. là tầm vông tập 112 113 Vông vông tầm vông 114 Cơm cha áo mẹ 115 Già giã hội này 116 kép học cho hay 117 Vào yêu vào chầu 118 Nhà vua 119 Cày bừa ruộng Lê 120 Là cứ lăm le 121 Kinh sử dùi mài 122 Là học cho hay 123 Hà thăng hà thái Nhịp 1/1/1/1 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/2/1 2/2 2/2/2 2/2/2 2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 Hài thanh B - T B - B T - B T - B B - T B - T B - B T - B B - T B - B T – B - B B – T - B T - T B – T B - B B - T T - B T - B B - B B - B T - B T - B T - B B - T
19PL
4. THƠ NHANG
Stt Ca từ
1 Kính lạy chiềng làng 2 Nghe tôi thơ nhang 3 Mà cho biết ý 4 Nhang này nhang thịnh 5 Vỏ quế có thơm Lấy nhang làm trước 6 7 Nhang hoa mùi nhục Lấy nhạc làm thơ 8 Trước tôi đọc thơ. 9 10 Sau tôi múa nhạc 11 Chúc thánh mừng vua 12 Chùm phượng hoàng ơ. 13 Hai hàng đại thánh 14 Mới mời chưa lên. 15 Ôi là nhạc võ 16 Đại vương giáng phước 17 Tôi chúc làng nước 18 Lại được bình an 19 Ớ vậy 20 Sêu rằng 21 Ngũ để tam cương Thuở đời nhà Hàn 22 23 Thuở đời nhà Hán 24 Quần dài áo ngắn 25 Nhởn nhơ mà ca 26 Tiến của họ ta. 27 Tới nay họ được 28 Đào thời đứng trước 29 Cất tiếng mừng vua 30 Quan sắp bây giờ 31 Sáo ngang kèn thổi. 32 Tâu vua muôn thuở 33 Vậy có thơ nhang rằng: 34 Nhang này chính thực nhang thơm lừng 35 Dân ta nay rước lấy sắc rồng Nhịp 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/1 2/2/3 3/2/2 Hài thanh T - B B - B B - T B - T T - B B - T B - T T - B B - B B - T T - B T - B B - T B - B B - T B - T T - T T - B T - B B - B B - T B - T T - B T - B B - T B - T T - B T - B B - T B - T T - B B – T - B B – T - T
20PL
Đốt thờ đại vương
(Ôi là) dòng chảy thấy nhang
(Ôi là) chuông đóng non dài (Thanh hải thanh hài)
Stt Ca từ 36 Văn thái hư, thái bảo, thái đề 37 Võ tư đồ, tư mã, tư chiêng. 38 Ơ vậy 39 Sêu 40 Đêm (hời là) đông 41 Nghe một tiếng chầy 42 Đỉnh là đỉnh đang 43 Tiếng khoan tiếng nhặt. 44 Nhạc vàng ròn rã 45 Thiếp tới đòn trường 46 Ta sẽ đưa nhang 47 Ren rén tay vàng 48 Sắp một tuần nhang 49 Đưa lên mà đốt 50 51 Chữ rằng nhất niệm tam khôi 52 Văn võ chạ này 53 Cho đẹp đế vương 54 Ớ vậy 55 Sêu 56 Dâng nhang đã đến án tiền. 57 Mừng làng ta đây 58 Phú quý thiên nhiên 59 Đào tôi dẫn lên 60 Đào tôi dở xuống 61 Dâng lên đại vương. 62 63 Thấy nhang từ nay 64 Chuông đóng non dài 65 66 67 Sầu rõi bên tai. 68 Bên tai cung diện 69 Nghênh ngang gà lượn đầy sân 70 Huê quân huê quân 71 Huê nở mùa xuân 72 Ta chơi một thì Nhịp 3/2/2 3/2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/3 2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/2 Hài thanh T – T - T B – T - B B - B T - B B - B B - T B - T T - B T- B T - B T - B B - T B - B B – T - B T - B T - B B – T - B B - B T - B B - B B - T B - B T - B B - B T - B T - B T - B T - B B - T B – T - B B - B T - B B - B
21PL
5. ĐÓNG ĐÁM
Stt Ca từ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 Ngắt nhịp 2/2 2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 3/2/2 2/2 Hài thanh B - T T - B T - B B - T B - B B - T B - B T - B B - T T - B T - B B - T T - B T – B - B T - B
22 2/2/2/2 B – T - T
Làng đây đóng đám, Nổi tiệc quan sang Văn áo vàng Võ áo đỏ Sống (hỡi là) lâu Võ đi đánh giặc Hỡi cung hỡi hầu Lấy ngôi đề đốc Đỗ đầu trạng nguyên Huê táo huê lan. Nổi người hào kiệt Văn võ chạ này Cho đẹp đế vương. Ơ vậy Sêu Làng đây đóng đám Đã dậy tứ phương Văn áo vàng Võ áo đỏ ở đất này càng thêm khang thịnh tôi chúc cho đào dẫn nhang đóng đám cho thịnh nhà đời. Mừng bề trên, chúc bề trên, Vua trên thượng thọ, (Tình tình tang tang tính tình tang) Dân ta hưng thịnh Khóa ba khóa bốn Khóa năm ông nghè Dân ta thi đỗ Đỗ bốn ông nghè 23 24 25 26 27 28 29 30 3/3 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 B – T - B B - T B - T B - T B - B B - T T - B
22PL
Hài thanh B - B B – T - B B - T B – T - B T - B B - B T - B B – T - B B - T B - B B - B B - B
Rước về dân ta Hội minh loan, thánh minh loan Nhà vàng tiệc ngọc Dân ta đàn hát xướng ca Đức thánh phù hộ Đỗ ba khoa liền Đứng dưới vườn hồng Lẳng lơ đứng dưới vười hồng Gió rung cành trúc Cho lòng người thương Người thương kia là Nay ngồi trong nhà Kình quan viên nay ngồi thong thả B – B- B
Hỡi, lá ngô ai nhuốm, nên vàng… Ngắt nhịp 2/2 3/3 2/2 2/2/2 2/2 1/2/1 2/2 2/2/2 2/2 1/2/1 2/2 1/2/1 3/2/2 3/2/2 1/4/2 B – T - B T – B - B
Stt Ca từ 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 Mụ quần hồng áo vải xênh xang 45 6. THƠ NHANG
Stt Ca từ
1 Kính lạy chiềng làng 2 Nghe tôi thơ nhang 3 Mà cho biết ý 4 Nhang này nhang thịnh 5 Vỏ quế có thơm 6 Lấy nhang làm trước 7 Nhang hoa mùi nhục Lấy nhạc làm thơ 8 9 Trước tôi đọc thơ. 10 Sau tôi múa nhạc 11 Chúc thánh mừng vua 12 Chùm phượng hoàng ơ. 13 Hai hán đại thánh 14 Mói mời chưa lên. Nhịp 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/3 1/3 2/2 1/2/1 2/2 2/2 Hài thanh T - B B - B B - T B - T T - B B - T B - T T - B B - T B - T T - B T - B T - T B - B
23PL
Stt Ca từ 15 Ôi là nhạc võ 16 Đại vương giáng phước 17 Tôi chúc làng nước 18 Lại được bình an 19 Ớ vậy 20 Sêu rằng 21 Ngũ để tam cương. 22 Thủơ đời nhà Hàn 23 Thủơ đời nhà Hán 24 Quần dài áo ngắn 25 Nhởn nhơ mà ca 26 Tiến của họ ta. 27 Tới nay họ được 28 Đào thời đứng trước 29 Cất tiếng mừng vua 30 Quan sắp bây giờ 31 Sáo ngang kèn thổi. 32 Tâu vua muôn thuở 33 Vậy có thơ nhang rằng: Nhịp 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/1 Hài thanh B - T B - T T - T T - B T - B B - B B - T B - T B - B T - B B - T B - T T - B T - B B - T B - T T - B
34 2/2/3 B – T – B Nhang này chính thực nhang thơm lừng
Đêm (hời là) đông
35 Dân ta nay rước lấy sắc rồng 36 Văn thái hư, thái bảo, thái đề 37 Võ tư đồ, tư mã, tư chiêng. 38 Ơ vậy 39 Sêu 40 41 Nghe một tiếng chầy 42 Đỉnh là đỉnh đang 43 Tiếng khoan tiếng nhặt. 44 Nhạc vàng ròn rã 45 Thiếp tới đòn trường 3/2/2 3/2/2 3/2/2 1/2/1 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2 B – T - T T – T - T B – T - B B - B T - B B - B B - T B - T T - B
24PL
(Ôi là) dòng chảy thấy nhang
(Ôi là) chuông đóng non dài (Thanh hải thanh hài)
(Huê quân huê quân)
Stt Ca từ 46 Ta sẽ đưa nhang 47 Ren rén tay vàng 48 Sắp một tuần nhang 49 Đưa lên mà đốt 50 Đốt thờ đại vương 51 Chữ rằng nhất niệm tam khôi 52 Văn võ chạ này 53 Cho đẹp đế vương 54 Ớ vậy 55 Sêu 56 Dâng nhang đã đến án tiền. 57 Mừng làng ta đây 58 Phú quý thiên nhiên 59 Đào tôi dẫn lên 60 Đào tôi dở xuống 61 Dâng lên đại vương. 62 63 Thấy nhang từ nay 64 Chuông đóng non dài 65 66 67 Sầu rõi bên tai. 68 Bên tai cung diện 69 Nghênh ngang gà lượn đầy sân 70 71 Huê nở mùa xuân 72 Ta chơi một thì 73 Thấy nhang từ nay Nhịp 2/2 2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 Hài thanh T - B T - B T - B B - T T - B B – T - B T - B T - B B – T - B B - B T - B B - B B- T B - B T - B B – B T – B T - B T - B T - B B - T B – T - B B - B T - B B - B B - B
25PL
7. KIỀU GIANG CÁCH
Stt Ca từ
Lẳng lặng nghe tôi giáo Kiều giang một cách Bia truyền cổ tích Có con gái lành
(Mới lại) sinh (ra) được một con (gái)
1 Kính lại chiềng làng 2 Điểm trồng gia tang 3 4 5 6 7 Đi chơi một mình 8 Đến chưng quán ấy Náng ấy, thấy vậy. 9 10 Cầm lấy đôi sênh 11 Ngân nga một mình 12 Ca bằng tiếng dế. 13 Nhớ xưa: Vua Hán Vũ Đế 14 15 Mền mại nết na 16 Đến năm mười ba 17 Thanh tân dóng dảy 18 Đến năm mười bẩy 19 Đi chơi đến quán tương lương 20 Bẻ lén dát giường 21 Mà ca tam bộ 22 Gọi là ba bước 23 Vua cha mừng được 24 Nàng ấy tốt thay (Vậy) vua cha phải bệnh 25 ở trong cung này 26 27 Đòi nàng ấy vào 28 Vua cha coi thấy 29 Tức thời lại đỡ. 30 Lại được trị vì thiên hạ 31 Tám mươi tám năm 32 Vua cha mừng thầm 33 Hơn nàng tiên nữ Nhịp 2/2 2/2 2/3 2/2 2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/4 2/2/1/3 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2/2 3/1 2/2 1/3 Hài thanh T - B B - B T - B B - T B - T B - B B - B B – T T - T T - B B - B B - T B - T - T T – B - T T - B B - B B - T B - T B –T - B T - B B - T B - T B - T T - B B - T B - B B - B B - T B - T T – B - T B - B B - B B - T
26PL
Stt Ca từ
34 Tiềng than tiếng thở. 35 Hớn hở Hằng Nga 36 Chuốc tiếng ngân nga 37 Vậy có thơ Kiều Giang cách 38 Vậy có thơ Kiều Giang rằng: Nhịp 2/2 2/2 2/2 1/2/3 1/2/3 Hài thanh B - T T - B T - B T – B - T T – B - B
39 2/3/3 B – T - T
40 2/2/3 B – B - T Bây giờ tôi (mới) giáo cách Kiều Giang. Mai xưa (là tôi) mới đến…nàng hỡi nàng
41 Văn quan làng này 42 Hàn lâm đông các 43 Vũ quan làng này 44 Trưởng phủ triều đường 45 Dòng hỡi dòng Kiều Giang 46 Mai xưa là tôi mới đến 47 Ấy đầu tôi đội, ấy gối tôi quỳ 48 49 chân tôi đập đất. 50 Cất tiếng tôi mời vua (là) đại vương 51 Hộp trầu, vò nước, (ý a) nén nhang 2/2 2/2 2/2 2/2 2/3 2/2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/3 2/2/2 B - B B - T B - B T - B T - B B – B - T B - T T - B T - B T – B - T B – T - B
4/4 B – T - B 52 Của tôi thành kính (vậy tôi ) dâng lên linh sàng
53 Trầu tôi têm nếp vàng 54 Nàng têm nếp ngọc. 55 Chén nước vò xanh 56 Kén nước vò xanh. 57 Kén được tháng tốt lành 58 Rước vua về đình chịu tiệc đêm nay 1/2/2 2/2 2/2 2/2 2/1/2 4/4 B - T B - T T - B T - B T - T B – B - T
59 4/4 B – T - T
60 2/2/2 B – B- B
61 2/2/2/2 T – B - T Hữu linh giáng tọa (ôi là) giáng tọa (ấy có) đưa thường (Ôi là) Hỏi dâu (tư lương) hương hóa về thời. Vâng chúa (ấy lại) vâng làng tốt lúa (ấy lại) cho no
62 Mới đủ ba tuần, trầu tiếu lao xao 4/4 T – B - T
27PL
Stt Ca từ
63 Liên là liên liễu (liên lễ là liên) liên la 64 Ấy giã tiệc này, vua đại vương 65 Đầu tôi đội… ấy… gối tôi quỳ. 67 Cất tiếng tôi mời 68 Vua là đại vương 69 Hữu linh giáng tọa 70 Ôi là… tôi hiếm giả trầu ấy dư xanh. 71 Vua là đại vương 72 Ôi là… tôi dám mời vua là đại vương 73 Trầu hương đã sẵn 74 Ấy là…tôi dám mời vua là đại vương 75 Về thời vâng chúa 76 Vâng làng tốt lúa 77 Ấy lửa… thời bình an 78 Vua là đại vương 79 Ối là… tôi dám mời vua là đại vương. Nhịp 4/3 3/1/3 2/2 2/2 2/2 3/2/2 2/2 3/2/2 2/2 3/2/2 2/2 2/2 2/3 2/2 3/2/2 Hài thanh T – B - T B – T - B T - B B - B B - T T – B - B B - B T – B- T B - T T – B - T B - T B - T T - B B - B T – B- T
2/2/2 T – B - B 80 Ấy lại… dầu thiếu… ấy….thiếu của nào đâu
81 Đức vua là đại vương chớ hiềm (Ấy lại) vâng làng tốt lúa 82 (Ấy lại cho nó) mới đủ ba tuần 83 (mới lại) trầu rượu (y a) lao xao 84 85 Liên là liên lễ 86 Liên là là liên liên là. 87 Ấy giã tiệc này 88 Vua là đại vương 3/2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 B – T - T B - T T - B T - B T - B B - B
8. NHÀN NGÂM CÁCH
Stt Ca từ
1 Kính trình làng nước Thượng hạ đông tây 2 Lẳng lặng chờ này 3 4 Nghe tôi giáo Nhàn ngâm một cách. Nhịp 2/2 1/1/1/1 2/2 3/2/2 Hài thanh B -T T - B T - B B – B- T
28PL
Stt Ca từ
5 Bước lê một cung một 6 Mới gọi tiếng than 7 Dâng vào cho làng 8 Quận công, hầu tước 9 Vậy có thơ rằng: Nhịp 2/1/2 2/2 2/2 2/2 1/1/2 Hài thanh B - B T - B B – B B - T T - B
10 2/2/3 B – T - B Cách này chính thực (là) cách Nhàn ngâm
2/2/3 2/2/3 B – T - B T – B –T
13 3/2/3 B – B - T 11 Trai lành gái tốt họp chơi xuân 12 Đã lấy Kiều Giang làm cách trước Sau thời dẫn (cho phải) cách Nhàn ngâm
14 Văn quan làng này. 15 Hàn lâm đông các 16 Võ quan làng này 17 Trưởng phủ triều đường 18 Chúc tuổi vua quan 19 Vua vạn vạn tuế. 20 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/1/2 2/2/2 B – B B – T B - B T - B T - B T - T T – T - B
21 4/2/2 B – T - B
22 2/2/2 T – B - B Đào dẫy (len là) thơ thớ (ớ là) nở ra Hoàng anh khắc khoải (mới để) kêu ra tiếng mầu Hương hóa (nên là) cái chim (ới a) bồ câu
2/2/2/2 2/2/2 B – T - B B – T - B
25 2/2/4 B – T - B 23 Hoàng ô, chim én đi đâu một mình. 24 Dầu dầu mồi rện (ới a pháp) pháp sinh Chắp hương nhấp nhoán (mới để) rành rành sơn lâm.
26 Tử quy rộn tiếng (ới a) lòng tuôn 2/2/2 B – T - B
27 4/2/2 B – T - B Hồn vua Thục đế (mới để) ước nàng nguyệt hoa
28 Hương soi lừng lẫy (ới a) trên tào 2/2/2 B – T - B
29 4/1/3 B – T - B Ngâm thư một bức (mới để) về đêm đông trường
2/2/2 B – T - B
31 2/2/2/2 B – T - B 30 Chữ rằng yến Bắc (ới a) nhạn Nam Ngày nào sum họp (mới để) phòng hương một nhà
32 Lên chùa dâng oản (ới a) xin hoa 33 Tay nâng mái liễu (mới để) nở ra ba 2/2/2 2/2/2/2 B – T - B B – T - B
29PL
Nhịp Hài thanh
Stt Ca từ cành
2/2/2 B – T - B
35 2/2/2/2 B – T - B 34 Thông xanh dầy dạn (ới a) vòm thu Rè rè tiếng dế (mới để) âm thư đoạn trường.
36 Tiêu thiều nhạc vũ (ới a) đàn tranh 2/2/2 B – T - B
37 4/4 B – T - B Ngoài lầu thánh thót (mới để) tan canh ba hồi.
38 Phù tang nguyệt dãi song lôi? 2/2/2 B – T - B
39 2/2/2/2 B – T – B Ngâm thơ một bức (mời để bóng) đèn soi ngọc cù.
2/2/2 B – T – B
41 2/2/2/2 B – T - B 40 Thông xanh dày dạn (ối a) vòm thu Rè rè tiếng dế (mới để) âm thơ đoạn trường
42 Nàng hỡi nàng, làm cho anh nhớ 43 Tưởng nhìn xem hoa nở trên cây 3/2/2 3/2/2 T – B - B B – B –B
44 1/1/2/2 B – T - B Chớ (nào) khi (nay) tình phụ (hỡi a) nghĩa này.
45 Lấy thời chẳng lấy, bỏ rầy lấy ai? 46 Hỡi ai khéo léo thập phần 47 Làm nên thời để ái ân sang giầu 48 Nào ai tình phụ (hỡi à) nghĩa đâu? 49 Song lôi cửu tử (mới để) về tay gẩy đàn 1/3/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B
50 2/2/2/2 B – T - B Chữ rằng: lại được (hỡi à) phòng hương chăng là (?)
51 Len la, len hỡi (là len, á) len a. 52 Ấy giã tiệc này, vua là đại vương. 4/2/2 T – B - B
9. TRƯỜNG MAI CÁCH
Stt Ca từ
1 2 3 4 Nhịp 2/2/2 2/2 2/2 2/2/3 Hài thanh B – T - B B - T T - B T – B - T
5 3/2/2 T – B – T
6 Trước mừng thánh trị (hới a) vạn bang (Mới lại) mừng vua (là) trị nước (Mới lại) dân được (hỡi a) phong lưu. Bốn bể cửu châu (là là) dân thuận hòa (là là) dân thuận hòa (ôi là) gần xa phủ phục (Mới lại chùa đền) gần xa (là) phủ phục 2/2 B - T
30PL
Stt Ca từ
Nhịp 2/2 Hài thanh T - B 7
2/2/3 T – B - B 8
3/2/2 B – B - B 9
B - T 10 2/2
T - B 11 2/2
2/2/3 T – B - T 12
3/2/2 T – B - T 13
B - T 14 2/2
T - B 15 2/2
2/2/3 T – B - T 16
3/2/2 T – B - B 17
B - T 18 2/2
T - B 19 2/2
2/2/3 T – B - B 20
21 3/2/2 B – B - T
22 2/2 T – B
23 2/2/3 T – B – T
24 3/2/2 T – B - B
25 (Mới lại) lục quốc (hỡi a) ninh ninh. (Mới lại) vua mở (hỡi a) hội danh (ấu) chốn hương đền (Là là) chốn hương đền (ôi là) đôi bên văn vũ (Hỡi a chùa đền đôi mới lại) đôi bên văn vũ (mới lại) đền cũ (hỡi a) chủ ông (Mới lại) Thái Tổ (hỡi a) Thái Tông (ấy) vua lão hoàng (Là là) vua lão hoàng (ôi là) gươm vàng ấn ngọc (A á hỡi chúa đền, mới lại) gươm vàng ấn ngọc. (Mới lại) nước trị (hỡi a) nhà an, (Mới lại) rồng ấp (hới a) Nam Sơn (ấy) chốn miếu thờ (Là là) chốn miếu thờ (ôi là) đêm mưa (là) ngày nắng (A á hỡi chúa đền mới lại là) đêm mưa ngày nắng (Mới lại) đầu tháng (hới a) cuối năm. (Mới lại) lúa gié (hỡi a) lúa chiêm (ấy) cho no lòng (Là là) cho no lòng (mới lại ngoài đồng) ngoài đồng lúa tốt (Mới lại là) xanh ngắt (hỡi a) dưới trên (Mới lại) lúa tốt (hới a) mạ nên (ấy) cho chật nhà (Là là) cho chật nhà (ôi là) gần xa đem đến. (A á hỡi chùa đền, mới lại) gần xa đem 2/2 B - T
31PL
Stt Ca từ Nhịp Hài thanh
đến
26 Len là, len hỡi (là len, á) len la 27 Ấy giã tiệc này vua là đại vương 28 Có thần Hà bá, Long quân, Thủy tề 29 Có cờ xanh ngắt đứng kề 30 Cửa đông, cửa nam chơi với cờ rồng 1/2/1/2/2 4/2/2 1/3/2 2/2/4 T – B – B B – T - B B – T - B B – B - T
31 4/4 B – B - B
1/3/2 2/2/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/4 2/2/2 2/3/2 2/2 T – T - B T – T - B T – T - B T – T - T T – B – B B – T - B T – T - B B – T - B B - B
44 3/2 B – T
Lương quyền chẳng tin (…vậy mới…) khôn thông tâu bày 32 Tôi lại tìm đến cửa tây 33 Bạch hổ cờ trắng khắp bày đôi bên. 34 Mong mắn nhà cửa tầu quyền 35 Cửa ấy thờ điện tôi lại bẻ ra 36 Trông thấy cờ rồng biển xa 37 Chữ bày trên các hiệu là muôn quan 38 Cửa ấy vắng vẻ thiên ban 39 Bước chân vào đến nơi đan trì 40 Giầu sang… (thời là…) nên (là…) (Ơ a… thời…) giả làng này. 41 (sáng…mới…) phú ra tông đường 42 (Áng…a a…ấy…) lời chúc thọ. 43 (Áng a a á…) cách Trường mai (…ối là…) chúc thọ (ơ hỡi) thuở này (ối là) câu ba. 45 46 Công liên thương thái có trần 2/2 2/2/2 B - B B – T - B
47 2/2/2/2 B – T - B
48 2/2/2 B – T - B
49 4/2/2 B – T - B
Có người (ối là) còn chắc ở gần hóa chu. Thờ vua, thờ chúa, ơn thầy Làm quan tri huyện cương thường hai chữ Sánh bày trên vai
50 51 Đường Ngu, tam đại dĩ lại. 52 (Áng này là… áng) hiền tài có danh. 2/2 2/2/2 2/2 B - B B – T - T B - B
32PL
10. NGƯ TIỀU CANH MỤC CÁCH
Stt Ca từ
(mới lại) ngư tiều (là) canh mục (Mới lại là) tứ túc (hỡi a) nhà no
(mới lại) giậm đò (là) thủy mặc (Mới lại) phơn phớt (hỡi a) nhuộm xanh
Vật ngang thuyền lại hỏi ngư ông 1 2 - Có cá bán không? Chuốc đồng - Dạ dạ thưa rằng: chưa bỏ lưới 3 4 Còn mảng vui chơi thả móc xong. 5 6 7 Ngư phủ ban cho ở đâu (Mới lại) buông câu (là) thả lưới 8 9 (Mới lại là) phấp phới (hỡi a) áo tơi. 10 Đủng đỉnh (mà) chơi (mà mà) ca ngũ hồ 11 12 13 Bề rộng lênh đênh (mà mà) có thuyền (Mới lại) nhang biên nghìn dặm. 14 15 (Mới lại) nước thắm (hỡi a) và lên 16 Cất giặm đòi nơi ca hội 17 18 Nhịp điệu 2/2/3 2/2/3 2/2/3 2/2/3 2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/1/3 2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2 Hài thanh B – T - B T – B - T T – B – T T – B - T B – T T - B T – B - B B – T T – B T – B - B B – T T – B T – B - B B – T T - B T – B - T T - B B - B
2/2/3 B – B - B 19
20 21 2/2 T - B
22 2/2/3 T – B - B
(Mới lại) hộ sắt (nở ra) thuyền rồng (Mới lại là) thuyền rồng (là) nước lên Nhởn nhơ hương lên (mà mà) bảo nhau cười. (Mới lại) đỗ nơi (là) gió (Mới lại) họp chúng (hỡi a) năm ba Uống rượu khề khà (mà, mà) bỏ quai chèo (Mới lại) hương thanh (là) nước biếc (Mới lại) vượn hót (hỡi a) chim kêu.
23 24 25 Nằm ở cội cây (mà mà) nghe suối đàn 26 Ấy thưa thời vậy: 27 (Mới lại) tiều đây (hỡi a) thời thưa 28 Hái củi ban trưa (mà mà) bỏ quên rìu 29 (mới lại) thiu thiu (hỡi a) ngày tối. 2/2 2/2 2/2/3 2/2 2/2 2/2/3 2/2 B - T T - B T – B - T B – T B - B T – B - B B - T
33PL
Nhịp điệu 2/2 Hài thanh T – B Stt Ca từ 30
31 2/2/3 T – B - B
(Mới lại) bó vội (hỡi a) đôi bên Nhơn nhởn gánh lên (mà mà) bảo nhau về (Mới lại) chân đi răm rắp (Mới lại) bước thấp (hỡi a) bước cao,
(Mới lại) mục đây (hỡi a) thời thưa.
32 33 34 Ta lộn làm sao (mà) cho đến nhà? 35 Ấy thưa thời vậy: 36 (Mới lại là) canh dậy (hỡi a) thời thưa 37 Cày cấy ban trưa (mà, mà) thả trâu bò (Mới lại) trời cho lúa tốt 38 39 (Mới lại) cấy một (hỡi a) nên hai 40 Già trẻ, gái trai (đầu) đội ơn trời 41 Ấy thưa thời rằng: 42 43 Gió nói ban trưa (mà, mà) đi có đàn. (Mới lại) vừa bước (hỡi a) vừa toan 44 45 (Mới lại) một bước (hỡi a) gặp duyên 46 Mở hội (hàng) đào vui thú (hỡi a) làm sao. 47 2/2 2/2 2/2/3 2/2 2/2 2/2/3 2/2 2/2 2/2/3 2/2 2/2 2/2/3 2/2 2/2 2/3/2 2/2 B - T T – B T – B - T B - T T - B T – B - B B - T T - B T – B - B B - B B - B T – B - T T - B T - B T – B - B B – T
48 2/2 T – B (Mới lại) cờ lau tập trận (Mới lại là) nghiệp động (hỡi a) thánh vương
49 Trị phủ bốn phương (là) dân thái bình (Là hỡi) tôi không khanh khánh hay thay 50 51 (Là hỡi) kìa kìa đông các phượng bay. 52 Non bảng choi chói ghi thay 53 Đầu lân đuôi phượng rủ nhau đặt bầy (Là hỡi) đặt bầy ngoài của khánh tiên 54 55 (Là hỡi) bốn bể lên chầu chúa ông 56 Tung hô vạn tuế: tuổi sống thiên niên. (Là hỡi) thiên niên các bảo bình yên 57 (Là hỡi) tuổi vua bằng núi Thái Sơn 58 2/2/3 2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2 T – B - T B – T - B B – T - B T – T - B B – T - B B – T - B T – B - B B – T - T B – T - B B – T - B
34PL
(Là hỡi) mồ hôi đầu đội nắng mưa (Là hỡi) cơm rượu gánh đến ban trưa
(Là hỡi) ăn đoạn lại đã nghỉ ngơi. (Là hỡi) say rượu rức lác đòi nơi
(Là hỡi) mạ thưa, cấy đã buông tay (Là hỡi) đặt bầy cúng tế thần nông (Là hỡi) năm nay lúa tốt vô cùng
(Là hỡi) bảng vàng choi chói xã ta rước về
Stt Ca từ 59 Lời tôi chúc tụng tuổi vua muôn vàn (Là hỡi) cho về làm ruộng chín vui 60 61 (Là hỡi) đông thu vạn vật đòi nơi 62 Nữ nhi en én áo đượm bồ hôi 63 64 65 Gọi nhau eo éo gái trai lên bờ 66 67 68 Chia mạ lều thều (đã) mọi nơi ngả kề (Là hỡi) tháng sáu ngày đôi mươi tư 69 (Là hỡi) cấy đã rậm đồng hay chưa 70 71 Cấy đi, cấy lại, lúa tốt như to. 72 73 74 75 Bình an dóng dẩy 76 Lúa tốt đầy đa 77 78 Ấy giã tiệc này vua là đại vương. Nhịp điệu 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/4 2/4 2/2/4 2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2 2/2 4/4 1/2/1/4 Hài thanh B – T - B B – T - B B – T - B B – T - T B – T - B T – T - B B – T - B T – T - B T – T - B T – B - B T – B - B T – B - B B – T - T B – T - B B – T - B B – T - B B - T T - B B – T - B T – B - B
Stt Ca từ
Cho làng khắp khắp
1 Đất này tốt, làng này am 2 Chắc chắn cao bằng non Thái San Thấy năm bảy lời 3 4 Nay tôi kính chúc: 5 6 Một bước lên quan 7 Ô là hô, ấy dô là dậy Len la len, cái vậy hò dô 8 9 Các bạn làng ta trở lại thưa hò. 11. ĐỐI GIÃY CÁCH Nhịp 3/3 2/2/3 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2/2/2 Hài thanh B – B - B T – B – T B – B B – T B - T T – B T – B - T
35PL
Stt Ca từ
Vua vạn tuế, làng ta sang giàu (Là hỡi) cầu nam sinh được con trai
(Là hỡi) Đôi ông uống rượu, đàn tranh
(là) nếp bồ huê, nếp thơm nếp ngán
(là) công làng đây, xây dựng các nơi
(Là) thương làng buôn bán bạc vàng
(Là) bạn thưa hò lấy qua làm dặm 10 11 (Là hỡi) dặm nào dặm ấy cho qua 12 Ta sắp miệng hoa mà chơi bóng đèn (Là hỡi) đầu năm có tết nhậm nhuần 13 14 Lên chầu chực thánh quan thiên tử 15 Tôi ngẫm trong sách sử 16 Đẹp lòng gia. 17 18 19 Cầu nữ: con gái là hai tốt lành 20 21 Để cho các vãi nghe kinh trên chùa 22 Lại giỏ ra rầy tôi lại mừng nông 23 (là) nông làng đây cày ruộng cấy lúa 24 Bao nhiêu bách cốc, phó trả tòa vua 25 26 Phần ăn phần bán, phần gán cho vua. (là) nông làng đây, tôi mừng đã vậy 27 28 Lại giở ra đây tôi lại mừng công 29 30 Làm nên đền các, phó trả tòa vua 31 Làm nên đại hải long chu 32 Đầu rồng đuôi phượng gầm cù tiên bay 33 Là công làng tôi mừng đã vậy 34 Lại giở ra rầy tôi lại mừng thương 35 36 Một vốn nghìn lãi (để) bạc vàng no đói. 37 Hầu làng một giải (để) thưởng tôi lấy tiền (Là) hỡi lấy tiền sao chẳng dứt 38 39 Lại giở ra rầy một lúc mừng vua Nhịp 3/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 3/2/2 1/2/2 3/2/2 2/2/2 2/2/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2/2 3/2/2 4/4 3/2/2 2/2/4 3/2/2 2/2/2/2 3/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 3/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 4/4 1/2/3 2/2/2/2 Hài thanh B – T - B B – T - B T – B - B B – T - B B – T - B T - T T – B - B B – T - B T – T - B B – T - B B – T - B T – B - T B – B - T B – T - T B – T - T B – T - T B – B - T T – B - T B – T - B B – T - T B – T – B B – T - B B – B – T T – B - T B – T – B T – T - B B – T - B T – B – T T – B – T
2/2/2 B – B – T 40 (là hỡi) mừng vua (mới nên) hương xông bảo vị
36PL
Stt Ca từ Nhịp Hài thanh
41 2/2/4 B – T – T
42 4/4 B – T - B Thánh hoàng, thánh đế (mới để) hoàng đế vô cương. Ôi là đội đức (để) thánh minh quốc triều.
43 Quốc triều mới để ân chiêu hòa thuận 44 Vạn dân (mới nên) xướng thái bình ca 3/3/2 2/1/3 B – T - B B – T - B
45 4/4 B – B - B
46 2/2/2 T – T - B
47 4/4 T – B - T
48 3/1/3 T – B - T
49 4/4 T – B - T
Rẫy mừng cho làng (mới để) làng ta sang giàu (Là hỡi) thứ nhất (mới nên) thọ lão sống lâu. Chữ phú đã giầu (mới nên) thêm quý lại sang (là) giã tiệc này (mới để) dư trăm tuổi vàng Tôi chúc cho làng (mới nên) tuổi được tràng sinh 50 Cách ấy đã qua 51 Ai bạn học ta, trở ra bãi cát 52 Là xinh xình xinh 53 Chài xinh chài quây lấy cá 54 2/2 4/4 1/3 2/4 2/4 T - B T – B - B B - B B – B - T B – T - B
55 2/3/2 B – B - B
56 2/2/4 B – T - B
(Là hỡi) sài xinh sài bắt lấy chim (Là hỡi) chài xinh, chài quây cá mương chìm Sài xinh, sài bắn (để) lấy chim phượng hoàng (Là hỡi) tiếc thay mặt nguyệt hôm rằm
57 58 Đã tròn vành vạnh 59 Cái lược ai cài ở mái tóc mai 60 Len là, len hỡi (len á) len la. 61 Ấy giã tiệc này, vua là đại vương 62 …hô hò hô rề 63 Hỡi bạn nàng ta cũng thì bẻ lại 64 Để ta…. thưa…hò 2/2/2 1/3 2/2/2/2 1/2/1/4 3/2/3 2/1/1 B – T - B B - T T – B – T T – B- B T – B - B B - B
37PL
Stt Ca từ
Nàng bay thổ xuống thuyền cùng anh
65 Cách thưa hò để cho nàng dặm 66 Thưa hò để cho hòa dặm 67 Đặt làm cách ấy ta vô tay đơm 68 Niệm đề hòa ra bóng đen, 69 Thanh thay hàng phố đôi bên. 70 71 Thanh bay thư nguyệt đêm canh… 72 Đêm canh đã tròn vành vạnh 73 Cái lược ai cài ở đâu tóc mai 74 Đề đề dõi tiếng chuông thôi. 75 Nước mắt ca mai dặm dòng 76 Vông vông tầm… tập tầm vông 77 Đêm nằm sẽ nhớ tầm vông 78 Rầu lòng sắt đá, ruổi rong đi tìm Sáng nay con mắt lim dim 79 80 Ngồi đâu ngủ đấy đi tìm tập vông. 81 Cách ấy đã qua 82 Hỡi bạn nàng ta bẻ ra cách khác 83 Ấy len là len là len len là… 84 Đầy thuyền ra cái, dịch dầm dà Nhịp 3/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2 3/2/2 2/2/2 3/3 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2 3/3/2 2/2/3 Hài thanh B – T – B B – B – T B – T - B B – B - B B – T - B B – T - B B – T - B B – B - T T – B - B B – T - B T – B - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B T - B T – B - B B – T - B
85 2/2/3/2 B – T - B Mừng làng đóng đám, sĩ đăng khoa cho làng
Chất để dặm thương (ấy) cho làng này.
86 Ơn đại vương về vâng bản xã. 87 Tàn cả ngựa cao võng giá đăng chiêu 88 Ấy sĩ làng này rước về 89 Tôi lại chúc cho nông làng này 90 Đầy đồng lúa tốt hòa cốc phong đăng. 91 92 Tài thông tạc lạc (?) 93 Làm nên điện các tạo ra tòa trường 94 Tôi lại chúc cho thương làng này 95 Tài năng buôn bán. 3/2/2 2/2/2/2 2/2/2 3/2/2 4/4 2/2/3 2/2 2/2/2/2 3/2/2 2/2 T – B - T T – B - T T – B - B T – B - B B – T - T T – B - B B - T B – T - B T – B – B B – T
38PL
Stt Ca từ
Đều được đội ơn vua
96 Một vốn nghìn lời tiền bạc đề đa 97 Thơm thóc, thơm hoa ban cho làng này 98 Là hò… mở ra… hò cậy 99 Ấy đôi (hò) ta… mở một hò cậy 100 Mừng sĩ… xá lại… mừng sĩ… 101 Sĩ làng này một khoa một đỗ. Bảng vàng choi chói 102 103 Cập đệ khôi nguyên 104 Khắp hàng phố đôi bên trai gái 105 Khắp hàng phố đôi bên sắp bầy 106 Sĩ làng này tên là ông trạng. Chè chè, chén chén 107 108 Rước ông trạng về đánh chén liền tay 109 Rước ông trạng đề giả làng này 110 Ấy bé ra rày… tôi lại mừng nông 111 Nông làng này đầy đồng lúa tốt. 112 Bao nhiêu bách cốc 113 Là bao nhiêu tiền 114 Thời giả làng này 115 Trâu bò nếp thông 116 Tích để dặm thương 117 Đều được đội ơn vua 118 Nông làng này tôi mừng đã đoạn 119 Ấy bẻ ra rằng, tôi lại mừng công 120 Công làng này tài thông tạc lạc 121 Làm nên đền các lại tạc tào trương. 122 Làm nên thiều quang 123 Long triều phượng vũ 124 Trâu bò nếp thông 125 Tích để dặm thương 126 127 Nông làng này tôi mừng đã đoạn Nhịp 2/2/2/2 2/2/4 1/2/2 2/2/2 3/2/2 2/2 2/2 3/2/2 3/2/2 3/2/2 2/2 4/4 3/2/2 4/2/2 3/2/2 2/2 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/3 3/2/2 4/2/2 3/2/2 2/2/2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/3 3/2/2 Hài thanh T – B - T T – B - B T - B T – T - T B – T - T B - T T - B B – B - B B – B - T B – B - B B - T B – B - T B – B - B T – B - T B – B - T B - T B - B T - B B - B T - B T - B B – B - T T – B - T B – B - T B – T - T B - B B - T B - B T - B T – B B – B - T
39PL
Stt Ca từ 128 Ấy bẻ ra rằng, tôi lại mừng công 129 Công làng này tài thông tạc lạc 130 Làm nên đền các lại tạc tào trương. Làm nên thiều quang 131 132 Long triều phượng vũ 133 Như rồng cánh múa 134 Như tựa tiên bay 135 Công làng này tôi mừng đã đoạn. 136 Ấy bẻ ra rày tôi lại mừng thương 137 Thương làng này tài thông tạc lạc Nhịp 4/2/2 3/2/2 2/2/2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 3/2/2 4/2/2 3/2/2 Hài thanh T – B - T B – B - T B – T - T B - B B - T B - T T - B B – B - T T – B - T B – B - T
138 4/3/3 T – B - T
Một vốn nghìn lời, của cải tích để bằng non Thứ nhất thọ lão sống lâu
139 140 Chữ phú là giầu 141 Thêm chữ quý là sang 142 Tiệc này hơn trăm nén vàng 2/2/2 2/2 1/2/2 2/2/2 T – T - B T - B T - B B – B - B
143 2/2/2/2 T – B - T Giáng phúc cho làng sống tuổingàn thu.
12. HỒI LIÊN CÁCH
Stt Ca từ
Sinh nàng Đế nguyên
1 Kính trình quan viên 2 Dẫn cách hồi liên 3 Mà nghe tôi giáo 4 Đời xưa thái tạo 5 6 Đã tốt bằng tiên Thanh tân dóng dảy 7 8 Đến năm mười bẩy 9 Cha thác chẳng còn. 10 Lòng mẹ thương con 11 Thiên hương lễ bụt Nhịp 2/2 1/3 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 Hài thanh B - B T - B B - T B - T B - B T - B B - T B - T B – T T - B B – T
40PL
Stt Ca từ
12 Vậy có thơ rằng: 13 Tình cờ sĩ gặp đế vương 14 Phải chăng con tạo hóa lạ dường 15 Thấy chùa thanh vắng đêm nằm mộng. 16 Ông Bụt bảo rằng lấy chồng bán hương Nhịp 2/2 2/2/2 2/2/3 2/2/3 2/2/2/2 Hài thanh T - B B – T - B B – T - T B – T - B T – B - B
17 4/4 T – B - T
18 2/2/2/2 B – T - B Nàng ở trong phòng thực đấng chính chuyên Đêm ngày khấn nguyện lấy chồng đế vương
19 Chẳng ngờ đêm nằm mộng 20 Ông Bụt bảo rằng lấy chồng bán hương. 21 Phải chăng cơ tạo hóa lạ nhường 2/3 2/2/2/2 2/3/2 B - B T – B - B B – T - T
2/2/2/2 B – T - B 22 Đêm ngày thang vắng (hóa để) trao hương bán hàng
23 Bà hóa lòng mừng vội vàng 2/2/2 T – B - B
24 4/4 T – B - T Đời đế vương chàng (con tôi) thời gả chồng cho
25 Bán hương nửa mừng, nửa lo. 2/2/2 B – B - B
26 2/2/2/2 B – T - T Nhân sao (hòa để) lấy cướp vợ vua thuở này
27 Đường về nhà tôi xa thay 28 Ôi là tôi phải đóng ngay xe vàng 29 Xe vàng lấy cướp vợ vua 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 B – B - B B – T - B B – T - B
30 4/4 B – T - B
31 2/2 T - B
4/4 B – T - B 32
33 2/2/2 B – T - B (Ôi là) hồi liên xe đẩy, đẩy xe lên đường. Ấy lại (a la niên) trời bụt (kia hỡi a) thập phương Con tôi lấy được (đám) đế vương thuở này Chẳng ngờ (a la niêm) trời bụt (kia hỡi a) thiêng thay
41PL
Stt Ca từ
(Ôi là) chưa giở hồi gia
Nhịp 4/4 4/4 2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/4 2/2/2 Hài thanh T – B - B B – B - T T - B T – T - B B – B - B B – T - B B – T - B
41 4/4 B – T - B 34 Ông Bụt bảo mày lấy chồng bán hương 35 Nhân chưng thuở này lấy cướp vợ vua. 36 37 Đưa vợ còn ngại đường xa 38 Bao giờ đến nhà, lòng mừng mười phân 39 (Ấy là) vợ vua vua để ái ân từ rày 40 Ấy là trời bụt (kia hỡi á) thiêng thay Bán hương sao kể (hòa để) trao nay tiệc mầu
1/2/1/4 T – B - B
42 Len là, len hỡi (len hỡi là len, á) len la. 43 Ấy giã tiệc này vua là đại vương.
13. XOAN THỜI CÁCH (MỪNG XOAN CÁCH)
Stt Ca từ
Xoan thời cách hơi dương đầm ấm
Vào chùa thượng uyển
(là) bướm ong bay chấp chới.
1 2 Gió lụy thanh thời tiết (mới lại) thổi qua 3 Mừng thấy tin xoan (là) mới đến 4 Nhạn én tin truyền 5 Một cảnh sơn xuyên (là) đầm ấm. 6 7 Nhìn xem cho khắp hết mọi nơi Lá điều rừng rực 8 9 Chim ríu rít đậu cành 10 Liễu lục xoan xanh. (Là) chim ri mới nở 11 12 Đào tiên tơi tỏ hồng hồng 13 Người tiên đủng đỉnh tay nâng 14 Một cảnh vô song 15 16 Tới dặm thanh vân. Nhịp 3/2/2 3/2/2 2/2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2/3 2/2 3/2 2/2 2/2 2/2/2 2/2/2 2/2 2/3 2/2 Hài thanh B- B - B T – B - T T – B - T T - B T – B- T B - T B – T - T B - T T - T T - B B - T B – T - B B – T - B T - B B - T T - B
42PL
Stt Ca từ
Nhịp 2/2 2/2 3/2/2 1/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 3/2/1 2/2/3 3/2/2 2/2/3 3/2/3 2/3 2/2/2 Hài thanh T - B B - T B – T - B B - T B – T - B B – T - B T – B - B T – B - B T – B - T B – T - B T – B - T T – B - T T - B B – T - B
33 2/2/2 T – B - B
34 2/2/1/3 B – T - B 17 Mỹ nữ đòi xoan 18 (mới gọi là) xoan sao kíp mấy? 19 Ngồi cùng xoan đã dư ba tháng. 20 Nói chưa kịp hết lời 21 Xem bằng một chút chiêm bao 22 Thảnh thơi đến thuở xoan về. 23 Ai có sức nào thì vào cầm đó 24 Phú thời vậy. 25 Vậy có thơ đưa xoan rằng: 26 Đủng đỉnh mà chơi vào tháng xoan 27 Thấy lòng còn mến cảnh (hợp) thanh tân 28 Xoan đã ra về, thời lại lại 29 Chớ ở lại lâu ngày lão cố nhân 30 Mới lại hành la la 31 Len la, len hỡi là len á len la. Sỹ mừng gặp thuở sơn xuyên 32 (Mới lại là) cảnh ngọc (mới nên) tơ tơ (hỡi a) đào tiên (Mới lại là) lầu thơ (là) tiệc rượu, (chốn) chốn (diệu) hoang qua ngàn
35 Qua ngàn chốn chốn diệu hoang 2/2/2 B – T - B
36 2/2/2 B – T - B
2/2/2 B – T - T 37 (Mới lại) chơi bời (mới nên) những thuở (hỡi a) con xoan (Mới lại) thiên hồng, vạn tử(vân vân như trước
38 Răm rắp hương thơm mọi làng 39 Mọi làng răm rắp hương thơm 2/2/2 2/2/2 T – B - B B – T - B
2/2/2/4 B – T - T 40
(Mới lại là) đầu năm (là) mỹ nữ, chấp chới đánh đu giai quần 41 Giai quần chấp chới đánh đu 42 (Mới lại là) gái liền (hỡi a) gái thu 2/2/2 2/2 B – T - B B - B
43PL
Stt Ca từ Nhịp Hài thanh
43 (Mới lại) thanh tân (là) yểu điệu ngọc như (lại) giai cù
44 Giai cù ngõ liễu đường hoa 2/2/2/2 2/2/2 B – T - B B – T - B
45 (Mới lại) ca ong (là) sứ điệp đòi cụm ngắm xem (rườm) rườm rà
46 Rườm rà đòi cụm ngắm xem 2/4/2/2 2/2/2 B – T – T B – T - B
47
(Mới lại) hoàng anh (mới nên) tử tía (hỡi a) đưa lên (có) có đàn 48 Có đàn chấp chới (là) bướm ong 2/2/2/2 4/2 B – T - B B – T - B
49 2/2/2 B – T - B
50
(Mới lại) mai hoa (mới lên) những thuở (hởi a) gió đông (Quý khách) mừng hoa (chào khách) hơn hớn (lại thêm) bầng hồng 51 Bóng hồng má phấn đào phai 2/2/2 2/2/2 B – T - B B – T - B
52 2//2/2 T – T - B
53
(Mới lại) chưa kể (mới nên) mắc tiếng (hỡi a) cùng ai (Mới lại) xoan tình (là) một bức của tiều khăng khăng (còn) cài 54 Còn cài một bức khăng khăng 2/2/4/1 2/2/2 B – T - B B – T - B
55 2/2/2 B – T - B
56
57 2/2/4 2/4 B – T - B B – B - B
58 4/4 T – B - B
59 2/1/3 B – T - B
60
61 (Mới lại) ngoài lầu (mới nên) nguyệt giãi (hỡi a) bóng trăng (Mới lại) năm canh (là) chẳng nhắp (dù có) gương soi chẳng bằng (Dạ dạ) họ ra (ôi là) chớ đòi họ ra. + Bản B có thêm câu: Phú quý năm qua (ấy có) đâu qua làng này Vạn dân (vạn dân mới nên) xướng thái bình ca Rày mừng cho làng (mới để) làng ta sang giàu (Là hỡi) thứ nhất (mới nên) thọ lão 4/4 2/2/2 B – B - B T – T - B
44PL
Stt Ca từ Nhịp Hài thanh
sống lâu
4/4 2/4 T – B - T B – B - B
64 62 Chữ phú là giàu (mới nên) thêm quý là sang (Là giã) tiệc này (mới để) dư trăm nén vàng 63 Tôi chúc cho làng (mới nên) tuổi được trường sinh
(Rồi là len)…bõ thân cười phụ người ta
65 Len là, len hỡi (là len á) len la 66 Xoan tình nhớ tưởng vì nay xoan thời 67 Ngồi thống khôn về cắt cứ 68 Phong quang mới nên kèo thế cười chê 69 Rồi là…len la rồi len… 70 71 Ai biết chơi… 72 Dầu kẻ ngồi chơi sau này 73 Len là len len là len… 74 Tầng tầng song nguyệt đêm qua 75 Cây thông song nguyệt đêm qua 76 Cây thông cây trúc nở ra ba cành 77 Cây cần cây liễu xem tiên bằng ngồi 78 Nhân bằng tiếng trúc, tiếng cười, tiếng than 79 Người tìm đọi dẫn cũ hòa than 80 Bao giờ cho đến… áng… xoan bây giờ. 4/4 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/4 2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/22 2/2/2/2 4/2/2 2/2/3 4/1/1/2 T – B - T B – T - B T – B - T B – B - T B – T - B T – B - B B – T - B B - T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B
14. HẠ THỜI CÁCH
Stt Ca từ
Thảnh thơi những là xuân hỡi xuân
Tử quy khắc khoải Tựa nguyệt ngày rầy.
1 2 Hết cảnh xuân sang cảnh hạ 3 4 5 Nắng lắm mà lâu 6 7 8 Ve sầu kêu (là hỡi) đòi thuở Lửa soi sáng với hoa hồng. (Thời) bồng ong (?) liễu lục xuân xanh. Nhịp 2/2/3 2/2/2 2/2 2/2 2/2 3/2 2/2/2 2/2/2 Hài thanh B – B - T T – B - T B - T T - B T - B B - B B – T - B B – T - B
45PL
Stt Ca từ
9 Nhịp 2/2 Hài thanh B - T
10 2/2/2 T – B - B (Mới lại là) thôi canh bá cốc Eo óc (thuở) mừng hồng, (thuở) mừng xuân.
11 Đỗ cần khúc nam huân 12 Tương tư não cố nhân 13 Ngồi cùng hè đã dư ba tháng 14 Nói chưa kịp hết lời. 15 Xem bằng một phút chiêm bao 16 Thảnh thơi đến thuở hè về. 17 Ai có sức cầm đồ? 18 Phú thời vậy 19 Bèn có thơ đưa hạ rằng: 20 Hết cảnh xuân sang cảnh hạ 21 Nam phong thổi mạnh ngồi gió mát 22 Hai hàng lã chã. 23 Nhìn xem cho khắp hết cảnh châu hè 24 Hè đã ra về thời lại lại 25 Chớ ở lâu ngày não cố nhân 2/3 2/3 3/2/2 3/2 2/2/2 2/2/2 3/2 3/2/1 3/3 2/2/3 2/2 2/2/2/2 3/2/2 2/2/3 B - B B - T B – T - B B - T B – T - B B – T - B T - B T – B - B T – B - T B – T - T B - T B – T - T T – B - T T – B – T
26
(Mới lại là) hành la (là) len hỡi (len hỡi) là len (á) lê la 27 Đưa hè một bức đem đi 2/2/2 B – T - B
28 2/2/2 T – B - B
29 4/4/1/2 B – T - T
30 2/2/2 B – T - B
31 2/2/4/1 B – T – T
(Mới lại là) én gửi cho nhau (hỡi a) đem đi (Mới lại là) ve kêu mòng mọng, ba tháng khắc khoải (đòi) thì (dà dạ là) tiếng ve (Mới lại là) đêm nằm (mới lên) lẳng lặng (hỡi a) mà nghe (Mới lại là) thâu đêm (là) chẳng nhắp, nhung nhúc bồ hôi (tựa) đàn 32 Tựa đàn nhung nhúc (là) bồ hôi 2/2/2 B – T – B
33 (Mới lại) càng buồn (mới nên) càng tủi (hỡi a) bồ hôi 2/2/2 B – T - B
46PL
Stt Ca từ Nhịp Hài thanh
34 (Mới lại) phong đình (là) vắng vẻ vò vọ (có) một mình (mình) ngồi.
35 Một mình vò vọ thở than 2/4/2 2/2/2 B – T – T B – T - B
36 2/2/2 B – T - B
37 (Mới lại) lâm toàn (mới nên) nước suối (hỡi a) chỉ lau (mới lại) sơn lân là (vắng vẻ) vẻ (dà dạ) tiếng ve tựa đàn.
38 Tựa đàn dà dạ (là) tiếng ve 2/1/1/4 2/2/2 B – T - B B – T - B
39 2/2/2 B – T - B
40
(Mới lại) đêm nằm (mới nên) lẳng lặng (hỡi a) mà nghe (Mới lại) thâu đêm (là) chẳng nhắp, (người ngọc) tay nâng chén (chén) chè (Dạ dạ) họ ta (ôi là) chớ đôi họ ta 41 42 Phú quý năm hoa (ấy có) đâu qua làng này? 43 Hay chữ năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 44 Thi đỗ năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 45 Tốt mạ năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 46 Tốt lúa năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 47 Tốt ngô năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 48 Tốt đỗ năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 49 Tốt dâu năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 50 Tốt tằm năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 51 Tốt tơ năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 52 Tốt trâu năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 53 Tốt bò năm nay (ấy có) đâu qua làng này? 2/2/3/1 2/4 4/4 4/4 4/4 4/4 4/4 4/4 4/4 4/4 4/4 4/4 4/4 4/4 B – T - B B – B - B T – B - B T – B - B T – B - B T – B - B T – B - B B – B - B T – B - B B – B - B B – B - B B – B - B B – B - B B – B - B
54 4/2/3 B – B - B
55 Tốt trâu năm nay (ấy có) mai ra cho chật nội Tốt bò năm nay (ấy có) mai về cho chật nhà
56 Len là, len hỡi (là len á) len là. 57 Ấy giã tiệc này vua là đại vương 58 Tiết cố nhân hay gửi tiết khách 4/2/3 4/4 3/2/2 B – B - B T – B - B T – B - T
47PL
Stt Ca từ
59 Não nướng tư ngồi cùng hè đã dư ba tháng 60 Nói chưa kịp hết lời 61 Xem bằng một phút chiêm bao. 62 Đứng từ thuở hè về. 63 Ai hầu có sức thời cầm đỗ? 64 Phú thời vậy có thơ đưa cảnh hạ 65 Kim phong gió mát tựa dù che 66 đôi hàng cầm thiếp bẻ ghi ghi 67 Chốn chốn càng thêm rợp bóng hè 68 Khắc khoải tử quy lòng rầu rật 69 Ve sầu kêu mọi sở tiếng ve ve 70 Kim phong thôi tàn ngồi hóng mát 71 Ngày tháng nhận xem hết cảnh hè 72 Là len len là len len la… 73 Đưa hè một bức đem đi 74 Yến gửi cho nhạn một khi 75 Ve kêu quang quáng 76 Ba tháng ve kêu có thì 77 Từ quy thổi có tiếng xao xôn. 78 Đêm nằm nhớ sự buồn muôn Nhịp 3/3/2/2 3/2 2/2/2 3/2 2/2/3 3/3/2 2/2/3 3/2/2 2/2/3 2/2/3 3/2/3 2/2/3 2/2/3 2/2/2 2/2/2 2/2 2/2/2 3/2/2 2/2/2 Hài thanh T – B - B B - T B – T - B B - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B T – B - T T – B - B B – T – T B – B - T T – B - T B – T - B T – T - B B - T T – B - B B – T - B B – T - B
79 Chiêm bao phảng phất nắng nóng, bồ hôi tựa nguồn
80 Tựa nguồn thời càng thiệt thòi 2/2/2/4 2/2/2 B – T - T B – B - B
81 Tử lang (tử lang) đứng mát vò võ (có) một mình (ngồi)
82 Một mình vò võ hạ thiên. 83 Lâm truyền nước suối chẩy tràn 84 Sơn lâm vắng vẻ 85 Ra rẻ ve kêu tựa đàn 86 Tựa đàn ra rẻ ve kêu 87 Tứ bề (tứ bề) phẳng lặng bằng tờ. 88 Kẻ mình héo hắt người ta rằng già 89 Dạ dạ hô ta…. 2/4/2 2/2/2 2/2/2 2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2 4/4 B – T - T B – T - B B – T - B B - T T – B - B B – T - B B – T - B B – T - B
48PL
Stt Ca từ Nhịp
90
Một mừng vua xá lại… (mừng vua), mừng vua vạn vạn tuế 91 Hai mừng hoàng đế vô cương 92 Ba mừng sinh hoàng tử vương… 3/2/2/3 2/2/2 2/4 Hài thanh B – T / B - T B – T - B B – B - B
93 Hoàng tử vương, công chúa tuổi được trường sinh.
Sáu mừng xướng thái bình ca. rồng bay cửu làng nay sang giầu
94 Bốn mừng hoàng hậu đế kinh 95 Đến thời đội đức thánh mừng quốc gia 96 Năm mừng phong thuận vũ hòa 97 An cư lạc nghiệp, đăm chiêu thuận hòa 98 99 100 Thứ nhất thọ lão sống lâu 101 Chữ phú là giầu … 102 Thêm quý là sang 103 Tiệc này hơn trăm nén vàng 104 Giáng phúc cho làng tuổi sống muôn thu. 3/2/4 2/4 4/4 2/2/2 4/4 2/1/3 2/2/3 2/2/2 2/2 2/2 2/2/2 4/4 T – B - T B – T – B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – B - B T – T - B T - B T – B B – B - B T – B - T
15. THU THỜI CÁCH (MỪNG THU CÁCH) Nhịp Stt Ca từ Hài thanh
1 2/2/2 B – T - B Thảnh thơi (nhưng là) hạ hỡi hạ, hạ đã ra về
ngoài hiên lã chã lá ngô bay (là) chầy ai tiếng nén xuân cách hàn
Một giấc đêm nằm
2 Mừng thấy tin thu (là) mới đến 3 Niềm phong phức phức 4 Tựa nguyệt ngày rầy. 5 6 7 Hàn càng xiết 8 Cảnh thêm buồn 9 Vò võ sầu tuôn. 10 11 Trằn trà trằn trọc 2/2/2 2/2 2/2 2/2/3 2/2/3 2/2 2/2 2/2 T – B - T B - T T - B B – T - B B – T - T T - B T – B B - T
49PL
Nhịp 3/3 3/2/2 3/2 2/2/2 2/2/2 3/3 1/2/3 Stt Ca từ 12 Nhớ hết thời lại thôi qua 13 Ngồi cùng thu đã dư ba tháng 14 Nói chửa kịp hết lời. 15 Xem bằng một phút chiêm bao 16 Thảnh thơi đến thuở thu về 17 Ai có sức nào cầm đỗ. 18 Phú… thời… vậy! 19 Bèn có thơ đưa thu rằng: Hài thanh T – T - B B – T - B T - T B – T - B B – T - B T – B - T T – B - B
4/4 20 B – T - T
Niềm phong phức phức, tựa nguyệt ngày rày. Ngoài hiên lã chã lá ngô bay
2/2/3 3/3 2/2/3 21 22 Thu đã về, thời lại lại 23 Có kẻ chờ thu chau lụy mày B – T – B T – B - T T – B - T
24 (Mới lại là) hành la len hỡi (len hỡi len á) len la
2/2/2 25 Đưa thu một bức cù du B – T - B
2/2/2 26 B – T - B
27 (Mới lại) đêm nằm (mới nên) sực nhớ (hỡi a) mùa thu. (Mới lại là) năm canh (là) chẳng nhắp, kẻ đốt đèn trong ngọc (ngọc) cù
2/2 3/2/1 2/2/2 28 Ngọc cù hiu hiu gió đưa B – T T - B B – B - B
2/2/2 29 B – T - B
30 (Mới lại) ngoài lầu (mới nên) lã dã (hỡi a) hạt mưa (Mới lại) hàm sương (là) thánh thót, tý tách ngôi sao chẳng (chẳng) chờ
2/2 2/2/1/1 2/2/2 31 Chẳng chờ thu lại hạ qua. B – T T - B B – T - B
32 2/2/2 B – T - B
33 (Mới lại là) chỉ vì (mới nên) duyên nợ (hỡi a) đôi ta (Mới lại là) Ngưu lang (là) Chức Nữ cách trở (một) ngân hà.
34 Ngân hà kẻ bắc cầu sang 2/2/2/2 2/2/2 B – T - B B – T - B
35 (Mới lại) Chức Nữ (mới nên) ngồi đợi (hỡi a) Ngưu Lang 2/2/2 T – T - B
50PL
Stt Ca từ
36 (Mới lại là) thâu đêm (là) chẳng nhắp, thiếp nhớ chàng thay (là) chàng.
37 Chàng về có nhớ thiếp chăng Hài thanh B – T T - B B – T - B
38 (Mới lại) năm canh chẳng nhắp, dù có gương soi chẳng (chẳng) bằng
Nhịp 2/2 4/1 2/2/2 2/2 2/2/1/1 2/4 4/4 B – T - T B – B - B T – B - B
41 2/1/3 B – T - B
42 4/4 B – B - B
43 39 Dà dạ! Họ ta (ối là) chớ đôi họ ta 40 Phú quý năm hoa (ấy có) đâu qua làng này Vạn dân (vạn dân mới nên) xướng thái bình ca. Rày mừng cho làng (mới để) làng ta sang giàu (là hỡi) thứ nhất (mới để) nhường sĩ ở đâu
2/4 4/4 2/2/2 T – T - B B – T - B B – T - B
46
47 4/4 2/2/2 B – T - B B – T - B
48 4/4 B – T - B
49 44 Một mai thi đỗ (mới để) danh thân rước về. (Là hỡi) nông kia biết ngọc thiên thì 45 Hòa trăm giống thóc (mới để) chầu về Lê quân (Là hỡi) công kia khéo léo mười phần Làm nên điện các (để) thánh nhân dõi truyền (Là hỡi) thương kia buôn vạn bán thuyền
50 Bạc vàng vô số lõi tiền đầy đa 2/2/2 2/2/2/2 B – T - B B – T - B
51 (là hỡi) buôn gần (mới nên) chẳng phải bán xa.
2/2/2 2/2/3 B – T - B T – T - B
60 3/2/2 B – B - T
61 2/2/2 B – T - B
62 59 Vàng bạc vô số (mới để) chất đầy nhà (là) gió đêm qua (ấy gió) nam phong thổi đến Chầy ai (chầy ai mới nện) tiếng nện chầy ai? (Là) thức dậy ngồi (mới) nghe tiếng nhạc sầu đâu 3/3/2 T – B - T
51PL
Stt Ca từ 63 Nhịp 2/2/2 Hài thanh B – B - B
64 (là hỡi) vo ve (mới nên) sáo ai thổi đâu. (Là) đốt đèn thắp nến (để) dành thâu đợi chờ
(Mới ra) đứng đấy mà trông
65 Đợi chờ chẳng thấy 66 67 Thăm thẳm bờ sông (ấy) con nhà ai gọi đò? 68 Mới nên đề huề khách khứa 4/4 2/2 2/2 4/3/2 2/2/2 B – T - B B - T T - B T – B - B B – B - T
69
Kẻ thương chàng (mới nên) mới lứa đôi thơ (Là hỡi) ngày nào (mí nên) cho bắc cởi xe? 70 71 Thiếp ở nhà quê, thiếp (mới ra) đi đón chàng 72 Len la len hỡi (là) len la 73 Ấy giã tiệc này, vua là đại vương 3/2/2 2/2/2 4/1/3 4/4 B – T - B B – T - B T – B - B T – B - B
52PL
16. ĐÔNG THỜI CÁCH (ĐƯA ĐÔNG CÁCH)
Nhịp Hài thanh Stt Ca từ
1 2/2/2 B – T - B Thảnh thơi (những là thu hỡi thu) thu đã ra về
2 Mừng thấy tin đông (là) mới đến 3 Tới rậm giang khê 4 (Là) díu dắt tiếng chầy ai nện 5 Vẳng tai nghe (là) tiếng khánh 6 Hỡi sương tuyết lạnh lùng 7 Ngồi cùng đông đã dư ba tháng 8 Nói chưa kịp hết lời 9 Xem bằng một phút chiêm bao 10 Thảnh thơi đến thuở đông về 11 Ai có sức nào cầm đỗ 12 Phú thời vậy 13 Bèn có thơ đưa đông rằng: 2/2/2 2/2 2/2/2 3/2 1/2/2 3/2/2 3/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2 1/2/3 T – B - T T - B T – B - T B - T B - T B – T - B B - T B – T - B B – T - B T – B - T T – B - B
14 2/2/3 T – B - T Nhăm nhắp nhìn xem (một) trận bắc phong
2/2/3 1/3/3 3/2/2 B – T - B T – B - T T – B - T
18 2/2/3 B – T - B 15 Ngồi trần trùng trục lạnh bằng đông 16 Thu đã ra về thời lại lại 17 Có kẻ dở đông vào (chùa) thượng uyển Nhìn xem cho khắp (hết) mặt hồng hồng
19 Đưa đông một bức gấm hoa 2/2/2 B – T - B
20 2/2/2 B – T - B
21
(Mới lại là) ngoài lầu (mới lên) lã dã hạt mưa (Mới lại là) hàn sương (là) thánh thót, nguyệt lẩn về tây tà tà 22 Tà tà nguyệt lẩn về tây 2/2 2/2/2 2/2/2 B – T T – B - B B – T - B
23 (Mới lại) lác đác (mới nên) một lá (hỡi a) ngô bay 2/2/2 T – T - B
53PL
Stt Ca từ
24 (Mới lại là) chầy ai tiếng nện, đủng đỉnh nhà ai tiếng (tiếng) chầy?
25 Tiếng chầy ai nện hạt châm Nhịp 2/2/ 2/3/1 2/2/2 Hài thanh B – T T – B - B B – T - B
26
27 (Mới lại) dầy dầy (mới nên) hát tiếng (hỡi a) đề âm (Mới lại) thâu đêm (là) chẳng nhắp, kẻ bức tương tư chẳng (chẳng) nằm.
28 Chẳng nằm, ngồi tựa chẳng câu 2/2/2 2/2 2/3/1 2/2/2 B – T - B B – T T – B - B B – T - B
29
30
31 2/2/2 2/2 2/2/2 2/4 B – T - B B – T T – B - B B – B - B
32 (Mới lại là) đưa người (mới nên) ngọc nữ (hỡi a) tận lầu (Mới lại là) vội vàng đem đến, đủng đỉnh nhà ai chịu sầu (Dà dạ) họ ta (ôi là) chớ đôi họ ta Phú quý năm hoa (ấy có) đâu qua làng này
33 Mùa xuân, mùa xuân 34 ấy rước chủ nhân ra về 35 Mùa hè, mùa hè 36 Mới hắt tiếng ve kêu sầu 37 Mùa thu, mùa thu 38 Mới đắp cù du một mình 39 Mùa đông, mùa đông 40 Mới rước chủ nhân lên đền 41 Cầu đền, cầu đền 4/4 2/2 2/2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2/2 2/2 2/2/2 2/2 T – B - B B - B T - B B - B T – B - B B - B T – B - B B - B T – B - B B - B
54PL
17. TỨ MÙA CÁCH
Stt Ca từ 1 Tứ mùa Xoan cách 2 Thuở tháng Xoan, Lê hoàng làm chúa 3 Lầy (để) tốt lúa, ăn uống no say 4 Bóng nắng xoay vần quay khóm trúc 5 Mai kể liên, liễu lục (mới lại) phủ vây 6 Thương xoan đoái năm (là) tìm đi Nhịp 2/2 3/2/2 1/2/4 3/2/2 3/2/2 2/2/2 Hài thanh B - T T - B - B T - T -B T - B - T T- T - T B- B - B
7 4/4/2 B - T - T Chịu sầu thương nhớ khắc khoải tứ quy (là) tiếng gù
(Là) mặt tiên đào một cảnh thiếu quang
8 Mày liễu xanh ngần (ngần) mới nở 9 Khí hòa giao hoàng làm chúa Nức mùi thơm lừng lẫy sơn xuyên 10 11 Bóng lên viên một mình đủng đỉnh 12 13 Đưa nhau về (cho) đến bến Dương 14 Quế văn, hoa liễu gửi thương muôn phần 15 Đưa cố nhân lòng còn khao khát 16 Tưởng lo sầu mọi mạch nhỏ to 17 Thương xoan đêm ngày những lo 18 Ngày nào được họp nhỏ to kẻo phiền? 19 Được như chàng tri kỷ 20 Nàng hỡi nàng, biết nghĩ biết lòng ta 21 Thư vàng một phút (là) đem qua 4/2 2/2/2 3/2/2 3/2/2 3/2/2 2/1/3 2/2/2/2 3/2/2 3/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/3 3/2/3 2/2/2 T – B - T B – B - T B – B - B B – T - T B – T - T B – T - B B – T - B T – B - B B – T - T B – B - B B – T - B B - B T – T - T B – T - B
22 Dặn dò xoan (về thời) lại gặp cho chớ chầy
23 Xoan ra về thấy tin hè lại 24 Hè hỡi hè chớ ngại đường xa 25 Sen đầy ngọc tính nở ra 26 Đào tiên vương mẫu đội ca trên đầu 27 Mượn quế cây ngất ngọn bóng thu 28 Phiền lo thế hỡi gửi thu mượn hè 3/2/3 3/2/2 3/2/2 2/2/2 2/2/2/2 3/2/2 4/2/2 B – T - B B – T - B T – T - B B – T - B B – T - B T – T - T B – T - B
55PL
Stt Ca từ 29 Trừ giang khẽ gặp chàng thanh vắng 30 Kìa Nam huân thấu nắng ban trưa 31 Khắp rừng tìm thuấn Giang Tô 32 Ngâm thi giai uẩn kết thơ chén trà 33 Tay tiên ai uốn chúc ta 34 Xa dâng đem vào chén ngọc Nam huân 35 Đằm đằm tay đặt hồng cân 36 Hè về lại đã ái ân từ rầy 37 Hè ra về thấy tin thu đến 38 Cám cảnh nhân tình lòng còn mến thu 39 Đêm nằm đắp bức cù du Nhịp 3/2/2 3/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 3/1/3 4/4 2/2/2 Hài thanh B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – B - T B – T - B B – T - B B – T - B T – B - B B – T - B
40 Nàng nghe chuông nện vòm thu nhường nào?
41 Thứ trông sao, tam phong chịu tất 42 Nghe tiếng chầy, tiếng nhạc sầu đâu 43 Ve ve sáo ai (là) thổi đâu? 4/4 3/2/2 3/2/2 2/2/2 B – T - B B – B - T T – T - B B – B - B
44 Càng thương càng nhớ lại chau thêm mày.
45 Khi sương bay, hòa phong cam vũ 46 Nghe tiếng chầy, nước mắt tuôn sa. 47 Dậm cung bóng quế tha đà 2/2/4 3/2/2 3/2/2 2/2/2 B – T - B B – B - T T – T - B B – T - B
48 Cảnh thương dường ấy người ta khác nhường
4/4 3/2/2 B – T - B B – B - T
50 49 Thức trông sao, dậy ngồi trông nguyệt Thương nàng Chức nữ cách biệt Ngân giang
51 ….Lên xuống phòng nhang 52 Bắc cầu Ô thước anh sang kết nghì 53 Thu ra về tin đông đến 54 Lại thưa hò ngắt tiếng lâu canh 55 Xe đình sắc viết dở sang 56 Ngâm thơ giai uẩn Nam huân kẻo phiền 57 Tiên tựa gió đưa (là) phơi phới 4/4 2/2 4/4 3/3 3/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 B – T - T T - B B – T - B B – B - T B – T - B B –T - B B – T - B T – B - T
56PL
Stt Ca từ 58 Được bác cây mai xin thôi đầm dầm 59 Mượn quế tước ngắt ngọn cành hồng 60 Duyên tơ trúc lột sồi mấy đông 61 Mai hoa sặc sỡ đâm bông 62 Một vườn đào mận cùng hoa tiên 63 Mây dong một trận sầu tuôn 64 Hiu hiu gió cuốn tay hun lửa hồng 65 Khi sương sông, thổi cơn tô hợp 66 Ngơ ngác thực bảo nàng Ngân châu 67 Thương nàng ngọc nữ (hỡi a) tần lâu 68 Vui hòa nhịp khí tay thâu gối vàng 69 Chân bước sang thêm càng lạnh lẽo 70 Sự nhân tình dóng dẩy thứ dân 71 Nay mừng tiệc mở lê quân 72 Đông về thời lại hết đông từ rầy. 73 Len la len hỡi (là len á) len la 74 Ấy giã tiệc này vua là đại vương. Nhịp 4/4 3/2/2 3/2/2 2/2 2/2/3 2/2/2 4/4 3/2/2 3/2/2 2/2/2 4/4 3/2/2 3/2/2 2/2/2 4/4 4/4 Hài thanh T – B - B T – T - B B – T - T B –T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B T – T - B B – T - B B – T - B T – B - T B – T - T B – T - B B – T - B T – B - B
18. THUYỀN CHÈO CÁCH
Nhịp 2/2/3 Hài thanh B – T - B
2 4/3 B – T - B Stt Ca từ 1 Thuyền chèo đánh cá bến Tầm Dương Ngày thời giãi nắng, đêm (thời) dầm sương
Sắm cho bền chặt để ra đây (là) hộ chèo.
3 Đánh cá phen này (hòa) cho được bống 4 Đem về trả nợ vua đế vương 5 Mở ra à, niêm là a 6 Các bạn làng ta sắm sửa quai da 7 8 Mở ra a, niêm là a 9 Các bạn làng sắm quai mây 10 Sắm cho bền chặt để ra đây (là) hộ chèo 11 (A) lại mừng Việt Nam đại minh 2/2/3 2/2/3 3/3 4/4 4/3/2 3/3 3/3 4/3/2 2/2/2 T – B - T B – T - T B – B - B T – B - T B – T - B B – B - B T – T - B B – T - B B – B - B
57PL
Nhịp 4/4 Hài thanh B – T - B
13 Stt Ca từ 12 Ao sâu tắm mát hẳn tình thuyền dương (Là hỡi) nhớ xưa vua Thái thượng Hoàng
(Lá hỡi) văn làng chiếm bảng khôi khoa
(Là hỡi) nông khoe lúa (tốt) mạ dự nghìn
(Là hỡi) thuyền nào đóng đầy mõ rau?
(Là hỡi) lấy liền sao chẳng dứt khúc?
(Là hỡi) đại vương tọa ngự long châu
(Là hỡi) tiếc thay mặt nguyệt hôm rằm
14 Nam sơn rồng ấp gia ban nước nhà 15 16 Vũ làng đô đốc gấm hoa vẹn tuyền 17 18 Một vốn chín đụn lại thêm trâu bò 19 (Là hỡi) Công khoe mực thước toàn no 20 Thương buôn quý vật tiến cho làng này 21 (Là hỡi) được mùa phú quí giầu thay 22 Ăn uống thuở này vui thú tương liên 23 24 Ấy thuyền đức chúa mới mai ngay (Là hỡi) Giáp bắc đã được bình yên 25 26 Giáp bắc thi đỗ Trạng nguyên rước về 27 Hầu làng một giải 28 Để xuống, tôi lấy hên 29 30 Lại trở ra rầy một lúc mừng vua 31 32 Về ban bản xã phong lưu yên lành (Là hỡi) chài xinh chài quai lấy cá 33 (Là hỡi) sai xinh sai bắn lấy chim 34 35 Chài xinh chài quai cá mương chìm 36 Sai xinh sai bắn lấy chim phượng hoàng 37 38 Đã tròn vành vạnh 39 Cái lược ai cài ở mái tóc mai? 40 Len la, len hỡi (là len á) len la 41 Ấy giã tiệc này vua là đại vương. 2/4 4/4 2/2/2 2/2/2/2 3/3 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/3 2/2/2 4/4 2/2 2/3 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2 2/3/2 2/3/3 2/2/2 2/2 4/4 4/4 B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B T – T - B B - T – B B – T - B B – T - B T – B - T B – T - B B – T - B T – T - B T – T - B B - T T – T B – T - T T – B - T B – T - B B – T - B B – B - T B – T - B B – B - B B – T - B B – T - B B - T T – B – T T – B - B
58PL
19. TỨ DÂN CÁCH
Stt Ca từ
(Là hỡi) thương đi buôn ván bán thuyền
1 Tứ dân (thời) cách 2 Thuở lên ngôi 3 Gió đưa, hồ là vậy 4 Mừng vua, xá lại mừng vua 5 Mừng vua (mới nên) đăng quang bảo vị 6 Vạn dân (vạn dân đều) phú quý thọ vinh hoa 7 Kho tàng chất để can qua 8 Rày trời lại để dân ta sang giàu 9 (Là hỡi) tứ dân nhường sĩ ở đâu 10 Một mai thi đỗ vinh quy rước về (Là hỡi) nông kia biết trọng thiên thì 11 12 Dư trăm giống lúa chầu về Lê quân 13 (Là hỡi) công làng khéo léo thập phần 14 Làm nên điện các, thánh nhân rõi truyền 15 16 Kim ngân vô số của liền đầy đa (Là) bút thanh nhàn làm vẽ câu thơ 17 18 (Là hỡi) vo ve sáo ai thổi đâu 19 Lại ra tiếng nhạc… phượng hoàng 20 Tứ mùa dầm sương dãi nắng 21 Quan cao chức trọng tam công Nhịp 2/3 2/4 2/4 2/2/3 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 3/2/2 2/2/2 4/2 2/2/2 2/2/2 Hài thanh B - B B – T - B B – B - T B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – B - B B – B - B B – T - B B – B - T B – T - B
22 Đời đời sinh những con rồng cháu phượng
Gái hòa hai nơi những hòa hai
23 Đời đời huệ huệ lan lan 24 25 Trai thời xe xe ngựa ngựa 26 Gái thời hán hán hài hài 27 Đã nên trai, nổi anh tài 28 Hương cống bước lên tiến sĩ 29 Lục bộ, hàn lâm là khoa lan đài 4/4 2/2/2 3/2/2 2/2/2 2/2/2 3/3 2/2/2 2/2/4 B – T - B B – T - B B – B - B B – B - T B – T - B B – T - B T – B - T T – B - B
59PL
(Là hỡi) đã giàu lại chiếm bảng vàng
Nhịp 2/2/2 4/4 2/2 4/4 4/4 4/4 Hài thanh B – T - B B – T - B B - T T – B - T T – B - B B – B - T
36
Stt Ca từ 30 31 Năm quan nhất phẩm tam công đời đời 32 Là vua dấu chúa 33 Tôi chúc phe Đông nổi những công hầu 34 Tôi chúc phe Tây kế đua xứ tổng 35 Tôi mừng phe Nam chiếm bảng đề danh Tôi chúc phe Bắc nổi những công khanh đời đời (Là) xóm làng đây cổ vũ như lai
(Là hỡi) sáu mừng xướng thái bình ca
(Là hỡi) bảy mừng làng được sống lâu
(Là hỡi) chúc mừng làng nước trẻ già
(Là hỡi) trông ơn đại vương lại được hiển vinh
37 38 Văn chiến khoa đài, vũ thuận phong điều 39 Cư dân nhất nghiệp đăng quang thuận hòa 40 41 Vua vạn vạn tuế, làng ta sang giàu 42 43 Nhân khang vật thịnh sang giàu mọi nơi 44 Tám mừng tiến sĩ, trạng nguyên 45 Thám hoa, bảng nhãn đỗ liền đăng khoa 46 47 Phong thuần tục mỹ dân ta đâu bằng 48 (Là hỡi) Mười mừng mỗi năm mỗi thắng 49 Nhân đinh thịnh vượng trời ban cho rày 50 (Là hỡi) mừng làng phú quí vinh hoa 51 Đại vương an tòa, giáng ngự long cung (Là hỡi) đều thời báo ứng ngai rồng 52 53 Thịnh người thịnh của nghìn năm yên lành 54 (Là hỡi) dân ta kế khế công khanh 55 Rày thời yên lành, xuân tiết xướng ca 56 (Là hỡi) nay mừng khắp hết các nhà 57 Dâu thuận, rể hòa lại được khang ninh 58 59 Các miền phù hộ dân đinh thị trường 60 Len la, len hỡi (là len, á) len la 61 Ấy giã tiệc này, vua là đại vương. 4/2/4 3/2/2 4/4 4/4 2/1/3 4/4 2/4 4/4 2/2/2 2/2/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/4 4/4 4/4 4/4 T – T - T B – T - B T – B - T B – T - B B – T - B T – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B –T - B B –T - B B – T - B B – B - T B – T – B B – T - B B – B - T B – T - B B – T - B B – T - B B – B - T B – T – B T – B - T B – B - T B – T - B T – B - B
60PL
20. CHƠI GIÂU XƯỚNG CÁCH
Stt Ca từ
(Là hỡi) đặt làm có hội chùa Giâu
(Là) sự nhân tình kể cho nàng biết
1 Kính trình làng nước 2 Thượng hạ đâu đâu 3 Dẫu cách chơi giâu 4 Mà cho phải lệ 5 Vốn xưa tích kể 6 Có hội chùa Giâu 7 Chúa quan công hầu 8 Phù lôi khánh hạ 9 Chùa Giâu vui lạ 10 Mồng tám tháng tư 11 Vãi, sái lên chùa 12 Niệm kinh đọc tụng 13 Nàng ba thấu giọng 14 Vãi ấy tốt thay! 15 Đôi cánh thẳng ngay 16 Dâng làm tướng bụt 17 Ngày rằm, mùng một 18 Rước bụt lên chùa 19 Vậy có thơ rằng: 20 Chùa Giâu vui lạ (lạ) cảnh hè tiên 21 Chủ ông sức khỏe 22 Chủ bà sống lâu 23 24 Ai ơi chưa dễ ai sự tình 25 26 Chớ mải bề hoa nguyệt vãng lai (Là hỡi) còn không hay đã có ai? 27 28 Như anh, anh kiếm một nơi cho nàng (Là hỡi) bây giờ họp mặt đôi bên 29 30 Trách nhau chưa dễ đôi bên dòng dòng Nhịp 2/2 2/2 1/3 2/2 2/2 1/3 2/2 2/2 2/2 2/2 1/1/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/2/1 2/2/3 2/2 2/2 2/2/2 2/2/3 3/2/2 3/2/2 2/4 2/2/4 2/2/2 2/2/2/2 Hài thanh B – T T - B T – B B – T B – T T - B B - B B – T B – T T - B T - B B – T B – T T – B T - B B – T B – T T - B T - B B – T - B B – T B - B B – T - B B – T - T B – T – T T – B – T B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B
61PL
(Là hỡi) cấm nhau chớ giận chớ hờn
(Là hỡi) bước chân ra học bên ngoài
Stt Ca từ 31 32 Ai giận chữ đức, ai ghen chữ tài? (Là hỡi) gái bay chưa dễ hơi trai 33 Dù thưa biếng nối, dù giai khôn vừa 34 35 (Là hỡi) kìa gái mặt hý xưa kia 36 Chữ vương đam sắc nên lìa nhà Chu (Là hỡi) trai bay rở tục cù du 37 38 Gái bay chưa dễ vào trò hơi trai 39 (Là hỡi) gái bay mạch quê rạc rài 40 Ngồi lê mách lẻo bằng đời ba chuông 41 (Là hỡi) trai bay thấy gái phải lòng 42 Cái nết chẳng bằng cổ giả thời xưa (Là hỡi) gái bay nết ấy thời chừa 43 44 (Là hỡi) gái bay nhác mắt trông xa 45 Những người đứng đấy hóa ra vô tình 46 (Là hỡi) trai bay nết ở cũng xinh 47 Đêm ngày đèn sách học hành hôm mai 48 49 Tiến sĩ tú tài cập đệ quang khoa 50 (Là hỡi) ngày sau bái tổ về nhà 51 Dừng chân đứng lại thật là chơi Giâu 52 (Là hỡi) từ rày cho đến ngày sau 53 Gái trai ăn ở với nhau đến già 54 Len la, len hỡi (là len a) len la. Nhịp 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/4 4/4 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/4/2 Hài thanh B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B T –T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – B - B B – T - B B – T - B T – B – T B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B T – B - T B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B
62PL
CHẶNG BA 21. BỎ BỘ
Stt Ca từ
Trong đồn ngoài điếm chẳng cho thông hành
Anh bắn nai này trả nợ nhà vương
Trồng bông, luống đậu, luống cà 1 2 Ai làm cho luống công ta thế này 3 Ai làm cho luống công đây 4 Đường đi trên chợ dưới đò 5 6 Chẳng cho em bén duyên anh 7 Bắc cầu anh xẻ ván mong 8 Em chẳng sang được anh bồng em sang 9 Em về kẻ chợ em coi 10 Kia dinh quan lớn, kìa chòi bắn cung 11 Con ngựa hồng bao nhiêu tiền bao hậu 12 Các quan tràoáo vận (mặc) lưng đai 13 Súng anh vác vai, hỏa mai anh tòng nạp 14 Anh bắn nai này đùng đùng dạ dạ 15 16 Thương anh gối đất nằm sương 17 Rủ nhau lên núi hái bông 18 Hái răm ba mớ xuống sông ta ngồi 19 Ta thấy con cò giương cung ta bắn 20 Ta bắn con cò, con cốc, con le Nhịp 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/4 2/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 3/3/2 3/2/2 4/2/3 4/2/2 4/2/2 2/2/2 2/2/2 4/2/2 4/4 4/2/2 Hài thanh B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B T – T - B B – T - B B – T - B T – B - B B – T - B B – B - B T – B - B T – B - T B – T - B B – T - B B – T - B T – B - B T – B - T
21 Con cốc nó lặn, con le nó lội, con cò nó bay
22 Con cò mày bay đừng thấp chớ cao 23 Bay ra cửa phủ, bay vào trong kho 24 Rượu không say nhưng say về chén 25 Người chẳng bén nhưng bén về duyên 4/4/4 4/2/2 4/4 3/2/2 3/2/2 T – T - B B – B - T B – T - B B – B - B T – B - B
26 Đồng tiền chì chúng anh mua vội mua vàng
27 Mua ra muống héo, mua vàng ngẩn ngơ 28 Đồng tiền chì chúng em mua được cá 3/2/4 4/4 3/2/4 B – T - B B – T - B B – T - B
63PL
Nhịp Hài thanh Stt Ca từ
tươi
29 Mua rau mới hái, mua người thanh tân. 30 Thân em như tiền thuộc búng quay 31 Thân anh như bát úp ngay giữa vùng 32 Anh lọt đồng hồ anh lót đồng hồ 33 Lật ngửa bát lên 34 Rõ ràng sấp ngửa đôi bên 35 Trên trời cầu bạch cầu bông 36 Xứ Bắc cầu muốngxứ Đông cầu giền 37 Vua trên điều cầu tiền cầu bạc 38 Các lái buôn cầu nước cầu non 39 Dân ta người đây cầu của cầu con 4/4 2/3/2 2/3/3 4/4 2/2 2/2/2 2/2/2 4/4 3/2/2 3/2/2 2/2/2/2 B – T - B B – B – T B – T - B T – B - T T - B B – T - B B – T - B T – T - B B – B - B T – B - B B – B - T
22. BỢM GÁI
Stt Ca từ
1 Bước vào đứng giữa đình trung 2 Đôi tay vo áo thánh cung mới về 3 Bái ngang ta xá bái ngang 4 Bái đôi bên nhà nước Nhịp 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 1/2/2 Hài thanh B – T - B B – T - B B – T - B B – B
5 3/3/4 T – T - B Đoạn tiệc này mượn nhà tôi mới bước chân ra
Thưa rằng em ngỏ túi trầu ra thiết đôi anh
6 Bái ra ta xá bái ra 7 Đôi tay sửa mũ đồng cân đội đầu 8 Đôi anh lại đây cho em thiết trầu 9 10 Trầu anh trầu túi trầu khăn 11 Trầu em giải yếm để lâu cũng tàn 12 Anh xuôi kẻ chợ mới về 13 Nghìn vàng chẳng tiếc, xin kể chút hơi 14 Kẻo còn thương nhớ anh ơi 15 Đường đi trên suối, dưới khe 16 Sao anh chẳng bắc cây tre làm cầu 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2/2 2/4/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 B – T - B B – T - B B – B – B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T – T B – T - B B – T - B B – T - B
64PL
Stt Ca từ 17 Để ta đi lại còn lâu... 18 Đường đi trên suối dưới đầm 19 Sao anh chẳng bắc cây trâm làm cầu 20 Để ta đi lại đã lâu… 21 Cắp xống cắp áo ra đi 22 Cắp khăn cắp túi ra đi 23 Giận vì một nỗi chồng con chẳng có 24 Vào vườn hồng trai tỏ 25 Mở niêm thanh ai đúc chuông Tề Nhịp 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2 4/4 3/2 3/2/2 Hài thanh B –T - B B – T - B B – T - B B – T - B T – T - B B – T - B B – T - B B - B B – B - B
26 3/2/2/2 B – T – T
27 Giãi ơn đãi bẩy mươi, tám mươi, chín mươi Tồn con sinh ra những con rồng cháu phượng
28 Chạ người đây sinh con đã đáng 29 Sinh con gái giữ việc cung tần 30 Sinh con trai đi học khoa văn 31 Để cho cha mẹ nhờ ơn trông cậy 32 Trai làng đây cất gánh đi thi 33 Vào trường, thi đỗ khóa này 34 Về nhà rủ vợ nàng bay 35 Ai ơi anh đỗ khóa này dương khoa 36 Nàng bay như thể cúc hoa 4/3/2 3/2/2 3/2/2 3/2/2 2/2/2/2 3/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 B – T - B B – B - T B – T - B B – B - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B
37 Nuôi chường đi học đăng khoa bảng rồng
38 Vào chầu chấp quế niệm cung 39 Tay mở cửa rồng 40 Đẹp đẽ khôi nguyên 41 Bảng vàng choi chói bề trên 42 Trạ ngôi sỹ hiền 43 Rước dân về đây 44 Gửi về cho chạ được hay 45 Đi thi khóa này đỗ mười tám ông 46 Gửi nhời cho chạ mừng lòng 4/4 2/2/2 1/3 2/2 2/2/2 2/2 2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 B – T - B B – T - B T - B T – B B – T – B B - B B – B B – T - B B – B - B B – T - B
65PL
Nhịp 3/4 2/2/2 2/2 Hài thanh B – T – T B – T - B T - T
Stt Ca từ 47 Mở đường rộng rước ông trạng về 48 Dù dù, ngựa ngựa, xe xe 49 Ông cưỡi ngựa tía 50 Bà che dù điều 51 Ông ngồi tòa đỏ chiếu đen 52 Bà đứng án tiền mặc áo đỉnh đang 53 Chúng tôi như chim loan phượng 54 Hát đây phú quí giầu sang hơn người 55 Trên trời dưới bể 56 Trực tiết tao khang 57 Trai đội ơn vua 58 Trai đợi ơn vua 59 Trực tiếp giấy vàng 60 Gái thời thơm thảo 61 Thần nông thần lực 62 Nay tôi lại mừng 63 Cho sỹ làng ta 64 Mừng khắp ba quân 65 Trẻ lớn mừng xuân 66 Già mừng tuổi thọ 67 Nay tôi chúc thọ 68 Làng này sống lâu 69 Con con, cháu cháu rể dâu song tuyền 70 Con con, cháu cháu thiên niên 71 Tích tôn nhang thịnh trời truyền đầy đa 72 Chạ ra đây ăn uống vui cười xướng ca 73 Để cho tóc bạc lại xanh 74 Sống bằng Bành Tổ hiển vinh đời đời 75 Giầu sang phú quí hơn người 2/2 2/2/2 4/4 2/4 2/2/2/2 2/2 2/2 1/2/1 1/2/1 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/4 2/2/2 2/2/2/2 3/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 B - B B – T - B T – B - T B – B – T B – T - B B - T T - B T - B T - B T - B B – T B – T B - B T - B T - B T - B B – T B – T B – B B – T - B B – T - B B – T - B B – B - B B – T - B B – T - B B – T - B
76 Khang cường đôi chữ thánh bầy trên vai
77 Đứng xa coi hỡi mùi tui 78 Lại gần ngắt ngọn ra mùi thanh tao 2/2/2/2 2/2/2 4/4 B – T - B B – T - B B – T - B
66PL
Nhịp 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 Hài thanh B – T - B B – B - B B – T - B B – T - B B – T - B T – T - B Stt Ca từ 79 Chuông rền thánh đúc cù lao 80 Con chim điêu điếu ra vào cành chanh 81 Chim kêu khiếu hót trên cành 82 Má hồng cô hãy còn dành đợi ai? 83 Chữ trung thời hãy còn dài 84 Đường cái còn rộng chớ hoài dấp dong.
23. PHÚ KIỀU
Stt Ca từ
Tóc như mây yểu điệu nên nhường
1 Xem truyện cũ triều Minh Gia Tĩnh 2 Có đôi người con gái họ vương Thúy Vân kia mặt mày nở nang 3 4 Nàng Kiều nọ khôn ngoan sắc sảo 5 Diện tự ngọc mai huê tươi tắn 6 7 Đã lầu thông kinh sử văn chương Lại còn biết cầm kỳ thi họa 8 9 Thanh minh tiết, đưa nhau đi viếng mả. 10 Chật ven đường xe ngựa nghênh ngang 11 Xứ xứ đều quang sáng mùi nhang 12 Kìa một mả ven đường không kẻ đắp 13 Nàng Kiều nghe thấy đồng tâm tuất cập 14 Hỏi Vương Quan cho biết căn do 15 Kìa Đạm Tiên vốn cùng nhà trò 16 Hồng nhan cũng một lò cuộc thế 17 Kiều nghe thấy lòng còn e lệ 18 Thắp tuần nhang mà tế Đạm Tiên 19 Không ai ngờ đồng bệnh tương lân 20 Sẵn nghiên bút để thơ thập thủ 21 Đoạn trường sổ can nguyên từ đó 22 Kiều ngậm ngùi khinh cụ biết bao 23 Bởi hoàng hôn trời đã xế chiều Nhịp 3/2/2 3/2/2 3/2/2 3/2/2 3/2/2 3/2/2 3/2/2 3/1/1/1/1 3/3/2 3/2/2 2/3/2 3/2/3 4/4 3/4 3/4 2/3/2 3/2/2 3/4 3/4 3/4 3/2/2 3/2/2 3/4 Hài thanh T – B - B B – B - T B – T - T B – B - T T – B - B B – T - B B – B - B B - B – B B – B - B B – B - B T – B - B T – B - B B – T - B B – B - B T – T - B B – T - T B – B - B B – B - T B – B - B B – T - T B – B - B T – B - T B – B - T
67PL
Stt Ca từ 24 Vương Quan nhủ Vân Kiều trở lại 25 Sự này bởi thiên duyên đem lại 26 Bởi anh dòng xưa hối hả kim liên 27 Từ tạ rồi cáo các tan hang 28 Nào có biết lòng chàng ra cối dục 29 Thuê nhà, chàng đông lân trọ học 30 Ngày thường thường chắp mục thư hiên 31 Sự chẳng qua cũng bởi thiên duyên 32 Dắp cây những tơ hồng định trước 33 Lấy thoa ấy làm tin cầu ước 34 Xui chường Kim bắt được mang về 35 Ngẫm nghĩ còn để trước án kề 36 Bỗng nghe thấy bên kia xin lại 37 Cánh hoa ngắm còn đương nhớ ngãi 38 Dựa tai nghe văng vẳng tiếng chường 39 Quạt ước hòa cùng đàn xe cống 40 Mênh mông giả xui nên lòng động 41 Lúc mẩn mê toan dờ dạ lần khân 42 Chữ hiếu trung văn vẻ ân cần 43 Xin thương lấy chút thân bồ liễu Nhịp 3/4 3/4 4/4 3/4 3/3/2 2/3/2 3/4 3/4 3/4 3/4 3/4 4/3 3/4 3/4 3/4 2/2/3 2/2/3 3/3/2 3/4 3/4 Hài thanh B – B - T B – B - B B – B - T T – T - B T – B - B B – B - T B – T - B T – T - B B – B - T B – B -B B – T - B T – T - T B – B - B B – B - T B – B - T T – B - B B – B - B T – B - T T – B - B B – T - B
44 Chường muốn định cương thường đại điêu
3/4 3/4 T – B - T B – T - B
46 45 Trình thông huyên định liệu nhân duyên Trao phím đàn cùng mảnh hương nguyền
47 Phút nghe tiếng gà kia gáy giục 48 Cung đàn ta còn đường chuyển khúc 49 Cả hai nhà đều mắc án gia 50 Thằng bán tơ vu cáo thực thà 51 Nên đến nỗi ông già mắc cạn. 3/4 1/4/2 3/4 3/4 3/4 3/4 T – B - B B – B - T B – B – T B – B - T T – B - T T – B - T
68PL
24. BÚT HUÊ THẢO
Stt Ca từ
Tâm sự này vằng vặc bóng trăng soi Sự nhân duyên đem lại bởi trời
Nhịp 3/4 3/2/3 3/4 3/4 3/4 Hài thanh B – B - T T – B - T B – B - T T – B - T T – B - B
6 3/3/2 B – B - T 1 Bút huê thảo tình thư một bức 2 3 4 Khi hội ngộ nguồn non với nước Trong dạ nọ đinh ninh từ trước 5 Dặn lòng này bao khoảng cách quan san
7 Một châu phiên với một ngân hà 8 Khi dâu bể lấy phượng loan làm bạn 9 Khi tri âm mấy người biệt nhau 10 Chữ chung tình xin ai chớ quên ai 11 Nhạn nhìn cá dám đơn sai 3/4 3/3/2 3/4 3/2/3 2/2/2 B – T - B B – T - B B – T - T B – B - T B – T - B
12 Sông với nước chớ nghe ai mà chểnh mảng
3/3/3 4/4 2/2/2 2/2/2 2/3/2 3/4 3/3/2 3/4 3/4 3/4 3/2/3 3/2/2 3/4 3/4 3/4 3/4 T – T - B T – B - T B – T - B B – T - B B – B - B T – T - B B – B - T B – B - B B – T - B B – T - T B – B - T T – T - B B – B - B B – T - B T – T - B B – T - B
28 13 Tới tiết trăng thu về sáng bắc cầu 14 Ở liền giữa quãng sông Ngân 15 Bõ khi then khóa buồng xoan 16 Ôm đàn, chường đòi phen chờ đợi 17 Đây với đấy đã nên kim cả 18 Cát đằng vương đành mượn gió đưa duyên 19 Nghĩ làm sao cho vẹn nhời nguyền 20 Đãi đằng ấy thắt cho khăng khít 21 Nhời kim ngọc chỉ cùng nhật nguyệt 22 Phần phong lưu dành gặp khách phong lưu 23 Vốn định nơi dắt chỉ gieo cầu 24 Sẵn duyên đó nhờ nơi manh mối 25 Châu Trần hợp một nhà giai phối 26 Ngọc đuốc thành nhất đối song song 27 Dắp chèo mây hỏi đấng khuynh thương Nhắm thanh điền hỏi chường Đông Phương Sóc. 3/1/4 B – T - B
69PL
25. PHÚ XÍCH BÍCH
Stt Ca từ
1 Chàng Trịnh Quân lấy ả Thị Dương 2 Vợ chồng sắm thuyền lương xuôi chầy 3 Đêm tôi nằm chiêm bao lần thấy 4 Vợ thương chồng chẳng mấy khi rời 5 Nước thủy triều thanh dâng đầy vơi 6 Rượu quỳnh đế quá say nên giấc 7 Giao lưu cầu kể mình sánh vậc 8 Đương nửa đêm nàng mới ra đi 9 Chàng Trịnh Quân thực thức một khi 10 Tưởng sự vợ đi tìm đến đấy 11 Quần áo thấy mà người không thấy 12 Chàng Trịnh Quân bối rối thêm thương 13 Khen ai sao khéo phụ phường . Nhịp 3/4 2/3/2 3/4 3/4 3/4 3/4 3/4 3/4 3/4 2/3/2 3/4 3/4 2/2/2 Hài thanh T – T - T B – B - B B – B - B B – T - B T – B - B B – T - B B – T - T T – B - B T – T - T T – B - T T – B - B T – T - B B – T - B
26. PHÚ NĂM CANH
Stt Ca từ
Bây giờ sang (hồ) trống một Chim bay về sườn núi Lịch San
Thuyền đong đưa, đủng đỉnh tiếng chầy Chú tiều phu hái củi chất đám mây
1 2 3 Ve sầu gọi, nhạn nhủ dê đàn Sông lai láng buồn về góc bể 4 5 Chiêng bằng gác non đoài xế xế 6 7 8 Mục eo éo dắt trâu về chuồng chạ 9 Ngư bắc cầu ngồi chơi thong thả 10 Canh bắc cày dựa mát thảnh thơi 11 Thiếp khuyên chường nhóm lửa thư trai 12 Ôn kinh sử ra trường giảng giải 13 Đêm khuya khoắt đông hồ se cạn Nhịp 3/2 3/4 3/4 3/4 2/3/2 3/4 3/2/3 3/2/3 3/2/2 3/2/2 3/2/2 3/4 3/4 Hài thanh B - T B – B - T B – T - B B – B - T B – B - T B – T – T B – T – T B – T - B T – B - B T – T - T B – T - B B – B - T B – B - B
70PL
Stt Ca từ 14 Nhưng âm thầm canh đã sang hai 15 Nhà ai đương cửa đóng then cài 16 Phòng loan hợp lầu son chật khóa 17 Dưới thủy bóng trăng vờn với cá 18 Núi vượn san chuông đâu cắm thuyền 19 Dòng bích duyên nửa huỳnh thấp thoáng 20 Trên cửa khánh vân còn lại láng 21 Thiếp khuyên chường vượt khỏi ba đào 22 Đường công danh chớ nghĩ trần lao 23 Việc gia thất đã đành có đấy 24 Trong sách xưa thánh hiền đã dậy 25 Tiếu tiểu tu cần học 26 Văn chương cả chí thân 27 Mãn tiều tu tụ quý 28 Tân thư đọc thư nhân 29 Sang canh ba, gà đã gáy giục 30 Thiếp thức chường trở dậy thư nghiệp 31 Chường thời ôn kinh thánh chuyện hiền Thiếp vẫn giữ chăn bông gối đệm. 32 Nhịp 3/4 3/2/2 3/4 2/2/3 3/4 3/4 3/4 3/4 3/4 3/4 3/4 2/3 2/3 2/3 2/3 3/4 2/3/2 3/4 3/4 Hài thanh B – B - B B – T - B B – B – T T – B - T T – B - T T – T – T T – B - T B – T - B B – T - B B – T - T T – T - T T - B B – T B – T B – B B – B - T T – T - B B – B – T T – B – T
27. HÁT RU
Stt Ca từ
Tay tiên chuốc chén rượu đào 1 2 Bỏ ra thời tiếc uống vào thời say 3 Đố ai quét sạch lá rừng 4 Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây. 5 Một thương tóc để đuôi gà 6 Để em ăn nói mặn mà thêm xinh 7 Hai thương em ngủ một mình 8 Để anh đi lại ra tình trăng hoa 9 Ba thương áo lượt quần là 10 Để anh lấy mặc đi ra, đi vào Nhịp 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/2/2 Hài thanh B – T – B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B
71PL
Stt Ca từ 11 Bốn thương con mắt xinh xinh 12 Đưa đi liếc lại biết bao nhiêu tình 13 Năm thương bộ nhẵn của mình 14 Khen ai khéo léo cho mình, mình ơi! 15 Sáu thương sà tích ống vôi 16 Hai tai lại có một đôi khuyên vàng 17 Bảy thương kỳ ngộ gặp nhau 18 Để anh kết nghĩa đá vàng trần châu 19 Anh mừng được chữ hảo cầu 20 Em mừng được chữ thông nhau một nhà 21 Một mừng Tần Tấn gặp nhau 22 Hai mừng kết ngãi Trần Châu một nhà 23 Ba mừng loan phượng giao hòa 24 Bốn mừng đây đấy trước xa sau gần 25 Năm mừng gặp bạn cố nhân 26 Sáu mừng chướng để đêm xuân mơ màng 27 Bẩy mừng nên điệu cương thường 28 Tám mừng ghi tạc đá vàng thủy chung 29 Chín mừng thục nữ hảo cầu 30 Mười mừng ta để trước sau xa gần. Nhịp 2/2/2 2/2/4 2/2/2 4/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/4/2 2/2/2 2/4/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 Hài thanh B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B
28. HÁT LÝ
Stt Ca từ
1 Con chim xanh đậu cánh núc nác 2 Anh hỏi thực nàng có chắc hay không Lý mấy câu kẻo sầu trong dạ 3 4 Ta với mình trước lạ sau quen. 5 Gặp nhau đây cầm tay em hỏi 6 Em hỏi thực chàng còn nhớ hay quên 7 Gặp nhau đây cầm tay hỏi thực 8 Duyên bởi trời thương được nhau chăng? 9 Gặp nhau đây như cây có rễ Nhịp 3/4 3/3/2 3/4 3/4 3/4 3/3/2 3/4 3/4 3/4 Hài thanh B – T – T T – B - T T – T - B T – T - B B – B - B T – B - T B – B - T T – B - B B – B - T
72PL
Stt Ca từ 10 Anh chẳng thương nàng hồ dễ thương ai? 11 Gặp nhau đây bẻ cây vạch đất 12 Em giở khăn trầu nước mắt tuôn rơi 13 Ai đưa đường (mà) ai chỉ nẻo 14 Ai lôi, kéo ta đến chốn này 15 Đoạn tiệc này ai tỉnh ai say 16 Cầm lấy tay (ố), cầm lấy tay 17 Tôi kéo lại, cám cảnh lòng tôi 18 Xin chường đừng kể (nhôi) khúc nhôi 19 Nghe tiếng đàn cùng (mà) tiếng lý 20 Nhớ tri kỷ ngẫm nghĩ mà sầu 21 Duyên kỳ này trắc trở vì đâu 22 Cặp đôi mình xem ý càng xinh 23 Tình đây đó trăng gió đêm thanh 24 Đêm năm canh thiếp với chàng 25 Tình yêu mến, lửa gần rơm cũng bén 26 Thiếp cùng chường đôi đường đã hẹn 27 Thương sao cho vẹn thời thương…. Nhịp 3/3/2 3/4 4/4 3/3 3/4 3/2/2 3/3 3/4 2/2/2 3/1/2 3/4 3/4 3/4 3/4 3/3 3/3/2 3/4 2/2/2 Hài thanh T – B - T B – T - T T – B - T B – B - T B – B - T T – B - B T – B - B T – T - B B – T - B T – B - T B – T - B B – T - B B – B - B B – B - B B – T - B B – T - B B – B - T B – T - B
29. XIN HUÊ ĐỐ CHỮ
Stt Ca từ
Trình chàng quân tử
1 Hái huê ta ra hái huê 2 Chớ thấy huê tốt mà cầm cả 3 Nữa một mai huê rữa 4 Bán nửa đồng mười. 5 Anh xin nàng chút hoa nữa nàng ơi 6 7 Chàng chớ đãi bôi 8 Chàng ngạo duyên tôi (Là hoa gì?) 9 Đã vậy huê gì thời chàng phải nghĩ 10 Cho thiếp được hay 11 Anh xin nàng chút hoa trong đụn Nhịp 2/2/2 2/2/3 3/2 2/2 3/3/2 1/3 2/2 2/2 2/2/4 2/2 3/4 Hài thanh B – B - B T – T - B T - B T - B B – T – T B – T T - B T - B T – B - B T - B B – T - B
73PL
Stt Ca từ 12 Hoa trong đụn anh thuận huê gì? 13 Hoa trong đụn anh thuận huê lúa 14 Hoa lúa mùa này nó chưa nở. 15 Thiếp lại bẻ cho chường 16 Sợ chường chẳng yêu 17 Sợ chường chẳng dấu 18 Để hoa nụ héo 19 Huê hời huê hỡi là huê! 20 Anh xin nàng chút huê trong hộp 21 Huê trong hộp anh thuận huê gì? 22 Huê trong hộp anh thuận huê trầu 23 Huê trầu mùa này nó chưa nở 24 Nữa một mai nó nở. 25 Thiếp lại bẻ cho chường 26 Sợ chường chẳng yêu 27 Sợ chường chẳng dấu 28 Để huê nụ héo 29 Huê hời huê hỡi là huê! 30 Anh xin nàng chút huê trong lọ 31 Huê trong lọ anh thuận huê gì? 32 Huê trong lọ anh thuận huê rượu 33 Huê rượu mùa này nó chưa nở 34 Nữa một mai nó nở 35 Thiếp lại bẻ cho chàng 36 Sợ chàng chẳng yêu 37 Sợ chàng chẳng dấu 38 Huê hời huê hỡi là huê! 39 Anh xin nàng chút huê trong chậu 40 Huê trong chậu anh thuận huê gì? 41 Huê trong chậu anh thuận huê lan 42 Huê lan mùa này nó chưa nở 43 Thiếp lại bẻ cho chường 44 sợ chường chẳng yêu Nhịp 3/4 3/4 2/2/3 3/2 2/2 2/2 2/2 2/2/2 3/4 3/4 3/4 2/2/3 1/2/2/ 3/2 2/2 2/2 2/2 2/2/2 3/2/2 3/2/2 3/2/2 2/2/3 1/2/2 3/2 2/2 2/2 2/2/2 3/4 3/2/2 3/2/2 2/2/3 3/2 2/2 Hài thanh B – B - B B – B - B T – B - B T - B B - B B – T B – T B – T - B B – T - B B – B - B B – B - B B – B – B T – T T - B B - B B – T B – T B – T - B B – T - B B – B - B B – B - B T – B - B T – T T - B B - B B – T B – T - B B – T - B B – B - B B – B – B B – B - B T - B B - B
74PL
Stt Ca từ 45 Sợ chường chẳng dấu 46 Để huê nụ chẳng dấu 47 Để huê nụ héo 48 Huê hời huê hỡi là huê! Nhịp 2/2 1/2/2 2/2 2/2/2 Hài thanh B – T B – T B – T B – T - B
49 Anh đố em biết huê gì nở trong rừng bạc bội
50 anh đố em biết huê gì nở nội đồng? 4/2/3/2 4/2/3 T – T - B T – T - B
51 4/2/3/2 T – T - B
52 Anh đố em biết huê gì nở bảy tám lần chông? Anh đố em biết huê gì mùa đông nở trắng vàng?
53 Anh đã đố thời anh lại giảng ra hòa 4/2/3/2 3/3/3 T – T - B T – B – T
54 Em chẳng biết thời anh lại giảng có dân làng nghe
3/4/4 2/2/3/2 2/2/4 T – B – T B – B - B B – T – T
57 2/3/4 B – T – T
58 2/2/3/2 B – T - B
59 55 Hoa sim hoa mua nở trên rừng bạc bội 56 Nhược bằng hoa lúa nở nội đồng không Nhược bằng hoa dứa nở bảy tám lần chông Nhược bằng hoa cải nở mùa đông trắng vàng. Anh đố em biết chữ gì trên trời rơi xuống?
4/4/2 4/4/2 4/4/2 T – T - B T – T - B T – T - B
62 60 Anh đố em biết chữ gì làm ruộng nuôi ta? 61 Anh đố em biết chữ gì nên việc cửa nhà? Anh đố em biết chữ gì thấy người qua chẳng chào?
63 Anh đã đố thời anh lại giảng hòa 4/2/3/2 3/3/2 T – T - B T – B – T
64 Em chẳng biết thời anh lại giảng có dân làng nghe
65 Vũ là mưa trên trời rơi xuống 66 Ngưu là trâu làm ruộng nuôi ta 67 Thế là vợ nên việc cửa nhà 68 Nộ là giận thấy người qua chẳng chào. 3/4/4 3/4 3/4 3/4 3/3/2 T – B – T B – B - B B – B – B B – B – T B – T - B
75PL
Nhịp 3/2/4 4/2/4 4/2/4 Hài thanh T – T – B T – T - B T – T - B
72 Stt Ca từ 69 Anh đố em chữ gì chu chu chắm chắm? 70 Anh đố em biết chữ gì ẵm con mà ru? 71 Anh đố em biết chữ gì sáng trong giai cù? Anh đố em biết chữ gì khu khu chống gậy?
4/2/4 3/3/3 73 Anh đã đố thời anh lại giảng ra hòa T – T - B T – B – T
74 Em chẳng biết thời anh lại giảng có dân làng nghe:
3/4/4 3/4 3/4 3/4 3/4 4/2/4 4/2/4 4/2/4 T – B – T B – B – T B – T – B B – T - B B – B – T T – T – B T – T - B T – T – B
82 4/2/3/2 T – T - B
83 75 Phật là bụt chu chu chắm chắm 76 Mẫu là mẹ ẵm con mà ru 77 Đăng là đèn sáng trong giai cù 78 Lão là già khu khu chống gậy 79 Anh đố em biết chữ gì kíp gầy kíp béo? 80 Anh đố em biết chữ gì thèo thẹo ngoài ra? 81 Anh đố em biết chữ gì xoạc đôi chân ra? Anh đố em biết chữ gì nước chảy ra đằm đằm? Anh đã biết thời anh lại giảng có dân làng nghe:
3/4/4 3/4 3/4 4/3/2 4/2/4 4/2/4 4/2/4 T – B – T B – T – T B – B – B B – B – T T – T – B T – T – B T – T – B
90 84 Mã là ngựa kíp gầy kíp béo 85 Yên là vành thèo thẹo ngoài ra 86 Hãn là bồ hôi nước chảy ra đằm đằm 87 Anh đố em biết chữ gì trơ trơ nằm ngửa? 88 Anh đố em biết chữ gì có nửa đôi bên? 89 Anh đố em biết chữ gì trụ dưới trụ trên? Anh đố em biết chữ gì nhắc gót chân là đánh vào?
91 Anh đã đố thời anh lại giảng ra hòa 4/2/3/3 3/4/2 T – T – B T – B – T
92 Em chẳng biết thời anh lại giảng có dân nghe:
93 Chu là thuyền trơ trơ nằm ngửa 94 Mạn là man nên có nửa đôi bên 95 Kíp là bánh lái nên trụ dưới trụ trên 3/4/3 3/4 3/2/3 4/1/4 T – B – T B – B – B B – B – T B – T – T
76PL
Stt Ca từ 96 Chèo là dậm lái gót lên đỉnh đánh vào Nhịp 4/3/2 Hài thanh B - T – B
97 4/2/4/2 T – T – B
98 4/2/4/2 T – T – B
99 4/2/4/4 T – T – B
100 Anh đố em biết chữ gì ăn no lại nằm xếp vó? Anh đố em biết chữ gì ăn no lại nằm xếp chân? Anh đố em biết chữ gì ăn no lại lên chầu chực táo quân? Anh đố em biết chữ gì để đôi chân dập dềnh?
101 Anh đã đố thời ạnh lại giảng ra hòa 4/2/3/2 3/4/2 T – T – B T – B – T
102
Em chẳng biết thời anh lại giảng có dân làng nghe: Ngưu là trâu ăn no nằm xếp vó
103 104 Khuyển là chó ăn no nằm xếp chân 3/4/4 3/2/3 3/2/3 T – B – T B – B – B B – B – B
105 3/2/3/2 B – B – B
106 Mão là mèo ăn no nằm chầu chực táo quân Nữ là con gái dệt cửi để đôi chân dập dềnh
107 Anh đố em biết chữ gì lên ngôi tức vị? 108 Anh đố em biết chữ gì sở trị vạn dân? 109 Anh đố em biết chữ gì ba tiếng kêu dân 4/2/3/2 4/2/4 4/2/4 4/2/4 B – T – T T – T – B T – T – B T – T – B
110 Anh đố em biết chữ gì sở trị vạn dân trong ngoài?
111 Anh đã đố thời anh lại giảng ra hòa 4/2/4/2 3/4/2 T – T – B T – B – T
112 Em chẳng biết thời chường phải giảng cho thiếp được hay
113 Vương là vua lên ngôi chức vị 114 Chúa là chúa sở trị vạn dân 115 Thần là thần ba tiếng kêu dân 3/4/4 3/4 3/4 3/4 T – B – T B – B – T B – T – T B – B – B
116 3/3/4 B – T – T
117 Giáo là chính, giáo sở trị ba quân trong ngoài. Anh đố em biết chữ gì cao như mười trượng? 4/2/4 T – T – B
77PL
Stt Ca từ 118 Anh đố em biết chữ gì có mảnh đôi bên? 119 Anh đố em biết chữ gì trụ dưới trụ trên? 120 Anh đố em biết chữ gì hai bên giao vào? Nhịp 4/2/4 4/2/4 4/2/4 Hài thanh T – T – B T – T – B T – T – B
121 3/4/3 T – B – T
122 Anh đã đố thời anh lại giảng dân làng nghe. Em chẳng biết thời chường phải giảng cho thiếp được hay:
123 Sào là sào cao dư mười trượng 124 Châu là thuyền có mảnh hai bên 125 Tiếp là bánh lái trụ trên 126 Thủy là nước đôi bên giao vào 3/4/4 3/4 3/4 4/2 3/4 T – B – T B – B – B B – T – B B – T – B B – B – B
30. HÁT ĐÚM
Stt Ca từ
1 Nhịp 4/4 Hài thanh B – B – B
2 4/3/3 T – B - T Tôi chiềng đôi bên hàng quan tứ dân Lẳng lặng mà nghe tôi hát đúm thời đại vương
Long, ly, qui, phượng tứ quý vi rồng chầu
Tam san, tứ hải rồng chầu đôi bên
Đức thánh tổ linh người năng ứng hộ
3 Đình đây đóng hướng cũng xinh 4 5 Ngũ hổ thì ở đằng sau 6 7 Đá hoa dân để kê thần 8 Bốn góc chữ triện, giữa nên ngọc tình 9 Chúc cho dân được khang ninh 10 Đa phú, đa quí, đa đinh, đa tài 11 Vậy có thơ đúm rằng: 12 Ba nén nhang thơm thấu đến chín lần 13 Kính thiên, kính địa, kính linh thần 14 15 Già khác khỏe, trẻ bình yên 16 Đúm này em đã thơ rồi 17 Đông dân quý chức, đúm bay cho tới. 2/2/2 4/3/2 2/2/2 2/2/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/1 4/4 2/2/3 4/4 3/3 2/2/2 4/4 B – T – B B – T – T T – T – B B – T – B B – T – B T – T – B B – T – B T – T – B T – T T – B – T B – T – B T – B – B T – T – B B – T – B B – T – B
78PL
Không dưng ai dễ biết ai là gì
Stt Ca từ 18 Năm mới mới tới 19 Dân ta mở tiệc tháng giêng 20 Dân ta cải cựu tòng tân 21 Lập ngôi đình mới giữa thân con rồng 22 Ao làng tích thủy nhiều niên 23 Đã có nghiên bút kết nguyền 24 Mồng một cá đi ăn thề 25 Mồng hai cá về cá vượt vũ môn 26 Trai khôn lấy được vợ khôn 27 Khác nào cá vượt vũ môn hóa rồng 28 Vậy có thơ đúm rằng: 29 Bút vui chơi họa một bài 30 Dặm trường tri kỷ nàng chớ nghe ai 31 Cách mặt, cách lời, lòng không cách 32 phai duyên, phai phấn, tình không phai 33 Trúc ở mai về nhớ trúc 34 Mai về trúc ở, trúc nhớ mai 35 Trời xanh biển rộng như y 36 Dân ta mở tiệc nam phương phượng chầu 37 Trong thời bốn bể cửu châu 38 Ngoài thời tám cõi khấu đầu là tôi 39 Làm trai nay đã gặp thời 40 Rượu bầu, thơ túi dạo chơi cõi ngoài 41 Đám vui đấu trí thi tài 42 43 Ngoài thời thi tửu cầm kỳ 44 Lương gia tửu cầm kỳ 45 Lương gia tuệ đệ tử hiện ghi bốn dòng 46 Đám vui quyết lấn vào trong 47 Càn không vui thú vẫy vùng chơi xuân 48 Đến đây chúc tụng mừng dân 49 Trai lành gái tốt phong vân gặp thời 50 Đến đây ghi lại mấy nhời Nhịp 2/2 2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/4/2 2/2/1 3/3 4/4 2/2/3 2/2/3 2/2/2 3/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 3/2 4/2/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/4 2/2/2 Hài thanh T – T B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B T –T – B T – B – B B – B – T B – T – B B – T – B T – T B – T – B B – T – T T – B – B B – T – B T – B – T B – T – T B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – B B – T – T B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B
79PL
Stt Ca từ 51 Ba sinh nguyện ước mấy lời đào tiên. 52 Khuyên anh có chí học cho hay 53 Cơm ba bữa sẵn có cha cày mẹ cấy 54 Áo bốn mùa sẵn có bác mẹ may 55 Cờ bạc cò quay xin anh lánh mặt Nhịp 2/2/2/2 2/2/3 3/2/2/2 3/2/3 4/4 Hài thanh B – T – B B – T – B B – T – B T – T – T T – B – B
56 Bút nghiên đèn sách khuyên anh chớ rời tay
Đông dân chức thời ngồi mà nghe
57 Đúm này em đã thơ rồi 58 59 Đúm này em dặm thời nghe 60 Đúm bay cho đến áo the cờ đào 61 Nay mừng mờ hội thái hòa 62 Dân ta mở tiệc xướng ca vui vầy 63 Tiếng đồn dậy khắp đông tây 64 Rồng bay màn vóc, phượng bay cờ đào 65 Định từ xây đắp xinh sao 66 Kỳ viên đất bụt, đông đào cảnh tiên 67 Địa đồ họa vẽ tự nhiên 68 Tỏ lòng lữu bố hai bên chầu vào 69 Đất sinh ra kẻ anh hào 70 Văn linh chữ tốt, lược thao toàn tài 2/2/2/3 2/2/2 3/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 3/3 4/4 3/3 4/4 B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B
71 Già thọ vực trẻ xuân đài Sĩ, nông, công, thương cô chen vai hoàn cầu
Quỳnh tương hai cụ khác dân kiều bành
72 Cụ từ, cụ chủ sang giầu 73 74 Ba hàng già trẻ khang ninh 75 Bên dân, bên họ thái bình hơn xưa 76 Đôi bên tứ vị phụng thờ 77 Phù cho hộ giáo, tóc tơ duyên dài 78 Các điều chúc vịnh đã rồi 79 Bức huê xin thảo một vài câu thơ 80 Vậy có thơ rằng: 81 Nhớ ơn tứ vị hô đối dân 3/3/4/3/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2 4/3 T – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B T – B B –T – T
80PL
Stt Ca từ 82 Sớm gặp ngày xuân, mở tiệc xuân 83 Lừng lẫy Phù Ninh cùng Lập Thạch 84 Dập dìu tài tử với giai nhân 85 Thi tứ kể đã văn minh 86 Bây giờ kể đến sự tình đôi ta 87 Đúm này anh đã thơ rồi 88 Cô nào vào hát đồng thời đứng lên 89 Đào ơi đào xích lại đây 90 Anh cầm quả đúm trao tay cho đào 91 Xin chường đèn sách văn chương 92 Dầu hao thiếp thắp cho chường học nho 93 Cơm bưng thiếp rót nước cho 94 Tay bưng bát nước, tay cầm cái tăm 95 Trống một thiếp chửa lo làm sớm mai 96 Xin chường khách trải chiếu hoa 97 Ngày thời giầy dép vào ra chơi bời 98 Nước thời bưng đến tận nơi 99 Cơm thời nấu chín mời chường dậy ăn 100 Vạy có thơ đúm rằng: 101 Cành xanh lá phấn chỉ Tấn tơ Tần 102 Xe một mối chăn loan gối phượng 103 Đẹp nọ đôi thương (với nao), nhớ với nao Nhịp 4/3 4/3 4/3 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/3/3 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 1/2/2 2/2/2/2 3/4 4/3 Hài thanh T – B – T T – B – T B – T – B T – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B T – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B T – T B – T – T T – B – T T – B – T
104 Khoan khoan quả đúm đưa vào chường có yêu chăng?
105 Quê anh thời ở Bắc Ninh 106 Trời cho phú quý hiển vinh sang giàu 107 Đá xanh anh xếp một nơi 108 Đá hoa anh để trên đời khoe khoang 109 Cột nhà anh đúc bằng vàng 110 Cây đầu bằng bạc, xà ngang bằng ngà 111 Nền thời anh lát đá hoa 112 Nay anh ơn phận nhờ cha 113 ơn cha nhớ mẹ được mười anh em 2/4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2 2/2/4 B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B
81PL
Chín anh làm quan chẳng hèn
Stt Ca từ 114 115 Phận anh là út, đàn em ở nhà 116 Anh cả thời đỗ thủ khoa 117 Anh hai tiến sĩ, anh ba tú tài 118 Anh tư coi huyện làng ngoài 119 Anh năm coi cả huyện ngoài huyện trong 120 Anh sáu coi huyện Hải Phòng 121 Anh bẩy coi huyện ở trong Ninh Bình 122 Anh tám coi huyện Bắc Ninh 123 Anh chín coi cả huyện mình huyện ta 124 Nay anh ơn phận nhờ cha… 125 Vậy có thơ đúm rằng: 126 Ngôn ngoại nhởn nhơ đường huê quả 127 Đường tình già dặm bóng cỏ cây 128 Trên bốn chữ vàng mong anh linh ứng 129 Cửa sơn án vẽ những rồng mây 130 Đào ơi đào xích lại đây 131 Anh cầm quả đúm trao tay cho đào 132 Trách con tạo ra lòng giáo giở 133 Nông nỗi này biết thuở nào khuây 134 Những lời anh nói trước dầy làm sao 135 Bây giờ anh nghĩ thế nào? 136 Dứt tình mà lại đặt vào đống chông. 137 Vì ai xui xiểm nhịp cầu gẫy ngang 138 Tôi tiếc công tôi chọn đá thử vàng 139 Biết ra cũng chẳng đa mang làm gì. 140 Trăng tròn rồi lại khuyết đi 141 Có tròn lại đợi đến thì năm sau 142 Lời nói không đánh mà đau 143 Cơn vui bỗng hoá cơn sầu tự nhiên 144 Trách rằng cái số vô duyên 145 Chỉ hồng đang thắm tự nhiên phai dần. 146 Đúm kia đúm ở Phù Ninh Nhịp 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/4/2 2/2/2 2/2/1 4/3 3/4 4/4 3/4 2/2/2 2/2/2/2 3/4 3/4 2/3/3 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2/2 4/4 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 Hài thanh B – B – B B – T – B T – T – B B – T – B B – T – B B – T – B T – T – B T – T – B T – T – B T – T – B B – T – B T – T T – B – B B – T – T T – B – B B – T – B B – T – B B – T – B B – B – T T – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B T – B – T B – T – B B – T – B B – T – B T – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B
82PL
Stt Ca từ 147 Ai khéo vẽ hình cho đúm sang đây Nhịp 4/4 Hài thanh T – B – T
148
Để anh kết ngãi giao hòa với gái Phù Ninh Đúm này anh kết ở ngoài
(A nga!) đất ta đây danh tiếng đại địa
(A nga!) tiệc xuân này chỉ có một lần
(A nga!) trên thượng đẳng rồng chầu ba vị
4/2/4 2/2/2 4/4 4/4 2/2/2 4/4 3/4 3/4 3/4 4/4 3/4 3/4 B – T - B B – T – B B – T – B T – T – B B – T - B B – T - B B – B - T T – B – B B – T – T B – T – B T – B - B B – T – B
160 149 150 Người xem chật chội gửi nhời vào trong 151 Đào đứng phấp phỏng mà mong anh dày 152 Bây giờ anh đã vào trong 153 Đào nào lịch sự thì rầy đứng lên 154 155 Hội xướng ca là hội ngày xuân 156 157 Để anh ca xướng đêm xuân với đào 158 159 Dưới sân đình, phượng múa xinh thay (A nga!) đấy với đây tương phùng ngư thủy
(A nga! ) Thấy nàng mỹ nữ thanh tao
161 Anh với nàng gặp hội phong vân (A nga!) chơi cho tỏ mặt Tấn Tần 162 163 Chơi cho giao kết sắt cầm say sưa (A nga!) đôi ta duyên phận cũng ưa 164 165 Chim ngơ ngẩn núi, phượng say sưa tình 166 (A nga!) Thấy nàng mỹ nữ đánh đàn 167 Anh vào chơi cho long phiến linh đình 168 Trai tài gái sắc hữu danh 169 Cũng như Từ Thức sanh bên quan triều 170 171 Anh là quân tử anh chơi với đào 172 Nay mừng xuân tiết mới sang 173 Xướng ca tiệc mở dân làng ta đây 174 Mở tiệc này chơi xuân thứ nhất 175 Chữ rằng xuân bất tái lai 176 Thảo huê nao nức sum vầy 3/4 3/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 3/4 2/4 2/2/2 T – B – B T – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – B – T B – T – B B – T – B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B T – B - T B – T - B B – T - B
83PL
Chơi cho thật thỏa ong già hoa rụng
Nhịp 2/2/2/2/ 3/2/2 3/2/2 2/2/2 4/4 3/2/2 3/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 3/2/2 3/2/2 2/2/2 4/4 3/4 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 3/1/1/1/1 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 3/2/2 3/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 Hài thanh B – T - B T – B - B B – T - B B – T - B B – T - B T – T - B B – B - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B T – T - B T – B - T B – T - B B – T - B B – B - T T – B - T B – T - B B – T - B T – T - B T – B - T B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – T - B B – B - B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B Stt Ca từ 177 Huê đào đua nở đôi cây xuân tình 178 Ta với mình Phù Ninh – Cao Mại 179 Vốn xưa nay kết ngãi Châu Trần 180 Đường trường cách trở núi non 181 Còn nhời vàng đá hãy còn đêm nay 182 Đã đến đây chẳng duyên thì nợ 183 Mối tơ mành ai gỡ cho ra 184 Ngàn năm chỉ một đôi ta 185 Bởi vì tiệc hát xướng ca dõi truyền 186 Chữ rằng thiên lý giang sơn 187 Sánh đôi cũng được nhờ ơn chuyển vần 188 Ơn chuyển vần chỉ Tần tơ tấn 189 Đôi phượng này mang tiến lại cho 190 Khen ai sao khéo hẹn hò 191 Cách sông cũng lội, cách đò cũng sang 192 Cửa xuân này tuy rằng hiểm hóc 193 Khóa ngọc then vàng anh mở cũng xong 194 Có câu hoa trúc động phòng 195 Nỡ nào mà để phòng không lạnh lùng 196 Tuy bốn đường sĩ, nông, công cổ 197 Em thuận nghề nào, em ngỏ lời ra 198 Hay là thuận kẻ học trò 199 Thời anh gắng sức kết cho nên nguyền 200 hay là muốn kẻ nông cầy 201 Ruộng sâu một tấc anh cầy cũng lên 202 Chuyện ban đêm thế nào em nói 203 Chốn hoa phùng ta thử nhau chơi 204 Trời sinh ra lỗi ở đời 205 206 Dẫu rằng chú bác có ghen 207 Cửa xuân đã khóa, chẳng ai được vào
84PL
31. GIÃ CÁ (Bắt cá, Đánh cá, Mó cá)
Stt Ca từ
Đôi ta đánh cá đầm dơi
1 Kính trình làng nước 2 Thiên hạ đông tây 3 Dân về thuở trước 4 Đường Ngu bắt được 5 Đem lên về tâu: 6 Mồng một cá đi ăn thề 7 Mồng hai cá về cá vượt vũ môn 8 Vinh vinh rộng mở khôi khoa 9 Đại miêng miêng đức sáng soi khắp làng 10 Đánh xiếc hay là đành vó 11 Giọng giâm anh cứng anh đè riếc rô 12 Đôi ta đánh cá bóng trăng 13 Cá thời chẳng được thung thăng bắt đào 14 Cá riếc hay là cá rô 15 Sờ đi mò lại phải cô ả đào 16 17 Cá thời chẳng được đánh rơi cả hàm 18 Đôi ta đánh cá dưới sông Nhịp 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/4 2/2/2 4/4 2/2/2 Hài thanh B – T T – B B – T B – T B – B T – B – B B – B – T B – T – B B – T – B T – B – T B – T – B B – T – B B – T – B T – B – B B – T – B B – T – B B – T – B B –T – B
19 Đánh được con nhuồng thờ (thờ) đức đại vương
20 Đôi ta đánh cá dưới khe 21 Đánh được con mè thờ đức đại vương 22 Đôi ta đánh cá bóng đèn 23 Cá thời chằng được làm quen với đào 24 Cá bé anh phó cho đào 25 Bắt con cá lớn đem vào thờ vua 26 Anh bắt cá này như bông thiên lý 27 Anh bắt cá này cá quý hóa long 28 Đại vương dáng phước đình này 29 Ở đây đất tốt nở ra lắm rồng 4/4 2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 4/4 4/4 2/2/2 2/2/2/2 T – B – T B – T – B B – T – B B – T – B T – T – B B – T – B T – B – B T – B – T B – T – B B – T – B
85PL
Kinh Kha cua thược
Stt Ca từ 30 Trứng rồng lại nở ra rồng 31 Cây thông lại nở lá thông rườm rà 32 Tôi chúc cho ông chúa già 33 Già như hoa nở 34 Sinh nam đắc nam 35 Sinh nữ đắc nữ. Bản B chép: 1 Kính trình làng nước Thượng hạ thông hay 2 Tích hát cá này 3 4 Truyền rằng thuở trước 5 Đường Ngu bắt được 6 Dâng lên về tâu: 7 Yêu kết duyên cùng 8 Giao hòa công chúa 9 Kìa ông ngư phủ 10 đánh cá bến giang hồ 11 Lã Vọng thuở xưa 12 Câu chơi vị thủy 13 Đường Ngu có chí 14 Phù lập thành vương 15 Yên ấm thanh nhàn 16 Giỏ tươi rượu chúc 17 18 Cá vũ đã hay 19 Tích múa cá này 20 Dâng lên truyền rằng: 21 Thấy những điềm lành 22 Nay tôi kính chúc 23 Mừng làng khắp khắp 24 Chiếm bảng cao quan 25 Làng này tốt lúa Nhịp 2/2/2 4/4 3/3 1/1/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/2/1 2/2 1/3 2/3 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 2/2 1/2/1 2/2 1/3 2/2 2/2 2/2 2/2 Hài thanh B – T – B B – T – B T – B – B B – T B – B T – T B – T T – B T – B B – T B – T B – B T – B B – T B – T T – B T - B B – T B – T T – B T – B B – T B – T T – B T – B B – B T – B B – T B – T T – B B – T
86PL
Stt Ca từ 26 Cá lại dâng vào 27 Múa cá phen này 28 Dâng lên truyền rằng: 29 Tôi thấy đất tốt làng này an 30 Chắc chắn cao bằng non Thái Sơn 31 Vậy có thơ rằng: 32 Thuyền chèo đánh cá bến Tầm Dương 33 Ngày thời dãi nắng đêm dầm sương Nhịp 2/2 2/2 2/2 2/2/3 4/3 2/2 2/2/3 4/3 Hài thanh T – B T – B B – B T – T – B T – B – T T – B B – T – B B – T – B
34 Đánh cá phen này (đem về) thờ đức đại vương
35 Bốn bề đập đắp đã kín thay 36 Sờ đi mó lại đã tối ngày 37 Cá đâu thưa lưng ngang trái 38 Bắt lại ngỡ bé chẳng bằng bàn tay 4/4 4/3 2/2/3 2/2/2 4/4 T – B – T B – T – T B – T – T B – B – T T – T – B
39 Minh niên, minh niên mới (may) khéo (là) may.
40 Bắt được khách ả đào tôi hát 4/3 3/4 B – B – T T – T – B
41 (Nay)đào có thương anh (thì) đào bẻ lại đôi tay
Đại minh (minh) đức rộng xa gần
có đón thời đón cho liền
(Vông… là tập tầm vông) (Tập tầm vông) đôi ta đánh cá
42 Sửa túi thiết trầu nay: 43 Vinh vinh mở hội khôi khoa 44 45 Dân ta mở tiệc thờ thần 46 Đại vương phù hộ ninh dân đời đời 47 Ai về nhắn nhủ nhắn nhu 48 Nhắn cô đò hãy đón khách cho anh 49 50 Hết bao nhiêu tiền anh sẽ trả cho 51 52 53 Đánh cá đầm làng 54 Lá vông vông tầm vông tập tầm vông 4/3/2 2/2/1 2/2/2 2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 3/1/4 2/2/2 4/4 2/2 2/2 T – B – T T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – T T – T – B B – B – T B – T T – B
87PL
(Là) cá bé anh phó trả đào
Stt Ca từ 55 Đôi ta đánh cá đầm bên 56 Đánh được con vền thờ đức đại vương 57 (Là vông, vông tầm vông tập tầm vông) 58 Cá lớn anh phó trả đào 59 Anh bắt cá bé dâng chầu đại vương 60 61 Anh bắt cá lớn lên chầu đại vương. Nhịp 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 Hài thanh B – T – B T – B – T T – T – B T – T – B T – T – B T – T – B
88PL
32. GÀI HUÊ
Stt Ca từ
Tam thanh tên là một cảnh huê lúa
1 Tam thanh một cảnh huê mây 2 Vì nàng anh phải đến đây hát thờ 3 4 Dân ta thi đỗ chúa ông rước về Tam thanh một cảnh huê khoai 5 Làng ta thi đỗ mười hai ông nghè 6 7 Tam thanh một cảnh huê si 8 Dân ta thi đỗ vinh quy rước về 9 Tam thanh một cảnh huê chè 10 Làng ta thi đỗ ông nghè thượng thư 11 Tam thanh một cảnh huê cau 12 Đôi ta thấp bé lấy nhau cũng vừa 13 Tam thanh một cảnh huê cà 14 Đôi ta thấp bé làm nhà ở riêng 15 Tam thanh một cảnh huê nhài 16 Lòng anh muốn lấy cô cài cành huê 17 Tam thanh một cảnh huê hồng 18 Chường đã có lòng thiếp cũng xin vâng 19 Tam thanh một cảnh huê khoai 20 Lòng anh muốn lấy mười hai cô đào 21 Tam thanh một cảnh huê hiên 22 Lòng em muốn lấy quan viên làng này 23 Tam thanh một cảnh huê mây 24 Vì chàng em phải đến đây hát thờ 25 Xinh thay là cảnh huê gạo trên cao 26 Lòng ta muốn lấy ả đào Phù Ninh Nhịp 2/2/2 4/4 2/2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 4/4 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 2/2/2 2/2/2/2 4/4 4/4 Hài thanh B – T - B B – T – B B – B – T B – T - B B – T – B B – T – B B – T - B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B –T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B T – B –T B – T – B B – T – B B – T – B B – T – B B –T – B B – T – B B – T – T B – T – B
89PL
PHỤ LỤC 7
Bảng ví dụ các loại vần trong một khổ của các bài hát Xoan
Stt Loại vần Ví dụ Bài hát
1 Vần lưng Thương nàng ngọc nữ tần lâu Tứ mùa cách
Vui hòa nhị khí tay thâu gối vàng (Tứ đưa xoan cách)
2 Vần chân Một vốn chín đụn lại thêm trâu bò Thuyền chèo cách
Công khoe mực thước toàn no (Hò đò cách)
3 Vần liền sinh (ra) được một con gái
Mềm mại nết na
Đến năm mười ba Kiều Giang cách
Thanh tân dóng dẩy
Đến năm mười bảy ...
4 Vần cách Chốn chốn càng thêm rợp bóng hè
Khắc khoải tử quy lòng rầu rật
Ve sầu kêu mọi sở tiếng ve ve Hạ thời cách
Kim phong thôi tàn ngồi hóng mát (Mừng hạ cách)
Ngày tháng nhận xem hếtcảnh hè...
5 Vần ôm Đốt đèn thắp nến canh thâu đợi chờ
Đợi chờ chẳng thấy
Đứng đấy mà trông Thu thời cách
Thăm thẳm bờ sông Mừng thu cách
Ấy còn ai gọi đò
6 Vần hỗn Bốn bể cửu châu dân thuận hòa
hợp Dân thuận hòa gần xa phủ phục
Chùa đền gần xa phủ phục Trường mai cách
Lục quốc ninh ninh
Vua mở hội danh chốn hương đền
90PL
Chủ tịch UBND tỉnh Bùi Minh Châu và các đại biểu cắt băng khánh thành công trình phục hồi miếu Lãi Lèn giai đoạn II
PHỤ LỤC 8 MỘT SỐ HÌNH ẢNH DIỄN XƯỚNG CỦA HÁT XOAN TẠI MIẾU LÃI LÈN VÀ CÁC CUỘC THI
91PL
92PL