intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học: Đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Chia sẻ: Buctranhdo Buctranhdo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:207

70
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án làm rõ những đặc trưng cơ bản về lý thuyết và thực hành đức tin của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, từ đó rút ra một số giá trị và khuyến nghị có liên quan. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học: Đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN XUÂN HẬU ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN XUÂN HẬU ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC Mã số: 9229009 Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. LÊ TÂM ĐẮC 2. PGS,TS HOÀNG THỊ LAN HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Xuân Hậu
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN 5 1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu 5 1.2. Một số vấn đề đã nghiên cứu và cần tiếp tục nghiên cứu 18 1.3. Cách tiếp cận, lý thuyết nghiên cứu và một số khái niệm cơ bản 20 Chương 2: ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TÔN GIÁO Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 28 2.1. Điều kiện ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 28 2.2. Quá trình phát triển của các tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 48 Chương 3: ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH ĐỨC TIN CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 62 3.1. Một số đặc trưng trong lý thuyết tôn giáo 62 3.2. Một số đặc trưng trong thực hành đức tin tôn giáo 90 Chương 4: GIÁ TRỊ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ 121 4.1. Giá trị đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ 121 4.2. Một số khuyến nghị từ đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ 130 KẾT LUẬN 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ 148 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 149 PHỤ LỤC 161
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BSKH Bửu sơn Kỳ hương CĐ Đạo Cao đài PGHH Phật giáo Hòa Hảo PGHNTL Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn TAHN Tứ ân Hiếu nghĩa TĐCSPHVN Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, bên cạnh các tôn giáo ngoại nhập như Phật giáo, Islam giáo (thường gọi là Hồi giáo), Công giáo, đạo Tin lành…, ở Nam Bộ có sự hiện diện khá nhiều tôn giáo ra đời ngay tại vùng đất này, tiêu biểu là Bửu sơn Kỳ hương (BSKH), Tứ ân Hiếu nghĩa (TAHN), Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn (PGHNTL), Phật giáo Hòa Hảo (PGHH), đạo Cao đài (CĐ), Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (TĐCSPHVN),v.v... Các tôn giáo nêu trên ra đời trong bối cảnh vùng đất Nam Bộ đã hình thành và đang phát triển. Nhiều yếu tố lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội Nam Bộ đương thời là tác nhân đối với các tôn giáo: môi trường khắc nghiệt của vùng đất mới; vùng đồi núi Thất Sơn huyền bí, vùng giáp biên Tây Ninh - nơi lý tưởng của chốn tâm linh; sự ảnh hưởng của Thiên Địa hội từ người Hoa đến Hội kín của người Việt; sự dung hợp tư tưởng Tam giáo truyền thống cùng tín ngưỡng dân gian; sự yếu thế của các tôn giáo truyền thống; sự mất vai trò của triều đình nhà Nguyễn; xứ thuộc địa Nam Kỳ thuộc Pháp,v.v... Tất cả tạo nên khoảng trống sâu sắc trong một xã hội bị hụt hẫng niềm tin, thiếu sự lãnh đạo chủ đạo về thần quyền và thế quyền. Người dân Nam Bộ rất cần một phong trào tôn giáo mới để khỏa lấp khoảng trống ấy. Sự ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không nằm ngoài bối cảnh chung của văn hóa, xã hội Nam Bộ. Chúng dung hợp, sắp xếp, điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh xã hội mới, lôi cuốn người dân thực hành cả các hoạt động tôn giáo lẫn các hoạt động xã hội. Mục đích đó đạt được không chỉ vào thời điểm các tôn giáo ra đời mà còn vào những thời điểm về sau khi nhiều sự biến đổi ở Nam Bộ diễn ra làm cho vùng đất này thay đổi diện mạo. Điều đó cho thấy, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ có tính bền vững nhất định bởi những giá trị không thể phủ nhận của các tôn giáo này. Trải qua quá trình tồn tại và phát triển, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ đã tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội khu vực này. Về tác động tích cực,
  7. 2 các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ góp phần làm phong phú diện mạo tôn giáo, đáp ứng nhu cầu tâm linh cho lưu dân; mở mang vùng đất mới, gây dựng và cố kết cộng đồng; tham gia vào các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến cách mạng,v.v... Tuy vậy, hoạt động của các tôn giáo này cũng cho thấy những tác động tiêu cực, nhất là một số tôn giáo bị chính quyền Sài Gòn sử dụng để chống phá cách mạng; một số chức sắc dựa vào tôn giáo để hoạt động chính trị. Vậy nên, việc một số tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX sớm bị phân liệt, không chỉ do yếu tố nội bộ mà còn do yếu tố bên ngoài. Cho đến nay, nhóm tôn giáo ra đời ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được nghiên cứu ở các mức độ với nhiều góc độ khác nhau như: tôn giáo học, triết học, nhân học, xã hội học, văn hóa học, tâm lý học, sử học... Các công trình tập trung lý giải mối quan hệ giữa vùng đất mới với tâm lý của lưu dân mở đất; mối quan hệ giữa tôn giáo với phong trào yêu nước; mối quan hệ giữa tôn giáo mới với tôn giáo truyền thống,v.v... Nhìn chung, các nghiên cứu trước đây đều thừa nhận tầm quan trọng của phong trào các tôn giáo mới trong bối cảnh văn hóa, chính trị, xã hội Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Dù giá trị và đóng góp của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ được nhiều người bàn đến, nhưng nhận diện những đặc trưng của chúng như: loại hình tôn giáo, danh xưng tôn giáo, quan hệ chính giáo, nhất là dạng thức nội sinh,… cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, nhằm đóng góp nhiều hơn đối với lĩnh vực tôn giáo học nói riêng, khoa học xã hội và nhân văn nói chung, tôi chọn đề tài “Đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đàu XX” làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Tôn giáo học. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục đích của đề tài Luận án làm rõ những đặc trưng cơ bản về lý thuyết và thực hành đức tin của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, từ đó rút ra một số giá trị và khuyến nghị có liên quan.
  8. 3 2.2. Nhiệm vụ của luận án - Thứ nhất, tổng quan một số vấn đề lý luận liên quan đến các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. - Thứ hai, trình bày hệ thống điều kiện ra đời và quá trình phát triển của các tôn giáo ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. - Thứ ba, làm rõ đặc trưng cơ bản của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. - Thứ tư, đi sâu phân tích giá trị và khuyến nghị từ đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc trưng các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, gồm: nhóm tôn giáo thuộc phong trào Ông Đạo (Bửu sơn Kỳ hương, Tứ ân Hiếu nghĩa, Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn, Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam) và nhóm tôn giáo thuộc phong trào Cơ Bút (đạo Cao đài, Minh Sư đạo, Minh Lý đạo) 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: khu vực Nam Bộ, nơi ra đời, tồn tại chủ yếu của các tôn giáo nội sinh được lựa chọn nghiên cứu. Ngoài ra, không gian nghiên cứu của luận án còn mở rộng đến một số địa phương khác có sự lan truyền, ảnh hưởng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. - Về thời gian: từ giữa thế kỷ XIX (năm 1849, thời điểm ra đời đạo Bửu sơn Kỳ hương) cho đến hiện nay (2019, thời điểm hoàn thành luận án). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, với lý thuyết “Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo” [12, tr.569]. “Nhà nước ấy, xã hội ấy” được hiểu là bối cảnh xã hội cụ thể, khu vực cụ thể, giai đoạn cụ thể. Với Nam Bộ, đó là
  9. 4 những đặc điểm địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị của cư dân vùng đất mới, nơi hình thành các tôn giáo vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu liên ngành khoa học xã hội và nhân văn, như: phân tích - tổng hợp tư liệu (tư liệu gốc, tài liệu thứ cấp); phỏng vấn sâu, lấy ý kiến chuyên gia (học giả, chức sắc, chức việc, tín đồ); các phương pháp cụ thể như so sánh, khái quát, đối chiếu,v.v... 5. Đóng góp khoa học của luận án Từ phương diện Tôn giáo học, luận án góp phần làm rõ những đặc trưng cơ bản và một số vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XIX. Kết quả luận án còn đóng góp luận cứ khoa học cho việc nhận thức và ứng xử đúng đắn hơn và khách quan hơn đối với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Thông qua phân tích những đặc trưng cơ bản của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, luận án đóng góp những luận cứ khoa học trong nghiên cứu quy luật hình thành và phát triển của tôn giáo; mối quan hệ tương tác qua lại giữa tôn giáo với các lĩnh vực của đời sống xã hội. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành Tôn giáo học và nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân văn; đóng góp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn giáo, nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo của nước ta thời gian tới. 7. Kết cấu của luận án Ngoài Lời cam đoan, Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 09 tiết và tiểu kết các chương.
  10. 5 Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. TỔNG QUAN TƯ LIỆU, TÀI LIỆU 1.1.1. Tổng quan tư liệu gốc 1.1.1.1. Kinh sách của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ - Kinh sách của Bửu sơn Kỳ hương: nội dung giáo lý, lễ nghi của BSKH thể hiện ở các bài giảng (vãn, sấm) do môn đệ hoặc người đời sau ghi chép lại lời thuyết giảng của ông Đoàn Minh Huyên, chủ yếu do Ban Quản tự chùa Tòng Sơn ấn hành, như: Giảng Giáp Thìn Thầy ở Gò Công, Giảng Mùa Đông (ba tập: Mùa Đông, Năm Ông, Mười Sầu). Nguyễn Văn Hầu biên khảo và chú thích, Sấm truyền Phật Thầy Tây An, Tòng Sơn Cổ Tự xuất bản 1973 [50]. Ngoài ra, tư liệu kinh sách của BSKH còn phải kể đến: Giảng xưa căn gốc ông bà, Dưới bóng cội tùng, Lời sấm của Đức Phật Trùm, Sấm giảng Người đời, Mười điều khuyến tu của Đức Phật Thầy Tây An... Riêng Sấm truyền Đức Phật Thầy Tây An, luận án sử dụng quyển do Nguyễn Văn Hầu sưu tầm và biên soạn được Tòng Sơn Cổ tự xuất bản năm 1973 [82], những quyển khác dùng để tham khảo và đối chiếu. - Kinh sách của Tứ ân Hiếu nghĩa: Kế thừa BSKH, nhưng TAHN có thêm một số kinh sách, có thể chia làm 3 loại: Một là, kinh sách do ông Ngô Lợi và ông Nguyễn Hội Chân (Nguyễn Hội Chơn) sáng tác. Hai là, kinh điển tiếp thu, kế thừa từ BSKH. Ba là, các thể loại khác, nổi bật là những kinh khuyến thiện. Luận án chủ yếu sử dụng các quyển: Linh Sơn hội thượng kinh, Hiếu nghĩa kinh, Chuyển trạc kinh, Ngọc lịch đồ thơ tập chú, Ngũ giáo văn của Đức Bổn Sư Núi Tượng... do Tam Bửu Tự - Phi Lai ấn hành. - Kinh sách của Phật giáo Hòa Hảo: Kinh sách của PGHH gồm sấm giảng của ông Huỳnh Phú Sổ được tập hợp thành bộ Sấm giảng thi văn toàn bộ (gồm 6 quyển: Sấm giảng khuyên người đời tu niệm, Kệ dân của Người Khùng, Sấm giảng, Giác mê tâm kệ, Khuyến thiện, Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu
  11. 6 hiền). Bộ Sấm giảng thi văn toàn bộ được Ban Phổ truyền Giáo lý Trung ương PGHH tái bản nhiều lần. Luận án sử dụng bản Sấm giảng thi văn toàn bộ in năm 1966 [03]. Những bản Sấm giảng thi văn toàn bộ khác được luận án dùng để tham khảo và đối chiếu. - Kinh sách của Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn: Kinh sách PGHNTL gồm Kinh Cứu khổ, Kinh Phổ môn, Triết Thánh đạo (Nguyễn Ngọc An viết năm 1961, An Bình tự ấn hành), Luật đạo (năm 1968, An Bình tự ấn hành) [58]; các bài vãn như: Thập ngoạt hoà thai của Nguyễn Ngọc An, Vãn Tà Lơn và Vãn Lan Thiên của ông Cử Đa (An Bình tự ấn hành) [59]. - Kinh sách của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam: Kinh sách của TĐCSPHVN tiêu biểu gồm: Lễ bái lục phương, Phu thê ngôn luận, Phương pháp thực hành đạo đức, Giới luật Phật pháp tu hành, Phật học vấn đáp, Phương pháp kiến tánh, Phương pháp tu hành phước huệ song tu, Điều lệ người mới nhập môn, Thống nhất nghi thức do Huỳnh Văn Dơn và Như Pháp biên soạn, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007 và 2008. - Kinh sách của đạo Cao đài: Kinh sách của đạo CĐ tiêu biểu gồm Pháp chánh truyền, Tân luật, Đạo luật, Bát đạo nghị định (tổng hợp thành quyển Luật pháp Cao Đài, Cao Đài Tây Ninh ấn hành và giữ bản quyền, tháng 9/2012). Quyển Thánh ngôn hiệp tuyển trọn bộ (tổng hợp từ Thánh ngôn hiệp tuyển quyển thứ nhất, Hội thánh Cao Đài Tây Ninh kết tập từ năm 1928, Nhà in Tam Thanh, Sài Gòn, và Thánh ngôn hiệp tuyển quyển thứ hai được Hội thánh Cao Đài Tây Ninh tổng hợp và xuất bản lần đầu năm 1963, Nhà in Tuyết Vân, Sài Gòn. Luận án sử dụng quyển Thánh ngôn hiệp tuyển trọn bộ in năm 1972, Tòa thánh Tây Ninh giữ bản quyền [28], và Thánh ngôn hiệp tuyển quyển 1 và 2 hợp nhứt và chú thích do Nguyễn Văn Hồng biên soạn và chú thích, ấn hành năm 2000 [61]. Ngoài ra, kinh sách của đạo CĐ còn phải kể đến: Ngọc Đế chơn truyền tân ước tri nguyên, của Hội thánh Bạch y Liên đoàn Chơn lý, Nxb. Tôn giáo, năm 2014 [17]; Đại thừa Chơn giáo, Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi,
  12. 7 Nxb. Tam giáo Đồng nguyên [26]; Lời thuyết đạo của Đức Hộ pháp thiêng liêng hằng sống, Cao Đài Tây Ninh ấn hành, năm 2011 [31]; Từ điển Cao Đài (quyển 1 và quyển 2) do Đức Nguyên biên soạn năm 2011 [92],v.v... 1.1.1.2. Văn bản của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ Văn bản của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ tiêu biểu gồm: Đạo thư của Đức Quyền Giáo tông về việc phát hành quyển Pháp Chánh truyền, Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, ngày 24/04/1932; Thánh huấn, Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh, ngày 7 tháng 7 năm Đinh Hợi (1947); Thánh huấn, Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh, ngày 25 tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1952); Thánh huấn, Hội thánh Cửu Trùng Đài, ngày 19 tháng 5 năm Canh Tuất (1970); Thông tri, Hội thánh Cửu Trùng Đài, ngày 14 tháng 5 năm Canh Tuất (1970); Chưởng quản Hiệp Thiên Đài, Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, ngày 12 tháng 10 năm 1976; Điều lệ, Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, Giáo hội Bến Tre, Bộ Nội vụ duyệt y theo Nghị định số 378/BNV/KS/14, ngày 28/5/1970, Công báo Việt Nam Cộng hòa số 35; Hiến chương Phật giáo Hòa Hảo (2014-2019), Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo, nhiệm kỳ IV, ngày 22/5/2014; Hiến chương Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Ban Trị sự Trung ương Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam; Hiến chương Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Tòa thánh Tây Ninh, Cao Đài Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (các năm 1965, 1997, 2007); Hiến chương đạo Tứ ân Hiếu nghĩa, Tứ ân Hiếu nghĩa, Đại hội lần 1: 2010 - 2015, Đại hội lần 2: 2015-2020,v.v... Các tư liệu gốc nêu trên rất quan trọng để luận án nghiên cứu đặc trưng về các mặt giáo lý, lễ nghi, tổ chức của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Tuy nhiên, các tư liệu này có nhiều phiên bản khác nhau, nên một số nội dung không đồng nhất. Vì vậy, luận án rất chú ý việc lựa chọn, đối chiếu, so sánh các bản kinh, sách ở một mức độ phù hợp và tin cậy nhất có thể. 1.1.2. Tổng quan những vấn đề nghiên cứu liên quan nội dung luận án Cho đến nay, hầu hết các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhanh chóng phát triển rộng khắp Nam Bộ, một phần ở Trung Bộ và Bắc Bộ. Quá trình hình thành và phát triển, các tôn giáo này chịu sự ảnh hưởng
  13. 8 sâu đậm của thời cuộc ở Nam Bộ. Vì thế, đã từ lâu, đề tài này được nhiều nhà nghiên cứu ở các góc độ quan tâm, có thể phân thành các nhóm sau: 1.1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu sự ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Georges Coulet, trong tác phẩm viết năm 1926, Les Sociétés Secrètes en terre d’Annam (Hội kín xứ An Nam ) [147] đã viện dẫn các minh chứng vai trò của hội kín ở xứ An Nam từ khi mới xuất hiện cho đến đầu thế kỷ XX. Đáng lưu ý là, công trình này dành nhiều quan tâm mối quan hệ giữa hội kín người Hoa với hội kín người Việt, giữa hội kín với các phong trào tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: “Bằng chứng lịch sử cho thấy, sự tồn tại gần gũi lý tưởng tôn giáo với lý tưởng hội kín, mặt khác trong thực tế tôn giáo và hội kín đôi khi tỏ ra hành động đồng cách cho một mục tiêu đồng nhất, chẳng hạn như đạo Lành (Tứ ân Hiếu nghĩa)” [147, tr.138]. Năm 1981, Phan Quang viết tác phẩm Đồng bằng sông Cửu Long [96]. Về các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, dù không đề cập nhiều, nhưng với những trang viết về điều kiện cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ, có thể thấy, thời điểm bấy giờ, nơi đây đã hội tụ nhiều yếu tố lý tưởng cho sự ra đời hàng loạt hiện tượng tôn giáo mới. Trong tác phẩm Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ [79] do Huỳnh Lứa chủ biên, từ nhiều thư tịch khác nhau, các tác giả giới thiệu quá trình di dân, khẩn hoang và cộng cư của các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, Chăm trên vùng đất Nam Bộ. Tác phẩm này không đề cập trực tiếp đến các tôn giáo nội sinh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhưng có nhiều tư liệu về diễn trình khai phá Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, cũng như sự biến đổi xã hội qua quá trình khai phá Nam Bộ thời gian về sau. Các tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến biểu hiện của sự đoàn kết, gây dựng đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các dân tộc anh em, qua sự hòa hợp, hỗn dung những yếu tố truyền thống, tiếp thu những giá trị mới: “Nam Bộ nói chung [...], ngay trong buổi đầu khai phá, đã có nhiều dân tộc sống chung, xen kẽ nhau. Đó là một điểm đáng chú ý so với bất cứ vùng nào trên
  14. 9 đất nước Việt Nam” và “Sự hỗn hợp dân cư thuộc nhiều nguồn gốc địa phương, nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác biệt, nhiều trình độ phát triển về mặt xã hội trong nhiều thế kỷ qua đã không hề là yếu tố cản trở sự đoàn kết gắn bó nhau giữa các tộc người cùng chung sống trên địa bàn Nam Bộ” [79, tr.239-240]. Trần Hồng Liên năm 1996 với tác phẩm Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến 1975 [77], và năm 2004 với công trình Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam Bộ (tập hợp các bài viết của tác giả) [78], đề cập đến một số tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ như BSKH, TAHN, PGHH,v.v... Đáng chú ý khi tác giả cho rằng, những tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là giáo phái/ hệ phái/ hay đạo giáo của Phật giáo. Vì thế, trong phân tích của mình, tác giả đưa ra nhiều minh chứng về mối liên hệ giữa Phật giáo và các tôn giáo nội sinh, trở thành đạo giáo riêng có Nam Bộ: “... đã làm cho đạo Bửu Sơn Kỳ Hương trở thành một đạo giáo riêng có (hiểu theo nghĩa là một đạo giáo của Phật giáo) ở đồng bằng sông Cửu Long, chỉ có trong cộng đồng người Việt” [78, tr.303]. Năm 1997, Nguyễn Đăng Duy viết tác phẩm Văn hoá tâm linh Nam Bộ [37]. Tác giả phân tích dòng chảy văn hóa tâm linh từ Đồng bằng sông Hồng đến Đồng bằng sông Cửu Long trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Những giá trị tâm linh luôn có sự tiếp nối và là mạng mạch không dừng của bao thế hệ người Việt. Tác phẩm là một bức tranh khá tổng thể về đời sống tôn giáo, cũng như những nét đặc sắc khác trong tâm linh người dân Nam Bộ. Nguyễn Đăng Duy chú trọng phân tích yếu tố dung hợp của các tôn giáo, tiêu biểu là đạo CĐ: “... Chúa Trời sáng tạo, an bài tất cả là từ đạo Gia tô, thần tiên giáng linh là từ đạo Lão, nhân nghĩa làm người là từ Nho giáo, ham muốn nhục dục vật chất là nguồn gốc gây ra mọi đau khổ là từ đạo Phật” [37, tr.71]. Trong công trình Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ viết năm 2004 [90], Nguyễn Hữu Hiếu đi sâu tìm hiểu một số dạng thức tâm linh điển hình ở Nam Bộ, từ sự ra đời đến sự thay đổi của chúng qua thời gian và không gian, đến nguồn gốc, vai trò và ảnh hưởng của chúng. Theo tác giả, các dạng thức tâm linh trong dòng tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ luôn có sự hòa nhập, dung hợp vốn văn
  15. 10 hóa có trước, nhưng không phải sự hòa nhập tùy tiện mà là có chọn lọc, phù hợp với tính cách người dân Nam Bộ. Một số tác phẩm của Sơn Nam như Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam (1992) [83], Tiếp cận với Đồng bằng sông Cửu Long (2000) [84], Phong trào Duy Tân Bắc Trung Nam - Miền Nam đầu thế kỷ thứ XX - Thiên Địa hội và cuộc Minh Tân (2014) [85], Nói về miền Nam, Cá tính miền Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam (2009) [88],... được Nxb. Trẻ phát hành. Những công trình của “ông già Nam Bộ” biên khảo nhiều mặt đời sống xã hội, trong đó có sinh hoạt tôn giáo của người dân Nam Bộ, các tổ chức Thiên Địa hội, hội kín Nam Kỳ, những nghi vấn về mối quan hệ của các tôn giáo với các tổ chức của người Hoa, người Việt,v.v... Những khảo cứu nêu trên được triển khai theo dạng kể chuyện không những phản ánh khá chân thật về tính cách văn hóa - gắn liền với sinh hoạt tâm linh của người dân Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mà còn bàn sâu nguyên nhân và diễn biến của các tôn giáo ra đời ở khu vực này. 1.1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu đặc trưng các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - Nhóm công trình nghiên cứu phong trào các Ông Đạo: Năm 1956, Nguyễn Văn Hầu biên soạn quyển Đức Cố Quản hay là Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa [49], giới thiệu thân thế và sự nghiệp của Trần Văn Thành, một đại đệ tử của ông Đoàn Minh Huyên, trong đó những mẩu chuyện về khởi nghĩa của các nhà lãnh đạo phong trào kháng Pháp ở Nam Bộ như Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực hoặc việc ông được thầy giao quyền “cắm thẻ”. Năm 1968, Nguyễn Văn Hầu ra mắt quyển Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo [52] khảo luận sâu sắc về nhiều vấn đề mà cho đến nay giới nghiên cứu tôn giáo đều quan tâm như: nguồn gốc PGHH, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, PGHH với bản sắc dân tộc, PGHH có phải là một đoàn thể chính trị,v.v... Trong lần tái bản năm 2017, Nxb. Tôn giáo và Saigon Books đã bổ sung các bài viết về PGHH của Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, Minh Chi, Phạm Cao Dương, Phạm Công Thiện. Năm 1972, Nguyễn Văn Hầu cho ra đời quyển Thất Sơn màu nhiệm [51], giới thiệu về
  16. 11 vùng Thất Sơn khi còn thuộc Thủy Chân Lạp với những địa thế trọng yếu về kinh tế, xã hội và những bậc “siêu phàm”. Ba tác phẩm nêu trên cho thấy, với tư cách vừa nhà nghiên cứu vừa là tín đồ của PGHH, Nguyễn Văn Hầu có điều kiện tiếp cận và lý giải khá sâu sắc về tôn giáo của mình, tuy không tránh khỏi một vài hạn chế về nhận thức của “người trong cuộc”. Một tác phẩm rất nổi tiếng của Tạ Chí Đại Trường mà hầu hết các nhà nghiên cứu tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ không thể bỏ qua là Thần, Người và Đất Việt [133], đề cập đến các hiện tượng tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Thuật ngữ “phong trào các Ông Đạo” được tác giả sử dụng là những “hiện tượng tôn giáo mới” đương thời, với những đặc điểm cơ bản: là kết quả tập hợp thần linh mới, là “những dòng tiên tri tản mạn”, là “sự hội tụ các dòng tiên tri”,v.v... Chương X của tác phẩm giới thiệu vùng đất Nam Bộ, nơi tập hợp những phong trào di dân cùng với hệ thống thần linh của mình, đặc biệt ảnh hưởng Thiên Địa hội của người Minh Hương. Với Bửu Sơn Kỳ Hương, theo ông, đó là sự khởi đầu của dòng tiên tri cho đến TAHN, đều hoạt động trong bối cảnh dáng dấp là một hội kín: “Các tín đồ và hệ phái chống đối người Pháp, bị đàn áp gắt gao đến nỗi trước năm 1945, danh từ Bửu sơn Kỳ hương (và Tứ ân Hiếu nghĩa), ngay tại hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc, vùng phát tích mà chỉ được nói khẽ với nhau trong dân gian, ở xa đến người hiếu kỳ không làm sao tìm được tông tích” [133, tr.327]. Năm 1999, Đinh Văn Hạnh xuất bản cuốn Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa của người Việt ở Nam bộ (1867-1975) [48]. Tác phẩm có khá nhiều thông tin về đạo TAHN, không chỉ dừng lại những đặc điểm của tôn giáo này mà còn so sánh, đối chiếu với những tôn giáo khác ra đời ở Nam Bộ đương thời. Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2003), Hội thảo khoa học về giáo phái Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam [137]. Kỷ yếu tập hợp bài viết của nhiều nhà khoa học, chức việc và tín đồ về những điểm mấu chốt của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam như lịch sử hình thành, vấn đề hành đạo, tác động đến đời sống tín đồ. Cũng tại hội thảo này, vấn
  17. 12 đề Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là tổ chức tôn giáo hay là một giáo phái Phật giáo rất được quan tâm đưa ra thảo luận. Phạm Bích Hợp, Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu sơn Kỳ hương - Cao Đài - Hòa Hảo) [64], phân tích khá sâu sắc một số lý thuyết hình thành tôn giáo nội sinh, trong đó có lý luận tôn giáo tính - phản ánh nhu cầu tôn giáo của con người và lý giải dưới góc độ tiếp cận tôn giáo của người dân với các tôn giáo mới được ra đời: “Đó là sự tương tác của một quá trình có thể nói là nội sinh (endogène) là sự hình thành những cộng đồng tôn giáo bản địa, chứ không phải chỉ là bản địa hóa một tôn giáo ngoại nhập nào” [64, Mở đầu]. Tác phẩm lý giải vai trò tôn giáo đến cư dân Nam Bộ, khác với cách phát triển của các tôn giáo trên thế giới là từ tôn giáo bình dân đến tôn giáo tăng lữ, tôn giáo quý tộc, tôn giáo cung đình và sau cùng là tôn giáo quốc gia. Chương II hệ thống quá trình ra đời từ BSKH đến PGHH, với những đặc điểm qua tư tưởng “học Phật tu nhân”, “Tứ ân”, truyền thống “thờ cúng Tổ tiên” của người Việt và những yếu tố tôn giáo của cộng đồng các dân tộc khác cùng sinh sống trên vùng đất Nam Bộ. Năm 2013, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh An Giang tổ chức Hội thảo khoa học Nhân vật lịch sử Đoàn Minh Huyên [70]. Hội thảo tập hợp tham luận của các nhà khoa học, nhà quản lý ở khu vực phía Nam, tập trung làm rõ tiểu sử của Đoàn Minh Huyên cũng như đóng góp của ông tại vùng đất Nam Bộ thời kỳ khai đạo. Những nội dung này giúp luận án có được những cứ liệu liên quan đến giáo chủ của Bửu sơn Kỳ hương và một số vấn đề liên quan. - Các công trình nghiên cứu nhóm phong trào Cơ bút (tiêu biểu là đạo Cao Đài): Nhà nghiên cứu người Pháp, đồng thời là tín đồ đạo CĐ Gabriel Gobron, giai đoạn 1948 - 1949, đã xuất bản Lịch sử đạo Cao đài [145] và Lịch sử và triết lý đạo Cao đài [146]. Trong hai tác phẩm này, G. Gobron phân tích khá sâu sắc vai trò và yếu tố hình thành đạo CĐ, nhất là Thần linh học. Trong phần giới thiệu triết lý CĐ, ông lưu ý vai trò liên kết những người đang sống với những người đã chết và chuẩn bị cho kiếp tái sinh. Đây được xem là hai trong số những
  18. 13 công trình tiêu biểu của chức sắc CĐ về lược sử phát triển và ý niệm thiêng liêng khá độc đáo của đạo CĐ. Lê Văn Trung, Phương châm hành đạo [130], đề cập đến các nội dung: người trong đạo, người ngoại đạo, phổ thông Thiên đạo, năng hầu đàn, điều lệ hầu đàn, luật xem kinh sách,… thể hiện khá rõ đặc trưng cơ bản của tín đồ đạo CĐ trong tu hành ở gia đình, thánh thất và xã hội. Nội dung quyển sách giúp luận án nghiên cứu đặc trưng của đạo CĐ nói riêng, của các tôn giáo ra đời ở khu vực Nam Bộ nói chung. Trương Văn Tràng, Đại đạo giáo lý [129] gồm 3 nội dung: mặt tôn giáo, vũ trụ quan và nhân sinh quan, Thượng thừa và Hạ thừa, trình bày những nét căn bản về sự hình thành của đạo CĐ. Đó là kết quả việc tổng hợp của ba nguồn học thuyết phương Đông truyền thống gồm Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Tác phẩm là tư liệu có giá trị trong việc tìm hiểu triết lý đạo CĐ. Giai đoạn 1967-1972, Đồng Tân viết cuốn Lịch sử Cao đài Đại đạo Tam kỳ phổ độ - phần Vô vi [105] và cuốn Lịch sử Cao đài Đại đạo Tam kỳ phổ độ - phần Phổ độ [106]. Năm 1997, Đồng Tân viết quyển Tìm hiểu đạo Cao đài [107], một tập hợp 310 câu trả lời của các học giả nước ngoài tìm hiểu đạo CĐ như Teb Dutton, Jeremy Davidson, Sergei A. Blagov. Trên lập trường một tín đồ CĐ, Đồng Tân giải thích vấn đề đặt ra ở nhiều khía cạnh của đạo CĐ theo hướng tôn vinh tôn giáo của mình. Các công trình của Đồng Tân có giá trị trong nghiên cứu về đạo CĐ ở Nam Bộ, nhất là vấn đề nội bộ và sự phân rẽ của tổ chức tôn giáo này. Những tư liệu này giúp luận án đối chiếu, so sánh với nghiên cứu của những người ngoài CĐ. Năm 1974, trong quyển Đại đạo giáo lý và triết lý [98], Trần Văn Rạng giới thiệu một cách khá căn bản những điểm mấu chốt của đạo CĐ như quá trình hình thành, cơ cấu tổ chức, quan niệm về vũ trụ, quan niệm về con người, Đức Thượng Đế, Hội thánh Ngoại giáo. Werner Jayne Susan, Peasant politics and religious sectarianism peasant priest in the Caodai in Vietnam xuất bản năm 1981 [158], Lê Anh Dũng trích
  19. 14 dịch đăng trên Tạp chí Xưa và Nay, số 81B tháng 11/2000. Nội dung tác phẩm gồm: đạo CĐ ra đời ở Nam Bộ thuộc Pháp; địa chủ và nông dân; Tây Ninh - Thánh địa; bành trướng, suy vi và phần kết luận. Công trình là bản rút gọn từ luận án tiến sỹ năm 1976 của tác giả với đề tài: Đạo Cao đài: Chính trị của một phong trào tôn giáo tổng hợp (The Caodai: The Politics of a Vietnamese syncretic religious Movement), Yale University, Southeast Asia Studies, America. Tác phẩm minh chứng rõ đặc trưng nhập thế của đạo CĐ với xã hội Nam Bộ. Werner cho rằng, đạo CĐ là phong trào nông dân lớn nhất Việt Nam thời thuộc Pháp với hàng vạn tín đồ tham gia: “Đạo Cao Đài có một điều mới mẽ cho mọi người. Sự khéo léo kết hợp truyền thống Tam giáo và sự diễn giải rõ ràng, chính xác truyền thống Tam giáo, không những tạo ra sức hút văn hóa mãnh liệt mà còn đưa ra nguồn sinh lực mới” [158, tr.55]. Quan điểm nổi bật trong nghiên cứu này cho rằng chính trị là mục đích quan trọng ra đời đạo CĐ. Sergei Blagov, trong luận án tiến sĩ The Caodai: A New religious movement (Đạo Cao đài: Một phong trào tôn giáo mới) [154] nhận định, sự ra đời đạo CĐ là sự kết hợp giữa phong trào chính trị tôn giáo và tư tưởng truyền thống, một sự hòa giải văn minh phương Đông với văn minh phương Tây, một tổ chức chính trị tôn giáo ở Nam Bộ. Quan điểm của tác giả khá rõ ràng về sự dung hợp của tôn giáo mới, nhưng một trong những yếu tố tạo nên đặc trưng của đạo CĐ là Minh Sư đạo chưa được chú ý nhiều. Năm 1995, công trình Bước đầu tìm hiểu đạo Cao đài [135] do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, giới thiệu khá chi tiết về đạo CĐ ở các vấn đề chính yếu như: lịch sử hình thành, sinh hoạt tôn giáo, tổ chức giáo hội và vai trò xã hội. Đáng chú ý là, các tác giả đưa ra nhiều sự kiện liên quan đến Ngô Văn Chiêu, Phạm Công Tắc, Lê Văn Trung… Tác phẩm chia lịch sử đạo CĐ ra từng giai đoạn cụ thể với những sự kiện trọng yếu. Về ảnh hưởng của đạo CĐ, tác phẩm cho rằng: “Đạo Cao đài mang tính thực hành, một đạo chú trọng đến việc thu hút quần chúng bằng cách đưa cho người dân đương thời món ăn tinh thần; trộn cái đời thường với cái siêu hình, muốn tìm cho họ con đường giải thoát ức chế của
  20. 15 cuộc sống thường ngày” [135, tr.165]. Tác phẩm cũng bàn khá nhiều đến tính dân tộc, tính nhập thế biểu hiện qua sự ảnh hưởng của đạo CĐ đến cộng đồng người Việt ở Nam Bộ. Trần Văn Giàu (1997), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, tập 2: Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử (tái bản lần thứ ba) [43], đề cập đến nguồn gốc, bản chất đạo CĐ, cũng như vấn đề tư tưởng đặt ra trong những cuộc tranh biện hiện tượng đạo CĐ. Trên cơ sở dẫn luận ý kiến của các tác giả người CĐ như Gabriel Gobron, Nguyễn Tử Thức..., lẫn ngoài đạo CĐ như Hòa thượng Thái Điên, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Giàu cho rằng: “Trong một điều kiện cụ thể nào đó, đạo Cao đài tuy là một tôn giáo vẫn, không nhiều thì ít, không trực tiếp thì gián tiếp, mang màu sắc và tính cách chính trị không làm cho dân sợ mà càng làm cho nhiều người chú ý đi theo” [43, tr.216]. Phân tích của Trần Văn Giàu được luận án kế thừa và tiếp tục chỉ ra lý do vì sao tôn giáo này lại phát triển rất mạnh ngay sau khi ra đời. Nguyễn Thanh Xuân, trong luận án tiến sĩ Sử học Quá trình ra đời và phát triển của đạo Cao Đài từ năm 1926 đến năm 1975 [141], đi sâu khảo cứu lịch sử đạo CĐ từ năm 1926 đến năm 1975 và ảnh hưởng của tôn giáo này đối với đời sống chính trị đất nước; làm rõ những nhân tố quan trọng hình thành nên đạo CĐ như: dân cư, địa lý, văn hóa, tín ngưỡng của vùng đất Nam Bộ; chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp; những bế tắc trong cuộc sống của cư dân Nam Bộ đương thời. Đặc biệt, tác giả làm rõ mâu thuẫn nội bộ chức sắc đạo CĐ, một trong những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến việc hình thành các chi phái trong quá trình phát triển của tôn giáo này. Trên cơ sở luận án của mình, Nguyễn Thanh Xuân sau này bổ sung, chỉnh sửa và xuất bản thành cuốn “Đạo Cao đài hai khía cạnh: lịch sử và tôn giáo” [220], tập trung bàn đến hoàn cảnh, điều kiện ra đời của đạo CĐ, quá trình phát triển của đạo CĐ cho đến việc chia rẽ thành các chi phái, rồi hợp nhất. Với đời sống chính trị, tác giả đề cập đến đạo CĐ tham gia kháng chiến cứu quốc và thái
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1