BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI --------------------

ĐẶNG THỊ HUẾ

PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP

Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1885-1918

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI- 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ HUẾ

PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP

Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1885-1918

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 9.22.90.13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. NGUYỄN DUY BÍNH

HÀ NỘI- 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình nghiên cứu khoa học

của riêng tôi. Các trích dẫn khoa học và tài liệu tham khảo nêu trong luận án

là trung thực. Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận án chưa từng được công

bố trong một công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 12 tháng 3 năm 2021

Tác giả luận án

Đặng Thị Huế

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài luận án, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của

nhiều tổ chức và cá nhân trong nước. Vì vậy tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn

sâu sắc đến Ban lãnh đạo cùng các Thầy Cô Học viện Tài chính, trường Đại

học Sư phạm Hà Nội, đặc biệt là PGS.TS Nguyễn Duy Bính đã tận tình

hướng dẫn để tôi hoàn thành luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, cán bộ, nhân viênTrung tâm

lưu trữ Quốc gia I, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Thư viện Quốc gia, Thư

viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí

Minh...đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi được tiếp cận với nguồn tài liệu phục

vụ cho việc nghiên cứu.

Tôi xin được gửi tới quý Thầy Cô, gia đình, đồng nghiệp, bạn bè lòng

biết ơn sâu sắc vì đã luôn giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập,

nghiên cứu và hoàn thành luận án.

Tác giả luận án

Đặng Thị Huế

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài. .......................................................................................... 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ................................................................ 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ................................................................. 3

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu. .................................................. 4

5. Đóng góp của luận án .................................................................................... 6

6. Bố cục của luận án ......................................................................................... 6

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ .............. 7

1.1. Nghiên cứu của tác giả nước ngoài. ............................................................ 7

1.2. Nghiên cứu của tác giả Việt Nam. .............................................................. 9

1.2.1. Nghiên cứu liên quan đến phong trào yêu nước ở Việt Nam. .................. 9

1.2.2. Nghiên cứu liên quan đến phong trào yêu nước ở Nam Kỳ. .................. 18

1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu. ........................................... 29

Chương 2. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở NAM KỲ TỪ

NĂM 1885 ĐẾN NĂM 1896 .......................................................................... 32

2.1. Khái quát về vùng đất Nam Kỳ. ................................................................ 32

2.1.1. Lược sử hình thành. ............................................................................... 32

2.1.2. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên. ............................................................. 35

2.1.3. Dân cư và truyền thống yêu nước. ......................................................... 35

2.2. Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ trước và trong giai

đoạn1885 -1896. ........................................................................................... 45

2.3. Phong tràotừ năm 1885 đến năm 1896. .................................................... 55

2.3.1. Khởi nghĩa của Phan Văn Hớn (1885). .................................................. 56

2.3.2. Khởi nghĩa của Ngô Lợi (1885-1890). ................................................... 63

2.3.3. Cuộc vận động của Đào Công Bửu (1885-1894). .................................. 71

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 76

Chương 3. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở NAM KỲ TỪ

NĂM 1897 ĐẾN NĂM 1918 .......................................................................... 78

3.1. Các yếu tố ảnh hưởng tới phong trào yêu nước ở Nam Kỳ. ...................... 78

3.1.1. Trào lưu tư tưởng mới du nhập và ảnh hưởng từ Nhật Bản và Trung

Quốc. ............................................................................................................... 78

3.1.2. Chính sách cai trị của thực dân Pháp. .................................................... 82

3.2. Phong trào từ năm 1897 đến năm 1918. ...................................................... 96

3.2.1. Phong trào Đông Du .............................................................................. 97

3.2.2. Cuộc vận động Minh Tân .................................................................... 102

3.2.3. Phong trào Hội kín ............................................................................... 113

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 125

Chương 4. NHẬN XÉT VỀ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP

Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1885-1918 .......................................................... 127

4.1. Đặc điểm và tính chất của phong trào ..................................................... 127

4.1.1. Đặc điểm .............................................................................................. 127

4.1.2. Tính chất .............................................................................................. 134

4.2. Tác động của phong trào ......................................................................... 141

Tiểu kết chương 4 ........................................................................................ 146

KẾT LUẬN .................................................................................................. 148

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI ......................................................................................................... 151

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 152

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 171

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTQG : Chính trị Quốc gia.

ĐHQG : Đại học Quốc gia.

KHXH và NV : Khoa học Xã hội và Nhân văn.

NCLS : Nghiên cứu Lịch sử.

Nxb : Nhà xuất bản.

VHTT : Văn hóa Thông tin.

1

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài

Với Hiệp ước Patenôtre (6.6.1884), triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng

thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, người dân Nam Kỳ giàu lòng yêu nước

vẫn cùng nhân dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ vùng lên đấu tranh. Giai đoạn từ năm

1885 đến năm 1918 có ý nghĩa quan trọng đối với lịch sử truyền thống đấu

tranh chống thực dân Pháp của nhân dân Nam Kỳ, đó chính là giai đoạn

phong trào yêu nước chống Pháp chuyển từ khuynh hướng phong kiến sang

khuynh hướng dân chủ tư sản. Các phong trào đấu tranh vũ trang thời kỳ

phong kiến đã lần lượt thất bại, các sĩ phu yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng

bởi tư tưởng dân chủ tư sản tác động từ bên ngoài vào đã thấy được sự cần

thiết phải thay đổi con đường đấu tranh theo hình thức mới phù hợp hơn để

giành thắng lợi.

Phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳgiai đoạn 1885-1918 diễn

ra với nhiều hình thức khác nhau, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân

tham gia, thể hiện rõ ý chí kiên cường, lòng quả cảm và tính sáng tạo, không

chịu khuất phục của người dân Nam Kỳ. Sự tác động của tình hình thế giới và

trong nước cùng những đặc điểm về vị trí địa lý, dân cư, kinh tế xã hội ở vùng

đất Nam Kỳ đã làm cho phong trào yêu nước chống Pháp ở đây hòa chung với

phong trào dân tộc, lại vừa mang dấu ấn riêng đặc thù của vùng đất Nam Kỳ.

Trong thời gian qua, đã có nhiều học giả nghiên cứu về phong trào yêu

nước chống Pháp ở Việt Nam giai đoạn 1885-1918 ở những khía cạnh, góc độ

khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam

Kỳ giai đoạn 1885-1918 sau gần một năm Việt Nam mất độc lập hoàn toàn,

thực dân Pháp áp đặt chế độ bảo hộ trên toàn Việt Nam đến khi chiến tranh

thế giới lần thứ nhất kết thúc mới chỉ được nghiên cứu trong các công trình

riêng lẻ. Hiện nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên

sâu và có hệ thống để làm rõ những yếu tốảnh hưởng đến phong trào,

2

diễnbiến, kết quả, tính chất, đặc điểm, tác động của phong trào đối với tiến

trình phát triển của lịch sử Nam Kỳ đầu thế kỷ XX, để từ đó thấy rõ sự thay

đổi căn bản của phong trào từ khuynh hướngphong kiến sang khuynh

hướngdân chủ tư sản. Bức tranh về phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam

Kỳgiai đoạn 1885-1918 vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ. Do đó, việc làm sáng tỏ

những vấn đề về phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳgiai đoạn 1885-

1918 có ý nghĩa quan trọng và cần thiết.

Nghiên cứu đề tài “Phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳgiai

đoạn 1885-1918” nhằm dựng lại một cách chân thực bức tranh về cuộc đấu

tranh kiên cường của nhân dân Nam Kỳ, góp phần làm sáng tỏ một phần quan

trọng của lịch sử Nam Kỳ thời cận đại, nhằm giảm bớt những khoảng trống về

lịch sử địa phương là điều cần thiết. Từ đó, cung cấp những tư liệu cần thiết

phục vụ trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Việt Nam thời

cận đại trong trường phổ thông, cao đẳng và đại học. Mặt khác, việc tìm hiểu

“Phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳgiai đoạn 1885-1918”nhằm ghi

lại những tấm gương và hành động yêu nước, để bồi đắp niềm tự hào chính

đáng và nhắc nhởthế hệ trẻ trân trọng, giữ gìn truyền thống của quê hương

Nam Kỳ. Đó là cơ sở giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, phát huy tinh

thần yêu nước, lòng tự hào khi bước vào giai đoạn mới: Xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Với những lí do trên, tác giả quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Phong

trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳgiai đoạn 1885-1918” làm luận án Tiến

sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, mã số 9.22.90.13.

2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở khai thác nguồn tài liệu, đặc biệt là nguồn tài liệu mới,tài liệu

lưu trữ, luận án phục dựngchuyên sâu và có hệ thốngbức tranh về phong trào

yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳgiai đoạn 1885-1918. Trên cơ sở đó, đánh giá

3

một cách khách quan, khoa học tính chất, đặc điểm, tác động của phong trào

đối với tiến trình phát triển của lịch sử Nam Kỳđầu thế kỷ XX.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án tập trung làm rõ những vấn đề khoa học sau đây:

-Phân tíchcác yếu tố vị trí địa lý, dân cư, kinh tế xã hội... tác động đến phong

trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918.

- Luận án đi sâu nghiên cứudiễn biến, kết quả của phong trào yêu nước chống

Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918 để thấy rõ sự chuyển biến từ khuynh

hướng phong kiến sang khuynh hướng dân chủ tư sản.

- Luận án làm rõ tính chất, đặc điểm, tác động của phong trào đối vớitiến trình

phát triển của lịch sử Nam Kỳ đầu thế kỷ XX.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các phong trào yêu nước chống

Pháp diễn ra trên địa bàn Nam Kỳtừ năm1885 đến năm 1918. Các phong trào

yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918 chuyển biến từ khuynh

hướng phong kiến sang khuynh hướng dân chủ tư sản. Vì thế đối tượng

nghiên cứu của luận án là các phong trào yêu nước theo hai khuynh hướng

nêu trên.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

*Về thời gian:

Luận án tập trung nghiên cứu phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam

Kỳ từ năm 1885 đến năm 1918. Luận án chọn năm 1885 để bắt đầu nghiên

cứu vì đây là thời gian sau gần một năm tính từ Hiệp ước Patenôtre (năm

1884) Việt Nam mất độc lập hoàn toàn vào tay thực dânPháp, phong trào đấu

tranh chống Pháp diễn ra liên tục trên phạm vi cả nước,năm 1885 cùng với

nhân dân Bắc Kỳ và Trung Kỳ trong phong trào Cần Vương, nhân dân Nam

Kỳ đã bước vào cuộc đấu tranh giành lại độc lập tự do.Luận án chọn năm

1918 để kết thúc nghiên cứu của mình vì năm 1918 chiến tranh thế giới lần

thứ nhất (1914-1918) chấm dứt. Đồng thời, giai đoạn 1885-1918 phong trào

4

yêu nước ở Nam Kỳ có sự chuyển biến từ khuynh hướng phong kiến sang

khuynh hướng dân chủ tư sản. Tuy nhiên,luận án còn mở rộng tìm hiểu thời

giantrước năm 1885 và sau năm 1918 để thấy được tính liên tục, quá trình

phát triển của phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ.

*Về không gian:

Luận án xác định phạm vi không gian nghiên cứu là các phong trào yêu

nước trên địa bàn tương ứng với các vùng Nam Kỳ lục tỉnh như cách phân chia

của triều Nguyễn. Do vậy, luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu chủ yếu là 6 tỉnh

Nam Kỳ thời Pháp cai trị. Cụ thể đơn vị hành chính Nam Kỳ gồm các tỉnh

sau:Gia Định, Biên Hòa,Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.

*Về nội dung:

Luận án tập trung đi sâu nghiên cứu bối cảnh lịch sử, diễn biến, kết quả

của phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918. Trên

cơ sở đó luận án đánh giá tính chất, đặc điểm, tác động của phong trào đối với

tiến trình phát triển của lịch sử Nam Kỳ đầu thế kỷ XX.

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tài liệu

Để nghiên cứu đề tài này, tác giảluận án đã khai thác từ nhiều nguồn tài

liệu khác nhau:

-Nguồn tài liệu hiện lưu trữ tạiTrung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Trung

tâm Lưu trữ Quốc gia II, đặc biệt là nguồn tài liệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc

gia II (Phông phủ Thống đốc Nam Kỳ) bao gồm các hồ sơ lưu trữ liên quan

đến phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ từ năm 1885 đến năm

1918.Đây chính là nguồn tư liệu gốc mang tính xác thực cao, hoàn toàn khách

quan, có giá trị giúp tác giảluận án khai thác, xử lý, đánh giá đúng, khách quan,

khoa học khi giải quyết những nhiệm vụ đặt ra của luận án.

-Các công trình nghiên cứu đã được xuất bản, công bố chứa đựng

những nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu gồm: sách chuyên khảo, sách

tham khảo, luận án, luận văn, bài nghiên cứuđăng trên các báo và tạp chí.

5

Các công trình này có đề cập đến các khía cạnh khác nhau của phong

trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng. Đây

là nguồn tài liệu có giá trị sử dụng khác nhau, qua đó giúp tác giả có cái nhìn

khái quát hoặc cụ thể trong khi nghiên cứu.

-Nguồntài liệu điền dãtại địa phươnggồm tài liệu hiện có tại phòng

truyền thống, phòng văn hóa, phòng địa chí, thư viện ở các địa phương như

các công trình nghiên cứu về lịch sử địa phương ở các tỉnh Nam Kỳ, gia phả,

thơ văn, hò, vè trong dân gian về các nhân vật lịch sử, về các cuộc khởi nghĩa,

những dấu tích còn sót lại tới ngày nay...Đây là nguồn tài liệu đã góp phần

cung cấp những thông tin cụ thể và chi tiết,giúp tác giả giải quyết những

nhiệm vụ đặt ra của luận án.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Luận án được thực hiện trên cơ sởnắm vững và vận dụng phương

pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây chính là phương pháp nhận thức

khoa học, giúp tác giả luận án định hướng tư duy và phương pháp nghiên cứu.

- Để giải quyết những vấn đề khoa học, luận án đã sử dụng hai phương

pháp cơ bản: phương pháp lịch sử và phương pháp logic nhằm làm rõ quá

trình lịch sử, tìm ra những vấn đề bản chất của phong trào yêu nước chống

Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918.

- Ngoài ratác giảluận án còn kết hợp sử dụng các phương pháp khác như:

+ Phương pháp sưu tầm và phân tích: giúp tác giả luận án sưu tầm và

phân tích các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu gồm sách, báo, tạp chí,

luận án, luận văn. Dù là tài liệu thứ cấp nhưng lại có vai trò quan trọng vì đã

giúp tác giả luận án tổng kết các kết quả nghiên cứu của những tác giả đi trước,

đồng thời làm sáng tỏ hơn những vấnđề chưa được đi sâu nghiên cứu.

+ Phương pháp điền dã: giúp tác giả khảo sát thực tế tại địa phương

hiện nay để phỏng vấn, sưu tầm, so sánh, xác minh độ tin cậy của tài liệu.

6

Phương pháp này giúp tác giả luận án tìm hiểu thêm về quy mô, đặc điểm của

phong trào, vai trò, vị trí của các nhân vật lịch sử.

5. Đóng góp của luận án

-Dựa trên những nguồn tài liệu phong phú và đáng tin cậy, luận án khôi

phục một cách đầy đủ, chuyên sâu và có hệ thống bức tranh sinh động về

phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918.

-Luận án phân tíchcác yếu tố như vị trí địa lý, dân cư, kinh tế xã

hội...ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành, phát triển của phong trào. Trên cơ

sở đó, đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan, khoa học về phong trào

yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ sau gần một năm Việt Nam mất độc lập hoàn

toàn vào tay thực dân Pháp đến khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918)

kết thúc.

-Luận án tập hợp, hệ thống những tài liệu có liên quan đến đề tài hiện

còn ở nhiều nơi khác,bổ sung nguồn tài liệu mới, làm phong phú thêm các

vấn đề của lịch sử cận đại Việt Nam, góp phần lấp khoảng trống về lịch sử địa

phương Nam Kỳ. Đồng thời,luận án còn có giá trị tham khảo, góp phần phục

vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về lịch sử Việt Nam cận đại

trong các trường học.

6. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung luận án chia làm 4 chương:

-Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề.

-Chương 2: Phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳtừ năm 1885

đến năm 1896.

-Chương 3: Phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳtừ năm 1897

đến năm 1918.

7

-Chương 4: Nhận xét về phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam

Kỳgiai đoạn 1885-1918.

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

1.1.Nghiên cứu của tác giả nước ngoài

Cuốn “Les Sociétés Secrètes en Terre d’Annam” (Những Hội kín trên đất

An Nam), Imprimerie Commerciale C. Ardin, Sài Gòn, (1926) [202]và

“Bonzes, pagodes et Sociétés Secrètes en Cochinchine” (Tăng lữ, chùa chiền

và những Hội kín ở Nam Kỳ),Extrème-Asie Revue Indochinoise Illustrée,

(1928) [203] của tác giả Georges Coulet đều đề cập đến phong trào yêu nước

chống Pháp ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX nhưng tác giả chủ yếu nói về phong

trào Hội kín, coi đây là yếu tố đặc sắc của phong trào yêu nước chống Pháp ở

Nam Kỳ. Cuốn “Les Sociétés Secrètes en Terre d’Annam” ngoài phần mở đầu

và kết luận, sách gồm có ba phần: Phần I: Vai trò của ma thuật trong những

Hội kín An Nam, phần II: Vai trò của tôn giáo trong những Hội kín, phần III:

Vai trò của các phàm nhân trong những Hội kín. Trong cuốn sách này, tác giả đã

đề cập đến các phong trào Hội kín cùng các thủ lĩnh tiêu biểu của Hội kín, đặc

biệt nhấn mạnh tính duy tâm của Hội kín, để từ đó rút ra nhận xét, đặc điểm, bản

chất Hội kín. Đây là tài liệu có giá trị tham khảo cho tác giả luận án.

Tác giả Philippe Devillers năm 1966 cho ra cuốn “Au Sud Vietnam …il y

a cent ans” (Một trăm năm ở miền Nam Việt Nam) [209]. Đây là công trình

nghiên cứu khá chi tiết về quá trình thực dân Pháp đến xâm lược Việt Nam,

đồng thời tác giả cũng nhắc đến các phong trào đấu tranh chống Pháp của

nhân dân Nam Kỳ. Trên cơ sở đó, giúp tác giả luận án giải quyết một số

nhiệm vụ đặt ra trong đề tài.

Giáo sư người Pháp Georges Boudarel, người đã dành cả tuổi trẻ của

mình để ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

8

Ông nghiên cứu nhiều về Phan Bội Châu, năm 1969ông cho ra mắt cuốn

“Phan Bội Châu et la société Vietnamienne de son temps” (Phan Bội Châu và

xã hội Việt Nam ở thời đại ông) [41]. Công trình đã được Nxb Văn hóa Thông

tin Hà Nội xuất bản năm 1998. Cuốn sách nghiên cứu khá rõ về hoạt động của

nhà yêu nước Phan Bội Châu, so sánh về con đường cứu nước của Phan Bội

Châu với Phan Chu Trinh, về phong trào Đông Du ở Nam Kỳ dưới dạng khái

quát. Đây là nguồn tài liệu có giá trị lớn để tác giả luận án tham khảo, phục vụ

cho việc nghiên cứu đề tài.

Sử gia người Mỹ David George Marr với công trình nghiên cứu

“Vietnamese Anticolonialism 1885-1925” (Việt Nam chống chủ nghĩa thực

dân 1885-1925) do University of California xuất bản năm 1971 [191] đã có

cái nhìn khái quát, nghiên cứu những tác động của cuộc khai thác thuộc địa

đến xã hội Việt Nam, qua đó tác giả đề cập đến một số phong trào yêu nước

chống thực dân Pháp tiêu biểu của nhân dân Việt Nam. Tác giả đã đi sâu

nghiên cứu về phạm vi phong trào, thành phần tham gia khởi nghĩa…nhưng

tác giả DavidGeorge Marr lại chưa đi sâu nghiên cứu về phong trào yêu nước

chống Pháp ở Nam Kỳ, thậm chí tác giả chỉ nhắc đến một cách khái quátso

với nhiều địa phương khác trong cả nước như ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Với độ dày 313 trang, công trình “The Rise of Nationalism in Vietnam,

1900-1941” (Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, 1900-1941) của

tác giả William J.Duiker, Cornell University Press, (1976) [194], đã đi sâu

nghiên cứu về các thế hệ người Việt Nam yêu nước được ảnh hưởng bởi yếu

tố Nho học như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…qua đó, tác giả đưa ra

những nhận xét của mình về đề tài nghiên cứu. Mặc dù, những nhận xét đó đã

được nhiều nhà nghiên cứu trước đưa ra nhưng đây vẫn là tài liệu có giá trị để

tác giả tham khảo khi giải quyết một số vấn đề trong luận án.

9

Năm 2000, Nguyễn Như Diệm và Trần Sơn đã dịch và cho ra mắt độc

giả cuốn “Phong trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của nó với Nhật Bản và

Châu Á” [149]. Đây là công trình nghiên cứu của tác giả người Nhật Bản

Shiraishi Masaya. Tác giả Shiraishi Masaya đã nghiên cứu một cách chuyên

sâu, khoa học về các phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam, đặc biệt

công trình đã đi sâu nghiên cứu về phong trào Đông Du của Phan Bội Châu,

nhất là khi Phan Bội Châu hoạt động ở Nhật Bản như tìm hiểu chủ trương,

đường lối, các hoạt động… của Phan Bội Châu. Ngoài ra, tác giả còn nghiên

cứu về phong trào Đông Du diễn ra ở Nam Kỳ.

Tại Hội thảo quốc tế về Phong trào Duy Tân ở Việt Nam, được tổ chức

tại Thành phố Aix en Provence (Pháp) ngày 3.5.2007 với chủ đề chính

“Vietnam, le moment moderniste (1905-1908)” (Việt Nam, thời điểm Duy tân

(1905-1908)) [81],phụ đề là “La réactivité d’une société face à I’intrusion

d’une modernité exogène” (Phản ứng của một xã hội đối mặt với sự thâm

nhập của xu hướng hiện đại ngoại sinh), đã có nhiều tác giả viết về Phong

trào Duy Tân cùng các nhân vật tiêu biểu của phong trào như: Nhà sử học

người Pháp Pierre Brocheux với tham luận “Gilbert Chiếu”, tham luận

“Phong trào Đông Du và Nhật Bản” của tác giả Namba Chizuru (Đại học

Tokyo), tham luận “Phan Bội Châu: một cánh tay chìa ra cho những người

Gia tô giáo” của tác giả Ives Jariel...Đây là những tham luận có giá trị, giúp

tác giảluận án có thêm cứ liệu để thực hiện đề tài.

1.2. Nghiên cứu của tác giả Việt Nam

1.2.1. Nghiên cứu liên quan đến phong trào yêu nước ở ViệtNam

*Nhóm nghiên cứu liên quan đến các yếu tố tác động tới phong trào

Cuốn “Việt Nam thời Pháp đô hộ” của tác giả Nguyễn Thế Anh, xuất

bản năm 1970 [5] gồm 3 phần: Sự chiếm cứ quân sự;Chế độ thuộc địa;Phản

ứng của dân Việt Nam đối với chế độ thuộc địa. Trên cơ sở nghiên cứu nguồn

10

tài liệu gốc khá đa dạng của chính quyền thực dân Pháp, tác giả Nguyễn Thế

Anh đã phân tích, lý giải một cách sâu sắc quá trình thực dân Pháp xâm lược

và thiết lập chế độ cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả

cũng đề cập đến các phong trào chống Pháp tiêu biểu như phong trào Cần

Vương, phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân... Đây là cuốn sách đã cung

cấp thêm những cứ liệu quan trọng, đặc biệt là chế độ cai trị hà khắc của thực

dân Pháp, giúp tác giả luận án đánh giá khách quan, chính xác về một trong

những nhân tố tác động đến phong trào chống Pháp ở Việt Nam.

Tác giả Chương Thâu với bài viết: “Chính sách của thực dân Pháp đối

với ảnh hưởng của Tân Thư ở Việt Nam” (NCLS, số 1 năm 1997, tr.7) [163]

đã nêu ra những biện pháp của chính quyền thực dân Pháp để hạn chế sự ảnh

hưởng tích cực của Tân Thư vào Đông Dương, qua đó giúp tác giả luận án

tìm hiểu thêm chính sách của thực dân đối với ảnh hưởng của Tân Thư cũng

như những ảnh hưởng tích cực mà Tân Thư đã tác động đến các nhà yêu nước

Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX.

Trong bài: “Nhìn lại tình hình xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX”

(NCLS, số 3 năm 1998, tr.29)[143], tác giả Trương Hữu Quýnh đã đề cập đến

tình hình kinh tế, xã hội, chính trị Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX, qua đó giúp

tác giả luận án có đánh giá khoa học hơn về một trong những nguyên nhân

của phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam.

Nghiên cứu “Tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX” của tác

giả Nguyễn Ngọc Cơ, in trong “Một số chuyên đề lịch sử Việt nam” do Trần

Bá Đệ chủ biên, xuất bản năm 2002 [22], đã phân tích các yếu tố hình thành

nên phong trào Duy Tân ở Việt Nam theo khuynh hướng dân chủ tư sản trong

những năm đầu thế kỷ XX. Đó làảnh hưởng từ cuộc vận động Duy Tân của

Nhật Bản, Trung Quốc, sự thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp ở

Việt Nam cuối thế kỷ XIX theo khuynh hướng phong kiến, những chuyển

11

biến về kinh tếxã hội ở Việt Nam dưới tác động từ cuộc khai thác thuộc địa

lần thứ nhất (1897-1914) của thực dân Pháp. Đây chính là những nhân tố

quan trọng, tác động đến tư tưởng của các sĩ phu yêu nước Việt Namnhư Phan

Bội Châu, Phan Chu Trinh...Bài nghiên cứu đã giúp tác giả luận án có những

đánh giá khách quan, khoa học về các yếu tố tác động đến phong trào yêu

nước chống Pháp ở Việt Nam nói chung, Nam Kỳ nói riêng trong những năm

đầu thế kỷ XX.

Cuốn “Lịch sử Việt Nam” (tập 6: từ năm 1858 đến năm 1896),do tác giả

Võ Kim Cương chủ biên, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2013 [25].

Cuốn sách đã giúp tác giả luận án tìm hiểu về các phong trào chống Pháp ở

Việt Nam trước năm 1885, trong đó có đề cập đến phong trào chống Pháp

trước năm 1885 ở Nam Kỳ. Đặc biệt trong chương V, cuốn sách đã giúp tác

giả tìm hiểu về chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Việt Nam

về kinh tế, chính trị, tư pháp, các đơn vị hành chính cùng những chuyển biến

chính trị, kinh tế xã hội nửa cuối thế kỷ XIX ở Nam Kỳ nói riêng và Việt

Nam nói chung. Đây chính là nguyên nhân sâu xa nhất của phong trào yêu

nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh đó, cuốn sách còn giúp tác giả

nghiên cứu các phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam từ năm 1885

đến năm 1896, đặc biệt là phong trào Cần Vương.

Cuốn “Lịch sử Việt Nam” (tập 7: từ năm 1897 đến năm 1918) do tác

giả Tạ Thị Thúy chủ biên, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2013 [170].

Cuốn sách đã đề cập đến chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, những biến

đổi của tình hình kinh tế văn hóa xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đây chính

là cơ sởgiúp tác giả luận án phân tích, lý giải một cách khoa học về nguyên

nhân chủ yếu dẫn đến các phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam đầu

thế kỷ XX. Ngoài ra, công trình nghiên cứu còn đề cập đến các phong trào

chống Pháp của nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ XX.

12

“Tình hình thiên tai ở Việt Nam giai đoạn 1802-1883 và chính sách cứu

trợ xã hội của triều Nguyễn” của tác giả Lê Quang Chắn (NCLS, số 8 năm

2017, tr.14) [14] đã giúp tác giả tìm hiểu về một trong những nguyên nhân

quan trọng của phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX.

Ngoài các nghiên cứu trên, còn có một số nghiên cứu liên quan đến

những yếu tố tác động tới phong trào chống Pháp ở Việt Nam giai đoạn 1885-

1918 như “Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam” của tác giả

Nguyễn Khắc Đạm xuất bản năm 1958 [33]; “Thực trạng của giới nông dân

Việt Nam dưới thời Pháp thuộc” của tác giả Phạm Cao Dương xuất bản năm

1967 [30]; “Chế độ thuế của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ từ 1897 đến 1945” của

tác giả Hồ Tuấn Dung xuất bản năm 2003 [28]; Luận văn “Thái độ chính trị

của các thế lực yêu nước Việt Nam trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp

(1858-1884)” của tác giả Huỳnh Quang Lâm, bảo vệ năm 2004 [83]; “Bản án

chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc xuất bản năm 2008 [142]...

Các công trình nghiên cứu nói trên, đã đề cập đến chính sách cai trị của

thực dân Pháp ở Việt Nam, trong đó có đề cập khái quát về chính sách cai trị

ở Nam Kỳ. Mặc dù còn sơ lược nhưng đã cung cấp cho tác giả luận án thêm

tư liệu để có nhận định toàn diện hơn về các yếu tố tác động đến phong trào

chống Pháp ở Việt Nam trong giai đoạn 1885-1918.

* Nhóm nghiên cứu liên quan đến các phong trào chống Pháp ở Việt Nam,

trong đó có đề cập đến phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ

Hồ Tài Huệ Tâm Đại học Harvard đã cho ra mắt độc giả cuốn

“Millenarianism and Peasant Politics in Vietnam” (Chủ nghĩa hoàng kim và

chính trị nông dân ở Việt Nam), Cambridge, Massachusetts and London,

England, Harvard University Press, (1983) [192] và “Radicalism and the

Origins of the Vietnamese Revolution” (Các cuộc vận động cấp tiến và nguồn

gốc của cách mạng Việt Nam), Cambridge, Harvard University Press, (1992)

13

[193]. Trong hai công trình nghiên cứu, tác giả đã đề cập đến sự phát triển của

cách mạng Việt Nam, trong đó tác giả đã đề cập đến phong trào yêu nước

chống Pháp ở Nam Kỳ như phong trào Duy Tân, phong trào Hội kín, về

nguyên nhân phong trào, về lai lịch thủ lĩnh như Phan Xích Long…Bên cạnh

đó, tác giả Hồ Tài Huệ Tâm còn nêu ra mối quan hệ giữa đạo Bửu Sơn Kỳ

Hương với Phật giáo Hòa Hảo, đánh giá Hội kín…giúp tác giả giải quyết một

số vấn đề đặt ra trong đề tài luận án.

Năm 1995, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh cho xuất bản sách “Việt Nam

cận đại những sử liệu mới”, tập I [132]. Đây là công trình nghiên cứu của

Nguyễn Phan Quang khi ông nghiên cứu các tài liệu ở Trung tâm Lưu trữ

Quốc gia II và Kho lưu trữ ở Pháp. Sách gồm 2 phần. Phần một: Phong trào

yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ

và Nam Kỳ. Phần hai: Nhà tù Côn Đảo. Trong phần một đã giúp tác giả giải

quyết nhiều vấn đề đặt ra trong đề tài luận án như những đánh giá, nhận định

từ phía thực dân Pháp về các phong trào yêu nước.

“Phong trào Duy Tân” của tác giả Nguyễn Văn Xuân [190] đã giúp tác

giả luận án cái nhìn toàn diện về phong trào Duy Tân ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ,

Nam Kỳ, đặc biệt là phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ với việc tìm hiểu hoạt

động của các nhân vật quan trọng như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thần Hiến,

Nguyễn An Khương... trên cơ sở đó, rút ra nhận xét, đánh giá về phong trào

Duy Tân ở Nam Kỳ so với phong trào Duy Tân ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Trong bài “Bước đầu tìm hiểu phong trào Cần Vương ở tỉnh Hải Dương”

(NCLS, số 5 năm 2014, tr.35), tác giả Nguyễn Thị Thanh Hoa [65] đã đề cập

đến nguyên nhân bùng nổ, diễn biến, nguyên nhân thất bại của phong trào

Cần Vương ở tỉnh Hải Dương, đồng thời tác giả Nguyễn Thị Thanh Hoa cũng

rút ra những nhận xét về đặc điểm của phong trào. Bài viết đã giúp tác giảluận

án có thêm cơ sở để đánh giá về phong trào Cần Vương ở Bắc Kỳ cũng như

14

những nhận định khoa học về đặc điểm của một phong trào chống Pháp rộng

lớn ở Việt Nam.

Bên cạnh các nghiên cứu trên, còn có một số nghiên cứu khác liên quan

đến các phong trào chống Pháp ở Việt Nam giai đoạn 1885-1918 như “Quân

dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945)” của tác giả Phạm Văn Sơn

[153];“Việt Nam Pháp thuộc sử (1884-1945)” của tác giả Phan Khoang [77];

Luận án “Phong trào yêu nước chống Pháp ở Quảng Ngãi từ năm 1885 đến

năm 1930” của tác giả Trương Công Huỳnh Kỳ, bảo vệ năm 2001 [80]; Luận

văn “Phong trào Duy Tân ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX (1903-

1908)” của tác giả Mai Thị Hà, bảo vệ năm 2007 [53]; Luận án “Quan hệ

giữa các tổ chức yêu nước và cách mạng Việt Nam với nước ngoài đầu thế kỷ

XX (1904-1929)” của tác giả Trần Thanh Nhàn, bảo vệ năm 2008 [116]; Luận

án “Phong trào yêu nước chống xâm lược ở Bình Định từ cuối thế kỷ XIX đến

tháng Tám năm 1945” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương, bảo vệ năm

2009 [72];Luận án“Phong trào yêu nước và cách mạng ở Bắc Trung Kỳ ba

mươi năm đầu thế kỷ XX” của tác giả Dương Thị Thanh Hải, bảo vệ năm

2012 [57];Luận án “Phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XX (1903-1908)” của tác

giả Trương Thị Dương, bảo vệ năm 2012 [32];Luận án “Phong trào yêu nước

chống thực dân Pháp của nhân dân vùng trung du và thượng du Bắc Kỳ từ

năm 1883 đến năm 1930” của tác giả Lưu Thị Ngọc Tuyết, bảo vệ năm 2018

[182]....

Các nghiên cứu trên, đã đề cập đến phong trào yêu nước chống Pháp ở

một số địa phương trong cả nước những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,

chủ yếu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Mặc dù, không đặt phong trào chống Pháp ở

Nam Kỳ làm trọng tâm nhưng các nghiên cứu trên đã phác họa được những

nét cơ bản của phong trào. Trên cơ sở đó, đã giúp tác giả có thêm cứ liệu để

thực hiện nhiệm vụ của luận án.

* Nhóm nghiên cứu về từng nhân vật lịch sử

15

Năm 2005, Nxb Đà Nẵng đã cho ra mắt độc giả cuốn “Phan Châu Trinh

Toàn tập” [123]. Sách gồm 3 tập với độ dài hơn 2.000 trang, do Hội Khoa học

Lịch sử Việt Nam, trực tiếp là nhà nghiên cứu sử học Chương Thâu, Dương

Trung Quốc và hậu duệ của cụ Phan là bà Phan Thị Minh sưu tầm, giới thiệu

tương đối hệ thống và đầy đủ các trước tác của Phan Chu Trinh, nhiều tài liệu

về ông, về tư tưởng chính trị, thậm chí có cả tài liệu gốc do Phan Chu Trinh

viết khi còn sống, hoạt động từ 1911 đến 1925 tại Pháp. Đây là tài liệu quý

giá, giúp tác giả luận án giải quyết một số nhiệm vụ đặt ra của đề tài.

Sách tham khảo của tác giả Vũ Thanh Sơn: “Nhân vật lịch sử Việt Nam

cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX” (quyển 9) [154] đã đề cập đến những nhân vật

có ảnh hưởng đến lịch sử dân tộc, trong đó cónhững người khởi xướng, lãnh

đạo phong trào chống Pháp như Phan Văn Hớn, Ngô Lợi, Đào Công Bửu,

Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan Xích Long...Đây là tài liệu đáng trân

trọng giúp tác giảluận án tìm hiểu về các nhân vật lịch sử cùng những phong

trào chống Phápdo họ khởi xướng lãnh đạo.

Bài nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Khánh: “Phan Chu Trinh trong

lịch sử dân tộc Việt Nam” (Tạp chí NCLS, số 9 năm 2017, tr.11) [76] đã dựa

trên nhiều nguồn tài liệu khác nhau để đưa ra những nét lớn một cách tương

đối khách quan và có hệ thống về những dấu mốc lớn trong cuộc đời Phan

Chu Trinh, về tư tưởng chính trị, sự nghiệp cứu nước của ông, nhất là trong

phong trào dân tộc đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở đó, tác giả Nguyễn Văn Khánh

đã làm sáng tỏ thêm vai trò của Phan Chu Trinh trong sự nghiệp đấu tranh

giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX, nhận định Phan Chu Trinh là nhà yêu

nước, có tư tưởng dân chủ tiên tiến nhất trong các sĩ phu Việt Nam đầu thế kỷ

XX. Đây là tài liệu giúp tác giả luận án có cái nhìn khách quan hơn về Phan

Chu Trinh, nhất là những đóng góp của Phan Chu Trinh trong phong trào yêu

nước chống Pháp đầu thế kỷ XX.

16

Ngoài ra,cũng có những nghiên cứu khác liên quan đến các nhân vật lịch

sử như “Cuộc đời cách mạng Cường Để” của Cường Để, xuất bản năm 1957

[38];“Nhân vật Lê Võ trong phong trào Duy Tân-Đông Du đầu thế kỷ XX” của

tác giả Nguyễn Phan Quang (NCLS, số 366 năm 2006) [137]...

Mặc dù, mỗi nghiên cứu nhìn từ nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả

đều cho thấy chủ nghĩa yêu nước chính là nhân tố quan trọng chocác phong

trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu

thế kỷ XX.

* Nhóm nghiên cứu liên quan đến đánh giá, nhận xét về phong trào

Công trình nghiên cứu “Phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở Việt

Nam” củatác giả Đinh Xuân Lâm, xuất bản năm 2015 [87] gồm 5 phần. Phần

một:Từ Cần Vương đến Duy Tân; phần hai: Hồ Chí Minh với cách mạng Việt

Nam; phần ba: Khía cạnh quốc tế của phong trào giải phóng dân tộc Việt

Nam; phần bốn: Những nhân vật lịch sử tiêu biểu; phần năm: Mấy vấn đề tư

liệu, sử liệu học và nguyên tắc đánh giá nhân vật lịch sử. Trong phần một với

bài viết “Phong trào yêu nước chống xâm lược Pháp cuối thế kỷ XIX: tính

chất và các đặcđiểm”, tr.108 đã giúp tác giảluận án cái nhìn ban đầu về tính

chất và đặc điểm của các phong trào yêu nước ở Việt Nam, đặc biệt là ở Bắc

Kỳ và Trung Kỳ cuối thế kỷ XIX, mặc dù tác giả Đinh Xuân Lâm không đề

cập trực tiếp đến tính chất, đặc điểm phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam

Kỳ nhưng trên cơ sở đó, đã giúp tác giả có nhận định chính xác hơn về đặc

điểm và tính chất của phong trào yêu nước ở Nam Kỳ. Ngoài ra, trong nghiên

cứu cònđề cập đến các phong trào chống Pháp ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ

cùng với những nhận xét khái quát về phong trào như: “Thái Bình trong

phong trào chống xâm lược Pháp nửa cuối thế kỷ XIX”, tr.52; “Phong trào

chống xâm lược Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX”, tr.63; “Phong trào đấu

tranh vũ trang chống xâm lược Pháp cuối thế kỷ XIX ở Nghệ-Tĩnh: những

17

đặc điểm phát triển, nguyên nhân thất bại, ý nghĩa lịch sử”, tr.72; “Tìm hiểu

thêm về phong trào Cần Vương Hà Tĩnh (1885-1893)”, tr.85; “Phong trào

Cần Vương tỉnh Quảng Ngãi: đặc điểm phát triển và sự chuyển biến của

phong trào Nam Trung Kỳ đầu thế kỷ XX”, tr.91 và “Sài Gòn đi trước và

trong kháng chiến chống xâm lược Pháp (1859-1885), tr.98... Tất cả những

nghiên cứu đi trướclà cơ sở quan trọng, giúp tác giả luận án có những nhận

xétkhoa học về phong trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

* Nhóm nghiên cứu liên quan đến sự chuyển biến của ý thức-tư tưởng ở

Việt Nam, trong đó có đề cập đến sự chuyển biến về ý thức-tư tưởng của

nhân dânNam Kỳ

Nghiên cứu:“Sự chuyển hướng tư tưởng trong phong trào quốc gia dân

tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX” của tác giả Hồ Song và Chương Thâu (NCLS, số

2 năm 1997, tr.16) [150] đã nêu ra những nhân tố trong nước và thế giới tác

động đến tư tưởng các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, coi đây là

những yếu tố quan trọng làm chuyển biến phong trào yêu nước từ khuynh

hướng phong kiến sang khuynh hướng dân chủ tư sản. Đây là tài liệu có giá

trị, giúp tác giả luận án định hướng tốt hơn hướng nghiên cứu của

đề tài.

Bên cạnh nghiên cứu trên, còn một số nghiên cứu khác liên quan đến sự

chuyển biến của ý thức-tư tưởng ở Việt Namnhư “Giai nhân kỳ ngộ” của nhà

yêu nước Phan Chu Trinh, xuất bản năm 1958 [177];“Ảnh hưởng của cách

mạng tư sản Pháp đối với một số nhà nho Việt Nam yêu nước và tiến bộ đầu

thế kỷ XX” của tác giả Chương Thâu (NCLS, số 245 năm 1989) [162]; Trần

Văn Giàu với “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách

mạng tháng Tám”,Tập I: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước

các nhiệm vụ lịch sử, xuất bản năm 1993 [47], Tập II: Hệ ý thức tư sản và sự

thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, xuất bản năm 1975 [46]; “Sự

18

chuyển biến của phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam trong 30 năm

đầu thế kỷ XX” của tác giả Đinh Trần Dương, xuất bản năm 2002 [31]; Luận

án “Sự chuyển biến của phong trào yêu nước chống Pháp ở Thái Bình cuối

thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX” của tác giả Phạm Thị Lan, bảo vệ năm 2003 [82];

Chương Thâu với “Góp phần tìm hiểu Nho giáo, nho sỹ, trí thức Việt Nam

trước năm 1945” [166]...

Các nghiên cứu trên, dù tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau nhưng

đềuthể hiệnsự chuyển biến của ý thức-tư tưởng ở Việt Nam, góp phần vào sự

phát triển chung của dòng lịch sử tư tưởng dân tộc. Đối với vùng đất Nam Kỳ,

các tác giả cho rằngchủ nghĩa yêu nước truyền thống chính là dòng tư tưởng

mang đậm sắc thái của người dân Nam Kỳ.

1.2.2. Nghiên cứu liên quan đến phong trào yêu nước ở Nam Kỳ

*Nhóm nghiên cứu liên quan đến các yếu tố tác động tới phong trào

Từ năm 1985 đến năm 2014, Ban chấp hành Đảng bộ, Ban nghiên cứu

Lịch sử Đảng các tỉnh thành ở Nam Bộ đã biên soạn và xuất bản lịch sử của

địa phương mình. Mặc dù đây là những nghiên cứu về lịch sử địa phương

nhưng trong các nghiên cứu nàyđều chứa đựng một phần nội dung về vị trí

địa lý, dân cư, truyền thống yêu nước, kinh tế xã hội ở Nam Kỳ từ khi khẩn

hoang đến lúc khởi nghĩa. Ngoài ra các nghiên cứu còn đề cập đến các phong

trào yêu nước, thủ lĩnh và nghĩa quân cùng những vùng đất liên quan đến

phong trào. Các tác phẩm tiêu biểu như“Lịch sử Đảng bộ Đảng cộng sản Việt

Nam tỉnh Bến Tre (1930-1985)” (xuất bản năm 1985) [9]; “Lịch sử Đảng bộ

tỉnh An Giang” (xuất bản năm 1986) [8]; “Tìm hiểu Kiên Giang” (xuất bản

năm 1986) [10];“Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh” (Tập I, II), xuất

bản năm 1995, 2014) [34]...

Nghiên cứu: “Tình hình sản xuất lúa gạo ở Nam Bộ dưới thời Pháp

thuộc (1862-1945)” (Tạp chí NCLS, số 5 năm 1985, tr.55) [114], tác giả Trần

Thị Bích Ngọc đã đi sâu phân tích vấn đề sản xuất lúa gạo dưới thời Pháp

19

thuộc ở Nam Bộ. Tuy nhiên, tác giả bài viết cũng đề cập đến vấn đề sản xuất

lúa gạo ở Nam Bộ trước khi người Pháp đến xâm lược. Nhưng dù ở thời kỳ

nào, tác giả cũng cho chúng ta thấy lúa gạo là nguồn tài nguyên dồi dào, nổi

bật nhất của vùng đất Nam Kỳ. Chính vì lẽ đó, khi xâm lược Nam Kỳ, thực

dân Pháp đã ra sức khai thác nguồn lợi quý giá này để đem lại lợi nhuận lớn,

làm giàu cho thực dân Pháp trên sự đói khổ, cùng cực của người dân Nam Kỳ.

Đây là tài liệu có giá trị giúp tác giả luận án tham khảo khi tìm hiểu một trong

những nguyên nhân dẫn đến các phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ

giai đoạn 1885-1918.

Tác giả Phạm Quang Trung với bài viết: “Chính sách vơ vét lúa gạo

của tư bản Pháp và quá trình phát triển của giai cấp địa chủ ở Nam Bộ thời

Pháp thuộc” (Tạp chí NCLS, số 6 năm 1985, tr.23) [178] đã nêu ra biện pháp

giúp cho thực dân Pháp vơ vét được khối lượng lớn lúa gạo Nam Kỳ, đó là

chính sách duy trì, phát triển chế độ sở hữu ruộng đất lớn, dựa trên vai trò của

giai cấp địa chủ. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến đời sống bần cùng

của người dân Nam Kỳ, mâu thuẫn giữa địa chủ với nông dân, giữa thực dân

Pháp và nhân dân ngày càng sâu sắc, đồng thời cũng là cội nguồn sâu xa của

các phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ.

Trong bài “Người lục tỉnh” (Tạp chí Xưa và Nay, tháng 10 năm 1997),

tác giả Trần Văn Giàu [48] đã đề cập đến yếu tố đất đai, khí hậu và tính cách

của cư dân Nam Kỳ Lục tỉnh, qua đó giúp tác giả luận án có cái nhìn khách

quan về những nhân tố ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành, phát triển của

phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918.

Tác giả Nguyễn Hữu Hiếu với: “Một trăm năm cuộc Minh Tân ở Nam

Kỳ” (Tạp chí Xưa và Nay, số 236 năm 2005, tr.28) [62] và “Yếu tố dẫn tới sự

hình thành nét riêng của phong trào Đông Du miền Nam” [63]. Trong bài

“Một trăm năm cuộc Minh Tân ở Nam Kỳ”, tác giả Nguyễn Hữu Hiếu đã cho

rằng chính yếu tố kinh tế xã hội ở Nam Kỳ khác so với Bắc Kỳ, Trung Kỳ

20

làm cho phong trào Minh Tân ở Nam Kỳ khác so với phong trào Duy Tân ở

các vùng miền khác trong cả nước. Trong cuốn “Yếu tố dẫn tới sự hình thành

nét riêng của phong trào Đông Du miền Nam” tác giả đã nêu lên những yếu

tố căn bản nhất tác động đến phong trào Đông Du, làm cho phong trào Đông

Du ở Nam Kỳ khác riêng so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Đây là hai công trình

có giá trị lớn, giúp cho tác giả luận án những tham khảo hữu ích khi thực hiện

đề tài.

Năm 2014, công trình nghiên cứu “Lịch sử hình thành và phát triển

vùng đất Nam Bộ (từ khởi thủy đến năm 1945)” được xuất bản dưới sự chủ

biên của tác giả Trần Đức Cường [26]. Dựa trên các cứ liệu lịch sử, các tác

giả đã đề cập đến quá trình khai phá, xác lập chủ quyền, xây dựng và bảo vệ

mảnh đất Nam Kỳ của bao thế hệ người Việt Nam. Đây là công trình nghiên

cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc, giúp tác giả luận án có thêm cơ

sở để phân tích các yếu tố tác động đến phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ

giai đoạn 1885-1918 như vị trí địa lý, dân cư, tôn giáo tín ngưỡng, truyền

thống yêu nước, kinh tế chính trị xã hội... trên cơ sở đó, cùng với việc nghiên

cứu các phong trào chống Pháp tiêu biểu, tác giả luận án đã đưa ra những

nhận xét khách quan về đặc điểm, tính chất của phong trào cuối thế kỷ XIX,

đầu thế kỷ XX.

Cuốn “Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859-1954)” (Tập I)

của tác giả Nguyễn Đình Tư, xuất bản năm 2016 [183] là công trình nghiên

cứu một cách có hệ thống về cách tổ chức, cai trị, bóc lột của thực dân Pháp ở

Nam Kỳ. Tác giả Nguyễn Đình Tư đã sưu tầm phần lớn các sắc lệnh, nghị

định gần một trăm năm của chính quyền thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ tại

Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Cuốn sách gồm 2 phần. Phần thứ nhất: Thực

dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ và cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân

Nam Kỳ; Phần thứ hai: Bộ máy cai trị các cấp của thực dân Pháp trên đất

21

Nam Kỳ. Trên cơ sở đó, đã giúp tác giả giải quyết một số nhiệm vụ đặt ra

trong đề tài như: các phong trào chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ trước năm

1885, chính sách cai trị của thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ, các phong trào

yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918.

Cuốn “Vùng đất Nam Bộ quá trình hình thành và phát triển” doPhan

Huy Lê chủ biên, xuất bản năm 2016 [92], ngoài chương mở đầu và chương

kết, sách gồm có 10 chương đã đề cập đến điều kiện tự nhiên, môi trường sinh

thái tác động đến tiến trình lịch sử và đặc trưng văn hóa của vùng đất Nam Bộ

từ cội nguồn đến năm 2010. Đây là bộ sách nghiên cứu khá toàn diện về vùng

đất Nam Bộ, giúp tác giả luận án giải quyết những vấn đề liên quan đến đề tài

như các yếu tố tác động đến phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn

1885-1918, các phong trào chống Pháp tiêu biểu, trên cơ sở đó, tác giả luận án

có những nhận xét chính xác hơn về đặc điểm, tính chất của các phong trào

yêu nước.

Tác giả Trần Xuân Trí với bài: “Thuế thân và sưu dịch ở Nam Kỳ dưới

thời Pháp đô hộ” (Tạp chí NCLS, số 11 năm 2018, tr.3) [176] đã nghiên cứu

một cách có hệ thống, liên tục về thuế thân và sưu dịch trước khi người Pháp

đến và trong khi người Pháp đến cai trị ở Nam Kỳ. Đồng thời, tác giả Trần

Xuân Trí cũng đánh giá những tác động của thuế thân và sưu dịch đối với đời

sống kinh tế xã hội ở Nam Kỳ, đặc biệt là đời sống đói khổ, bần cùng của

người dân Nam Kỳ, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân của các

phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ. Do vậy, đây là tài liệu có giá trị

tham khảo cho tác giả luận án trong quá trình nghiên cứu.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, còn có một số nghiên cứu

khác liên quanđến các yếu tố tác động tới phong tràochống Pháp ở Nam Kỳ

giai đoạn 1885-1918 như “Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh” do tác

giả Trần Văn Giàu chủ biên, xuất bản năm 1987 [49];“Lịch sử Tỉnh Vĩnh

Long (1732-2000)” của tác giả Sơn Nam, xuất bản năm 2002 [108]; “Lược sử

22

vùng đất Nam Bộ” do tác giả Vũ Minh Giang chủ biên [44];Luận văn “Những

biến đổi trong kinh tế nông nghiệp Nam Kỳ thời thuộc địa từ 1862 đến 1945”

của tác giả Trần Xuân Trí, bảo vệ năm 2009 [175];“Thuế ruộng trồng lúa ở

Nam Kỳ từ 1862 đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất” của tác giả Nguyễn

Ngọc Cơ, Trần Xuân Trí (NCLS, số 2 năm 2012, tr.17) [24]; “Trí thức Sài

Gòn-Gia Định với phong trào yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX” của

tác giả Trần Thị Ánh (Kỷ yếu Khoa Lịch sử Đại học Vinh, năm 2014, tr.11)

[6]; “Lược sử hình thành và khai phá đất An Giang” của tác giả Võ Thành

Phương, xuất bản năm 2014 [129]; “Nói về miền Nam, cá tính miền Nam và

thuần phong mỹ tục Việt Nam” xuất bản năm 2015 [109] do tác giả Sơn Nam

biên khảo; “Hồ sơ về Lục châu học” của Nguyễn Văn Trung, xuất bản năm

2015 [179];Luận án “Kinh tế đồn điền ở miền Tây Nam Kỳ từ năm 1900 đến

năm 1945” của tác giả Trần Minh Thuận, bảo vệ năm 2018 [169]. Đây là

những tài liệu có giá trị, giúp tác giả luận án có thêm cứ liệu để thực hiện đề

tài.

Trong mỗi nghiên cứu, dù tiếp cận ở những góc độ khác nhau nhưng

đều cung cấp cho tác giả luận án tư liệu, quan điểm về yếu tố tác động đến

phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918, để tác giảrút ra được

cái nhìn bao quát, toàn diện hơn trong nghiên cứu.

* Nhóm nghiên cứu liên quan đến các phong trào chống Pháp ởNam Kỳ

Tác giả Nguyễn Phan Quang trong nghiên cứu: “Phong trào chống

Pháp do Đào Công Bửu lãnh đạo (1893-1894)” (NCLS, số 4 năm 1991, tr.67)

[130] đã nêu ra những tư liệu để chứng minh vào những năm cuối thế kỷ XIX,

Đào Công Bửu và các thủ lĩnh đã chọn Rạch Giá làm căn cứ chính để chuẩn

bị cho cuộc nổi dậy chống Pháp ở toàn xứ Nam Kỳ. Qua đó, giúp tác giả có

cái nhìn tổng thể về thủ lĩnh Đào Công Bửu, hoạt động, lực lượng tham gia,

23

diễn biến và kết quả của phong trào trong mối quan hệ với các phong trào

chống Pháp khác ở Nam Kỳ.

Bài: “Về cuộc vận động chống Pháp của Lê Công Chánh trên địa bàn

Nam Kỳ (cuối thế kỷ XIX)” (NCLS, số 4 năm 1995, tr. 80), tác giả Nguyễn

Phan Quang [131] đã trích giới thiệu một số báo cáo của các cấp chính quyền

thực dân Pháp và tay sai cùng một số khẩu cung của các thủ lĩnh nghĩa quân

trong cuộc vận động chống Pháp của Lê Công Chánh. Qua đó, giúp tác giả

luận án tìm hiểu về thủ lĩnh Lê Công Chánh và các thủ lĩnh nghĩa quân như

Ngô Lợi trong cuộc vận động chống Pháp ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX.

Trong bài: “Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với phong trào chống Pháp ở Nam

Kỳ cuối thế kỷ XIX” (Tạp chí NCLS, số 2 năm 1997, tr.32), tác giả Đinh Văn

Hạnh [58] đã đề cập đến hoạt động chống Pháp của Ngô Lợi, của Lê Công

Chánh, qua đó giúp tác giả tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa của Ngô Lợi, về hoạt

động của Lê Công Chánh kết hợp với Ngô Lợi tại Núi Tượng trong cuộc vận

động nhân dân chống Pháp.

Tác giả Nguyễn Đình Đầu trong “Nam Bộ với phong trào Đông Du”

(Tạp chí Xưa và Nay, số 130 năm 2002, tr.26) [37] đã trích giới thiệu các

tham luận, ý kiến của các tác giả về phong trào Đông Du miền Nam, từ đó

giúp tác giả luận án có cái nhìn toàn diện hơn về phong trào Đông Du ở Nam

Kỳ, đưa ra những nhận định, đánh giá đúng mức hơn về phong trào.

Chương Thâu với “Về đội ngũ lưu học sinh Việt Nam trên đất Nhật Bản

đầu thế kỷ XX” (NCLS, số 12 năm 2005, tr.9) [165] đã thống kê khá cụ thể về

lực lượng du học sinh trên cả nước trong phong trào Đông Du, đặc biệt là du

học sinh ở Nam Kỳ, đây là tài liệu có giá trị tham khảo, giúp tác giả luận án

xác minh số lượng du học sinh trong phong trào Đông Du ở Nam Kỳ.

Trần Văn Rạng với “Phong trào Hội kín ở Nam Kỳ” (Tạp chí Xưa và

Nay, số 260 năm 2006, tr.13) [145] đã đề cập đến Hội kín Phan Xích Long,

24

đặc biệt là hoạt động phá Khám Lớn Sài Gòn năm 1916. Đây là tài liệu có giá

trị giúp tác giả luận án tham khảo, tiếp thu, xử lý một số vấn đề liên quan đến

phong trào Hội kín Nam Kỳ trong quá trình thực hiện đề tài.

“Phong trào Duy Tân và các khuôn mặt tiêu biểu” của tác giả Nguyễn

Quyết Thắng [161], mặc dù không đề cập nhiều đến hoàn cảnh, nội dung, ảnh

hưởng của phong trào Duy Tân ở Việt Nam nhưng tác giả tập trung vào tiểu

sử và sự nghiệp của các chiến sĩ Duy Tân, đặc biệt là các chiến sĩ Duy Tân ở

Trung Kỳ. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quyết Thắng trong

phần các nhân vật tiêu biểu của phong trào Duy Tân Nam Kỳ, đã giúp tác giả

luận án nghiên cứu các lĩnh vực hoạt động của phong trào, các nhân vật của

cuộc vận động Minh Tân ở Nam Kỳ như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thị

Xuyên, Nguyễn An Khương... nhất là báo Nông Cổ Mín Đàm với vai trò là

công cụ tuyên truyền đắc lực cho phong trào. Ngoài ra,nghiên cứu còn giúp

tác giả luận án tiếp cận được nhiều số của báo Nông Cổ Mín Đàm, các bài vè,

ca dao... ra đời từ phong trào Duy Tân. Đây là tài liệu có giá trị khai thác và

sử dụng cho tác giả luận án.

Cuốn “Phong trào Đông Du ở miền Nam” xuất bản năm 2007 [119] và

“Phong trào Đông Du” của tác giả Phương Hữu [74] là những tài liệu có giá

trị tham khảo, giúp cho tác giả luận án hướng nghiên cứu về các lãnh tụ tiêu

biểu, tiến trình phát triển của phong trào cùng những đánh giá, nhận xét về

phong trào Đông Du ở Nam Kỳ.

Công trình nghiên cứu “Vùng đất Nam Bộ” xuất bản năm 2017 [70] do

tác giả Đoàn Minh Huấn và Nguyễn Ngọc Hà đồng chủ biên đã đề cập đến

lịch sử vùng đất Nam Kỳ giai đoạn từ năm 1859 đến năm 1945. Do xuất phát

từ mục tiêu chung của nghiên cứu nên công trình “Vùng đất Nam Bộ” chỉ

nghiên cứu ở mức độ sơ lược, chưa đi sâu vào nghiên cứu về vùng đất Nam

Kỳ thời cận đại, đặc biệt là nghiên cứu về các phong trào yêu nước chống

Pháp ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu đã giúp tác giả luận án có

25

thêm tư liệu quý giá về những phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ để bảo vệ

độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia, đặc biệt là về phong trào Duy

Tân, phong trào Hội kín trong những năm đầu thế kỷ XX.

“Trí thức Nam Kỳ trong cuộc vận động giải phóng dân tộc từ năm 1884

đến năm 1930” của tác giả Trần Thị Ánh[7], đã phục dựng hoạt động của trí

thức Nam Kỳ, phân tích những chuyển biến về tư tưởng của họ trong những

năm 1884 đến năm 1930. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những nhận định về vị

trí, vai trò của trí thức Nam Kỳ trong cuộc vận động giải phóng dân tộc. Đây

là tài liệu đã giúp tác giả luận án có thêm cứ liệu về hoạt động chống Pháp,

vai trò của trí thức Nam Kỳ trong cuộc vận động của Đào Công Bửu, phong

trào Đông Du, phong trào Duy Tân, từ đó đưa ra những nhận xét toàn diện

hơn về phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918.

Tác giả Sơn Nam với “Phong trào Duy tân ở Bắc Trung Nam. Miền

Nam đầu thế kỷ XX (Thiên Địa Hội và cuộc Minh Tân)” xuất bản năm 2019

[110], đây là công trình có độ tin cậy cao, tác giả đã dành nhiều tâm huyết để

khảo cứu, sưu tầm về những người đứng đầu các phong trào Hội kín, phong

trào Minh Tân, quá trình khởi phát, kết quả, tác động của phong trào về kinh

tế, xã hội ở Nam Kỳ trong những năm đầu thế kỷ XX.Đây là tài liệu quý giá

giúp tác giả luận án tìm hiểu về cuộc vận động Minh Tân, phong trào Hội kín

ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX.

Công trình “Hoạt động chống Pháp trong các xứ An Nam từ 1905 đến

1918” xuất bản năm 2019[167]do Chương Thâu (sưu tầm giới thiệu), Phan

Văn Diên (dịch) từ tài liệu mật của Sở Mật thám thuộc Phủ Toàn quyền Đông

Dương, lưu giữ tại Cục lưu trữ quốc gia. Nội dung sách đề cập đến những

phong trào đấu tranh chống Pháp trong khoảng hai mươi năm đầu thế kỷ XX

ở Nam Kỳ nhưphong trào Đông Du, Thiên địa hội, về các nhân vật nhưPhan

Bội Châu, Cường Để, Phan Chu Trinh, Gilbert Chiếu...Đây là tài liệu đã giúp

tác giả trong việc tìm hiểu các hoạt động chống Pháp ở Nam Kỳ khá da dạng,

26

phong phúvới những sắc thái khác nhauso với Bắc Kỳ và Trung Kỳ trong

cùng giai đoạn. Đồng thời, công trình nghiên cứu còn giúp tác giả luận án có

những nhận xét chính xác hơn về phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ

trong những năm đầu thế kỷ XX.

Ngoài các công trình nghiên cứu ở trên, còn có một số công trình

nghiên cứu khác có liên quan đến phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ

giai đoạn 1885-1918 như“Một ít tài liệu về cuộc khởi nghĩa Phan Xích Long ở

Nam Kỳ năm 1913” của tác giả Việt Lâm (Tạp chí NCLS, số 38 năm 1962,

tr.19) [84];“Về hội kín “Thiên Địa hội” ở Gia Định năm 1901” của Nguyễn

Phan Quang (Tạp chí NCLS, số 4 năm 1997) [133];Luận văn Thạc sĩ Lịch sử

“Hội kín ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX” của tác giả Nguyễn Thanh

Tiến, bảo vệ năm 2005 [171]; “Góp thêm ý kiến về Hội kín Phan Xích Long”

của tác giả Nguyễn Thanh Tiến (Tạp chí Xưa và Nay, số 282 năm 2007)

[172];Tham luận “Các chiến sĩ Đông Du Nam Kỳ hoạt động ở Nhật Bản” của

tác giả Đoàn Lê Giang (Hội thảo quốc tế “Nhật Bản và tiểu vùng MeKong”,

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010)

[45];Luận văn “Phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ những năm đầu thế kỷ XX

(1905-1930)” của tác giả Nguyễn Thị Hà, bảo vệ năm 2014 [55]...

Các công trình nêu trên,chủ yếu đi vào nghiên cứu riêng biệt về từng phong

trào, đã phác họa nên một số phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918. Đó là những nghiên cứu quan trọng, làm cơ sở giúp tác giả luận án nghiên

cứu chuyên sâu và có hệ thống bức tranh về phong trào chống Pháp.

* Nhóm nghiên cứu về từng nhân vật lịch sử

Tác giả Lý Thị Mai với bài viết: “Phụ nữ Nam Kỳ trong phong trào

Đông Du” (Tạp chí Xưa và Nay, số 250 năm 2005, tr.21) [98] đã đề cập đến

vai trò của phụ nữ Nam Kỳ Lục tỉnh trong phong trào Đông Du, đặc biệt tác

giả Lý Thị Mai đã nêu lên hai nhân vật tiêu biểu có ảnh hưởng lớn đến phong

trào Đông Du là bà Nguyễn Thị Xuyên (người đã cùng em trai là Nguyễn An

27

Khương mở ra Chiêu Nam Lầu chuyên kinh doanh may mặc, hàng ăn, cho

thuê phòng trọ, tạo nguồn tài chính cho phong trào Đông Du) và bà Thiệu

Trưng (vợ ông Hoàng Văn Nghị, bí danh Hoàng Hưng, là Ủy viên Bộ văn thư

của phong trào) là một trong những chiến sĩ đầu tiên của phong trào Đông Du,

cũng là người phụ nữ duy nhất có mặt trong lực lượng tham gia phong trào.

Đây là bài viết có ý nghĩa tham khảo, giúp tác giả luận án có cái nhìn toàn

diện hơn về phong trào Đông Du.

Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu khác có đề cập đến các nhân vật

lịch sử như“Truyện Phan Xích Long”, xuất bản năm 1913 [180];“Chí sĩ

Nguyễn Quang Diệu-một lãnh tụ trọng yếu của phong trào Đông Du miền

Nam” của tác giả Nguyễn Văn Hầu, xuất bản năm 2002 [59];“Nguyễn Quang

Diệu, lãnh tụ trọng yếu trong phong trào Đông Du miền Nam” của tác giả

Trương Minh Hiển (Tạp chí Xưa và Nay, số 57B năm 2002) [60];“Đồng bào

Mỹ Tho với nhà yêu nước Phan Châu Trinh” của Nguyễn Phúc Nghiệp (Tạp

chí Xưa và Nay, số 256 năm 2006) [113]; “157 nhân vật trong phong trào

xuất dương” của tác giả Nguyễn Thúc Chuyên, xuất bản năm 2006 [20]...

Tất cả các bài viết nêu trên, chủ yếu thể hiện quan điểm, cách đánh giá

của các tác giả về các nhân vật lịch sử trong phong trào. Đây chính là cơ sở,

giúp tác giả luận án có cái nhìn toàn diện hơn khi nghiên cứu đề tài.

* Nhóm nghiên cứu liên quan đến đánh giá, nhận xét về phong trào

Chuyên luận :“Đặc điểm của phong trào Duy Tân Nam Kỳ đầu thế kỷ

XX” của tác giả Nguyễn Ngọc Hà và Biện Thị Hoàng Ngọc in trong Kỷ yếu

hội thảo Đề án qúa trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ [54], trên

cơ sở tiếp thu các nghiên cứu của các tác giả đi trước về phong trào Duy Tân

Nam Kỳ, hai tác giả đã khái quát để đưa ra những nhận định về đặc điểm của

phong trào Duy Tân Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Đây là chuyên luận có ý nghĩa

28

tham khảo, giúp tác giả luận án có thêm cơ sở ban đầu để nhận xét về đặc

điểm của phong trào Duy Tân.

Nghiên cứu :“Phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX - quá trình

và đặc điểm”(Tạp chí Khoa học Xã hội, số 7 năm 2017, tr.43) [147],tác giả

Võ Văn Sen đã đề cậpvề phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ gồm phong trào

Đông Du, phong trào Minh Tân. Trên cơ sở đó, tác giả bài viết đã nêu ra

những đặc điểm của phong trào. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích giúp tác giả

luận ántrong những nhận xét về đặc điểm của phong trào chống Pháp ở Nam

Kỳ đầu thế kỷ XX.

Luận án “Thái độ chính trị của trí thức Nam Kỳ (1919-1939)” của tác

giả Huỳnh Bá Lộc, bảo vệ năm 2017 [96]. Trên cơ sở phân tích bối cảnh lịch

sử ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX, tác giả đề tài đã tập trung nghiên cứu quá trình

hình thành, đấu tranh trên nhiều lĩnh vực với các hình thức lập hội nhóm, diễn

thuyết, tranh luận, hoạt động chính trị...của đội ngũ trí thức Nam Kỳ. Qua đó,

tác giả khẳng định vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trong xã hội Nam Kỳ, đặc

biệt trong vai trò dẫn dắt quần chúng đấu tranh. Đây là tài liệu có giá trị, giúp

tác giả luận án nhận xét, đánh giá một trong những tác động của phong

tràoyêu nước chống Pháp giai đoạn 1885-1918 đối vớitiến trình phát triển của

phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ trong những năm đầu thế kỷ XX.

Mặc dù, chưa đầy đủ nhưng các nghiên cứu trên đã giúp tác giả luận án

có thêm tư liệu để có những nhận xét chính xác, khoa học hơn về phong trào

yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918.

* Nhóm nghiên cứu liên quan đến sự chuyển biến của phong trào chống

Pháp ở Nam Kỳ

Tác giả Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh) là cháu ngoại của Phan Chu

Trinh năm 2001, 2003, đã cho xuất bản cuốn “Phan Chu Trinh qua những tài

liệu mới” [78]. Sách gồm 2 tập với nhiều tư liệu mới mà tác giả Lê Thị Kinh

đã sưu tầm ở trong văn khố Pháp, đặc biệt là ở thành phố Aix en provence,

29

Cộng hòa Pháp. Tác phẩm đề cập đến cuộc đời của Phan Chu Trinh cùng với

quá trình hoạt động yêu nước của Ông. Đây là cuốn sách tham khảo tốt, cung

cấp những cứ liệu quan trọng, giúp tác giả luận án giải quyết những nhiệm vụ

đặt ra khi thực hiện đề tài.

Ngoài ra, còn có những bài nghiên cứu như “Tìm hiểu thêm về Phan

Bội Châu và vấn đề đoàn kết lương giáo chống Pháp đầu thế kỷ XX” của tác

giả Phạm Hồng Tung (NCLS, số 307 năm 1999) [181]; “Những hoạt động

của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925” của Thu Trang, xuất bản năm

2000 [174]...

Tất cả các nghiên cứu trên, đã giúp tác giảtìm hiểu về những hoạt động

chống Pháp dưới ảnh hưởng từ các nhân vật như Phan Bội Châu, Phan Chu

Trinh, những tác động từ quá trình hoạt động yêu nước của Phan Bội Châu,

Phan Chu Trinhtrong phong trào đấu tranh chống Pháp ở Nam Kỳ, phản ánh

khái quátsự chuyển biến của phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ.

1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

*Những nội dung luận án kế thừa:

Các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước thời

gian qua đã góp phần làm sáng tỏ một số khía cạnh của phong trào yêu nước

chống Pháp ở Việt Nam nói chung, Nam Kỳ nói riêng giai đoạn 1885-1918,

bao gồm:

Một là,chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam nói chung và

Nam Kỳ nói riêng.

Hai là,các phong trào chống Pháp ở Việt Nam giai đoạn 1885-1918,

trong đó đề cập khái quát đến phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ từ

năm 1885 đến năm 1918.

Ba là,những nhận định, đánh giá, tác động, ý nghĩa...ban đầu của phong

trào chống Pháp ở Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng.

30

Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, chưa có công trình khoa học nào

nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống về phong trào yêu nước

chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918. Các công trình nghiên cứu nêu

trên,chủ yếu đi vào nghiên cứu riêng biệt về từng phong trào, có nghiên

cứuchỉđưa ra những nét khái quát về phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ, có

nghiên cứulại đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề như một địa bàn nhất

định, một phong trào, một nhân vật lịch sử hoặc đề cập rải rác trong một số

mốc thời gian, thậm chí các phong trào được lồng ghép vào các vấn đề nghiên

cứu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...theo tiến trình lịch sử. Mặc dù vậy,

nội dung các công trình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra nói trên là những

cơ sở quý giá đáng trân trọng, giúp cho luận án nguồn tư liệu, quan điểm đánh

giá và hướng nghiên cứu.

*Những vấn đềluận án tiếp tục nghiên cứu:

Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, căn cứ

vào nguồn tài liệu sưu tầm được, đặc biệt là nguồn tài liệu lưu trữ, luận án tập

trung nghiên cứu và làm rõ phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai

đoạn 1885-1918 với nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất,nghiên cứu một cách có hệ thống về các yếu tố vị trí địa lý,

hành chính, dân cư, kinh tế xã hội...tác động đến phong trào yêu nước chống

Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918.

Thứ hai,phác họa đầy đủ, chuyên sâu bức tranh sinh động về phong

trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918 trên các phương

diện chủ yếu nhưnguyên nhân, diễn biến, kết quả của phong trào.

Thứ ba,làm rõ đặc điểm, tính chất, tác động của phong trào đối vớitiến

trình phát triển của lịch sử Nam Kỳ đầu thế kỷ XX.

31

32

Chương 2. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở NAM KỲ TỪ

NĂM 1885 ĐẾN NĂM 1896

2.1. Khái quát về vùng đất Nam Kỳ

2.1.1. Lược sử hình thành

Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, vùng đất Nam Kỳ trong thời

kỳ Đá cũ đã có dấu vết sinh sống của con người. Cách đây khoảng 4000 năm

đến 2500 năm, Nam Kỳ là khu vực thuộc văn hóa Đồng Nai với cư dân là tổ

tiên của các dân tộc bản địa ngày nay như Chơro, Stiêng...

Từ thế kỷ I đến thế kỷ VII, vùng đất Nam Kỳ là nơi sinh sống của cư

dân vương quốc Phù Nam. Thế kỷ VII, vương quốc Phù Nam bị thôn tính và

sát nhập vào vương quốc Chân Lạp [7, tr.39]. Tuy nhiên, đến nay các nhà

nghiên cứu vẫn chưa tìm được dấu vết của hậu duệ cư dân Phù Nam, nhưng

thông qua nghiên cứu, các nhà khoa học cho rằng cư dân Khmer và cư dân

Phù Nam không có quan hệ với nhau. Cho đến thế kỷ XIII, trên các vùng ven

biển Nam Kỳ xuất hiện số ít người Khmer vì trốn lao dịch, nghèo đói...đến

sinh sống“nhưng cư dân không đông đảo nên không thể làm thay đổi diện

mạo vùng đất” [92, t1, tr.452]. Vào khoảng thế kỷ XVI, lưu dân Việt có mặt ở

Nam Kỳ.Lúc đầu, người Việt khai hoang đất phương Nam ở Mô Xoài, Bà

Rịa, Biên Hòa, Đồng Nai. Họ là những tù nhân bị đi đầy, những tội phạm, dân

nghèo, điền chủ xứ Ngũ Quảng rồi dần dần họ lập ra các làng, xác lập chủ

quyền trên những mảnh đất đã khai phá được. Như vậy, chính người Việt đã “tạo

lập diện mạo mới cho vùng đất” [92, t1, tr.452] Nam Kỳ. Theo “Vùng đất Nam

Bộ quá trình hình thành và phát triển” do Phan Huy Lê (chủ biên) [92, t2, tr.32],

“Nam Bộ được khai phá cách đây khoảng 7 thế kỷ. Riêng sự có mặt của người

Việt tại Nam Bộ thì thời gian chỉ khoảng 4-5 thế kỷ. Nếu tính từ năm Nguyễn

Hoàng vào Thuận Hóa, lập phủ Phú Yên năm 1611 thì chỉ khoảng 3 thế kỷ trở

lại”.Lúc này, Nam Kỳ còn là vùng đất hoang sơ, nhiều thú dữ, thiên nhiên lại

vô cùng khắc nghiệt.

33

Sau khi Chân Lạp chuyển giao vùng đất Nam Kỳ sang Đại Việt, dưới

thời Chúa Nguyễn với chính sách đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang đã thu hút

cư dân người Việt, người Hoa đến khai phá, sinh sống và xác lập chủ quyền.

Do vậy, “vùng Nam Bộ từ lâu đã là địa bàn cư trú của nhiều thành phần tộc

người” [49, tr.133] như cư dân Phù Nam, Khmer, Việt, Hoa... Ở thế kỷ

XVIII,theo Lê Qúy Đôn, Nam Kỳ vẫn còn là vùng đất hoang sơ “toàn là rừng

rậm hàng ngàn dặm” [39, tr.380],trải qua qúa trình khai hoang của lưu dân

người Việt, người Hoa cùng cư dân bản địa đã dần tạo lập nên vùng đất Nam

Kỳvô cùng trù phú.

Năm 1808,về mặt hành chính, trong quá trình hình thành, các đơn vị

hành chính của Nam Kỳ có nhiều thay đổi, Vua Gia Long quyết định lập ở

Nam Kỳ một khu vực hành chính mới gọi là Gia Định thành (gồm toàn bộ

vùng đất Nam Bộ hiện nay). Theo Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định thành

thông chí”, cơ cấu, số lượng đơn vị hành chính các cấp ở Gia Định thành từ

1808 gồm:

Trấn Phủ Huyện Tổng Thôn/Xã/Ấp...

Phiên An 1 8 460 4

Biên Hòa 1 8 310 4

Định Tường 1 6 314 3

Vĩnh Thanh 1 6 353 4

Hà Tiên 4 103 2

Cộng 4 17 32 1.540

[41, tr.121]

Saucải cáchhành chính của Vua Minh Mạng năm Nhâm Thìn (1832),

Gia Định thành được sắp xếp lại thành 6 tỉnh (Lục tỉnh): Phiên An, Biên Hòa,

Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên [92, tr.29] (Phiên An sau được đổi

thành Gia Định). Năm 1834, vùng Lục tỉnh gọi là Nam Kỳnên gọi là Nam Kỳ

34

Lục tỉnh. Cơ cấu hành chính này về cơ bản giữ nguyên đến trước khi Pháp xâm

lược, chỉ thay đổi là có sự tăng, giảm số lượng các phủ, huyện,tổng.

Kể từ khi Pháp đặt chân đến Gia Định xâm lược, Lục tỉnh Nam Kỳ đã

bị xáo trộn. Năm 1865, chính quyền thuộc địa chia Nam Kỳ thành các Tham

biện(Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Giuộc, Tây Ninh, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho,

Cai Lậy, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Long Thành, Bảo Chánh, Bà Rịa). Năm

1867, chính quyền thuộc địa đã chia Nam Kỳ thành các tỉnh, dưới các tỉnh là

các Tham biện (7 tỉnh, 24 Sở Tham biện). Ngày 5.1.1876, Pháp chia Nam Kỳ

thành 4 khu vực hành chính lớn là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bát Xắc

(trong từng khu vực hành chính lớn, Pháp chia thành nhiều tiểu khu hành

chính được gọi là hạt (19 hạt), bên dưới tiểu khu, khu vực nông thôn được

chia thành tổng (211 tổng với 2.430 làng). Ngày 1.1.1900, chính quyền Pháp

đổi hạt thành tỉnh, cả Nam Kỳ chia làm 20 tỉnh:

“Miền Đông có 4 tỉnh: Bà Rịa, Biên Hòa, Tây Ninh, Thủ Dầu Một.

Miền Trung có 9 tỉnh: Bến Tre, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Mỹ Tho,

Sa Đéc, Tân An, Trà Vinh, Vĩnh Long.

Miền Tây có 7 tỉnh: Bạc Liêu, Cần Thơ, Châu Đốc, Hà Tiên, Long

Xuyên, Rạch Giá, Sóc Trăng” [92, tr.31].

“Sau khi Nhật đảo chính Phápngày 9-3-1945, Chính phủ Trần Trọng

Kim vẫn giữ nguyên cơ cấu hành chính Nam Kỳ,chỉđổi Nam Kỳ thành Nam

Bộ” [92, tr.32].

Như vậy, lược sử hình thành vùng đất Nam Kỳ gắn liền với công lao

của người Việt, người Khmer và nhiều dân tộc khác, gắn với công cuộc khẩn

hoang của dân tộc dưới thời các chúa Nguyễn. Trải qua nhiều biến thiên của

lịch sử, vùng đất Nam Kỳ đã có nhiều thay đổi, nhất là thời thực dân Pháp

xâm lược nhưng nhờ công lao xây dựng của nhiều thế hệ nên Nam Kỳ đã dần

hình thànhvà có vị trí ngày càng quan trọng.

35

2.1.2. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

Vùng đất Nam Kỳ nằm trong địa bàn phía nam của bán đảo Đông

Dương, đồng thời Nam Kỳ còn là lãnh thổ cực nam của Việt Nam. Nam Kỳ

có phía đông bắc tiếp giáp với Bình Thuận, phía đông nam tiếp giáp với biển

Đông, phía tây tiếp giáp với vịnh Thái Lan, phía bắc tiếp giáp với Cao Miên.

Nam Kỳ có đường bờ biển dài với ba mặt giáp biển là đông, nam và tây nam,

có cả đất liền và hải đảo, là nơi giao thoa của hai nền văn minh phương Đông:

văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa. Nam Kỳ còn có ưu thế về đường bộ

và đường thủy,là mảnh đất trù phú, màu mỡ, nhiều tài nguyên thiên nhiên, đất

rộng người thưa. Đây là những điều kiện thuận lợi góp phần đưa Nam Kỳ có

vị trí, vai trò ngày càng quan trọng,do vậy Nam Kỳđã trở thành vùng đất

nhiều thế lực muốn xâm lược.

Nam Kỳ có địa hình tương đối bằng phẳng [115, tr.23], đa dạng gồm cả

đồng bằng, đồi gò, sông, biển, đảo và rừng ngập mặn. Về tự nhiên rất phong

phú, có đồi núi thấp, bán bình nguyên đất đỏ bazan, lượng phù sa lớn nhờ có

nhiều sông thuận lợi cho nông nghiệp lúa nước nên vào khoảng thế kỷXVII,

Nam Kỳ được coi là vựa lúa lớn của xứ Đàng Trong, đến thế kỷ XVIII, XIX

Nam Kỳ không những cung cấp đủ gạo cho cả vùng mà còn xuất khẩu sang

nước khác. Ngoài ra, Nam Kỳ có bờ biển dài với lượng dầu khí nhiều ở thềm

lục địa, hệ thống động, thực vật đa dạng, đất đỏ rất phù hợp để phát triển cây

công nghiệp, có cao lanh, đất sét thuận lợi cho nghề gốm sứ, thủy sản vô cùng

đa dạng. Chính địa hình như vậy, đã giúp cho Nam Kỳ có nhiều sản vật quý,

góp phần cung cấp lương thực, thực phẩm chính cho nghĩa quân.

Rừng là tài nguyên nổi bật nhất của mảnh đất Nam Kỳ, do đất đai rộng

nên Nam Kỳ có nhiều rừng cây. Những cánh rừng là nơi thực dân Pháp độc

chiếm để chuyển thành vùng cao su thu huê lợi, đồng thời là nơi cung cấpvũ

khí thô sơ cho nghĩa quân,nơi trú ẩn hoạt động của các nghĩa quân, trước đó

là nghĩa quân Trương Định để chống thực dân Pháp.

36

Về khí hậu, Nam Kỳ thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt

là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa khoảng từ tháng năm đến tháng mười,

mùa khô khoảng từ tháng mười một đến tháng tư. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Nam Kỳ là khoảng 300C, đây là vùng có độ ẩm cao, lượng bức xạ

nhiều, hầu như quanh năm.

Về giao thông,bên cạnh các tuyến đường chínhquan trọng như Quốc lộ

1, đường số 13, đường số 14, đường số 15...Nam Kỳ còn có các tuyến đường

phụ nối các vùng miền với nhau, điều này giúp cho việc đi lại của cư dân

được thuận lợi hơn. Nam Kỳ có nhiều sông lớn như sông Đồng Nai, sông Bé,

sông Sài Gòn, sông Cửu Long...ngoài ra, vùng còn có nhiều sông rạch nhỏ với

các hệ thống kênh mương chằng chịt khắp các tỉnh. Trong “Phủ biên tạp lục”,

Lê Qúy Đôn viết: “Đất ấy nhiều ngòi lạch, đường nước như mắc cửi, không

tiện đi bộ. Người buôn có chở thuyền lớn thì tất đèo theo xuồng nhỏ để thông

đi các kênh” [39, tr.345]. Còn trong “Gia Định thành thông chí” Trịnh Hoài

Đức viết: “Đất Gia Định có nhiều sông hồ, đầm bãi, cứ 10 người thì có đến 9

người thạo chở thuyền, biết lội nước” [40, tr.148]. Ngoài ra, Nam Kỳcòn có

cảng Sài Gòn, cảng Chợ Lớn là nơi vận chuyển hành khách, xuất khẩu gạo,

hàng hóa nhiều nhất vùng…Chính hệ thống giao thôngcó nhiều ưu thế, đặc

biệt là đường bộ và đường thủy đã giúpNam Kỳ tiếp xúc với các vùng khác

thuận lợi hơn.

Như vậy, Nam Kỳ có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi

để phát triển, với địa hình đa dạng, giao thông thuận lợi, sản vật dồi dào, là nơi

có nhiều tiềm năng khoáng sản phong phú, đa dạng.

2.1.3.Dân cư và truyền thống yêu nước

* Dân cư

Những cư dân đầu tiên đến Nam Kỳ là những người chịu áp bức bóc lột

nặng nề của chế độ phong kiến Trịnh-Nguyễn, họ “đã rời quê hương, tiến vào

vùng đất phía Nam khai hoang lập ấp” [7, tr.39] hoặc để tránh những cuộc

chiến tranh phong kiến tàn khốc diễn ra hàng mấy trăm năm ở miền ngoài. Họ

37

còn là những tù nhân bị đi đày, những tội phạm, thêm vào đó là số ít những

người có tiền của, quyền lực chiêu mộ dân nghèo ở miền Trung vào Nam theo

chính sách dinh điền của nhà Nguyễn. Với chính sách đẩy mạnh công cuộc

khẩn hoang dưới thời các Chúa Nguyễn, đã thu hút đông đảo cư dân người

Việt, người Hoa đến làm ăn, sinh sống. Tất cả họ đã cùng số ít những người

dân bản địa, là đồng bào các dân tộc Stiêng, Chơ Ro, Mạ đã định cư trong

nhiều thế kỷ, tạo lập một cuộc sống mới trên mảnh đất Nam Kỳ.

Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, một số binh lính của triều đình

nhà Nguyễn cùng những sĩ phu yêu nước vì không muốn hợp tác với giặc và

tránh giặc nên họ đi theo quân đội triều đình vào Nam lập căn cứ kháng chiến.

Qua quá trình chống giặc và đánh giặc, họ dần trở thành những người dân thổ

cư trên mảnh đất Nam Kỳ trù phú.

Trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, người Hoa đã có vị trí kinh tế nhất

định. Trong quá trình cai trị ở Nam Kỳ, đặc biệt với chính sách thương mại

bất bình đẳng giữa thương nhân người Việt vàthương nhân người Hoa của

chính quyền thực dân (chính sách coi trọng bộ phận thương nhân người Hoa,

chèn ép thương nhân người Việt) nên số lượng cư dân người Hoa nhập cư vào

Nam Kỳ ngày càng tăng:

Bảng 1: Số lượng người Hoa nhập cư vào Đông Dương giai đoạn 1880-1894.

(Đơn vị: người)

Năm Số nhập cư Năm Số nhập cư

1880 65.475 1887 66.109

1881 68.643 1889 69.394

1882 67.817 1890 67.107

1883 70.894 1891 51.312

1884 76.772 1892 64.506

1885 54.720 1893 58.437

1886 60.503 1894 79.191

[56, tr.30]

38

Như vậy, Nam Kỳ có thành phầndân tộc, dân cư khá đa dạng gồm

người Việt, người Hoa, người Chăm, người Khmer, người Chơ Ro, người Cơ

Ho, người Mạ, người Stiêng…nhưng nhiều nhất là người Việt. Họ từ các

vùng miền khác nhau đến tụ cư tại Nam Kỳ,do đó số dân ở Nam Kỳ thay đổi liên tục qua các năm:Năm 1868, diện tích của Nam Kỳ khoảng 65.478 km2,

dân số là 1.677.678 người [92, tr.215], đến năm 1880, dân số Nam Kỳ là

1.679.000 người [114, tr.57],đặc biệt trong thời gian từ năm 1881 đến năm

1895, số dân Nam Kỳ đã gia tăng rõ rệt:

Bảng 2: Số dân Nam Kỳ trong giai đoạn 1881-1895.

(Đơn vị: người)

Năm Số dân

1881-1885 1.730.000

1886-1890 1.870.000

1891-1895 2.200.000

[135, tr.36]

Nam Kỳ có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau như Phật giáo, Thiên

Chúa giáo, Hồi Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu

Nghĩa...nhưng đông nhất và phân bố ở hầu khắp các địa phương là Phật Giáo.

Chính thành phần dân cư đa dạng, điều kiện tự nhiên xã hội, dễ tiếp thu

những cái mới từ bên ngoài vào...là cơ sở để người dân Nam Kỳ dung hòa tôn

giáo, tín ngưỡng cũng như sáng tạo những tín ngưỡng riêng trên cơ sở chọn

lọc những cái tiến bộ của tôn giáo trước đó,mặc dù họ vẫn giữ nguyên những

nét riêng của tôn giáo, tộc người mình. Nam Kỳ là khu vực có đầy đủ các tôn

giáo lớn ở Việt Nam như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Cao Đài,

Hòa Hảo, Tin Lành, đồng thời cũng là nơi có số lượng tín đồ nhiều nhất ở

Việt Nam. Các tôn giáo, tín ngưỡng ở Nam Kỳ có sức mạnh đoàn kết nhân

dân chống lại áp bức bóc lột, vì vậy phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam

Kỳ luôn thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.

39

Sau khi thoát khỏi áp bức bóc lột nặng nề của chế độ phong kiến Trịnh-

Nguyễn, những cư dân phải đương đầu đọ sức ngay với thời tiết khắc nghiệt

của thiên nhiên, chống lại các loại thú dữ như cọp, báo, voi, rắn độc, heo

rừng, cá sấu…Nhưng trên vùng đất hoang vu toàn rừng rậm bạt ngàn, các cư

dân đã cùng nhau khai hoang, dựng nhà cửa, lập thôn ấp, tổ chức trồng cấy

chăn nuôi, từ việc ăn những thứ có sẵn trong tự nhiên, họ đã tạo ra được

nguồn lương thực thực phẩm dồi dào trên mảnh đất phì nhiêu màu mỡ, với

những vườn rau xanh bát ngát, những vườn trái cây ngọt ngào, những ruộng

lúa nặng trĩu hạt, những đầm thủy sản mênh mông. Những thành quả đó đã

tạo cảm xúc cho nhiều nhà thơ viết lên những dòng thơ ngọt ngào:

“Quê em hải đảo cù lao,

Có dừa ăn trái, có cau ăn trầu,

Quê anh có cửa biển sâu,

Có ruộng lấy muối, có dâu nuôi tằm,

Quê em Đồng Tháp mênh mông,

Xanh tươi bát ngát, ruộng đồng bao la”

[168, tr.11]

“Quê anh óng ả tơ vàng,

Ruộng nương thẳng tắp, ngút ngàn dâu xanh,

Quê em đồng lúa xanh xanh,

Cò bay thẳng cánh, vây quanh Tháp Mười”

[168, tr.11]

Trong hoàn cảnhphải liên tiếp chống lại thiên nhiên khắc nghiệt, thú dữ

trong thời kỳ khai hoang, đấu tranh chống áp bức bóc lột của chế độ phong

kiến và chống xâm lược ngoại bang, đã hình thành ở người dân Nam Kỳ tinh

thần đoàn kết, yêu nước, chí căm thù giặc sâu sắc, lòng khát khao tự do, công

bằng, tôn trọng lẽ phải, không chịu khuất phục trước mọi áp bức bất công nào,

bất cứ từ đâu tới. Cư dân Nam Kỳ luôn yêu thương, gắn bó đùm bọc lẫn nhau,

40

họ có tấm lòng mến khách thủy chung, trọng nghĩa khinh tài, thẳng thắn

cương trực, nói thẳng nói thật rồi sẵn sàng bỏ qua, tha thứ cho nhau để cùng

tiến bộ. Đây chính là nét đặc trưng của cư dân Nam Kỳ, chính hoàn cảnh trên

đã hình thành tính cách của ngườidân Nam Kỳ khác với các vùng miền trong

cả nước.

Bản chất của người dân ở đâu cũng có đầu óc tư hữu, người dân Nam

Kỳ cũng không thoát khỏi quy luật ấy. Nhưng bên cạnh nét bản chất đó,

người dân Nam Kỳ còn có những nét đặc trưng riêng như thấy việc làm nào

không đúng, họ liền lên án, bãi bỏ, nếu là việc nghĩa, việc ích nước lợi dân, họ

sẽ tham gia, dù mất cả gia sản cũng không hề tiếc. Người dân Nam Kỳ sẵn

sàng đóng góp cho đất nước không chỉ bằng của cải vật chất mà còn là cả tấm

lòng chung thủy, bằng cả mạng sống của mình.

Như vậy,“so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ thì Nam Kỳ là vùng đất mới, quy

tụ dân cư từ nhiều địa phương” [70, tr.169]. Nam Kỳ là vùng đất có tính chất

điển hình về đa tộc người, đa tôn giáo tín ngưỡng vì thế trong các phong trào

đấu tranh ở Nam Kỳ đều có sự tham gia của hầu hết các thành phần dân tộc

với các hình thức đấu tranh phong phú đa dạng. Mặc dù, phải đương đầu với

nhiều khó khăn thách thức nhưng hơn bao giờ hết người dân Nam Kỳ luôn

luôn đoàn kết, yêu nước, có tinh thần tự do phóng khoáng, có đầu óc tương

trợ, dám làm việc nghĩa, dám theo cái mới, đó chính là sức mạnh to lớn để

đánh bại mọi kẻ thù xâm lược,để lại những dấu ấn đậm nét trong đời sống

kinh tế xã hội của Nam Kỳ.

* Truyền thống yêu nước

Vùng đất Nam Kỳ hình thành là do công lao đóng góp của nhiều thế hệ

như người Việt, người Khmer, người Chơ Ro, người Stiêng...Họ đã đoàn kết

cùng vượt qua những khó khăn về điều kiện tự nhiên, ách áp bức bóc lột của

các thế lực để cùng tạo lập ra mảnh đất Nam Kỳ. Do vậy, họ quyết tâm bảo vệ

vùng đất yêu quý trước bất kỳ thế lực xâm lược nào. Đó không chỉ là ý thức

41

dân tộc mà còn là tư tưởng, tình cảm gắn bó với mảnh đất mà họ phải đổi

bằng xương máu mới tạo lập được.

Năm 1785, nhân dân Nam Kỳ đã anh dũng tham gia cùng nghĩa quân

của Nguyễn Huệ “tiêu diệt gần như hoàn toàn 2 vạn quân Xiêm”[136, tr.82]

trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút, số quân xâm lược sống sót chỉ còn vài nghìn

người trốn về nước.

Nửa đầu thế kỷ XIX, dưới triềuNguyễn, nhân dân Nam Kỳ đặc biệt là

nông dân, nho sĩ, quan lại cấp dưới...liên tục đấu tranh chống lại ách áp bức

bóc lột của chính quyền và giai cấp thống trị.

Ngày 1.9.1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam,

“ra lệnh cho tàu chiến bắn đại bác lên các đồn Điện Hải, An Hải của triều

đình” [144, tr.487]. Sau 5 tháng, không đạt được kết quả như mong muốn nên

thực dân Pháp quyết định “lợi dụng mùa gió bấc kéo vào đánh Gia Định

(2.1859)” [144, tr.487] làm bàn đạp tấn công Trung Kỳ và Bắc Kỳ.Ngay sau

tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp, kế thừa truyền thống yêu nước, tinh

thần đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, của vùng

đất Nam Kỳ, nhân dân Nam Kỳ đã trở thành lực lượng tiên phong đứng lên

anh dũng chiến đấu, quyết tâm chống Pháp đến cùng để bảo vệ quê hương.

bảo vệ độc lập dân tộc. Họ đấu tranh bằng nhiều hình thức khác nhau như đấu

tranh vũ trang, đấu tranh trên mặt trận văn hóa tư tưởng, hưởng ứng phong

trào tị địa...

Ngày 15.2.1859, Pháp tiến đánh đồn Thủ Thiêm, Tân Thuận, sau đó

tiến công thành Gia Định. Tuy nhiên, thực dân Phápđãphải chiến đấu vất vả

suốt hai ngày đêmmới chiếm được thành vì sự chống trả quyết liệt của nhân

dân Nam Kỳ. Sau đó, nhân dân khắp Lục tỉnh nhiệt liệt ứng nghĩa mộ binh, tự

tổ chức thành đội ngũ để đánh Pháp, Trần Thiện Chính và Lê Huy(quan lại bị

cắt chức) cấp tốc chiêu mộ được khoảng 5.000 dân binh, vận động đồng bào

góp tiền lương, kéo nghĩa dũng tớingăn chặn bước tiến của quân xâm lược.

42

Từ năm 1860, dưới sự lãnh đạo của các văn thân sĩ phu yêu nước, nhân

dân Nam Kỳ đặc biệt là nông dân đã anh dũng đấu tranh. Với Hiệp ước năm

1862, triều đình Huế cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và đảo Côn Lôn cho

Pháp, phong trào kháng chiến bùng lênngày càng mạnh mẽ, gây nhiều tổn thất

cho thực dân Pháp.

Tháng 7.1860, đội nghĩa dũng khoảng 6.000 người do Dương Bình

Tâm chỉ huy xung phong đánh vào Chợ Rẫy, đầu năm 1861: “Nghĩa quân đã

phục kích, đâm chết tên đại úy Bácbê (Barbé) gần Trường Thi, đánh đắm tàu

chiến địch Primôghê (Primouguet)” [144, tr.493].Cũng trong năm 1861,

Nguyễn Trung Trựcchỉ huyđốt cháy tàu Étpêrăng (Espérance) của Pháp trên

sông Nhật Tảo[67, tr.378],Trương Định khởi nghĩa, ngoài ra, còn nhiều cuộc

khởi nghĩa khác như khởi nghĩa của Đỗ Trình Thoại, Nguyễn Thông, Phan

Văn Đạt, Lưu Tấn Thiện, Võ Duy Dương ...Trong tất cả các cuộc khởi nghĩa

trên, khởi nghĩa của Trương Định(1861-1864) là tiêu biểu nhất:

Ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Gia Định, năm

1859,“Trương Công Định chiêu mộ quân lập căn cứ tại Gò Công để đánh

Pháp” [155, tr.37]. Sau đó,Trương Định huy động nghĩa quân của mình phối

hợp với quân đội của triều đình tấn công Pháp. Trong quá trình khởi nghĩa,

dưới sự lãnh đạo của Trương Định, các tầng lớp nhân dân đã chiến đấu anh

dũng“giành nhiều chiến thắng trong vùng từ Cây Mai đến Thị Nghè” [92,

tr.536]. Chính Pháp thừa nhận rằng: “Nếu quan lại triều đình không tìm cách

hạn chế ông mà để ông hoạt động được tự do thì “chúng” (chỉ thực dân Pháp)

còn bị thiệt hại nhiều hơn nữa, và có thể đã bị thua rồi” [144, tr.494].

Tháng 3.1860, Trương Định phối hợp cùng nghĩa quân của Nguyễn Tri

Phương đánh Pháp, nhân dân Nam Kỳ ra sức ủng hộ nên “đến cuối năm 1861,

lực lượng nghĩa quân Trương Định đã lên tới hàng vạn người, kể cả một số

Hoa kiều” [141, tr.285], địa bàn hoạt động rộng khắptừ Gò Công, Tân An,

Mỹ Tho, Chợ Lớn, Gia Định đến biên giới Cao Miên…Ông liên lạc với

43

những người cầm đầu nghĩa quân khác, quan lại triều đình có tinh thần yêu

nước như tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang cũng xin gia nhập.

Tháng 3.1862, triều đình phong chức Phó lãnh binh cho Trương Định,

chỉ huy nghĩa quân ở Gia Định, phối hợp với triều đình để chiến đấu. Tháng 6

năm 1862, triều đình Huế ký Hiệp ước dâng ba tỉnh miền Đông cho thực dân

Pháp, lệnh cho Trương Định giải tán lực lượng, về Bình Thuận làm lãnh binh

nhưng ông đã kháng lệnh, quyết tâm ở lại cùng nhân dân chiến đấu, được

nhân dân suy tôn là Bình Tây Đại Nguyên Soái. Ông đã “lập chính quyền

kháng chiến thay cho chính quyền bạc nhược, không còn tác dụng của triều

đình” [128, tr.119], thể hiện quyết tâm kháng Pháp của Trương Định. Phong

trào chống Pháp của Trương Định dâng cao “gần như “tổng khởi nghĩa””

[144, tr.495] khắp Nam Kỳ, lôi cuốn đại bộ phận các tầng lớp nhân dân.

Theo bước chân của thực dân Pháp xâm lược, phong trào chống Pháp

của Trương Định ngày càng sôi nổi, quyết liệt. Không mua chuộc được ông

nên cuối cùng thực dân Pháp đã sử dụng tay sai là Huỳnh Công Tấn (đội Tấn)

dẫn đường bí mật vào bao vây căn cứ của Trương Định (20.8.1864), “Ông bị

trúng đạn gẫy xương sống. Không muốn để giặc bắt, ông đã rút gươm tự

sát”[144, tr.498].

Năm 1867,Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An

Giang, Hà Tiên).Kế tục truyền thống yêu nước của lớp người đi trước, phong

trào chống Pháp của nhân dân, đặc biệt là miền Tây Nam Kỳdiễn ra ngày

càng quyết liệt với các cuộc khởi nghĩa của Phan Tôn, Phan Liêm (1867),

khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Huân (1875), khởi nghĩa của Phan Tòng

(1869)...gây nhiều tổn thất cho thực dân Pháp.

Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa vũ trang liên tục với quy mô lớn, nhân

dân Nam Kỳ còn tham gia đấu tranh trên mặt trận văn hóa tư tưởng, tiêu biểu

như Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị...Vì nhiều lí do

khác nhau, các nhà nho yêu nước không thể cầm vũ khí chống Pháp

44

nhưngthông qua ngòi bút sắc bén của mình, họ sáng tác thơ văn, hịch, vè...để

tố cáo thực dân, trách cứ triều đình “Bến nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng

Nai tranh ngói nhuốm màu mây/ Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng/ Nỡ để dân

đen mắc nạn này”[159,tr.220], kêu gọi nhân dân đứng lênchiến đấu: “Bớ các

quân ơi!/ Chớ thấy chín trùng hòa nghị mà tấm lòng địch khái nỡ phôi pha/

Đừng rằng ba tỉnh giao hòa mà cái việc cừu thù đành bỏ dở” [42, tr.20], ca

ngợi những anh hùng hi sinh vì nghĩa lớn: “Cuộc trung nghĩa hai năm làm đại

tướng, nhọc nhằn vì nước, nào sờn tiếng thị phi. Cõi An Hà một chức chịu

lãnh binh, lây lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại” [159, tr.235].

Cùng với các cuộc khởi nghĩa vũ trang, đấu tranh trên mặt mặt trận văn

hóa tư tưởng, nhân dân Nam Kỳ còn hưởng ứng phong trào tị địa. Ngay khi

Pháp xâm lược Nam Kỳ, nhân dân Gia Định đã tự tay thiêu hủy nhà cửa,

chuyển đi nơi khác, chính Pháp thừa nhận “Chiều nào ở thành phố cũng có

những đám cháy”. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu rời Bình Dương về Cần

Giuộc, năm 1861,ông chuyển về Ba Tridạy học, bốc thuốc, liên hệ với nghĩa

quân Trương Định...Lưu Tấn Thiện(tri huyện Gia Định) rời về Vĩnh Long

sinh sống, Nho sĩ Nguyễn Thông di chuyển phần mộ người Thầy Võ Trường

Toản từ Gia Định về Vĩnh Long vì ông không muốn mộ Thầy nằm trên đất bị

giặc chiếm...Phong trào tị địa phản ánh thái độ bất hợp tác với thực dân, gây

khó khăn cho chính quyền thực dân trong tổ chức quản lý những vùng bị

chiếm.

Như vậy,truyền thống yêu nước của người dân Nam Kỳ đã hình thành

ngay trong quá trình tạo lập ra vùng đất mới, truyền thống đó ngày càng được

phát huy trong quá trình chống xâm lược ngoại bang. Phong trào yêu nước

chống Pháp ở Nam Kỳ trước năm 1885,diễn ra sôi nổi, quyết liệt với nhiều

hình thức đấu tranh phong phú, cho thấy tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên

quyết bảo vệ vùng đất của nhân dân Nam Kỳ. Truyền thống ấy đã đi vào lịch

sử với những trang hào hùng. Phong trào lúc đầu diễn ra ở miền Đông rồi lan

45

sang các tỉnh miền Tây theo dấu chân của thực dân Pháp xâm lược, giống như

tuyên bố của Nguyễn Trung Trực: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam

thì mới hết người nước Nam đánh Tây” [92, tr.537]. Mặc dù, tất cả các cuộc

khởi nghĩa đều thất bại do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng đã gây tổn

thất cho các thế lực xâm lược, góp phần cản trở quá trình xâm lược của thực

dân, tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân Nam Kỳ chiến đấu khi có điều kiện

thuận lợi.

2.2. Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ trước và trong giai

đoạn1885 -1896

Theo quy định của Hiệp ước Nhâm Tuất (5.6.1862), ba tỉnh miền Đông

Nam Kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường là thuộc địa của Pháp. Đến

tháng 6.1867, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên

tiếp tục trở thành thuộc địa của Hoàng đế Napoléon. Từ đây, người dân Nam

Kỳ phải chịu tác động sớm nhất từ chế độ thực dân. Pháp đã thiết lập bộ

máycai trị sớm nhất nhằm củng cố ách chiếm đóng tại chỗ, làm bàn đạp tấn

công xâm lược toàn bộ Việt Nam và Đông Dương.

Với Hiệp ước Harmand (1883) và Hiệp ước Patenôtre (1884), Việt

Nam chính thức trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn

hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp xâm lược. Từ đó, Pháp một mặt tập trung

binh lực đè bẹp các phong trào kháng chiến của nhân dân ở các địa phương để

ổn định tình hình, mặt khác từng bước tạo lập bộ máy chính quyền cai trị bao

gồm cả những tên tay sai đắc lực, tiến hành đầu tư vơ vét các nguồn tài

nguyên và nông sản của đất nước.

Rõ ràng với chiến lược “tằm ăn lá”[140, tr.240], thực dân Pháp đã kết

thúc thời kỳ vũ trang xâm lược Việt Nam, đưa Nam Kỳ nói riêng, Việt Nam

nói chung vào hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp. Cũng từ Hiệp ước

Patenôtre, đất Nam Kỳ do Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp nắm.

46

Chính sách về chính trị: Từ năm 1876, “Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu

vực hành chính gồm 20 hạt tham biện” [52, tr.356], mỗi hạt sau đó trở thành

một tỉnh của xứ Nam Kỳ, có viên tham biện (chủ tỉnh) do người Pháp đứng

đầu. Các cấp chính quyền dưới tỉnh, Pháp giao cho nhữngphần tử tay sai làm

chủ. Thực dân Pháp“tuyển lựa từ trong đám địa chủ phong kiến và đào tạo

chúng thành kẻ cầm quyền từ cấp làng xã đến tổng quận để thu thuế, bắt phu,

bắt lính và trấn áp nhân dân” [90, tr.232]. Do vậy, thực dân và tay sai ngày

càng quan hệ chặt chẽ với nhau để áp bức bóc lột nhân dân, tạo thuận lợi để

Pháp gia tăng và tiếp tục duy trì chính sách cai trị hà khắcở Nam Kỳ, còn tay

sai dựa vào quyền lực của thực dân để chuộc lợi, Đặng Huy Trứ nhận định:

“Người làm quan phần đông là nóng lòng mưu cầu giàu sang, hoặc bỏ vào

chỗ dễ kiếm chác hoặc mong thăng cao” [143, tr.36]. Đó cũng là lí do chính

cắt nghĩa tại sao thực dân lại lập được bộ máy cai trị ở huyện, tổng, xã. Lẽ dĩ

nhiên không phải tất cả thân hào địa chủ phong kiến đều theo Pháp, số thân

hào chống Pháp vẫn còn đông.

Năm 1879, Pháp đã ổn định được bộ máy đàn áp cai trị ở xứ Nam Kỳ,

chấm dứt chế độ võ quan cai trị (thực chất là chế độ quân sự,trải qua 24 đời sỹ

quan, cấp bậc từ đô đốc đến thiếu tướng hải quân), chuyển sang chế độ văn

quan (chế độ dân sự). Năm 1880, do nhu cầu bóc lột, xâm chiếm mới, cần

phải có người thống trị theo cách mới nên thực dân Pháp đã đưa Lemyre de

Vilers vào làm Thống đốc dân sự đầu tiên ở Nam Kỳ. ChínhLemyre de Vilers

đã đưa ra kiến nghị “Theo ý tôi thì đã đến lúc phải nghiêm chỉnh đưa người

bản xứ vào cùng lo việc của họ” [52, tr.247]. Người bản xứ mà Lemyre

Devilers đề cập ở đây là các quan lại cao cấp đã trung thành với thực dân như

địa chủ phong kiến, tư sản mại bản. Điều này giúp cho quyền thống trị của

thực dân sẽ ở trong phạm vi rộng hơn, mạnh hơn trong việc cai trị dân Nam

Kỳ, chuẩn bị xâm chiếm Bắc Kỳ và toàn Việt Nam.

47

Thực dân Pháp thi hành một số thủ đoạn lừa bịp như nghị định ngày

8.2.1880,quyết định để Lemyre de Vilers lập ra Hội đồng quản hạt Nam Kỳ

có chức năng tư vấn. Hội đồng gồm 6 người Pháp, 6 người Việt (nhưng là

người Việt đã vào “làng Tây” [99, tr.581]), 2 người đại biểu phòng thương

mại và 2 người do Thống đốc chỉ định trong hội đồng tư vấn. Hội đồng quản

hạt Nam Kỳ không đại diện cho quyền lợi của người dân Nam Kỳ, chỉ có

quyền đề đạt ý kiến về thuế, ngân sách, cấm thảo luận chính trị. Cả Nam Kỳ

với 1.500.000 người, chỉ có 2.273 người có quyền bầu cử, trong số cử tri này

lại có 2 người Pháp và 4 tay sai là người Việt đang làm việc cho thực dân

trong một hội đồng 14 người. Ngay người Pháp cũng phải thốt lên rằng: “Sự

cải cách có một tai hại nghiêm trọng là đặt vào tay đa số người Pháp cả một

ngân sách 14 triệu - ngân sách này sẽ gấp rút lên tới 20 triệu – phần lớn ngân

sách đó là do người bản xứ đóng thuế, nhưng không phải là chi phí ra theo

quyền lợi của nhân dân đóng thuế” [52, tr.247].

Ngoài ra, thực dân Pháp còn đặt bộ máy tư pháp riêng ở Sài Gòn và các

tỉnh. Việc nhấn chìm các cuộc khởi nghĩa, triều đình phản lại quyền lợi dân

tộc nên chính quyền thực dân lại càng được củng cố hơn. Những vụ kiện về

đất, tài sản, buôn bán…ngày càng nhiều trong khi chính quyền thực dân luôn

bênh vực cho lực lượng tay sai nên vì thế thực dân Pháp lại càng được hưởng

lợi nhiều hơn.

Bên cạnh việc đặt bộ máy tư pháp riêng ở Sài Gòn và các tỉnh, việc

xem xét của tham biện và Thống đốc vẫn không bị thủ tiêu, nghĩa là thực dân

lại đeo thêm vào cổ người dân một bộ máy đàn áp nữa “một số lớn ký sinh

trùng mà dân phải nộp thuế để nuôi” [52, tr.248]. “Ở một xứ mà trong nhân

dân không có công dân, chỉ có những thuộc dân, ở một xứ mà tiếng nói và

phong tục hoàn toàn khác với tiếng nói và phong tục của ta, điều căn bản là

làm sao cho người thay mặt cho chính phủ phải có quyền hành đặc biệt để cho

48

chỉ thị của họ được có hiệu lực, để cho dân chúng thấy rõ cái chủ quyền của

ta” (Lời của Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa ngày 21.5.1881). Thực dân

còn cho các tham biện có quyền bắt giam, niêm phong tài sảncủa người Việt.

Chính Lemyre de Vilers chủ trương liên kết chặt chẽ với các tầng lớp

trong xã hội vì thực dân cho rằng nếu xây dựng hậu phương ổn định, vững

chắc là điều kiện thuận lợi cho việc thống trị lâu dài. Để có hiệu suất trấn áp

cao hơn, Pháp đã cho thay đổi chi tiết về hành chính, “thực dân Pháp ở Nam

Kỳ trong thời kỳ này đẩy mạnh việc bắt lính ngụy” [144, tr.516]. Vấn đề

chính là lính mã tà và lính tập. Thời trước nếu như các sĩ quan làm chủ tỉnh,

chỉ huy lính mã tà thì bây giờ họ là chủ tỉnh, không phải là võ quan nữa. Pháp

lựa chủ tỉnh từ những cử nhân luật, học sinh từ trường tham biện. Các chủ

tỉnh không chỉ huy được quân nên ngày 2.12.1869, Pháp lập ra đội lính tập

(khoảng 3.000 người chưa kể người Pháp). Các đội lính này sẽ là đội quân đối

lập với nhân dân, dùng để trấn áp phong trào của nhân dân Nam Kỳ đồng thời

phục tùng đắc lực cho chính quyền thực dân Pháp. Ngoài lính tập, còn các đội

mã tà cũ nhưng đổi tên là mã tà tỉnh, chuyên việc canh gác trạm giao thông,

các khám ở tỉnh, huyện.

Như vậy, bộ máy đàn áp cai trị của thực dân Pháp nặng nề, quyết liệt

hơn trước. Điều này chứng tỏ rằng phong trào đấu tranh của nhân dân Nam

Kỳ không hề bị lắng xuống, ngược lại phong trào càng trở nên sôi nổi, mạnh

mẽ hơn.

Chính sách về kinh tế, tài chính:

Nông nghiệp: Nam Kỳ có đất đai rộng, màu mỡ, vì thế thực dân Pháp

chú trọng đến phát triển nông nghiệp. Chính quyền thuộc địa luôn đánh giá

cao tiềm năng phát triển nông nghiệp ở vùng đất này: “Đất đai Nam Kỳ với

độ phì nhiêu kỳ lạ, với hàng triệu lao động nông nghiệp bản xứ, đó là thực tế

hùng hồn của thuộc địa tuyệt diệu này. Nam Kỳ không cần sự viện trợ của

49

chính quốc, mà bản thân nó đủ sức nuôi sống 200 lần dân số của nó hiện nay”

[138, tr.6]. Do vậy, chính quyền thực dân đã đưa nông nghiệp lên thànhngành

sản xuất chính với mục đích đem lại nguồn lợi cao cho thực dân, làm giàu cho

chính quốc.

Với chính sách cướp đoạt ruộng đất của nông dân, điều chỉnh lại quyền

sở hữu ruộng đất của Pháp ở Nam Kỳ nên ruộng đất tập trung chủ yếu vào

thực dân và tay sai. Vì thế, diện tích trồng lúa ngày càng được mở rộng nên

khối lượng lúa gạo thu hoạch được cũng không ngừng gia tăng.

Bảng 3: Diện tích và khối lượng lúa ở Nam Kỳ trong giai đoạn 1868-1909

(Đơn vị: hecta, tấn)

Diện tích ruộng lúa Thu hoạch Năm

1868 215.500 259.000

1880 522.000 627.000

1894 1.134.000 1.361.000

1909 1.527.000 1.833.000

[114, tr.56]

Thông qua bảng số liệu trên cho thấy từ năm 1868 đến năm 1909, khối

lượng lúa gạo sản xuất ở Nam Kỳ liên tục gia tăng, năm 1868 là 259.000 tấn

nhưng đến năm 1909 đã lên đến 1.833.000 tấn, tăng hơn 7 lần so với năm

1868. Điều đó phản ánh chính sách khai thác, bóc lột triệt để của chính quyền

thực dân Pháp đối với người dân Nam Kỳ trong lĩnh vực lúa gạo.

Lúa gạo không chỉ phục vụ đủ cho xứ Nam Kỳ mà còn giúp cho thực

dân xuất khẩu gạo với số lượng ngày càng tăng, đem lại lợi nhuận cao cùng

với việc đánh thuế nặng về nông nghiệp. Từ năm 1870 đến năm 1885, thực

dân Pháp đã xuất khẩu được khối lượnggạo ở Nam Kỳ như sau:

50

Bảng 4: Khối lượng gạo xuất khẩu ở Nam Kỳ giai đoạn 1870-1896

(Đơn vị: tấn)

Khối lượng Khối lượng Năm Năm Khối lượng Năm

1870 230.031 1879 367.681 569.145 1888

1871 299.422 1880 294.563 349.364 1889

1872 235.397 1881 258.368 566.720 1890

1873 279.775 1882 372.773 463.265 1891

1874 187.734 1883 539.360 654.315 1892

1875 341.272 1884 532.451 779.740 1893

1876 344.673 1885 501.382 735.173 1894

1877 312.878 1886 495.792 679.250 1895

1878 219.765 1887 533.949 568.996 1896

[Nguồn: 178, tr.23]

Tuy nhiên, trái ngược với nguồn lợi lớn từ nông nghiệp mà thực dân

Pháp thu được là cuộc sống đói khổ, bần cùng của người dân Nam Kỳ. Đó

chính là lí do căn bản của các phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ

giai đoạn 1885-1896.

Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Do điều kiện tự nhiên ở Nam Kỳ

không thuận lợi so với các vùng khác ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ trong phát triển

công nghiệp nên thực dân Pháp không chú trọng các chính sách để công

nghiệp phát triển. Tuy nhiên, do nhu cầu thực tiễn, phục vụ xuất khẩu nên một

số ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vẫn phát triển như công nghiệp

xay xát gạo, chế biến gỗ, rượu, mía, đường, sản xuất tơ lụa, gốm sứ…đặc biệt

công nghiệp xay xát gạo phát triển rất mạnh, có đến hàng chục cơ sở lớn xay

xát gạo, chủ yếu là của người Hoa. Pháp không hạn chế sự phát triển công

nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đối với người Hoa vì một mặt Pháp muốn hạn

chế sự phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của người Việt, mặt

khác các cơ sở chế biến của người Hoa giúp cho việc xuất khẩu của Pháp thu

51

được nhiều lợi nhuận cũng như khai thác vơ vét nguồn tài nguyên thiên nhiên

ở Nam Kỳ, đem về làm giàu cho chính quốc. Việc chú trọng phát triển nông

nghiệp trong khi không chú trọng đến các chính sách để phát triển công

nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là nguyên nhân làm nền kinh tế Nam Kỳ phát

triển mất cân đối.

Thương nghiệp: Chính quyền thực dân Pháp chú trọng rất sớm đến lĩnh

vực thương nghiệp ở Nam Kỳ.Năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ ký nghị định

thành lập Phòng thương mại Sài Gòn (trong khi đó ở Bắc Kỳ, Phòng thương

mại Hà Nội và Phòng thương mại Hải Phòng năm 1886 mới được thành lập).

Cuối thế kỷ XIX, hoạt động thương nghiệp diễn ra khá sôi nổi ở Nam Kỳ, đặc

biệt là vấn đề thu mua và xuất khẩu lúa gạo. Điều đặc biệt nữa trong chính

sách về kinh tế, tài chính của chính quyền thực dân Pháp là chính sách thương

mại bất bình đẳng giữa thương nhân người Hoa và người Việt. Một mặt Pháp

có chính sách coi trọng bộ phận thương nhân người Hoa, mặt khác lại ra sức

chèn ép người Việt trong kinh doanh buôn bán. Điều này giúp cho chính

quyền thực dân hạn chế được sự phát triển kinh tế của người Việt ở Nam Kỳ.

Do vậy, người Hoa có điều kiện phát triển kinh tế rất đa dạng như: lúa gạo,

vải, than, vận tảỉ, lâm sản, ngân hàng…dần dần người Hoa còn lập ra các hội

để tương trợ lẫn nhau trong hoạt động kinh tế.

Mặc dù bị chèn ép từ chính quyền thực dân Pháp và thương nhân người

Hoa nhưng thương nhân người Việt ở Nam Kỳ vẫn dần hình thành và phát

triển. Năm 1870, Sài Gòn và Chợ Lớn chưa có chủ buôn lớn nhưng đến năm

1888,ở Chợ Lớn đã có 2 chủ buôn than, 7 cửa hàng tạp hóa và 15 cửa hàng

bán giấy vở [126, tr.60].

Tài chính: “Ngày 10.1.1863, Tổng thống Pháp ban hành sắc lệnh quy

định thuộc địa phải chịu tất cả mọi chi tiêu, trừ chi tiêu của quân đội và hải

quân. Tuy nhiên, cho tới tháng 1.1864, ngân sách chi cho cuộc viễn chinh

Nam Kỳ vẫn chưa được Hạ viện Pháp thông qua do phần lớn thành viên trong

52

Hạ viện đều đồng tình với phương án cho triều đình Nguyễn chuộc lạiNam

Kỳ sau chuyến đi Pháp của phái bộ ngoại giao nhà Nguyễn vào năm 1863”

[176, tr.5]. Vì vậy,để có chi phí cho các hoạt động cai trị ở Nam Kỳ và để

phục vụ cho âm mưu đánh chiếm ra Bắc Kỳ, Trung Kỳ, thực dân Pháp ở Nam

Kỳ đã ra sức bóc lột, vơ vét tối đa lương thực, nguyên liệu, tiền bạc...của nhân

dân. Chính sách đầu tiên và xuyên suốt là tăng cao các thứ thuế cũ, đặt ra

thêm nhiều loại thứ thuế mới như thuế thân, thuế ruộng đất, thuế môn bài,

thuế vận tải đường bộ…như “Ngày 22.10.1864 Thống đốc Nam Kỳđã ban

hành Nghị định đầu tiên thiết lập chế độ thuế áp dụng đối với người Việt ở

Nam Kỳ” [176, tr.5], điều đó có nghĩa là tất cả người dân bản xứ trong quy

định đang sống ở Nam Kỳ phải chịu thuế thân. So với thuế thân của triều

Nguyễn, mức thuế mà chính quyền thực dân Pháp đặt ra là cao hơn.Mọi loại

thuế đều đánh rất nặng, nhất là các loại thuế gián thu như thuế thuốc phiện,

thuế rượu, thuế muối, tăng cường sưu dịch… Chính vì vậy, ngân sách của

chính quyền thực dân không ngừng tăng lên: Năm 1864, ngân sách là 3 triệu

francs, năm 1867 ngân sách đạt 5,6 triệu francs, năm 1887 ngân sách lên tới

26 triệu francs [33, tr.245].

Chính Lemyre de Vilers đã phải công nhận: trong nhiều vùng nông

thôn Nam Kỳ, những điền sản nhỏ mất đi, nông dân không ruộng ngày càng

tăng vì tay sai giật ruộng đất của nông dân, chủ đồn điền bóc lột nông dân

nhiều hơn trước.

Thời gian trước, nếu mất mùa, nhà nước cấm xuất cảng lúa gạo, nhưng

trong thời gian này, nếu mất mùa thì vẫn xuất cảng để lấy lãi. Địa chủ ra sức

vơ vét vì thế đời sống nhân dân ngày càng đói khổ, có nơi lúa nhiều mà dân

vẫn cứ đói, năm 1870 nạn đói hoành hành dân vô tội.

Thuế vụ tăng lên. Năm 1881, ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ đóng cho triều đình

21 triệu francs còn Nam Kỳ phải đóng cho thực dân Pháp đến 20 triệu francs.

Chủ tỉnh không quan tâm đến việc xã trưởng tiến hành thu thuế của dân như

thế nào, vấn đề quan tâm nhất của chính quyền thực dân chính là lợi nhuận.

53

Do thuế điền thổ rất nặng nên người dân Nam Kỳ đã khai gian diện

tích. Chính Lemyre de Vilers kết luận: “Chúng ta đã tiêu hủy cái quá khứ, mà

chúng ta không thay cái gì vào cả. Chúng ta đang đứng trước một cuộc cách

mạng xã hội sắp nổ bùng ra, nguyên nhân của cuộc cách mạng này là cuộc

chinh phục của chúng ta” [52, tr.250]. Cho nên để ngăn cuộc cách mạng

đó,Lemyre de Vilers đề ra cải cách để bảo vệ quyền lợi thực dân và tay sai

bằng cách giảm thuế điền thổ nhưng thực ra để số điền thổ chưa khai phải

khai ra, nên tổng số thu sẽ không bớt. Vì vậy, thuế điền thổ sẽ tăng.

Đời sống ngày càng bần cùng, đói khổ nên nhân dân liên tục đấu tranh

chống lại ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Để trấn an nhân dân, chính

quyền thực dân Pháp quyết định giảm thuế thân nhưng Pháp lại đánh thuế vào

mỗi bao gạo xuất cảng, nghĩa là nông dân lại phải chịu thêm một thứ thuế

nữa, trong khi chính quyền thực dân Pháp không mất đi tiền thuế, lại được thu

thêm tiền thuế mới.

Để tránh nông dân mưu đồ khởi nghĩa khi đi sưu dịch nên Lemyre de

Vilers cải cách bằng việc bổ vào những người từ 21 tuổi đến 60 tuổi phải

đóng thêm một quan, đi sưu 5 ngày trong vòng 6 cây số ngoài làng. Đến năm

1883, Pháp lại lập chế độ sưu thuế tàn khốc như trước để có nhân công rẻ mạt

làm cầu đường.

Thực dân Pháp độc quyền trong mua bán rượu và thuốc phiện. Điều

này dẫn đến sự phản ứng quyết liệt của nhân dân. Cultru đã nói rõ sự thật này:

“Cuộc cải cách không có hiệu quả. Sự tổ chức độc quyền tỏ ra thật là tàn ác,

thực hành rất là gớm ghiếc, các nhân viên kiểm soát thường hung tợn” [52,

tr.252].

Trong khoảng 20 năm đầu tiên dưới ách thống trịcủa thực dân Pháp, số

tiền đóng thuế của nhân dân Nam kỳ đã tăng lên hơn 4 lần (trước năm 1862,

số tiền đóng thuế cho nhà Nguyễn tương đương 4,5 triệu francs/năm; đến năm

54

1879, tăng lên hơn 19 triệu francs) [70, tr.97]. Nhờ vào tiền thu được từ thuế

nên thực dân Pháp không chỉ nuôi sống được quân đội ở Đông Dương mà mỗi

năm còn gửi về Pháp từ 1,5 triệu francs đến 2,5 triệu francs. Sau khi chiếm

được Bắc Kỳ, Trung Kỳ, mỗi năm Pháp thu thuế ở Việt Nam là 90 triệu phờ-

răng [99, tr.587]. Như vậy, chúng ta thấy rằng thực dân Pháp đã áp dụng

chính sách thuế vô cùng nặng nề đối với người dân Nam Kỳ.

Hệ quả của chính sách cai trị: Với chính sách cai trị của thực dân Pháp

về chính trị, kinh tế đã làm thay đổi kinh tế xã hội Nam Kỳ. Xã hội Việt Nam

nói chung, xã hội Nam Kỳ nói riêng bên cạnh mâu thuẫn giai cấp, giữa địa

chủ và nông dân đã tồn tại từ lâu, chưa giải quyết được lại xuất hiện thêm

mâu thuẫn mới giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.

Cuối thế kỷ XIX, ở Nam Kỳ đã xuất hiện thêm tầng lớp công nhân, tiểu tư

sản. Xã hội Nam Kỳ vẫn mang đậm nét xã hội phong kiến với hai giai cấp cơ

bản là giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân.

Địa chủ: Địa chủ câu kết chặt chẽ với chính quyền thực dân, ngày càng

trở thành chỗ dựa vững chắc cho thực dân Pháp, nhất là ở các vùng nông

thôn. Sự duy trì phương thức bóc lột phong kiến đã đem lại lợi nhuận cao cho

thực dân Pháp và tay sai. Địa chủ nắm trong tay đại bộ phận ruộng đất, sở hữu

diện tích ruộng đất với quy mô lớn và ngày càng mở rộng như địa chủ Trần

Bá Lộc, địa chủ Đỗ Hữu Phương, địa chủ Lê Phát Đạt...

Nông dân:Do chính sách cướp đoạt ruộng đất của thực dân Pháp nên số

lượng người nông dân không có ruộng đất ngày càng tăng, theo thống kê “cứ

10 người dân thì 8 người không có ruộng đất”[36, tr.42]. Bên cạnh đó, chính

quyền thực dân điều chỉnh lại quyền sở hữu ruộng đất của Pháp ở Nam Kỳ

nên ruộng đất ngày càng tập trung về phía thực dân và tay sai, năm 1868, diện

tích ruộng đất toàn Nam Kỳ chỉ còn 215.500 ha [114, tr.56], nông dân mất

dần ruộng đất để sản xuất. Một số ít những người nông dân tuy có ruộng đất

55

nhưng quy mô lại rất nhỏ bénên vì thế họ phải lĩnh canh nộp tô cho địa chủ

hoặc có thể họ phải đi làm thuê để kiếm sống và trả nợ. Còn lại là đại đa số

nông dân ngày càng bị bần cùng hóa do chính sách cướp đoạt ruộng đất, sưu

cao, thuế nặng của thực dân Pháp, “đồng tiền thông dụng, kinh tế thương mại

trong một cơ cấu nông thôn phong kiến tất nhiên sẽ đem đến sự bần cùng hóa

nông dân” [52, tr.250]. Nông dân không có địa vị trong xã hội phong kiến,

mặc dù nông dân là lực lượng sản xuất chủ yếu nhưng ngược lại cuộc sống

của nông dân ngày càng chật vật, điêu đứng vì nông dân vừa phải nộp thuế

cho nhà nước phong kiến, lại vừa phải nộp tô cho địa chủ. Vì thế, nông dân

Nam Kỳ sẵn sàng tham gia các phong trào yêu nước khi có điều kiện thuận

lợi.

Công nhân: Các hoạt động kinh tế của người Pháp, người Hoa, người

Việt đã xuất hiện tầng lớp công nhân. Họ đi làm thuê trong các cơ sở xay xát

gạo, chế biến gỗ, mía đường, rượu, sản xuất gốm sứ…Năm 1864, xưởng Ba

Son thành lập đã dần thu hút được hàng nghìn công nhân. Như vậy số công

nhân có tay nghề đã sớm xuất hiện tại Nam Kỳ

Tiểu tư sản: Tiểu tư sản bao gồm học sinh, sinh viên, trí thức, viên

chức, tiểu chủ, tiểu thương…Vào những năm cuối thế kỷ XIX, tiểu tư sản chỉ

là tầng lớp nhỏ bé, mới hình thành, về sau số lượng ngày càng tăng lên. Tiểu

tư sản sống chủ yếu tập trung ở các thành thị nên tiểu tư sản sớm có cơ hội

phát triển cả về số lượng và chất lượng.

Như vậy, chính sách cai trị, áp bức bóc lột bởi sưu cao thuế nặng của

thực dân Pháp đã tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế xã hội Nam Kỳ, sự

xuất hiện của giới tư bản thực dân Pháp, công nhân, tiểu tư sản, đặc biệt là đời

sống người nông dân Nam Kỳ lâm vào tình cảnh khốn cùng, là một trong

những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các phong trào yêu nước chống Pháp

trong những năm cuối thế kỷ XIX.

56

2.3. Phong trào từ năm 1885 đến năm 1896

Mặc dù phong trào Cần Vương không diễn ra ở Nam Kỳ nhưng cuộc

đấu tranh chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ vẫn diễn ra sôi nổi, quyết liệt.

Dưới ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và tay sai, nhân dân Nam Kỳ đã

quyết tâm đứng lên chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước. Trong thời gian từ

năm 1885 đến năm 1896, đã có nhiều cuộc vận động, đấu tranh, khởi nghĩa vũ

trang chống Pháp diễn ra như khởi nghĩa của Phan Văn Hớn (1885), khởi

nghĩa của Ngô Lợi (1885-1890), cuộc vận động của Đào Công Bửu (1885-

1894), đấu tranhtrong lao tù, đấu tranh đòi các quyền lợi kinh tế xã hội...Các

cuộccuộc vận động, đấu tranh, khởi nghĩa vũ trang diễn ra đều bắt nguồn từ

lòng yêu nước, thương dân, nhằm mục đích chung là đánh đuổi thực dân

Pháp, bảo vệ chủ quyền dân tộc, bảo vệ chế độ phong kiến. Phong trào lôi

cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, đặc biệt là nông dân với

hình thức đấu tranh chủ yếu là vũ trang.Trong phạm vi luận án, tác giả tập

trung đi sâu nghiên cứu các cuộc vận động, khởi nghĩa nổi bật như khởi nghĩa

Phan Văn Hớn, khởi nghĩa của Ngô Lợi, cuộc vận động chống Pháp của Đào

Công Bửu.

2.3.1. Khởi nghĩa của Phan Văn Hớn (1885)

Phan Văn Hớn sinh vào khoảng năm 1829 tại làng giàu truyền thống

đấu tranh là Tân Thới Nhứt, tổng Dương Hòa, huyện Bình Dương, phủ Tân

Bình. Ông sinh ra trong một gia đình Nho học và có uy tín ở địa phương. Là

một nông dân văn hay võ giỏi, có nhiều mưu trí, hào phóng ngay thẳng, yêu

thương con người, thường đứng ra bênh vực nhân dân chống lại bọn cường

hào, ác bá nên được nhân dân vô cùng yêu mến, kính trọng.

Vài tư liệu cho biết Phan Văn Hớn trong thời Tự Đức (1847-1883), là

hương thân của làng Tân Thới Nhứt [17, tr.8]. Ông nhiệt tình tham giachống

Pháp trong khởi nghĩa của Trương Định nên được Trương Định tin tưởng và

57

phong chức “Quản”, vì thế ông còn có tên gọi là Quản Hớn. Sau khởi nghĩa

của Trương Định, Phan Văn Hớn liền tham gia vào các Hội kín hoạt động yêu

nước chống thực dân Pháp. Chính vì những hoạt động yêu nước nên Phan

Văn Hớn bị chủ quận Hóc Môn là Đốc phủ sứ Trần Tử Ca quy vào tội có âm

mưu làm loạn, năm 1879 Trần Tử Ca bắt Phan Văn Hớn nộp cho thực dân

Pháp, Phan Văn Hớn bị chính quyền thực dân đày đi Côn Đảo trong thời hạn

5 năm. Sau khi mãn hạn tù, Phan Văn Hớn sống tại quê nhà làng Tân Thới

Nhứt nhưng phải thường xuyên trình diện chủ quận Hóc Môn là Trần Tử Ca.

Trần Tử Ca là tay sai trung thành với thực dân Pháp. Do phục vụ đắc

lực cho công cuộc cai trị ở Nam Kỳ của chính quyền thực dân nên tháng

8.1865, Trần Tử Ca được Pháp thưởng “Bắc đẩu bội tinh” (Huân chương cao

quý của nước Pháp), tháng 8.1879, phong chức Đốc phủ sứ, được chính

quyền thực dân phái đi kiểm soát nhiều nơi trong vùng...Nhân dân Hóc Môn

có tinh thần quyết liệt chống lại ách thống trị của thực dân, nhiều tên thực dân

đến cai trị ở đây nhưng đều thất bại. Cuối cùng chính quyền thực dân đã cử

Trần Tử Ca cai trị Hóc Môn, mặc dù với chức Đốc phủ sứ có thể cai trị cả

một tỉnh ở Nam Kỳ. Trần Tử Ca gây nhiều tội ác với nhân dân như vơ vét của

cải, ruộng đất của nhân dân, độc quyền trong mua bán hàng hóa, thu thuế,

kiểm soát dân trong vùng, tham gia đàn áp các phong trào yêu nước, thậm chí

Trần Tử Ca còn bắt con cháu của những gia đình yêu nước, bỏ vào cối giã

gạo, dùng chày đập nát xương...với mục đích trấn áp tinh thần đấu tranh của

nhân dân. Dưới sự cai trị của thực dân Pháp và tay sai Trần Tử Ca, đời sống

nhân dân ngày càng cực khổ, vì thế họ vô cùng căm ghétchế độ thực dân, oán

hận kẻ phản dân hại nước Trần Tử Ca.

“Mười tám thôn ruột đau như chỉ thắt

Dân Hóc Môn tợ muối xát lòng”

[49, tr.333]

58

Đứng trước cảnh mất nước, dân bị trị, dưới sự lãnh đạo của Phan Văn Hớn, nhân dân Mười tám thôn vườn trầu1quyết tâm đứng lên khởi nghĩa với

mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp, trừng trị chủ quận Hóc Môn Trần Tử Ca,

giành lạicuộc sống bình yên cho nhân dân, chủ quyền cho dân tộc, xây dựng

chế độ phong kiến.

“Giết một gã nịnh thần

Cứu muôn dân đồ thán”

Để thực hiện mục tiêu trên, Phan Văn Hớn cùng nghĩa quân tiến hành

xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng, tích trữ lương thực thực phẩm, rèn sắm

vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa.

Nhận thức được tầm quan trọng của căn cứ đối với cuộc khởi nghĩa nên

Phan Văn Hớn đã huy động lực lượng xây dựng căn cứ Gò Mây và căn cứ

Tràm Lạc.Căn cứ Gò Mây (nay thuộc xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh, Thành

phố Hồ Chí Minh) có hai bên là cánh rừng bạt ngàn, phía trước là một con

đường nhỏ nối căn cứ với khu dân cư. Điều này rất thuận lợi cho việc liên lạc,

tiếp tế từ người dân vào căn cứ. Phía sau có một kênh rạch dài dùng để nghĩa

quân sử dụng khi có sự cố xảy ra. Rõ ràng đây là một căn cứ thuận lợi về

nhiều mặt tiếp tế, giao thông cho lực lượng khởi nghĩa.Căn cứ Tràm Lạc (nay

thuộc xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An), có bốn phía đều là những

cánh rừng bạt ngàn. Cách đó khoảng 2km đến 3km có con sông chạy qua

1Mười tám thôn vườn trầu: Theo “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức, Mười tám thôn vườn trầu hình thành cách đây khoảng 300 năm. Người Việt do không chịu sự thống trị hà khắc của chế độ phong kiến Trịnh-Nguyễn phân tranh, họ đã rời bỏ quê hương đến vùng Bến Nghé (Gia Định) để sinh cơ lập nghiệp. Khi đi, họ mang theo giống cây trầu để trồng vì trầu là thổ sản đặc biệt của người Việt. Trong quá trình sinh cơ lập nghiệp, họ đã lập ra 6 thôn đầu tiên là Tân Thới Nhứt, Thuận Kiều, Tân Thới Nhì, Tân Thới Trung, Xuân Thới Tây, Tân Phú. Sau một thời gian, khu vực 6 thôn được chia thành 18 thôn gồm Bình Hưng, Bình Hưng Đông, Vĩnh Lộc, Tân Thới Thượng, Tân Đông Thương, Trung Chánh, Tân Thới Tân, Tân Thới Tam, Tân Thới Tứ, Thới Hạnh, Tân Đông, Tân Thới Nhì, Tân Đông Trung, Xuân Hòa, Mỹ Hạnh, Bình Nhâm, Tân Thông Tân, Tân Thông Thân. Hầu hết 18 thôn đều trồng trầu nên có tên gọi chung là Mười tám thôn vườn trầu. Địa giới Mười tám thôn chủ yếu bao gồm các xã trong huyện Hóc Môn và một phần đất của huyện Củ Chi, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.

vùng căn cứ này, kế bên sông là địa bàn dân cư sinh sống. Đây là căn cứ có

59

thể cư trú về lâu dài cho nghĩa quân cũng như để củng cố thêm lực lượng khi

cần thiết.

Trong quá trình xây dựng lực lượng, Phan Văn Hớn cùng nghĩa quân

đã tập hợp được nhiều thanh niên trong vùng có sức khỏe tốt, do phải sống

cùng thiên niên khắc nghiệt và nhiều thú dữ nên họ đều giỏi võ nghệ. Thành

phầntham gia đa dạnggồm người Việt, người Hoa, người Khơme, bao gồm cả

trí thức, nông dân, người cao tuổi…trong đó chủ yếu là nông dân lao động

nghèo ở khắp các vùng Hóc Môn, Đức Hòa.Lực lượng chính khoảng 1.000

người (trong đó Hóc Môn đã có tới 600 người), về sau số lượng ngày càng

tăng do nghĩa quân đi đến đâu, dân làng đều nô nức xin gia nhập không phân

biệt tôn giáo, già, trẻ, nam, nữ.

Phan Văn Hớn đã tập hợp lực lượng, liên lạc với những người yêu nước

như Nguyễn Văn Qúa, Phan Văn Võ, Phạm Văn Hồ, Nguyễn Văn Kế, Thầy Trang…thông qua việc lập 2 trường gà2. Ở ngã tư An Sương và trên đường từ

Bà Điểm ra Trung Chánh. Theo tác giả Sơn Nam, lúc này:“Gà Bà Điểm nổi

danh khắp Nam Bộ” [104, tr.63].

Về trang bị vũ khí:Nghĩa quân chuẩn bị phần lớn là giáo, mác, cung

tên, dây thừng và một ít súng đạn. Vùng Hóc Môn có nhiều tre trúc, cây tầm

vông nên nghĩa quân đã tận dụng những nguyên liệu ấy làm vũ khí trong khởi

nghĩa. Ngoài ra còn có mõ ống, củi khô, đặc biệt thứ nguyên liệu góp phần

quan trọng vào việc đốt Dinh quận là rơm rạ và dây lạc khô.

Sau thời gian xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng, tích cực rèn sắm vũ

khí, tích trữ lương thực, đầu năm 1885 Phan Văn Hớn quyết định thống nhất

lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa. Ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa gồm Phan Văn

2Trong thời gian này, người Pháp và người Nam Kỳ đều có thú chơi gà để giải trí. Do vậy, Phan Văn Hớn đã lập các trường gà, bên ngoài nhằm mục đích giải trí nhưng thực chất bên trong là nơi gặp gỡ, liên lạc với những người yêu nước trong và ngoài vùng Nam Kỳ, bàn luận về việc đánh Pháp và tay sai.

Hớn: Tổng lãnh binh, Nguyễn Văn Quá: Chánh lãnh binh, Phạm Văn Hồ: Phó

60

lãnh binh, Phan Văn Võ : Nội ứng, Thầy Trang: Chuẩn bị cơ binh. Nguyễn Thiền Hy, Nguyễn Văn Bường, Nguyễn Văn Kề3…vận lương.

Sau đó, lực lượng khởi nghĩa đã triển khai kế hoạch, tiến đánh dinh

quận Hóc Môn theo 3 mặt: Cánh quân Bà Điểm gồm lực lượng ở Vĩnh Lộc,

Gò Mây, Mỹ Hạnh, Tân Thới Nhứt do Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Quá

lãnh đạo. Cánh quân Củ Chi, từ vùng Láng The do Nguyễn Văn Kề lãnh đạo.

Cánh quân Bến Phân (Chợ Cầu) gồm lực lượng vùng Quán Tre, Trung

Chánh, Mỹ Hòa do Phạm Văn Hồ, Thầy Trang lãnh đạo. Ngoài ra, Phan Văn

Võ được phân công làm nhiệm vụ đốt dinh quận, mở cổng dinh quận cho

quân khởi nghĩa. Tất cả đã quyết tâm nổi dậy khởi nghĩa:

“Gậy tầm vông, mõ ống vai mang

Qua giờ Dậu đoạt nơi yểm lộ”

[49, tr.333]

Đúng giờ Dậu (khoảng 15 giờ) chiều ngày 09/02/1885, khởi nghĩa

bùng nổ, nghĩa quân chia làm nhiều cánh:

- Cánh tiến về Sài Gòn do Nguyễn Văn Bường chỉ huy. Cánh này dọc

đường bị lộ, Nguyễn Văn Bường bị thực dân Pháp bắt.

- Cánh của Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Quá chỉ huy 3 mặt, tiến vào

huyện lị Hóc Môn. Cánh quân từ Mỹ Hạnh do Huỳnh Văn Tính chỉ huy tiến

thẳng vào dinh Đốc phủ Trần Tử Ca. Cánh quân từ Củ Chi, Chợ Cầu kéo đến

kết hợp cùng nhân dân Mười tám thôn vườn trầu hỗ trợ cho Phan Văn Hớn,

Nguyễn Văn Quá tấn công vào dinh quận của Trần Tử Ca. Nghĩa quân đã

tung hàng chục bó đuốc đốt phá, Trần Tử Ca chạy lên tầng chống cự, lực

lượng nội ứng và nghĩa quân dùng rơm và dây lạc khô có sẵn trong dinh đem

3Nguyễn Văn Qúa sinh năm 1831 ở thôn Mỹ Hạnh (nay là xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Phạm Văn Hồ quê ở Hóc Môn (là con bà Phan Thị Báu, chị gái Phan Văn Hớn). Phan Văn Võ người làng Tân Thới Thượng (nay là xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh), làm cai quản dinh quận Hóc Môn. Thầy Trang, Nguyễn Thiền Hy, Nguyễn Văn Bường, Nguyễn Văn Kề quê ở thôn Mỹ Hạnh

chất xung quanh, Phan Văn Võ châm lửa đốt dinh quận. Vợ của Trần Tử Ca

61

bị chết cháy, Trần Tử Ca chạy thoát ra ngoài bị một người nông dân bắt được,

đem nộp cho nghĩa quân.

Sau đó Trần Tử Ca bị nghĩa quân chém đầu, cho vào lồng đèn, treo

trước dinh huyện, rửa hận cho đồng bào, làm gương cho những tay sai bán

nước. Nghĩa quân đã chiếm được dinh quận, lấy được Hóc Môn và làm chủ

tình hình trong một thời gian.

Khi tình thế Hóc Môn đã ổn định, các cánh quân từ các nơi tập hợp về

Hóc Môn, tập trung củng cố lại lực lượng để chuẩn bị tiến về Sài Gòn, đánh

vào cơ quan đầu não của chính quyền thực dân.

-Sau đó nghĩa quân tiến thẳng về Sài Gòn. Trên đường tiến quân, nhân

dân nô nức gia nhập vào hàng ngũ khởi nghĩa từ già đến trẻ, lực lượng nghĩa

quân ngày càng tăng lên và được chia thành 2 đoàn: Một đoàn đi thẳng vào

Sài Gòn, một đoàn tiếp cận thành phố chờ lệnh cùng kết hợp khởi nghĩa.

Đoàn tiến thẳng vào Sài Gòn, khi tới Bình Hòa lúc tờ mờ sáng thì đụng

phải một đội quân Pháp. Lại cũng có ý kiến cho rằng Pháp đã biết kế hoạch

khởi nghĩa nên đề phòng cẩn thận, nghĩa quân không thể đánh vào Sài Gòn

được. Quản Hớn cùng một số nghĩa quân vẫn cương quyết chống trả, theo tác

giả Phan Khoang trong “Việt Nam Pháp thuộc sử”, “70 người cùng nhau thề

đánh tới chết và họ đã giữ lời thề” [77, tr.194]. Nhưng sự tương quan lực

lượng quá lớn, sức yếu, thế cô lập, dần dần lực lượng bị tiêu hao, nghĩa quân

thua trận. Các cánh quân khác tự giải tán khi nghe tin này. Phan Văn Hớn lui

về căn cứ Gò Mây, Nguyễn Văn Qúa lui về căn cứ Tràm Lạc.

Thực dân Pháp đã sử dụng các đơn vị của Trung đoàn lính tập An Nam

nhưng sự phản công của Pháp vẫn gặp nhiều trở ngại vì trên các ngã tư đường

Sài Gòn đến Hóc Môn đều bị nghĩa quân chặn phá bằng các chướng ngại vật.

Cho đến 2 tuần sau quân Pháp mới tiến về được dinh quận Hóc Môn.

Quân Pháp thực hiện nhiều cuộc hành quân để vây bắt lực lượng khởi

nghĩa nhưng Pháp vẫn không bắt được Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Quá.

62

Thực dân Pháp thẳng tay đàn áp dân chúng huyện Hóc Môn, hàng trăm hàng

ngàn người ngã gục dưới súng đạn, lưỡi lê, mà Pháp gọi là phiến loạn phải

diệt trừ sạch. Những ai không bị giết thì cũng bị bắt giam tra tấn tàn khốc cho

tới chết.

Vì thương dân tình vô tội và họ tộc khỏi bị đàn áp bắt bớ nên Phan Văn

Hớn và Nguyễn Văn Qúa đã tự nộp mình cho giặc Pháp. Tuy nhiên, quân

Pháp vẫn tiếp tục đàn áp quyết liệt, các lãnh đạo khác lần lượt bị bắt, nghĩa

quân không người chỉ huy nên dần tan rã.Tòa án binh đại hình ở Bình Hòa

họp liên tiếp 14 ngày (từ ngày 31.8.1885 đến ngày 13.9.1885) xét xử vụ nổi

dậy ở Hóc Môn. Sau các phiên xử,thực dân Pháp đã kết án nhiều người tử

hình như Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Qúa, Nguyễn Văn Xiêm, Phan Văn

Võ, Lâm Văn Thi, Phan Văn Thuyên, Nguyễn Văn Do, Trần Văn Lên,

Nguyễn Văn Hoai, Nguyễn Văn Lanh, Huỳnh Văn Tính, Nguyễn Văn

Xe...[214].Ngoài ra, có 16 bản án 15 năm khổ sai, 6 bản án lưu đày có điều

kiện giảm án, 23 bản án khổ sai chung thân, những người tham gia khởi nghĩa

đều bị tịch thu hết tài sản.

Nhân dân Mười tám thôn vườn trầu theo dõi phiên tòa vô cùng bức

xúc, mật thám Pháp báo cáo: “Bản án gây phẫn uất, dân địa phương cho rằng

số người bị tử hình và lãnh án khổ sai quá nhiều, có 13 người được tha bổng

nhưng tại sao họ còn bị giam?” [101, tr.126]. Ngày 16.9.1885, mật thám Pháp

báo cáo: “Tại nhà hương quản Hai ở Tân Thới Nhì nhiều người tụ họp để

mưu toan khởi nghĩa”. Trước tình hình đó, ngày 11.12.1885, Tổng thống

Pháp ký quyết định xử tử Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Qúa, những bản án

tử hình còn lại được chuyển sangkhổ sai chung thân, các bản án khác vẫn giữ

nguyên như cũ.Riêng ông Nguyễn Văn Bường bị kết án khổ sai chung thân,

đày ra Côn Đảo “Ông Bường bị cột hai chân vào xe lôi đi, ông phản đối hành

động dã man đó, tiếng ông nhỏ dần và chết” [188, tr.508].

63

Ngày 30.3.1886, theo Công văn số 148 của Chánh Biện lý Sở Tư pháp

Nam Kỳ gửi Giám đốc Nha Nội chính về việc Tòa bác đơn kháng nghị của

những người tham gia khởi nghĩa [214], đồng thời sau thời gian giam giữ, tra

tấn ông Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Qúa, thực dân Pháp đem hai ông ra

hành hình tại chợ Hóc Môn. Nhân dân xã Bà Điểm và xã Mỹ Hạnh (quê hương

của hai ông Hớn và ông Qúa) đem thi hài của các ông về chôn cất, lập đền thờ để

tưởng nhớ công lao của các thủ lĩnh chống thực dân Pháp và tay sai.

Thành quả của khởi nghĩa Phan Văn Hớn là chiếm được dinh quận Hóc

Môn, giết chết chủ quận Trần Tử Ca, tiến quân vào Sài Gòn, đầu não của

chính quyền thực dân nhằm đánh tan quân xâm lược. Phong trào thể hiện tinh

thần đấu tranh anh dũng, kiên quyết đánh đổ thực dân Pháp và tay sai của

nhân dân Nam Kỳ, đồng thời là hành động cảnh tỉnh tất cả lực lượng tay sai

đang câu kết với thực dân, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của dân tộc.

2.3.2. Khởi nghĩa của Ngô Lợi (1885-1890)

Người Việt khi di cư vào Nam, thời gian đầu họ sống biệt lập, không có

sự gắn kết với nhau, nhưng khi thực dân Pháp xâm lược cùng với những khó

khăn trong cuộc sống, họ cần người có đủ uy tín để tập hợp được nhân dân

đứng lên chống Pháp, lại vừa biết lập ấp khai hoang, biết tổ chức sản

xuất...Chính vì thế xuất hiện Đoàn Văn Huyên, người sáng lập ra Phật giáo

Bửu Sơn Kỳ Hương. Từ năm 1867 đến năm 1873,cao đồ của đạo Bửu Sơn Kỳ

Hương là Trần Văn Thành bỏ chức Chánh quản cơ để theo Phật, sau đó Trần

Văn Thành chiêu mộ nghĩa sĩ và nhân dân lập trại, xây dựng căn cứ đánh

Pháp ở vùng Bẩy Thưa, Láng Linh. Học tập theo Trần Văn Thành, Ngô Lợi đi

tu, lập ra hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa (ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam

Bảo, ân đồng bào nhân loại), gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa, tập hợp nhân dân

đứng lên chống Pháp.

Ngô Lợi tên thật là Ngô Viện,ngoài ra ông còn có tên là Ngô Tự Lợi,

Cao Văn Do, Bảy Do, Năm Hữu, Chánh Tăng Đạo Sư...người trong đạo Tứ

64

Ân Hiếu Nghĩa tôn ông là Đức bổn sư. Ngô Lợisinh vào giờ Ngọ,ngày

5.5.1831 (năm Tân Mão),tại Trà Tân, Mỹ Tho,tục danh Năm Thiếp (vì đi tu

thiếp) (cùng thời gian đó Nam Kỳ đã xuất hiện nhiều đạo như Đạo Đèn (đốt

đèn trị bệnh), Đạo Chuối (vì ông chỉ ăn chuối), Đạo Dừa (vì ông chỉ ăn dừa),

Đạo Nổi (nổi trên sông), Đạo Nằm (suốt ngày nằm)...). Cha của Ngô Lợi tên

là Ngô Nhàn, sinh năm 1837,chuyên làm nghề thợ mộc.Mẹ là Phạm Thị

Xuyến (quê ở Bình An, Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang). Về sau gia đình

Ngô Lợi chuyển về Bến Tre sinh sống. Tương truyền ngày mùng 5.5.1867,

Ngô Lợi bất tỉnh, sau 7 ngày 7 đêm “đi thiếp”, ông hồi tỉnh, rũ sạch lòng trần,

chánh đắc đạo quả (do vậy ông có tên gọi Năm Thiếp). Sau đó, ông đi rao

giảng, khuyên răn con người bỏ danh lợi, tu niệm, yêu nước và yêu thương

con người. Năm 1870, Mỹ Tho bị nạn dịch hoành hành nên Ngô Lợi đã phát

bùa để chữa bệnh cho nhân dân đồng thời tập hợp lực lượng chờ thời cơ khởi

nghĩa. Năm 1872, Ngô Lợi và các tín đồ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đi tới xã

An Lộc (An Giang) dựng chùa để làm cơ sở truyền đạo đồng thời ra sức tập

hợp tín đồ yêu nước đánh Pháp với mục đích: “Đến một ngày nào đó sẽ có

một tiếng nổ vang xé đôi núi Cấm (Thất Sơn, tỉnh An Giang) trong đó sẽ hiện

ra cung son, điện ngọc, diễn ra hội Long Hoa. Vào “ngày tận thế” chỉ có

những người theo đạo là con của Phật, của trời mới sống sót. Một đấng Minh

vương sẽ lập lại đời sống “thượng ngươn” lập nên cuộc sống thái bình thịnh

trị” [154, tr.146].

Với mong muốn lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp,giành lại độc

lập tự do cho đất nước, đem lại cuộc sống yên bình, hạnh phúc cho nhân dân,

xây dựng lại chế độ phong kiến,Ngô Lợi đã cùng nhân dân ngày đêm xây

dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ thuận lợi tiến hành khởi

nghĩa.Nhận thấy sự chú ý của mật thám Pháp là một khó khăn cho vấn đề xây

dựng lực lượng, xây dựng căn cứ nên“để thực hiện mục tiêu chống Pháp lâu

dài, năm 1876, Ngô Lợi dẫn tín đồ vào núi Tượng (một trong 7 ngọn núi ở

65

vùng Thất Sơn) khai hoang mở đất, lập nên các trại ruộng, hình thành bốn

làng: An Định, An Hoà, An Thành và An Lập” [58, tr.33] nhằm xây dựng căn

cứ kháng Pháp.

Ngô Lợi chọn núi Tượng vì ở đó có cả núi, có cả nước, thung lũng rộng

lớn, đất rất tốt để trồng trọt, chăn nuôi, dần đã hình thành được bốn làng: An

Định, An Hòa, An Lập (nay là thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An

Giang),An Thành (nay là xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) theo

kiểu vừa là làng chiến đấu vừa là làng dân cư. Xung quanh căn cứ núi Tượng

có các lũy để nối các núi với nhau, các con mương bao quanh và tỏa ra các

cánh đồng. Điều này rất thuận lợi cho sản xuất ngày thường cũng như khi

khởi nghĩa. Thất Sơn có rừng núi rất hiểm trở, thuận lợi cho nghĩa quân nếu bị

tấn công, thậm chí có thể dễ dàng rút qua biên giới Cao Miên. Ngoài ra, căn

cứ còn có các vọng gác bí mật nhiều vòng, nhiều lớp từ xa, khống chế tất cả

con đường vào nên tháng 12.1879, dù nhận được tin do mật thám báo cáo:

“Năm Thiếp đang tập trung vài trăm tín đồ ở làng An Định” nhưng chủ tỉnh

Châu Đốc vẫn không thể huy động lực lượng để tấn công. Ngô Lợi tổ chức

nhiều gia đình thành một đội tác chiến gồm 10 người đến 20 người, mọi hoạt

động đều thống nhất, ý thức của nghĩa quân rất cao.

Mặc dù, hoạt động của nghĩa quân luôn bí mật nhưng vẫn không tránh

khỏi sự chú ý của mật thám Pháp nên ngày 29.5.1878[120, tr.186], Giám đốc

Nha Nội vụ Sài Gòn ký lệnh cho tham biện các tỉnh Nam Kỳ phát lệnh truy nã

Ngô Lợi với đặc điểm: “Vóc người cao ráo, ốm yếu, có ba chòm râu dài”.

Thực dân Pháp còn treo thưởng, nếu ai bắt được Ngô Lợi sẽ được 1.000 đồng.

Sau khi công văn phát đi, theo báo cáo của tỉnh Châu Đốc (Raports Mensuels

4Lòng phái: là một tờ giấy màu vàng nhỏ, được phát cho các tín đồ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa khi nhập đạo, trên có bài kinh 100 chữ và tên họ, ngày tháng nhập đạo của tín đồ.

des provinces, 1878-1880): “Chủ tỉnhcác nơi đãsoát thấy và bắtrất nhiều người có Lòng phái4của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa” [120, tr.186]. Ngày

66

15.7.1881 âm lịch, dưới sức ép của Thống đốc Nam Kỳ, thực dân Pháp huy

động lực lượng ở Châu Đốc, Tân An bí mật tập kích làng An Định, bao vây

núi Tượng. Tuy nhiên, nhờ Ngô Lợi tài trí, hóa trang tốt, bình tĩnh, lại được

nhân dân tin yêu, che chở nên thực dân Pháp không thể bắt được ông. Ông

hoạt động ở khắp các tỉnh miền tây Nam Kỳ và Cao Miên, vì theo báo cáo của

các chủ tỉnh Tân An, Châu Đốc, Sa Đéc gửi Thống đốc Nam Kỳ thì nơi nào

cũng có dấu vết của Ngô Lợi. Lực lượng nghĩa quân ngày càng mạnh làm cho

chính quyền thực dân ngày càng lo lắng, Pháp phải phao tin đồn Ngô Lợi có

phép tàng hình, thăng thiên độn thổ nhằm che dấu sự thất bại của chính quyền

thực dân. Nhờ vậy, uy tín của nhà sư yêu nước ngày càng được củng cố.

Ngày 16.4.1885, chủ tỉnh Mỹ Tho huy động lực lượng tấn công vào núi

Tượng nhưng thực dân Pháp lại gặp thất bại vì Ngô Lợi không đem quân ra

đánh, đưa toàn bộ “1800 người ở các làng An Định, An Hòa...lui sang Vườn

Dâu (Cao Miên), tránh sự tiêu diệt của Pháp” [58, tr.35] và chờ thời cơ.

Lực lượng nghĩa quân tham gia khởi nghĩa của Ngô Lợigồm những tín

đồ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, những người không thuộc đạo Tứ Ân Hiếu

Nghĩa , “trong những năm 1880-1885, nhiều thủ lãnh và nghĩa quân ở khắp

Lục tỉnh Nam Kỳ đã tụ họp về núi Tượng rất đông. Họ là những người đã

từng tham gia các phong trào vũ trang chống Pháp của Trương Công Định,

Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân...” [58, tr.33].Thất

Sơn trở thành nơi hội tụ đông đảo của các anh hùng hào kiệt khắp nơi đổ về,

nhờ đó, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa phát triển ngày càng mạnh, khiến thực dân

Pháp phải lo sợ.

Sau một thời gian tích cực vận động nhân dân đứng lên chống thực dân

Pháp và tay sai, luyện tập quân sự, rèn sắm vũ khí, sản xuất và tích trữ lương

thực, Ngô Lợi quyết định thống nhất lực lượng, đứng lên cùng nhân dânkhởi

nghĩa với mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc, đem

lại cuộc sống thái bình cho nhân dân .Ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa gồm Ngô

67

Lợi, Lê Công Chánh, các tướng lĩnh chỉ huy gồm Nguyễn Xuân Phong, Lê Bá

Đạt, Nguyễn Hồng Bạch, Nguyễn Bá Trọng, Lê Văn Viên.

Tháng 5.1885, nghĩa quân Khmer ở Thất Sơn cùng tín đồ của đạo Tứ

Ân Hiếu Nghĩa ở làng An Định và nghĩa binh ủng hộ Sivatha (Hoàng thân ở

Cao Miên) ở bên kia biên giới đã cùng nhau chiến đấu chống thực dân Pháp ở

dọc hai bên biên giới Việt Nam, Cao Miên, đánh chiếm đồn biên phòng Phú

Thạnh mà Pháp đang chiếm đóng. Lúc đó, đại úy Pháp là Phơrusơ (Ferussec)

đã cầm quân đi cứu viện nhưng cuối cùng đành phải rút lui vì khí thế của

nghĩa quân lúc này rất mạnh, nghĩa quân đã “chiếm đồn Phú Thạnh, làm chủ

vùng Tịnh Biên” [19]. Lebrun (chủ tỉnh Châu Đốc) lúc này phải báo cáo ngay

với chính quyền thực dân rằng: “Sự thật làng An Định là bọn cướp bóc, lý

lịch thiếu minh bạch, phản loạn. Theo ý tôi, chúng ta chẳng nên đối xử dễ dãi

như trước nữa” [18]. Sau đó, nhờ chủ tỉnh Châu Đốc điều thiếu tá Ghuliat

(Goulias) đem 200 quân để kết hợp với quân của đại úy Phơrusơ đánh dọc hai

bên bờ kênh Vĩnh Tế và làng An Định, chiến đấu vất vả trong nhiều ngày mới

chiếm lại được đồn Phú Thạnh. Rõ ràng, đây là ý tưởng đặc biệt của Ngô Lợi

khi liên kết với lực lượng kháng chiếnCao Miên, nhằm gia tăng thêm lực

lượng, tạo sức mạnh to lớn hơn để chống thực dân Pháp. Sau cuộc đàn áp dã

man của đại úy Phơrusơ, nghĩa quân phải rút về Vườn Dầu (Cao Miên) lánh

nạn, thực dân Pháp lo sợ mối quan hệ chiến đấu giữa người Việt Nam và

người Cao Miên nên đã huy động lực lượng xây dựng đồn Vĩnh Lạc cạnh bờ

kênh Vĩnh Tế, đồng thời tăng cường lực lượng binh lính nhằm kiểm soát rõ

tình hình.

Mặc dù, bị đàn áp dã man nhưng những tín đồ của đạo Tứ Ân Hiếu

Nghĩa vẫn không hề lo sợ, ngược lại ngọn lửa yêu nước trong họ càng bùng

lên mạnh mẽ. Trong thời gian ở Cao Miên, nghĩa quân được nhân dân Cao

Miên cung cấp lương thực thực phẩm để ăn, thậm chí người dân Cao Miên

còn hỗ trợ cả lá cây để nghĩa quân dựng nhà ở, dần dần đã lập ra thôn Sơn

68

Thạch, xây dựng được ngôi chùa Ông, tiếp tục huy động lực lượng gồm cả

người dân Cao Miên, nơi nghĩa quân ẩn náu và lực lượng yêu nước người Cao

Miên đang lánh nạn. Do vậy, lực lượng nghĩa quân mà Ngô Lợi lãnh đạo

không ngừng gia tăng.

Tháng 6 năm 1886, thực dân Pháp ra lệnh cho thiếu úy Grimaudtiến

hành cuộc hành quân sang lãnh thổ của Cao Miên, để đánh vào Vườn Dầu với

mục đích tiêu diệt hết lực lượng nghĩa quân đã chạy sang Cao Miên, nhưng

thực dân Pháp không thu được thắng lợi như mong muốn.

Sau khi thực dân Pháp rút quânkhỏi Thất Sơn, tình hình tạm thời yên

ổn,Ngô Lợi cùng nghĩa quân liền đưa dân quay trở về làng, tiếp tục xây dựng

lại căn cứ và lực lượng kháng chiến, nhân dân khắp nơi lại hội tụ về núi

Tượng chờ ngày tiếp tục khởi nghĩa. Mặc dùlúc này làng xóm, nhà cửa đã bị

tàn phá hết, nhân dân bị đói phải vào rừng đào củ, hái rau rừng để ăn nhưng

không vì thế mà ý chí của nghĩa quân bị suy yếu. Ngược lại với niềm tin tôn

giáo, người dân đều tin rằng thực dân Pháp không bao giờ cai trị được nhân

dân Nam Kỳ, họ thề bám trụ đến cùng, dưới sự chỉ huy của Ngô Lợi kháng

Pháp, thậm chí dân nhiều nơi khác cũng về đây tụ nghĩa nên chỉ trong “một

tháng sau đó “dân đinh” ở làng An Định vẫn lại tăng thêm 258 người” [58,

tr.35]. Theo báo cáo tháng 10.1885 của chủ tỉnh Châu Đốc: “Toàn là dân bất

hảo, chống đối sự khai hóa của người Pháp, họ ở tứ xứ gom về và tất cả đều

theo đạo Phật nhưng là Phật tử có nhiệt tâm đến mức cuồng tín. Họ ra về chí

thú làm ăn về hình thức mà thôi, gặp cơ hội là họ khởi loạn nữa” [120, tr.188].

Năm 1885, Chiếu Cần Vương được nhân dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ hưởng

ứng mạnh mẽ, Mai Xuân Thưởng khởi nghĩa ở Bình Định, phó tổng binh

thành Hà Nội Lê Công Chánh xin về tham gia khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng.

Năm 1886, Mai Xuân Thưởng cử Lê Công Chánh vào Nam Kỳ vận động

nhân dân chống Pháp, Lê Công Chánh tìm gặpNgô Lợi,xuất trình giấy ủy

nhiệm của Nguyên soái nghĩa quân Bình Định Mai Xuân Thưởng cùng với

69

Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi, Ngô Lợi và các tướng nhiệt liệt hưởng

ứng Chiếu Cần Vương. Lê Công Chánh, Ngô Lợi cùng các tham mưu ở Thất

Sơn như Nguyễn Xuân Phong, Lê Bá Đạt, Nguyễn Hồng Bạch, Nguyễn Bá

Trọng, Lê Văn Viên bàn kế hoạch giương cao ngọn cờ Cần Vương, vận động

nhân dân Nam Kỳ đứng lên chống thực dân Pháp. Với mong muốn đánh đuổi

bọn cướp nước và bán nước nên nhân dân Nam Kỳ khắp nơi hội tụ về Thất

Sơn, họ được trang bị thêm vũ khí như súng bắn nhanh, ngày đêm luyện tập

quân sự, mọi việc tiến hành rất thuận lợi. Thất Sơn trở thành cơ sở quan trọng

nhất của các lực lượng yêu nước ở Nam Kỳ.

Sau đó, Ngô Lợi và Lê Công Chánh cử Nguyễn Bá Trọng, Lê Bá Đạt ra

Bình Định gặp chủ soái Mai Xuân Thưởng để nhận bằng cấp, ấn triện phân

phát cho các tướng lĩnh nhưng vừa về đến Sài Gòn thì Nguyễn Bá Trọng, Lê Bá

Đạt bị thực dân Pháp bắt rồi sau đó bị đày ra Côn Đảo. Do đó, việc liên kết với

phong trào Cần Vương ở Bình Định của nghĩa quân Ngô Lợi không thành.

Mặc dù vậy,Ngô Lợi cùng các nghĩa binh vẫn ra sức chuẩn bị lực

lượng, chờ thời cơ khởi nghĩa. Trước ảnh hưởng ngày càng mạnh của nghĩa

quân Ngô Lợi,lại có những tin tức dồn dập cho biết rằng quân Việt-Miên đang

chuẩn bị đánh lớn nênthực dân Pháp quyết định phải tiêu diệt căn cứ An Định

lập tức, vì thế“Ngày 13-5-1887, thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn

tiến đánh núi Tượng, quyết xóa sổ, giải thể các làng xóm, các căn cứ do Năm

Thiếp lập nên” [58, tr.36].Vì phải chiến đấu trong điều kiện độc lập tác chiến,

lực lượng chưa đủ mạnh, vũ khí thô sơ… nên nghĩa quân đã bị thực dân Pháp

và tay sai gồm thiếu tá Pêinô (Peigneaux), Đốc phủ sứ Trần Bá Lộc, Cai tổng

Trương Văn Keo, Cai tổng Tám Quy…đàn áp. Lê Văn Viên bị thực dân Pháp

bắt ở Sa Đéc. Nguyễn Xuân Phong bị bắt ở Sài Gòn [154, tr.155], Nguyễn

Hồng Bạch bị bắt tại Rạch Gầm, Lê Công Chánh rút về Mỹ Tho lấy tên là Võ

Văn Thung thì bị bắt và kết án 2 năm tù. Ngô Lợi được một số nghĩa quân che

chở nên trốn thoát. Vì không bắt sống được Ngô Lợi nên thực dân Pháp và tay

sai điên cuồng “đốt sạch nhà cửa, chùa chiền, lấy đi nhiều “báu vật” của đạo

70

Tứ Ân Hiếu Nghĩa như: Ngôi Long Đình, cặp Long Trụ, bảng Tiền, bảng

Phái...” [19]. Bốn làng bị thực dân Pháp phá hủy hoàn toàn.Theo danh sách

của viên Chủ tỉnh Châu Đốc gửi Giám đốc Nha Nội vụ Sài Gòn ngày

21.6.1887, cuộc hành quân đã bắt được 1990 người tại làng An Định trong

407 gia đình, gốc dân của 13 tỉnh khác nhau như Sa Đéc, Bến Tre, Sài Gòn,

Tân An, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Gò Công, Long Xuyên, Cần Thơ,

Sóc Trăng, Hà Tiên, Châu Đốc [58, tr.36].

Lo sợ trước sự lớn mạnhcủa phong trào kháng Pháp ở núi Tượng ảnh

hưởng đến sự thống trị của thực dân Pháp nên “Tháng 6-1887, nhà cầm quyền Pháp đã giải tán làng An Định, nhập vào làng Vĩnh Lạc5và cấm giáo phái Tứ

Ân Hiếu Nghĩa hoạt động. Dân làng An Định tất cả gồm 407 gia đình với gần

2.000 người bị cưỡng bức xuống tàu thủy trở về nguyên quán. Tuy nhiên, đa

số những người này đã tìm cách trốn dọc đường, tìm cách trở lại vùng đất vừa

khai phá và tiếp tục ủng hộ “thủ lĩnh” Ngô Lợi” [19].

“Cuốinăm 1887, Pháp lạitổ chức tấn công vào An Định. Lần này

chúngbắt được 8 người tham gia phong trào Cần Vương mà chúng nắm được

lý lịch và biết họ đang tụ nghĩa ở núi Tượng”[58, tr.37]. Thực dân Pháp “xử

tử cả 8 người tại chỗ và chôn chung một hầm” [27, tr.61].Tháng

12.1887(tháng giêng năm 1888), “Đốc phủ sứ tay sai Pháp là Trần Bá Lộc6cho bộ hạ thân tín của mình là Nguyễn Thành Liễu (Năm Cũi) trà trộn,

tìm cách kề cận ngài Ngô Lợi để ám sát ông. Nhưng Năm Cũi đã được cảm

hóa bởi đức độ, uy tín của Ngô Lợi, tự nguyện ở lại với nghĩa quân. Nguyễn

Thành Liễu được tổ chức giết Tổng đốc Lộc”[157].Nhân cơ hội Trần Bá Lộc

5Vĩnh Lạc: nay thuộc xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang 6Trần Bá Lộc (1839-1899) sinh sống ở An Giang, theo đạo Thiên Chúa Giáo. Trần Bá Lộc là người luôn oán giận triều đình Huế vì chính sách cấm đạo quá khắt khe, cha ông là Trần Bá Phước từng bị bắt giam tại Châu Đốc, đi đày tại Bình Định vì lí do theo đạo. Trần Bá Lộc là tay sai đắc lực của chính quyền thực dân Pháp trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ trong những năm cuối thế kỷ XIX như khởi nghĩa Võ Duy Dương, khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân, khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng...vì thế nhân dân Nam Kỳ vô cùng oán hận Trần Bá Lộc.

đi dự lễ khánh thành một nhà ở Mỹ Tho, Nguyễn Thành Liễu đã tiến hành

71

ám sát Trần Bá Lộc. Tuy nhiên, việc ám sát không thành, Trần Bá Lộc thoát

chết.

Nhằm che mắt thực dân Pháp nên nghĩa quân tung tin Ngô Lợi đã mất,

lập mộ giả ở Hai Ký (núi Dài, làng An Thành). Nhưng thực chất là ông đang

hoạt động bí mật, chờ thời cơ khởi nghĩa. Tiếc rằng lực lượng lúc này đã suy

yếu, hầu hết tướng lĩnh bị giết hoặc bị tù đày. Chính quyền thực dân quyết

định giải tán làng An Định, sát nhập vào làng Ba Chúc, các gia đình bị trục

xuất trở về nguyên quán cũ nhưng có khoảng 40%làm theo lệnh đó, số gia

đình còn lại tiếp tục trốn đi các vùng khác ẩn náu để tiếp tục mục đích chống

Pháp, một số ít gia đình bỏ lên vùng Tà Lơn Cao Miên sống tu hành. Năm

Canh Dần 1890, Ngô Lợi“mất tại núi Dài (thuộc huyện Tri Tôn) thọ 60

tuổi”[158, tr.455].

2.3.3. Cuộc vận động của Đào Công Bửu (1885-1894)

Trong những năm cuối thế kỷ XIX, phong trào chống Pháp của nhân

dân Nam Kỳ bị đàn áp khốc liệt, vì thế “Phong trào chống Phápở Nam Kỳ đã

lắng lại trên bề mặt, nhưng nó lại chuyển thành những làn sóng ngầm với

nhiều cuộc vận động được nhen nhóm ở khắp mọi nơi trên đất Nam Kỳ” [130,

tr.67]. Tiêu biểu là cuộc vận động chống Pháp của Đào Công Bửu.

Đào Công Bửu còn có tên khác là Đoàn Công Bửu, Đào Văn Bửu, Đào

Xuân Bửu, Cả Bửu. Đào Công Bửu sinh năm 1825 tại Trà Vinh nhưng sống

tại xã An Bồi, Bảo Hữu, Bến Tre.Theo nhiều tài liệu cho biết năm 1867, Đào

Công Bửu tham gia lãnhđạo khởi nghĩa chống Pháp ở Trà Vinh, giữ chức

Tổng binh. Sau đó, Đào Công Bửu về Bến Tre hoạt động. Năm 1875, Đào

Công Bửu và Nguyễn Xuân Phụngtiếp tục khởi nghĩa chống Pháptại Trà

Vinh, tham gia tích cực các hoạt động chống Pháp tại khắp các vùng đất Nam

Kỳ nhưng chủ yếu hoạt động tại địa bàn Bến Tre, Mỹ Tho.

Là người từng chỉ huy nghĩa quân từ năm 1867 trong khởi nghĩa ở Trà

Vinh, nắm chức vụ Tổng binh nên bản thân Đào Công Bửu có nhiều kinh

72

nghiệmtrong vận động nhân dân đứng lên tham gia chống thực dân Pháp và

tay sai, xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt trong công tác giữ bí mật.

Kế tục truyền thống yêu nước của vùng đất Nam Kỳ, Đào Công Bửu

quyết tâm đứng lên vận động nhân dân, chuẩn bị khởi nghĩa đánh đổ thực dân

Pháp và tay sai trong toàn xứ Nam Kỳ, giành lại độc lập tự do cho đất nước,

bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân, bảo vệ chế độ phong kiến.

Để tránh sự chú ý, truy lùng của thực dân Pháp, Đào Công Bửu chọn

Rạch Giá đặt sở chỉ huy, vì theo Đào Công Bửu, Rạch Giá cách xa các trung

tâm đô thị lớn sẽ khiến cho thực dân và tay sai khó kiểm soát. Bên cạnh đó,

Đào Công Bửu còn xây dựng nhiều cơ sở dự bị ởRạch Cái Nhum, Rạch Nước

Mặn, chùa Nha Sạp (thuộc làng Nhục Tung), rừng Cái Nạng, Gò Đất...nhằm

tạo thuận lợi cho các hoạt động chống Pháp.

Việc xây dựng nhiều cơ sở dự bị đã giúp cho lực lượng khởi nghĩa gặp

nhiều thuận lợi khi có sự truy lùng của chính quyền thực dân Pháp. Vì nếu bị

phát hiện, truy đuổi thì lực lượng nghĩa quân có thể di chuyển từ căn cứ này

sang căn cứ khác một cách an toàn, bí mật.

Với tài thuyết phục khôn khéo, sáng tạo của mình, Đào Công Bửu đã

vận động, tập hợp được nhiều lực lượng khác nhau để chuẩn bị đánh Pháp

như văn thân, sĩ phu (quan lớn Huỳnh Văn Hiền (còn gọi là Quan lớn Hiền),

Thầy đồ Trần Tu), hương chức trong chính quyền thực dân (Trịnh Cuối (hay

còn gọi là Thùy Cuội), Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Đá), nhà sư (Trần

Phố, Kim Văn Quang, Lâm Văn Hôn, Nguyễn Văn Huy), nông dân, nhiều

người tuổi cao như Trần Văn Vui (Cai Vui) (hay Lâm Văn Sanh), Lâm Nhật

Thăng (còn gọi là Sên, Xên),thậm chí cả ba anh em trong một gia đình là Lê

Văn Sát (Hồ Văn Sát), Lê Văn Sỏi, Lê Văn Minh (tức Út)...

Không có tư liệu nào nói về số lượng người tham gia cuộc vận động

chống Pháp của Đào Công Bửu nhưng theo tìm hiểu của tác giả thì lực lượng

tham gia rất đông đảo, gồm hầu hết nhân dân khắp các vùng Bến Tre, Mỹ

73

Tho, Gò Công, Trà Vinh, Hà Tiên, An Giang, Châu Đốc, Gia Định hưởng

ứng, không phân biệt tôn giáo, già trẻ, nam nữ.

Để cuộc vận động chống Pháp, tiến tới khởi nghĩa đạt hiệu quả cao,

Đào Công Bửu đã tự xưng là Nam Kỳ tướng quân Nguyên soái, Lê Công Từ

được phong là Nam Kỳ phó tướng quân, Trịnh Cuối làChánh đốc binh, Phó

quản Nguyễn Văn Trung, Đội trưởng Nguyễn Văn Đá, Lê Văn Sát và Lê Văn

Sỏi làmPhó quản, Lê Văn Minh làChánh đốc binh , Trần Văn Vui là Phó hiệp

quản, Lâm Nhật Thăng làm Phó quản, Trần Phố giữ chức Quan hùng sư, Kim

Văn Quang là Phó hùng sư, Lâm Văn Hôn và nhà sư Sắt là Phó quản, Nguyễn

Văn Huy làm cố vấn, thư ký...

Từ năm 1885 đến năm 1886, Đào Công Bửu đã ra sức vận động nhân

dân ở Bến Tre, Mỹ Tho đứng lên chống thực dân Pháp và tay sai. Ông vận

động nhân dân bằng nhiều cách khác nhau. Có lúc ông giả làm thầy lang đi

phát bùa chữa bệnh cho nhân dân, vì trong thời gian này ở Nam Kỳ, đặc biệt

là Mỹ Tho có nạn dịch tả hoành hành nhân dân, nhưng thực tế ông tuyên

truyền, vận động nhân dân dứng lên chống Pháp. Lại có thời gian, Đào Công

Bửu giả làm thầy tướng số, thầy pháp có nhiều phép thuật làm thực dân Pháp

và tay sai phải đầu hàng. Có khi Đào Công Bửu lại lấy danh nghĩa là một

quan chức trong triều đình, thừa lệnh của Vua Hàm Nghi đi tuyển mộ quân để

chuẩn bị cho công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, do lúc này

người dân Nam Kỳ còn rất tin Vua, họ đề cao vai trò của Vua, vì thế, cuộc

vận động được đông đảo quần chúng nhân dânhưởng ứng tham gia. Bằng

những cách vận động đó, Đào Công Bửu đã tuyển mộ đượcmột lực lượng lớn

nghĩa quân tham gia đánh Pháp.

Từ năm 1887 đến năm 1893, Đào Công Bửu mở rộng thêm địa bàn

hoạt động chống Pháp sang các tỉnh như Gò Công, Trà Vinh, Hà Tiên, An

Giang, Châu Đốc, Gia Định. Mặc dù, tuổi đã cao nhưng Đào Công Bửu vẫn

cùng Lê Công Từ vận động nhân dân khởi nghĩa chống Pháp. Trong quá trình

vận động, Đào Công Bửu luôn hoạt động rất linh hoạt, sáng tạo, điều này

74

được minh chứng khi Tri huyện Sa Đéc báo cáo với thực dân Pháp: “Trong

thời gian ở Rạch Giá, Đào Công Bửu đã giả dạng là thầy pháp cao tay, có khi

lại đóng vai một viên quan đi tuyển mộ nghĩa sĩ theo lệnh của ông vua xuất

bôn”. Vì lẽ đó, Đào Công Bửu đã che mắt được nhà cầm quyền và tuyển mộ

ngày càng nhiều người theo ông đứng lên chống Pháp.

Năm 1893, thực dân Pháp đã ổn định được bộ máy thống trị từ xã, ấp,

huyện, phủ, tỉnh nên ra sức đàn áp các phong trào chống Pháp của nhân dân

Nam Kỳ. Điều này cho thấy, phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân

Nam Kỳ không hề bị lắng xuống. Chính sự đàn áp khốc liệtcủa chính quyền

thực dân đã làm cho phong trào chống Pháp ở Nam Kỳcàng bùng lên mạnh

mẽ hơn.Chủ tỉnh Rạch Giá cũng phải thừa nhận rằng: “Cuộc vận động chống

lại chúng ta trên hầu khắp các tỉnh ở Nam Kỳ trong những tháng đầu năm nay

là do Đào Công Bửu chủ mưu. Y đã triển khai mưu đồ chủ yếu lại địa bàn các

tổng Kiên Định, Kiên Hảo là những tổng khó kiểm soát nhất” [154, tr.161].

Hoạt động chống Pháp của Đào Công Bửu đã khiến cho thực dân và tay

sai hoang mang, lo lắng. Trong báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương của

Thống đốc Nam Kỳ cũng có đoạn viết: “Đào Công Bửu rất linh hoạt và năng

động, tuy đã già. Y len lỏi được trong hạt Rạch Giá và tìm cách đánh lạc

hướng sự truy nã của chúng ta là nhờ sự đồng mưu của nhiều hương chức và

dân địa phương. Cảm thấy mình đã được lãng quên, Đào Công Bửu lại bắt

đầukhởi xướng những vụ nổi loạn và y đã chọn một địa bàn được chuẩn bị

chu đáo trong các tổng Kiên Định và Kiên Hảo. Đào Công Bửu không khó

khăn lắm trong việc làm cho mọi người tin rằng y là một quan chức của triều

đình Huế được cử vào kêu gọi dân chúng Rạch Giá nổi dậy chống lại nền

thống trị của người Pháp. Đào Công Bửu đã từng là tên chủ mưu ngoan cố

trong các vụ nổi dậy liên tiếp ở Trà Vinh, Bến Tre, và ở nhiều địa phương

khác, nay y lại xuất hiện ở Rạch Giá để tổ chức một cuộc nổi loạn mới” [154,

tr.161].

75

Trong quá trình hoạt động chống Pháp, Đào Công Bửu luôn được đánh

giá là một người nhanh trí, linh hoạt. Điều đó được minh chứng bằng sự kiện

tháng 12. 1893, Đào Công Bửu bị thực dân Pháp phát hiện khi đi từ Bến Tre

đến Rạch Giá, Đào Công Bửu nhanh trí ngay lập tức chuyển ngay sang Cù

Lao Dài, sau đó chuyển liền đến các cơ sở khác để về Cà Mau an toàn.

Đào Công Bửu hoạt động ngày càng trở nên nguy hiểm, gây tổn thất

nhiều cho Pháp, ảnh hưởng lớn đến sự thống trị của chính quyền thực dân.

Chính thực dân Pháp đã phải thốt lên rằng: “Bửu là tên phiến loạn rất ngoan

cố, nếu tính cả lần mưu tính nổi dậy vào năm 1894 thì Bửu đã năm lần lôi

kéo, kích động dân Nam Kỳ chống lại người Pháp” [154, tr.161].

Đào Công Bửu đã chuẩn bị cho cuộc nổi dậy khắp Nam Kỳ chống thực

dân Pháp. Tuy nhiên năm 1894, lo sợ một cuộc nổi dậy sẽ diễn ra trên toàn xứ

Nam Kỳ, thực dân Pháp đã tiến hành đàn áp dữ dội, Đào Công Bửu và hầu hết

các thủ lĩnh bị bắt. Do vậy, khởi nghĩa chưa kịp bùng nổ đã bị dập tắt. Khi bắt

được Đào Công Bửu, thực dân Pháp còn thu được tờ mật truyền gửi chánh

phó Đốc binh đạo Kiên Giang là Huỳnh Công và Nguyễn Hữu Trung ghi:

“Chúng tôi, Đào và Lê, Nam Kỳ Chánh phó “mật truyền” cho các đốc binh ở

các đạo ghi tên vào sổ để nhận bằng cấp và quân lệnh...”. Theo tác giả

Nguyễn Phan Quang trong bài : “Phong trào chống Pháp do Đào Công Bửu

lãnh đạo (1893-1894)” [130, tr.69] có đến 22 người bị bắttrong đợt đàn áp

này. Mặc dù, thực dân Pháp và tay sai dùng mọi thủ đoạn tra tấn bằng mọi

cực hình dã man nhất nhưng Đào Công Bửu cùng các thủ lĩnh đều rất bình

tĩnh, không hề run sợ. Trái lại, họ đã nhận hết trách nhiệm về mình để bảo vệ

những người chưa bị bắt. Tòa án thực dân mở phiên tòa xét xử những người

tham gia cuộc vận động chống Pháp của Đào Công Bửu, họ bị kết án từ 4

năm đến 15 năm tù rồi bị đày ra Côn Đảo. Nhưng hầu hết khi ở Côn Đảo, họ

bị tra tấn, lao động khổ sai, lại chịu đói rét nên đều chết trước khi mãn hạn tù.

Ngoài ra, trong vụ án này, thực dân Pháp còn phạt tất cả các làng từ 100 đồng

76

đến 200 đồng vì dân làng đã im lặng không chịu khai ra, cho người dân là có

đồng mưu với quân khởi nghĩa.

Tiểu kết chương 2

Việt Nam là một đất nước có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi

với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, vì thế là đối tượng xâm

lược của các thế lực ngoại bang. Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công xâm lược

Việt Nam nhưng không đạt được kết quả mong muốn nên năm 1859, Pháp

quyết định đánh vào Gia Định. Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông, ba

tỉnh miền Tây của Nam Kỳ, thực dân Pháp đã thiết lập bộ máy cai trị sớm

nhất nhằm củng cố ách chiếm đóng tại chỗ, đồng thời là bàn đạp tấn công

xâm lược toàn Việt Nam.

Dưới tác động từ chính sách cai trị của thực dân Pháp, kinh tế xã hội

Nam Kỳ đã có những biến đổi sâu sắc. Trong lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp là

ngành chịu tác động lớn nhất do chính sách cướp đoạt ruộng đất của chính

quyền thực dân, người dân Nam Kỳ ngày càng mất dần ruộng đất, lại bị bóc

lột bởi sưu cao, thuế nặng, cuộc sống ngày càng đói khổ, bần cùng, ngược lại

thực dân và tay sai lại trở nên giàu có, nhờ vào các chính sáchbóc lột nặng nề

về kinh tế, tài chính, đối lập với cuộc sống đói khổ của nhân dân. Trong lĩnh

vực xã hội, mâu thuẫn giữa nhân dân Nam Kỳ với thực dân Pháp trở thành

mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải giải quyết, bên cạnh giai cấp cũ là địa chủ và

nông dân, đã xuất hiện thêm tầng lớp công nhân, tiểu tư sản.

Chính từ những biến đổi sâu sắc trêncác lĩnh vực kinh tế và xã hội, đặc

biệt là cuộc sống bần cùng của người nông dân là nguyên nhân sâu xa nhất

của các phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX. Phong

trào yêu nước chống Pháp giai đoạn 1885-1896, diễn ra sôi nổi, quyết liệt,

liên tụcvới mục tiêu chung là đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc,

đem lại hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng bảo vệ chế độ phong kiến. Phong

77

trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân

dân tham gia, đặc biệt là nông dân, có cả người Việt, người Hoa, người

Khmer...với nhiều hình thức đấu tranh phong phú đa dạng nhưng chủ yếu là

đấu tranh vũ trang.

Mặc dù, các phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX không

giành được thắng lợi như mong muốn, nguyên nhân là do hệ tư tưởng phong

kiến lúc này đã trở nên lạc hậu, không phù hợp với tình hình. Tuy nhiên, các

phong trào đều bắt nguồn từ lòng yêu nước, thương dân, chung mục tiêu đánh

Pháp giành độc lập cho dân tộc, phong trào đã kế thừa truyền thống đấu tranh

anh dũng bất khuất của nhân dân Nam Kỳ, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước

của người dân Nam Kỳ, thôi thúc nhân dân vùng dậy đấu tranh theo một

phương thức cứu nước mới dân chủ tư sản dưới tác động của tình hình thế

giới và trong nước.

78

Chương 3. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở NAM KỲTỪ

NĂM 1897 ĐẾN NĂM 1918

3.1. Các yếu tố ảnh hưởng tới phong trào yêu nước ở Nam Kỳ

3.1.1. Trào lưu tư tưởng mới du nhập và ảnh hưởng từ Nhật Bản và

Trung Quốc

Du nhập và ảnh hưởng từ Nhật Bản

Trước khi tiến hành Duy Tân Minh Trị năm 1868, Nhật Bản vốn là một

nhà nước phong kiến, có chính sách bế quan tỏa cảng như Việt Nam dưới

triều Nguyễn. Đứng trước nguy cơ tụt hậu, bị các nước phương Tây xâm lược,

các nhà lãnh đạo của nước Nhật, đứng đầu là thiên hoàng Minh Trị với tư duy

sắc bén đã mạnh dạn tiến hành công cuộc Duy Tân một cách toàn diện.Sau

cuộc Duy Tân Minh Trị, Nhật Bảntrở thành một nước công nghiệp hóa, nhanh

chóng chuyển sang chế độ tư bản chủ nghĩa, là “cường quốc tư bản đầu tiên ở

Châu Á, ngang tầm với các nước Mỹ, Anh, Nga” [32, tr.31]. Do vậy,đầu thế

kỷ XX, Nhật trở thành cường quốc hùng mạnh ở Châu Á, một mặt Nhật Bản

nâng cao mức thuế để có chi phí sản xuất, xây dựng, áp bức bóc lột nhân dân

trong nước, mặt khác đi xâm lược các nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên

như Trung Quốc, Triều Tiên. Mặc dù vậy, đời sống nhân dân lao động vẫn rất

cực khổ, làm cho thị trường trong nước bị thu hẹp lại nên vì thế Nhật Bản

phải ra sức xâm lược để mở rộng thị trường.

Vì không muốn mất phương Đông nên Nhật đã có chủ trương gây

chiến với Nga, năm 1905 Nhật giành thắng lợi trong chiến tranh Nga-Nhật

(1904-1905), giành quyền cai trị ở khu vực Viễn Đông, buộc Nga phải kí hòa

ướcPôxmao (1905) nhường cho Nhật Bản các quyền lợi ở Mãn Châu, chấp

nhận cho Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, cắt miền Nam bán đảo Xakhalin

cho Nhật...Do đó, vị thế của Nhật ngày càng được củng cố, trở thành niềm tự

hào của các nước phương Đông. Đầu thế kỷ XX, nhiều nước Châu Á bị các

79

nước tư bản phương Tây biến thành thuộc địa, nửa thuộc địa, trong khi đó

Nhật Bản lại phát triển rất mạnh.Nhật Bản trở thành điểm sáng cần học tập

của các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan…, tác giả

Chương Thâu nhận xét: “Tình cảm quốc gia chủ nghĩa đang thiu thiu ngủ

trong các nho sĩ đột nhiên được các chiến thắng của Nhật Bản năm 1904 thức

tỉnh và kích thích cao độ” [167, tr.13]. Do vậy, nhiều sĩ phu Việt Nam cho

rằng muốn đánh đổ Pháp thì phải dựa vào Nhật Bản nên họ đã hướng về Nhật

Bản, “một nước “đồng văn đồng chủng”, lại là nước tân tiến” [144, tr.604].

Phan Bội Châu đã viết: “Nhật Bản qua bốn chục năm duy tân đã thay đổi hẳn.

Nhật Bản hùng mạnh về mọi mặt, đủ sức cạnh tranh với các cường quốc trên

thế giới, đánh thắng Trung Hoa và Nga để thu lợi cho mình. Nhật Bản một

nước đồng chủng, đồng văn đổi mới thành công, thì người Việt Nam cũng

phải đổi mới. Nước mất và bị thực dân Pháp cai trị, người dân Việt Nam quá

khổ cực vì sưu thuế nặng nề, gia đình tan nát và nghề nghiệp cũng chẳng

thông. Vì vậy người Việt Nam cần phải đổi mới, phải học hỏi từ chính kẻ thù

của mình:

“Họ khôn phải học, cừu sâu phải đền.

Việc tân học gấp đem dựng nước.

Hội dân đoàn cả nước cùng nhau.

Sự buôn phải lấy làm đầu.

Mọi nghề cũng ghé địa cầu một vai””.

[186, tr.154].

“Vào cuối 1905 và vào hai hay ba năm sau đó, đại đa số những người có học

tin tưởng sâu sắc rằng với sự giúp đỡ của người Nhật, có thể thực hiện được

một phong trào nổi dậy” [167,tr.13].

Du nhập và ảnh hưởng từ Trung Quốc

Trung Quốc là một nước có diện tích rộng, dân số đông, tài nguyên

thiên nhiên phong phú nên cuối thế kỷ XIX, Trung Quốc là đối tượng xâm

80

lược của các nước tư bản phương Tây. Năm 1874, Nhật Bản đánh chiếm Đài

Loan, năm 1895 Nhật Bản đánh bại quân Mãn Thanh do Lý Hồng Chương chỉ

huy. Đối với Nga, Pháp, chính phủ Mãn Thanh phải đi từ nhượng bộ này đến

nhượng bộ khác.

Sau khi xâm lược Trung Quốc, các nước đế quốc ra sức đầu tư vào

Trung Quốc để tìm kiếm lợi nhuận. Đầu thế kỷ XX, Trung Quốc trở thành

một nước nửa thuộc địa, kinh tế xã hội có những biến chuyển sâu sắc, đời

sống nhân dân vô cùng cực khổ, phong trào đấu tranh của nhân dân Trung

Quốc không ngừng lớn mạnh, nhất là từ sau cuộc chiến giữa Trung Quốc và

Nhật Bản (1894) khiến vị thế của triều đình Mãn Thanh ngày càng suy yếu.

Đứng trước tình hình đó, Hồng Tú Toàn đã đề ra tư tưởng canh tân..., giới trí

thức như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng, Dương Thâm

Tú…(những người đã chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng dân chủ tư sản của

phương Tây qua sách báo) đã đứng lên vận động Duy Tân, “Một số trí thức

Trung Quốc nhận ra rằng nếu chỉ cải cách trong kinh tế và khoa học kĩ thuật

thôi chưa đủ mà phải làm một cuộc duy tân” [32, tr.29]. Do đó, họ thành lập

Cường học hội, học đường, xuất bản báo tuyên truyền tư tưởng duy tân, đề

nghị thực hiện biến pháp. Khang Hữu Vi viết sách “Tân học ngụy kinh khảo”,

“Khổng Tử cải chế khảo”, “Thực lý công pháp toàn thư”. Lương Khải Siêu

viết “Ẩm băng thất”...Được Vua Quang Tự ủng hộ, giới trí thức Trung Quốc

tiến hành cuộc biến pháp đưa ra cải cách toàn diện để phát triển kinh tế, họ

lên án chế độ phong kiến lạc hậu, bảo thủ của triều đình Mãn Thanh, chống

lại sự xâm lược của các nước đế quốc phương Tây. Cuộc vận động biến pháp

lan rộng khắp Trung Quốc. Mặc dù cuộc vận động Duy Tân thất bại do phái

thủ cựu của Tây thái hậu phản đối, “Vua Quang Tự bị tống vào ngục, bỏ đói

đến chết, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu phải trốn sang Nhật” [32, tr.30]

nhưng cuộc vận động Duy Tân đã khơi dậy tinh thần yêu nước và truyền bá tư

tưởng dân chủ tư sản trong xã hội Trung Quốc.

81

Cuộc vận động biến pháp của Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi

cho phong trào Duy Tân ở Việt Nam, chính các tác phẩm của Lương Khải

Siêu và Khang Hữu Vi đã giúp các sĩ phu ở Việt Nam tiếp cận được với tư

tưởng dân chủ tư sản của Rút xô (Rousseau), Môngtetxkiơ (Montesquieu).

Các sĩ phu đãbiết đến các học thuyết dân chủ, dân quyền, biết thoát khỏi cái

nhìn hạn hẹp trong Nho giáo ở thời kỳ trước để nhận biết khách quan hơn về

thế giới bên ngoài. Họ mong muốn được tìm hiểu những vấn đề có liên quan

đến sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chính những kiến thức mới về khoa học tự

nhiên, khoa học xã hội...chủ yếu được dịch ra chữ Hán, hoặc dịch qua tiếng

Nhật từ các sách báo phương Tây, gọi là Tân thư,Tân văn, đã làm thức tỉnh

các sĩ phu Nho học ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, “Tư tưởng mới của học giả

đương thời ảnh hưởng sách vở của Lương nhiều lắm. Như bản sách “Trung

Quốc hồn”, “Mậu Tuất chính biến ký”, thời lại ảnh hưởng đến học giả nước

ta” [16, tr.65], Phan Chu Trinh cũng có sự chuyển biến: “Sách vở mới về

Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu du nhập vào nước ta. Cuộc Nga Nhật (chiến

tranh Nga-Nhậtnăm 1904-1905) ảnh hưởng rất nhiều đến thành phần trí thức.

Cụ ở Huế theo dõi tình hình hàng ngày. Ở kinh đô có Thân Trọng Huề, Đào

Nguyên Phổ, Vũ Phạm Hàm là các nhà có nhiều sách mới, cụ thường tìm tới

đọc. Từ đó, tư tưởng Âu, Tây thấm dần vào trí não” [177, tr.47]. Tác giả

Chương Thâu nhận xét: “Do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ, dân

quyền...của “Tân thư” Phan Bội Châu đã sáng lập ra Duy Tân hội và trực tiếp

lãnh đạo phong trào Đông Du” [163, tr.8], “Các danh sĩ yêu nước như Phan

Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Qúy Cáp do hấp thụ tư tưởng “Tân

thư”đã cùng nhau xốc lên một phong trào Duy Tân rộng khắp” [163, tr.8].

Toàn quyền Klobukowsky đã nhận xét về một trong những tác động của Tân

thư: “Hàng loạt thơ ca truyền miệng đã được đưa vào tới thôn quê hẻo lánh.

Có những áng văn, những bài thơ từ nước ngoài cũng được bí mật chuyển về,

đem rải khắp trong đô thị...Các cuộc thẩm vấn ở tòa Đại hình đã cho chúng ta

biết phương pháp hành động của bọn phát ngôn cho phong trào chống đối ấy.

82

Họ đọc thuộc lòng những đoạn thơ ca đượm một tinh thần yêu nước rất kích

động” [163, tr.9].

Năm 1911, cách mạng Tân Hợi bùng nổ ở Trung Quốc, tác động mạnh

đến các nhà yêu nước Việt Nam. Với lòng yêu nước, thương dâncùng với sự

hiểu biết sâu rộng đã thúc đẩy các sĩ phu Nho học Việt Nam đứng lên tìm tòi

phương thức đấu tranh mới, phù hợp với thời đại lịch sử,phục vụ cho công

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

3.1.2. Chính sách cai trị của thực dân Pháp

Cuối thế kỷ XIX,các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong

kiến đều lần lượt thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là do hệ tư tưởng phong kiến

bấy giờ đã lạc hậu, không thể lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong tình hình

mới. Do vậy, yêu cầu lịch sử đặt ra là phải nhanh chóng tìm ra một tư tưởng

mới cho con đường cách mạng Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, dưới tác động

từchính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp,kinh tế xã hội

Việt Nam nói chung, Nam Kỳ nói riêng có những chuyển biến mạnh mẽ, đặc

biệt là đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là nguyên nhân cơ bảngây nên

mâu thuẫn sâu sắc giữa thực dân Pháp và nhân dân Nam Kỳ, đồng thời cũng

là điều kiện trực tiếp nảy sinh các phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ

vào đầu thế kỷ XX.

Chính sách khai thác thuộc địa

Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân ở

Nam Kỳ gặp nhiều khó khăn về tài chính do sự mất giá của đồng bạc Đông

Dương, chi ngân sách tăng, chính quyền thuộc địa chưa tiếp cận được khoản

vay từ chính quốc...Phó Thống đốc Nam Kỳ trong kỳ họp thường niên của

Hội đồng thuộc địa năm 1897, đưa ra nhận xét: “Nam Kỳ đang trải qua một

cuộc khủng hoảng tài chính. Nó gây ra nhiều nỗi lo cho chính quyền vì sự

thiếu hụt lớn về ngân sách, khoảng 2,5 triệu đồng” [198, tr.6]. Chính vì lẽ đó,

chính quyền thực dân mà đại diện là Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume

(Paul Doumer) ngày 22.3.1897, trình lên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp

83

chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Đông Dương với 7 nội dung

từ chính trị, kinh tế, văn hóa…nhằm biến Đông Dương thành thuộc địa khai

thác hàng đầu, đem lại lợi nhuận cao cho thực dân Pháp để: “chấm dứt một

tình trạng tài chính thảm hại luôn bị thiếu hụt, một tình trạng kinh tế đình đốn

đáng sợ và những đe dọa về chính trị đang tái diễn ở Đông Dương” [206,

tr.15]. Với mong muốn tăng thu ngân sách, ổn định tài chính nên Toàn quyền

Đông Dương Paul Doumer đã đề ra nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp

tăng thuế như “Nghị định ngày 31.12.1894 tăng 10% thuế thân người Việt và

người Châu Á nước ngoàiở Nam Kỳ” [176, tr.8], “Ngày 19.1.1897 Hội đồng

thuộc địaNam Kỳ đã bỏ phiếuthông qua Nghị quyết tiếp tục tăng các loại

thuế” [176, tr.8]...So với các xứ khác trong Liên bang Đông Dương, người

dân trong xứ Nam Kỳ phải đóng mức thuế thân cao nhất, “Nếu như tại Bắc

Kỳ và Trung Kỳ, mức thuế này là 2,50 đồng/năm thì tại Nam Kỳ gấp 3 lần

(7,50 đồng/năm)” [28, tr.112].Thông qua việc tăng thuế cũ, lập thêm các loại

thuế mới để cướp đoạt tiền bạc của nhân dân, chính quyền thuộc địa đã có được

nguồn thu liên tục tăng nhanh:

Năm Nguồn thu cho ngân sách

1898 580.000 đồng

1899 592.000 đồng

1907 700.000 đồng

[199, tr.60]

Đầu thế kỷ XX, bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ đã khá ổn

định, đứng đầu là Thống đốc Nam Kỳ. Giống như Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm

sứ Trung Kỳ và Cao Miên, quyền tư pháp, hành pháp…của Thống đốc đều

thống nhất. Tham biện (Chủ tỉnh) đứng đầu các tỉnh đều là người Pháp, Sở

Tham biện và Hội đồng hàng tỉnh phụ tá cho Chánh, Phó Tham biện. Đứng

đầu thành phố là Chánh, Phó Đốc lý với Tòa Đốc lý và Hội đồng thành phố

(đối với thành phố cấp I) hoặc Uỷ ban thành phố (đối với thành phố cấp II). Ở

Nam Kỳ, các tỉnh không phân thành các phủ, huyện mà tỉnh có các trung tâm

84

hành chính hoặc Sở Đại lý. Đứng đầu các trung tâm hành chính hoặc Sở Đại

lý là Đốc phủ sứ, Tri phủ, Tri huyện. Dưới các trung tâm hành chính là cấp

Tổng được cai quản bởi chánh tổng, phó tổng. Dưới Tổng là các xã, đứng đầu

là hương trưởng, xã trưởng được xã dân bầu ra nhưng phải được cấp trên

đồng ý. Bộ máy chính quyền cấp xã là Hội đồng hương chức hay Ban hội tề,

Hội đồng kỳ hào, nghĩa là Pháp vẫn giữ hệ thống chính quyền phong kiến ở

làng xã để thuận lợi cho bộ máy cai trị của thực dân.

Đây là bộ máy hành chính cai trị chặt chẽ, vươn tới mọi cấp, cai trị trực

tiếp của thực dân Pháp ở Nam Kỳ. Điều này khác Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Cao

Miên và Lào với chế độ cai trị gián tiếp. Nam Kỳ là đất thuộc địa, bộ máy cai

trị từ cấp xứ đến cấp tỉnh chỉ do người Pháp điều khiển, mặc dù người Việt có

tham gia nhưng chỉ với vai trò cá nhân, không có tổ chức riêng như Bắc Kỳ,

Trung Kỳ, Cao Miên và Lào.

Năm 1904, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tổ chức lại bộ máy

hành chính làng xã. Đây là lần đầu tiên Pháp tiến hành cải lương hương chính

ở Nam Kỳ và cũng là chủ trương cải lương hương chính sớm nhất so với các

vùng khác (Bắc Kỳ quá trình này gắn với nghị định ngày 12.8.1921 và ngày

25.2.1927 của Thống sứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ vẫn đứng ngoài quá trình này).

Như vậy, ngay từ đầu Pháp đã mong muốnđưa mô hình tổ chức bộ máy hành

chính cấp cơ sở của chính quốc vào Nam Kỳ, mong muốn quản lý cấp làng

xã, làm sâu sắc hơn tính chất thuộc địa của nông thôn Nam Kỳ.

Bên cạnh việc thiết lập bộ máy chính quyền thuộc địa, thực dân còn

đẩy mạnh việc thiết lập bộ máy quân sự, cảnh sát, tòa án và nhà tù. Để đảm

bảo cho bộ máy này hoạt động hiệu quả, quân số thường trực phải luôn được

huy động tối đa, do vậy năm 1901, phòng tuyển lính được thành lập ở Sài

Gòn, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định ngày 14.3.1904, treo giải thưởng

cho người nào bắt được lính Việt đảo ngũ ở Nam Kỳ, thậm chí chính quyền

thực dân còn ban nhiều lệnh trừng trị thật nặng những ai chống đối chính

quyền, đàn áp mạnh các cuộc nổi dậy của nhân dân.

85

Ở Nam Kỳ, ngày 15.5.1917, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định

thiết lập lực lượng cảnh sát người Việt cho toàn xứ, gọi là lực lượng dân vệ

(gardecivile) [144, tr. 573] nhằm mục đích siết chặt an ninh trong thời gian

chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Lực lượng dân vệ đóng tại các

tỉnh, ngoài tỉnh đặt dưới sự chỉ đạo của Tham biện với nhiệm vụ duy trì an

ninh, trấn áp các cuộc nổi dậy, bắt, áp giải, canh giữ tù nhân…Bên cạnh đó,

thực dân Pháp còn lập các đội thân binh, đặt dưới quyền của tay sai phản

động với mục đích đàn áp tất cả các cuộc nổi dậy của nhân dân Nam Kỳ.

Trong tổ chức tòa án, dù là người Việt hay người Pháp phạm tội đều do

tòa án thực dân xét xử nhưng lại xử theo hai thứ luật pháp khác nhau dành

cho người Pháp hay người Việt. Vì nhân dân Nam Kỳ nổi dậy liên tiếp để

chống đối chính quyền thực dân nên đồng nghĩa là có nhiều vụ xét xử, có

nhiều tù nhân, do vậy các nhà tù ở khắp Nam Kỳ lúc nào cũng đông tù nhân:

Nhà tù Côn Đảo năm 1912 có 1326 tù nhân.

Tất cả các hành động trên đã thể hiện chính sách hai mặt của chế độ

thực dân. Một mặt lôi kéo mị dân, mặt khác tăng cường kiểm soát chặt chẽ.

Bộ máy cai trị trực tiếp đã giúp cho thực dân kiểm soát chặt chẽ đời sống xã

hội Nam Kỳ, phục vụ đắc lực cho công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân,

đây là bộ máy cai trị điển hình ở thuộc địa. Về hình thức, bộ máy cai trị thực

dân có khác so với các vùng khác do đặc điểm văn hóa, địa lý, dân cư Nam

Kỳ, tác động từ chính sách của thực dân…nhưng về bản chất, bộ máy cai trị

của thực dân vẫn không khác nhiều các vùng miền khác với âm mưu chia để

trị, dùng người Việt trị người Việt.

Chính sách kinh tế

-Nông nghiệp: Trong khai thác thuộc địa lần thứ nhất, Pháp có chính

sách ưu tiên đầu tư cho phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, thương

mại, nông nghiệp. Tuy nhiên, Nam Kỳ có tiềm năng lớn để phát triển nông

nghiệp nên nông nghiệp vẫn là lĩnh vực được Pháp chú trọng đặc biệt.

86

Bên cạnh chính sách cướp đoạt ruộng đất, mở rộng diện tích canh tác,

việc mua bán ruộng đất diễn ra rất mạnh, dẫn đến sở hữu lớn về ruộng đất

xuất hiện trong tay người có quyền và có tiền, ngược lại ruộng đất công ngày

càng bị thu hẹp. Năm 1912, có tới 380.000 ha ruộng đất ở Nam Kỳ nằm trong

tay thực dân Pháp (so với Bắc Kỳ là 136.000 ha và Trung Kỳ là 26.000 ha)

[221, tr.223], sở hữu nhỏ chiếm 12,5% diện tích trong khi số sở hữu lớn

chiếm đến 45% diện tích đất khai phá [210, tr.88].

Mục đích của việc cướp đoạt ruộng đất, mở rộng diện tích đất của thực

dân Pháp là lập đồn điền trồng lúa, chè, cao su, cà phê, hồ tiêu...nhằm vơ vét

tối đa sức người, sức của của nhân dân, đồng thời phát canh thu tô kiếm lời,

duy trì thế lực địa chủ vì Pháp muốn thông qua giai cấp địa chủ để cai trị nhân

dân được thuận lợi hơn.

Khi diện tích ruộng đất trồng lúa tăng lên cũng đồng nghĩa với sản

lượng gạo xuất khẩu ngày càng lớn trên sự đói khổ bần cùng của nhân dân

Nam Kỳ. Năm 1900, Pháp đã xuất khẩu 747.635 tấn gạo, đến năm 1910 xuất

khẩu lên tới 1.108.561 tấn gạo [178, tr.23].

-Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp:

Chính sách nhất quán của thực dân Pháp là: “Kỹ nghệ chính quốc phải

được bổ sung chứ không phải để bị phá sản bởi kỹ nghệ thuộc địa. Nói cách

khác, kỹ nghệ thuộc địa phải được lập ra để sản xuất những gì mà kỹ nghệ

nước Pháp không thể sản xuất được” [66, tr.18]. Do vậy, chính quyền thực

dân chỉ quan tâm đến công nghiệp khai mỏ (khai thác than), mở các nhà máy

chế biến (xay xát gạo) với mục đích vơ vét cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên

nhiên phong phú của Nam Kỳ để làm giàu cho chính quốc, dẫn đến sự mất

cân đối trong cơ cấu kinh tế.

Xay xát gạo là lĩnh vực chính quyền thực dân Pháp quan tâm chú ý, đặc

biệt khi chiến tranh thế giới lần thứ nhấtbùng nổ, nhu cầu xuất khẩu gạo tăng,

nhiều nhà máy xay xát được xây dựng, người Việt cónhà máy Đức Khải, nhà

máy Nguyễn Thanh Liêm: “Năm 1915, một nhà máy xay mới được xây dựng

87

ở Mĩ Tho. Năm 1916, một nhà máy xay bột ở Rạch Giá cũng ra đời” [144,

tr.659]. Năm 1910, khu vực Sài Gòn Chợ Lớn “có 10 nhà máy xay xát gạo thì

riêng người Hoa đã có 8 nhà máy, công suất mỗi nhà máy khoảng 450-750

tấn/ngày với khoảng 800 lao động” [1, tr.41].

Như vậy, ngành công nghiệp ở Nam Kỳ đã hình thành với ba bộ phận

là tư bản người Việt, tư bản người Pháp và tư bản người Hoa. Vị trí, vai trò

của các bộ phận mặc dù là khác nhau nhưng đều có một điểm chung là dẫn

đến hình thành quan hệ sản xuất tư bản ở kinh tế Nam Kỳ. Tư bản người Việt

vốn nhỏ bé, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh yếu nên thường bị tư bản Pháp,

tư bản người Hoa chèn ép, cạnh tranh, khó trở thành nền sản xuất công nghiệp

lớn, dù ở Nam Kỳ ngành công nghiệp đã có nhiều ngành nghề và nhiều hình

thức kinh doanh đa dạng, nhiều ngành được trang bị máy móc tân tiến hơn.

Từ 1902 đến 1906, Công ty rượu Đông Dương của Pháp đã mua lại được 32

nhà máy của người Việt và Hoa kiều [144, tr.581].

Về tiểu thủ công nghiệp: Pháp không đầu tư vào tiểu thủ công nghiệp

vì lợi nhuận không cao, điều đó tạo sự mất cân đối trong cơ cấu ngành, các

ngành truyền thống bị mai một. Mặc dù vậy,tiểu thủ công nghiệpcủa tư bản

bản xứ cũng phát triển khá mạnh với các ngành sản xuất như gốm sứ, xà

bông, giấy, sản xuất thuốc, thủy tinh, giày da, nước chấm... Đây là một bước

tiến của tiểu thủ công nghiệp trong hoàn cảnh chính quyền thực dân không có

chính sách đầu tư vào lĩnh vực này.

-Giao thông vận tải:Tư bản Pháp có chính sách ưu tiên đầu tư vào lĩnh

vực giao thông vận tải trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất

(1897-1914) với mục đích tăng cường bóc lột kinh tế, phục vụ các mục đích

quân sự. Vì thế, giao thông vận tải ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX, phát triển khá

đồng bộ giữa các ngành đường hàng không, đường thủy và đường bộ. Ngược

lại, sức lao động của người dân Nam Kỳ bị khai thác triệt để khi thực dân

Pháp bắt phu Việt Nam đi đào sông, mở đường, xây dựng cầu...mâu thuẫn

giữa nhân dân với thực dân ngày càng sâu sắc.

88

Về đường hàng không: Trong lĩnh vực giao thông vận tải, tư bản Pháp

chú trọng đầu tư nhiều nhất vào ngành hàng không vì chính quyền thực dân

Pháp mong muốn hàng không Nam Kỳ chính là cầu nối giữa Nam Kỳ với các

vùng miền khác ở Đông Dương và thế giới.

Về đường thủy: Bên cạnh việc mở rộng thêm cảng Sài Gòn phục vụ

cho công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp, tư bản Pháp còn cho xây dựng

thêm một số cảng, nhà kho để phục vụ tốt hơn cho giao thông đường thủy. Hệ

thống đường thủy được nối liền với đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho. Điều này

cho thấy, giao thông đường thủy ở Nam Kỳ mang một diện mạo mới so với

thời gian trước.

Về đường bộ: Tư bản Pháp đầu tư vào đường bộ với các quốc lộ 1,

quốc lộ 13, quốc lộ 14, quốc lộ 22...cùng nhiều tuyến đường bộ nối các

huyện, xã với nhau.Năm 1902, Pháp cho xây dựng cầu Bình Lợi bắc qua sông

Sài Gòn, có đường xe lửa chạy qua cầu, nối Sài Gòn với Biên Hòa. Với

đường sắt: Tháng 12 năm 1897, Hội đồng tối cao Đông Dương họp phê duyệt

chương trình phát triển đồng bộ đường sắt tại Đông Dương, có tổng chiều dài

3.200 km. Pháp mở thêm nhiều tuyến đường sắt nối từ Sài Gòn tới Cao Miên

(Campuchia ngày nay)bên cạnh các tuyến đã có như Sài Gòn-Mỹ Tho, Sài

Gòn nối các tỉnh Bắc Kỳ...nhằm mục đích quân sự và vơ vét cạn kiệt nguồn

tài nguyên thiên nhiên ở Đông Dương, làm giàu cho chính quốc.

-Thương nghiệp:

Thực dân Pháp ra sức khuyến khích buôn bán các loại nông sản ở địa

phương với giá rẻ, sau đó xuất khẩu dạng thô để thu lợi nhuận. Còn hàng hóa

nhập khẩu về Nam Kỳ lại luôn ở dạng đã thành phẩm, vì thế thực dân Pháp lại

thu được lợi nhuận trong vấn đề nhập khẩu. Với chính sách độc quyền đã giúp

cho việc trao đổi buôn bán hàng hóa tăng lên nhanh chóng, số hàng nhập khẩu

từ Pháp vào Đông Dương giai đoạn 1902-1906, tăng 4,2 lần so với giai đoạn

1897-1901, số hàng xuất khẩu từ Đông Dương sang Pháp trong giao đoạn này

cũng tăng 3,5 lần.

89

Ngoại thương: là lĩnh vực chiếm vị trí quan trọng thứ hai, chỉ sau nông

nghiệp. “Vào năm 1910, tổng kim ngạch ngoại thương của Nam Kỳ lên tới

312 triệu frăncs (chiếm gần 1/5 tổng kim ngạch ngoại thương của tất cả các

xứ thuộc địa Pháp là 1 tỷ 525 triệu), trong đó hàng hóa xuất khẩu chiếm 138

triệu” [208, tr.95]. Gạo luôn giữ vị trí đầu tiên trong xuất khẩu ở Nam Kỳ, thứ

đến là tơ, bông, cao su, cà phê, xà phòng...

-Tài chính ngân hàng:

Nạn cho vay nặng lãi của địa chủ, tư bản Pháp đã đẩy người nông dân

Nam Kỳ vào bước đường cùng. Ngân hàng Đông Dương và các hệ thống của

ngân hàng Đông Dương trở thành đối tượng độc quyền trong phát hành giấy

bạc, cho vay...chi phối ngày càng sâu vào kinh tế tài chính Nam Kỳ nói riêng,

kinh tế tài chính Đông Dương nói chung. Theo tác giả Sơn Nam:“Nông dân

Nam Kỳ thường phải vay tiền với mức lãi suất tối thiểu 30% tháng. Theo sổ

sách, nếu họ vay 100đ thì cuối tháng phải trả 136đ, sau 10 năm số nợ ấy sẽ là

2.164đ. Nếu nông dân vay thóc: vay 1 giạ thì tới mùa phải trả 2 giạ, sau 10

năm số nợ của 1 giạ thóc sẽ thành 1.024 giạ”[102, tr.82].

Năm 1913, nạn cho vay nặng lãi ngàycàng được đẩy mạnh hơn khi

ngân hàng Đông Dương thành lập “Hội Nông tín tương hỗ bản xứ”: “Tư bản

Pháp đã tung tiền cho địa chủ Việt Nam vay với mức lãi xuất thấp để bọn này

cho nông dân vay lại với mức lãi cao hơn gấp 3 lần” [178, tr.26]. Bản chất của

việc cho vay này là hình thức đầu tư của thực dân Pháp, nhằm tập trung hết

ruộng đất vào các đại địa chủ, vì thế “Nạn cho vay nặng lãi và thuế khóa làm

cho ở bất cứ đâu, chế độ sở hữu nhỏ ruộng đất cũng đều bị phá sản” [93,

tr.405].Sau khi ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, địa chủ cho nông dân thuê

ruộng đất để lấy lãi cao, đây là sự bóc lột có hệ thống với quy mô lớn.

Chính sách văn hóa, giáo dục

Về văn hóa: Thực dân Pháp có chính sách sử dụng báo chí để tuyên

truyền, phục vụ đắc lực cho công cuộc khai thác thuộc địa, nên vì thế báo chí

được thực dân Pháp ra sức chú trọng. Đầu thế kỷ XX, báo chí tiếng Việt, báo

90

chí tiếng Pháp đều đa dạng về thể loại, phát triển cả về số lượng và chất

lượng.Chính sách đối với báo chí của thực dân Pháp đã dẫn đến sự ra đời của

các tờ báo có tư tưởng yêu nước như Nông Cổ Mín Đàm và Lục Tỉnh Tân

Văn.

Báo tiếng Việt tiêu biểu ở Nam Kỳ là Nông Cổ Mín Đàm (1901) và

Lục Tỉnh Tân Văn (1907) (trước là Nam Trung nhật báo) do Trần Chánh

Chiếu làm chủ bút. Mặc dù Nông Cổ Mín Đàm bàn luận nhiều về lĩnh vực

kinh tế, Lục Tỉnh Tân Văn ra sức ca ngợi tinh thần yêu nước, chống thực dân

và tay sai, chống tư tưởng vong bản…nhưng cả hai tờ báo đều tập trung cổ

động việc canh tân đất nước.Lục Tỉnh Tân Văn là báo có uy tín bậc nhất ở

Nam Kỳ nên đã thu hút được nhiều cây bút giỏi, đây là báo tiếng Việt tồn tại

lâu nhất tại Nam Kỳ cho đến trước năm 1945, đồng thời cũng là tờ báo làm cơ

sở cho việc lập nghiệp của nhiều nhà báo, “Nhiều cây bút của xứ Bắc, Trung

đã từng vào Sài Gòn để học tập nghề làm báo” [71, tr.32].

Báo tiếng Pháp được coi là cơ quan ngôn luận chính thức của chính

quyền thuộc địa, bên cạnh đó, Pháp còn trợ cấp xuất bản cho một số báo Quốc

ngữ, tiếng Hán với mục đích tuyên truyền chủ trương, chính sách, thông tin

hoạt động từ chính quyền thực dân như báo Đại Việt quan báo (về sau đổi

thành Đại Việt tân báo, Đại Việt công báo) do Babuýt (Babut) là chủ nhiệm,

chủ bút là Đào Nguyên Phổ.

Về giáo dục: Năm 1906, theo Nghị định của Toàn quyền P.Beau, thực

dân Pháp đã tiến hành cải cách giáo dục thông qua việc tăng cường dạy chữ

Hán, chữ Quốc ngữ ở các trường làng, xây dựng hệ thống trường Pháp Việt,

hệ thống trường chuyên nghiệp, các trường sư phạm ở Gia Định, các cơ sở

nghề như năm 1906, mở trường Cơ khí Á Châu ở Sài Gòn, năm 1913, mở

trường Mỹ thuật Gia Định…Ở Nam Kỳ, hệ thống trường Pháp - Việt tương tự

như trường tiểu học Pháp Việt đã có từ trước nhưng được mở rộng hơn.

Chính sự chuyển biến trong nhận thức của người Nam Kỳ khi coi chữ

Quốc ngữ trở thành công cụ học tập, truyền bá văn hóa, chứ không phải là

91

công cụ của những kẻ đi xâm lược thì việc phổ biến, truyền bá chữ Quốc ngữ

này càng được đẩy mạnh ở Nam Kỳ. Hơn nữa, chữ Quốc ngữ lại dễ học, dễ

đọc, trong khi đó chữ Hán sử dụng ngày càng hạn chế vì nó khó truyền tải

thuận lợi các thông tin mới. Việc sử dụng chữ Quốc ngữ đã thổi vào văn học

Nam Kỳ làn gió mới, giúp văn học chuyển sang giai đoạn mới: gần gũi quần

chúng hơn, phát triển năng động hơn…chứ không chỉ là thú vui của tầng lớp

bên trên xã hộinhư thời gian trước. Tiêu biểu như tiểu thuyết, ký sự Quốc âm

thi tập tuyển (Lê Quang Chiểu), Thi phú văn từ (Võ Sâm)… truyện Gia Long

tẩu quốc, Gia Long phục quốc, Tiền Lê vận mạt…

Bên cạnh văn học chữ Quốc ngữ còn tồn tại, phát triển văn học chữ

Hán Nôm (chủ yếu là chữ Nôm) nhờ sự nỗ lực của các nhà Nho yêu nước để

bảo vệ văn hóa truyền thống trong hình thức mới nối tiếp thi pháp truyền

thống.

Như vậy, bên cạnh mục đích ngu dân về giáo dục, đầu độc về văn hóa

của chính quyền thực dân Pháp(nhằm dễ bề cai trị, hạn chế các cuộc nổi dậy

của nhân dân), đời sống văn hóa, giáo dục ở Nam Kỳ vẫn thể hiện tinh thần

dân tộcrất mạnh mẽ. Sự kết hợp văn hóa, giáo dục phương Tây với văn hóa

giáo dục bản địa trên cơ sở đặc điểm địa lý dân cư văn hóa Nam Kỳ, đã làm

phong phú, phát triển hơn văn hóa giáo dục xứ Nam Kỳ.

Những hệ quả kinh tế xã hội

Với mục đích biến Nam Kỳ thành thuộc địa khai thác tài nguyên thiên

nhiên, đem lại lợi nhuận cao cho chính quốc, cuộc khai thác thuộc địa của

thực dân Pháp đã làm cho tài nguyên thiên nhiên ở Nam Kỳ bị khai thác cạn

kiệt. Nền kinh tế Nam Kỳ phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nông nghiệp

là ngành sản xuất chính nhưng ngày càng trở nên lạc hậu, công nghiệp phát

triển nhỏ giọt, thiếu đi ngành công nghiệp nặng...kinh tế Nam Kỳ sản xuất nhỏ,

lạc hậu, mất cân đối, phụ thuộc vào kinh tế Pháp. Đời sống nhân dân ngày càng

khó khăn, đặc biệt là nông dân, các giai cấp có sự phân hóa rõ rệt.

92

Địa chủ: đại đa số địa chủ là chỗ dựa vững chắc cho chính quyền thực

dân nên địa chủ ngày càng củng cố thế lực của mình. Địa chủ Nam Kỳ có thể

chia thành 3 tầng lớp: đại điền chủ, trung điền chủ và tiểu điền chủ.

Đại điền chủ có thành phần rất đa dạng gồm các viên quan cai trị, tư

sản, địa chủ phong kiến, giáo hội. Bên cạnh những đại điền chủ cho thuê

ruộng đất, thuê nhân công, phát canh thu tô còn những đại điền chủ buôn bán,

môi giới lúa gạo từ người Việt cho các công ty xuất khẩu lúa gạo của Pháp.

Quan hệ thị trường đã tồn tại trong nông thôn Nam Kỳ theo kiểu chủ đất, chủ

điền. Có nhiều đại điền chủ nổi tiếng như địa chủ Nguyễn Tấn Sử ở Bà Rịa,

địa chủ Trần Trinh Trạch ở Bạc Liêu…Các đại điền chủ nắm giữ 45% diện

tích trồng lúa ở Nam Kỳ. Nhà nghiên cứu Y.Henry nhận xét về lực lượng đại

điền chủ là họ “tạo thành một giai cấp rất đặc trưng của dân An Nam. Các

chức sắc được tuyển chọn từ đây. Họ có thế lực và lợi dụng thế lực ấy...Họ là

những loại chủ ngân hàng hơn là những nhà nông, họ là những người trung

gian giữa các tổ chức nông tín và các tá điền hay các thân chủ của họ; đưa ra

những đảm bảo lớn, họ là những người đầu tiên tham gia vào các Hội tương

trợ nông tín (Sociétés mutuelles de Crédit Agricole). Là thành viên của

Nghiệp đoàn hay Hội đồng quản trị, họ đã là những người đầu tiên hưởng lợi

trong hình thức nông tín mới ấy, đến nỗi chính họ, họ không hưởng ứng chút

nào cho sự phát triển của những khoản cho vay nhỏ theo lối bình dân và

những khoản cho vay ngắn hạn của nông tín. Trong những năm gần đây, họ

đã cổ vũ nhiều cho nông tín dưới mọi hình thức. Họ sẵn sàng tham gia vào

mọi cấu kết điền địa và mọi công cuộc khai khẩn đất mới. Họ làm ăn rất phát

đạt và đã tạo dựng những cơ nghiệp mà có lúc đã đạt đến những con số thật

đáng kể” [221, tr.56].

Trung điền chủ chiếm số đông, họ nắm tư liệu sản xuất khoảng từ10 ha

đến 100 ha. Trung điền chủ giao đất cho tá điền canh tác theo thỏa thuận từ

trước giữa hai bên, cuối mỗi vụ dù được mùa hay mất mùa, tá điền vẫn phải

93

nộp tô khoảng 120kg đến 400kg/1ha cho địa chủ. Đây là hình thức bóc lột

theo kiểu địa chủ - tá điền.

Tiểu điền chủ sở hữu ít ruộng đất hơn, chỉ từ 5 ha trở xuống. Đời sống của

tiểu điền chủ gặp nhiều khó khăn do phải chịu thuế cao, trong khi trình độ canh

tác thấp, hơn nữa họ lại phải chịu sự chèn ép của cường hào, địa chủ khác.

Nông dân: Bị cướp ruộng đất, không có đất để canh tác, gánh nhiều loại

thuế khác nhau cùng các khoản phụ thu của chức dịch trong làng nên đời sống

nhân dân ngày càng bần cùng hóa, họ bị phá sản phải đi làm tá điền cho địa

chủ, làm thuê cho các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy của Pháp, hoặc ra thành

phố làm thuê bằng các nghề cắt tóc, kéo xe, bồi bếp, con ở, đầy tớ...

Chính chế độ sở hữu lớn về ruộng đất làm ruộng đất của nông dân bị

thu hẹp, mất dần ruộng đất phải đi lĩnh canh nộp tô cho địa chủ. Tại các tỉnh

miền Trung và miền Tây Nam Kỳ, có đến 80% số ruộng được cho lĩnh canh

dưới hình thức tá điền [210, tr.283]. Diện tích phát canh thu tô ở Nam Kỳ

chiếm tới 63% tổng diện tích cấy lúa [197, tr.77]. Hơn nữa, sự gia tăng dân số

làm diện tích ruộng đất vốn đã ít lại bị chia nhỏ hơn.Trong khi đó, địa chủ câu

kết với tư bản thu mua lúa gạo của nông dân với giá rẻ, việc nông dân vay lãi

của tư bản phải thông qua địa chủ nên lãi càng nặng thêm.

Nhìn chung, ruộng đất không có để sản xuất, thuế khóa địa tô quá nặng

nề, lại phải đi vay với lãi suất cao là những nguyên nhân làm cho đời sống

nông dân Nam Kỳ ngày càng bần cùng hóa, trong khi đó đời sống của địa chủ

nói chung ngày càng cao nên mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân ngày càng

sâu sắc. Nông dân ngày càng căm ghét chế độ thực dân, vì vậy họ mong muốn

được đấu tranh trước hết là giải phóng cho giai cấp mình, cao hơn nữa là giải

phóng dân tộc.

Tư sản: Tầng lớp tư sản Nam Kỳ đầu thế kỷ XX,có khuynh hướng kinh

doanh độc lập nhưng do thế lực kinh tế còn nhỏ bé, họ phải dựa vào tư bản

Pháp nêntư sản Nam Kỳ thường xuyên bị chèn ép, vì thếdẫn đến hiện tượng

94

tư sản địa chủ hóa hoặc địa chủ tư sản hóa nhưng chưa dứt hẳn cái đuôi phong

kiến là hiện tượng khá phổ biến [91, tr.128].

Tư sản Nam Kỳ chủ yếu xuất thân từ những địa chủ lớn như Nguyễn

Thành Điểm, Trần Trinh Trạch, Nguyễn Thị Tâm...Tư sản Nam Kỳ kinh

doanh trong nhiều lĩnh vựckhác nhau như trong kinh doanh đồn điền, sản xuất

lúa gạo, kinh doanh bất động sản, chế biến rượu...Ngoài ra, nhiều nhà tư sản

Nam Kỳ còn tham gia hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh in ấn sách,

báo, may mặc, giày da, xà phòng...Đây là các nhà tư sản đầu tiên ở Việt Nam.

Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tư sản Nam Kỳ dần dần vươn

lêntrở thành những nhà tư sản lớn như Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Thị Tâm,

Lê Phát Vĩnh, Trần Văn Tư, Nguyễn Văn Của, Trần Hữu Định, Huỳnh Văn

Hoa, Trần Trinh Trạch...đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tư sản mới

chính thức trở thành một giai cấp.

Tiểu tư sản: bao gồm trí thức, viên chức, học sinh, sinh viên, tiểu

thương...Ở Nam Kỳ, thời gian này đã xuất hiện tầng lớp trí thức tiểu tư sản

hiện đại đầu tiên, họ là những người thông ngôn cho Pháp, bác sỹ, luật sư, kỹ

sư, nhà báo...

Tầng lớp tiểu tư sản Nam Kỳ ngày càng phát triển về số lượng do sự

phát triển của kinh tế Nam Kỳ. So với Bắc Kỳ và Trung Kỳ, hoạt động báo

chí ở Nam Kỳ sôi động hơn nên lực lượng nhà báo cũng khá đông đảo. Đội

ngũ viên chức ở Nam Kỳ nhiều hơn so với các vùng miền khác, được chính

quyền thực dân đào tạo với chuyên môn cao nên nhiều người giữ vai trò quan

trọng trong bộ máy chính quyền thực dân ở Nam Kỳ.

Tuy nhiên, tiểu tư sản Nam Kỳ luôn có nguy cơ bị mất việc, luôn bị

chèn ép, ngược đãi từ chính quyền thực dân nên vì thế đời sống của tầng lớp

tiểu tư sản luôn trong tình trạng bấp bênh không ổn định.

Công nhân: Công nhân Việt Nam nói chung, công nhân Nam Kỳ nói

riêng chủ yếu xuất thân từ nông dân, đi làm thuê cho tư bản Pháp nên trở

95

thành công nhân, ngoài ra còn công nhân theo vụ, công nhân làm thuê trong

các cơ sở sản xuất của người Việt, người Hoa...

Theo tốc độ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, công nhân Nam Kỳ

không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Năm 1906, cả nước có

55.000 công nhân, trong khi đó “Nam Kì có 25.000 công nhân, trong đó có

900 công nhân chuyên môn” [144, tr.591] (Bắc Kì có 20.000 công nhân với

800 công nhân có chuyên môn kĩ thuật. Trung Kì có 4.500 công nhân, trong

số đó có 100 công nhân chuyên môn). Bên cạnh đó, còn có các loại công nhân

khácnhư công nhân tự do, công nhân làm việc theo mùa, công nhân làm trong

các xí nghiệp nhỏ và vừa của người Hoa vàngười Việt.

Công nhân làm việc trong môi trường độc hại, ăn ở tồi tàn, thời gian

làm việc kéo dài liên tục nên họ vô cùng căm ghét thực dân, mong muốn đấu

tranh giải phóng mình là nguyện vọng chung của công nhân Việt Nam nói

chung, công nhân Nam Kỳ nói riêng.

Nhìn chung,dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực

dân Pháp, kinh tế, xã hội Nam Kỳ có sự chuyển biến sâu sắc,quan hệ sản xuất

tư bản chủ nghĩa đã tác động vào Nam Kỳ, làm thay đổi cơ sở hạ tầng, nền

kinh tế Nam Kỳ có sự chuyển biến mạnh mẽ với các đô thị công thương

nghiệp, hoạt động công nghiệp, dịch vụ, thương mại ngày càng chiếm tỷ trọng

cao, sự xâm nhập của tư bản thương nghiệp, tư bản tài chính...Từ một nền

kinh tế lạc hậu, Nam Kỳ đã trở thành nền kinh tế phát triển nhanh hơn so với

Bắc Kỳ và Trung Kỳ, hình thành tầng lớp bên trên là các đại điền chủ, nghiệp

chủ...Tuy nhiên, nền kinh tế Nam Kỳ vẫn biểu hiện rõ tình trạng mất cân đối,

lạc hậu, lệ thuộc vào kinh tế Pháp. Do tư bản Pháp đầu tư vào Nam Kỳ nói

riêng, Việt Nam nói chung với mục đích khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên

thiên nhiên để thu lợi nhuận thông qua sự kết hợp của phương thức bóc lột

phong kiến với phương thức bóc lột tư bản chủ nghĩa, không chú trọng đến

khoa học kỹ thuật, vì thế nông nghiệp tồn tại nhiều hạn chế: lúa vẫn là cây

trồng chính (chiếm đến 90% diện tích canh tác, đứng đầu xuất khẩu), chăn

96

nuôi vẫn chưa vươn lên trở thành ngành sản xuất chính, nền công nghiệp cũng

chỉ ở mức dịch vụ, phục vụ cho công nghiệp chính quốc, chưa liên kết với thị

trường bên ngoài.

Bên cạnh sự gia tăng về số lượng, sự chuyển biến về chất lượng cũng là

nét nổi bật của công nhân. Nông dân ngày càng bần cùng hóa...không có

ruộng đất để sản xuất, phải gánh chịu quá nhiều loại thuế, dẫn đến đời sống

nhân dân Nam Kỳ ngày càng gặp nhiều khó khăn, đại bộ phận người dân

Nam Kỳ bị đẩy vào cảnh túng quẫn, mâu thuẫn giữa nhân dân Nam Kỳ và

thực dân Pháp ngày càng sâu sắc chính là nguyên nhân sâu xa nhất của các

phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX, với các hình thức đấu tranh phong phú,

đa dạng.Chính Philippe Devillers trong cuốn “Người Pháp và người An Nam

bạn hay thù” đã thốt lên: “Chỉ riêng sức nặng và tính chất của các loại thuế

má, không kể đến các nguyên nhân khác, cũng đủ làm cho dân chúng phải

căm ghét chúng ta. Những cách thu thuế và giám sát lại làm cho họ căm giận

hơn nữa” [124, tr.585].

3.2. Phong trào từ năm 1897 đến năm 1918

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,dưới sự đàn áp dã man của thực dân

Pháp, phong trào Cần Vương ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ đã kết thúc, phong trào

đấu tranh vũ trang chống Pháp ở Nam Kỳ cũng liên tục gặp phải sự thất bại.

Thực dân Pháp bắt đầu tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-

1914), nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao làm giàu cho nước Pháp. Hệ

quả là kinh tế xã hội Việt Nam nói chung, Nam Kỳ nói riêng có sự chuyển

biến mạnh mẽ, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân ngày càng

sâu sắc, đời sống người nông dân ngày càng bị bần cùng hóa, phá sản.

Trong hoàn cảnh đó, tư tưởng dân chủ tư sản ảnh hưởng vào Việt Nam

thông qua Tân thư (Sách mới), Tân văn (Báo mới) củagiới trí thức Trung

Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng...Các sĩ phu yêu

nước Việt Nam cảm nhận được con đường đấu tranh vũ trang không còn phù

97

hợp nên đã đứng lên phát động nhân dân đấu tranh chống Pháp theo phương

thức mới. Do vậy, phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ đầu thế kỷ

XX, mang một sắc thái mới với các phong trào nổi bật như phong trào Đông

Du, cuộc vận động Minh Tân và phong trào Hội kín. Các phong trào đều

nhằm mục tiêu chung là đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập tự do cho đất

nước, hạnh phúc cho nhân dân, hướng đến xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa

theo khuynh hướng dân chủ tư sản với các hình thức đấu tranh vũ trang, tuyên

truyền giáo dục, vận động cải cách kinh tế xã hội.

3.2.1.Phong trào Đông Du

Phan Bội Châu(1867-1940) tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam,

sinh tại Nam Đàn, Nghệ An. Ông là người khởi xướng phong trào Đông Du,

đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập để trở về giúp đất

nước, là một trong những phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư

sản. Phan Bội Châu luôn coi trọng vấn đề vận động duy tân, cải cách kinh tế,

chính trị, văn hóa xã hội đồng thời ông cũng coi trọng chủ trương bạo động để

chống Pháp, giành độc lập tự do cho đất nước.

Tháng 5.1904, Phan Bội Châu cùng các chí sĩ như Tiểu La Nguyễn

Thành, Tăng Bạt Hổ, Đỗ Đăng Tuyển, Đặng Thái Thân, Đặng Tử Kính... lập

ra Hội Duy Tân tại Quảng Nam, suy tôn Cường Để (dòng trưởng của Nguyễn

Phúc Ánh) làm Hội chủ, tập hợp những người có tinh thần yêu nước với mục

đích: đánh đuổi Pháp, khôi phục lại độc lập cho đất nước, “thành lập nước

quân chủ lập hiến” [164, t6, tr.156]. Từ tên gọi của hội cho đến mục đích,

cương lĩnh đều thể hiện sự duy tân, mang sắc thái dân chủ tư sản.Lúc đầu,Hội

Duy Tân chủ trương xuất dương cầu viện sang Nhật Bản vì Nhật là nước

đồng văn đồng chủng, hơn nữa lại là nước tân tiến. Tuy nhiên tại Nhật,sau

cuộc gặp gỡ với Lương Khải Siêu đang hoạt động tại Nhật, Thủ tướng Nhật là

Khuyển Dưỡng Nghị, Bá tước Nhật là Đại Ôi Trọng Tín, “Phan Bội Châu

98

nhận ra sự ảo tưởng, thiếu thực tế của mình và đã kịp thời chuyển hướng chủ

trương từ “cầu viện” thành “cầu học”Phan Bội Châu đã chuyển và phong trào

Đông Du đưa thanh niên lưu học Nhật Bản được thai nghén từ đó” [165, tr.9].

Phong trào Đông Du được nhân dân cả nước hưởng ứng, bắt đầu từ Bắc

Kỳ và Trung Kỳ. Nam Kỳ được Hội Duy Tân lựa chọn vì theo Tiểu La

Nguyễn Thành : “Sự nghiệp cứu nước cần nhất là nhân tâm...có nhân tâm thì

có tiền bạc. Về tiền bạc thì Nam Kỳ là một tiềm năng”. Ở Nam Kỳ, dù phong

trào diễn ra muộn hơn nhưng lại nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ vìngười

dân Nam Kỳ vẫn tôn Vua,hợp với tư tưởng duy tân dobản chất của người

Nam Kỳtrọng nghĩa khinh tài, ưa mạo hiểm, yêu chuộng hòa bình,ghét áp bức

bất công, thích những cái mới, sẵn sàng ủng hộ cả vật chất lẫn tinh thần nếu đó

là việc nghĩa, ích nước lợi dân…Hơn nữa, khi ở Nhật Bản, năm 1907, do ý kiến

của Kỳ ngoại hầu Cường Để nên Phan Bội Châu đã viết “Ai cáo Nam Kỳ phụ

lão” làm thức tỉnh mạnh mẽ lòng yêu nước của nhân dân Nam Kỳ:

“Thương ôi! lục tỉnh Nam Kỳ,

Ngàn năm cơ nghiệp có gì hay không?

Mịt mù một dải non sông

Hỡi ai, ai có đem lòng ai chăng...”

[110, tr.31].

Ở Nam Kỳ, nhiều tầng lớp như đại điền chủ, nghiệp chủ, tư sản thành

thị, nhân sĩ...mặc dù bị áp bức bóc lột với mức độ khác nhau nhưng họ đều có

tinh thần yêu nước, mong muốn lật đổ ách thống trị của thực dân, đặc

biệtnhững đại điền chủ, nghiệp chủ nắm trong tay tài sản lớn, được coi là tầng

lớp bên trên của xã hội. Chính họ đã nhận thức được tầm quan trọng của việc

duy tân nên họ đã tham gia phong trào Đông Du rất tích cực cả về số lượng

học sinh du học và đóng góp tài chính cho hoạt động của phong trào.

Theo lời khuyên của Tiểu La Nguyễn Thành, Phan Bội Châu rời Quảng

Nam vào Nam Kỳ để vận động nhân dân đóng góp cả sức người và sức của

99

cho phong trào. Lúc này, Chiêu Nam Lầu của Nguyễn Thị Xuyên và Nguyễn

An Khương đang kinh doanh thuận lợi, Phan Bội Châu đã chọn Chiêu Nam

Lầu là nơi dừng chân quan trọng khi đến Nam Kỳ lục tỉnh. Theo tác giả Lý

Thị Mai trong nghiên cứu: “Phụ nữ Nam Kỳ trong phong trào Đông Du” khi

đến Chiêu Nam Lầu, Phan Bội Châu đã nhận được bốn sự tiếp sức: “Một là

được ân cần tiếp đãi rất chu đáo. Hai là được sự tán đồng và nhiệt liệt ủng hộ

chủ trương cứu nướctheo con đường mới. Ba là thông qua mối quan hệ xã hội

đã có trước đó của hai chị em Nguyễn Thị Xuyên và Nguyễn An Khương,

Phan BộiChâu mới có thể dễ dàng biết đến và tìm đến với những nhân vật rất

quan trọng như Trần Chánh Chiếu và Nguyễn Thần Hiến. Bốn là được cả hai

chị em bà Nguyễn Thị Xuyên hào hiệp dốc tiền của để ủng hộ phong trào

Đông Du”[98,tr.22]. Vì thế, Nguyễn An Khương được coi và là một trong ba

nhân vật quan trọng của phong trào Đông Du cùng với Nguyễn Thần Hiến và

Trần Chánh Chiếu.

Người tham gia sôi nổi và đóng góp tích cực cho phong trào Đông Du là Nguyễn Thần Hiến7, ông đã lập ra “Khuyến du học hội” năm 1907 nhằm

vận động, hỗ trợ, tổ chức xuất dương cho học sinh sang Nhật Bản học. “Ngay

đợt đầu có bảy người, sau đó có khoảng 75 người. Năm 1908, con số lên đến

hàng trăm người” [119, tr.2]. Nguyễn Thần Hiến đã tự nguyện đóng góp một

phần lớn tài sản của ông vào phong trào Đông Du, tổng cộng số tiền đóng góp

lên tới 20.000 đồng. “Vào năm 1908, số tiền ấy có giá trị bằng hàng trăm lạng

7Nguyễn Thần Hiến (1857-1914) (hay Hội đồng Hiến), “có tên húy là Nguyễn Như Khuê tự Phát Đình [160, tr.625], hiệu là Chương Chu. Ông đã lập ra quỹ “Khuyến du học hội”, ủng hộ 20.000 đồng cho quỹ du học sinh. Năm 1908, Nguyễn Thần Hiến bị chính quyền thực dân Pháp truy tìm khắp nơi, do vậy ông phải chạy trốn từ Cao Miên sang Xiêm, đến Quảng Châu đi Thượng Hải để gặp Cường Để và Phan Bội Châu. Trong những năm 1910 đến 1913, Nguyễn Thần Hiến cùng với những đồng chí của mình ở nước ngoài mua khí giới, gửi về trong nước để giúp nhân dân khởi nghĩa. Năm 1913, ông bị bắt tại Hồng Kông cùng một số người khác như Nguyễn Quang Diệu, Đinh Hữu Thuật...,đưa về giam ở Hà Nội. Nguyễn Thần Hiến bị tra tấn dã man, lâm bệnh nặng. Thực dân Pháp xử ông 10 năm tù lưu đày trong Hội đồng đề hình, đày đi xứ Cayenne (thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ), ông tuyệt thực và mất tại nhà lao Hỏa Lò, Hà Nội ngày 26.1.1914

vàng” [35, tr.507]. Ngoài ra, ông còn huy động đại điền chủ, nghiệp chủ, tiểu

100

tư sản ở Nam Kỳ đóng góp cho phong trào khoảng hơn 40.000 đồng. Con trai

của ông là Lâm Cần cũng đóng góp 2.000 đồng giúp đỡ phong trào.

Người có tầm quan trọng đối với phong trào Đông Du nữa là Trần Chánh Chiếu8. Trong vấn đề cổ động cho phong trào Đông Du, Trần Chánh

Chiếu cho phát hành sách tại Nam Kỳ, phổ biến những việc công khai cần

làm như: “phát triển trường dạy học/ phát triển công nghệ trong nước/ mở

mang trường quân sự dạy thủy quân, lục quân” [110, tr.39].Ông đã lập ra

“Minh Tân công nghệ xã”, mở khách sạn ở Mỹ Tho là nơi tập hợp học sinh,

đưa đón các nhà yêu nước hoạt động cách mạng.

Ngoài ra, còn nhiều nhân vật khác có đóng góp lớn cho phong trào

Đông Du như Huỳnh Đình Điển ở Gò Công, Bùi Chi Nhuận ở Vĩnh Long,

Trần Bá Lê, Lê Thị Phước, Lê Quang Hiển ở Cao Lãnh, Đặng Thúc Liêng ở

Sa Đéc...Trong Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu đã viết: “Thống kê

tiền bạc trong nước gửi ra, nhiều nhất là Nam Kỳ, lại thứ nữa là Trung Kỳ,

thứ nữa là Bắc Kỳ” [15, tr.103].

Chính vì điều kiện kinh tế nổi trội hơn các địa phương khác trong cả

nước nên Nam Kỳ không chỉ đóng góp tài chính nhiều nhất cho phong trào

Đông Du mà số học sinh du học ở Nam Kỳ cũng nhiều nhất cả nước, trong số

200 học sinh du học ở Nhật Bản thì Nam Kỳ đã có khoảng 100 học sinh, Bắc

Kỳ có 40 học sinh, Trung Kỳ có 50 học sinh.Sau khi học tiếng Nhật, học sinh

được đi học quân sự ở trường sĩ quan lục quân của Nhật Bản. Phần đông số học sinh du học là học ở trường Đông Á Đồng Văn9 như Lê Văn Mỹ, Lê Văn

Sao, Lưu Quang Bật, trường Đại học Võ Bị Shimbu Gakko như Huỳnh Văn 8Trần Chánh Chiếu (Gibert Chiếu) (1868-1919), hiệu là Quang Huy, bút danh Tố Hộ, Trần Nhựt Thăng, Thiên Trung...Với mong muốn làm kinh doanh, đồng thời vừa là để hỗ trợ cho hoạt động yêu nước nên Trần Chánh Chiếu đã lập Minh Tân công nghệ xã, Minh Tân khách sạn. Từ năm 1906-1908, ông đã vận động được 200.000 đồng ủng hộ phong trào Đông Du, vận động 100 du học sinh tham gia phong trào. Trần Chánh Chiếu bị thực dân Pháp nhiều lần bắt giam. Năm 1919, ông mất tại Sài Gòn. 9Trường Đông Á Đồng Văn: “buổi sáng dạy Nhựt văn (văn hóa Nhật Bản), Nhựt ngữ (ngôn ngữ Nhật Bản), các khoa phổ thông như toán, địa lý, lịch sử, hóa học, vật lý, luân lý...Buổi chiều chuyên dạy về lý thuyết quân sự, đặc biệt là phần thực tập quân sự” [110, tr.38].

101

Nghi ở Vĩnh Long. Không chỉ du học Nhật Bản, học sinh Nam Kỳ còn du học

ở Hồng Kông trong các trường như Trung Anh học đường, Trung Đức học

đường, trường La Mã như Lâm Tỷ, Lâm Cần (ở Tân Bình), Nguyễn Truyện,

Lý Liễu (ở Vĩnh Long), Đỗ Văn Y (ở Cao Lãnh)...Năm 1906, ở Hương Cảng,

Hội Duy Tân còn lập ra Việt Nam thương đoàn công hội do Phạm Văn Tâm

(người Nam Kỳ, biết sử dụng tiếng Anh, tiếng Pháp) làm hội trưởng với mục

đích “để góp tiền buôn bán kinh dịch, cốt luyện tập cho đồng bào ta ở Hương

Cảng biết việc đoàn thể công ích” [110, tr.36]. Việt Nam thương đoàn công

hội là một điểm trung chuyển liên lạctừ Việt Nam sang Nhật Bản. Ngoài ra,

còn có một hội được thành lập gọi là Công hiến hội “để chăm sóc du học sinh,

phụ trách những công việc liên quan đến kinh tài, kỷ luật, giao tế, điều hành

nội bộ” [110, tr.38]. Công hiến hội do Kỳ ngoại hầu Cường Để làm hội

trưởng.

Các du học sinh tham gia phong trào Đông Du ở Bắc Kỳ chủ yếu là con

cháu của gia đình có tinh thần chống Pháp, họ du học để mong cầu viện từ

bên ngoài. Còncác du học sinh tham gia phong trào Đông Du ở Nam Kỳ lại là

con cháu của những gia đình khá giả, thậm chí đã nhập làng Tây để mong cầu

học. Do vậy, từ cầu viện đến cầu học như một luồng sinh khí mới, một sự

phát triển mới của phong trào.

Phong trào Đông Du đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân

Nam Kỳ tham gia, vì thế khó tránh khỏi sự theo dõi của chính quyền thực

dân. “Người có công theo và thúc đẩy thực dân Pháp đàn áp phong trào không

ai khác hơn là Trần Bá Thọ (con của Tổng đốc Trần Bá Lộc)” [110, tr.40].

Sau khi tìm hiểu và phát hiện ra mục đích của phong trào, thực dân Pháp đã

kết hợp với Nhật đàn áp phong trào. Ngày 10.6.1907 tại Paris, Hiệp ước

Pháp-Nhật được kí kết. Theo Hiệp ước Pháp-Nhật, Chính phủ Nhật ra lệnh

giải tán Đông Á Đồng Văn thư viện, Công hiến hội, trục xuất du học sinh Việt

102

Nam khỏi Nhật Bản. Năm 1908,Nhật ra lệnh trục xuất Phan Bội Châu, Cường

Để và các yếu nhân của phong trào cùng du học sinh về nước. Trong thời gian

này, phong trào Đông Du lại gặp phải khó khăn hơn khi du học sinh Trần

Công Huân (ở Cái Bè, Mỹ Tho) vì cả tin đã gửi tài liệu bí mật cho một người

khác giữ hộ (trong khi người này lại đang bí mật làm tay sai cho Pháp). Vì

thế, thực dân Pháp ra lệnh bắt những người lãnh đạo phong trào Đông Du,

Trần Công Huân cùng một số du học sinh từ Nhật Bản về nước. Chính quyền

thực dân Pháp tìm mọi cách ép buộc phụ huynh của du học sinh Nam Kỳ gửi

thư gọi con em họ về nước. “Trong số học sinh Nam Kỳ, có nhiều người xin ở

lại nhưHoàng Hưng, Nguyễn Mạch Chi, Trần Văn Thư, Trần Văn An và

Hoàng Vĩ Hùng [164, t6, tr.159].Khuyến du học hội tan rã, Duy Tân Hội giải

tán, phong trào Đông Du ngừng hoạt động ở trong nước.

Tuy nhiên sau đó, phong trào Đông Du đã lan rộng phạm vi hoạt động

sang những người Việt kiều ở Thái Lan, Trung Quốc...nhưng cuối cùng đều

không đạt được kết quả như mong muốn.

3.2.2.Cuộc vận động Minh Tân

Phan Chu Trinh (1872-1926), hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán,

quê ởlàng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Ông là

nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động chính trị với tư tưởng dân chủ sớm nhất trong

lịch sử, nhưng cao hơn hết Phan Chu Trinh là một người yêu nước, thương

dân. Cha của Phan Chu Trinh tên là Phan Văn Bình giữ chức Quản cơ sơn

phòng, khi tham gia phong trào Cần Vương, Phan Văn Bình được giao nhiệm

vụ phụ trách quân lương, do bị hiểu lầm, bị hiềm khích nên năm 1887, Phan

Văn Bình bị sát hại. Mẹ của Phan Chu Trinh tên là Lê Thị Trung, sinh ra

trong gia đình vọng tộc ở huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Lúc còn nhỏ, Phan Chu Trinh đi theo cha học chữ Hán, học võ. Khi cha mất,

Phan Chu Trinh trở về quê ở với anh trai để đi học. Năm 1900, Phan Chu

103

Trinh đỗ cử nhân ở Thừa Thiên. Năm 1901, Phan Chu Trinh đỗ Phó bảng,

đồng khoa với Tiến sĩ Ngô Đức Kế và Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ

của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh [76, tr.12], sau đó được triều đình nhà

Nguyễn bổ làm Thừa biện trong Bộ Lễ. Tuy nhiên, làm quan trong một triều

đình hủ bại, Phan Chu Trinh muốn từ bỏ chốn quan trường nên năm 1904

Ông xin từ quan trở về quê sinh sống, giao du với những người có cùng chí

hướng như Trần Qúy Cáp (1870-1908), Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947)...

Cùng ảnh hưởng bởi Tân thư, Tân văn như Phan Bội Châu nhưng

phương châm của Phan Chu Trinh lại khác. Ông cho rằng: “Bất vọng ngoại,

vọng ngoại giả ngu”, “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” nghĩa là không nên dựa vào bên

ngoài, dựa vào bên ngoài là ngu, không nên bạo đông, bạo động là chết mà

phải chấp nhận tạm thời sự thống trị của thực dân Pháp để phát triển kinh tế,

văn hóa, giáo dục, từng bước phục hồi độc lập, tự do cho đất nước.Chính

Phan Chu Trinh là người đầu tiên kêu gọi dân quyền ở nước ta, sau khi về

nước (vào khoảng tháng 5,6 năm 1906) [78, tr.154], đến ngày 15.8.1906, Ông

viết thư gửi Toàn quyền Đông Dương Pôn Bô (Paul Beau), gọi là Đầu Pháp

chính phủ thư (Thư gửi Toàn quyền Đông Dương) trong đó nêu các nguyên

nhân khiến nước ta phải chịu ách đô hộ của ngoại bang chủ yếu là do sự hủ

bại của triều đình nhà Nguyễn và chính sách bao che, thiển cận, coi thường

người Việt Nam của chính phủ thuộc địa. Nhằm thay đổi hiện trạng của đất

nước, ông yêu cầu chính phủ Pháp phải thực hiện cải cách tại Việt Nam, làm

cho nước mạnh dân giàu [76, tr.13].Phan Chu Trinh nhấn mạnh: “Nếu Chính

phủ thật sẵn lòng đổi hết chính sách đi, kén chọn người hiền tài, trao quyền

bính cho, lấy lễ mà tiếp, lấy thành mà đãi, cùng nhau lo toan việc lấy lợi trừ

hại ở trong nước, mở đường sinh nhai cho dân nghèo, rộng đường ăn nói cho

thân sĩ, báo quán cho mở rộng để thông đạt tình dân, thưởng phát cho nghiêm

chỉnh để khuyên răn quan lại, còn đến những việc đổi pháp luật, bỏ khoa cử,

104

mở trường học, đặt tòa tu thư, dạy lớp sư phạm, cho đến học công thương,

học kỹ nghệ và các ngạch sưu thuế, đều cải lương dần dần, thế thì dân được

yên nghiệp làm ăn, sĩ thì vui lòng giúp việc cho Chính phủ” [123, tr.62].Ông

đã phát động phong trào DuyTân cùng với các đồng chí của mình như Trần

Qúy Cáp, Huỳnh Thúc Kháng với chủ trương: “Khai dân trí, chấn dân khí,

hậu dân sinh”. Bởi theo Ông muốn chống lại phong kiến Nam Triều thối nát,

xây dựng chế độ dân chủ ở nước ta thì nên thực hiện cải cách toàn diện. Khai

dân trínghĩa là chống lại lối học từ chương trích cú,bỏ chế độ khoa cử, xóa

những hủ tục lạc hậu, tiến hành học chữ Quốc ngữ, tích cực truyền bá các

kiến thức khoa học thiết thực. Do vậy, muốn khai dân trí thì nên mở trường

học, lấy báo chí, sách vở, thơ ca để mở rộng sự hiểu biết của người dân .Chấn

dân khí nghĩa là làm thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường của nhân dânđể họ

hiểu được quyền và nghĩa vụ của chính mình nhằm thoát khỏi ràng buộc của

chế độ phong kiến, xây dựng một xã hội dân chủ mà ở đó nhân dân giữ quyền

lực tối cao. Hậu dân sinh nghĩa làcải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần cho nhân dân. Mặc dù, mục tiêu hậu dân sinh là cuối cùng nhưng lại là

mục tiêu quan trọng nhất bởi khai dân trí, chấn dân khí cũng là để vị nhân

sinh. Rõ ràng, quan điểm “Hậu dân sinh” của Phan Chu Trinh đã làm thay đổi

căn bản nhận thức của cả giới sĩ phu và người dân Việt Nam lúc bấy giờ về

những yêu cầu (dân sinh) thiết thân của cuộc sống con người [76,tr.17].Phong

trào được nhân dân cả nước tích cực tham gia, ngay vị Vua trẻ mới lên ngôi ở

triều đình Huế cũng lấy tên là Duy Tân để hưởng ứng phong trào.

Tại Nam Kỳ, bắt nguồn từ tư tưởng Duy Tân của Phan Chu Trinh, Trần Chánh Chiếu10đã đổi tên thành Minh Tân vì kiêng phạm húy tên Vua Duy

10Trần Chánh Chiếu là người có pháp tịch (quốc tịch Pháp) nên ít bị thực dân Pháp theo dõi. Ông làm chủ bút báo Nông Cổ Mín Đàm năm 1906, chủ bút báo Lục Tỉnh Tân Văn năm 1907.

Tân, trong bài “Kinh húy hoán hiệu” đăng trên báo Nông Cổ Mín Đàm, Trần

105

Chánh Chiếu viết “Có tin hoàng đế mới tức vị lấy hiệu là Duy tân Hoàng đế

thì trong lòng tôi nghi ngại hoài, sợ lỗi cùng trời đất cho nên nay muốn cho

dứt chỗ hiềm nghi tôi xin kính húy, đổi chữ Duy tân công ty lại thành Minh

tân công ty” [161, tr.648]. Các sĩ phu trong phong trào Minh Tân đã lập Hội

Minh Tân với mục đích: “phát triển công thương nghiệp, mở mang trường

học, sửa đổi phong tục là những vấn đề tương quan nhau để đạt mục đích sau

cùng là đánh đổ thực dân Pháp” [110, tr.163].

Trong lĩnh vực kinh tế: Hội Minh Tân mở rộng phạm vi hoạt động khắp

các tỉnh Nam Kỳ với các lĩnh vực kinh doanh đa dạng như mở khách sạn, lập

xưởng, hội buôn, kinh doanh vận tải…Ở Sài Gòn mở Nam Trung khách sạn,

khai trương ngày 15.11.1907, kinh doanh 20 phòng nghỉ, Ở Mỹ Tho mở

Khách sạn Nam Kỳ (sau đổi thành Minh Tân khách sạn) kinh doanh phòng

nghỉ, buôn bán tạp hóa, biểu diễn ca nhạc, tư vấn pháp luật. Năm 1908, Trần Chánh Chiếu cùng 16 người11(đa số là giới điền chủ và công chức)lập công ty cổ phần Nam Kỳ Minh Tân công nghệ12(trụ sở tại Minh Tân khách sạn ở Mỹ

Tho) với số vốn là 1.000 đồng, “công ty nêu rõ kế hoạchhoạt động là lập lò

chỉ (máy kéo sợi bông vải), lò dệt, lò xà bông, thuộc da và làm đồ pha ly.

Đồng thời, trong điều lệ nêu rõ là công ty sẽ dạy học sinh làm những nghề nói

trên.” [110, tr.32]nhưng thực chất là cạnh tranh với tư bản Pháp và Hoa kiều,

phát triển tiểu thủ công nghiệp, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực theo hướng

nghiêng về thực nghiệm… “Tháng 7-1908, mua đất xong và công ty cho

người ra Bắc Kỳ để học cách thức làm hộp quẹt (que diêm) và mướn thầy thợ;

bạc thâu vô được gần 9.000 đồng. Tháng 9-1908, xà bông của công ty Minh

Tân lại tung ra thị trường, cạnh tranh rất hiệu quả với xà bông trên thị trường, 11Gồm: Nguyễn Viên Kiều, Đặng Khắc Trung, Trần Văn Bình, Trần Quang Lâm, Nguyễn Tử Thức, Trần Văn Bảo, Đinh Văn An, Phan Hữu Chánh, Lưu Đình Ngoạn, Mai Văn Hiển, Lê Văn Thiền, Lê Văn Chức, Lê Văn Cửu, Võ Đức Trang, Nguyễn Văn Còn và Huỳnh Đình Điển. 12Nam Kỳ Minh Tân công nghệ: Thành lập công khai theo luật lệ hiện hành vào ngày 1.6.1908, trong buổi họp tại văn phòng viên chưởng khế Aymard ở Sài Gòn với bản điều lệ gần giống như các công ty của người Pháp lúc bấy giờ [110, tr.32].

106

đồng thời, có thêm người đóng tiền mua cổ phần của công ty.” [110, tr.32].

Ngoài ra, còn có Chiêu Nam Lầu(Lầu mời gọi người nước Nam) chuyên kinh

doanh may mặc, ăn uống, cho thuê phòng trọ của hai chị em Nguyễn Thị

Xuyên và Nguyễn An Khương tại Sài Gòn. Chiêu Nam Lầu “gồm hai từng,

bên dưới bán cơm theo lối bình dân, từng trên bán cơm sang trọng hơn và

từng trên chót dành làm khách sạn” [110, tr.33].Tại thời điểm đó, việc cho

thuê phòng trọ, nhất là việc kinh doanh ăn uống hầu như chỉ do người Hoa

độc quyền, người Việt đánh giá không cao lĩnh vực này nên người Việt đã

không tham gia. Vì thế, Chiêu Nam Lầu có thể được xếp vào hàng tiên phong

trong lĩnh vực cho thuê phòng trọ, kinh doanh ăn uống. Thậm chí trước cả

Trần Chánh Chiếu với Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn, Minh Tân khách sạn

ở Mỹ Tho.

Để cạnh tranh thương mại trong kinh doanh, xuất khẩulúa gạovới tư

sản Pháp, tư sản Hoa kiều, tại Mỹ Tho các thành viên của Hội Minh Tân đã

lập ra Công ty cổ phần Minh Tân túc mễ tổng cuộc. Trong lời kêu gọi thành

lập công ty buôn lúa, đăng trên báo Lục Tỉnh Tân Văn, số 12, ra ngày

30.1.1908, đã nêu rõ mục đích thành lập Minh Tân túc mễ tổng cuộc như sau:

“Nghề buôn lúa Nam Kỳ mình ai ai cũng biết nghề thứ nhứt chẳng cần phải

nói dông dài, mà lâu nay người mình không làm đặng, là tại tánh chịu sút cửa

dưới. Còn bên phương Tây nhiều cái công ty hùn cho tới ngàn người, vốn

cũng đặng trăm muôn đồng, họ làm coi như chơi, bởi có chọn một người

thông thạo tôn làm thầy, kêu là General manager đặng bày biểu các việc, còn

muốn vốn cho nhiều nữa phải thế chưn cái sổ biên chung số bạc mình hùn

đặng bao nhiêu cho hãng, kêu là Trust-company, thì vay cũng đặng bằng số

đó, bây giờ thì người Trung Quốc cũng bắt chước rồi đó. Còn người xứ mình

chẳng phải là cây đá tượng hình nên không làm chi hết, nay chúng tôi quyết

107

lựa người đồng chí trong bọn đồng bào mình mà kêu gọi, ông nào, bà nào biết

việc duy tân”.

Ngoài ra, còn có nhiều hội buôn khác được lập ra ở Nam Kỳ với mục

đích “lập sở nhà máy xay lúa, lập hãng ăn lúa gạo (để trực tiếp xuất khẩu) hoặc là lựa con dân đứa nào thông thái thì cho nó qua bên Tây học bác vật”13.

Đó là các hội buôn Nam Kỳ thương cuộc ở Mỹ Tho của Trần Văn Thạnh, Tân

hóa thương hội ở Chợ Gạo, Tiền Giang của Phan Văn Đạt, Minh Tân thương

cuộc ở chợ Tầm Vu (Tân An),...Nhiều hội buôn, kinh doanh về thuốc, phòng

nghỉ, cắt tóc, xem bói, bốc thuốc nam...như Y Dược công ty của J.B Xuân, Tế

Nam khách sạn, Nam Đồng Hưng ở Rạch Giá, Nam Hòa ở Bến Tre, Tân

Thành, Đông Thành ở Sa Đéc...

Từ những khẩu hiệu mà Hội Minh Tân đưa ra như “Tẩy chay Chệt,

Chà”, “Đưa Quan Công về Tầu, Phật về Ấn Độ”...đã có nhiều hội buôn, công

ty, cơ sở kinh doanh ở Nam Kỳ xuất hiện do người Việt nắm giữ với các lĩnh

vực ngày càng đa dạng, phong phú, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất kinh doanh

lúa gạo như Minh Tân mễ cốc công cuộc, kinh doanh vận tải như Ước Lập

hỏa thuyền, kinh doanh khách sạn và ăn uống như Chiêu Nam Lầu, Minh Tân

khách sạn...thậm chí lần đầu tiên xuất hiện lĩnh vực kinh doanh về kế toán

thuế, siêu thị như Nam Kỳ thương cuộc...Chỉ trong một thời gian ngắn, kinh

tế của người Nam Kỳ đã tiến bộ, hạn chế bị lệ thuộc vào ngoại bang, dần theo

kịp kinh tế của các nước khác, nâng cao tiềm lực kinh tế,tài chính, sức cạnh

tranh với tư sản Ấn kiều, tư sản Hoa kiều, khẳng định vị trí vai trò của tư sản

Nam Kỳ nói riêng, tư sản Việt Nam nói chung. Đồng thời, thể hiện ý chí của

các nhà Duy Tân ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX.

Trong lĩnh vực giáo dục: Cuộc vận động Minh Tân đề cao việc học và

13Trích báo Lục Tỉnh Tân Văn, số 12.

sử dụng chữ Quốc ngữ, chủ trương bỏ bút lông, sử dụng bút sắt, bút chì, tập

108

ngồi bàn học, đề cao vấn đề thực nghiệp, chống lối học từ chương, bỏ khoa

cử...Để khuyến khích người dân Nam Kỳ sử dụng chữ Quốc ngữ, Trần Chánh

Chiếu đã mở cuộc thi “Quốc âm thí cuộc” viết truyện bằng chữ Quốc ngữ.

Trên báo Nông Cổ Mín Đàm ra ngày 6.11.1906, Trần Chánh Chiếu đã treo

thưởng cho ai: “Đậu đầu thì thưởng 100 đồng. Đậu thứ nhì thì thưởng 50

đồng. Đậu thứ ba thì thưởng 1 năm nhựt trình”. Nếu Bắc Kỳ có trường Đông

Kinh nghĩa thục thì Nam Kỳ có trường Đồng Văn học quán (1907) do các thầy

giáo ở Mỹ Đông Trung (Cai Lậy) thành lập để tuyên truyền cho công cuộc Minh

Tân. Trường dạy theo hướng cải cách, bài trừ lối học từ chương, vận động thực

nghiệp, giáo dục tinh thần yêu nước, học chữ Quốc ngữ, học các môn khoa học

tự nhiên, khoa học xã hội…Ngoài ra, để tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống,

các thầy giáo đã lập ra Hội tương tế giáo viên (ở Gò Công).

Như vậy, đầu thế kỷ XX, trong hoàn cảnh là một nước thuộc địa nửa

phong kiến, tư tưởng khai dân trí của Phan Chu Trinh là một cuộc canh tân

thực sự “làm cho dân tộc thay đổi tư duy cũ kĩ để vươn lên tầm nhận thức mới

cao hơn” [185, tr.115].

Trong lĩnh vực xã hội: Phong trào Minh Tân vận động nhân dân Nam

Kỳ thực hiện nếp sống mới để nâng cao đời sống nhân dân như từ bỏ rượu

chè cờ bạc và các hủ tục mê tín dị đoan, ma chay, cưới hỏi, xây dựng lối sống

lành mạnh, tiến bộ như cắt tóc ngắn, mặc âu phục kiểu Âu Châu, đeo cà vạt,

không nhuộm răng, để răng trắng…Phong trào được nhân dân Nam Kỳ hưởng

ứng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào cắt tóc ngắn. Các tầng lớp thanh niên từ

nông thôn đến thành thị nhiệt tình ủng hộ “Phong trào mạnh đến mức khi thầy

giáo Nguyễn Thuận Phương hô hào cúp tóc qua bài “Duy tân tam sự” (đăng

trên báo Nông Cổ Mín Đàm ngày 30.7.1907), Trần Chánh Chiếu phải ghi chú

phía dưới: xin thầy Nguyễn Thuận Phương chầm chậm đợi bọn Duy tân ta lập

nhà hàng bán kéo, nón, dao cạo trước đã, vì nếu mà hùn nhau cúp tóc một

109

lượt thì làm sao có đủ nón đến ba triệu mà đội” [32, tr.108]. Để hưởng ứng

cho phong trào, Phan Chu Trinh đã đi tiên phong trong việc từ bỏ khăn đóng,

áo dài, mặc âu phục kiểu Tây, mặc áo ngắn...Rõ ràng, cuộc vận động Minh

Tân ở Nam Kỳ thực sự là một nét đột phá, bởi người dân Nam Kỳ vẫn luôn

duy trì yếu tố truyền thống, họ rất mến chúa tôn Vua.

Nếu Bắc Kỳ mạnh về việc in ấn văn thơ tuyên truyền yêu nước, cổ

động Duy Tân, Trung Kỳ mạnh về thực hiện đời sống mới thì Nam Kỳ lại

mạnh về công tác xuất bản báo bằng chữ quốc ngữ.Cuộc vận động Minh Tân ở Nam Kỳ gắn với hai tờ báo quốc ngữ: Nông Cổ Mín Đàm14và Lục Tỉnh Tân Văn15với các nhân vật quan trọng như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt

(1869-1947), Lương Khắc Ninh (1862-1943), Nguyễn An Khương (1860-

1931)...Từ năm 1887, vùng đất Nam Kỳ được coi là một hạt của nước Pháp ở

Viễn Đông nên người dân Nam Kỳ cũng được hưởng những quyền lợi như

công dân nước Pháp, có sự nới lỏng về báo chí, ngôn luận, bộ máy hành

chính. Do vậy, theo chế độ thuộc địa nên Nam Kỳ được áp dụng một số quy

định theo luật lệ của Pháp tại chính quốc như nếu là báo tiếng Pháp, công dân

Phápkhông cần xin phép chính quyền mà chỉ cần đăng ký là ra báo được, còn

với báo tiếng Việt, việc ra báo tư nhân lại dễ dàng nhất trong cả nước, chính

vì thế các nhà hoạt động trong phong trào Minh Tân đã sớm vận dụng những

thuận lợi đó để dùng báo chí làm công cụ hỗ trợ đắc lực cho phong trào, đây

chính là nét độc đáo của cuộc vận động Minh Tân ở Nam Kỳ so với phong

trào Duy Tân trong cả nước.

Mặc dù, báo Nông Cổ Mín Đàm do một thương gia và chủ đồn điền

14Nông Cổ Mín Đàm: nghĩa là uống trà bàn chuyện làm ruộng (nông nghiệp) và đi buôn (thương nghiệp), có tên tiếng Pháp là Causeries sur I’agriculture et le commerce. Nông Cổ Mín Đàm được coi là tờ báo kinh tế đầu tiên bằng chữ quốc ngữ. Số ra đầu tiên của báo là ngày 1.8.1901. 15Lục Tỉnh Tân Văn: là một trong những tờ báo không Công giáo đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ. Số ra đầu tiên ngày 15.1.1907.

người Pháp, đồng thời cũng là hội viên Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ là Paul

110

Canavaggio làm chủ, Lục Tỉnh Tân Văn do Pierre Jeantet làm chủ xuất bản

nhưng chủ bút, tổ chức nội dung của báo lại là người Việt. Theo tác giả Đỗ

Quang Hưng: Nông Cổ Mín Đàm mang dáng dấp một tờ báo kinh tế. Tác giả

Sơn Nam cho rằng “Lục Tỉnh Tân Văn công khai cổ xúy cho phong trào Minh

Tân (Duy Tân), kêu gọi đồng bào nên tự trách mình, bỏ những thói ăn nết ở

không hợp thời. Về mặt chính trị, đôi khi công kích thẳng chế độ thuộc địa.

Về kinh tế, kêu gọi đồng bào giành quyền lợi từ tay giới Huê kiều (Hoa kiều)

và Ấn kiều: hai giới này đã khéo cấu kết và được thực dân Pháp yểm trợ nên

nắm độc quyền về mua bán và các dịch vụ đấu thầu hoa chi chợ, bến đò.

Nhơn sĩ ở các tỉnh gởi bài đến, đưa ra nhiều sáng kiến táo bạo: bỏ thói ăn trầu,

giảm bớt nghi thức khi có đám tang, chống hút á phiện, cờ bạc, khuyến khích

thể dục thể thao. Nhiều bài kêu gọi sự đoàn kết của đồng bào, chống quan lại

tham nhũng” [110, tr.34]. Nhà nghiên cứuTrần Văn Giàu cho rằng vai trò của

Lục Tỉnh Tân Văn và Trần Chánh Chiếu là vô cùng lớn: “Lục tỉnh tân văn lại

là tờ báo đáng chú ý nhất, nhất là khi Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Ông

Chiếu là người cầm đầu phong trào Minh Tân. Chính ông nói rằng lập báo ra

là để nhằm “biến cải Nam nhân”, khuyến khích người An Nam lo việc thương

mại, học nghề nghiệp mà tranh đua quyền lợi với Chệt (Hoa kiều) với Chà

(người Java). Ông Chiếu chẳng những kêu gọi mở cuộc Minh Tân, mà bản

thân ông cũng lập hãng, kêu hùn, đồng thời ông cũng kêu gọi mọi người góp

sức xây dựng nền quốc văn. Lục tỉnh tân văn, thời Trần Chánh Chiếu có hoạt

động thật sự trên mặt trận văn chương và chính trị” [50, tr.252]. Tác giả Trịnh

Vân Thanh nhận xét: “Trần Chánh Chiếu vốn là một người yêu nước, có tinh

thần hy sinh cao quý. Đã có lần ông qua tận Hương Cảng gặp nhà cách mạng

Phan Bội Châu hội đàm về việc đại sự quốc gia. Chính ông đã đem bản hiệu

triệu của cụ Phan về Việt Nam phổ biến trong dân chúng. Ông đã cùng với

bạn đồng chí hướng lập Minh Tân công nghệ xã, Minh Tân khách sạn...để

111

dùng làm trụ sở liên lạc với các nhà ái quốc, tránh sự dòm ngó của mật thám

Pháp. Để kiến tạo xứ sở và canh tân guồng máy cai trị, ông thường viết bài

công kích chính sách cai trị lỗi thời của Pháp. Ông lại hô hào cổ võ việc

khuếch trương kinh tế và dùng hàng nội hóa để chấn hưng nền kinh tế quốc

gia. Ông cũng chủ trương một nền văn hóa tân tiến hợp với cao trào văn minh

phương Tây” [158, tr.1360]. Sử gia David George Marr đánh giá Trần Chánh

Chiếu là người: “Tiên phong trong cả hai hoạt động: mở các cơ sở kinh tài để

hỗ trợ học sinh đi du học hoặc những hoạt động bí mật và làm báo thể hiện

quan điểm dân tộc” [191, tr.144].

Cả hai tờ báo này đều hướng về mục đích canh tân đất nước về kinh tế

văn hóa xã hội,nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần tự lực tự cường, chống

Pháp, chống phong kiến, thậm chí đề cập đến quyền con người như Nông Cổ

Mín Đàm. Những ángthơ văn không chỉ nhằm mục đích tuyên truyền cho

công cuộc duy tân mà còn trở thành những tác phẩm có giá trị nghệ thuật văn

chương lớn với các tác giả nổi bật như Hồ Tá Bang, Trần Tuấn Khải...Bài thơ

“Cắt tóc” (tương truyền của tác giả Nguyễn Quyền) là bài thơ hay cổ động

cho công cuộc Minh Tân, thể hiện lòng yêu nước thương dân của tác giả:

“Phen này cắt tóc đi tu,

Tụng kinh Độc Lập, ở chùa Duy Tân.

Đêm ngày khấn vái chuyên cần,

Cầu cho ích nước lợi dân mới là.

Cốt tu sao cho mở trí dân nhà,

Tu sao độ được nước ta phú cường.

Lòng thành thắp một tuần nhang,

Nam mô Phật tổ Hồng Bàng chứng minh...”

[110, tr.17]

112

Năm 1910, cuộc vận động Minh Tân suy yếu dần do thực dân Pháp đàn

áp. Thực dân Pháp đã khám xét Minh Tânkhách sạn,Trần Chánh Chiếu và “91

người khác bị bắt” [110, tr.167],một số quan lại cũng bị bãi chứcvì tội liên

can như Nguyễn Háo Văn “bị cách chức vào ngày 19-9-1909 (ông là thơ ký

(thư ký) hạng nhất). Vài ba ngày sau,thực dân cũng cách chức các ông tri phủ

Nguyễn Công Luận ở Sa Đéc, ông Huỳnh Công Bềntri phủ Cai Lậy, ông

Phạm Văn Bảy tri huyện ở chợ Mỹ Tho bị can đồng một tội” [106, tr.312],

những người còn lại vẫn tiếp tục các hoạt động yêu nước. Khi bị chính quyền

thực dân Pháp đưa về Mỹ Tho quản thúc năm 1910, Phan Chu Trinh đã bí mật

tiếp xúc với Nguyễn Sinh Sắc cùng những nhà yêu nước tại địa phương để

tuyên truyền, động viên lòng yêu nước trong nhân dân. Dù thất bại nhưng

những đóng góp của Phan Chu Trinhđối với phong trào giải phóng dân tộc

đầu thế kỷ XX là vô cùng to lớn. Ông chính là người đầu tiên có tư tưởng dân

chủ tiên tiến nhất trong các sĩ phu yêu nước của Việt Nam đầu thế kỷ XX, là

người đầu tiên đề xướng và truyền bá tư tưởng dân chủ, dân quyền ở Việt

Nam [190, tr.107].

Nhìn chung, xuất phát từvùng đất Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa với đặc

trưng con người: thích cái mới, ưa mạo hiểm, dám làm dám chịu...nên cuộc

vận động Minh Tân như luồng gió mới, xua đi tư tưởng phong kiến “dĩ nông

vi bản”, “sĩ, nông, công, thương” thay vào đó là tinh thần đổi mới về kinh tế,

văn hóa giáo dục. Người Nam Kỳ đã sớm biết tận dụng báo chí là phương tiện

hỗ trợ cho cuộc vận động. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, báo chí đã

được sử dụng như một công cụ để đấu tranh chống chính quyền thuộc địa.

Cuộc vận động mang tính đột phá, là một trong những phong trào yêu nước

theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Từ đây, người dân Nam Kỳ đã biết đến

kinh doanh, phát triển giáo dục, mở mang tri thức...đưa kinh tế xã hội Nam

Kỳ bước sang giai đoạn phát triển mới.

113

Cuộc vận động Minh Tân diễn ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội

Nam Kỳ.Đây cũng là điểm giống nhau của phong trào Minh Tân ở Nam Kỳ

so với phong trào Duy Tân ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ: chống lại tư tưởng Nho

giáo trên tất cả các phương diện, hướng đến tư tưởng dân chủ tư sản với mong

muốn độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân. Đời sống văn hóa xã hội khởi sắc,

nền kinh tế hàng hóa sớm được manh nha, Nam Kỳ trở thành trung tâm buôn

bán lúa gạo. Hoạt động chấn hưng thực nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh,

hình thành thành phần kinh tế dân tộc non trẻ, thể hiện tính ưu việt so với

kinh tế phong kiến, hình thành nên tầng lớp doanh nhân Việt...tạo tiền đề cho

các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản tiếp tục phát triển ở Nam

Kỳ trong những năm tiếp theo.

3.2.3.Phong trào Hội kín

Cuối thế kỷ XIX, Nam Kỳ có mức sản xuất nông nghiệp phát triển,

thương cảng Sài Gòn hoạt động nhộn nhịp, thực dân Pháp huy động lực lượng

cho đào thêm kênh để tăng diện tích đất trồng trọt đồng thời giúp cho việc chở

lúa gạo về Sài Gòn được thuận lợi hơn. Lúc đó, một bộ phận người Trung

Hoa đã đến Nam Kỳ để buôn bán, làm trung gian xuất khẩu lúa gạo ở khắp

các vùng từ miền quê đến thành thị, trở thành một hệ thống. Một bộ phận

khác những người Hoa Kiều rời quê hương để tránh nạn của quân Mãn

Thanh, họ là những người thuộc nhóm “Bài Thanh phục Minh”.

Khi đến sinh sống tại vùng đất Nam Kỳ, người Hoa đều mang theo

những yếu tố tôn giáo tín ngưỡng riêng của họ, họ luôn có ý thức bảo vệ tôn

giáo tín ngưỡng riêng, tránh bị hòa tan vào văn hóa bản địa. Theo tác giả

Nguyễn Thanh Tiến: “Ngoài văn hóa, tín ngưỡng, di dân người Hoa còn du

nhập vào nước ta các tổ chức mang tính chất tôn giáo hoặc chính trị. Trong

đó, đáng kể nhất là các Hội kín Thiên địa hội” [171, tr.24].Mặc dù ở Trung

Hoa, họ đều tham gia các hội đoàn khác nhau nhưng khi đến vùng đất Nam

114

Kỳ sinh sống, làm ăn buôn bán, phần lớn người Hoa đều gia nhậpHội kín

Thiên địa hội vì tính chất xã hội và tôn giáo. Những người Hoa tham gia

Thiên địa hội luôn giúp đỡ nhau rất nhiệt tình, bình đẳng, trọng tình nghĩa.

Như vậy,Hội kín Thiên địa hội lúc đầu là của người Trung Hoa, “vừa mang

tính chất tương tế vừa mang tính chính trị” [183, tr.126].

Theo nhiều tài liệu, Hội kín Thiên Địa Hội được thành lập năm 1734

thời Vua Ung Chính. Trước đó có quan cai trị ở Phước Châu (Phước Kiến) là

Đặng Thắng có lòng tham, đến chùa Thiếu Lâm xin ngọc quý nhưng các hòa

thượng không cho nên sàm tấu lên Vua. Chùa bị phóng hỏa, “hơn 100 nhà sư

bị thiệt mạng” [110, tr.92], các nhà sư thoát nạn đã chạy trốn.Đến Cao Khê,

họ gặp một ngôi chùa, thấy cái lư ở dưới suối ghi dòng chữ “Phản Thanh phục

Minh”, họ vào chùa gặp năm người buôn bán ngựa, sau đókết nghĩa anh em

tại miếu Cao Khê. Sau đó,họ cùng nhau đến Quảng Châu chiêu mộ anh hùng

trong công cuộc “Phản Thanh phục Minh”, đến Bạch Hạc Lâm gặp nhà sư

Vạn Vân Long. Vạn Vân Long cùng họ cắt máu ăn thề sinh tử có nhau. Trong

trận giao chiến với quân nhà Thanh, Vạn Vân Long tử trận, những người còn

sống chia làm 5 phòng, cai quản 5 đường.

Dần dần Hội kín Thiên địa hội phát triển sang cả người Việt nhưng với

mục đích riêng “đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp, tái lập chế độ quân

chủ” [110, tr.90], hoạt động hạn chế, bí mật, kỷ luật chặt chẽ. Bởi vì trong

những năm cuối thế kỷ XIX, các hình thức đấu tranh chống Pháp đều lần lượt

thất bại do thực dân Pháp đàn áp, người dân Nam Kỳ mong muốn có một hình

thức mới để họ thể hiện lòng yêu nước, giữ vững ý chí đấu tranh kiên cường,

tiến tới đánh đổ thực dân Pháp và tay sai giành độc lập. Trong hoàn cảnh đó,

người dân Nam Kỳ đã tìm đến với Hội kín. Mặc dù, các tổ chức của người

Hoa thường hoạt động khép kín nhưng họ để người Việt tham gia vào Hội kín

vì ngườiViệt và người Hoa lúc này đều bị thực dân Pháp thống trị nên giữa họ

115

có sự đồng cảm chung một kẻ thù, hơn nữa sự gia nhập của người Việt vào

Hội kín của người Hoa sẽ giúp người Hoa mở rộng được cơ sở, lực lượng trở

nên đông đảo, hoạt động thuận lợi hơn. Dần dần người Nam Kỳ đã tách khỏi

các Hội kín và thành lập các Hội kín riêng của người Việt, mô phỏng theo tổ

chức Hội kín Thiên Địa Hội của người Trung Hoa, nhưng có thay đổi cho phù

hợp với người Nam Kỳ như khẩu hiệu của người Trung Hoa là “Phản Thanh

phục Minh” thành “Phản Pháp phục Nam”, khẩu hiệu này “Cho thấy tính chất

dân tộc của các Hội kín ở Nam Kỳ. Nó chứng tỏ người dân nơi đây lập Hội

kín là nhằm tập hợp lực lượng để đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp”

[171, tr.31]. Trong lời thề của các Hội kín đều thể hiện tư tưởng yêu nước, ví

như lời thề của Hội kín Duy Tân: “Vì lợi ích của tổ quốc giúp Vua lật đổ

người Pháp, phục hồi nước Nam”, lời thề của Hội kín Phục Hưng: “Người

Pháp chiếm nước ta bao nhiêu năm nay đã gây cho chúng ta nhiều tai họa.

Chúng đàn áp dân ta và cả Vua ta...Cách thức cai trị và hình phạt ngày càng

khắc nghiệt. Phong tục ngày càng đồi bại. Trời đất đều đau lòng nhìn thấy

nhân dân phải khốn cùng như thế. Vậy nên ngày nay chúng ta thề cùng nhau

một lòng cứu nước cứu dân” [171, tr.44].

Thành phần tham gia Hội kín gồm nông dân, dân nghèo thành thị, dân

vô nghề nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công, phu khuân vác, công nhân thất

nghiệp, những người làm nghề ma thuật như thầy tu, thầy tướng số, phù thủy,

thầy ngải, thầy bói. Tuy nhiên, thành phần chủ yếu tham gia Hội kín là nông

dân, dân nghèo thành thị, dân vô nghề nghiệp, trong 111 người tham gia cuộc

khởi nghĩa năm 1913ở Chợ Lớn có “68 người là nông dân, 7 là thương gia, 23

người làm công nhựt (cu-li, làm mướn), 13 người vô nghề nghiệp” [110,

tr.144].Chính thành phần tham gia cho chúng ta thấy hội kín mang tính chất

tôn giáo thần bí. Điều này giải thích tại sao quần chúng đi theo rất đông và

trung thành.

116

Cuối thế kỷ XIX, Nam Kỳ đã có nhiều tổ chức yêu nước chống Pháp

được gọi chung là Hội kín như“các hội Nghĩa Hòa, Phục Hưng,Thái Bình, Ái

Quốc...” [144, tr.561]. Mặc dù, tất cả các hội đều mang màu sắc tôn giáo

nhưng các hội ra đời trước hết xuất phát từ nhu cầu đoàn kết, tự bảo vệ nhau

của những người dân nghèo khổ bị áp bức bóc lột. Họ cảm thấy cần phải

tương trợ, giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn, dần dần họ tự mình tổ

chức thành nhiều nhóm, tiến hành đấu tranh chống Pháp giành lại độc lập tự

do, bảo vệ cuộc sống của chính họ. Những nghĩa quân sống sót trong khởi

nghĩa của Trương Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung

Trực...nuôi chí cứu nước, trả thù nhà, tìm đến Thiên Địa hội như nhà văn Sơn

Nam viết: “Một nẻo đường khá độc đáo để cho phong trào kháng Pháp ở Nam

Kỳ lục tỉnh phát triển và tìm sinh lựclà Thiên Địa Hội” [105, tr.90]. Hội kín

có mặt ở khắp các tỉnh thành như Sài Gòn, Chợ Lớn, Trà Vinh, Bến Tre, Mỹ

Tho, Cần Thơ, Bạc Liêu, Sóc Trăng… với những tên gọi khác nhau nên thực

dân Pháp phải đối phó rất vất vả với những hoạt động của Hội kín. Chính

quyền thuộc địa Nam Kỳluôn theo dõi, giám sát mọi hoạt động của Hội kín.

Những người trong Hội kín thường xuyên bị bắt giữ, tra hỏi, đàn áp, tra

tấn...với những biện pháp trừng phạt rất nặng, thậm chí thực dân Pháp chỉ cần

bắt được trong người ai có tài liệu, có liên quan đến Hội kín, chưa cần bắt

được hoạt động của các Hội kín, là có quyền bắt giam, đàn áp ngay. Hầu hết

các hoạt động chống Pháp của Hội kín đều bị đàn áp đẫmmáu. Mặc dù vậy,

phong tràoHội kín vẫn ngày càng tồn tại, hoạt động, phát triển ngày càng

mạnh, ở khắp mọi nơi, nhất là ở các tỉnh miền Đông Nam Kỳ“thường nổ ra

các vụ khủng bố và ám sát cá nhân những tên tay sai của Pháp”[144, tr.561].

Tuy nhiên, về tổ chức lại độc lập, phân tán, ngăn cách, không có một hệ thống

nào chỉ huy chung, các nhóm đều có kí hiệu riêng, kỷ luật riêng, địa bàn hoạt

động khác nhau để tránh xung đột. Vì thế, những “người trong hội không

117

nhận ra nhau, thanh toán lẫn nhau, khó khởi xướng đồng loạt” [110, tr.150].

Điều này làm hạn chế sức mạnh đấu tranh chống Pháp. Mặc dù, cũng có

những thuận lợi như nếu bị bắt, chỉ một nhóm bị ảnh hưởng, không ảnh

hưởng đến nhóm khác.

Hoạt động của Hội kín mang tính chất tôn giáo thần bí duy tâm như bùa

chú, thầy bói, pháp sư, uống máu ăn thề, sử dụng tiếng lóng, dùng mật hiệu

riêng để liên lạc, đeo bùa ngải...Chính yếu tố tôn giáo thần bí này lại phù hợp

với hoàn cảnh của người dân Nam Kỳ lúc đó, họ cần có một tổ chức vừa là

nơi giúp đỡ tương trợ, bảo vệ, an ủi họ trong cuộc sống, lại vừa là nơi họ được

mưu sự làm nên việc lớn là chống Pháp, tay sai. Vì thế, Hội kín đã thu hút

được đông đảo nhân dân Nam Kỳ tham gia, đặc biệt là dân nghèo thành thị,

nông dân phiêu dạt, công nhân, thầy bói, thầy ngải, thầy phù thủy…

Mỗi Hội kín có số lượng người tham gia khác nhau. Hội ít có khoảng

mấy chục người, Hội đông có đến 300 người.Về mục tiêu, cách thức tổ chức

nghi lễ kết nạp hội viên...của các Hội kín tương tự nhau.Do hoàn cảnh bị thực

dân Pháp kiểm soát, đàn áp dữ dội nên để giữ bí mật, lễ kết nạp hội viên được

tiến hành rất đơn giản, trụ sở thường là “ngôi nhà kín đáo phía trong buồng,

hoặc là căn chòi giữa đồng”[110, tr.145]. Mặt khác, tên của Hội kín thay đổi

theo từng địa phương. Để tránh sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền thực

dân Pháp, người trong Hội kín không bao giờ tự xưng mình là Hội kín. Hội

hoạt động tại thành thị, thậm chí ngay tại vùng đồng ruộng, miệt vườn. Trụ sở

thường là ngôi nhà kín đáo ở thành phố, căn chòi giữa đồng, chùa, miếu.

Người trong Hội thường đặt là họ Vạn, họ Châu trước bí danh. Về chức vụ

thường là Đại ca, Nhị ca, Tam ca, Tiên sanh, Tiên phong, Hồng côn, Tài phú,

Thảo hài...

Hội kín nặng về đấu tranh quân sự. Về nguồn tài chính, thông thường là

do sự đóng góp của các hội viên và các hoạt động quyên góp là chủ yếu. Hội

118

viên nào đóng góp nhiều tiền, hội viên đó sẽ giữ chức vụ cao khi phục quốc.

Điều đó có nghĩa là chức vụ của hội viên sẽ phụ thuộc vào việc đóng góp

nhiều hay ít.Tuy nhiên, Hội kíncũng có nhiều điểm khác nhau “Mỗi hội kín

đều có hội chủ (gọi là ông chủ). Hội chia ra từng nhóm chỉ khoảng vài chục

người gọi là “kèo”. Giữa các “kèo” không được biết nhau, khi cần gặp nhau

hội viên phải dùng ngôn ngữ và dấu hiệu do hội chủ quy định” [144, tr.668].

Do vậy, những người tham gia Hội kín liên lạc với nhau bằng dấu hiệu riêng,

tùy địa phương, ví như nếu hội viên mang theo dù, các hội viên sẽ nhận ra

nhau bằng cách xem dù để ở vị trí nào rồi sẽ biết việc mình cần làm:

“Dù mang bên tả, đảng viên.

Đi việc cơ mật, nói riêng chủ nhà”.

“Quần xăng ống thấp ống cao.

Bộ đi vội vã có tàu của Tây”.

Hoặc để nhận ra thành viên của hội, Hội kín Thiên Địa Hội Sơn ở Gia

Định dùng mật hiệu: “Bước qua cửa vào nhà thì chân trái đi trước. Có ai đến

xin lửa thì người cho lửa phải đưa điếu thuốc đang cháy dở ra, nhưng đầu

tthuốc đang cháy phải quay về phía mình, đầu thuốc kia phải quay về phía

người xin lửa” [132, t2, tr.18].

Trong những năm đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước theo huynh

hướng dân chủ tư sản lần lượt thất bại do thực dân Pháp đàn áp, người dân

Nam Kỳ đã tìm đến với các tổ chức Hội kín ngày càng đông, do vậy số lượng

các Hội kín ngày càng nhiều:“Trong những năm chiến tranh có từ 70 đến 80

hội kín” [144, tr.667]. Giai đoạn này, Hội kín phát triển mạnh mẽ và mang sắc

16Trong thời gian ở Nhật Bản, khi cần vận động tài chính ở Nam Kỳ, Phan Bội Châu đã cử Cường Để về nước. Nhờ sự giúp đỡ của các Hội kín mà việc vận động tài chính đạt được kết quả cao.

thái dân tộc rõ nét hơn so với những năm cuối thế kỷ XIX.Tất cả các Hội đều suy tôn Phan Xích Long, Cường Để làm Vua16với các Hội kín tiêu biểu như:

119

Năm 1905,Trần Văn Điền (hay còn gọi là Nguyên soái Điền) lập Hội

Đức Lâm ở Cai Lậy (Cái Bè, Mỹ Tho). Trần Văn Chệt và Lê Văn Phụng lập

Hội kín ở Mỹ Qúi Tây. Nguyễn Văn Nhơn lập Hội kín ở Mỹ Hậu (Cai Lậy).

Năm 1910, Huỳnh Công Y, Trần Văn Phong lập Hội Nghĩa Hòa ở làng

Thới Sơn (Châu Thành, Mỹ Tho). Võ Văn Quới lập Hội Nghĩa Hòa ở Mỹ Lợi

(Cái Bè).

Năm 1911, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Hữu Trí, Phan Phát Sanh lập

Hội kín ở Chợ Lớn.

Năm 1914, Nguyễn Văn Trướclập Hội kín ở nhiều nơi như Sa Đéc,

Rạch Giá, Long Xuyên, Bạc Liêu.

Năm 1915, Huỳnh Văn Sanh lập Hội kín Phục Hưng ở Mỹ Tho (hay

còn có tên là hội Lương Hữu), sau đó còn truyền phép cho Huỳnh Phát Đạt

lập ra Hội kín Duy Tân.

Năm 1916, Phạm Văn Khỏe lập Hội kín, Phạm Văn Châulập Hội kín ở

Chánh Hưng (Chợ Lớn), Hội kín của Lê Văn Khanh (hay còn gọi là Tư

Khanh) ở Ba Tri và Mỏ Cày (Bến Tre), Hội Ái Chưởng của Trần Văn Học ở

Sa Đéc...[110, tr.132].

Tất cả các hội kín đều mang tư tưởng và đạo đức thời kỳ phong kiến,

với màu sắc tôn giáo thần bí. Các Hội kín đều có lời thề nhấn mạnh lòng trung

thành tuyệt đối với nhà Vua: “Dẫu nước có loạn, vẫn phải là tôi trung” [47,

tr.571]. Hội kín Duy Tân của Huỳnh Phát Đạt, trong lời thề có đoạn: “Ở mỗi

gia đình, mọi người phải một lòng cầu cho đức vua được sống lâu muôn tuổi

để được sống trong sự trị vì của Người như thời các vua Nghiêu, Thuấn”. Yếu

tố tôn giáo thần bí thể hiện đậm nét trong chiếc áo thần bí được các hội viên

Hội kín khoác trên người của Phan Xích Long, họ cho rằng Phan Xích Long

là Vua đã được thần Phật ấn định, có phép thuật kỳ lạ như kêu gọi âm linh trở

về, hô hào cho bom nổ, nếu ai đeo bùa Phan Xích Long ban cho sẽ chống

120

được ma tà, “cho rằng những lá bùa sẽ giúp họ tránh được mũi tên hòn đạn”

[144, tr.668]. Ngoài ra, yếu tố tôn giáo thần bí còn thể hiệntrong cách tổ chức,

lễ kết nạp của hội viên, tục ăn thề hoặc lễ “trui” (nghĩa là cách thức thử thách

ý chí của các hội viên).

Trong các Hội kín ở trên, Hội kín ở Chợ Lớncủa Nguyễn Văn Hiệp,

Nguyễn Hữu Trí, Phan Phát Sanh là tiêu biểu nhất.

Phan Xích Long tên thật là Phan Phát Sanh, “là con của một người lính

tuần thành tại Chợ Lớn tên là Núi” [171, tr.49]. Theo tác giả Hồ Tài Huệ Tâm

có thể Phan Xích Long là người gốc Hoa [192, tr.69]. Theo tài liệu của chính

quyền thực dân, trướcnăm 1911 Phan Phát Sanh đã bị Tòa tạp tụng xử phạt về

tội hành nghề thầy bói nhưng không xin phép chính quyền. Sau đó, Phan Phát

Sanh sang Xiêm, Cao Miên học cách hành nghề thầy pháp, đặt cơ sở đầu tiên

ở Cần Vọt (Cao Miên). Khi về nước, Phan Phát Sanh lập căn cứ ở núi Thất

Sơn (Châu Đốc, An Giang ngày nay). Năm 1911, Phan Phát Sanh cùng

Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Hữu Trí lập Hội kín chống Pháp, từ đây Phan

Phát Sanh“mặc áo thầy chùa và đi du phương” [171, tr.49].Riêng Nguyễn

Văn Hiệp và Nguyễn Hữu Trí tạo dựng cơ sở cho Hội kín, họ mời Nguyễn

Văn Kế về, tuyên bố đó là Phật sống tại nhà Nguyễn Hữu Trí, sau đó đưa Phật

sống về Chợ Lớn. Nhờ vậy Hội đã thu hút được nhiều người tham gia cũng

như nhận đượcsự hỗ trợ ngày càng lớn về mặt tài chính. Theo tài liệu của

chính quyền thực dân: nơi ở của Phật sống thường xuyên có người ra vào,

cúng bái và ủng hộ bạc vàng, “nơi nhóm hội và lập bọn khởi nghĩa với nhau”

[180, tr.10]. Năm 1912, Nguyễn Văn Kế mất, Nguyễn Văn Hiệp và Nguyễn

Hữu Trí đã sang Cao Miên đón Phan Phát Sanh về nước, đưa lên ngôi trở

thành Hoàng đế Phan Xích Long với ấn hình đầu rồng, có khắc dòng chữ

“Đại Minh quốc, Phan Xích Long hoàng đế, thiên tứ ngọc tỉ” (nghĩa là nước

Đại Minh, Hoàng đế Phan Xích Long, ấn ngọc trời ban). Gươm khắc dòng

chữ “Tiên đả hôn quân, hậu trảm loạn thần” (nghĩa là trước đánh hôn quân, sau

121

chém loạn thần). Trong quá trình hoạt động, để tránh sự theo dõi của chính

quyền thực dân, tạo thuận lợi cho hoạt động đánh Pháp nên: Phan Xích Long đã

có lúc nhận mình thuộc dòng dõi của vị Vua lập nên triều Minh (Trung Hoa)

[192, tr.69], điều đó giải thích tại sao trên chiếc ấn của Phan Xích Long có chữ

“Đại Minh quốc”. Từ đây, Phan Xích Long được nhân dân tôn sùng, tôn kính

như Thiên tử bởi Phan Xích Long tự xưng là con Vua Hàm Nghi, lúc nào cũng

mang trên người chiếc khánh có chữ “Đông cung”. Chính những yếu tố tôn giáo

thần bí này đã lôi kéo, động viên được đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt

động yêu nước chống thực dân Pháp.

Đêm 23 rạng 24.3.1913, Phan Xích Long cùng một sốHội kín

khácchuẩn bị mở cuộc tấn công vào Chợ Lớn, giành chính quyềnnhưng chưa

kịp hành động thì đã bị thực dân Pháp phát hiện 8 quả bom, “bốn quả gài ở

Sài Gòn, bốn quả gài ở Chợ Lớn” [110, tr.131], cho lệnh tháo phá bom, huy

động lực lượng bảo vệ những nơi trọng yếu nhằm đối phó với cuộc nổi

dậy.Bốn ngày sau, 28.3.1913,dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Hiệp, một

đoàn người khoảng 600 nông dân đầu quấn khăn trắng, mặc đồng phục quần

đen, áo trắng không cổ, đem theo bùa, đi bộ kéo về Chợ Lớn, một đoàn

khácđi bằng thuyền, khoảng 100 người bị thực dân Pháp bắt xung quanh Sở

Thanh tra, nhiều người khác bỏ chạy, lực lượng tiếp ứng bên ngoàichờ không

thấy tiếng nổ nên đành rút lui, khởi nghĩa thất bại.Phan Xích Long bị bắt ở

Phan Thiết trước đó 2 ngày rồi giam vào Khám Lớn Sài Gòn, Nguyễn Văn

Hiệp bị bắt, Nguyễn Hữu Trí cùng các yếu nhân khác chạy thoát.

“Ngày 5.11.1913, thực dân Pháp đưa Phan Xích Long, Nguyễn Văn

Hiệp, Nguyễn Văn Ngọ, cùng các nghĩa sĩ khác ra xét xử tại Tòa đại hình Sài

Gòn. Tổng cộng có 104 người bị chúng đưa ra tòa (số người bị thực dân kết

tội “nổi loạn” là 111, nhưng chúng chỉ bắt được 104 người, bảy người còn lại

trốn thoát)” [171, tr.61]. Ngày 13.11.1913, Tòa án thực dân tuyên án Phan

122

Xích Long và Nguyễn Văn Hiệp bị kết án chung thân, nhiều bản án khác khổ

sai có thời hạn...

Bên cạnh việc tham gia vào cuộc tấn công ở Sài Gòn Chợ Lớn ngày

24.3.1913, trong thời gian này các Hội kín Nam Kỳ còn liên hệ, tham gia vào

tổ chức Việt Nam quang phục hội của Phan Bội Châu khi Phan Bội Châu phái

cử Bùi Chi Nhuận về Nam Kỳ vận động nhân dân tham gia phong trào yêu

nước. Tháng 4 năm 1913, Phan Bội Châu cử Cường Để về Nam Kỳ để vận

động tài chính cho Việt Nam quang phục hội, nhờ sự ủng hộ giúp đỡ của các

Hội kín Nam Kỳ và sự dẫn dắt khéo léo của Bùi Chi Nhuận mà vấn đề vận

động tài chính của Cường Để gặp nhiều thuận lợi, thu được 20 vạn đồng tiền

ủng hộ cho tổ chức Việt Nam quang phục hội.

Năm 1916,các Hội kín chủ trương phá ngục Sài Gòn, giải thoát cho Phan Xích Long17, thả hết tù nhân, phân phát vũ khí, phối hợp với lực lượng

tiếp ứng phá kho thuốc súng, có thể châm lửa đốt mấy ngôi nhà làm tín hiệu

cho các Hội kín từ các tỉnh kéo vềhiệp sức khởi nghĩa, tiến về Sài Gòn, chiếm

các công sở,đưa Phan Xích Long sang Tòa sứ nắm chính quyền.Đêm ngày

14.2.1916,lực lượng chờ sẵn ở Thị Nghè và các tuyến đường lớn đi vào Sài

Gòn- Chợ Lớn. “3 giờ sáng ngày 15tháng 2 năm 1916, khoảng 300 người mặc

áo đen, quần trắng, khăn trắng quấn cổ, mang dao, giáo, kiếm và bùa hộ mệnh

chia làm nhiều ngả tiến vào Sài Gòn” [144, tr.669]. Nguyễn Hữu Trí dẫn đầu

đi ghexuồng từ Chợ Lớn kéo đến Sài Gòn đổ bộ giữa cầu Ông Lãnh và cột cờ

Thủ Ngữđể “phá Khám Lớn, đánh chiếm dinh quan Thống đốc Nam Kỳ, phá

nhà đèn, chiếm kho đạn, giết người Pháp” [110, tr.132].Lực lượng khởi nghĩa

chia làm 3 đoàn với 3 hướng khác nhau tiến về phía Dinh Thống đốc và

17Phan Xích Long bị chính quyền thực dân kết án chung thân, đày đi Guyana vào tháng 11.1913. Tuy nhiên, do chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ nên tàu chở Phan Xích Long không thể rời cảng, vì thế thực dân Pháp tạm thời giam Phan Xích Long vào Khám Lớn Sài Gòn.

Khám Lớn Sài Gòn. Gần đến nơi, ba đoàn nhập lại rồi chia thành hai cánh

123

quân nhưng hai cánh này bị quân Pháp tấn công, Nguyễn Hữu Trí cùng 5

người khác bị giết, nhiều người bị thương và bị bắt, những người bị bắt đều

đeo ở cổ túi bùa bọc vải, đeo ở tay một lá bùa bằng giấy vàng chữ son.Nghĩa

quân trong các Hội kín ở Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một...cũng

đã tập hợp, sẵn sàngchờ hiệp lệnh phối hợp chiến đấunhưng cuối cùng không

nghe thấy bom nổ, không có lửa cháy báo hiệu nên nghĩa quân đành phải rút

lui. Thực dân Pháp đàn áp khắp nơi, khởi nghĩa thất bại.

Sau sự kiện năm 1916, thực dân Pháp liên tiếp tập trung mở nhiều cuộc

tấn công, khủng bố, đàn áp dữ dội những người yêu nước, hàng trăm người bị

bắt. Ngày 22.2.1916 “gần 40 người bị xử tử” [144, tr.670] (38 người), trong

đó có Phan Xích Long. Ngày 16.3.1916, thực dân Pháp “xử tử thêm 13 người

nữa. Tất cả 51 người đều bị đem chôn chung một huyệt tại đất Thánh Chà

(giữa đường Võ Thị Sáu và chợ Tân Định hiện nay)” [171, tr.69]. Sau đợt

khủng bố này,các Hội kín dần tan rã.

Như vậy, hai cuộc tấn công năm 1913 và năm 1916 là những cuộc nổi

dậy lớn nhất của Hội kín ở Nam Kỳ vì đã gây thiệt hại lớn cho thực dân Pháp,

làm đảo lộn cả Sài Gòn. Trong 20 tỉnh của Nam Kỳ, có tới 13 tỉnh bị xáo trộn

vì những cuộc tụ tập, giết người, đốt nhà, khiến Pháp ngạc nhiên vô cùng vì

chúng đánh giá quá thấp những nhóm lẻ tẻ ở các địa phương. Nhưng thực chất

những nhóm lẻ tẻ đó lại hành động rất thống nhất, đồng loạt nổi dậy, biết hỗ

trợ nhau, tinh thần anh dũng, tin vào sự huyền bí...

Có thể khẳng định, phong trào Hội kín ở Nam Kỳ là một trong những

phong trào nông dân rộng lớn nhất ở Việt Nam chống thực dân Pháp trong

những năm đầu thế kỷ XX. Chính thực dân Pháp cũng có lúc đã phải thừa

nhận sự bất lực trong quá trình trấn áp các Hội kín.

Mặc dù, phong trào Hội kín mang nặng tư tưởng triết lý như Phật giáo,

Nho giáo, Đạo giáo và tính chất tôn giáo thần bí nên phong trào dễ tập hợp,

124

đoàn kết, tương thân tương ái, ràng buộc các hội viên hơn nhưng ngược lại dễ

bị đàn áp trước kẻ thù có vũ khí hiện đại như thực dân Pháp. Sách Đại cương

lịch sử Việt Nam toàn tậpcho rằng: “Hạn chế của phong trào là mang màu sắc

huyền bí, mê tín. Khithực dân Pháp dùng súng đạn đàn áp, phong trào đãtan

rã nhanh chóng” [144, tr.670].Tuy nhiên trong hoàn cảnh lúc đó, những người

lãnh đạo phong trào không thể nào làm khác được, bởi vì họ coi yếu tố thần bí

là phương tiện để tiến hành mục đích cứu nước. Theo tác giả Trần Văn Giàu,

yếu tố tôn giáo thần bí cũng có tác dụng nhất định: “Cái yếu tố cơ bản nhất đã

động viên đông đảo đồng bào đứng lên khởi nghĩa là lòng yêu nước chân

thành, “tận trung báo quốc”, nhưng không thể không kể đến tác dụng tinh

thần của ma thuật, bùa chú đối với đa số nhân dân còn chịu ảnh hưởng sâu sắc

của Đạo giáo, Phật giáo và nhiều tín ngưỡng khác...Tư tưởng thần bí đến thời

kỳ lịch sử sau chiến tranh thế giới thứ nhất sẽ trở thành một trở lực cho cách

mạng, nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất trở về trước...nó còn là một

đề nghị đáng kể về cách giành độc lập, tự do” [46, tr.564].

Dù nặng tư tưởng phong kiến và tính chất tôn giáo thần bí duy tâm

nhưng phong trào Hội kín đã nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên

cường, yêu chính nghĩa của người dân Nam Kỳ, phong trào đã hòa vào phong

trào dân tộc với mục tiêu đánh Pháp, khôi phục lại độc lập. Tác giả Sơn Nam

nói về Hội kín như sau: Thực dân vu cáo rằng thành phần của Thiên Địa Hội

đa số là du đãng, có tiền án về trộm cắp...Họ không dám thú nhận rằng đầu

não của hội lắm khi gồm những người yêu nước...Sau khi bị khủng bố (1916),

các hội không còn hoạt độngnhưng dư âm vẫn còn khá mạnh. Hội đã tạo ra

một nếp sinh hoạt sâu đậm khá hấp dẫn, thực tế: ăn cơm nhà lo chuyện ngoài

đường, sống chết nhờ anh em, tận tình giúp đỡ bạn...Đó là đạo nghĩa giang

hồ, là điệu nghệ giữa anh em kết nghĩa, tứ hải giai huynh đệ.

125

Tiểu kết chương 3

Đầu thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của Nhật Bản, Trung Quốc, các sĩ phu

yêu nước Việt Nam với lòng yêu nước, thương dân cùng với sự hiểu biết sâu

rộng đã quyết tâm đứng lên tìm ra con đường đấu tranh mới. Trong bối cảnh

lịch sử đó,dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa cùng những chính

sách thời chiến trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất của thực dân Pháp, kinh

tế xã hội Nam Kỳ đã có những chuyển biến mạnh mẽ.

Trong lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp vẫn được thực dân Pháp chú trọng

với việc mở rộng diện tích canh tác, sản lượng gạo xuất khẩu ngày càng tăng,

đem lại lợi nhuận cao cho thực dân. Sở hữu lớn về ruộng đất tập trung vàotay

người có thế lực, xuất hiện tầng lớp đại điền chủ đối lập với tầng lớp nông

dân nghèo khổ, bần cùng do bị mất ruộng đất, phải gánh chịu các loại thuế

khác nhau. Ngành công nghiệp bước đầu hình thành, quan hệ sản xuất tư bản

chủ nghĩa đã tác động vào Nam Kỳ, công nghiệp khai khoáng và công nghiệp

chế biến được thực dân quan tâm bởi nó đem lại lợi nhuận cao, ngược lại nền

công nghiệp Nam Kỳ trở nên lạc hậu, mất cân đối, phụ thuộc.

Trong lĩnh vực xã hội, báo tiếng Việt, tiếng Pháp phát triển cả về số

lượng và chất lượng, đặc biệt sự ra đời của các tờ báo có tư tưởng yêu nước

như Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn. Do đặc điểm về vị trí địa lý, dân

cư nên Nam Kỳ là nơi sớm nhất tiếp thu tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài vào,

chữ Quốc ngữ được đưa vào sử dụng. Bên cạnh các giai cấp cũ, xuất hiện

thêm giai cấp công nhân, mâu thuẫn giữa nhân dân Nam Kỳ với thực dân

Pháp ngày càng sâu sắc, đặc biệt đời sống bần cùng, phá sản của nông dân là

nguyên nhân trực tiếp bùng nổ các phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam

Kỳ đầu thế kỷ XX.

Các phong trào có mục tiêu chung là đánh Pháp giành độc lập dân tộc,

kết hợp với cải cách kinh tế xã hội, tiến tới xây dựng chế độ dân chủ cộng

126

hòa, đặt dưới sự lãnh đạo của các nhà Nho yêu nước như Phan Bội Châu,

Phan Chu Trinh. Dựa trên nền tảng cơ sở văn hóa, địa lý, dân cư, tinh thần

độc lập dân tộc, những ảnh hưởng từ bên ngoài cùng những chuyển biến của

tình hình kinh tế xã hội ở Nam Kỳ dưới tác động của cuộc khai thác thuộc đại

lần thứ nhất...nên phong trào Đông Du, cuộc vận động Minh Tân và phong

trào Hội kín phát triển rất mạnh. Các phong trào diễn ra với hình thức đấu

tranh phong phú đa dạng, từ phong trào đấu tranh theo phương thức tuyên

truyền giáo dục,vận động cải cách kinh tế, văn hóa xã hội như Đông Du, cuộc

vận động Minh Tân do ảnh hưởng bởi tư tưởng dân chủ tư sản bên ngoài từ

Nhật Bản, Trung Quốc đến phong trào yêu nước mang tư tưởng tôn giáo thần

bí như Hội kín với phương thức hoạt động vũ trang là chủ yếu. Phong trào lôi

cuốn được đông đảo tất cả các tầng lớp trong xã hội tham gia, từ thượng lưu,

đại điền chủ, trí thức, viên chức, nông dân, dân nghèo thành thị..., đặc biệt là

tầng lớp thanh niên, tạo thành bức tranh yêu nước đa màu sắc. Phong trào

diễn ra hầu khắp các tỉnh Nam Kỳ, phản ánh mâu thuẫn sâu sắc giữa thực dân

Pháp và tay sai với các tầng lớp nhân dân Nam Kỳ.

Tuy nhiên, tất cả các phong tràođều lần lượt thất bại. Phong trào thiếu

tính thống nhất (đặc biệt là tính thống nhất trong những người lãnh đạo), thiếu

đường lối chính trị rõ ràng, chủ yếu dựa vào uy tín của một cá nhân, chứ

không dựa vào sức mạnh quần chúng nhân dân nên khi lãnh đạo phong trào bị

bắt thì phong trào cũng dần tan rã. Phong trào phản ánh sự khủng hoảng về

đường lối, giai cấp lãnh đạo. Mặc dù thất bại nhưng phong trào yêu nước

chống Pháp ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX đã nêu cao tinh thần yêu nước, đấu

tranh bất khuất của nhân dân, cổ vũ nhân dân Nam Kỳ đứng lên đấu tranh

trong giai đoạn mới, giành nhiều thắng lợi mới theo khuynh hướng vô sản.

127

Chương 4.NHẬN XÉT VỀ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP

Ở NAM KỲGIAI ĐOẠN1885-1918

4.1. Đặc điểm và tính chất của phong trào

Mặc dù, phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918 đã hòa cùng phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân cả nước

nhưng ở Nam Kỳ do những đặc điểm riêng về vị trí địa lý, dân cư, kinh tế,

chính trị, xã hội nên phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ đã có những

đặc điểm, tính chất riêng nhất định.

4.1.1. Đặc điểm

Thông qua việc tìm hiểu phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ

giai đoạn 1885-1918, có thể rút ra một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918 đều có mục tiêu chung là đánh Pháp giành độc lập tự do cho đất nước,

đem lại hạnh phúc cho nhân dân.

Ngay sau khi triều đình nhà Nguyễn kí với thực dân Pháp bản Hiệp ước

Harmand (1883) và Hiệp ước Patenôtre (1884), Việt Nam chính thức trở

thành thuộc địa của Pháp, phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra trên khắp

các địa phương trên cả nước. Từ đây Nam Kỳ nói riêng, Việt Nam nói chung,

thực dân Pháp và tay sai đã ra sức đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân,

đồng thời tăng cường áp bức bóc lột khiến đời sống nhân dân vô cùng khó

khăn, đặc biệt là nông dân, nông dân bị mất ruộng đất, lại phải gánh chịu các

loại thuế nên đời sống ngày càng bần cùng, phá sản. Mâu thuẫn giữa nhân dân

với thực dân Pháp và phong kiến tay sai ngày càng sâu sắc, làm thổi bùng lên

ngọn lửa đấu tranh rộng khắp Nam Kỳ với mong muốn lật đổ chế độ cai trị hà

khắc,ách áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân và tay sai để giành lại độc lập tự

do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.

128

Các phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918, diễn ra

dưới các hình thức khác nhau như đấu tranh vũ trang, phi vũ trang, tuyên

truyền vận động cải cách, tôn giáo thần bí...nhưng mục đích cuối cùng đều

nhằm đánh đuổi thực dân, giành độc lập. Mặc dù, phong trào yêu nước chống

Pháp cuối thế kỷ XIXcómục tiêuđánh Pháp giành độc lập dân tộc, xây dựng

lại chế độ phong kiến. Phong trào chống Pháp đầu thế kỷ XX có mục tiêu

đánh Pháp giành độc lập dân tộc, kết hợp với cải cách kinh tế, văn hóa xã hội,

xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa (quân chủ lập hiến) theo khuynh hướng

dân chủ tư sản. Tuy nhiên, các phong trào đều có chung mục tiêu đánh đổ

thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập tự do cho đất nước.

Nam Kỳ là vùng đất bị trở thành thuộc địa sớm nhất của Pháp ở Việt

Nam, do vậy người dân Nam Kỳ phảichịu tác động sớm nhất từ chính sách áp

bức bóc lột của thực dân và tay sai, họ đều thấu hiểu được tình cảnh của

người dân mất nước. Với đặc trưng của con người Nam Kỳ: dũng cảm, không

chấp nhận áp bức bất công, yêu tự do...nên nhân dân Nam Kỳ đã đoàn kết liên

tục đứng lên đấu tranh bằng các hình thức khác nhau như đấu tranh vũ trang,

phi vũ trang bởi vì họ mong muốn đấu tranh để lật đổ ách thống trị của thực

dân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Tuy nhiên, khi Nam Kỳ trở thành

thuộc địa sớm nhất của thực dân Pháp so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ, bên cạnh

mặt hạn chế cũng để lại những tác động tích cực, đó là sự giao lưu tiếp xúc

với văn hóa văn minh phương Tây. Người Nam Kỳ sớm thoát khỏi cái nhìn

hạn hẹp của thời kỳ trước, nhận ra và hướng đến giá trị của độc lập tự do, dân

chủ, dân quyền, thôi thúc họ đứng lên tìm tòi phương thức đấu tranh mới phù

hợp với hoàn cảnh lịch sử.

Những người lãnh đạo phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế

kỷ XX, đã hiểu được khát vọng của người dân là đánh Pháp, giành độc lập

129

dân tộc nên các phong trào do họ lãnh đạo đều đặt ra mục tiêu phù hợp với

nguyện vọng của nhân dân, vì thế phong trào được đông đảo nhân dân tham

gia. Vậy nên, dù triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng quân xâm lược nhưng

nhân dân Nam Kỳ vẫn không hề khuất phục, họ chiến đấu kiên cường, bền bỉ

khiến thực dân Pháp phải thú nhận: “Chúng ta không biết rằng Việt Nam là

một dân tộc kiên cường, gắn bó với lịch sử với những thể chế riêng của mình

và thiết tha với nền độc lập. Chúng ta không biết rằng, Việt Nam chưa bao giờ

khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Tình trạng chúng ta rất đỗi khủng khiếp và

chúng ta phải đương đầu với một dân tộc thống nhất, mà ý thức dân tộc của

họ không bị suy yếu” [201, tr.11]. Mặc dù, lực lượng lãnh đạo các phong trào

xuất thân từ giai cấp phong kiến, có nguồn gốc, vị trí,vai trò khác nhau nhưng

họ đều có điểm chung là những người gần dân, hiểu dân, thương dân, đứng về

phía nhân dân,cólòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, vớikiến thức sâu rộng

nên nhiều sĩ phu yêu nước hiểu rằng phải tìm ra hình thức đấu tranh mới.

Những người lãnh đạo phong trào chống Pháp sẵn sàng từ bỏ địa vị, tài sản,

gia đình...để đứng về phía nhân dân, lãnh đạo nhân dân, cùng nhân dân chiến

đấu trước nạn xâmlược ngoại bang.

Thứ hai, phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918, diễn ra liên tục, quyết liệt, thu hút đông đảo quần chúng tham gia với

các hình thức đấu tranh phong phú, đa dạng.

Nam Kỳ với đặc trưng là cửa ngõ tiếp xúc với bên ngoài, bị thực dân

xâm lược trở thành thuộc địa sớm nhất của thực dân Pháp ở Việt Nam, đồng

thời vùng đất Nam Kỳ chứng kiến cuộc khai thác thuộc địa sớm nhất cả nước,

chịu ảnh hưởng nặng nề của chế độ cai trị thuộc địa cùng những đặc điểm về

vị trí địa lý, dân cư, tình hình kinh tế xã hội...nên phong trào yêu nước chống

130

Pháp của nhân dân Nam Kỳ từ năm 1885 đến năm 1918, diễn ra liên tục với

mức độ ngày càng sôi nổi, quyết liệt.

Cuối thế kỷ XIX, phong trào yêu nước chống Phápở Bắc Kỳ và Trung

Kỳdiễn ra liên tục, mạnh mẽ dưới ảnh hưởng của chiếu Cần Vương. Tuy

nhiên,ở Nam Kỳ phong trào yêu nước chống Pháp có phần mờ nhạt hơn so

với Bắc Kỳ và Trung Kỳ là do nhân dân Nam Kỳ đã trải qua quá trình gần 30

năm kháng chiến(kể từ khi thực dân Pháp xâm lược Sài Gòn-Gia Định năm

1859), làm lực lượng chiến đấu bị sứt mẻ, bị đàn áp mạnh mẽ. Mặc dù vậy,

phong trào chống Pháp cũng vẫn diễn ra ngày càng sôi nổi, quyết liệt, ngay

trên mảnh đất Nam Kỳ, thậm chí có lúc còn áp đảo, đánh bại cả một đội quân

hùng mạnh của thực dân Pháp như trận đánh đồn Phú Thạnh trong khởi nghĩa

của Ngô Lợi (5.1885), lúc đó Pháp đã phải huy động một lực lượng lớn, chiến

đấu vất vả trong nhiều ngày mới chiếm lại được đồn Phú Thạnh, hay trong

khởi nghĩa của Phan Văn Hớn, khi nghĩa quân tiến về Sài Gòn đã giao chiến

với quân Pháp, Pháp phải sử dụng các đơn vị của Trung đoàn 11 bộ binh

thuộc địa và Trung đoàn lính tập An Nam chiến đấu liên tục trong thời gian

hai tuần mới chiếm được dinh quận Hóc Môn, vì trên đường từ Sài Gòn đến

Hóc Môn đều có sự chống cự quyết liệt của nghĩa quân và nhân dân địa

phương, cùng với các chướng ngại vật chặn phá bước tiến của quân xâm

lược...

Sang đầu thế kỷ XX, trên cơ sở đặc trưng của vùng đất, người dân Nam

Kỳ sớm có điều kiện tiếp thu các trào lưu tư tưởng mới du nhập và ảnh hưởng

từ Nhật Bản và Trung Quốcđã làm cho phong trào yêu nước giai đoạn 1897-

1918 phát triển mạnh mẽ hơn so với giai đoạn 1885-1896 ở Nam Kỳ, thậm

chí có hoạt động còn sôi nổi nhất cả nước với các hoạt động ủng hộ cho xu

hướng cứu nước trong phong trào Đông Du, các hoạt động khởi xướng trong

131

cuộc vận động Minh Tân trên lĩnh vực chấn hưng kinh tế, lập hội buôn, hãng

buôn, cải cách văn hóa, hoạt động báo chí...Điều đó chứng tỏ rằng người dân

Nam Kỳ không chấp nhận sự hiện diện cũng như ách áp bức bóc lột của thực

dân.

Phong trào diễn ra liên tục, quyết liệt cho thấy ý thức tự giác, tinh thần

trách nhiệm cao của nhân dân Nam Kỳ trong việc đấu tranh giữ gìn từng tấc

đất thiêng liêng của tổ quốc, đồng thời lên án thái độ bất hợp tác, thiếu trách

nhiệm của triều đình nhà Nguyễn đối với đất nước, đối với nhân dân. Tính

liên tục, quyết liệt của phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ phản ánh

mâu thuẫn sâu sắc giữa toàn thể nhân dân Nam Kỳ với thực dân Pháp và tay

sai, cho thấy thực dân Pháp đã sử dụng bộ máy cai trị hà khắc ở Nam Kỳ.

Khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến kết thúc, mặc

dù không giành được thắng lợi như mong muốn nhưng người dân Nam Kỳ lại

tự tìm đến với khuynh hướng đấu tranh mới mang khuynh hướng dân chủ tư

sản dưới tác động của tình hình thế giới và trong nướcvới mong muốn cao

nhất đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc,tự do cho nhân dân.

Nam Kỳ là vùng đất có nhiều thành phần dân tộc, các thành phần dân

tộc, tầng lớp giai cấp đều sớm bị áp bức bóc lột dưới sự cai trị của thực dân

Pháp, vì thế khi có phong trào diễn ra, đều lôi cuốn được đông đảo quần

chúng tham gia nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Trong phong

trào Đông Du, số lượng du học sinh Nam Kỳ tham gia nhiều nhất so với Bắc

Kỳ và Trung Kỳvì Nam Kỳ có điều kiện kinh tế nổi trội hơn Bắc Kỳ và Trung

Kỳ, tác động từ cuộc vận động Duy Tân của Nhật Bản và Trung Quốc, người

dân Nam Kỳ lại sớm phải chịu sự cai trị trực tiếp của người Pháp nên họ nhận

thức được tầm quan trọng của vận động Duy Tân đối với vận mệnh của đất

nước.Hơn nữa, Nam Kỳ là vùng đất mến chúa tôn Vua, bản chất của người

132

Nam Kỳ luôn trọng nghĩa khinh tài, yêu hòa bình, ghét áp bức bất công nên

khi phong trào diễn ra, họ sẵn sàng ủng hộ cả vật chất lẫn tinh thần với mong

muốn lật đổ ngoại bang, giành độc lập tự do cho đất nước.

Chính sự đa dạng tôn giáo tín ngưỡng, thành phần dân tộc, thành phần

xã hội làm cho nhận thức và hành động của người dân Nam Kỳ trở nên đa

màu sắc. Vì thế, phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918, diễn ra với các hình thức đấu tranh đa dạng, phong phú. Đó là hình thức

đấu tranh vũ trang của nhân dân chống lại thực dân Pháp, ngay sau khi thực

dân Pháp hoàn thành quá trình xâm lược và áp đặt ách thống trị ở nước ta nói

chung, vùng đất Nam Kỳ nói riêng. Sang đầu thế kỷ XX, các phong trào đấu

tranh chống Pháp diễn ra theo hình thức phi vũ trang, tuyên truyền giáo dục,

vận động cải cách kinh tế văn hóa xã hội như phong trào Đông Du, cuộc vận

động Minh Tân nhằm tăng cường sức mạnh kinh tế, văn hóa xã hội, dần đưa

đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, lạc hậu, giành lại độc lập tự chủ trước

ngoại bang xâm lược. Tiếp đến là các phong trào đấu tranh mang màu sắc tôn

giáo thần bí khi thiếu tổ chức lãnh đạo, thiếutư tưởng dẫn đường. Do đó,

phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918mang nhiều

sắc thái khác nhau so với phong trào yêu nước chống Pháp ở Bắc Kỳ và

Trung Kỳ trong cùng giai đoạn.

Thứ ba, phong trào diễn ra từ một địa bàn, sau đó lan rộng sang các

địa bàn khác ở Nam Kỳ. Vượt qua sự hạn hẹp của một địa phương là nét độc

đáo của phong trào.

Trong khởi nghĩa của Phan Văn Hớn (1885), khởi nghĩa của Ngô Lợi

(1885-1890), cuộc vận động của Đào Công Bửu (1885-1894), thời gian đầu

chỉ diễn ra trong phạm vi một địa phương Hóc Môn, Thất Sơn, Rạch Giá rồi

sau đó lan sang các vùng miền khác như Biên Hòa, Sài Gòn, Gia Định, Thủ

133

Dầu Một, Bến Tre, Mỹ Tho, Sa Đéc,Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang, Trà

Vinh, Hà Tiên. Đầu thế kỷ XX, dưới tác động của tình hình thế giới và trong

nước cùng những đặc trưng của vùng đất Nam Kỳ, phong trào yêu nước

chống Pháp ngày càng phát triển mạnh mẽ trên toàn vùng Nam Kỳ như

phong trào Đông Du, phong trào Minh Tân và phong trào Hội kín. Trong

phong trào Đông Du, người Nam Kỳ đang sống ở nước ngoài như Cao Miên,

Xiêm cũng hăng hái nhiệt tình tham gia hưởng ứng và ủng hộ phong

trào.Theo tác giả Sơn Nam: đầu thế kỷ XX phong trào Hội kín đã ảnh hưởng

ra cả vùng Bắc Kỳ. Điều này cho thấy sức lan tỏa của các phong trào yêu

nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918 là khá mạnh.

Phong trào đã vượt qua sự hạn hẹp của một địa phương, lan tỏa sang

toàn vùng Nam Kỳ, chứng tỏ nhân dân Nam Kỳ sẵn sàng đồng lòng hiệp sức

đứng lên lật đổ ách thống trị thực dân và tay sai giành độc lập tự do cho đất

nước. Đó cũng là nét đặc trưng của vùng đất Nam Kỳ: dù xuất thân từ nhiều

thành phần xã hội khác nhau như quan lại,điền chủ, trí thức, dân nghèo...với

nhiều thành phần dân tộc như người Việt, người Chăm, người Khmer, người

Mạ, người Stiêng...nhưng người dân Nam Kỳ đều có tinh thần đoàn kết, yêu

nước, căm thù giặc sâu sắc, sẵn sàng hi sinh, xả thân vì độc lập tự do của dân

tộc.Sức lan rộng ngày một lớn của phong trào đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến

chính quyền thực dân, làm cho thực dân Pháp và tay sai vô cùng lo lắng,

hoảng sợ, Pháp đã phải huy động lực lượng lớn để đàn áp các phong trào,

thậm chí thực dân Pháp còn treo thưởng cho ai bắt được người cầm đầu các

phong trào, sử dụng lực lượng tay sai để tra tấn người thân của các thủ lĩnh

lãnh đạo phong trào...

Thứ tư,phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918cuối cùng đều thất bại.

134

Mặc dù, người dân Nam Kỳ luôn mang trong mình tinh thần đoàn kết,

truyền thống đấu tranh yêu nước nồng nàn từ bao thế hệ nhưng trước một kẻ

thù tàn bạo với các vũ khí hiện đại, thái độ bạc nhược của triều đình Huế,

phong trào chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ liên tục gặp thất bại. Đó cũng

là kết quả chung của các phong trào chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm

vi cả nước. Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh

hướng phong kiến và khuynh hướng dân chủ tư sản ở Nam Kỳ là do sự khủng

hoảng về đường lối, về giai cấp lãnh đạo, thực chất là thiếu một giai cấp tiên

tiến lãnh đạo. Khi hình thức đấu tranh vũ trang cuối thế kỷ XIX, phi vũ trang

như tuyên truyền giáo dục, vận động cải cách kinh tế văn hóa xã hội trong

phong trào Đông Du, cuộc vận động Minh Tânkhông đem lại thắng lợi triệt

để, người dân Nam Kỳ trong lúc bế tắc đã tìm vào hình thức đấu tranh mang

tính tôn giáo thần bí trong các Hội kín, điều này phản ánh sự bế tắc đến tột

cùng, loay hoay không biết đi theo ai, con đường nào cho phù hợp để giành

thắng lợi cuối cùng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cho xã hội Việt Nam nói chung, xã

hội Nam Kỳ nói riêng một con đường đấu tranh mới phù hợp với yêu cầu của

thời đại để giành thắng lợi.

Phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ từ năm 1885 đến năm

1918 mặc dù thất bại nhưng đã để lại ý nghĩa lịch sử sâu sắc, thể hiện sự tiếp

nối truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất trước thực

dân Pháp xâm lược vì độc lập tự do của đất nước, hạnh phúc của nhân dân.

Truyền thống đó đã thúc đẩy nhân dân Nam Kỳ đứng lên kháng Pháp, giành

độc lập cho dân tộc trong những giai đoạn tiếp theo ở vùng đất Nam Kỳ.

4.1.2. Tính chất

Trên cơ sở những đặc điểm của phong trào yêu nước chống Pháp ở

Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918, có thể rút ra những tính chất của phong trào

yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918 như sau:

135

Thứ nhất, phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918 là phong trào mang tính chất yêu nước sâu sắc.

Vùng đất Nam Kỳ hình thành do công sức của nhiều thế hệ, vì thế

người dân Nam Kỳ quyết tâm bảo vệ mảnh đất đến cùng trước bất kỳ thế lực

xâm lược nào, họ luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, đó là nét

đặc trưng của vùng đất Nam Kỳ. Do vậy, đứng trước hành động xâm lược, cai

trị của thực dân Pháp, nhân dân Nam Kỳ với đầy đủ các thành phần dân tộc,

các tầng lớp nhân dân theo nhiều tôn giáo tín ngưỡng khác nhau đã đoàn kết

cầm vũ khí đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập, đem lại cuộc

sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.Tinh thần yêu nước đó của nhân dân

Nam Kỳ xuất phát từ truyền thống đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột

ngay từ buổi đầu tạo lập nên vùng đất, tiếp đến là truyền thống đấu tranh khi

thực dân Pháp đặt chân lên mảnh đất Nam Kỳ với mục đích cao nhất là cứu

nước cứu dân.

Những người lãnh đạo và nghĩa quân tham gia phong trào không phải

vì quyền lợi ích kỷ của riêng mình, mà trái lại họ chiến đấu là để bảo vệ làng

xóm, bảo vệ cuộc sống của nhân dân, độc lập tự do cho đất nước. Họ sẵn sàng

từ bỏ địa vị, tài sản phía sau, thậm chí cả bản thân và gia đình để cùng hợp

sức với nhân dân đấu tranh chống ngoại xâm. Tinh thần ấy chỉ có thể xuất

phát từ lòng yêu nước, yêu dân, từ truyền thống đấu tranh bất khuất của quê

hương. Tác giả Sơn Nam trong “Phong trào Duy Tân ở Bắc, Trung, Nam.

Miền Nam đầu thế kỷ XX-Thiên Địa hội và cuộc Minh Tân” viết: “Vào những

năm mà cuộc Minh Tân khởi phát, mức sống của điền chủ ở miền Nam đang

lên cao, điền chủ bực trung hoặc bực đại có mức sống khỏe hơn một thương

gia Huê kiều trong vùng. Nếu dư tiền, người điền chủ cứ đầu tư vào công việc

mua bán đất. Đất là bất động sản, nằm đó, không bị hao mòn, điền chủ tha hồ

136

rong chơi suốt tháng, không bận tâm mệt trí hằng ngày như người chuyên

mua bán. Người điền chủ cho vay nặng lời, thâu địa tô theo ý muốn mà không

có pháp luật nào kềm thúc cả. Tương lai người điền chủ vào những năm ấy

quá sáng sủa. Ở Hậu Giang còn hàng chục vạn mẫu đất đang chờ đón, họ cứ

chạy chọt khéo léo là dễ dàng trở thành đại điền chủ ở Rạch Giá, Cà Mau, Sóc

Trăng, Bạc Liêu...Do đó mấy ông điền chủ, phó tổng, cai tổng chịu tham gia

việc Minh Tân, chú ý đến thương mãi và công nghệ là do động cơ yêu nước

hơn là ham làm giàu. Họ làm vì tự ái dân tộc, vì muốn đánh đổ thực dân Pháp,

muốn cho đồng bang tự cường” [110, tr.203].Chính lòng yêu nước đã thôi

thúc người dân Nam Kỳ đứng lên khởi xướng các phong trào chống Pháp:

“Đầu thế kỷ XX, Trần Chánh Chiếu cùng với nhiều nhà nho tiến bộ như

Nguyễn An Khương, Huỳnh Đình Điển...giữ vai trò khởi xướng phong trào

Minh Tân, góp phần quan trọng trong việc thành lập các cơ sở kinh tế, phát

triển công thương nghiệp ở Nam Kỳ, cung cấp tài chính cho thanh niên đi du

học” [7, tr.151].

Với lòng yêu nước sâu sắc, người dân Nam kỳ đã quyết tâm đứng

lênchống Pháp bằng mọi hình thức như vũ trang, tuyên truyền giáo dục, vận

động cải cách kinh tế văn hóa xã hội... Khi các phong trào chống Pháp theo

hình thứcvũ trang, tuyên truyền giáo dục, vận động cải cách kinh tế văn hóa

xã hội thất bại, trong lúc bế tắc, người dân Nam Kỳ đã tự tìm đến hình thức

đấu tranh mới trong các Hội kín yêu nước, ngoài mong muốn tìm được sự an

ủi, động viên để bớt đi sự cơ cực dưới ách thống trị của thực dân và tay sai

trong đời sống, họ còn tìm thấy ở Hội kín sự thể hiện tinh thần yêu nước bất

khuất với hình thức đấu tranh bằng tôn giáo mà ngày thường họ không được

thể hiện ra. Rõ ràng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả lúc bế tắc nhất, người

dân Nam Kỳ vẫn luôn nêu cao tinh thần yêu nước sâu sắc. Trong “Sự phát

137

triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám”, tập

II, tác giả Trần Văn Giàu viết: “Cái yếu tố cơ bản nhất đã động viên đông đảo

đồng bào đứng lên khởi nghĩa là lòng yêu nước chân thành, “tận trung báo

quốc”” [46, tr.564]. Lòng yêu nước là tài sản của mỗi con người Nam Kỳ, nếu

ngày thường dù có chút mâu thuẫn với nhau nhưng khi quê hương có giặc

ngoại xâm, họ sẵn sàng bỏ qua mọi mâu thuẫn để đoàn kết chống thực dân,

giành lại độc lập tự do.

Mặc dù, các phong trào không đạt được kết quả như mong muốn do

hạn chế về giai cấp, hạn chế về thời đại nhưng tất cả các phong trào yêu nước

đó đã kế thừa, tiếp nối được truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất của

cha ông trước đây, đồng thời là tiền đề cho các phong trào đấu tranh mạnh mẽ

hơn trong giai đoạn tiếp theo. Người dân Nam Kỳ luôn ghi nhớ những tấm

gương và hành động yêu nước của cha ông, đó cũng chính là niềm tự hào và

sự kế thừa truyền thống yêu nước vẻ vang của người dân Nam Kỳ.

Thứ hai,phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918 thể hiện sự chuyển biến từ tính chất phong kiến sang tính chất dân chủ

tư sản.

Sự chuyển biến từ tính chất phong kiến sang tính chất dân chủ tư sản

biểu hiện ở mục tiêu của phong trào, thành phần lãnh đạo, hình thức đấu tranh

và lực lượng tham gia.

Mục tiêu của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX ở Nam Kỳ là

đánh Pháp giành độc lập dân tộc, xây dựng lại chế độ phong kiến. Tuy nhiên,

phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX ở Nam Kỳ mặc dù cũng đặt ra mục tiêu

đánh Pháp giành độc lập nhưng sau khi giành độc lập lại hướng đến xây dựng

chế độ dân chủ cộng hòa (quân chủ lập hiến) theo khuynh hướng dân chủ tư

sản. Nam Kỳ là vùng đất mến chúa tôn Vua, người dân Nam Kỳ luôn sẵn

138

sàng ủng hộ cả tinh thần lẫn vật chất cho việc đánh đổ ngoại bang, vì thế

trong phong trào Đông Du, các lãnh tụ của Hội Duy Tân đã suy tôn Cường Để

lên làm Vua, trong phong trào Hội kín, các Hội kín đều suy tôn Phan Phát

Sanh làm Vua. Ở Nhật Bản, mỗi khi phong trào cần sự hỗ trợ về tài chính,

Phan Bội Châu liền cử Cường Để về Nam Kỳ, dưới sự giúp đỡ của các Hội

kín mà việc vận động tài chính luôn đạt kết quả cao. Rõ ràng, lực lượng lãnh

đạo các phong trào đầu thế kỷ XX đều không chấp nhận độc lập quân chủ, thể

chế phong kiến, mà họ mong muốn cải tổ đất nướcđi theo khuynh hướng của

Nhật Bản và Trung Quốc.

Thành phần lãnh đạo trong phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX là văn

thân sĩ phu yêu nước mang nặng tư tưởng phong kiến, họ bị ảnh hưởng mạnh

mẽ bởi tư tưởng của Nho giáo, tư tưởng trung quân ái quốc. Với lòng yêu

nước và ảnh hưởng bởi tư tưởng phong kiến nên khi thực dân Pháp vừa hoàn

thành quá trình xâm lược và áp đặt ách thống trị, các văn thân sĩ phu Nam Kỳ

đã đứng lên tập hợp lực lượng, xây dựng căn cứ, quyết tâm đánh Pháp giành

độc lập tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Sang đầu thế kỷ XX,

lãnh đạo phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ là các nhà Nho yêu

nước, xuất thân từ chế độ phong kiến nhưng họ lại chịu ảnh hưởng bởi tư

tưởng dân chủ tư sản từ bên ngoài vào. Họ là những lớp người quá độ từ tư

tưởng phong kiến sang tư tưởng dân chủ tư sản. Những văn thân sĩ phu tư sản

hóa này đã mất niềm tin vào chế độ phong kiến, họ cho rằng chế độ phong

kiến là kẻ đục khoét nhân dân, làm đất nước suy yếu, dẫn đến mất độc lập tự

do. Trong hoàn cảnh bế tắc của phong trào yêu nước theo khuynh hướng

phong kiến, đã thúc đẩy các nhà Nho yêu nước phải tìm ra con đường cứu

nước mới. Đầu thế kỷ XX, các sĩ phu Nho học có sự chuyển biến về chính trị

tư tưởng, họ không chỉ đọc kinh sách Nho giáo mà các sĩ phu còn đọc các

139

sách Tân thư, Tân văn của Trung Quốc (do Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi

viết được đưa vào Việt Nam), những sách báo tiến bộ của Châu Âu...Những

sách báo này đã cổ vũ các sĩ phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam đi theo hướng

của cuộc Minh Trị Duy Tân của Nhật Bản, cuộc vận động Duy Tân ở Trung

Quốc, họ đã có ý thức về dân chủ, dân quyền, biết thoát khỏi cái nhìn hạn hẹp

của Nho giáo trước đây. Năm 1911, cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc bùng

nổ đã tác động mạnh đến tư tưởng của các sĩ phu, thúc đẩy họ đứng lên đấu

tranh theo khuynh hướng mới.

Phong trào yêu nước trong những năm 1885-1918, có sự thay đổi về

hình thức đấu tranh, chuyển từ đấu tranh vũ trang sang tuyên truyền giáo dục,

vận động cải cách kinh tế văn hóa xã hội. Mặc dù, hình thức đấu tranh vũ

trang vẫn còn tồn tại trong các phong trào đầu thế kỷ XX, nhưng đây không

phải là hình thức đấu tranh chủ yếu, các phong trào đầu thế kỷ XX chuyển

sang đấu tranh thực hiện cải cách trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội để

hướng tới xây dựng một xã hội dân chủ, bình đẳng theo kiểu phương Tây.

Lực lượng lãnh đạo phong trào kiên quyết không duy trì đấu tranh kiểu cũ là

đấu tranh vũ trang vì nó không đem lại thắng lợi, vì thế họ ra sức đả phá chế

độ chuyên chế. Thông qua các hoạt động của phong trào Đông Du, cuộc vận

động Minh Tân ở Nam Kỳ như mở trường dạy học, phát triển công nghệ, lập

hội kinh doanh, sửa đổi phong tục thực hiện nếp sống mới...cho thấy sự hòa

trộn giữa phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ với phong trào yêu

nước chống Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Vì thế, sự chuyển biến từ tính chất

phong kiến sang tính chất dân chủ tư sản cũng là tính chất nổi bật chungcủa

phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam.

Một biểu hiện rõ nét nữa của sự chuyển biến là lực lượng tham gia

phong trào. Mặc dù, các phong trào đấu tranh trong giai đoạn 1885-1918 ở

140

Nam Kỳ đều có sự tham gia đông đảo các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, tuy

nhiên phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX lực lượng tham gia đông đảo nhất

là giai cấp nông dân, còn phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX lực lượng tham

gia chủ yếu lại là tầng lớp thanh niên có trí thức trong xã hội.

Thứ ba, phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918 là phong trào yêu nước mang tính chất nhân dân sâu sắc.

Tính chất nhân dân của phong trào được biểu hiện ở thành phần tham

gia và lực lượng lãnh đạo phong trào yêu nước.

Tham gia phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ gồm người Việt,

người Hoa, người Khmer...với nhiều thành phần khác nhau như trí thức nho

học, thân hào, nông dân, dân nghèo thành thị, nhà sư, thầy bói...không phân

biệt giai cấp, tôn giáo, nam hay nữ, già hay trẻ... Dù là ở thành phần khác

nhau nhưng họ đều chịu nỗi nhục của người dân mất nước, họ thấu hiểu được

hết nỗi khổ và mong muốn của dân tộc mình nên họ ra sức tham gia các

phong trào chống Pháp rất nhiệt tình, họ nhất tề đồng lòng đoàn kết đứng lên

nô nức gia nhập vào hàng ngũ nghĩa quân để lật đổ chính quyền thực dân và

tay sai, thậm chí họ còn đóng góp tài sản, lương thực thực phẩm, vũ khí mỗi

khi phong trào nổ ra. Đây chính là biểu hiện rõ nét của tính nhân dân, là biểu

tượng đẹp không thể có được ở giai cấp, tầng lớp không đi cùng quần chúng.

Điều đó xuất phát từ tính cách, bản chất nghĩa khí của người dân Nam Kỳ mà

không phải vùng miền nào cũng có được.

Chính sự tham gia đông đảo của các thành phần khác nhau trong phong

trào yêu nước chống Pháp đã góp phần tăng thêm sức mạnh của phong trào,

đồng thời làm các phong trào kéo dài về thời gian, mở rộng không gian hoạt

động, làm cho thực dân Pháp nhiều lần phải vất vả huy động lực lượng để đàn

áp các phong trào yêu nước.

141

Lực lượng lãnh đạo phong trào gồm văn thân, sĩ phu, quan lại, thương

nhân, chức sắc tôn giáo...Mặc dù, lực lượng lãnh đạo xuất thân từ vị trí, vai

trò khác nhau nhưng họ đều có chung lòng yêu nước, yêu dân, mong muốn

đánh đổ thực dân xâm lược, giành độc lập tự do cho đất nước, hạnh phúc cho

nhân dân. Họ sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi để đứng về phía nhân dân, lãnh

đạo nhân dân, cùng nhân dân chiến đấu trước tình cảnh bị thực dân ngoại

bang xâm lược.

Những người lãnh đạo phong trào yêu nước đã tìm thấy sức mạnh của

phong trào chính là nhân dân, vì thế họ đoàn kết, tập hợp được đông đảo các

tầng lớp nhân dân tham gia. Họ trở thành một yếu tố quan trọng tác động đến

kết quả, đặc điểm, tính chất của phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ

từ năm 1885 đến năm 1918.

4.2. Tác động của phong trào

Nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ

giai đoạn 1885-1918 cũng là nguyên nhân thất bại chung của phong trào

chống Pháp ở nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đó là sự khủng hoảng

về đường lối, giai cấp lãnh đạo, sự chênh lệch lớn giữa thực dân cướp nước

với người dân mất nước, sự đàn áp khủng bố dã man của chính quyền thực

dân...Tuy nhiên phong trào đã thể hiện rõ tinh thần đấu tranh anh dũng, bất

khuất, tự chủ, sáng tạo của nhân dân Nam Kỳ. Tinh thần đấu tranh đó đã được

rèn dũa trong quá trình dài, từ khi khai hoang, xây dựng và bảo vệ vùng đất

Nam Kỳ. Mặc dù, thực dân Pháp và tay sai ra sức đàn áp, sử dụng những biện

pháp tàn bạo để dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân Nam Kỳ nhưng

tinh thần đó lại được tiếp nối tới những phong trào đấu tranh trong giai đoạn

về sau với những phong trào tiêu biểu như:

142

Sau phong trào Đông Du, ảnh hưởng của phong trào còn rất mạnh, các

cơ sở vận động của phong trào vẫn còn tồn tại, thậm chí phong trào còn ảnh

hưởng trong phạm vi rộng hơn. Nếu các nghĩa quân của phong trào Đông Du

ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ rời Nhật Bản, hướng về Trung Hoa thì các nghĩa quân

của phong trào Đông Du ở Nam Kỳ như Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh,

Phan Văn Trường...lại hướng đến Châu Âu để tìm kiếm các giá trị của nền

dân chủ phương Tây. Sau này, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước

cũng nhờ sự trợ giúp lớn của các cơ sở kinh tế của phong trào Đông Du,

phong trào Minh Tân của Nam Kỳ là Công ty nước mắm Liên Thành. Nhiều

cơ sở vận động của phong trào Đông Du vẫn còn tồn tại, chính là nền tảng

cho việc xuất hiện các cơ sở giáo dục tư nhân trong những năm đầu thế kỷ

XX ở Nam Kỳ.

Phong trào đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn (1923): Năm 1923

với mong muốn độc chiếm thị trường Nam Kỳ, thực dân Pháp đã mở cuộc

vận động trong Hội đồng thuộc địa trao độc quyền kinh doanh cho một công

ty của Pháp ở cảng Sài Gòn. Điều này đã gặp phải sự phản đối của tư sản và

địa chủ Nam Kỳ, dẫn đến phong trào đấu tranh chống độc quyền cảng Sài

Gòn. Phong trào diễn ra rất mạnh mẽ, thu hút được đông đảo tầng lớp tư sản,

tiểu tư sản của Nam Kỳ tham gia đấu tranh. Phong trào có tiếng vang lớn tới

tận nước Pháp, nhận được sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ nước Pháp. Do

vậy,chính quyền Đông Dương buộc phải trì hoãn việc thi hành nghị quyết của

Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ. Mặc dù, đây là phong trào đấu tranh chống lại

sự độc quyền của một công ty Pháp, chứ chưa phải là chống lại ách thống trị

của cả chính quyền thực dân nhưng từ phong trào đã cho chúng ta thấy được

mâu thuẫn quyền lợi giữa tư sản Việt Nam và tư bản Pháp, khẳng định sự

phát triển của tư sản Việt Nam nói chung, tư sản Nam Kỳ nói riêng khi chĩa

mũi nhọn đấu tranh vào thẳng tư bản Pháp.

143

Phong trào đòi thả Phan Bội Châu (1925):Tháng 6.1925,Phan Bội Châu

bị thực dân Pháp bắt tại Trung Quốc, sau đó chúng đưa Ông về Hải Phòng, rồi

lại bí mật giam Phan Bội Châu tại nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội) với một tên khác.

Trong quá trình bị đưa về nước, Phan Bội Châu đã tìm cách liên lạc với chủ

bút tờ Binh sự tạp chí tại Trung Quốc là Lâm Lượng Sinh. Thông tin Phan

Bội Châu bị chính quyền thực dân Pháp bắt đã được nhiều báo Trung Quốc,

Pháp và trong nướcđưa tin, đồng thời tố cáo hành vi bắt người bất hợp pháp

của thực dân Pháp. Tòa đại hình Hà Nội đã xử Phan Bội Châu, kết án khổ sai

chung thân. Trong suốt quá trình bị bắt và bị kết án, nhân dân Nam Kỳ đã

cùng nhân dân cả nước liên tục đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Phan Bội

Châu. Dưới sức ép của dư luận, buộc thực dân Pháp phải ân xá cho Phan Bội

Châu, đưa Ông về giam lỏng tại Huế dưới sự theo dõi chặt chẽ của mật thám

Pháp.

Phong trào để tang Phan Chu Trinh (1926):Khi Phan Chu Trinh mất

(24.3.1926) tại Sài Gòn, nhân dân Nam Kỳ đã tổ chức đám tang Phan Chu

Trinh với nghi lễ quốc tang. Hội đồng tang lễ được thành lập gồm 16 người,

đại diện cho Đảng Thanh niên và Đảng Lập hiến. Tham gia phong trào còn có

nhiều tầng lớp nhân dân Nam Kỳ như trí thức, học sinh, sinh viên, người lao

động...thu hút khoảng 14 vạn người. Sau đó, phong trào lan rộng ra cả nước,

thậm chí tác động đến cả Việt kiều ở Xiêm, nơi đâu cũng đều tổ chức truy

điệu và để tang Phan Chu Trinh. Từ phong trào này, tinh thần yêu nước của

nhân dân được thức tỉnh một lần nữa, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, trí thức,

thôi thúc họ hướng tới những tổ chức cách mạng tiên tiến hơn đang dần hình

thành. Đồng thời, phong tràothể hiệnsự biểu dươngthực lực, đòi các quyền tự

do dân chủ cho nhân dân.

Phong trào đón lãnh tụ của Đảng Lập hiến Bùi Quang Chiêu từ Pháp về

(1926): Đảng Lập hiến là Đảng đại diện cho tập đoàn đại địa chủ và tư sản

144

mại bản của Nam Kỳ. Năm 1925,kĩ sư canh nông Bùi Quang Chiêu đại diện

cho quyền lợi, quan điểm chính trị của Đảng Lập hiến đã sang Pháp vận động

chính giới Pháp ban hành các quyền tự dodân chủ cho người dân Đông

Dương.Tuy nhiên, cuộc vận động không đạt được kết quả như mong muốn

nên năm 1926,Bùi Quang Chiêu về nước. Nhân dịp này Đảng Thanh niên đã

tổ chức đón tiếp Bùi Quang Chiêu trở về.Phong trào được đông đảo quần

chúng Nam Kỳ tham gia, có khoảng hàng vạn người biểu tình. Thông qua

phong trào, một lần nữangười dân Nam Kỳ đã biểudươngđược thực lực của

mình, động viên nhân dân đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, chĩa thẳng mũi

nhọn vào thực dân xâm lược.

Phong trào Hội kín Nguyễn An Ninh (1924-1929): Năm 1925,Nguyễn

An Ninhvề nước, sau khi tốt nghiệp ngành Luật ở nước Pháp. Ông không vào

làm việc cho chính quyền thực dân mà trở thành một nhà báo có uy tín trong

lực lượng trí thức, thanh niên với chủ trương đả kích, lên án mạnh mẽ chế độ

cai trị tàn bạo của thực dân Pháp. Do vậy,năm 1926 Nguyễn An Ninh đã bị

chính quyền thực dân bắt giam và kết án hai năm tù. Phong trào đấu tranh đòi

thả nhà báoNguyễn An Ninhdiễn ra khắp Nam Kỳ, đặc biệt là khu vực Sài

Gòn, Chợ Lớn để phản đối hành động của chính quyền thực dân.

Hoạt động nổi bật nhất của Nguyễn An Ninh là lập ra Thanh niên Cao

vọngĐảng năm 1927, là một tổ chức yêu nước hoạt động theo nguyên tắc của

các Hội kín ở Nam Kỳ. Đây là tổ chức tập hợp được đông đảo quần chúng

nhân dân Nam Kỳ tham gia, nhiều người gọi đây là Hội kín Nguyễn An

Ninh.Tham gia phong trào Hội kín Nguyễn An Ninh có đầy đủ các thành

phần trong xã hội, đặc biệt là những tầng lớp xã hội ở nông thôn như địa chủ,

phú nông, hương chức hội tề, trí thức, nông dân...Hội kín hoạt động trong

nhiều vùng của Nam Kỳ, đặc biệt là Thủ Dầu Một, Cần Giuộc, Bến Lức, Hóc

145

Môn...Hội kín Nguyễn An Ninh phát triển mạnh nhất trong những năm 1928-

1929, giai đoạn này các tổ chức của Hội kín có mặt ở hầu khắp các tỉnh Nam

Kỳ như Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long,

Cần Thơ... Mặc dù, không giành được thắng lợi như mong muốn nhưng

phong trào Hội kín Nguyễn An Ninh đã giáo dục lòng yêu nước, thúc đẩy

lòng căm thù bọn cướp nước và rèn ý chí giành độc lập tự do cho nhân dân,

tạo ra những lớp người kế tục như trong các tổ chức Đảng khi Chủ nghĩa Mác

Lênin được truyền bá vào Việt Nam, dẫn đến sự chuyển biến phong trào theo

khuynh hướng vô sản.

Như vậy, phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

1918, tác động lớn đến tiến trình phát triển của lịch sử Nam Kỳ trong những

năm đầu thế kỷ XX. Phong trào đã hun đúc tinh thần quật khởi, khơi dậy lòng

yêu nước, thúc giục người dân Nam Kỳ đứng lên đấu tranh quyết liệt với kẻ

thù xâm lược, giành độc lập tự do.

146

Tiểu kết chương 4

Do những đặc điểm riêng của vùng đất Nam Kỳ về vị trí địa lý, dân cư,

tình hình kinh tế xã hội...nên phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai

đoạn 1885-1918 có những đặc điểm và tính chất riêng so với các vùng miền

khác trong cả nước.Mặc dù, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra với

nhiều hình thức, khuynh hướng khác nhau nhưng tất cả các phong trào trên

đều có tính chất, đặc điểm và tác động chung giống nhau.

Phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ từ năm 1885 đến năm

1918, dù diễn ra quyết liệt, liên tục với các hình thức đấu tranh phong phú

nhưng đều có mục tiêu chung là đánh đuổi thực dân cướp nước, giành độc lập

cho đất nước. Chính vì mục tiêu đó nên phong trào đã thu hút được đông đảo

nhân dân tham gia. Đánh đuổi ngoại xâm là khát vọng ngàn đời của nhân dân

Nam Kỳ, của mọi người dân yêu nước Việt Nam. Mục tiêu đó xuất phát từ

lòng yêu nước, từ tinh thần tự tôn dân tộc. Với lòng yêu nước sâu sắc, người

dân Nam Kỳ đã đứng lên đấu tranh quyết liệt với thực dân Pháp và tay sai qua

các phong trào tiêu biểu như khởi nghĩa của Phan Văn Hớn, khởi nghĩa của

Ngô Lợi, cuộc vận động của Đào Công Bửu cuối thế kỷ XIX, phong trào

Đông Du, Minh Tân, Hội kín trong những năm đầu thế kỷ XX. Với mục tiêu

đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập cho đất nước, hạnh phúc cho nhân

dân, có thể khẳng định rằng phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ từ

năm 1885 đến năm 1918 là một bộ phận của phong trào yêu nước chống Pháp

ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là sự kế thừa truyền thống của

dân tộc, đồng thời là tiền đề tác động đến các phong trào yêu nước trong

những năm tiếp theo ở Nam Kỳ nói riêng, Việt Nam nói chung.

Mặc dù,phong trào diễn ratrên khắp vùng đất Nam Kỳ với nhiều hình

thức đấu tranh khác nhau nhưng cuối cùng các phong trào đều lần lượt thất

bại. Tuy nhiên, phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-

147

1918 đã thể hiện được tính chất nhân dân, tính chất yêu nước sâu sắc, biểu

hiện sự chuyển biến từ tính chất phong kiến sang tính chất dân chủ tư sản.

Phong trào phản ánh sự bế tắc của cả hai con đường cứu nước theo khuynh

hướng phong kiến và khuynh hướng dân chủ tư sản. Đồng thời, đặt ra yêu cầu

phải tìm con đường cứu nước mới, phù hợp với thời đại lịch sử cho người dân

Nam Kỳ.

148

KẾT LUẬN

Những cư dân Việt đầu tiên đến Nam Kỳ là những người bịáp bức bóc

lột nặng nề của chế độ phong kiến Trịnh - Nguyễn. Họ rời bỏ quê hương để di

cư vào phía Nam, nơi có nhiều rừng rậm hoang vu, thú dữ để sát cánh cùng

các cư dân ngườiKhmer, Chơ Ro, Cơ Ho, Mạ, Stiêng…tạo nên vùng đất Nam

Kỳ trù phú. Mặc dù, cư dân Nam Kỳ theo nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác

nhau như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ

Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa...nhưng trong quá trình sinh sống, những cư dân ở

đây đã đoàn kết, chung lưng đấu cật vượt qua nhiều khó khăn, hình thành nên

truyền thống cần cù, sáng tạo, tinh thần yêu nước, đấu tranh chống áp bức bất

công từ nhiều thế lực. Trong bất kỳ hoàn cảnh lịch sử nào, đặc biệt là trước

cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, người dân Nam Kỳ cũng giống

như người dân Bắc Kỳ và Trung Kỳ đều sẵn sàng đặt lợi ích dân tộc, lợi ích

quốc gia lên trên hết.

Nam Kỳ là vùng đất có vị trí địa lý thuận lợi, là cửa ngõ tiếp xúc với

bên ngoài, tài nguyên thiên nhiên phong phú, do vậy Nam Kỳ là địa bàn mà

nhiều thế lực muốn xâm lược.Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam.

Năm 1859, Pháp tấn công xâm lược Nam Kỳ, triều đình nhà Nguyễn từng

bước thỏa hiệp, đầu hàng, trở thành lực lượng đàn áp phong trào kháng chiến

của nhân dân, Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp với bộ máy cai trị sớm

nhất của chế độ thực dân nhằm củng cố ách chiếm đóng tại chỗ, làm bàn đạp

tấn công xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Để bảo vệ nền độc lập cho dân

tộc, nhân dân Nam Kỳ đã anh dũng đứng lên đấu tranh, là lực lượng tiên

phong khởi xướng các phong trào chống Pháp. Với đặc trưng là vùng đất bị

biến thành thuộc địa sớm nhất của cả nước nên người dân Nam Kỳ sớm được

giao lưu, tiếp xúc, ảnh hưởng bởi nền văn hóa văn minh phương Tây, họ

mong muốn hướng đến giá trị của độc lập tự do, dân chủ, dân quyền nên càng

thôi thúc họ đứng lên đấu tranh dưới các hình thức mới.

149

Chính sáchcai trị hà khắc, những thủ đoạn áp bức bóc lột nặng nề nhân

dân Nam Kỳ của thực dân Pháp nhằm vơ vét nguồn tài nguyên thiên nhiên,

làm giàu cho nước Pháp dẫn đến đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, đặc

biệt là nông dân ngày càng bần cùng, phá sản là nguyên nhân sâu xa nhất của

các phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918.

Trước sự tồn vong của dân tộc, xuất phát từ những đặc trưng của vùng

đất Nam Kỳ: đa tôn giáo tín ngưỡng, nhiều thành phần dân tộc, nhiều thành

phần xã hội khác nhau, tinh thần khát khao tự do, không chịu khuất phục

trước thế lực xâm lược, sẵn sàng hi sinh cả tính mạng và của cải vì lợi ích của

quốc gia, dân tộc nên người dân Nam Kỳ đã dũng cảm đoàn kết đứng lên

đánh Pháp. Lãnh tụ phong trào dù có nguồn gốc xuất thân khác nhau nhưng

họ đều có điểm chung là yêu nước, thương dân, căm thù giặc, họ đã lãnh đạo

nhân dân đứng lên giành độc lập tự do. Từ năm 1885 đến năm 1896, phong

trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ diễn ra theo khuynh hướng phong kiến

với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như khởi nghĩa của Phan Văn Hớn (1885),

khởi nghĩa của Ngô Lợi (1885-1890), cuộc vận động của Đào Công Bửu

(1885-1894). Tuy nhiên, các phong trào trên cuối cùng đều thất bại, nguyên

nhân do hệ tư tưởng phong kiến lúc này đã trở nên lạc hậu, không phù hợp

với tình hình.Hơn nữa, nhân dân Nam Kỳ đã trải qua quá trình kiên cường

bền bỉ kháng chiến gần 30 năm, kể từ khi Pháp xâm lược Sài Gòn-Gia Định

năm 1859 đã làm cho lực lượng bị sứt mẻ, tổn thất nặng nề, bị đàn áp. Đây

cũng là lí do giải thích tại sao phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ cuối thế kỷ

XIX mờ nhạt hơn so với phong trào chống Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ trong

cùng giai đoạn. Bước sang đầu thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của cuộc vận động

Duy Tân ở Nhật Bản, Trung Quốc, tác động từ chính sách khai thác thuộc địa

lần thứ nhất của thực dân Pháp, nhân dân Nam Kỳ kế thừa truyền thống yêu

nước của các thế hệ đi trước đã anh dũng tiếp tục đứng lên, đoàn kết đánh đổ

thực dân Pháp mạnh mẽ hơn so với những năm cuối thế kỷ XIX bằng các hoạt

động khởi xướng trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa...sôi nổi nhất cả nước với các

phong trào tiêu biểu như phong trào Đông Du, cuộc vận động Minh Tân,

150

phong trào Hội kín. Mặc dù, mục tiêu của các phong trào đầu thế kỷ XX

nhằm đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc, kết hợp với tuyên

truyền giáo dục, vận động cải cách kinh tế xã hội, xây dựng chế độ dân chủ

cộng hòa theo khuynh hướng dân chủ tư sản nhưng cuối cùng vẫn thất bại,

phản ánh sựkhủng hoảng về đường lối, về giai cấp lãnh đạo.

Do đặc điểm về vị trí địa lý, thành phần dân cư, điều kiện nổi trội về

kinh tế xã hội...nênphong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ

giai đoạn 1885-1918 có những đặc điểm và tính chất riêng nhất định. Các

phong trào đều có mục tiêu chung đánh Pháp giành độc lập nên đã thu hút

được đông đảo các thành phần dân tộc ở Nam Kỳ tham gia với các hình thức

đấu tranh phong phú đa màu sắc như đấu tranh vũ trang, tuyên truyền giáo

dục, vận động cải cách kinh tế xã hội, đấu tranh mang màu sắc tôn giáo thần

bí. Sự phong phú của các hình thức đấu tranh ở Nam Kỳ chính là một đặc

điểm nổi bật so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Mặc dù, phong trào diễn ra liên tục,

quyết liệt, với một địa bàn rộng lớn nhưng cuối cùng các phong trào yêu nước

chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn 1885-1918 đã bị thực dân Pháp và tay sai

đàn áp và đi đến thất bại. Đây cũng là kết cục chung của phong trào chống

Pháp ở Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sự thất

bại của các phong trào xuất phát từ nguyên nhân chung là sự hạn chế về

đường lối, về giai cấp lãnh đạo, còn có nguyên nhân khác, đó là sự chênh lệch

giữa thực dân cướp nước và những người bảo vệ đất nước, sự đàn áp khủng

bố dã man của chính quyền thực dân Pháp. Sự thất bại này chứng tỏ khuynh

hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng dân chủ tư sản

không còn phù hợp, phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ nói riêng, phong trào

chống Pháp ở Việt Nam nói chung cần có một con đường cứu nước mới phù

hợp với thời đại lịch sử.

Mặc dù, các phong trào yêu nước chống Pháp ở Nam Kỳ giai đoạn

1885-1918 thất bại nhưng đã thể hiện tính chất yêu nước và tính chất nhân

dân sâu sắc, là sự chuyển biến từ tính chất phong kiến sang tính chất dân chủ

tư sản. Có thể khẳng định cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, là giai đoạn đặc

151

biệt của lịch sử Nam Kỳ vì những năm cuối thế kỷ XIX trong quá trình chống

ngoại xâm, lực lượng đại diện cho dân tộc đã kiên quyết kháng chiến chống

Pháp, không chịu khuất phục với các cuộc khởi nghĩa của Phan Văn Hớn,

khởi nghĩa của Ngô Lợi, cuộc vận động của Đào Công Bửu. Nhưng bước

sang giai đoạn đầu thế kỷ XX, với truyền thống yêu nước, các tầng lớp nhân

dân Nam Kỳ đã cùng các nhà Nho yêu nước chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ

tư sản từ bên ngoài vào đã quyết tâm đứng lên chống thực dân Pháp bằng các

hình thức đấu tranh tuyên truyền, vận động cải cách kinh tế xã hội với mục

tiêu đánh Pháp, tiến tới xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa. Đó chính là sự

chuyển biến từ khuynh hướng phong kiến sang khuynh hướng dân chủ tư sản.

Trong những năm 1885 đến năm 1918, do trong những hoàn cảnh lịch

sử khác nhau, người dân Nam Kỳ đã có những phương thức và hành động

khác nhau. Nhưng dù phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra dưới hình thức

nào vẫn cho thấy vai trò quan trọng của người dân Nam Kỳ cũng như phong

trào chống Pháp ở Nam Kỳ trong phong trào chống Pháp giành độc lập ở Việt

Nam. Với mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc, đem lại

hạnh phúc cho nhân dân nên phong trào yêu nước chống Pháp giai đoạn

1885-1918 ở Nam Kỳ đã tác động, ảnh hưởng lớn đến tiến trình phát triển của

lịch sử Nam Kỳ trong những năm đầu thế kỷ XX với các phong tràokế tiếp

như phong trào đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn (1923), phong trào

đòi thả Phan Bội Châu (1925), phong trào để tang Phan Châu Trinh (1926),

phong trào Hội kín Nguyễn An Ninh (1924-1929).

Phong trào giai đoạn 1885-1918, phản ánh tinh thần chiến đấu anh

dũng, kiên cường, không chịu khuất phục của nhân dân Nam Kỳ trong quá

trình chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập cho dân tộc. Đó là

sự tiếp nối truyền thống đấu tranh yêu nước của các cư dân Nam Kỳ đã hình

thành ngay trong quá trình tạo lập ra vùng đất, đồng thời là nguồn cổ vũ, tạo

sức mạnh chung, định hướng cho các phong trào yêu nước theo khuynh

hướng vô sản ở Nam Kỳ nói riêng, Việt Nam nói chung trong tiến trình phát

triển của lịch sử.

151

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI

1. Đặng Thị Huế (2019), Cuộc vận động Minh Tân ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX,

Tạp chí Khoa học, tháng 8/2019, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.114-

119.

2. Đặng Thị Huế (2019), Khởi nghĩa Phan Văn Hớn ở Mười tám thôn vườn

trầu (1885), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9/2019, tr.71-76.

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT.

1. Nguyễn Thái An, Nguyễn Văn Kích (2005), 100 năm phát triển công

nghiệp Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ

Chí Minh.

2. Phan An (2005), Người Hoa ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Đào Duy Anh (1994),Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa,

Huế.

4. Đào Duy Anh (1995), Lịch sử cách mệnh Việt Nam (từ 1862 đến 1930),

Nxb Xây dựng, Hà Nội.

5. Nguyễn Thế Anh (1970), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb Lửa Thiêng,

Sài Gòn.

6. Trần Thị Ánh (2014),“Trí thức Sài Gòn-Gia Định với phong trào yêu

nước chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX”, Kỷ yếu Khoa Lịch sử Đại học

Vinh.

7. Trần Thị Ánh (2017), Trí thức Nam Kỳ trong cuộc vận động giải phóng

dân tộc từ năm 1884 đến năm 1930, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường

Đại học Vinh, Nghệ An.

8. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh An Giang (1986),Lịch sử Đảng

bộ tỉnh An Giang.

9. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bến Tre (1985), Lịch sử Đảng bộ

Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Bến Tre (1930-1985).

10. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang (1986), Tìm hiểu Kiên

Giang.

153

11. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hóc Môn (2010), Lịch sử truyền thống

đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Hóc Môn (1930-

1945), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

12. Ban chấp hành Đảng bộ xã Bà Điểm (huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ

Chí Minh) (2010), Lịch sử truyền thống cách mạng của Đảng bộ và

nhân dân xã Bà Điểm (1930-2005), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí

Minh.

13. Phan Văn Cảnh (1997), Phong trào Cần Vương ở Bình Định (1885-

1887), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội.

14. Lê Quang Chắn (2017), “Tình hình thiên tai ở Việt Nam giai đoạn

1802-1883 và chính sách cứu trợ xã hội của triều Nguyễn”, Tạp chí

NCLS, số 8, tr.14-29.

15. Phan Bội Châu (1957), Niên biểu, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.

16. Phan Bội Châu (1957), Khổng học đăng, Nxb Anh Minh, Huế.

17. Văn Công Chí, Võ Văn Sổ (1994), Gia phả họ Phan ở Bà Điểm-Hóc

Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Ngô Chuẩn (2011), Cuộc đời Đức bổn sư Ngô Lợi, Kỳ 3, Báo An

Giang online, ngày 27.9.

19. Ngô Chuẩn, Trần Bắt Gặp (2011), Cuộc đời Đức bổn sư Ngô Lợi, Kỳ

cuối, Báo An Giang online, ngày 28.9.

20. Nguyễn Thúc Chuyên (2006), 157 nhân vật trong phong trào xuất

dương, Nxb Nghệ An.

21. Nguyễn Ngọc Cơ, Tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX,

in trong Trần Bá Đệ (chủ biên, 2002), Một số chuyên đề lịch sử Việt

Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội.

22. Nguyễn Ngọc Cơ (2007), Phong trào dân tộc trong đấu tranh chống

Pháp ở Việt Nam từ 1885 đến 1918, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

154

23. Nguyễn Ngọc Cơ (chủ biên, 2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập IV

(1858-1918), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

24. Nguyễn Ngọc Cơ, Trần Xuân Trí (2012), “Thuế ruộng trồng lúa ở Nam

Kỳ từ 1862 đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất”, Tạp chí NCLS, số 2,

tr.17-28.

25. Võ Kim Cương (chủ biên, 2013), Lịch sử Việt Nam, tập 6 (từ năm 1858

đến năm 1896), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Trần Đức Cường (chủ biên, 2014), Lịch sử hình thành và phát triển

vùng đất Nam Bộ (từ khởi thuỷ đến năm 1945), Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

27. Hà Tân Dân (1971), Hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Sài Gòn.

28. Hồ Tuấn Dung (2003), Chế độ thuế của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ từ

1897 đến 1945, Nxb CTQG, Hà Nội.

29. Cù Thị Dung (2011),Hoạt động giáo dục ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc

1862-1945, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học KHXH và NV Thành

phố Hồ Chí Minh.

30. Phạm Cao Dương (1967), Thực trạng của giới nông dân Việt Nam dưới

thời Pháp thuộc, Nxb Khai Trí, Sài Gòn.

31. Đinh Trần Dương (2002), Sự chuyển biến của phong trào yêu nước và

cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong ba mươi năm đầu thế kỷ

XX, Nxb ĐHQG Hà Nội.

32. Trương Thị Dương (2012), Phong trào Duy Tân ở Việt Nam đầu thế kỷ

XX (1903-1908), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội.

33. Nguyễn Khắc Đạm (1958), Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở

Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.

34. Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1995,2014), Lịch sử Đảng bộ Thành

phố Hồ Chí Minh, Tập I, II, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

155

35. Trương Minh Đạt (2008), Nghiên cứu Hà Tiên,Nxb Trẻ, Tạp chí Xưa

và Nay.

36. Trần Bạch Đằng (1991), Địa chí Sông Bé, Nxb Tổng hợp Sông Bé.

37. Nguyễn Đình Đầu (2002), “Nam Bộ với phong trào Đông Du”, Tạp chí

Xưa và Nay, số 130, tr.26-27.

38. Cường Để (1957), Cuộc đời cách mạng Cường Để, nguyên tác Nhật

ngữ, ký giả Tùng Lâm chấp bút, bản dịch của Ban tuyên truyền

VNQPH, Tráng Liệt xuất bản, Sài Gòn.

39. Lê Qúy Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

40. Trịnh Hoài Đức (1998),Gia Định thành thông chí, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

41. Georges Boudarel (1998), Phan Bội Châu và xã hội Việt Nam ở thời

đại ông, Nxb VHTT, Hà Nội.

42. Bảo Định Giang, Ca Văn Thỉnh (1997), Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa

sau thế kỷ XIX, Nxb Văn học, Hà Nội.

43. Bảo Định Giang, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quảng Tuân (2001),Gương sáng

ngàn đời, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

44. Vũ Minh Giang (chủ biên, 2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ, Nxb

CTQG, Hà Nội.

45. Đoàn Lê Giang (2010), “Các chiến sĩ Đông Du Nam Kỳ hoạt động ở

Nhật Bản”, Hội thảo quốc tế Trường Đại học KHXH và NV Thành phố

Hồ Chí Minh.

46. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ

XIX đến cách mạng tháng Tám, Tập II: Hệ ý thức tư sản và sự thất bại

của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

156

47. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ

XIX đến cách mạng tháng Tám, Tập I: Hệ ý thức phong kiến và sự thất

bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

48. Trần Văn Giàu (1997), “Người lục tỉnh”, Tạp chí Xưa và Nay, số 44B,

tr.4.

49. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên, 1998),Địa chí văn hóa

Thành phố Hồ Chí Minh, Tập I, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

50. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Sơn Nam (1998), 300 năm Sài Gòn-

Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

51. Trần Văn Giàu và nhiều tác giả khác (1999), Nam Bộ xưa và nay, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh và Tạp chí Xưa và Nay.

52. Trần Văn Giàu (2001), Chống xâm lăng (Lịch sử Việt Nam từ 1858-

1898),Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

53. Mai Thị Hà (2007), Phong trào Duy Tân ở Việt Nam trong những năm

đầu thế kỷ XX (1903-1908), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Sư

phạm Hà Nội.

54. Nguyễn Ngọc Hà, Biện Thị Hoàng Ngọc (2009), “Đặc điểm của phong

trào Duy Tân Nam Kỳ đầu thế kỷ XX”, Kỷ yếu hội thảo Đề án quá trình

hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ.

55. Nguyễn Thị Hà(2014), Phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ những năm đầu

thế kỷ XX (1905-1930), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử,Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh.

56. Châu Hải (1992), Các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

57. Dương Thị Thanh Hải (2012), Phong trào yêu nước và cách mạng ở

Bắc Trung Kỳ ba mươi năm đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Lịch sử,

Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

157

58. Đinh Văn Hạnh (1997), “Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với phong trào chống

Pháp ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí NCLS, số 2, tr.32-38.

59. Nguyễn Văn Hầu (2002), Chí sĩ Nguyễn Quang Diệu-một lãnh tụ trọng

yếu của phong trào Đông Du miền Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí

Minh.

60. Trương Minh Hiển (2002), “Nguyễn Quang Diệu, lãnh tụ trọng yếu

trong phong trào Đông Du miền Nam”, Tạp chí Xưa và Nay, số 120,

tr.22-23.

61. Nguyễn Đức Hiệp (2019), Sài Gòn và Nam Kỳ trong thời kỳ canh tân

1875-1925, Nxb Văn hóa-Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

62. Nguyễn Hữu Hiếu (2005), “Một trăm năm cuộc Minh Tân ở Nam Kỳ”,

Tạp chí Xưa và Nay, số 236, tr.28-30.

63. Nguyễn Hữu Hiếu (2006), Yếu tố dẫn tới sự hình thành nét riêng của

Phong trào Đông Du miền Nam, Tạp chí Xưa và Nay, Nxb Văn hóa Sài

Gòn.

64. Lê Huỳnh Hoa (2003), Cảng Sài Gòn và biến đổi kinh tế Nam Kỳ thời

Pháp thuộc (giai đoạn 1860-1939), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học

Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

65. Nguyễn Thị Thanh Hoa (2014), “Bước đầu tìm hiểu phong trào Cần

Vương ở tỉnh Hải Dương”, Tạp chí NCLS, số 5, tr.35-46.

66. Ngô Văn Hòa, Dương Kinh Quốc (1978), Giai cấp công nhân Việt

Nam những năm trước thành lập Đảng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

67. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1997), Một số chuyên đề về

lịch sử Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.

68. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Tập 1 (1912-1924),Nxb CTQG, Hà Nội.

69. Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh (2004), Nam Bộ đất và

người, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

158

70. Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Ngọc Hà (2017), Vùng đất Nam Bộ, Tập V

(từ năm 1859 đến năm 1945), Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội.

71. Đỗ Quang Hưng (chủ biên, 2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-

1945, Nxb ĐHQG Hà Nội.

72. Nguyễn Thị Thanh Hương (2009), Phong trào yêu nước chống xâm

lược ở Bình Định từ cuối thế kỷ XIX đến tháng Tám năm 1945, Luận án

Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội.

73. Phạm Văn Hướng (chủ biên, 1995), Lịch sử Tỉnh Trà Vinh, Tập I

(1732-1945), Ban Tư tưởng Tỉnh ủy Trà Vinh.

74. Phương Hữu (1950), Phong trào Đông Du, NxbNam Việt, Sài Gòn.

75. Jean Pierre Aumiphin (1994), Sự hiện diện tài chính và kinh tế của

Pháp ở Đông Dương (1859-1939), Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam

xuất bản, Hà Nội.

76. Nguyễn Văn Khánh (2017), “Phan Chu Trinh trong lịch sử dân tộc Việt

Nam”, Tạp chí NCLS, số 9, tr.11-21.

77. Phan Khoang (1960),Việt Nam Pháp thuộc sử (1884-1945), Nxb Khai

Trí, Sài Gòn.

78. Lê Thị Kinh (2001, 2003), Phan Chu Trinh qua những tài liệu mới, Tập

I,II, Nxb Đà Nẵng.

79. Trần Trọng Kim (2000), Việt Nam sử lược, Nxb VHTT, Hà Nội.

80. Trương Công Huỳnh Kỳ (2001), Phong trào yêu nước chống Pháp ở

Quảng Ngãi từ năm 1885 đến năm 1930, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại

học Sư phạm Hà Nội.

81. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Vietnam, le moment moderniste (1905-

1908)”tại Thành phố Aix en Provence (Pháp) ngày 3.5.2007, bản PDF.

159

82. Phạm Thị Lan (2002), Sự chuyển biến của phong trào yêu nước chống

Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Lịch

sử, Đại học KHXH và NV Hà Nội.

83. Huỳnh Quang Lâm (2004),Thái độ chính trị của các thế lực yêu nước

Việt Nam trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp (1858-1884), Luận

văn Thạc sĩ Lịch sử,Đại học KHXH và NV Thành phố Hồ Chí Minh.

84. Việt Lâm (1962), “Một ít tài liệu về cuộc khởi nghĩa Phan Xích Long ở

Nam Kỳ năm 1913”, Tạp chí NCLS, số 38, tr.19-21.

85. Đinh Xuân Lâm (chủ biên, 1997), Tân Thư và xã hội Việt Nam cuối thế

kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb CTQG, Hà Nội.

86. Đinh Xuân Lâm (1998), “Sài Gòn trong kháng chiến chống Pháp

(1859-1885)”,Tạp chí Xưa và Nay, số 50B, tr.17-18.

87. Đinh Xuân Lâm (2015), Phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

88. Lemyre de Vilers (1998), “Người Pháp nói về thuộc địa Nam Kỳ và Sài

Gòn hồi cuối thế kỷ XIX”,Tạp chí Xưa và Nay,số 53B, tr.31-32.

89. Léopold Pallu (2019), Nam Kỳ viễn chinh ký 1861, Thanh Thư dịch,

Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

90. Nguyễn Quang Lê (2001), Từ lịch sử Việt Nam nhìn ra thế giới, Nxb

VHTT, Hà Nội.

91. Nguyễn Đình Lê (2009), “Cơ cấu xã hội Nam Kỳ thời cận đại”, in

trong Kỷ yếu Hội thảo Nam Bộ thời kỳ cận đại, Trường Đại học

KHXH và NV Hà Nội.

92. Phan Huy Lê (chủ biên, 2016), Vùng đất Nam Bộ quá trình hình thành

và phát triển, Tập I,II, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội.

93. Lênin Toàn tập(2005), Tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, bản PDF.

160

94. Nguyễn Thị Liên (2012),Sự phát triển nghề xà phòng ở Nam Kỳ nửa

đầu thế kỷ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học KHXH và NV Thành

phố Hồ Chí Minh.

95. Trần Huy Liệu (1960), Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, Tập III,

Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.

96. Huỳnh Bá Lộc (2017), Thái độ chính trị của trí thức Nam Kỳ (1919-

1939), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học KHXH và NV Thành phố Hồ

Chí Minh.

97. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ

XVII-XVIII- XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

98. Lý Thị Mai (2005), “Phụ nữ Nam Kỳ trong phong trào Đông Du”, Tạp

chí Xưa và Nay, số 250, tr.21-23.

99. Huỳnh Minh (2001), Gia Định xưa, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

100. Nguyễn Tư Tường Minh (2014),Phong trào Minh Tân ở Nam Kỳ đầu

thế kỷ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học KHXH và NV Thành phố

Hồ Chí Minh.

101. Sơn Nam (1981), Bến Nghé xưa, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí

Minh.

102. Sơn Nam (1984), Đất Gia Định xưa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

103. Sơn Nam (1988), Lịch sử An Giang, Nxb Tổng hợp Hậu Giang.

104. Sơn Nam (1990), Người Sài Gòn, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

105. Sơn Nam (1992), Cá tính của miền Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

106. Sơn Nam (2016), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ, Thành phố

Hồ Chí Minh.

107. Sơn Nam (1998), Sài Gòn lục tỉnh xưa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

108. Sơn Nam (2002), Lịch sử Tỉnh Vĩnh Long (1732-2000), Nxb CTQG, Hà

Nội.

161

109. Sơn Nam (2015), Nói về miền Nam, cá tính miền Nam và thuần phong

mỹ tục Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

110. Sơn Nam (2019), Phong trào Duy Tân ở Bắc, Trung, Nam. Miền Nam

đầu thế kỷ XX-Thiên Địa hội và cuộc Minh Tân, Nxb Trẻ, Thành phố

Hồ Chí Minh.

111. Nguyễn Thị Nga (2010), Cuộc vận động Duy Tân trên lĩnh vực kinh tế

ở Nam Kỳ 30 năm đầu thế kỷ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học

KHXH và NV Thành phố Hồ Chí Minh.

112. Nguyễn Phúc Nghiệp (1993), “Có một phong trào Cần Vương ở Nam

Kỳ cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 120, tr.3-6.

113. Nguyễn Phúc Nghiệp (2006), “Đồng bào Mỹ Tho với nhà yêu nước

Phan Châu Trinh”, Tạp chí Xưa và Nay, số 256, tr.14-15.

114. Trần Thị Bích Ngọc (1985), “Tình hình sản xuất lúa gạo ở Nam Bộ

dưới thời Pháp thuộc (1862-1945)”,Tạp chí NCLS, số 5, tr.55-63.

115. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên, 2017), Vùng đất Nam Bộ (tập IV: từ đầu

thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX), Nxb CTQG Sự thật, HN.

116. Trần Thanh Nhàn (2008), Quan hệ giữa các tổ chức yêu nước và cách

mạng Việt Nam với nước ngoài đầu thế kỷ XX (1904-1929), Luận án

Tiến sĩ Lịch sử, Đại học KHXH và NV Thành phố Hồ Chí Minh.

117. Nhiều tác giả (1991),Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của

Đảng bộ và nhân dân huyện Hóc Môn (1859-1975), Ban chấp hành

Đảng bộ huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

118. Nhiều tác giả (1997), Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX, Nxb CTQG, Hà Nội.

119. Nhiều tác giả (2007), Phong trào Đông Du ở miền Nam, Nxb Văn hóa

Sài Gòn, Tạp chí Xưa và Nay.

162

120. Nhiều tác giả (2013), Nam Bộ xưa và nay, Nxb Thời đại, Tạp chí Xưa

và Nay.

121. Lương Ninh (chủ biên, 2015), Lịch sử Việt Nam giản yếu, Nxb CTQG

Sự thật, Hà Nội.

122. Nguyễn Duy Oanh (2018), Quân dân Nam Kỳ kháng Pháp trên mặt

trận quân sự và văn chương (1859-1885), Nxb Tổng hợp Thành phố

Hồ Chí Minh.

123. Phan Châu Trinh Toàn tập (2005), Nxb Đà Nẵng.

124. Philippe Devillers (2006), Người Pháp và người An Nam bạn hay thù,

Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

125. Đặng Duy Phúc (2015), Giản yếu sử Việt Nam, Nxb Hà Nội.

126. Vũ Huy Phúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam (1858-1945), Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

127. Vũ Huy Phúc (2003), Lịch sử Việt nam 1858-1896, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

128. Lê Hữu Phước, Nguyễn Phan Quang (1989), Khởi nghĩa Trương Định,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

129. Võ Thành Phương (2014), Lược sử hình thành và khai phá đất An

Giang, Nxb Văn hóa-Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp

Văn học Nghệ thuật An Giang.

130. Nguyễn Phan Quang (1991), “Phong trào chống Pháp do Đào Công

Bửu lãnh đạo (1893-1894)”,Tạp chí NCLS, số4, tr.67-70.

131. Nguyễn Phan Quang (1995), “Về cuộc vận động chống Pháp của Lê

Công Chánh trên địa bàn Nam Kỳ (cuối thế kỷ XIX)”,Tạp chí NCLS, số

4, tr.80-84.

132. Nguyễn Phan Quang (1995,1998), Việt Nam cận đại những sử liệu mới,

Tập I,II, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

163

133. Nguyễn Phan Quang (1997), “Về hội kín “Thiên Địa hội” ở Gia Định

năm 1901”, Tạp chí NCLS, số 4, tr.92-94.

134. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884), Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

135. Nguyễn Phan Quang (2004), Thị trường lúa gạo Nam Kỳ 1860-1945,

Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

136. Nguyễn Phan Quang (2005), Theo dòng lịch sử dân tộc, Nxb Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh.

137. Nguyễn Phan Quang (2006), “Nhân vật Lê Võ trong phong trào Duy

Tân-Đông Du đầu thế kỷ XX”, Tạp chí NCLS, số 10, tr.66-70.

138. Vũ Văn Quân (2008), “Nam Bộ-một số vấn đề tiếp cận thiết chế quản

lý xã hội”, in trong: Lịch sử nghiên cứu và phương pháp tiếp cận (Kỷ

yếu Hội thảo khoa học lần thứ nhất Đề án khoa học xã hội cấp nhà

nước: Qúa trình hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ), Nxb Thế

giới, Hà Nội.

139. Dương Kinh Quốc (1981),Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858- 1945,

Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

140. Dương Kinh Quốc (1988), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước

cách mạng tháng tám 1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

141. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, bản dịch, Tập 2,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

142. Nguyễn Ái Quốc (2008), Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb CTQG,

Hà Nội.

143. Trương Hữu Quýnh (1998), “Nhìn lại tình hình xã hội Việt Nam nửa

sau thế kỷ XIX”, Tạp chí NCLS, số 3, tr.29-36.

144. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (chủ biên,

2008),Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

164

145. Trần Văn Rạng (2006), “Phong trào Hội kín ở Nam Kỳ”, Tạp chí Xưa

và Nay, số 260, tr.13-15.

146. Trần Ngọc Sáng (2010), Các xu hướng trong phong trào yêu nước ở

Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, Luận vănThạc sĩ Lịch sử, Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh.

147. Võ Văn Sen (2017), “Phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX-

quá trình và đặc điểm”, Tạp chí Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí

Minh, số 7, tr.43-53.

148. Vương Hồng Sển (1990), Sài Gòn năm xưa, Nxb Thành phố Hồ

ChíMinh.

149. Shiraishi Masaya (2000), Phong trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của

nó với Nhật Bản và Châu Á, Tập I,II, Nxb CTQG, Hà Nội.

150. Hồ Song, Chương Thâu (1997), “Sự chuyển hướng tư tưởng trong

phong trào quốc gia dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí NCLS,

số 2, tr.16-31.

151. Kiều Lê Công Sơn (2014), “Hóc Môn (Gia Định) trong phong trào đấu

tranh giải phóng dân tộc (1885-1945)”, Kỷ yếu Khoa Lịch sử Đại học

Vinh.

152. Phạm Văn Sơn (1962), Việt sử tân biên (Việt Nam kháng Pháp sử),

Quyển V, Sài Gòn.

153. Phạm Văn Sơn (1971), Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-

1945), Sài Gòn.

154. Vũ Thanh Sơn (2012), Nhân vật lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX, Quyển 9, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

155. Vũ Thanh Sơn (2018), Anh hùng hào kiệt Việt Nam, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

165

156. Nguyễn Văn Tân (2002),Từ điển địa danh lịch sử, văn hóa du lịch Việt

Nam, Nxb VHTT, Hà Nội.

157. Đặng Hoàng Thám (2012), Huyền thoại về ông “Năm Thiếp” Núi

Tượng, Báo Cần Thơ online, ngày 28.4.

158. Trịnh Vân Thanh (1967), Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển,

quyển 2, Nxb Hồn Thiêng, Sài Gòn.

159. Cao Tự Thanh (2009), Nho giáo ở Gia Định, Nxb Văn hóa Sài Gòn.

160. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (1991), Từ điển nhân vật lịch sử

Việt Nam, NxbKhoa học xã hội, Hà Nội.

161. Nguyễn Quyết Thắng (2006), Phong trào Duy Tân và các khuôn mặt

tiêu biểu, Nxb VHTT, Hà Nội.

162. Chương Thâu (1989), “Ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp đối với

một số nhà nho Việt Nam yêu nước và tiến bộ đầu thế kỷ XX”, Tạp chí

NCLS, số 2, tr.79-86.

163. Chương Thâu (1997), “Chính sách của thực dân Pháp đối với ảnh

hưởng của Tân Thư ở Việt Nam”, Tạp chí NCLS, số 1, tr.7-10.

164. Chương Thâu (2000), Phan Bội Châu toàn tập, (10 tập), Nxb Thuận

Hóa, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

165. Chương Thâu (2005), “Về đội ngũ lưu học sinh Việt Nam trên đất Nhật

Bản đầu thế kỷ XX”, Tạp chí NCLS, số 12, tr.9-23.

166. Chương Thâu (2007), Góp phần tìm hiểu Nho giáo, nho sỹ, trí thức Việt

Nam trước năm 1945, Nxb VHTT, Viện Văn hóa, Hà Nội.

167. Chương Thâu (2019),Hoạt động chống Pháp trong các xứ An Nam từ

1905 đến 1918, Nxb ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh.

168. Trần Thuận (2014), Nam Bộ vài nét lịch sử - văn hóa, NxbVăn hóa Văn

nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

166

169. Trần Minh Thuận (2018), Kinh tế đồn điền ở miền Tây Nam Kỳ từ năm

1900 đến năm 1945, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội.

170. Tạ Thị Thúy (chủ biên, 2013), Lịch sử Việt Nam, tập 7 (từ năm 1897

đến năm 1918), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

171. Nguyễn Thanh Tiến (2005), Hội kín ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế

kỷ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh.

172. Nguyễn Thanh Tiến (2007), “Góp thêm ý kiến về Hội kín Phan Xích

Long”, Tạp chí Xưa và Nay, số 282, tr.32-33.

173. Tổng cục du lịch Việt Nam, Trung tâm công nghệ thông tin du lịch

(2004),Non nước Việt Nam, Hà Nội.

174. Thu Trang (2000), Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp

1911-1925, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

175. Trần Xuân Trí (2009), Những biến đổi trong kinh tế nông nghiệp Nam

Kỳ thời thuộc địa từ 1862 đến 1945, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học

Sư phạm Hà Nội.

176. Trần Xuân Trí (2018), “Thuế thân và sưu dịch ở Nam Kỳ dưới thời

Pháp đô hộ”, Tạp chí NCLS, số 11, tr.3-19.

177. Phan Châu Trinh (1958), Giai nhân kỳ ngộ, Nxb Hướng Dương, Sài

Gòn.

178. Phạm Quang Trung (1985), “Chính sách vơ vét lúa gạo của tư bản

Pháp và quá trình phát triển của giai cấp địa chủ ở Nam Bộ thời Pháp

thuộc”, Tạp chí NCLS, số 6, tr.23-31.

179. Nguyễn Văn Trung (2015), Hồ sơ về Lục châu học, Nxb Trẻ, Thành

phố Hồ Chí Minh.

180. Truyện Phan Xích Long (1913), Sài Gòn.

167

181. Phạm Hồng Tung (1999), “Tìm hiểu thêm về Phan Bội Châu và vấn đề

đoàn kết lương giáo chống Pháp đầu thế kỷ XX”, Tạp chí NCLS, số 6,

tr.72-81.

182. Lưu Thị Ngọc Tuyết (2018), Phong trào yêu nước chống thực dân

Pháp của nhân dân vùng trung du và thượng du Bắc Kỳ từ năm 1883

đến năm 1930, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội.

183. Nguyễn Đình Tư (2016), Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ

(1859-1954), Tập I, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

184. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1985),Lịch sử Việt Nam, Tập II,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

185. Trần Mai Ước (2013), “Từ tư tưởng “khai dân trí” của Phan Châu

Trinh suy nghĩ về đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Khoa

học,Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 42, tr.112-119.

186. Viện Viễn đông bác cổ Pháp, Cục Lưu trữ nhà nước Việt Nam (1997),

Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

187. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2014), Lịch sử

Việt Nam thường thức, Tập 2 (từ năm 1858 đến năm 2000), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

188. Thiên Vũ, Võ Huy Quang (2001),Khắc họa chân dung tử tù trong lịch

sử đấu tranh giữ nước giai đoạn năm 1858 đến năm 1975,Tập I, Nxb

Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

189. Trần Nhật Vy (2015), Mười tám thôn vườn trầu, Nxb Văn hóa-Văn

nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

190. Nguyễn Văn Xuân (1995), Phong trào Duy Tân, Nxb Đà Nẵng.

II. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI.

* Tiếng Anh.

168

191. Marr David George (1971), Vietnamese Anticolonialism (1885-1925),

University of California Press, Berkeley.

192. Hue Tam Ho Tai (1983), Millenarianism and Peasant Politics in

Vietnam, Cambridge, Massachusetts and London, England, Harvard

University Press.

193. Hue Tam Ho Tai (1992), Radicalism and the Origins of the Vietnamese

Revolution, Cambridge, Harvard University Press.

194. William Duiker (1976), The Rise of Nationalism in Vietnam, 1900-

1941, Cornell University Press, Ithaca and London.

* Tiếng Pháp.

195. A.Thomazi (1934), La conquete de L’Indochine, Paris.

196. Charles Gosselin (1904), L’Empire d’Annam, Paris.

197. Charles Robequain (1939), L’évolution économique de L’Indochine

Francaise, Paris.

198. Cochinchine Francaise (1898), Procès-verbaux du Conseil colonial:

session ordinaire de 1897, Imprimerie coloniale, Sai Gon.

199. Cochinchine Francaise (1908), Procès-verbaux du Conseil colonial:

session ordinaire de 1908, Imprimerie coloniale, Sai Gon.

200. Daniel H’mery(1975), Révolutionnaires Vietnamiens et pouvoir

colonial en Indochine, Paris.

201. Fernand Bernard (1901), L’Indochine, Erreurs et dangers, Charpentier,

Paris.

202. Georges Coulet (1926), Les Sociétés Secrètes en Terre d’Annam,

Imprimerie Commerciale C. Ardin, Sài Gòn.

203. Georges Coulet (1928), Bonzes, pagodes et Sociétés Secrètes en

Cochinchine, Extrème-Asie Revue Indochinoise Illustrée.

169

204. Henri Galos (1861), L’Expédition de Cochinchine et la politique

Francaise dans L’Extreme-Orient, Revue des Deux Mondes.

205. Jean Chesneaux (1955), Contribution à L’histoire de la nation

Vietnamienne, E’ditions sociales, Paris.

206. P. Quesnel (1919), Rapports, Sai Gon.

207. Paul Doumer (1902), Situation de L’Indochine (1897-1901), Ha Noi.

208. Paul Alinot (1916), L’Indochine Francaise-phisique, e’conomique,

politique, administrative et historique, Saigon, Albert Portail,

Imprimer-éditeur.

209. Philippe Devillers (1966), Au Sud Vietnam…il y a cent ans, France-

Asie.

210. Pierre Gourou (1939), L’utilisation du solen Indochine Francaise,

P.Harmant édition, Paris.

211. Pierre Richard Feray (1979), Le Vietnam au XX ème siecle, Paris.

212. Prosper Cultru (1910), Histoire de la Cochinchine Francaise: des

origines à 1883, Challamel Ainé, Paris.

213. Tài liệu lưu trữ, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, Dossier relatif à

L’Inspection des Affaires Politiques et Administratives diverses des

provinces années 1871-1943, ký hiệu 3095, Trung tâm Lưu trữ Quốc

gia II, Thành phố Hồ Chí Minh.

214. Tài liệu lưu trữ, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, Dossier relatif

àL’insurrection d'Hoc Mon en Février 1885 et condamnations années

1885-1892, ký hiệu 13092, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố

Hồ Chí Minh.

215. Tài liệu lưu trữ, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, Rapports mensuels

deL’année 1892 du commissariat central de la Police administrative et

170

judiciaire de la ville de Sai Gon, ký hiệu 3751,Trung tâm Lưu trữ Quốc

gia II, Thành phố Hồ Chí Minh.

216. Tài liệu lưu trữ, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, Rapports au Conseil

Colonial de la Cochinchine années 1886 – 1893, ký hiệu 18084,Trung

tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh.

217. Tài liệu lưu trữ, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ,Rapports au Conseil

Colonial de la Cochinchine années 1894 – 1898, ký hiệu 18085,Trung

tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh.

218. Tài liệu lưu trữ, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, Rapports mensuels au

Gouverneur Général de L’Indochine sur la situation politique et

économique de la Cochinchine années 1895-1898, ký hiệu

46004,Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh.

219. Tài liệu lưu trữ, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, État de la

Cochinchine Francaise en 1895, ký hiệu NV.2150,Trung tâm Lưu trữ

Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh.

220. Tài liệu lưu trữ, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ,État de la Cochinchine

Francaise (1887-1896), ký hiệu NV.592, NV.663, Trung tâm Lưu trữ

Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh.

221. Yves Henry (1932), Économie agricole de L’Indochine, (bản dịch), ký

hiệu LT 68/27, Thư viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.

171

PHỤ LỤC

DANH MỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bản đồ Đông Dương.

Phụ lục 2: Bản đồ hành chính Nam Kỳ Lục tỉnh năm 1836.

Phụ lục 3: Quy hoạch hành chính của Nam Kỳ năm 1808.

Phụ lục 4:Cơ cấu dân số theo giới tính ở Nam Kỳ thời cận đại.

Phụ lục 5: Các ảnh tư liệu liên quan đến phong trào yêu nước chống Pháp ở

Nam Kỳ.

172

PHỤ LỤC 1

Bản đồ Đông Dương

[Nguồn: The citizen’s atlas of the world, John bartholomew and son

limited edinburgh, 1952, tr.96]

173

PHỤ LỤC 2

Bản đồ hành chính Nam Kỳ Lục tỉnh năm 1836 [Nguồn: Nguyễn Đình Đầu, Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ Lục tỉnh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.64]

174

PHỤ LỤC 3

TT Gia Định trấn (1802)

Gia Định thành (1808)

1 Dinh Phiên Trấn Huyện Tân Bình Tổng Bình Dương Tổng Tân Long Tổng Phúc Lộc Tổng Bình Thuận

2 Dinh Trấn Biên

Trấn Phiên An Phủ Tân Bình Huyện Bình Dương Huyện Tân Long Huyện Phúc Lộc Huyện Thuận An Trấn Biên Hòa Phủ Phúc Long Huyện Phúc Chính Huyện Bình An Huyện Long Thành Huyện Phúc An

Huyện Phúc Long Tổng Tân Chính Tổng Bình An Tổng Long Thành Tổng Phúc An

3 Dinh Vĩnh Trấn Châu Định Viễn Tổng Bình An Tổng Bình Dương Tổng Tân An 4 Dinh Trấn Định Huyện Kiến An Tổng Kiến Đăng Tổng Kiến Hưng Tổng Kiến Hòa 5 Đạo Long Xuyên

6 Đạo Kiên Giang

Trấn Vĩnh Thanh Phủ Định Viễn Huyện Vĩnh An Huyện Vĩnh Bình Huyện Tân An Trấn Định Tường Phủ Kiến An Huyện Kiến Đăng Huyện Kiến Hưng Huyện Kiến Hòa Huyện Long Xuyên Tổng Long Thúy Tổng Quảng Xuyên Huyện Kiên Giang Tổng Kiên Định Tổng Thanh Giang

Quy hoạch hành chính của Nam Kỳ năm 1808 [Nguồn: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.287]

175

PHỤ LỤC 4

Tỷ lệ nam ở Nam Kỳ chiếm 50,83% tổng số cư dân

Nữ chiếm 49,17%

Tỷ lệ nam vùng Nam Kỳ cao hơn bình quân cả nước khoảng 1% (số liệu cả

nước vào thời điểm này là: 49,66% nam; 50,34% nữ).

Đặc biệt tại vùng đô thị, kinh tế năng động, tỷ lệ nam rất cao như:

Ở Rạch Giá (52,56%);

Thủ Dầu Một (52,34%);

Hà Tiên (55,56%);

Sài Gòn 55,42%;

Chợ Lớn 53,19%;

Côn Đảo có tỷ lệ nam 100% dân số;

Cơ cấu dân số theo giới tính ở Nam Kỳ thời cận đại

[Nguồn: Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, Hà Nội, 2004]

176

PHỤ LỤC 5

CÁC ẢNH TƯ LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN PHONG TRÀO YÊU NƯỚC

CHỐNG PHÁP Ở NAM KỲ

Pháp tấn công thành Gia Định [Nguồn: Baotanglichsu.vn]

Dinh Norodom thời Pháp thuộc [Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử]

177

Một bản báo cáo của Trần Tử Ca [Nguồn: 189, tr.75]

178

Thống kê một số mặt hàng xuất nhập khẩu năm 1895 (trang 178 - 181) [Nguồn: Situation commercial statisque importation et exportation, Rey et Curie, 1897, tr. 46]

179

180

181

182

Văn học

Nông nghiệp Công nghiệp Thương nghiệp Trung học đệ nhị cấp

Pháp chính Sư phạm

Ban Ban khoa học văn học Trung học đệ nhất cấp

Tiểu học

Pháp – Việt

Trường làng

(ấu học)

Sơ đồ tổ chức hệ giáo dục Pháp-Việt theo cải cách của Toàn quyền Paul Doumer [Nguồn: Phan Trọng Báu, Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2006, tr.72]

183

Bảng so sánh xuất khẩu lúa gạo từ năm 1908 [Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu IA3/193]

184

Phan Bội Châu và Cường Để: hai nhân vật chính trong phong trào Đông Du [Nguồn: Baotanglichsu.vn]

Phan Chu Trinh, người khởi xướng phong trào Duy Tân [Nguồn: Baotanglichsu.vn]

185

Phan Xích Long, lãnh đạo phong trào Hội kín Phan Xích Long, lãnh [Nguồn: Baotanglichsu.vn]

Sơ đ Sơ đồ khởi nghĩa Phan Văn Hớn [Nguồn: Bảo tàng huyện Hóc Môn] [Ngu

186

Trích bản cáo trạng vụ án tại Hóc Môn, Anh Trần dịch

(trang 186 – 191)

[Nguồn: 189, tr.293]

187

188

189

190

191

192

Trích Nghị định kết án những người tham gia khởi nghĩa Phan Văn Hớn (trang 192 – 195) [Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu 13092]

193

194

195

196

Công văn số 148, ngày 30.3.1886 của Chánh Biện lý Sở Tư pháp Nam Kỳ gửi Giám đốc Nha Nội chính về việc Tòa bác đơn kháng nghị của những người tham gia khởi nghĩa Phan Văn Hớn. (trang 196 - 198) [Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu 13092]

197

198

Ff

Fg L

kkhyh ll

199

Núi Tượng, căn cứ kháng Pháp trong khởi nghĩa Ngô Lợi

[Nguồn: Ảnh thực địa do tác giả luận án chụp năm 2019]

200

Các nhân vật người Vĩnh Long trong phong trào Đông Du

[Nguồn: Nghiencuuquocte.org]

Phong trào cắt tóc ngắn [Nguồn: vi.wikipedia.org]

201

Báo Nông Cổ Mín Đàm [Nguồn: Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh]

202

Báo Lục Tỉnh Tân Văn [Nguồn: Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh]

203

Thầy phù thủy trong phong trào Hội kín

[Nguồn: Georges Coulet (1926), Les Sociétés Secrètes en Terre d’Annam,

Imprimerie Commerciale C. Ardin, Sài Gòn]

204

Cờ trong cuộc khởi nghĩa năm 1916 của phong trào Hội kín [Nguồn: Georges Coulet (1926), Les Sociétés Secrètes en Terre d’Annam,

Imprimerie Commerciale C. Ardin, Sài Gòn]

205

Bùa hộ mệnh của nghĩa quân trong phong trào Hội kín [Nguồn: Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945: cách mạng và phản cách mạng thời đô hộ thực dân, Nxb Chuông Rè, L’Insomniaque, Montreuil (Pháp), 2000]

206

Chùa Tam Bửu, nơi thờ Ngô Lợi [Nguồn: Ảnh thực địa do tác giả luận án chụp năm 2019]

Đền thờ Phan Văn Hớn

[Nguồn: Ảnh thực địa do tác giả luận án chụp năm 2019]