intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sỹ Triết học: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay

Chia sẻ: Han Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:174

102
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực trạng ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đến việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay, luận án đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực góp phần xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sỹ Triết học: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ TÂM ẢNH HƯỞNG QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2019
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ TÂM ẢNH HƯỞNG QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Mã số: 62 22 03 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS,TS Nguyễn Thị Nga 2. TS Ngô Thị Thu Ngà HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Trần Thị Tâm
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm của Nho giáo về gia đình và vấn đề xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay 5 1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng của ảnh hưởng quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay 18 1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến nguyên tắc và giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay 25 1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến luận án và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết 27 CHƯƠNG 2: QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 31 2.1. Quan niệm của Nho giáo về gia đình 31 2.2. Vấn đề xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay 61 2.3. Phương thức ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay 71 CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 76 3.1. Đặc điểm của gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng 76 3.2. Thực trạng của ảnh hưởng quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay 81 3.3. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay 112 CHƯƠNG 4: NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA QUAN NIỆM NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY 122 4.1. Nguyên tắc phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay 122 4.2. Một số giải pháp chủ yếu phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay 130 KẾT LUẬN 154 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 157 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đảng và nhà nước ta đặc biệt đề cao vai trò của gia đình, coi đó là tế bào của của xã hội. Đồng thời, Đảng và nhà nước cũng đưa ra nhiều chủ trương, chính sách để xây dựng gia đình văn hóa nhằm góp phần vào sự phát triển đất nước. Gia đình văn hóa là môi trường đầu tiên và tốt nhất hình thành nhân cách con người đồng thời là tế bào quan trọng để xây dựng xã hội bởi gia đình là xuất phát điểm cho sự triển khai các quy phạm luân lý theo hướng mở rộng từ nội ra ngoại. Một người có thể tự giác tuân thủ các chuẩn mực hành vi đạo đức, thực hiện bổn phận, trách nhiệm của mình đối với người khác và đối với xã hội hay không phải bắt nguồn từ gia đình. Quá trình xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam chịu sự tác động mạnh mẽ của văn hóa truyền thống đặc biệt là Nho giáo. Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội của người Việt như trong cuốn sách Nho giáo xưa và nay do tác giả Vũ Khiêu chủ biên viết: “Ở Việt Nam, những mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, bè bạn, anh em trong một thời gian hàng nghìn năm đều rập khuôn theo Nho giáo” [72, tr.379]. Hiện nay, một trong những giá trị còn lại và ảnh hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam đó là đạo đức gia đình. Đạo đức gia đình của Nho giáo đã được người Việt tiếp nhận và cải biến đi để trở thành văn hóa gia truyền thống đặc trưng của mình. Chính điều đó đã tạo nên một số khác biệt giữa Nho giáo Việt Nam và Nho giáo Trung Quốc về vấn đề gia đình. Đồng bằng sông Hồng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước trong đó khu vực nông thôn chiếm phần lớn diện tích và dân số. Nông thôn đồng bằng sông Hồng vốn là khu vực có phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu và là một trong những nơi đầu tiên Nho giáo truyền vào Việt Nam nên ở đây lưu giữ nhiều giá trị văn hóa Nho giáo lâu dài, đặc biệt là dấu ấn sâu đậm về văn hóa gia đình. Bởi vậy, quan niệm của Nho giáo về gia đình đã ảnh hưởng đến quá trình xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trên cả hai bình diện tích cực và hạn chế. Cụ thể, về ảnh hưởng tích cực: Nho giáo đề cao vai trò của gia đình và các chuẩn mực như tôn ti trật tự, các thành viên phải có trách nhiệm quan tâm lẫn nhau…, phù hợp với những tiêu chí quan trọng của gia đình văn hóa. Mặt khác, chủ nghĩa gia đình, tính gia trưởng cực đoan, tư tưởng trọng nam khinh nữ, nghi lễ
  6. 2 rườm rà trong quan niệm của Nho giáo…, lại có ảnh hưởng tiêu cực đi ngược lại với các tiêu chí tiến bộ, văn minh của gia đình văn hóa. Hiện nay, quá trình xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng chịu sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, công nghệ thông tin... Bên cạnh những tác động tích cực thì những yếu tố này đã làm văn hóa gia đình biến đổi theo chiều hướng tiêu cực như: gia tăng tình trạng ly hôn, tình trạng mắc tệ nạn xã hội của thanh thiếu niên; gia đình và các chuẩn mực đạo đức truyền thống không được coi trọng, một số trật tự phép tắc trong gia đình bị đảo lộn, các thành viên thiếu tình thương, trách nhiệm và sự quan tâm lẫn nhau, thanh thiếu niên mắc tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng… Vì thế, giáo dục con người theo những chuẩn mực đạo đức tiến bộ của Nho giáo sẽ góp phần khắc phục những tiêu cực do sự tác động của các yếu tố trên. Như vậy, chúng ta phải gạn đục khơi trong khi nghiên cứu ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa để khai thác những giá trị tích cực và hạn chế những tiêu cực. Từ đó, chúng ta đưa ra những giải pháp ứng xử với vấn đề này một cách phù hợp như tác giả Vũ Khiêu nhận xét: “nếu không đặt vấn đề nghiên cứu Nho giáo một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ buông trôi cho sự phục hồi những nhân tố tiêu cực của Nho giáo, đồng thời sẽ lãng phí những nhân tố tích cực mà Nho giáo còn có thể đóng góp vào sự nghiệp của đất nước ta hôm nay” [75, tr.40]. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học. 2. Mục tiêu và nhiêm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực trạng ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đến việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay, luận án đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực góp phần xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng.
  7. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu đã nêu trên luận án sẽ giải quyết một số nhiệm vụ sau: - Thứ nhất, tổng quan lại hệ thống các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài - Thứ hai, trình bày có hệ thống một số vấn đề lý luận liên quan đến quan niệm của Nho giáo về gia đình và vấn đề xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay. - Thứ ba, phân tích, làm rõ thực trạng ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay và một số vấn đề đặt ra. - Thứ tư, đề xuất nguyên tắc và một số giải pháp chủ yếu phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về gia đình và ảnh hưởng của nó đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian nghiên cứu: nghiên cứu ở khu vực nông thôn của đồng đồng bằng sông Hồng. - Phạm vi thời gian nghiên cứu: trong luận án, tác giả nghiên cứu vấn đề ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng từ năm 1986 đến nay. - Phạm vi nội dung nghiên cứu: quan niệm của Nho giáo về gia đình có nội dung rất phong phú nhưng trong luận án, tác giả tập trung nghiên cứu đạo đức gia đình. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận - Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước về vấn đề gia đình.
  8. 4 - Luận án tiếp thu, kế thừa có chọn lọc và phát triển những giá trị khoa học của một số công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến nội dung của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp đối chiếu và so sánh…, để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà đề tài luận án đặt ra. 5. Đóng góp của luận án - Làm rõ nội dung cơ bản của quan niệm Nho giáo về gia đình và quá trình du nhập, biến đổi của các quan niệm này ở Việt Nam. Đồng thời, luận án làm rõ một số nội dung cơ bản về xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích thực trạng ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay. Đồng thời, luận án phân tích một số vấn đề đặt ra từ những ảnh hưởng ấy. - Đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án góp phần vào việc tìm hiểu quan niệm của Nho giáo Trung Quốc và Nho giáo Việt Nam về gia đình và ảnh hưởng của nó đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng. Từ đó, luận án đề ra các nguyên tắc và giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của quan niệm Nho giáo về gia đình trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay. - Luận án cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các trường học viện, đại học, cao đẳng hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
  9. 5 Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Nho giáo Quan niệm của Nho giáo về gia đình có thể tìm thấy trong các tác phẩm gốc và những công trình nghiên cứu về Nho giáo. Những công trình này tập trung trình bày nguồn gốc ra đời của Nho giáo, các chuẩn mực đạo đức của Nho giáo, quá trình du nhập Nho giáo, sự ảnh hưởng và sự biến đổi của quan niệm Nho giáo về gia đình ở Việt Nam, tiêu biểu có thể kể đến các công trình: Về tác phẩm gốc của Nho giáo, tác giả luận án đọc và trích dẫn chủ yếu trong cuốn Tứ thư tập chú của Chu Hy do Nguyễn Đức Lân dịch [66]. Có nhiều công trình ghi lại nội dung của Nho giáo nhưng tác giả luận án cho rằng cuốn Tứ thư tập chú của Chu Hy là đầy đủ và được dịch dễ hiểu nhất. Từ đó, tác giả luận án lấy công trình này làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Cuốn sách Khổng giáo phê bình tiểu luận của Đào Duy Anh [1]. Đào Duy Anh là một trong những người đầu tiên áp dụng phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam. Ông không tán thành hai khuynh hướng ủng hộ nhiệt thành và phê phán kịch liệt Nho giáo như ở Trung Quốc mà ông vận dụng phương pháp luận macxit để chỉ ra ưu, nhược một cách khách quan nhưng tinh thần chung của tác phẩm này vẫn là phê phán. Điều này không tránh khỏi vì đây là xu hướng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, Đào Duy Anh không tán thành quan điểm phủ định sạch trơn, coi khinh Nho giáo vì ông cho rằng: “dẫu nó không thích hợp ở đời nay, mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn trọn vẹn trong lịch sử, không ai có thể chối cãi hay xóa bỏ đi được” [1, tr.150]. Đào Duy Anh cũng lưu ý các nhà Tân học về thái độ đối với văn hóa truyền thống dân tộc nói chung và với Khổng giáo nói riêng: Khổng giáo ở nước ta xưa nay chưa từng có ai nghiên cứu cho tường tận. Các nhà cựu học thì cho Khổng giáo là kim khoa ngọc luật, cứ học
  10. 6 theo cho đúng chứ không cần phải dùng trí phê bình. Còn các nhà tân học thì khinh rẻ quá. Hiện nay ta phải đem phương pháp khoa học mà nghiên cứu Khổng giáo thì mới biết rõ địa vị và công dụng của nó trong lịch sử được [1, tr.1]. Cuốn sách Khổng học đăng của Phan Bội Châu [19]. Trong tác phẩm này, tác giả đã chỉ ra cái hay, tích cực đồng thời phê phán những tiêu cực có liên quan đến Nho giáo. Phan Bội Châu thấy được giá trị cao quý của đạo Khổng nên trước việc nhiều người không đánh giá đúng đạo Khổng ông đã viết cuốn sách này nhằm gửi lại cho các thế hệ sau nhận thức đúng về những giá trị của Nho giáo. Cuốn sách Nho giáo của Trần Trọng Kim [79]. Tác giả muốn tìm hiểu quá trình tồn tại, phát triển của Nho giáo và cái người ta đã vận dụng Nho giáo như thế nào để hiểu rõ phần tinh túy của Nho giáo cũng như biết được tại sao mà “thành ra hư hỏng”. Khi bàn về gia đình, Trần Trọng Kim cũng nhấn mạnh nhiều về đức hiếu. Tác giả đề cao vai trò của hiếu và giảng giải thực hành hiếu như thế nào theo tinh thần của Khổng Tử. Theo tác giả “Chữ hiếu trong Khổng giáo quan trọng như thế, cho nên người đi học phải xét cho kỹ, chớ nên vội vàng phán đoán nông nổi mà hiểu sai lầm” [79, tr.152]. Cuốn sách Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm [34]. Tác giả giải thích những nội dung cơ bản của Nho giáo, đó là: tam tài, đạo đức và chính trị, nhà, nước, thiên hạ, vấn đề học tập Nho giáo. Trái ngược với hai thái độ cực đoan (ca ngợi hay phủ nhận) của các nhà Nho khác, Quang Đạm cho rằng “Nho giáo vốn đã có những mặt hạn chế và tiêu cực nhất định cả đối với đương thời” [34, tr.464] nên nhiệm vụ của chúng ta là “Cái chính là phải nhìn phải nhìn rõ những hậu quả xấu xa, tệ hại của nó trong xã hội mới chúng ta để xóa bỏ cho triệt để và cũng phải nhìn rõ mặt tích cực cơ bản của nó để giữ gìn và phát huy nhằm thúc đẩy sự nghiệp chúng ta tiến lên” [34, tr.469]. Bài viết “Nền giáo dục theo tinh thần Nho giáo” của Đặng Đức Siêu được trình bày trong cuốn sách Nho giáo xưa và nay do Vũ Khiêu chủ biên. Đặng Đức Siêu đã trình bày mục đích, nội dung giáo dục và đưa ra những đánh giá tích cực và hạn chế về nền giáo dục Nho giáo: “Nền giáo dục học thuật kéo dài qua hàng trăm thế hệ ấy đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong đời sống văn hóa, trong tâm thế ứng xử của người Việt Nam” [72, tr.213]. Những di sản của Khổng giáo vẫn
  11. 7 bám sát chúng ta và phát huy ảnh hưởng (cả xấu lẫn tốt) nên theo tác giả “Vấn đề đặt ra là cần phải tìm cách nhận diện chúng và xử lý chúng một cách khoa học” để “đổi mới nội dung của những khái niệm gắn bó với những bậc thang giá trị cũ, đem lại cho chúng sức sống mới trong thời đại mới,…” [72, tr.215-216]. Có thể thấy rằng, những công trình trên đã phác họa cho người đọc một cái nhìn khá toàn diện về Nho giáo. Mặc dù có những ý kiến khác nhau trong việc đánh giá hệ tư tưởng Nho giáo nhưng nhìn chung các tác giả đều khẳng định ảnh hưởng tích cực của nó đến các lĩnh vực khác nhau của nước ta và đồng thời đặt ra vấn đề cần kế thừa Nho giáo một cách khoa học. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm của Nho giáo về gia đình Cuốn sách Đến hiện đại từ truyền thống của Trần Đình Hượu [63].Tác giả đưa ra hai loại hình gia đình truyền thống cơ bản ở Việt Nam là gia đình nông dân và gia đình nhà Nho. Tác giả chỉ ra ảnh hưởng của Nho giáo đối với các gia đình đó là dùng tình, lễ để làm cho gia đình hòa thuận và nguyên tắc ứng xử là tôn trọng tôn ti trật tự, đề cao tính gia trưởng, trọng nam khinh nữ. Nét đặc sắc của cuốn sách này là tác giả khẳng định gia đình truyền thống Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho giáo sâu sắc nhưng tìm sự ảnh hưởng đó không chỉ nên căn cứ vào lý thuyết Nho giáo, mà nên nhìn gia đình trong thể chế chính trị - kinh tế - xã hội tổ chức theo Nho giáo. Cuốn sách Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm [34]. Trong chương IV của cuốn sách này, tác giả bàn luận về phạm trù “Nhà” của Nho giáo. Từ việc nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về vai trò của gia đình và mối quan hệ giữa nhà và nước, Quang Đạm kết luận: “luôn luôn nhớ kĩ rằng nhà là chỗ đứng vững chắc cần phải giữ vững trong mọi quan hệ giữa người với người, trong quan hệ giữa con người mình với đất nước và thiên hạ, đó là điểm rất cơ bản trong hệ tư tưởng Nho giáo” [34, tr.173]. Tác giả cũng ra những nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo về gia đình, đó là: “lối sống giữ chặt đẳng cấp tôn ti trật tự và quyền uy gia đình, tư tưởng về hiếu và các biện pháp báo hiếu, tư tưởng trọng nam khinh nữ…, tất cả đều nhằm mục đích “thống trị cả nước, cả thiên hạ bằng bộ máy gia tộc” [34, tr.189] và “bảo vệ trước hết quyền lợi của gia tộc cầm quyền thống trị” [34, tr.191]. Cuốn sách Nho giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy [32]. Tác giả chỉ rõ những nội dung cơ bản trong xây dựng gia đình Nho giáo. Đó là: thứ
  12. 8 nhất, Nho giáo xây dựng gia đình theo nội dung hiếu đễ; thứ hai, Nho giáo rất mực đề cao gia giáo; thứ ba, gia đình Nho giáo tuyệt đối phụ quyền gia trưởng. Về phần đạo hiếu tác giả khẳng định: Nho giáo đề cao chữ hiếu, cái hay là thực sự dạy con người thương yêu kính trọng cha mẹ đã sinh thành nuôi dưỡng, gây dựng nên cơ nghiệp cho con cái. Còn cái dở là đồng nghĩa tình yêu thương cha mẹ với yêu thương ngai vàng nhà vua, nước của vua. Chấp nhận sự tước đoạt của nhà vua như sự phụng dưỡng cha mẹ mình [32, tr.145]. Cuốn sách Văn hóa gia đình Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh [70]. Tác giả đã trình bày rất đầy đủ về các vấn đề liên quan đến gia đình đó là: nền nếp và tập tục và thực trạng của gia đình hiện nay. Tác giả chia ra ba loại gia đình trong xã hội truyền thống Việt Nam, đó là: loại gia đình nhà Nho nghiêm túc; loại gia đình theo Nho giáo một cách nệ cổ, máy móc áp dụng nguyên tắc hà khắc của Nho giáo; loại gia đình bình dân. Cuối cùng tác giả kết luận: “Đã rõ là hầu hết gia đình Việt Nam xưa (ngày nay thì ảnh hưởng cũng còn nhiều) đều theo Nho giáo” [70, tr.141]. Cuốn sách Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ của Nguyễn Tài Thư [158]. Trong cuốn sách này ngoài việc phân tích xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc, quan niệm của các nhà Nho về vấn đề tính người thì tác giả tập trung phân tích mối quan hệ của con người với các quan hệ tự nhiên và xã hội, đặc biệt tác giả đề cập nhiều về các quan hệ trong gia đình. Trong đó, tác giả nhấn mạnh: “hai phía của một mối quan hệ đều có nghĩa vụ với nhau và đều làm tiền đề cho đối phương phải có thái độ thích hợp với mình” [158, tr.96-97]. Bài viết Sách gia huấn và vấn đề giáo dục gia đình theo quan niệm của các nhà Nho Việt Nam của Đỗ Thị Hảo được in trong cuốn sách Nho giáo ở Việt Nam của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Harvard - Yenching Hoa Kỳ [184]. Tác giả khẳng định gia đình có vai trò quan trọng trong xã hội nên từ thời phong kiến các nhà Nho Việt Nam đã rất quan tâm tới việc viết sách “gia huấn” để giáo dục con cháu. Cùng với việc chỉ ra hệ thống sách “gia huấn”, tác giả quan tâm nhiều tới nội dung giáo dục phụ nữ. Tác giả khẳng định: “chiếm phần quan trọng trong nội dung sách “gia huấn” là vấn đề giáo dục phụ nữ” [184, tr.229]. Bài viết “Vấn đề trách nhiệm trong quan hệ gia đình qua tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam” của Nguyễn Bá Cường trong cuốn Trách nhiệm xã hội của Nho
  13. 9 giáo trong lịch sử Việt Nam và Hàn Quốc [39]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích rõ khái niệm trách nhiệm theo quan điểm Nho giáo đồng thời tác giả chỉ ra quan điểm của các nhà Nho Việt Nam về trách nhiệm của của từng người thuộc ba mối quan hệ cơ bản trong gia đình: cha- con, chồng- vợ, anh - em. Từ đó tác giả đưa ra những bài học về trách nhiệm trong quan hệ gia đình hiện nay. Bên cạnh việc khẳng định Nho giáo và quan niệm của Nho giáo về gia đình có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống người Việt, một số tác giả cũng cho rằng, quan niệm của Nho giáo về gia đình ở Việt Nam đã được người Việt cải biến đi để phù hợp với văn hóa người Việt, tiêu biểu như: Bài viết “Nho giáo với văn hóa Việt Nam” của Trần Quốc Vượng được đăng trong cuốn Nho giáo xưa và nay của Vũ Khiêu chủ biên [72]. Tác giả Trần Quốc Vượng đã chỉ rõ sự khác biệt giữa trật tự tam cương của Nho giáo ở Trung Quốc và Việt Nam: “Nho trọng CHA trong khi người Việt trọng MẸ, Nho trọng CHỒNG trong khi người Việt trọng VỢ, Nho trọng VUA trong tôn quân trong khi người Việt trọng LANG đại thống nhất” [72, tr.171]. Đây là sự biến đổi của Nho giáo Việt Nam so với Nho giáo Trung Quốc khi bàn luận về vấn đề gia đình. Bài viết “Nhân dân Việt Nam dưới tác động của Khổng giáo” của Vũ Khiêu đăng trong cuốn sách Nho giáo tại Việt Nam do Lê Sĩ Thắng chủ biên [136]. Trong bài viết này, tác giả Vũ Khiêu chỉ ra điểm khác biệt trong quan niệm về đạo vợ chồng và địa vị của người phụ nữ của Nho giáo Việt Nam so với Nho giáo Trung Quốc. Theo tác giả, mối quan hệ vợ chồng Việt Nam bình đẳng hơn so với Trung Quốc và người phụ nữ Việt Nam có địa vị cao hơn so với người phụ nữ Trung Quốc. Cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo nhưng nhân dân ta có thái độ “phản ứng lại” trong quá trình tiếp nhận Tam cương Ngũ thường. Theo tác giả: “Về quan hệ cha con, chồng vợ, truyền thống của dân tộc ta cũng rất khác với đạo lý của Khổng Tử. Dân tộc ta từ lâu đời đã xây dựng những tình cảm sâu sắc và thủy chung giữa cha mẹ với con cái và tình nghĩa vợ chồng, anh em, bè bạn. Đó là những tình cảm tự nhiên bình đẳng, lành mạnh. Tình cảm ấy không giống như chữ hiếu của Khổng Tử” [136, tr.269]. Cuốn sách Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam của Phan Đại Doãn [28]. Trong nội dung này, tác giả trình bày sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với gia đình
  14. 10 truyền thống Việt Nam ở các vấn đề: nhà nước với gia đình, làng xã với gia đình, dòng họ với gia đình. Nét đặc sắc trong cuốn sách này là tác giả đã chỉ ra điểm khác biệt giữa địa vị của người phụ nữ Việt Nam: “Người vợ trong gia đình Việt Nam, nhìn chung có vị trí cao hơn trong gia đình ở Trung Quốc và Nhật Bản. Đó là quan hệ tương đối bình đẳng” [28, tr.172]. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra những nhận xét về gia huấn- thơ ca giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam theo tinh thần Nho giáo. Cuốn sách Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, tập 3 của Nguyễn Khắc Thuần [160]. Tác giả trình bày rõ ba mối quan hệ cơ bản trong gia đình của Nho giáo Việt Nam. Về đạo hiếu, tác giả khẳng định: “Xã hội nước ta xưa kia tuy có mượn những khái niệm của Đạo hiếu mà Nho gia đã nêu ra để xây dựng và củng cố gia giáo, nhưng, Đạo hiếu của tổ tiên ta thoáng hơn, công bằng và cảm động hơn” [160, tr.242]. Về đạo vợ chồng, tác giả có những đánh giá rất xác thực và tinh tế khi nhận định: “Mối quan hệ vợ chồng trong Đạo vợ chồng của Nho gia là mối quan hệ lệ thuộc, trong đó, người chồng có quyền uy rất lớn,… Đạo vợ chồng của tổ tiên ta ngỡ như giản dị nhưng lại rất tinh tế và sâu sắc, ở đó, tình và nghĩa luôn luôn quyện chặt với nhau, lòng thủy chung son sắt được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu” [160, tr.244]. Về đạo anh em, theo tác giả Nho giáo Trung Quốc đề cao “quyền huynh thế phụ” còn ở Việt Nam thì khác không chỉ đề cao tình huynh trưởng mà còn đề cao quan hệ ruột thịt. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu của các học giả Trung Quốc về quan niệm gia đình của Nho giáo dưới dạng những cuốn sách chuyên khảo được dịch ra tiếng Việt trong những năm trở lại đây đã cho chúng ta một cái nhìn khá toàn diện về nội dung cơ bản trong Nho giáo và những quan niệm về gia đình của Nho giáo. Tiêu biểu: Cuốn sách Gia giáo Trung Quốc cổ của Diêm Ái Dân [27]. Tác giả đã trình bày vai trò của giáo dục đạo đức trong gia đình, những nội dung và phương pháp của giáo dục đạo đức gia đình theo chuẩn mực của Nho giáo. Tác giả cũng đã đưa ra lối giáo dục truyền thống trọng nam khinh nữ trong các gia đình Trung Quốc. Đặc biệt trong phần cuối cuốn sách, tác giả đã đưa ra vai trò, mối quan hệ giữa giáo dục gia đình với giáo dục tông tộc và ngoài xã hội. Tác giả khẳng định giáo dục trong gia đình là một biện pháp của chính quyền nhằm ổn định xây dựng xã hội.
  15. 11 Cuốn sách Đạo hiếu trong Nho gia của Cao Vọng Chi [22]. Tác giả đã tìm tòi, thu thập tất cả những tư liệu về đạo hiếu trong tư tưởng Nho gia truyền thống của Trung Quốc. Tác giả luận giải một số sách liên quan đến giáo dục đức hiếu cho người phụ nữ như Nữ hiếu kinh, Nữ luận ngữ. Tác giả trình bày ảnh hưởng của Nho giáo, của đức hiếu đối với Việt Nam, Triều Tiên, Hàn Quốc. Ở Việt Nam, tác giả đã lấy dẫn chứng triều đình phong kiến thường giáo dục đức hiếu, đề cao gương hiếu thảo (thời Minh Mạng nhà Nguyễn), tập tục thờ cúng tổ tiên, nền nếp sinh hoạt gia đình theo tam, tứ đại đồng đường ở các vùng nông thôn. Cuốn sách Nho gia với Trung Quốc ngày nay của Vi Chính Thông [151]. Với thái độ phê phán khách quan khoa học được phổ biến rộng rãi từ sau phong trào văn hóa mới tại Trung Quốc, tác giả không phủ nhận những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo nhưng tác giả cho rằng, phải chỉ rõ những hạn chế chủ yếu của nó như: sự hiểu biết nông cạn về cuộc sống hay căn bệnh về đạo hiếu; chỉ khi nghiên cứu và chỉ rõ những ưu điểm và hạn chế của đạo đức Nho giáo mới giúp cho thế hệ trẻ tránh khỏi những suy tưởng phiến diện về Nho giáo và để khắc phục những ảnh hưởng không tốt của những quan điểm lạc hậu trong Nho giáo đối với sự phát triển chung của đời sống xã hội Trung Quốc hiện đại. Đây cũng là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong cách khai thác các giá trị của Nho giáo. Bên cạnh các cuốn sách nghiên cứu về Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam còn có các bài viết: Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo Việt Nam từ thời kỳ Bắc thuộc đến triều Lý của Trần Việt Thắng [137], Đạo đức Nho giáo trong đời sống Việt Nam của Nguyễn Thế Kiệt [78], Đặc điểm của Nho Việt của Nguyễn Hùng Hậu [52]... Nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về gia đình có các bài báo: Lễ giáo Nho gia phong kiến kìm hãm bước tiến lên của phụ nữ Việt Nam hiện nay của Lê Văn Quán [119], Thử bàn về đạo“hiếu” của Nho gia của Lê Văn Quán [120], Nho giáo và văn hóa ứng xử của người Việt bình dân trong quan hệ hôn nhân và gia đình của Nguyễn Thị Kim Loan [89], Quan niệm của nhà Nho và người nông dân về gia đình của Nguyễn Xuân Kính [80],… Bên cạnh việc khẳng định sự ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với đời sống gia đình của
  16. 12 người Việt thì các tác giả đều thừa nhận sự biến đổi của những chuẩn mực đạo đức gia đình Nho giáo Việt Nam so với Nho giáo Trung Quốc. Trong đó: Tác giả Nguyễn Thị Kim Loan đưa ra sự so sánh: Trong quan hệ cha- con, Nho giáo chủ trương tinh thần áp đặt “Cha có thể không nhân từ, nhưng con không thể không có hiếu - Cha muốn con chết mà con không chết là bất hiếu” thì người Việt bình dân lại “Trẻ cậy cha, già cậy con - Con đâu, cha mẹ đấy”. Trong quan hệ vợ- chồng, Nho giáo chủ trương đề cao đạo tam tòng “phu xướng, phụ tùy” thì quan niệm của chúng ta là “của chồng, công vợ”, “lệnh ông không bằng cồng bà”, “nhất vợ nhì giời”… Từ đó, tác giả chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản của sự khúc xạ trên. Tác giả Nguyễn Xuân Kính đã phân loại gia đình chủ yếu trong xã hội là gia đình nhà Nho và gia đình nông dân. Gia đình nhà Nho ảnh hưởng nặng nề hơn về tính gia trưởng mà nguyên nhân là: “Do đề cao quá khứ đến mức lấy quá khứ làm mẫu mực, nhà Nho đã ít khi vượt được giới hạn của tính gia trưởng để có thể phát biểu được như người nông dân: “Con hơn cha là nhà có phúc; Sau hơn trước, nước được nhờ” [80, tr.51]. Người phụ nữ trong gia đình nông dân cũng được đề cao hơn trong gia đình nhà Nho. Đặc biệt tác giả đã chỉ ra sự khác nhau khá rõ: “về các mối quan hệ vợ chồng, cha con, anh em, Nho giáo thường đề ra những yêu cầu cần có tính chất lý tưởng, thậm chí không tưởng, chỉ chú ý đến mặt thuận, mặt tốt đẹp. Trong khi đó, thực tế có cả mặt thuận và mặt chưa thuận, có cả điều hay và điều dở” [80, tr.52]. Như vậy, các công trình trên đều khẳng định quan niệm của Nho giáo về gia đình có ảnh hưởng sâu sắc đến gia đình ở nước ta. Đồng thời, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định có sự cải biến chuẩn mực đạo đức gia đình của Nho giáo Việt Nam. Điều này làm cho các chuẩn mực đạo đức gia đình của Nho giáo Việt Nam không khắt khe như Nho giáo bản địa. Đây chính là nét đặc sắc của người Việt Nam trong việc tiếp thu và kế thừa văn hóa bên ngoài. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay Tài liệu nghiên cứu về gia đình rất phong phú tuy nhiên nghiên cứu riêng về xây dựng gia đình văn hóa thì không nhiều. Chính vì vậy, muốn hiểu được xây dựng gia đình văn hóa cần phải nghiên cứu từ tài liệu liên quan đến vấn đề gia đình từ đó chỉ ra
  17. 13 thực trạng văn hóa gia đình, một số biến đổi trong văn hóa gia đình hiện nay để có cái nhìn sâu sắc hơn, toàn diện hơn về gia đình văn hóa. Trong đó: Cuốn sách Gia đình học của Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý chủ biên[68]. Đây là một công trình nghiên cứu khoa học công phu về vấn đề gia đình bao gồm cả lý luận và kết quả thực tiễn mà các tác giả trực tiếp khảo sát. Đặc biệt, các tác giả đã chỉ ra sự khác biệt của văn hóa gia đình người Việt với văn hóa gia đình Nho giáo, đó là gia đình Trung Hoa chú trọng nhiều tới mối quan hệ họ hàng, nghiêng về bổn phận, trách nhiệm còn gia đình người Việt thì mang sắc thái xã hội, nghiêng nhiều tới mối quan hệ tình cảm. Đồng thời các tác giả nhấn mạnh, chính văn hóa phương Tây đã buộc văn hóa gia đình Việt Nam phải thức tỉnh: “những quan điểm bảo thủ, cổ lỗ của gia đình Việt Nam vốn được che đậy cũng bộc lộ ngày càng rõ nét hơn” [68, tr.126]. Mặt khác, chính văn hóa phương Tây cũng làm cho văn hóa gia đình Việt Nam biến dạng theo nghĩa tiêu cực: “sự khủng hoảng của gia đình, sự sai lệch trong định hướng giá trị về gia đình trước sức ép của thị trường hàng hóa và đồng tiền, những vấn đề về tệ nạn xã hội, mại dâm, cờ bạc…, cũng là kết quả của sự tiếp xúc văn hóa gia đình phương Tây” [68, tr.132]. Từ thực tiễn của văn hóa gia đình Việt Nam, các tác giả đã xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cuốn sách Gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh của Nguyễn Hữu Minh chủ biên [108]. Công trình này đã tập hợp các bài viết phân tích đánh giá thực trạng đạo đức gia đình, những biến đổi về gia đình và đưa ra những yêu cầu cần được khắc phục, tiêu biểu: Bài viết Gia đình Việt Nam và một số vấn đề đặt ra hiện nay của Nguyễn Hữu Minh. Tác giả đã phân tích sự biến đổi văn hóa gia đình hiện nay: sự gia tăng của gia đình quốc tế - cô dâu Việt lấy chồng nước ngoài qua môi giới; sự xuất hiện nhiều hơn các gia đình gồm những người sống chung nhưng không kết hôn (tập trung nhiều ở giới trẻ, khu công nhân), gia đình bố mẹ đi làm ăn xa lâu ngày mới về để con cái cho ông bà chăm sóc… Tất cả những gia đình kiểu này đều không hợp với gia đình truyền thống Nho giáo và đang bộc lộ nhiều mặt hạn chế, tiêu cực của nó. Từ đó, tác giả yêu cầu loại gia đình này rất cần được quan tâm nghiên cứu.
  18. 14 Bài viết Biến đổi giá trị trong mối quan hệ vợ chồng của Bùi Thị Hương Trầm. Tác giả đã chỉ ra những biến đổi trong quan hệ vợ chồng: quyền sở hữu tài sản, bình đẳng vợ chồng cùng thực trạng những vấn đề trên đang tồn tại trong xã hội. Từ đó tác giả kết luận: “Ngày nay, quan hệ vợ chồng đã có sự bình đẳng hơn. Người vợ và người chồng đều có quyền sở hữu tài sản, đều phải có nghĩa vụ với nhau. Mệnh lệnh của người chồng được thay thế bằng sự trao đổi, thảo luận các vấn đề quan trọng trong gia đình” [108, tr.272]. Bài viết Biến đổi của gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập của đất nước và sự cần thiết ngăn chặn bạo hành gia đình hiện nay của Lê Thi. Trọng tâm của bài viết tác giả nhận định: Điểm nổi bật của sự chuyển biến từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại là: gia đình truyền thống hy sinh quyền lợi cá nhân, đỏi hỏi cá nhân phục tùng lợi ích của gia đình và dòng họ… Ở gia đình hiện đại, là xu hướng ngày càng đề cao sự giải phóng cá nhân, tự do và hạnh phúc cá nhân trong gia đình [108, tr.536]. Cuốn sách Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam của Lê Ngọc Văn [180]. Tác giả khá công phu khi chỉ ra đặc điểm của gia đình truyền thống, gia đình hiện đại và những biến đổi gia đình ở Việt Nam hiện nay cùng các nhân tố làm biến đổi. Các nhân tố làm biến đổi gia đình đó là do công nghiệp hóa, toàn cầu hóa và tác động của nhà nước. Tác giả đưa ra những biến đổi về chức năng gia đình (kinh tế, sinh đẻ, xã hội hóa, tâm lý - tình cảm) và biến đổi cấu trúc gia đình (quan hệ hôn nhân, quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình). Nếu như trước kia trong hôn nhân con cái là do cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì bây giờ con cái quyết định hôn nhân có sự đồng ý của cha mẹ chiếm 66,2%, bố mẹ quyết định chỉ chiếm 6,6% [180, tr.297], xu hướng sống thử trước hôn nhân tăng lên [180, tr.320], mô hình gia đình hạt nhân ngày càng tăng lên thay thế cho gia đình mở rộng… Cuốn sách Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện gia đình và Giới, Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) xuất bản [16]. Đây là một công trình nghiên cứu đồ sộ và toàn diện về gia đình Việt Nam với một số nội dung cơ bản như sau: một là, về quan hệ gia đình, trong đó công trình tập trung vào nghiên cứu quan hệ hôn nhân, quan hệ
  19. 15 giữa vợ và chồng; cha mẹ và con cái; hai là, về vị thành niên và người cao tuổi trong gia đình; ba là, về mâu thuẫn, xung đột và bạo lực gia đình; bốn là, về điều kiện sống và phúc lợi gia đình… Đó là bức tranh cung cấp cho tác giả luận án những thông tin về tình hình gia đình ở Việt Nam hiện nay. Cuốn sách Quản lý nhà nước về gia đình, lý luận và thực tiễn của Lê Thị Quý [128]. Đây là nguồn tài liệu bổ ích cung cấp kiến thức quản lý nhà nước về gia đình phục vụ cho nghiên cứu gia đình trong giai đoạn hiện nay. Theo các tác giả, hiện nay gia đình Việt Nam bên cạnh những bước phát triển mới, tiến bộ cũng phải đối diện với rất nhiều thách thức và đang xuất hiện những dấu hiệu của sự khủng hoảng, tan vỡ. Từ đó, các tác giả chỉ ra nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên trong đó phần quan trọng thuộc về sự nhận thức của người dân, quản lý nhà nước về gia đình còn yếu kém và nhiều gia đình còn xem nhẹ việc chăm sóc, giáo dục, bảo vệ con cái. Sau đó, các tác giả đi đến kết luận: “các gia đình nếu không được hỗ trợ, không được chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tinh thần và nhận thức, sẽ không đủ năng lực đối phó với những biến động và sự thay đổi nhanh chóng về kinh tế xã hội và không làm tròn được chức năng của mình” [128, tr.7]. Cuốn sách Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới của Trần Hữu Tòng, Trương Thìn [163]. Đây là công trình tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu về vấn đề xây dựng gia đình văn hóa. Nội dung của cuốn sách được chia làm ba phần cơ bản. Trong đó: phần một là các bài viết giới thiệu một số quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ đổi mới; phần hai là các bài viết về vấn đề gia đình và gia đình văn hóa với những tiêu chuẩn cụ thể; phần ba là những bài viết chỉ ra kinh nghiệm và định hướng cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa ở một số địa phương trên địa bàn cả nước. Đề tài cấp Bộ Đánh giá việc thực hiện các tiêu chí gia đình văn hóa hiện nay và xây dựng tiêu chí gia đình văn hóa trong giai đoạn mới do Lê Trung Trấn chủ trì [167]. Với việc thực hiện điều tra xã hội học của một số tỉnh ở cả ba khu vực Bắc, Trung, Nam tác giả đã đưa ra kết luận thực trạng việc xây dựng gia đình văn hóa và tiêu chí gia đình văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Đó là: Gia đình văn hóa được xây dựng dựa trên cơ sở xác định được các giá trị và các chuẩn mực của gia đình Việt Nam hiện đại… Sự kết hợp các
  20. 16 giá trị truyền thống và giá trị mới bảo đảm cho văn hóa gia đình Việt Nam không bị đứt đoạn cũng như không tụt hậu, đáp ứng được những đòi hỏi của thời kỳ CNH, HĐH đất nước [167, tr.148]. Tác giả đề cao việc kế thừa những chuẩn mực truyền thống và hiện đại- là nhân tố cho việc xây dựng gia đình văn hóa thành công. Cuốn sách Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam của Lê Thi [139]. Tác giả dành nhiều tâm huyết nghiên cứu sự phát triển của gia đình Việt Nam và chức năng giáo dục con người qua các giai đoạn lịch sử của đất nước trước và trong quá trình Đổi mới. Ngoài ra, tác giả đưa nêu sự cần thiết của việc hợp tác giữa gia đình với nhà trường và các thiết chế xã hội khác. Đặc biệt, tác giả còn đưa là những tiêu chí của một gia đình hạnh phúc, đó là: “Gia đình hoà thuận vợ chồng con cái; con ngoan, học giỏi tiến bộ; con cái khỏe mạnh, sống có văn hóa; kinh tế vững vàng, vợ chồng có nghề nghiệp ổn định; chăm sóc cha mẹ già yếu” [139, tr.183]. Thực tế, những tiêu chuẩn này là sự cụ thể hóa các tiêu chí của gia đình văn hóa. Cuốn sách Báo cáo hoàn thiện về ước tính thiệt hại kinh tế do bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam do Nguyễn Hữu Minh và Nata Duvvury, Patricia thuộc Đại học Quốc gia Ireland, Galway thực hiện [107]. Đây là tài liệu rất có giá trị trong việc nghiên cứu vấn đề bạo lực gia đình ở Việt Nam. Các tác giả phân tích vấn đề: bối cảnh xã hội, thực trạng bạo lực gia đình, tác động của bạo lực do chồng hoặc bạn tình gây ra đối với người phụ nữ với những số liệu hoàn toàn mới. Từ đó các tác giả đưa ra những khuyến nghị nhằm hạn chế và khắc phục hậu quả của bạo lực gia đình đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những cuốn sách trên còn rất nhiều bài báo liên quan đến việc xây dựng gia đình, xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ đổi mới. Trong đó: Bài viết “Quá trình phát triển nhận thức của Đảng - Nhà nước về hôn nhân gia đình và xây dựng gia đình văn hóa” của Nguyễn Thị Hà [42]. Tác giả đã đi sâu phân tích quá trình chuyển biến nhận thức của Đảng và nước ta về hôn nhân, gia đình và xây dựng gia đình văn hóa từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và qua các kỳ đại hội của Đảng. Bài báo khẳng định vai trò quan trọng của việc xây dựng gia đình văn hóa trong nhận thức của Đảng. Đây là những tiền
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2