Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ASEM VÀ VAI TRÒ CỦA TIẾN TRÌNH ASEM TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MỐI QUAN HỆ Á - ÂU

4

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ KHU VỰC HOÁ VÀ LIÊN KẾT KINH

4

TẾ KHU VỰC TẠI CHÂU Á-CHÂU ÂU I. Những vấn đề cơ bản về khu vực hoá

4

1. Khu vực hoá là gì?

4

2. Những hình thức biểu hiện của khu vực hoá từ trước đến nay

6

2.1. Thoả thuận tự do thương mại

7

2.2. Đồng minh thuế quan

8

2.3. Thoả ước đầu tư

9

3. Mặt tích cực và tiêu cực của khu vực hoá

10

3.1. Mặt tích cực của khu vực hoá

10

3.1.1. Thúc đẩy thương mại

11

3.1.2. Thiết lập các khối kinh tế chuẩn bị liên kết đa phương

11

3.1.3. Tăng cường hợp tác và an ninh

12

3.2. Mặt tiêu cực của khu vực hoá

14

3.2.1. Chệch hướng thương mại

14

3.2.2. Sự liên kết đang phái gia tăng

15

3.2.3. Hậu quả liên quan đến toàn cầu hoá

16

3.2.4. Đe doạ của các ngoại lệ

16

3.2.5. Chi phí giao dịch

17

4. Mối quan hệ giữa khu vực hoá và toàn cầu hoá

17

II. Một số các liên kết kinh tế khu vực chủ yếu ở khu vực Á-Âu

19

1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á-ASEAN

19

2. Liên minh châu Âu-EU

25

3. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương-APEC

28

5

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

CHƯƠNG II: ASEM VÀ VAI TRÒ CỦA TIẾN TRÌNH ASEM TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MỐI QUAN HỆ Á-ÂU

33

I. ASEM

33

1. Hoàn cảnh ra đời

33

2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM

34

2.1. Mục tiêu

34

2.2. Nguyên tắc hoạt động

35

2.3. Cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM

36

3. Những cơ hội và thách thức của ASEM trong thời gian tới

45

3.1. Những cơ hội

45

3.2. Những thách thức

45

II. Tiến trình ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu

46

1. Vai trò của ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu

46

2. Hợp tác kinh tế ASEM

48

48

2.1. Mục tiêu và nguyên tắc hợp tác 2.1.1. Mục tiêu

48

2.1.3. Nguyên tắc

49

2.2. Lĩnh vực hợp tác

49

2.2.1. Thuận lợi hoá thương mại

50

2.2.2. Chương trình hành động xúc tiến đầu tư

54

2.2.3. Xúc tiến hợp tác tương hỗ giữa các doanh nghiệp

56

2.2.4. Viễn cảnh ASEM

57

2.2.5. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác

58

60

CHƯƠNG III: VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH ASEM

I. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

60

1. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

60

1.1. Tính tất yếu của việc hội nhập

60

1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hội nhập kinh tế

62

quốc tế

2. Vài nét về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

66

6

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

71

3. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

3.1. Những cơ hội đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

71

74

3.2. Những thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

II. Việt Nam trong tiến trình ASEM

76

76

1. Hoàn cảnh tham gia và vị thế của Việt Nam trong tiến trình ASEM

2. Những hoạt động chủ yếu của Việt Nam trong ASEM

77

3. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong tiến trình ASEM

80

3.1. Những cơ hội

80

3.2. Những thách thức

81

III. Các giải pháp thúc đẩy Việt Nam trong tiến trình ASEM

82

1. Về nhận thức, tư tưởng

82

2. Về xây dựng nội dung tiến trình ASEM

84

3. Xây dựng và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước

85

87

4. Về phương hướng và giải pháp điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong tiến trình ASEM

90

92

5. Về công tác xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia trong tiến trình ASEM KIẾN NGHỊ-ĐỀ XUÂT KẾT LUẬN

PHỤ LỤC Phụ lục 1: Các rào cản thương mại trong ASEM Phụ lục 2: Danh mục các dự án hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ Phụ lục 3: Các biện pháp đầu tư hiệu quả nhằm thu hút đầu tư nước ngoài Phụ lục 4: Viễn cảnh ASEM

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

7

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ KHU VỰC HOÁ VÀ

LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC TẠI CHÂU Á-CHÂU ÂU

I. Những vấn đề cơ bản về khu vực hoá

1. Khu vực hoá là gì ?

Ngay những năm đầu của thập niên 70, các học giả đã bắt đầu trăn trở về những

sự kiện kinh tế diễn ra trên thế giới. Và không cần chờ đến đầu thập niên 80 hay

90 của thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu về vấn đề khu vực hoá ngày càng

trở nên rõ nét khi các liên kết kinh tế khu vực được hình thành ngày một nhiều

như Khu vực tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

(ASEAN), Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Liên minh EU…

Theo kinh tế học cổ điển về lợi thể so sánh, hầu hết các quốc gia đều có thể có lợi khi trao đổi buôn bán với các nước khác1. Thực tế cũng chứng minh rằng tự

do hoá thương mại giúp cho các quốc gia phát triển và từ đó giúp cho nền kinh

tế của quốc gia đó tăng trưởng. Chính vì vậy, các quốc gia theo dòng chảy này

tự nguyện tham gia vào cơ chế tự do hoá thương mại quốc tế dưới sự bảo trợ của

Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và Tổ chức Thương mại

Thế giới (WTO). Mục đích cuối cùng của cơ chế này là giảm rào cản thương

mại trên cơ sở các bên cùng có lợi.

Khu vực hoá cũng được hình thành trên nguyên lý tương tự. Sự khác biệt đầu

tiên của khu vực hoá so với toàn cầu hoá chính là nhằm giảm rào cản thương

mại giữa các nước trong cùng một khu vực. Hình thức khu vực hoá có thể dề

thấy nhất là các Khu vực mậu dịch (Regional Trade Area-RTA). Trong khu vực

8

mậu dịch tự do các nước có thể được hưởng những ưu đãi thương mại do các 1 David Ricardo, Nguyên lý về Kinh tế chính trị và Thuế (1987)

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

nước trong cùng khu vực tự thoả thuận. Điều này thường xảy ra là do các nước

trong cùng một khu vực thường có sự gần gũi về mặt địa lý và do đó thường

buôn bán với nhau một khối lượng lớn hàng hoá. Vì vậy các nước nằm ngoài

khu vực sẽ không được hưởng những ưu đãi như các nước trong một khu vực.

Vì vậy khu vực mậu dịch là một trong những ngoại lệ trong các nguyên lý cơ

bản dễ thấy nhất của WTO, cho phép các quốc gia thành viên được hưởng đãi

ngộ quốc gia (Most Favored Nations - MFN). Theo MFN, tất cả các quốc gia

thành viên trong WTO được đối xử như nhau hay không có sự phân biệt đối xử

giữa các quốc gia. Tuy nhiên, trong khu vực mậu dịch nguyên tắc này có sự thay

đổi. Chẳng hạn, giả sử Mexico đánh thuế hoa hồng ở mức 10%. Theo MFN,

Mexico phải đánh mức thuế hoa hồng như nhau đối với tất cả các thành viên của

WTO. Tuy nhiên, do Mexico ký Hiệp định Tự do hoá thương mại Bắc Mỹ

(North American Free Trade Agreement-NAFTA) với Canada và Hoa Kỳ,

Mexico có thể đánh một mức thuế hoa hồng thấp hơn 10% cho Canada và Hoa

Kỳ.

Tuy nhiên, cần phải lưu ý một điều rằng một khi khu vực mậu dịch được thiết

lập thì tổng luồng thương mại được hưởng ưu đãi bên trong khu vực mậu dịch

không phải lúc nào cũng lớn như trong ví dụ trên. Thứ nhất, nhiều mức thuế đã

được ấn định trong khung của MFN tại mức zero. Thứ hai, bởi vì người ta

thường có khuynh hướng loại bỏ các phần tử nhạy cảm trong khu vực mậu dịch

chẳng hạn như nông nghiệp, điều này có thể làm giảm tới mức tối thiểu mức ưu

đãi có thể đạt được. Một vài nước thậm chí đã chọn hướng loại bỏ thoả thuận tự

do thương mại vì mức thuế trong MFN còn thấp hơn so với chi phí để có thể

trang trải các gánh nặng về thủ tục và luật lệ hành chính của nước sở tại. Hơn

nữa, hầu hết các khu vực mậu dịch đều có thời kỳ chuyển đổi khoảng 10 năm để

cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm mang tính nhạy cảm hơn và trì hoãn

9

bất kì ảnh hưởng thực tế nào đối trong một khoảng thời gian đáng kể.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Nhìn chung, khu vực hoá còn được ưa chuộng hơn toàn cầu hoá nếu xét về

chính trị.

2. Các hình thức biểu hiện của khu vực hoá từ trước đến nay

Tháng 3 năm 2002, có tới 168 khu vực mậu dịch đã được hình thành và đi vào

hoạt động trên toàn thế giới. Xét về mặt lịch sử, khu vực hoá lần đầu tiên xuất

hiện vào những năm 1950 và được khuấy động bởi sự hình thành của Cộng đồng

chung châu Âu (EU) vào năm 1957. Tuy nhiên vào lúc đó, liên kết kinh tế khu

vực không vượt khỏi lãnh địa châu Âu. Trên thực tế, khu vực hoá “thực sự” mới

được hình thành cách đây trong vòng 10 năm trở lại đây. Chẳng hạn, WTO được

thành lập vào tháng 1 năm 1995, 125 khu vực được công bố có trong danh sách

của WTO với mức công bố trung bình hàng năm là 15. Cũng chính tại thời điểm

WTO được thành lập, khu vực hoá càng ngày càng phát triển. Đây cũng là điểm đối lập cơ bản khi so sánh khu vực hoá khi WTO ra đời với tiền thân GATT2

vào giai đoạn trước năm 1955. Các hình thức khu vực hoá ngày càng đa dạng,

thậm chí có những nước là thành viên của một vài liên kết kinh tế khu vực. Vì

thế, có thể nói khu vực hoá đã và đang trở thành một nhân tố kết nối toàn cẩu.

Vể mặt địa lý và lịch sử, khu vực hoá bắt nguồn từ châu Âu, gần 60% liên kết

khu vực do WTO công bố vào cuối năm 2000 là các nước châu Âu.

Những liên kết khu vực ngày nay được biết đến nhiều nhất là: EU, Hiệp hội Tự

do thương mại châu Âu (the European Free Trade Association-EFTA), Hiệp

định tự do thương mại Bắc Mỹ (the North American Free Trade Agreement-

NAFTA), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of South East Asian

Nations - ASEAN), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade

2 http://www.wto.org

10

Area-AFTA) và nhiều tổ chức khác.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Một điểm quan trọng nữa cần lưu ý là các liên kết kinh tế khu vực không chỉ là

một hiện tượng giới hạn đối với các nước phát triển mà còn lan rộng tới các

nước đang phát triển. Trên thực tế, các nước đang phát triển chiếm tới 30-40%

tổng số các liên kết kinh tế khu vực hiện đang hoạt động. Trong các vòng đàm

phán, các nước đang phát triển tìm cách nới rộng hợp tác với nhau. Tuy nhiên,

trong các cuộc thương lượng gần đây, các khu vực mậu dịch tự do được hình

thành giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Đây thực sự là một

khuynh hướng mới. Chẳng hạn như sự liên kết giữa Jordan với Hoa Kỳ, Mexico

và EU… là những ví dụ điển hình.

Thậm chí giữa các nước đang phát triển, khu vực hoá cũng có sự khác biệt đáng

kể. Khu vực hoá ở các nước Tây Á, Đông Nam Á, Mỹ Latin cũng có sự khác

biệt lớn nếu đem so sánh với khu vực hoá ở Châu Phi. Các nước châu Phi khi

tạo nên liên kết khu vực thường chú trọng vào các hiệp định chung về thuế quan

và các thị trường chung, và thời gian để diễn ra liên kết khu vực thường từ 20-30

năm. Thường thì châu Phi không có các liên kết kinh tế khu vực dựa trên các

mối quan hệ song phương. Ngược lại, các nước Tây Á và Đông Nam Á ngày

nay quan tâm hơn tới mục tiêu thành lập các khu vực mậu dịch tự do.

Khoảng cách địa lý cũng đóng một vai trò quan trọng đối với khối lượng thương

mại giao dịch cũng như việc hình thành nên các liên kết khu vực. Chẳng hạn

như trường hợp của châu Phi và Nam á, 95% xuất khẩu của các khu vực này là

từ khu vực bên ngoài. ở bán cầu phía Tây, thương mại của hầu hết các nước Mỹ

Latinh cũng khá đa dạng. Nếu không tính đến Mêhicô, khoảng 55% xuất khẩu

của Mỹ Latinh được xuất khẩu sang nửa còn lại của bán cầu. Điều này chứng tỏ

những ưu tiên do thương mại đem lại có thể vượt ra khỏi giới hạn địa lý. Một vài

ví dụ có thể là: Mêhicô-Israel, Canađa-Chilê, Hàn Quốc-Chilê.

11

2.1. Thoả thuận Tự do Thương mại (Free Trade Agreement-FTA)

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Thoả thuận tự do thương mại theo WTO/GATT đặc biệt được hiểu là một khu

vực trong đó bao gồm ít nhất 2 lãnh thổ hải quan trở lên được hình thành khi thuế và các quy định ngặt nghèo về thương mại được loại bỏ một cách đáng kể3.

Tháng 3/2002, hình thức phổ biến nhất của khu vực mậu dịch là các Thoả thuận

tự do thương mại- chiếm tới 70% . Trong số này, khoảng hơn nửa số Thoả thuận

tự do thương mại này là các thoả thuận song phương giữa 2 nước. Chính vì vậy,

Thoả thuận tự do thương mại đại diện cho giai đoạn đầu của khu vực hoá so với

Hiệp định chung về thuế quan.

Hình thức khu vực mậu dịch tự do với mục đích đạt được các thoả thuận về tự

do hoá thương mại không có những đòi hỏi mang tính rườm rà trong quá trình

hội nhập nên được hình thành một cách dễ dàng hơn và ngày càng trở nên phổ

biến. Khu vực mậu dịch tự do vì thế tạo động lực cho khu vực hoá phát triển như

một khối thống nhất kể từ khi WTO được thành lập vào năm 1995. Nhìm chung,

các chuyên gia cho rằng khu vực mậu dịch tự do vẫn phổ biến nhất ở châu Âu

trong khoàng 5 năm tới. Hiện nay, cũng cần lưu ý một điều rằng khu vực mậu

dịch tự do chủ yếu được hình thành giữa các nước phát triển và đang phát triển

dựa trên theo hướng Bắc-Nam hơn là theo hướng cổ điển Bắc-Bắc, Nam-Nam.

Có thể thấy một trong những khu vực mậu dịch tự do Bắc-Nam thành công nhất

điển hình là NAFTA.

Khu vực mậu dịch tự do cũng thường có các quá trình hoà giải. Vì vậy, quy trình

hoà giải tiến tới hình thành khu vực hoá thường hoặc là bản sao của quy trình

hoà giải của WTO hay nếu đã được hoà giải sớm thì nó có thể làm dịu bớt

những gánh nặng hành chính do WTO đem lại. Một vấn đề khác cần chú trọng

là các cơ quan hoà giải được thành lập dưới khu vực mậu dịch thường bị chia

theo số thành viên của các quốc gia, do đó, cơ hội hoà giải bị hạn chế.

12

2.2. Đồng minh thuế quan (Custom Union) 3 Điều XXIV, Đoạn 8(b), GATT 1994

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Trong khu vực mậu dịch, Đồng minh thuế quan tiến một buớc xa hơn so với

Khu vực mậu dịch tự do. Đồng minh thuế quan không chỉ đòi hỏi việc cắt giảm

một cách đáng kể mức thuế bên trong các quốc gia thành viên mà còn tạo ra một

mức thuế riêng làm hài hoà chính sách thương mại đối với các quốc gia không phải là thành viên4 . Một trong những ví dụ điển hình về Đồng minh thuế quan

ngày nay vẫn còn tồn tại là Liên minh châu Âu EU. Trong điều kiện các mức

thuế đều do GATT quy định, đồng minh thuế quan đòi hỏi một mức thuế chung

bên ngoài để đảm bảo rằng mức thuế này giảm xuống mức thấp nhất và là mức

thuế ưu đãi nhất khi có đồng minh thuế quan. Từ đó, các quốc gia thành viên sẽ

có thể tự do hoá cơ chế thương mại một cách đáng kể để có thể đạt đến một mức

thuế chung. Có thể lấy một ví dụ cụ thể trong khu vực đồng minh thuế quan như

EU để minh hoạ. Nước hoa được nhập khẩu vào khu vực EU từ các quốc gia

không phải là thành viên của EU cũng sẽ chịu một mức thuế như đối với các

quốc gia thành viên.

Chính vì lí do này, thời gian cần thiết để thương lượng mức thuế chung cho tất

cả các quốc gia sẽ làm cho việc quá trình hình thành các đồng minh thuế quan

thường mất nhiều thời gian hơn để thương lượng. Thông thường đồng minh thuế

quan thường chiếm khoảng 9% trong khu vực mậu dịch. Vì thế, quy trình này

thường được xem như một giai đoạn phát triển hơn của hội nhập kinh tế tiến tới

tự do hoá thương mại dựa trên các quan hệ đa phương. Từ cơ sở nghiên cứu này

nhiều người cho rằng để toàn cầu hoá cần hạn chế các khu vực mậu dịch tự do

một cách tối đa đồng thời khuyến khích hơn nữa các Đồng minh thuế quan.

2.3. Thoả ước đầu tư

Một hình thức khác của khu vực hoá là các Thoả ước đầu tư. Dưói hình thức

này, đầu tư của các quốc gia và các công ty từ một quốc gia thành viên sẽ được

13

hưởng một mức đãi ngộ chung theo nguyên tắc NT và MFN. Mức đãi ngộ này 4 Điều XXIV, Đoạn 8 (a), GATT 1994

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

không chỉ được hưởng ở giai đoạn phải thực hiện các nghĩa vụ như nghĩa vụ sử

dụng sản phẩm nội địa hay nghĩa vụ phải xuất khẩu các sản phẩm trong nước. Vì

vậy, thoả ước đầu tư không chỉ được đàm phán dựa trên cơ sở song phương và

đa phương giữa một vài bên tham gia mà còn chủ yếu nhấn mạnh vào đầu tư.

Theo Thoả ước đầu tư. hầu hết các bên tham gia còn đưa ra ưu đãi đối với một

số ngành đối với các quốc gia được hưởng đãi ngộ quốc gia-MFN. Những ưu

đãi đối với một số ngành thường được tạo ra nhằm phục vụ lợi ích chính trị và

làm giảm sự ảnh hưởng của NT và MFN do luật của quốc gia đó mang lại.

Những ưu đãi này thường được dành cho các ngành như hàng không, vận tải

biển, ngân hàng, bảo hiểm, điện.

Thoả ước đầu tư hiển nhiên nhấn mạnh tới các quy tắc đối với nước đầu tư.

Những quy tắc đầu tư của các nước chủ đầu tư tất nhiên phải phù hợp với thông

lệ quốc tế. Nói một cách khác các quy tắc này phải phục vụ cho lợi ích chung

của cộng đồng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử. Nếu vi phạm quy tắc

này, các nước chủ đầu tư sẽ phải bồi thường một khoản tiền tuỳ theo quy định

một cách tức khắc, kịp thời và hiệu quả. Đối với các khoản hồi hương, đầu tư

phải đảm bảo được phép chuyển một cách không hạn chế theo đồng tiền tự do

chuyển đổi. Đối với tranh chấp, các quốc gia và các công ty liên quan tới việc

tranh chấp đầu tư phải được đưa ra trọng tài quốc tế mà không cần xem xét tới

việc xét xử tại các toà án trong nước.

Mặc dù những sụ khác biệt so với Đồng minh thuế quan và Khu vực mậu dịch tự

do nhưng do có sự tương đồng về mục đích Hiệp ước đầu tư thực sự vẫn là hình

thức giúp khu vực hoá phát triển. Các Thoả ước đầu tư mang tính chất song

phương vẫn được xem như chất xúc tác của sự hợp tác chung và nhiều khu vực

mậu dịch tự do song phương.

14

3. Mặt tích cực và tiêu cực của khu vực hoá

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

3.1. Mặt tích cực của khu vực hoá

3.1.1. Thúc đẩy thương mại

Một trong những mặt tích cực của khu vực hoá có thể thấy một cách rõ nét là

hiệu quả của nó trong việc thúc đẩy thương mại. Thương mại của một nước

được thúc đẩy đặc biệt nước đó có lợi thế so sánh về một sản phẩm đặc trưng

nào đó đối với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ Braxin có lợi thế so sánh

về các sản phẩm làm bằng da so với các nước khác cùng khu vực như Chilê và

Argentina thì Chilê và Achentina sẽ phải giảm mức thuế về các sản phẩm làm

bằng da cùng mức với mức thuế đã có sản trong khu vực đó, tức là ngang bằng

với mức thuế của Braxin. Từ đây, có thể nói rằng thương mại đã được thúc đẩy

nhờ khu vực hoá vì Braxin từ đó sẽ có lợi từ việc từ việc xuất khẩu những sản

phẩm làm bằng da mang tính cạnh tranh hơn sang Chilê và Achentina. Với cách

hiểu này, lợi thế so sánh của một nước trong khu vực cũng sẽ thúc đẩy tự do

hoá thương mại. Như vậy, thúc đẩy tự do thương mại có thể được xem là một

trong những mặt tích cực nhất của khu vực hoá, và đặc biệt nó đem lại nhiều lợi

ích cho các quốc gia có lợi thế so sánh.

3.1.2. Thiết lập các khối kinh tế chuẩn bị liên kết đa phương

Theo dòng chảy lịch sử có thể thấy việc đàm phán thương mại đa phương bản

thân nó đã bao gồm những khó khăn và đòi hỏi nhiều thời gian để có thể thực

hiện. Điều này càng khó khi các thành viên của WTO ngày càng nhiều. Kể từ

vòng đàm phán Kennedy năm 1967, gần 100 quốc gia đã trở thành thành viên

của GATT/WTO. Theo cấp số nhân của con số này, số lượng sản phẩm, dịch vụ

và các vấn đề liên quan đến việc đàm phán và những khó khăn thực tế sẽ gặp

phải là không thể đo được. Chính vì lí do này, việc thiết lập các khối kinh tế như

Liên minh châu Âu, châu Mỹ và châu á là rất cần thiết và hiệu quả để có thể đạt

15

tới mục đích cuối cùng là tự do hoá thương mại toàn cầu. Bằng cách này, việc

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

thương lượng để đạt được tự do hoá thương mại sẽ được tiến hành dễ dàng và

nhanh hơn rất nhiều.Chẳng hạn như việc đàm phán ba bên thì hiển nhiên sẽ đơn

giản hơn so với 150 quốc gia cùng nhau ngồi vào bàn đàm phán và mỗi nước

thuộc 150 quốc gia này lại đưa ra những lợi ích và chương trình nghị sự khác

nhau của mình.

Sự nhất trí trong cùng một khu vực được tiến hành trên cơ sở song phương và đa

phương sẽ tạo đà cho cho tự do hoá thương mại. Nhiều người cho rằng những

vấn đề phức tạp mang tính chính sách chẳng hạn như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí

tuệ, chiến lược cạnh tranh, tiêu chuẩn kỹ thuật, nguồn thu của chính phủ…nên

được giải quyết trên cơ sở nhất trí và theo cùng một hướng hơn là theo sở thích

và nguyện vọng khác nhau của nhiều quốc gia. Tại đây, khu vực hoá đóng vai

trò là một nhân tố thức đẩy sự tăng trưởng cũng như cầu cho việc xuất khẩu đối

với các quốc gia thuộc cùng một khối.

Theo một cách hiểu khác, những ưu đãi do khu vực hoá đem lại cũng có thể giúp

cho việc thiết lập một cơ chế bên trong cho hệ thống thương mại đa phương.

Nhiều quốc gia vướng phải những rào cản chính trị trong việc thiết lập tự do hoá

thương mại. Những quốc gia này sẽ cảm thấy dễ dàng hơn trong việc đàm phán

với các nước trong cùng khu vực so với các nước xa cách về mặt địa lý. Điều

này cũng dễ hiểu vì việc đàm phán đối với một quốc gia khác trong cùng một

khu vực thường đạt được sự tương đồng về nhiều mặt trong đó có cả những vấn

đề về chính trị. Một khi những quốc gia này vượt qua những trở ngại về chính trị

thì họ có thể dễ hoà mình mở cửa thúc đẩy quá trình đàm phán đa phương.

Ngoài việc cắt giảm thuế quan, việc tăng cường các hàng rào phi thuế trên toàn

cầu cũng khẳng định cho việc hội nhập khu vực là một trong những con đường

nhiều quốc gia theo đuổi và lựa chọn. Các hàng rào phi thuế khó có thể thương

lượng và vì vậy thông qua hiểu một cách thấu đáo những vấn đề thuế các quốc

gia có thể hội nhập một cách dễ dàng hơn. Những nước trước đây đã từng không 16

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

tán thánh khu vực hoá như Mỹ giờ đây bắt đầu thay đổi quan điểm của mình và

khẳng định rằng những lợi ích tổng thể do khu vực hoá đem lại thông qua việc

thiết lập các khối kinh tế sẽ thúc đẩy tự do hoá thương mại đa phương.

3.1.3. Tăng cường hợp tác và an ninh

Hội nhập kinh tế khu vực thông qua khu vực hoá được coi là một công cụ giúp

cho việc thúc đẩy hợp tác quốc tế. Ví dụ như Liên Xô cũ trước đây, sự sụp đổ về

mặt chính trị dần dần được phục hồi nhờ sự liên kết kinh tế khu vực và liên kết

kinh tế khu vực đóng vai trò như một sợi dây liên kết giúp cho việc duy trì

thương mại và quan hệ của các nền cộng hoà khác nhau. Hiện nay, Nga,

Kazakhanstan, Belarus, Kyrgyzstan và Tạiikistan là các thành viên của Hiệp

định chung về thuế quan có tên là Cộng đồng Kinh tế á-Âu (Eurasian Economic

Community-EURASEC) được ký kết vào năm 2000. Khi các quốc gia càng liên

kết chặt chẽ với nhau bao nhiêu, sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn, nhờ đó, các

quốc gia này sẽ phải cùng nhau giữ gìn hoà bình và tăng cường an ninh. Như

vậy, xét về quan hệ quốc tế, sự bất ổn về chính trị thường bắt nguồn từ những

xung đột khu vực giữa các nước láng giềng với nhau do có sự bất đồng về tôn

giáo, lịch sử và văn hoá. Bằng cách thúc đẩy sự ổn định về chính trị trong khu

vực trước, các quốc gia có cơ sở vững chắc cùng nhau hợp tác để đạt được

những lợi ích về kinh tế. Đây cũng là một trong những bước quan trọng nhất

trong việc hoạch định các chính sách tự do hoá thương mại đa phương.

Một trong những mặt tớch cực của khu vực hoỏ cú thể thấy một cỏch rừ nột là

hiệu quả của nú trong việc thỳc đẩy thương mại. Thương mại của một nước

được thúc đẩy đặc biệt nước đó có lợi thế so sánh về một sản phẩm đặc trưng

nào đó đối với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ Braxin có lợi thế so sánh

về các sản phẩm làm bằng da so với các nước khác cùng khu vực như Chilê và

Argentina thỡ Chilờ và Achentina sẽ phải giảm mức thuế về cỏc sản phẩm làm

bằng da cựng mức với mức thuế đó cú sản trong khu vực đó, tức là ngang bằng 17

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

với mức thuế của Braxin. Từ đây, có thể nói rằng thương mại đó được thúc đẩy

nhờ khu vực hoá vỡ Braxin từ đó sẽ có lợi từ việc từ việc xuất khẩu những sản

phẩm làm bằng da mang tính cạnh tranh hơn sang Chilê và Achentina. Với cách

hiểu này, lợi thế so sánh của một nước trong khu vực cũng sẽ thúc đẩy tự do

hoá thương mại. Như vậy, thúc đẩy tự do thương mại có thể được xem là một

trong những mặt tích cực nhất của khu vực hoá, và đặc biệt nó đem lại nhiều lợi

ích cho các quốc gia có lợi thế so sỏnh.

3.2. Mặt tiêu cực của khu vực hoá.

3.2.1. Chệch hướng thương mại

Đối lập với thúc đẩy thương mại, chệch hướng thương mại lại là một khuynh

hướng được xảy ra đồng thời với quá trình khu vực hoá. Chệch hướng thương

mại sẽ xảy ra khi một quốc gia có lợi thế so sánh nhưng không thể sử dụng được

lợi thế so sánh của mình. Cùng một ví dụ, có thế thấy nếu Braxin có lợi thế so

sánh về các sản phẩm làm bằng da nhưng Chilê và Achentina lại cùng nhau liên

kết và buôn bán thì chệch hướng thương mại sẽ xảy ra với Braxin khi Chilê mua

các sản phẩm làm bằng da của Achentina thay vì Braxin. Điều này hoàn toàn có

thể xảy ra khi các sản phẩm da của Achentina được xuất khẩu sang Chilê không

bị đánh thuế trong khi đó các sản phẩm da của Braxin vẫn đánh một mức thuế

nhất định. Hiển nhiên Braxin cho dù có lợi thế so sánh về sản phẩm da đến đâu

thì trong trường hợp này rất có thể không thể cạnh tranh được với các sản phẩm

da của Achentina.

Hình thức chệch hướng thương mại hoàn toàn đối lập với những nguyên tắc về

tự do hoá thương mại tổng thể. Chệch hướng thương mại bóp méo sự phân bổ

nguồn lực. Các nhà sản xuất kém hiệu quả trong cùng một khu vực lại có thể

được hưởng lợi từ việc các nhà sản xuất kém hiệu quả nằm ngoài sự liên kết đơn

18

lẻ. Như thế, có thể thấy việc so sánh để thấy được lợi ích của khu vực hoá đem

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

lại do thúc đẩy thương mại hay chệch hướng thương mại là một công việc khó

có thể lượng hoá được. Hiển nhiên, lợi ích mà khu vực hoá đem lại cho các quốc

gia chỉ có thể nằm ở việc thúc đẩy thương mại.

Tuy nhiên, lợi ích có được từ liên kết kinh tế khu vực thường thông qua thúc đẩy

thương mại thực sự được cuờng điệu do xét về tổng thể, mức thuế chung đã

được giảm một cách đáng kể. Chẳng hạn như sau Chiến tranh thế giới II, mức

thuế trung bình đã giảm từ 40% xuống còn dưới 4% sau vòng đàm phán

Uruguay năm 1994. Tương tự, triển vọng tăng cường thương mại dường như

cũng không được như mong muốn vì sự tương đồng về tài nguyên thiên nhiên

của các quốc gia mang những nét chung về địa lý trong cùng một khu vực.

3.2.2. Sự liên kết đảng phái gia tăng

Khu vực hoá cũng được coi là một mối đe doạ lớn đối với toàn cầu hoá. Tự do

hoá thương mại thường xảy ra dần dần ở khu vực hoá, tuy nhiên nếu không có

sự nỗ lực của tất cả các quốc gia thành viên thì cũng khó có thể đạt tới đích cuối

cùng. Khó có những liên kết kinh tế khu vực nào mà các quốc gia thành viên tự

nó chịu nhân nhượng để đạt tới thoả hiệp chung mong muốn. Khi một liên kết

khu vực càng lớn bao nhiêu, quyền lợi nó mang lại cho các quốc gia càng nhiều

bấy nhiêu và điều này khó để đạt tới sự nhất trí của các thành viên. Các nước

nằm trong cùng một khu vực sẽ đạt được lợi ích ít hơn khi hội nhập sâu hơn

trong khối. Liên minh châu Âu được coi là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, đây

cũng là một khối ngoại lệ vì các quốc gia thành viên trong khu vực này cùng

chia xẻ một hệ thống duy nhất về quy mô, tài nguyên, lịch sử và chính trị.

Hơn nữa, mặc dù được coi là một sự lựa chọn tốt cho công chúng, tự do thương

mại không tránh khỏi những vấn đề khó giải quyết mang tính bản chất do khu

19

vực hoá đem lại. Những quốc gia buộc phải tham gia vào khu vực mậu dịch tất

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

nhiên sẽ có ít động lực thúc đẩy khu vực đó phát triển. Khi khu vực đó càng

được mở rộng, nó sẽ tìm kiếm sự nhân nhượng từ những thành viên mới.

Một vài nước ở châu Phi và Trung Á cùng một lúc tham gia vào nhiều khu vực

mậu dịch đa phương. Ngoài sự khó khăn để có thể duy trì tư cách hội viên ở các

khối này, các nước này khó có thể giúp góp phần củng cố khu vực vì những

quốc gia này nhiều khi tham gia vào khối đó không đảm bảo được mục tiêu chủ

đạo mà khối đó vươn tới mà chỉ chạy theo mục đích riêng của mình. Tương tự

như vậy, các quốc gia với cùng mục tiêu và chính sách ngoại giao sẽ tìm thấy

những cơ hội từ đối tác của mình. Và như vậy, sẽ có những quốc gia còn lại nằm

ngoài lề, bị gạt ra khỏi cuộc chơi. Từ thực tế này, nhiều bè phái, đảng phái sẽ

xuất hiện nằm ngoài sự mong đợi.

Thậm chí khi các nước phát triển và đang phát triển cùg nhau ký kết cùng tham

gia vào một khối, khối này cũng sẽ bị thống trị bởi các quốc gia có thế lực kinh

tế. Như vậy, nhìn chung có thể nói rằng khu vực hoá chia nhỏ thế giới ra làm

nhiều mảnh và nó làm cho việc thiết lập môi trường hợp tác thương mại đa

phương trở nên khó khăn.

3.2.3. Hậu quả mang lại liên quan tới toàn cầu hoá

Dù có ẩn chứa nhiều điều hứa hẹn, toàn cầu hoá vẫn có những mặt trái và gây ra

không ít khó khăn. Nhiều người tin rằng toàn cầu hoá làm tăng khoảng cách

giữa những nước giàu và nghèo và thậm chí làm tăng khoảng cách trong cùng

một quốc gia. Toàn cầu hoá cho phép cá công ty xuyên quốc gia có thể sử dụng

tính kinh tế theo quy mô của mình để lợi dụng những quốc gia khác yếu hơn. Nó

cũng đem đến nguy cơ về sự phụ thuộc của các quốc gia khác. Chính vì thế,

trong thế giới tổng là hằng số người ta thường nói rằng lợi ích của quốc gia này

20

chính là sự mất mát của quốc gia khác. Từ sự nghiên cứu này có thể thấy khu

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

vực hoá là một nhân tố giúp cho quá trình toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng hơn

và khuyếch đại những điểm yếu của toàn cầu hoá.

3.2.4. Đe doạ của các ngoại lệ

Các thoả hiệp ưu đãi thương mại là một sự lựa chọn thứ hai cần xem xét đến.

Mục đích cuối cùng của các quốc gia vẫn là tự do hoá thương mại cho các quốc

gia trên cơ sở toàn cầu hoá. Tuy nhiên, các khu vực mậu dịch có thể thấy vẫn là

ngoại lệ quan trọng duy nhất của quy tắc MFN của WTO. Nếu như tự do hoá

thương mại đa phương là mục đích cuối cùng thì những bước tiến mang tính

chất khu vực không còn nghi ngờ là cách thức làm chậm tiến độ toàn cầu hoá.

Theo cách này khu vực hoá sẽ dẫn tới những chi phí không cần thiết do những

nỗ lực về nguồn lực cho đàm phán và duy trì việc thực hiện những thương lượng

đã được thoả hiệp ở mức khu vực hoá sẽ là không cần thiết vì nó hiển nhiên sẽ

được đề cập trong các vòng đàm phán mang tính quốc tế toàn cầu.

Tương tự, nếu xem xét một cách kĩ lưỡng và tỉ mỉ thì có thể thấy WTO đã đề

cập tới các vấn đề đáng được tranh cãi như an ninh, môi trường, y tế, bảo tổn,

nông nghiệp. Khu vực mậu dịch đưa ra ngoại lệ sâu hơn từ MFN đối với các sản

phẩm và dịch vụ cho các nước thành viên tham gia. Như thế, khu vực hoá chỉ

đưa thêm vào ngoại lệ mang tính chất mang tính rộng hơn đối với các nguyên

tắc chung của WTO, do đó làm giảm mức tiến triển và quyến lực của WTO cũng

như những hứa hẹn về việc giải quyết các vấn đề đa phương.

3.2.5. Chi phí giao dịch

Thoả hiệp ưu đãi thương mại thương mại thường gây ra những chi phí giao dịch

không cần thiết. Trước hết, do các công ty thường tìm cách để đáp ứng đủ các

điều kiện đặt ra cho các quốc gia thuộc chung một khu vực để được hưởng

21

những ưu đãi khá phức tạp này. Những đảm bảo để có thể được hưởng những

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

điều kiện này thường đòi hỏi một thời gian dài, phức tạp và thông thường dẫn

tới các lãng phí các chi phí thương mại.

4. Mối quan hệ giữa khu vực hoá và toàn cầu hoá

Trong quan hệ với toàn cầu hoá, khu vực hoá được xem là bước chuẩn bị để tiến

tới toàn cầu hoá. Mặt khác, xu thế toàn cầu hoá hiện nay nó phản ánh một thực

trạng co cụm nhằm bảo vệ những lợi ích tương đồng giữa một vài nước trước

những nguy cơ, những tác động tiêu cực do toàn cầu hoá đặt ra. Như vậy, xét về

ngắn hạn dường như khu vực hoá đối nghịch với toàn cầu hoá, nhưng xét về dài

hạn thì chính khu vực hoá là bước chuẩn bị để thực hiện toàn cầu hoá.

Động lực gia tăng xu thế khu vực hoá trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ mục

đích phát huy những lợi thế so sánh, những nét tương đồng của các quốc gia

trong mỗi nhóm khu vực. Đồng thời, xu thế khu vực hoá còn được đẩy mạnh bởi

chính xu thế toàn cầu hoá gia tăng mạnh mẽ vượt trước cả việc hoàn thiện những

định chế toàn cầu để quản lý quá trình này. Toàn cầu hoá kinh tế về bản chất là

đi đến tự do hoá các yếu tố sản xuất trên phạm vi toàn cầu nhằm phục vụ lợi ích

của các dân tộc. Tuy vậy do những khác biệt về trình độ phát triển, về nguồn lực

sản xuất đã đưa đến những lợi ích khác nhau khi tham gia vào quá trình này. Để

khắc phục điều đó các quốc gia có những điểm tương đồng tìm đến nhau để tạo

lập các tổ chức kinh tế, tạo cho nhau những điều kiện thuận lợi hơn các quy định

quốc tế hiện hành. Như vậy về trình độ hợp tác hoá khu vực hiện nay cao hơn so

với toàn cầu hoá kinh tế.

Việc nâng cao trình độ hợp tác khu vực xét về tương lai chính là cơ sở cho việc

thực hiện toàn cầu hoá kinh tế và cũng vì vậy chừng nào còn tồn tại các tổ chức

kinh tế khu vực thì chưa có thể toàn cầu hoá, tự do hoá hoàn toàn. Sửa đổi hàng

loạt của các tổ chức khu vực và sự phát triển quy mô địa lý của các tổ chức khu

22

vực trên cơ sở bổ sung các thành viên hay hợp nhất các tổ chức khu vực chính là

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

bước tiến ngày càng gần hơn đến tự do hoá trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, có

thể nói khu vực hoá chỉ là tạm thời, nó ra đời trên cơ sở một trình độ phát triển

nhất định của toàn cầu hoá, là bước tất yếu trên đường đi tới toàn cầu hoá. Hợp

tác kinh tế khu vực càng phát triển sẽ là điều kiện và động lực cho toàn cầu hoá

kinh tế.

Toàn cầu hoá và khu vực hoá đều những xu hướng tất yếu, nó xuất hiện và gia

tăng gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là khoa học công

nghệ. Điều này cũng có nghĩa là tự do hoá thương mại quốc tế và khu vực cũng

là yêu cầu của phát triển. Vấn đề đặt ra là tự do hoá thương mại ra sao? Tiến

trình và cách thức tiến hành như thế nào để tận dụng được những mặt tích cực,

hạn chế tác động tiêu cực của những xu thế trên.

II. Một số các liên kết kinh tế khu vực chủ yếu ở khu vực Á-Âu

1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á-ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời trong bối cảnh có nhiều

biến động đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, bao gồm cả những thay

đổi từ bên ngoài tác động vào khu vực cũng như những vấn đề nảy sinh từ bên

trong mỗi nước. (Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam- Đông Dương diễn ra ác

liệt, lôi kéo một số nước Đông Nam Á vào trận chiến. Anh rút khỏi phía Đông

Kênh Xuy-ê. Tổng thống Pháp De Gaulle sang Phnôm Pênh đưa khẩu hiệu

“trung lập hoá Đông Nam Á”, ở Trung Quốc “cách mạng văn hoá” phát triển tới

đỉnh cao và ảnh hưởng cả đến các nước Đông Nam Á có cộng đồng người Hoa

23

đông đảo. Liên Xô đang vận động hình thành một hệ thống “an ninh tập thể

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Châu Á”. Nội bộ các nước ASEAN còn phức tạp, mâu thuẫn, tranh chấp nhau,

nhất là giữa Phi-lip-pin-Malaysia, Singapore-Malaysia, Malaysia -TháiLan..).

Để đối phó với các thách thức này, xu hướng co cụm lại trong một tổ chức khu

vực với một hình thức nào đó để tăng cường sức mạnh bản thân đã xuất hiện và

phát triển trong các nước thành viên tương lai của ASEAN.

ASEAN được thành lập bởi Tuyên bố Bangkok-Thái Lan. Khi mới thành lập

ASEAN bao gồm 5 nước là Inđônêxia, Malaysia, Philipine, Singapore và Thái

Lan. Năm 1984, Brunêi gia nhập và trở thành thành viên thứ 6 của ASEAN.

Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội này. Ngày

23/7/1997 kết nạp Lào và Mianmar. Ngày 30/4/1999 kết nạp thêm Campuchia,

hoàn thiện ASEAN 10.

 Bản tuyên bố Bangkok thể hiện ba mục tiêu lớn của Hiệp hội là:

 Hợp tác kinh tế và xã hội giữa các quốc gia thành viên với niềm tin tưởng

rằng sự tăng cường về kinh tế là nguồn gốc của tiến bộ xã hội và văn hoá.

 Hợp tác vì hoà bình và ổn định khu vực bằng việc triệt để tôn trọng công

bằng và ưu tiên luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và

nghiêm chỉnh tuân theo các nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc.

 Hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực khác

Các nước ASEAN (trừ Thái Lan) đều trải qua giai đoạn lịch sử là thuộc địa của

các nước phương Tây và giành được độc lập dân tộc vào các thời điểm khác

nhau sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Mặc dù ở trong cùng một khu vực địa

lý, song các nước ASEAN rất khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và

văn hoá, tạo nên một sự đa dạng cho Hiệp hội.

Khu vực ASEAN là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với các khu

24

vực khác trên thế giới, nếu tính trước khủng hoảng năm 1997 thì ASEAN được

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

coi là tổ chức khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển. Tuy nhiên,

mức phát triển kinh tế giữa các quốc gia Đông Nam á vẫn chưa đồng đều và vẫn

chưa thoát khỏi những khó khăn do cuộc khủng hoảng năm 1997 cũng như sự

kiện 11/9 mang lại.

 Kể từ khi thành lập, ASEAN đã có những dấu mốc quan trọng đánh dấu

những sự kiện lớn:

 Tuyên bố Kuala Lumpur (11/1997): là tuyên bố đầu tiên về thiết lập Khu

vực hoà bình, Tự do và Trung lập ở Đông Nam á.

 Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ nhất (2/1976)

Tại Hội nghị này, các vị đứng đầu chính phủ ASEAN đã ký hai văn kiện

quan trọng:

 Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (Hiệp ước Bali) khẳng

định 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.

 Tuyên bố về sự hoà nhập ASEAN: cam kết cùng phối hợp để đảm bảo

sự ổn định của khu vực cũng như tăng cường sự hợp tác kinh tế, văn

hoá, giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước thành viên ASEAN.

 Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ hai (8/1977)

Hội nghị đạt được hai kết quả quan trọng là chính thức thành lập cơ chế

đối thoại giữa ASEAN với các nước công nghiệp phát triển. Lần đầu tiên

những người đứng đầu chính phủ của ba nước Nhật Bản, Austraylia, New

Zealand đã tham gia đối thoại với ASEAN sau Hội nghị chính thức.

 Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ ba (12/1987)

Hội nghị đã thông qua và ký kết nhiều văn bản quan trọng như:

25

 Tuyên bố Manila 1987

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Nghị định thư Manila sửa đổi

 Hiệp ước khuyến khích và đảm bảo đầu tư ASEAN

 Nghị định thư về mở rộng danh mục thuế ưu đãi theo thoả thuận ưu đãi

thương mại ASEAN

 Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ tư (1/1992)

Hội nghị nhấn mạnh trọng tâm vào tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác

kinh tế ASEAN. Hội nghị đã thông qua những văn kiện và quyết định

quan trọng sau:

 Thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào năm 2006

 Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN

 Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)

 Hội nghị cấp cao lần thứ năm (12/1995)

Hội nghị đã có những quyết định và văn bản quan trọng sau:

 Nâng cao hợp tác chuyên ngành lên tầm cao mới, ngang với hợp tác

chính trị-an ninh và kinh tế thông qua phát triển con người, đoàn kết xã

hội để đạt được sự thịnh vượng chung cho toàn khu vực.

 Rút ngắn thời gian hiệu lực AFTA từ 15 năm xuống còn 10 năm, thậm

chí có thể hoàn thành trước thời hạn 2003 và mở rộng hợp tác ASEAN

sang lĩnh vực mới như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, lập khu vực đầu tư

ASEAN…

 Ký kết Hiệp ước về một khu vực Đông Nam á phi vũ khí hạt nhân, là

một văn kiện quan trọng tiến tới xây dựng Đông Nam á thành một khu

26

vực hoà bình ổn định.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Thoả thuận họp Hội nghị Cấp cao chính thức 3 năm một lần và 2 Hội

nghị Cấp cao không chính thức giữa 2 ký Hội nghị Cấp cao chính thức.

Tiếp đến là Hội nghị cấp cao không chính thức được họp hàng năm tại các

quốc gia ASEAN.

 Về cơ cấu tổ chức:

Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay là kết quả của một quá trình hoàn thiện

từng bước song song với việc phát triển của tổ chức ASEAN trong gần 30

năm qua. Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay như sau:

 Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước/Chính phủ ASEAN (ASEAN

Summit)

 Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting-AMM)

 Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers-AEM)

 Hội nghị Bộ trưởng các ngành

 Các Hội nghị cấp Bộ trưởng hoặc tương đương

 Hội nghị liên tịch các Bộ trưởng (Join Ministerial Meeting-JMM)

 Tổng thư ký ASEAN

 Uỷ ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee-ASC)

 Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting-SOM)

 Cuộc họp các quan chức cao cấp khác

 Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consulative Meeting-JCM)

 Các cuộc họp của ASEAN với các Bên đối thoại

27

 Ban thư ký ASEAN quốc gia

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Uỷ ban ASEAN ở nước thứ ba

 Ban thư ký ASEAN

 Về nguyên tắc hoạt động chính của ASEAN

 Các nguyên tắc nền tảng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên với bên

ngoài:

 Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn viẹn lãnh thổ và

bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc;

 Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình,

không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;

 Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;

 Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân

thiện;

 Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;

 Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.Các nguyên tắc điều phối hoạt

động của hiệp hội

 Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội

 Nguyên tắc nhất trí (consensus): một quyết định chỉ được coi là của

ASEAN khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua.

Nguyên tắc này đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu dài nhưng đảm

bảo được việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên.

 Nguyên tắc bình đẳng (equality): thể hiện ở việc không phân biệt quốc

28

gia lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, tất cả đều bình đẳng với nhau trong

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

nghĩa vụ đóng góp cũng như chia xẻ quyền lợi. Ngoài ra, hoạt động của

tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên.

 Nguyên tắc 6-X: hai hay một số nước thành viên ASEAN có thể xúc

tiến thực hiện trước các dự án ASEAN nếu một số nước còn lại chưa

sẵn sàng tham gia, không phải đợi tất cả mới cùng thực hiện.

 Các nguyên tắc khác

Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số

nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức nhưng mọi người đều

hiểu, tôn trọng và tự giác áp dụng như:

 Nguyên tắc “cho và nhận”

 Nguyên tắc tế nhị, lịch sự, không gây đối đầu, có thái độ hữu nghị, thân

thiện

 Nguyên tắc ngoại giao thầm lặng, cá nhân không tuyên truyền tố cáo

qua báo chí

 Nguyên tắc giữ gìn đoàn kết ASEAN

2. Liên minh châu Âu-EU

Kể từ ngày 1/1/1995, EU có 15 nước thành viên bao gồm: Pháp, Đức, Italia, Bỉ,

Hà Lan, Lucxambua, Anh, Ireland, Đan Mạch, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào

Nha, áo, Thuỵ Điển, Phần Lan. Đến tháng 5/2004, EU sẽ chính thức kết nạp

thêm 10 thành viên mới là Séc, Hungaria, Ba Lan, Sloviakia, Litva, Latvia,

Ostonia, Malta, Sip. Như vậy, số thành viên của tổ chức này trong tương lai

không xa sẽ tăng lên thành 25 nước.

Quá trình hình thành và phát triển EU theo dòng lịch sử gắn liền với các Hiệp

29

ước:

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Hiệp ước Paris (1951): dẫn đến việc thành lập Cộng đồng than thép châu Âu

 Hiệp ước Roma (1957): đưa đến việc thành lập Cộng đồng nguyên tử lượng

(euratom) và thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC). Năm 1967 cơ

quan điều hành của các Cộng đồng trên được hợp nhất và gọi là Cộng đồng

châu Âu.

 Hiệp ước Liên hiệp châu Âu (Hiệp ước Maastricht -7/2/1992) với mục đích

thành lập liên minh kinh tế và tiền tệ vào cuối thập kỷ 90 với một đồng tiền

chung và một Ngân hàng trung ương độc lập, thành lập một liên minh chính

trị bao gồm việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung để tiến

tới có chính sách phòng thủ chung, tăng cường hợp tác về cảnh sát và luật

pháp. Hiệp ước này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình nhất

thể hoá châu Âu. Cụ thể:

 Liên minh chính trị:

 Tất cả công dân của các nước thành viên được quyền tự do đi lại và cư

trú trong lãnh thổ của các nước thành viên.

 Công dân các nước thuộc EU được quyền bầu cử và ứng cử chính

quyền địa phương và Nghị viện châu Âu tại bất kỳ nước thành viên nào

mà họ đang cư trú.

 Thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung trên cơ sở hợp

tác liên chính phủ với nguyên tắc nhất trí để vẫn đảm bảo chủ quyền

quốc gia trên lĩnh vực này.

 Tăng cường quyền hạn của Nghị viện châu Âu

 Mở rộng quyền của Cộng đồng trong một số lĩnh vực như môi trường,

30

xã hội, nghiên cứu…

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Phối hợp các hoạt động tư pháp, thực hiện chính sách chung về nhập

cư, quyền cư trú và thị thực.

 Liên minh kinh tế-tiền tệ: được chia làm 3 giai đoạn

 Giai đoạn 1: từ 1/7/1990: xoá bỏ mọi hình thức kiểm soát và hạn chế

việc lưu chuyển vốn trong 12 nước thành viên

 Giai đoạn 2: từ 1/1/1994 giải tán Uỷ ban thống đốc Ngân hàng Trung

ương của các nước thành viên, thành lập Viện tiền tệ châu Âu để chuẩn

bị việc thành lập hệ thống Ngân hàng Trung ương

 Giai đoạn 3: từ 1/1/1999: giải tán Viện tiền tệ châu Âu, lập Ngân hàng

Trung ương châu Âu ECB.

Kể từ này 1/1/2002 đồng Euro đã chính thức được lưu hành trong 12 quốc

gia thành viên (còn gọi là khu vực đồng Euro) gồm có: Đức, Pháp, áo, Bỉ,

Phần Lan, Ireland, Italia, Luxemburg, Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào

Nha. 3 nước đứng ngoài là: Anh, Đan Mạch và Thuỵ Điển.

 Hiệp ước Amsterdam (Hiệp ước Maastricht sửa đổi-2/10/1997) đã có một số

sửa đổi và bổ sung trong một số lĩnh vực sau:

 Những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử

 Tư pháp và đối nội

 Chính sách xã hội và việc làm

 Chính sách đối ngoại và an ninh chung

 Hiệp ước Schengen (19/6/1990):. Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại của

công dân các nước thành viên. Hiện nay 14/15 nước thành viên tham gia khu

31

vực Schengen (trừ Anh).

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Hiệp ước Nice (1-11/12/2000): tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón

nhận các thành viên mới.

Về cơ cấu tổ chức: EU có 4 cơ quan chính là: Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban châu

Âu, Nghị viện châu Âu và Toà án châu Âu.

 Hội đồng châu Âu: chị trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của EU

bao gồm các Bộ trưởng đại diện cho các thành viên. Các nước luân phiên làm

Chủ tịch với nhiệm kỳ 6 tháng. Giúp việc cho Hội đồng có Uỷ ban đại diện

thường trực và Ban Tổng thư ký.

 Uỷ ban châu Âu: là cơ quan điều hành gồm 20 uỷ viên nhiệm kỳ 5 năm do

các Chính phủ nhất trí cử và chỉ thị bãi miễn với sự nhất trí của Nghị viện

châu Âu. Dưới các Uỷ viên là các Tổng Vụ trưởng chuyên trách từng vấn đề,

từng khu vực.

 Nghị viện châu Âu: gồm 626 nghị sĩ, nhiệm kỳ 5 năm, được bầu theo nguyên

tắc phổ thông đầu phiếu. Trong Nghị viện các Nghị sĩ ngồi theo nhóm chính

trị khác nhau, không theo quốc tịch. Chức năng của Nghị viện Châu Âu là

thông qua ngân sách, cùng Hội đồng Châu Âu quyết định trong một số lĩnh

vực, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, có quyền bãi

miễn các chức vụ uỷ viên Uỷ ban châu Âu.

 Toà án Châu Âu: do các chính phủ thoả thuận bổ nhiệm, nhiệm kỳ 6 năm.

Toà án có vai trò độc lập, có quyền bác bỏ những quy định của các tổ chức

của Uỷ ban châu  văn phòng chính phủ các nước nếu bị coi là không phù

hợp với luật châu Âu

3. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương-APEC

Từ cuối những năm 1970, đặc biệt là trong những năm 1980, sự tăng trưởng

32

kinh tế liên tục và với nhịp độ cao của châu Á mà nòng cốt là các nền kinh tế

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Đông Á đã thu hút sự chú ý của cả thế giới. Tiếp theo “sự thần kỳ” của Nhật

Bản, các nền kinh tế công nghiệp hoá mới (NIEs), ASEAN và đặc biệt là sự nổi

lên của Trung Quốc đã biến châu Á thành khu vực phát triển kinh tế năng động

bậc nhất giới.

Từ những năm 1980, các nước châu Á luôn dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển

kinh tế trong khi kinh tế thế giới luôn bị suy thoái vào những năm đầu 1990.

Xuất khẩu thực sự là động lực tăng trưởng kinh tế ở châu Á. Tiềm lực lớn về

xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và vốn đầu tư đòi hỏi phải có thị trường ổn định,

rộng mở và hạn chế tới mức tối đa những rào cản ngăn trở sự lưu chuyển của

hàng hoá, dịch vụ, đầu tư trong khu vực. Do đó, hợp tác và liên kết kinh tế khu

vực trở thành nhu cầu cấp thiết để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế cao và ổn

định. Nhờ sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở khu vực

châu Á-Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hoá khu vực nhằm phối hợp chính

sách về các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy tự do hoá và khuyến khích thương mại

hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, tăng cường hợp tác kinh tế, khoa học-công nghệ

giữa các nền kinh tế ở châu Á-Thái Bình Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển bền vững của khu vực châu Á-Thái

Bình Dương khi bước vào thế kỷ XXI.

 Mục tiêu

Tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ ba tại Seoul, Hàn Quốc năm 1991, các Bộ

trưởng đã thông qua Tuyên bố Seoul, đặt nền móng cho sự phát triển của APEC

33

như một khuôn khổ hợp tác khu vực với 4 mục tiêu là:

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực vì lợi ích chung của các

dân tộc trong khu vực, và bằng cách đó đóng góp vào sự tăng trưởng và

phát triển của nền kinh tế thế giới

 Phát huy các kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế giới do

sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến khích các

luồng hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ.

 Phát triển và tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở vì lợi ích

của các nước châu Á-Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác

 Cắt giảm những hàng rào cản trở việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư

giữa các thành viên phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO ở những

lĩnh vực thích hợp và không làm tổn hại tới các nền kinh tế khác.

Tuy nhiên, không giống như các tổ chức khu vực khác (đặc biệt là EU), ngay từ

đầu APEC không nhấn mạnh đến mục tiêu tạo lập hệ thống ưu đãi thuế quan,

liên minh thuế quan hay thị trường chung mà nhấn mạnh tới việc tăng cường hệ

thống thương mại đa phương mở. Điều này có thể lý giải bởi hai lý do: Thứ

nhất, APEC là một tập hợp của các nền kinh tế rất đa dạng về trình độ phát triển,

chế độ chính trị-xã hội cũng như điều kiện lịch sử-văn hoá. Vì thế, các nước

đang phát triển như ASEAN, NIEs không muốn thành lập một khu vực tự do

hoá và bị lệ thuộc một cách bất bình đẳng vào các nền kinh tế lớn hơn như Mỹ,

Nhật Bản…Thứ hai, các nền kinh tế APEC, đặc biệt là các nước Đông á phụ

thuộc rất lớn vào môi trường kinh tế thế giới. Sự tăng trưởng của các nền kinh tế

Nhật Bản, NIEs, ASEAN trong các thập kỷ 70, 80 chủ yếu nhờ vào sự thành

công của chiến lược hướng vào xuất khẩu, do vậy họ rất muốn duy trì một hệ

thống thương mại toàn cầu mở và ổn định. Việc thế giới bị chia cắt thành cac

khu vực cat cứ sẽ là điều bất lợi trước hết đối với những thành viên APẽ có nền

34

kinh tế, thương mại phát triển cao.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Nguyên tắc hoạt động của APEC

 Nguyên tắc cùng có lợi

Việc duy trì nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi đóng vai trò quyết định đối

với sự phát triển của APEC vì diễn đàn này là tập hợp lực lượng của các nền

kinh tế rất đa dạng về điều kiện địa lý, lịch sử văn hoá, về chế độ chính trị-xã

hội và đặc biệt là có sự chênh lệch rất lớn về trình độ phát triển. Trong điều

kiện APEC bao gồm cả những nền kinh tế lớn và phát triển nhất, cũng như

những nền kinh tế nhỏ và kém phát triển hơn, APEC đã nhấn mạnh tới mối

quan tâm chung, lợi ích chung của các thành viên và tập trung vào các vấn đề

hợp tác kinh tế và phát triển.

Trong khi thừa nhận mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực phải

dựa trên cơ sở cùng có lợi, để phù hợp với tính đa dạng của khu vực, nguyên

tắc này cũng nhấn mạnh tới sự chú ý tới sự khác biệt về trình độ phát triển,

chế độ chính trị-xã hội và yêu cầu của các nền kinh tế đang phát triển. Đây là

điểm quan trọng trong nguyên tắc hoạt động của APEC nhằm giải toả mối lo

ngại của một số thành viên là nước đang phát triển trong APEC rằng sự khác

biệt lớn về trình độ phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ có thể dẫn đến

sự lệ thuộc bất bình đẳng của họ vào các nền kinh tế tiên tiến hơn, làm tăng

mâu thuẫn và phân cực Bắc-Nam ngay trong APEC.

 Nguyên tắc đồng thuận (consensus)

Nguyên tắc đồng thuận là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của

hợp tác APEC. Khác với hoạt động trong GATT/WTO, trong đó các nước

phải qua một quá trình thương lượng, đàm phán lâu dài và thường gay gắt để

đạt được những thoả thuận và hiệp định có tính pháp lý quốc tế cao, APEC đi

tới các quyết định thông qua quá trình xây dựng sự đồng thuận. Tất cả các

35

Hội nghị đều mang tính tư vấn, theo nghĩa là các thành viên không tham gia

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

vào những cuộc thương lượng, mặc cả thực sự để đạt tới những quyết định có

tính ràng buộc. Toàn bộ quyết định của các nhà Lãnh đạo cấp cao, các Bộ

trưởng đều được đưa ra trong Tuyên bố chung phản ánh ý chí của tất cả các

thành viên.

Nguyên tắc đồng thuận thể hiện một mô hình hợp tác tương đối thành công

trong khu vực do ASEAN khởi xướng. Do tính chất đa dạng của các nền kinh

tế trong khu vực, nguyên tắc đồng thuận tỏ ra khá hiệu quả. Thông qua

nguyên tắc này, APEC đã xây dựng được những nền tảng mang ý nghĩa quan

trọng và thực tế đẩy mạnh hợp tác, một chương trình làm việc toàn diện và

một thoả thuận lịch sử về tự do hoá thương mại và đầu tư trong khu vực tới

năm 2020.

 Nguyên tắc tự nguyện

Xuất phát từ đặc điểm của các nền kinh tế thành viên và các mối quan hệ

kinh tế quốc tế trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, sự hợp tác giữa các

thành viên trong APEC mang tính chất tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện thể

hiện trên hai điểm:

 APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế, một cơ chế liên chính phủ nhằm

xúc tiến sự hợp tác, tăng trưởng và phát triển của khu vực. Ngay từ Hội

nghị đầu tiên, các Bộ trưởng APEC đã nhất trí coi APEC như một Diễn

đàn tham khảo ý kiến về các vấn đề kinh tế nhằm tăng cường trao đổi

quan điểm giữa các nước châu Á-Thái Bình Dương.

 Thứ hai, do APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế nên nó không đưa ra

những quyết định, nguyên tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành

viên. Mọi hoạt động hợp tác đề dựa trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi

ích của các bên. Điều này phản ánh tính đặc thù của quá trình hội nhập

36

kinh tế trong khu vực.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Con đường phát triển của APEC như vậy phù hợp với đặc điểm đa dạng về

chế độ chính trị-xã hội của khu vực vì nó cho phép trong khi khai thác được

những lợi ích từ sự hợp tác kinh tế, các thành viên vẫn giữ được chủ quyền

kinh tế, bảo đảm không có sự can thiệp từ bên ngoài vào chế độ chính trị-xã

hội của các thành viên.

 APEC là diễn đàn mở, hoạt động phù hợp với các nguyên tắc của

GATT/WTO

APEC là một diễn đàn “mở” theo nghĩa APEC ủng hộ chế độ thương mại đa

phương, không tạo ra sự phân biệt đối xử giữa APEC với các nước và nhóm

nước khác trên thế giới, đồng thời APEC mở cửa cho các nền kinh tế không

phải là thành viên APEC trong khu vực tham gia.

Ủng hộ chế độ thương mại đa phương mở không chỉ là một nguyên tắc mà

còn là một trong những mục tiêu của APEC. Ngay từ giai đoạn đầu của

APEC, khi vòng đàm phán Uruguay của GATT bị mất động lực rơi vào bế

tắc, APEC đã đặt việc phấn đấu để kết thúc thành công vòng đàm phán này

thành một trong những mục tiêu chủ yếu của mình. Các thành viên châu Á

của APEC cùng chung mối ngại về xu hướng xuất khẩu của họ. Vì thế, sự

cam kết về một chế độ thương mại đa phương mở-thể hiện trong thuật ngữ

“chủ nghĩa khu vực mở” là một trong những nhân tố quan trọng gắn kết các

thành viên APEC với nhau. APEC đi đầu trong những nỗ lực nhằm tăng

cường hệ thống thương mại đa phương mở.

CHƯƠNG II

37

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

ASEM VÀ VAI TRÒ CỦA TIẾN TRÌNH ASEM TRONG

VIỆC THÚC ĐẨY MỐI QUAN HỆ Á-ÂU

I. ASEM

1. Hoàn cảnh ra đời

Tại Hội nghị kinh tế cấp cao châu Âu-Đông Á lần thứ ba tại Singapore tháng 10

năm 1994, Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong đã đưa ra sáng kiến tổ chức

một Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu nhằm tăng cường sự hiểu biết và thúc đẩy hợp

tác giữa hai châu lục. Sáng kiến này cũng chinh thức được đặt ra với Thủ tướng

Pháp trong chuyến thăm Pháp cuối năm 1994 của Thủ tướng Gok Chok Tong và

ngay lập tức được nhiều nước Á-Âu hưởng ứng. Tháng 3 năm 1996, Hội nghị

các nguyên thủ quốc gia về Hợp tác Á-Âu lần đầu tiên được tổ chức tại

Bangkok, Thái Lan với sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia 15 nước thuộc

Liên minh châu Âu, 10 nước châu á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,

Inđônêxia, Thái Lan, Malaysia, Brunêi, Singapore, Philippines và Việt Nam).

Sau Hội nghị thượng đỉnh này, Hợp tác Á-Âu chính thức ra đời và lấy tên của

Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên (ASEM) làm tên cho chương trình hợp tác này.

Thực chất, hiện nay ASEM là một diễn đàn hợp tác, cơ chế phối hợp thông qua

các nước điều phối viên và chưa có Ban thư ký điều hành. Các nước vẫn tiếp tục

nghiên cứu thảo luận hướng phát triển của ASEM trong thời gian tới và có nhiều

khả năng ASEM sẽ được nâng lên thành một tổ chức kinh tế thương mại để giải

quyết các vấn đề về về tự do hoá thương mại, đầu tư giữa châu Á và châu Âu.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, Hợp

tác Á-Âu có ý nghĩa hết sức to lớn. Các nước châu Âu thành viên ASEM đã trở

thành một trung tâm kinh tế quan trọng với việc hình thành Liên minh tiền tệ

châu Âu (EMU) và việc sử dụng đồng tiền chung EURO vào tháng 1 năm 1999.

38

Liên minh châu Âu cũng đang đẩy nhanh quá trình nhât thể hoá cả về chiều rộng

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

và chiều sâu. Song song với EU, vai trò của châu Á ngày càng được củng cố

trong hệ thống kinh tế và chính trị thế giới với tiềm năng to lớn về cơ hội thương

mại và đầu tư. Sự liên kết giữa hai khối kinh tế này thông qua ASEM sẽ tạo nên

một động lực mới thức đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai châu lục phát

triển, tạo nên một sức mạnh tổng hợp của ba khối kinh tế lín là EU-Nhật Bản-

Các nước châu Á đang phát triển. Ngoài ra trong bối cảnh Mỹ và các nước Bắc

Mỹ đang xây dựng và phát triển mạnh mẽ mối quan hệ kinh tế với các nước

châu Á trong khuôn khổ APEC, châu Âu đã có liên hệ chặt chẽ với Bắc Mỹ qua

quá trình lịch sử và mạng lưới dày đặc của những thể chế xuyên Đại Tây

Dương, ASEM còn có một ý nghĩa mang tính chất chiến lược, đó là cầu nối thắt

chặt hơn châu Âu với châu Á, tạo đối trọng quan hệ giữa các trung tâm kinh tế

lớn là EU-Mỹ-Nhật Bản và các nước châu á đang phát triển.

2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, cấu trúc và tiến trỡnh ASEM

2.1. Mục tiêu

Mục tiêu chủ đạo của Hợp tác Á-Âu hiện nay (được thông qua tại Hội nghị

ASEM I) là Hợp tác để đạt sự tăng trưởng hơn nữa ở cả châu á và châu Âu. Mục

tiêu này đã được cụ thể hoá ở Khuôn khổ hợp tác Á-Âu (AECF) thành các mục

tiêu cơ bản sau:

 Thúc đẩy đối thoại chính trị để tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau và

thống nhất quan điểm cuả hai châu lục đối với các vấn đề chính trị và xã hội

của thế giới.

 Xây dựng quan hệ đối tác một cách toàn diện và sâu rộng giữa hai châu lục

39

Á, Âu để thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, môi trường, phát

triển nguồn nhân lực… để tạo sự tăng trưởng bền vững ở cả châu Á và châu

Âu.

Các mục tiêu trên đã và đang được thực hiện thông qua một loạt các chương

trình hành động của ASEM như Chương trình thuận lợi hoá thương mại (TFAP),

Chương trình xúc tiến đầu tư (IPAP), Trung tâm công nghệ môi trường Á-Âu,

Quỹ Hợp tác Á-Âu (ASEF), Quỹ tín thác…

Về mặt kinh tế, ASEM đặt ra mục tiêu cụ thể là:

 Thúc đẩy giao lưu giữa các doanh nghiệp

 Cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy môi trường thương mại đầu

 Tạo sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững

Như vậy, trong lĩnh vực kinh tế, tuy ASEM chưa đề ra các mục tiêu về giảm

thuế và các nghĩa vụ mang tính chất bắt buộc như các tổ chức ASEAN, WTO

song ba mục tiêu cụ thể nêu trên đã tạo nền tảng cho việc phát triển quan hệ hợp

tác kinhtế chặt chẽ giữa hai châu lục, góp phần thuận lợi cho giao lưu thương

mại đầu tư và đóng vai trò như một chất xúc tác thúc đẩy thương mại kinh tế

khu vực.

2.2. Nguyên tắc hoạt động

Cũng như tất cả các diễn đàn hoặc tổ chức khu vực, ASEM hoạt dộng vơi những

nguyên tắc riêng của mình. Nguyên tắc cơ bản nhất của ASEM là tính chất tự

nguyện, không ràng buộc và quan hệ bình đẳng giữa các thành viên. Nguyên tắc

này tương đối phổ biến ở các diễn đàn đối thoại khu vực. Đi sâu vào các lĩnh

vực hợp tác, nguyên tắc này được cụ thể hoá hơn nhằm điều chỉnh một cách sát

40

sao quá trình Hợp tác Á-Âu

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Căn cứ vào văn kiện khung của ASEM là AECF, nguyên tắc hoạt động của

ASEM được quy định như sau:

 Quan hệ giữa các thành viên trên cơ sở đối tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau

và đôi bên cùng có lợi

 ASEM sẽ là một tiến trình mở và liên tục phát triển, việc mở rộng số thành

viên phải được sự đồng thuận của các nguyên thủ quốc gia

 Tăng cường thông tin và hiểu biết lẫn nhau thông qua đối thoại, định ra các

lĩnh vực ưu tiên phối hợp hành động

 Triển khai hoạt động hợp tác đồng đều ở cả ba lĩnh vực: tăng cường đối

thoại chính trị, củng cố hợp tác kinh tế và xúc tiến hợp tác trong các lĩnh

vực khác.

 ASEM sẽ được duy trì như một tiến trình tự nguyện, không thể chế hoá,

hoạt động của ASEM sẽ nhằm hỗ trợ và tạo thuận lợi cho các hoạt động ở

các diễn đàn quốc tế khác.

 Xúc tiến đối thoại và hợp tác giữa các doanh nghiệp và cư dân giữa hai khu

vực; khuyến khích hợp tác giữa các học giả, các nhà nghiên cứu giữa hai

khu vực.

2.3. Cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM

Bản chất của ASEM là một diễn đàn đối thoại, hoạt động hỗ trợ cho các tổ chức

hoặc diễn đàn đa phương khác (như xúc tiến đối thoại giữa các thành viên

ASEM về các vấn đề của Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại thế giới, các vấn

đề nổi cộm của kinh tế thương mại toàn cầu và khu vực…nhằm đạt được sự

đồng thuận và quan điểm chung của các thành viên ASEM trong các diễn đàn đa

phương nêu trên). Ngoài ra, hoạt động của ASEM cũng có đặc trưng là hoạt

động đối thoại cấp cao, theo đó mọi vấn đề cơ bản của ASEM cũng sẽ được thảo 41

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

luận và thông qua tại Hội nghị cấp cao (Hội nghị thượng đỉnh). Các hội nghị cấp

thấp hơn sẽ thực hiện hoặc điều phối thực hiện các quyết định mà các nguyên

thủ quốc gia đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh.

Với đặc điểm nêu trên, hoạt động của ASEM hiện nay chưa được thể chế hoá.

Các hoạt động hợp tác được tổ chức thông qua hai nước điều phối viên châu Á

và hai nước điều phôi viên châu Âu với nhiệm kỳ 2 năm. Các nước điều phối

viên nhóm họp khi cần thiết thông qua các nhóm công tác chuyên về từng lĩnh

vực chính trị hoặc kinh tế. Cơ quan điều phối ASEM tại mỗi nước là Bộ Ngoại

Giao. Có thể khi hoạt động đi vào chiều sâu, ASEM sẽ được cơ cấu lại với các

ban và nhóm công tác hoàn chỉnh.

Về cấu trúc và tiến trình, Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu được họp 2 năm một lần.

ASEM 1 lần đầu tiên được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan tháng 3 năm 1996.

Các Hội nghị thượng đỉnh tiếp theo là: ASEM 2 (London, 1998), ASEM 3

(Seoul, 2000) và gần đây nhất là ASEM 4 (Copenhagen, 2002). Có thể thấy 3

vấn đề cơ bản tạo nên cấu trúc của ASEM chính là kinh tế, chính trị và văn hoá-

xã hội. Trong đó, kinh tế vẫn là mảng lớn nhất và rất được chú trọng.

Các Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề Ngoại giao, Kinh tế, Tài chính và Môi

trường cũng được diễn ra trong thời gian 12-18 tháng. Bên cạnh đó là các hoạt

động và chương trình đi kèm cũng đồng thời được diễn ra. Những chương trình

đó bao gồm: Diễn đàn Kinh doanh Á-Âu (Asia-Europe Busines Forum-AEBF),

Kế hoạch Hành động thúc đẩy Thương mại (Trade Facilitation Action Plan-

TFAP), Kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (Investment Promotion Action

Plan-IPAP), Quỹ tín thác ASEM (ASEM Trust Fund), Quỹ tín thác ASEM cho

các nhà lãnh đạo trẻ Á-Âu (Asia-Europe Young Leaders ASEM Trust Fund),

Hội nghị chuyên đề của các nhà lãnh đạo trẻ Á-Âu (Asia-Europe Young Leaders

Symposium), Sức khoẻ trẻ em ASEM (ASEM Children Welfare), Liên kết

42

ASEM (ASEM Connect)…

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Như thế, cụ thể hoá, hiện tại các kênh Hội nghị chính của ASEM bao gồm:

 Hội nghị Thượng đỉnh ASEM (ASEM)

 Hội nghị cấp Bộ trưởng

 Hội nghị quan chức cấp cao ngoại giao (GOM)

 Hội nghị quan chức cấp cao thương mại và đầu tư (SOMTI)

 Hội nghị Thứ trưởng Tài chính

 Hội nghị Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ

 Diễn đàn doanh nghiệp Á-Âu

Ngoài các kênh hội nghị chính nêu trên, ASEM còn có các nhóm công tác ở cấp

chuyên viên để giải quyết những vấn đề kỹ thuật cụ thể của các chương trình của

ASEM. Hiện nay, ASEM có các nhóm công tác sau:

 Các nhóm công tác hoạt động theo khuôn khổ của TFAP như Nhóm về tiêu

chuẩn chất lượng, thủ tục hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (Intellectual

Property Rights-IPR), SPS, mua sắm của chính phủ…

 Nhóm chuyên gia về đầu tư (Investment Expert Group-IEG) hoạt động

trong khuôn khổ IPAP

 Một số các cuộc họp trong lĩnh vực văn hoá, xã hội như các diễn đàn về các

nhà lãnh đạo trẻ, bảo tồn di sản văn hoá, phúc lợi trẻ em…

 Các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức trong khuôn khổ hợp tác Á-Âu

Dưới đây là một số nét chính về các hội nghị trên:

43

 Hội nghị Thượng đỉnh ASEM

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Hội nghị Thượng đỉnh ASEM được tổ chức hai năm một lần để bàn về các vấn

đề chiến lược của ASEM và phê chuẩn các chương trình hợp tác.

 Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 1: được tổ chức từ ngày 1/3/1996 đến ngày

2/3/2996 tại Bangkok, Thái Lan. Hội nghị đã chính thức thành lập diễn đàn

ASEM và bước đầu định ra phương hướng, đường lối và một số nguyên tắc

cơ bản điều tiết hoạt động của diễn đàn này.

 Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 2: được tổ chức từ ngày 3/4/1998 đến ngày

4/4/1998 tại Luân Đôn, Anh trong bối cảnh nền kinh tế châu Á đang bị

khủng hoảng nghiêm trọng. Ngoài các chủ đề thảo luận sâu rộng về chính

trị, tài chính, Hội nghị đã đặt ra cơ sở cho quan hệ đối tác lâu dài giữa hai

châu lục đi vào thế kỉ XXI với việc thông qua 6 văn kiện quan trọng:

“Khuôn khổ hợp tác Á-Âu là cơ chế khung để điều phối và định huớng các

hoạt động ASEM. Khuôn khổ này bao gồm các mục tiêu, nguyên tắc hoạt

động và các lĩnh vực ưu tiên cảu Hợp tác Á-Âu”. Trong khuôn khổ này, các

nội dung ưu tiên của ASEM được đề ra trên ba lĩnh vực chính trị, kinh tế-tài

chính và văn hoá-xã hội là:

 Đối thoại chính trị: tập trung vào các vấn đề như cải tổ Liên hợp quốc,

các vấn đề an ninh thế giới và khu vực, quy tắc ứng xử chung, giải trừ

quân bị

 Hợp tác kinh tế và tài chính: tập trung vào các vấn đề như cải thiện môi

trường kinh doanh, đóng góp của ASEM vào việc thực hiện WTO, triển

khai TFAP, IPAP, chống rửa tiền, đối thoại tài chính…

 Hợp tác văn hoá xã hội: tập trung vào các lĩnh vực như liên kết trao đổi

44

sinh viên, học sinh, giao lưu văn hoá, hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Hiện nay, ASEM đang hoàn chỉnh bản khuôn khổ này thành: “Khuôn khổ

hợp tác Á-Âu toàn diện” để sử dụng như một công cụ chính thức nhằm điều

phối có hiệu quả các chương trình của ASEM

“Chương trình hành động thuận lợi hoá thương mại” (TFAP)

“Chương trình hành động xúc tiến đầu tư” (IPAP)

Thành lập “Nhóm chuyên gia về đầu tư (IEG)

Thành lập “Nhóm viễn cảnh á-Âu”

Thành lập “Trung tâm công nghệ môi trường á-Âu” tại Thái Lan

Hội nghị cũng thông qua Chương trình công tác ASEM 1998-2000 và một

số sáng kiến hợp tác mới do các nước đưa ra.

 Hội nghị ASEM 3:

Hội nghị ASEM 3 thảo luận về tiến trình ASEM trên các lĩnh vực chủ yếu:

 Trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề an ninh khu vực và thế giới

 Tăng cường hợp tác theo hướng khu vực hóa trên các lĩnh vực thương

mại, kinh tế và bao gồm cả các diễn đàn về vấn đề chính sách xã hội.

 Thỏa thuận tăng cường trao đổi giáo dục giữa hai khu vực

 Hội nghị ASEM 4

Hội nghị ASEM 4 được tổ chức tại Copenhagen từ ngày 18-19/9/2002. Hội

nghị thông qua các vấn đề về:

 Tăng cường hợp tác kinh tế giữa châu Á và châu Âu

 WTO

45

 Triển vọng kinh tế qua ASEM

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Phát triển kinh tế toàn cầu

 Các Hội nghị cấp Bộ trưởng

 Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao (FMM) : chịu trách nhiệm xủ lý, theo

dõi các vấn đề về chính trị, xã hội, điều phối công tác chuẩn bị cho Hội nghị

thượng đỉnh ASEM thông qua các Hội nghị quan chức cấp cao (GOM).

Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ nhất (FMM1) được tổ chức vào

tháng 2 năm 1997 tại Singapore để thông qua một số vấn đề về hợp tác an

ninh, chính trị và văn hoá của ASEM, chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh

ASEM2.

Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ hai (FMM2) được tổ chức vào tháng

3 năm 1999 tại Berlin, Cộng hoà Liên bang Đức thảo luận các vấn đề xoay

quanh cuộc khủng hoảng và thông qua “Chương trình hành động ASEM

đến năm 2000”

 Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế (EMM) là diễn đàn để thực hiện theo dõi việc

thực hiện hoạt động hợp tác kinh tế á-Âu xem xét và có thể thông qua

những đề xuất hợp tác mới, trực tiếp báo cáo các vấn đề kinh tế lên Hội

nghị Thượng đỉnh ASEM.

Hội nghị Bộ trưởng ASEM lần thứ nhất (EMM1) được tổ chức vào tháng 9

năm 1997 tại Makuhari, Nhật Bản. Hội nghị thông qua 3 văn kiện cơ bản

hợp tác kinh tế ASEM để trình lên Hội nghị cấp cao ASEM 2 là Khuôn khổ

hợp tác á-Âu (AECF).

Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM lần thứ hai (EMM2) được tổ chức tại

Berlin, Cộng hoà liên bang Đức vào tháng 10 năm 1999. Nét nổi bật của

Hội nghị này là tập trung vào của ASEM đối với các vấn đề của Hội nghị

46

Bộ trưởng WTO tại Seattle, Mỹ. ASEM đã thảo luận sâu và cố gắng thống

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

nhất quan điểm chung đối với các vấn đề của chương trình nghị sự WTO

như vấn đề trợ cấp nông nghiệp, thương mại và môi trường, thương mại

điện tử, tiêu chuẩn lao động…Điều này lại một lần nữa thể hiện đặc trưng

của diễn đàn ASEM là đối thoại để hỗ trợ, bổ sung cho các diễn đàn đa

phương khác. Thông qua EMM lần này, các nước thành viên phát triển và

đang phát triển của ASEM đã có một cái nhìn xích lại gần nhau hơn, tạo

điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề của WTO được tiến triển nhanh

chóng, thuận lợi hơn.

Ngoài ra một nét định hướng quan trọng của EMM2 là định hướng lại các

hoạt động kinh tế của ASEM theo đúng các mục tiêu chỉ đạo của các

nguyên thủ quốc gia, trong đó có định hướng quan trọng đối với việc thực

hiện TFAP là ưu tiên xác định và giải toả những hàng rào phi thuế trong

thương mại và đầu tư giữa hai khu vực. Hiện nay ASEM đã cơ bản xác định

một cách toàn diện cho các rào cản dưới dạng các quy định về tiêu chuẩn

chất lượng, kiểm dịch động thực vật, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, thủ tục hải quan, kinh tiêu sản phẩm trên thị trường nội địa5 . Các nhóm công tác của

ASEM sẽ tiếp tục bàn thảo các kế hoạch hành động nhằm từng bước giải

toả các rào cản nêu trên.

 Hội nghị Bộ trưởng Tài chính: thảo luận các vấn đề về tài chính trong khu

vực, xây dựng các chương trình hợp tác về quản lý tài chính, chống rửa tiền.

Hội nghị Bộ trưởng Tài chính lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 9 năm

1997 tại Bangkok, Thái Lan. Nội dung thảo luận chủ yếu tập trung vào các

vấn đề khủng hoảng tài chính ở châu Á, vai trò tài trợ của IMF, WB, EU

chủ yếu dưới hình thức để củng cố hệ thống tiền tệ thế giới, chống nạn rửa

5 Xem phụ lục 1

47

tiền.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Hội nghị Bộ trưởng lần thứ hai được tổ chức vào tháng 1 năm 1999 tại

Frankfurt, Main, Cộng hoà Liên bang Đức, Hội nghị đã đánh giá tác động

của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và việc lưu hành đồng Euro.

 Hội nghị Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường (S&TMM): thảo

luận và thông qua các chương trình hợp tác trong lĩnh vực khoa học và công

nghệ. Hội nghị Khoa học và Công nghệ lần thứ nhất tổ chức tại Bắc Kinh

vào tháng 10 năm 1999 thông qua 11 dự án hợp tác khoa học tập trung vào

bốn lĩnh vực: nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực, nông nghiệp, môi

trường, và nâng cao năng lực cạnh khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp6.

 Các Hội nghị quan chức cấp cao

 Hội nghị quan chức cấp cao ngoại giao (SOM): nhiệm vụ chính cơ bản của

SOM là bàn luận các vấn đề về đối thoại chính trị, hợp tác văn hoá, xã hội

của ASEM, xây dựng các chương trình hành động trong các lĩnh vực trên để

báo các các Bộ trưởng ngoại giao.

 Hội trưởng các quan chức cấp cao thương mại và đầu tư (SOMTI) là nơi

tiếp nhận, xử lý các vấn đề hợp tác kinh tế khác, trên cơ sở đó tổng hợp và

có báo cáo, khuyến nghị lên EMM.

 Hội nghị các Tổng cục trưởng hải quan: họp hai năm một lần và bào cáo kết

quả lên SOMTI. Hội nghị này chủ yếu đi sâu về các vấn đề hợp tác hải

quan, đơn giản hoá, hài hoà các thủ tục hải quan và chống buôn lậu, chống

nạn rửa tiền và buôn bán ma tuý.

6 Xem phụ lục 2

48

 Hội nghị cấp chuyên viên

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Hội nghị cấp cao ASEM 2 đã nhất trí thành lập Nhóm chuyên gia về đầu tư

(IEG) với chức năng hoạt động như một nhóm công tác nhằm điều phối và

triển khai các hoạt động trong khuôn khổ IADP. Nhiệm kỳ của IEG ban đầu

là hai năm. Tuy nhiên, do hoạt động điều phối có hiệu quả của IEG, Hội

nghị Bộ trưởng kinh tế lần thứ hai họp tại Berlin, Cộng hoà Liên bang Đức

tháng 10 năm 1999 đã quyết định gia hạn thời hạn hoạt động của IEG thêm

hai năm nữa.

 Các hoạt động chủ yếu khác

Một số cơ quan hoặc chương trình hoạt động đã được thiết lập theo quyết định

của các nguyên thủ quốc gia nhằm tăng cường hiểu biết, hợp tác và giao lưu

giữa doanh nhân hai khu vực

 Quỹ Á-Âu (ASEF): là một quỹ tài trợ phi lợi nhuận đặt tại Singapore nhằm

xúc tiến giao lưu Á-Âu trong các lĩnh vực văn hoá-xã hội. Được thiết lập

năm 1997 từ các nguồn tự nguyện của các nước thành viên ASEM, ASEF

đã tổ chức được một số lượng đáng kể các hội thảo và hội nghị chuyên đề

trong các lĩnh vực này.

 Trung tâm Công nghệ-Môi trường Á-Âu (AEETC) được thành lập năm

1999, đặt tại Bangkok, Thái Lan với nhiệm vụ xúc tiến hợp tác Á-Âu trong

một số vấn đề thiết yếu về môi trường. Ngân sách hoạt động của Trung tâm

khoảng 6 triệu USD do các nước thành viên đóng góp.

 Quỹ tín thác ASEM (ATF) do WB quản lý nhằm cung cấp tài chính cho các

chương trình trợ giúp kĩ thuật và đào tạo về các lĩnh vực xã hội và tài chính

cho các nước châu Á bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.

Được thành lập năm 1998 và hoạt động trong 2 năm, Quỹ đã thu hút được

42 triệu EURO vốn đóng góp từ các thành viên. Hiện Việt Nam được tài trợ

49

ba chương trình từ nguồn vốn của Quỹ là “Cải cách và phát triển hệ thống

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

ngân hàng”, “Tạo việc làm và chương trình mạng lưới an toàn xã hội”,

“Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và thương mại hoá các doanh nghiệp quốc

doanh trong ngành vận tải”.

 Diễn đàn doanh nghiệp ASEM (AEBF) được tổ chức định kỳ hàng năm để

tập hợp các doanh nghiệp có tầm cỡ trong các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng,

du lịch, xúc tiến thương mại và đầu tư. Mục đích của Diễn đàn là bàn về các

phương hướng xây dựng chiến lược doanh nghiệp trong các lĩnh vực trên và

tổng hợp ý kiến đề xuất lên Hội nghị thượng đỉnh của ASEM. Từ ngày

thành lập, ASEM đã tổ chức bốn diễn đàn doanh nghiệp. Lần thứ nhất vào

tháng 12 năm 1996 tại Pari-Pháp, lần thứ hai vào tháng 11 năm 1997 tại

Bangkok, Thái Lan, lần thứ ba vào tháng 4 năm 1998 tại London, lần thứ tư

vào tháng 9 năm 1999 tại Seoul, Hàn Quốc, và lần thứ 5 vào tháng 9 năm

2000 tại Vienne, áo.

3. Những cơ hội và thách thức của tiến trình ASEM trong thời gian tới

3.1. Những cơ hội

 Trong xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế chính trong

quan hệ quốc tế, các thành viên ASEM càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của

tiến trình hợp tác Á-Âu trong nỗ lực chung nhằm củng cố xu thế đó.

 Trong mỗi khu vực đang diễn ra nhiều chương trình liên kết kinh tế mạnh

mẽ hơn cả về chiều rộng và chiều sâu. Không gian kinh tế đang mở rộng

này tạo ra những cơ hội mới để khai thác tối đa tiểm năng và cơ hội để xây

dựng quan hệ đối tác kinh tế chặt chẽ hơn giữa hai châu lục.

 Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh trên các lĩnh

vực đột phá về lượng tử, tin học… cùng với kinh tế tri thức trở thành lực

50

lượng sản xuất mở ra những cơ hội hợp tác mới rộng lớn hơn trong ASEM,

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

nhằm phát huy những thế mạnh và khả năng bổ xung giữa các nền kinh tế

Á-Âu.

3.2. Những thách thức

Kể từ Cấp cao ASEM 4 đến nay, tình hình quốc tế và khu vực đã có nhiều

chuyển biến nhanh chóng và khó lường, đặt ra những thách thức mới đối với

ASEM. Có thể thấy, những thách thức lớn đó là:

 Sự kiện 11/9, đặc biệt là cuộc chiến tranh Iraq đã tạo ra sự thay đổi sâu sắc

trong quan hệ quốc tế tác động tới sự phát triển của tất cả các quốc gia,

quan hệ giữa các nước cũng như các tổ chức quốc tế và khu vực, trong đó

có ASEM

 Kinh tế châu Á tuy phục hồi nhưng chưa vững chắc, kinh tế châu Âu tiếp

tực phát triển chậm

 Tác động tích cực của toàn cầu hoá và tự do hoá, chủ nghĩa bảo hộ mậu

dịch gia tăng

 Khoảng cách phát triển và kỹ thuật số giữa các quốc gia tăng.

 Khuynh hướng hướng nội của EU có thể gia tăng đặc biệt là sau khi EU kết

nạp thêm 10 thành viên mới.

II. Tiến trình ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu

1. Vai trò của ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu

ASEM là diễn đàn ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ

hợp tác Á-Âu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá thông qua sự hiểu biết

lẫn nhau giữa hai khu vực. Vai trò của ASEM có thể thấy rõ thông qua các mục

51

tiêu cụ thể được đề ra tại các Hội nghị thượng đỉnh cấp Bộ trưởng được tổ chức

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

2 năm một lần cũng như hàng loạt các cuộc họp cũng như hoạt động trong

khuôn khổ ASEM ở mức thấp hơn.

Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu 1 diễn ra tại Bangkok tháng 3 năm 1996 đã đề

xướng quan hệ hợp tác Á-Âu, tăng cường mối quan hệ giữa hai khu vực thông

qua các diễn đàn chính trị, kinh tế và kể cả trên các lĩnh vực khác như văn hoá,

xã hội …

ASEM2 được diễn ra tại London vào tháng 4 năm 1998, đẩy nhanh tiến trình

hoạt động của 2 năm trước, đồng thời đi sâu vào việc khắc phục hậu quả của

khủng hoảng tài chính ở châu á năm 1998.

ASEM 3 được tổ chức tại Seoul tháng 10 năm 2000, đã vạch ra hướng đi trong

tương lai của ASEM trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21.

ASEM 4 tổ chức tại Copenhagen từ 22-24/9/2002 với mục đích thảo luận, đưa ra

những phương hướng giải pháp nhằm làm thuận lợi hoá chuẩn bị cho Hội nghị

thượng đỉnh về dịch vụ với bài viết về: “ Sức mạnh của hợp nhất trong đa dạng”.

Ngoài các cuộc họp thượng đỉnh, vai trò của tiến trình ASEM còn được thể hiện

trong hàng loạt các cuộc họp cấp Bộ trưởng và cấp thấp hơn cũng như hàng loạt

các hoạt động đi kèm. Chẳng hạn như các cuộc họp của Bộ trưởng Bộ ngoại

giao, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Kinh tế, Bộ trưởng Môi trường giữa

các nước Á-Âu được tổ chức 2 năm một lần.

Như vậy, có thể thấy vai trò của ASEM ngày càng quan trọng đối với sự phát

triển và thịnh vượng chung của hai khu vực Á-Âu. Điều này có thể thấy rõ trong

những vấn đề và mục tiêu thuộc ASEM:

 Về lĩnh vực chính trị: ASEM đưa ra và giải quyết những vấn đề về chống

khủng bố, việc kiểm soát luồng người di cư, nhân quyền, bảo vệ trẻ em và

52

ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Về lĩnh vực kinh tế và tài chính, ASEM giải quyết những vấn đề giảm hàng

rào thuế quan đối với thương mại và đầu tư, đưa ra các chính sách cải cách

về mặt tài chính-xã hội cũng như tăng cường củng cố thêm những vấn đề

thuộc WTO.

 Về lĩnh vực văn hoá và quyền sở hữu trí tuệ, ASEM nhấn mạnh vào việc

tăng cường trao đổi và liên lạc mật thiết hơn nữa giữa hai khu vực đồng thời

không ngừng củng cố những di sản và di tích văn hoá của mỗi nước thuộc

ASEM nói riêng và của mỗi khu vực Á-Âu nói chung.

2. Hợp tác kinh tế ASEM

2.1. Mục tiêu và nguyên tắc hợp tác

2.1.1. Mục tiêu

 Đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai khu vực và quan hệ giữa các

doanh nghiệp với các chính phủ trong quá trình xây dựng và triển khai các

chương trình hợp tác ASEM

 Cải thiện môi trường kinh doanh cho 2 khu vực

 Tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên, đẩy mạnh

quan hệ đối tác giữa các doanh nghiệp của hai khu vực, tạo ra sự tăng

trưởng kinh tế ổn định và bền vững thông qua các chương trình hợp tác

công nghiệp, năng lượng và môi trường

2.1.2. Nguyên tắc

 Các nước thành viên phải thực hiện cải cách kinh tế và thực hiện nền kinh tế

thị trường

53

 Các nền tảng kinh tế được dựa trên các nguyên tắc của WTO

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Tự do hoá thương mại dựa trên cơ sở không phân biệt đối xử, hợp tác trên

cơ sở bình đẳng, có lưu ý đến sự đa dạng về kinh tế trong nội bộ và giữa

châu Á-châu Âu

 Thực hiện minh bạch hoá các luật lệ và chính sách hiện hành

 Tăng cường sự phối hợp giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế

tư nhân, tạo cơ chế hỗ trợ về tài chính, tiếp cận thị trường , nghiên cứu khoa

học dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là

những nhân tố quan trọng trong sự phát triển năng động của các nền kinh tế.

2.2. Lĩnh vực hợp tỏc

Hiện nay hợp tác kinh tế ASEM đặt ra mục tiêu hàng đầu là tăng cường thương

mại và đầu tư giữa hai khu vực. Một số chương trình cụ thể đã được thông qua

nhằm thúc đẩy giao lưu và hợp tác giữa các doanh nghiệp.

2.2.1. Thuận lợi hoá thương mại

Khuôn khổ chung cho TFAP đã được nguyên thủ các nước thông qua tại ASEM

II. Đây là chương trình trụ cột của hợp tác kinh tế ASEM. Mục tiêu chính của

TFAP là tạo thuận lợi cho việc trao đổi thương mại hàng hoá, dịch vụ giữa hai

khu vực. Để thực hiện mục tiêu này, TFAP được xây dựng như một khuôn khổ

chung để các nước thực hiện minh bạch hoá chính sách quản lý thương mại và

hài hoà, đơn giản háo các thủ tục hành chính liên quan đến thương mại.Ngoài 7

lĩnh vực ưu tiên hành động: tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp, kiểm dịch động

thực vật, thủ tục hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, phân phối

lưu thông và đi lại của doanh nhân. TFAP hiện nay đang tập trung xác định các

rào cản trong thương mại giữa các nước thành viên ASEM để từ đó có cơ chế

54

đối thoại/ hành động nhằm giải toả dần những rào cản này.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Nguyên tắc của TFAP là không phân biệt đối xử, các kết quả của TFAP sẽ được

áp dụng đối với các nước thành viên và cả những nước không phải là thành viên

(tuy nhiên trên thực tế hầu như các nước không phải là thành viên không tiếp

cận được với những thành quả của tiến trình ASEM). Đồng thời, hoạt động của

TFAP phải phù hợp, hỗ trợ và thúc đẩy những hoạt động thuận lợi hoá song

phương và đa phương khác đã và đang được tiến hành, trong đó ưu tiên tập

trung vào các những lĩnh vực chưa được giải quyết thoả đáng trong các diễn đàn

trên theo một cách tiếp cận riêng, hiệu quả nhất. TFAP đặc biệt khuyến khích sự

tham gia của giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, coi

đây là động lực chính của chương trình này.

Một số kết quả cụ thể trong việc triển khai TFAP hiện nay như sau:

 Đơn giản hoá và minh bạch hoá các yêu cầu của kiểm dịch động, thực vật

(SPS)

Mục tiêu chính của lĩnh vực này là:

 Thực hiện Hiệp định về kiểm dịch động, thực vật của WTO

 Biên soạn các thông lệ tất nhất liên quan đến các chính sách và các biện

pháp hướng dẫn thực hiện các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực này.

 Tăng cường tính minh bạch trong lĩnh vực cách ly và kiểm dịch động

thực vật trong đó có các thủ tục kiểm tra và xét duyệt, các yêu cầu về

cách ly và thời gian thông thường

 Tổ chức các hội thảo về đơn giản hoá và hài hoà các thủ tục cách ly kiểm

dịch động thực vật .

Để triển khai các nội dung hợp tác trên, hội thảo lần thứ nhất và thứ hai về

Thủ tục kiểm dịch và Vệ sinh thực phẩm đã được tổ chức tại Chiêng Mai,

55

Thái Lan vào tháng 2 năm 1999 và tại Trung Quốc tháng 10 năm 1999. Hội

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

thảo đã nhất trí về tầm quan trọng của công tác vệ sinh kiểm dịch trong

buôn bán quốc tế các sản phẩm nông, lâm ngư nghiệp, đồng thời khuyến

khích thành lập kênh thông tin trên mạng Internet để trao đổi thông tin về

những vấn đề liên quan đến SPS. Hội thảo cũng đồng ý khuyến khích hoạt

động hợp tác kỹ thuật như đánh giá dịch hại đồng ruộng giữa các nước

thành viên ASEM để cải thiện cơ sở dữ liệu, đồng thời khuyến khích hợp

tác kỹ thuật khu vực và song phương để rút ra bài học bổ ích về hợp tác

giữa các nước thành viên ASEM.

 Đơn giản hoá và hài hòa hoá các thủ tục hải quan

Mục tiêu chính của hợp tác hải quan trong ASEM:

 Hài hoà danh bạ thuế theo tiêu chuẩn của WTO

 Thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định định giá hải quan

 Thực hiện hợp tác và trợ giúp lẫn nhau trong lĩnh vực hải quan

 Tăng cường tính minh bạch thông qua việc tiếp cận đối với các cơ sở dữ

liệu của các nước thành viên ASEM như thuế hải quan, danh bạ thuế

quan, hạn ngạch thuế quan, các thủ tục xuất nhập khẩu, quy tắc xuất xứ,

luật hải quan.

 Tổ chức các hội thảo ASEM cho các đại diện hải quan và giới doanh

nghiệp về các vấn đề như đánh giá rủi ro, trao đổi các thông tin điện tử,

thương mại phi giấy tờ.

 Tăng cường tính dự đoán trước cho giới doanh nghiệp thông qua việc

thông báo các quy định và thủ tục hải quan hiện hành.

Nhằm triển khai các nội dung này, Hội thảo về thủ tục hải quan và cuộc họp

56

Nhóm công tác về thủ tục hải quan được tổ chức tại Manila, Philippine vảo

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

tháng 2 năm 1999. Chủ đề của hội thảo về thủ tục hải quan tập trung vào

việc làm rõ vai trò của hải quan đối với cộng đồng doanh nghiệp, đồng thời

cũng khẳng định là cần thiết phải hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan hải

quan và doanh nghiệp nhằm mục tiêu đơn giản hoá thủ tục hải quan, hài hoà

thủ tục hải quan giữa các nước thành viên ASEM, tạo thuận lọi tối đa cho

hoạt động của thương mại giữa hai khu vực.

Cuộc họp Nhóm công tác về thủ tục hải quan đã đi đến sự nhất trí rằng các

cơ quan hải quan ASEM phải cố gắng thông qua nguyên tắc của công ước

Tokyô sửa đổi ở cấp quốc gia về kỹ thuật thông tin và thương mại điện tử.

Trong xu thế thương mại điện tử, đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, Hải

quan các nước ASEM đang đựoc khuyến nghị giới thiệu hệ thống thông

quan điện tử ở cấp quốc gia phù hợp với môi trường riêng biệt của từng

quốc gia và trên cơ sở hệ thống Các quy tắc của Liên hợp quốc về trao đỏi

thông tin điện tử trong quản lý hành chính, thương mại và vận tải

(UN/EDIFACT).

 Tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp

Mục tiêu chính của lĩnh vực hoạt động này là:

 Tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về các hệ thống thử nghiệm, chứng

nhận hài hoà của các thành viên

 Hài hoà các tiêu chuẩn quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế

 Xác định các lĩnh vực hợp tác ưu tiên nhằm đạt được các hiệp định thừa

nhận lẫn nhau

 Hợp tác trong việc tăng cường năng lực về xây dựng các tiêu chuẩn kỹ

thuật, việc thực hiện kiểm tra, chứng nhận, trao đổi thông tin và tăng

57

cường các chương trình hợp tác trong lĩnh vực này.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Cho đến nay, ASEM đã tổ chức được ba cuộc hội thảo về tiêu chuẩn và

đánh giá sự phù hợp. Các hội thảo đã tập trung thảo luận bốn chủ đề chính

là: các quy chế xây dựng văn bản pháp quy tốt, phù hợp với các tiêu chuẩn

quốc tế, các Hiệp định về thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) và hợp tác

kỹ thuật. Hội nghị nhấn mạnh sự cần thiết phải đạt được sự hiểu biết sâu sắc

hơn về các hệ thống tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp của mỗi thành viên.

Sau hai Hội nghị này, các thành viên đã thống nhất chọn 5 lĩnh vực ưu tiên

ban đầu để thực hiện hài hòa hoá với các yêu cầu về tương thích điện tử,

máy móc thiết bị, thiết bị viễn thông, bao gồm cả các yêu cầu về tương

thích điện từ, sản phẩm cao su, thiết bị y tế.

 Quyền sở hữu trí tuệ

Mục tiêu chính trng lĩnh vực hoạt động này là:

 Tăng cường đối thoại các vấn đề về quyến sở hữu trí tuệ nhằm tăng

cường việc áp dụng các quy định về sở hữu công nghiệp, đối với cả khu

vực công cộng lẫn khu vực kinh doanh

 Tăng cường thực hiện đầy đủ Hiệp định TRIPS của WTO

Nhằm mục tiêu này, Hội thảo về quyền sở hữu trí tuệ đã được tổ chức tại

Pari, Pháp vào tháng 6 n#m 1999, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng

cường hợp tác trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ như hoạt động hành

chính gồm có hải quan, công an và toà án. Đại diện của giới tư nhân cũng

nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyến sở hữu trí tuệ đối với các

chiến lược đầu tư ra nước ngoài của họ. Hội thảo cũng nhấn mạnh rằng cần

có sự hiểu biết lẫn nhau hơn nữa đối với luật và các quy định của các thành

viên ASEM về quyền sở hữu trí tuệ.

58

 Mua sắm của chính phủ

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Mục tiêu chính trong lĩnh vực này là:

 Trao đổi các thôn tin về các thủ tục mua săm của chính phủ các nước

thành viên và thông tin của về vấn đề này cho giới doanh nghiệp

 Xác định các cơ sở dữ liệu về mua sắm chính phủ của các thành viên

ASEM

 Tổ chức các hội thảo về mua sắm của chính phủ

Hội thảo lần thứ nhất về mua sắm của chính phủ được tổ chức tại Berlin,

Cộng hoà Liên bang Đức vào tháng 9 năm 1999. Hội thảo đã nhấn mạnh

tầm quan trọng của việc đổi mới các hình thức công nghệ thông tin và

truyền thông để tăng cường tính minh bạch đối với các thị trường mua

sắm và để tăng cường tính hiệu quả của các công ty được nhận hợp đồng.

Hội thảo cũng thảo luận về các vấn đề liên quan đến việc tăng cường Hiệp

định về mua sắm của chính phủ của WTO và việc chuẩn bị cho Hiệp định

minh bạch hoá riêng biệt trong việc đạt được các hợp đồng mua sắm để

đảm bảo cạnh tranh không bị bóp méo và phân biệt đối xử. Tuy nhiên, các

nước thành viên là các nước phát triển và đang phát triển cũng bất đồng

quan điểm về việc: “các quy tắc minh bạch hoá” thế nào và quy mô của

hiệp định này đến đâu.

2.2.2. Chương trình hành động xúc tiến đầu tư (IPAP)

Mục tiêu của IPAP là xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi để gia tăng dòng

vốn đầu tư hai chiều giữa châu Á và châu Âu, xây dựng các chương trình nhằm

khuyếch trương đầu tư giữa các nước thành viên đồng thời tăng cường cải thiện

cơ chế, chính sách và quy định về đầu tư trong khu vực. IPAP cũng nhằm kết

nối các khu vực kinh tế tư nhân chặt chẽ hơn và giữa khu vực kinh tế tư nhân

59

với chính phủ các nước ASEM nhằm đem lại lợi ích cho hai bên.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

IPAP sẽ được thực hiện trên nguyên tắc đảm bảo đối thoại thường xuyên giữa

khu vực nhà nước và tư nhân, phát triển hợp tác ở tất cả các lĩnh vực có liên

quan đến đầu tư theo hướng kinh tế thị trường, không phân biệt đối xử và thực

hiện minh bạch hoá các chính sách thương mại và đầu tư theo đúng các nguyên

tắc của WTO.

IPAP gồm 2 nội dung chính là:

 Xúc tiến đầu tư:

IPAP sẽ bao gồm các hoạt động sau:

 Trao đổi thông tin và đáp ứng các nhu cầu thông tin của giới đầu tư

 Tổ chức các Hội nghị bàn tròn các nhà hoạch định chính sách đầu tư và

đại diện các doanh nghiệp lớn của hai khu vực để thảo luận và tìm giải

pháp cho các vấn đề về đầu tư thúc đẩy cơ hội đầu tư cho doanh nghiệp

trong hai khu vực.

 Chương trình trao đổi giữa các nhà lãnh đạo các doanh nghiệp của

ASEM nhằm tăng cường sự hiểu biết về nền văn hoá giữa các nước.

EMM2 tại Berlin, Cộng hoà Liên bang Đức vừa qua đã thông qua danh mục

không bắt buộc một số mặt hàng bắt buộc một số biện pháp được đánh giá là có hiệu quả7.

 Các chính sách và quy định về đầu tư

Hoạt động chính trong phần này là tổ chức của cuộc đối thoại cấp cao để

bàn về các vấn đề then chốt liên quan đến khuôn khổ pháp lý và các chính

7 Xem phụ lục 3

60

sách điều chỉnh môi trường đầu tư.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Những hoạt động cụ thể triển khai trong IPAP có tính đến sự khác biệt về

quy chế đầu tư giữa các nước thành viên, trong đó việc đầu tư vào các dự án

phát triển cơ sở hạ tầng sẽ là vấn đề được ưu tiên.

Cho đến nay, các kết quả đã đạt được trong việc thực hiện IPAP là:

 Phát động Hệ thống trao đổi thông tin trên mạng Internet (VIE) để trao

đổi thông tin và tăng cường tính minh bạch của các quy định về đầu tư.

Mục đích của mạng thông tin này là để trao đổi thông tin liên quan đến

đẩu tư của các thành viên ASEM (trong đó có các thông tin cập nhật về

khuôn khổ pháp lý, các chương trình khuyến khích và xúc tiến đầu tư, dữ

liệu và các dòng luân chuyển ra và vào của Đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI), tổng quan về các hiệp định đầu tư quốc tế mà nước đó là bên tham

gia, hướng dẫn thực tế cho các nhà đầu tư việc kết nối với các mạng liên

quan khác và các dữ liệu kinh tố vi mô và vĩ mô cơ bản).

 Danh mục các biện pháp hiệu quả nhất để thu hút đầu tư trực tiếp nước

ngoài

EMM2 đã thông qua danh mục các biện phát được đánh giá là có hiệu quả

nhất trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, do đây là các biện

pháp được tập hợp từ ý kiến của nhiều nước nên có những biện pháp phù

hợp với nước này lại không phù hợp với khác. Vì thế, EMM2 đã thống

nhất rằng danh mục này là “không ràng buộc”. Các thành viên ASEM tự

nguyện báo cáo hàng năm cho SOMTI những tiến triển đã làm được trong

việc thực hiện các biện pháp trong danh mục này cũng như các biện pháp

khác để cải thiện môi trường đầu tư.

61

2.2.3. Xúc tiến hợp tác tương hỗ giữa các doanh nghiệp:

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Trong khuôn khổ chương trình này, Diễn đàn doanh nghiệp Á-Âu là hoạt động

định kỳ được tổ chức hàng năm nhằm tăng cường cơ hội cho các doanh nghiệp

gặp gỡ và trao đổi ý kiến. Đồng thời đại diện của các doanh nghiệp cũng được

mời tham gia Hội nghị.

Bộ trưởng Kinh tế họp Hội nghị thượng đỉnh để tăng cường đối thoại kinh tế

giữa các doanh nghiệp và các chính phủ.

Từ ngày thành lập đến nay, ASEM đã tổ chức bốn kỳ Diễn đàn doanh nghiệp và

một Hội nghị doanh nghiệp. Diễn đàn doanh nghiệp đã và đang tập trung vào

các lĩnh vực bức xúc đối với cả hai khu vực, hỗ trợ doanh nghiệp vửa và nhỏ, du

lịch, xúc tiến thương mại, đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng, năng lượng, dịch vụ

tài chính, giao thông-vận tải, bưu chính -viễn thông và nguồn nước tiêu dùng.

Hiện nay, các đại diện doanh nghiệp đã thảo luận, thống kê các vấn đề trở ngại

trong việc kinh doanh và đầu tư vào các lĩnh vực trên và đưa ra các khuyến nghị

cụ thể đệ trình chính phủ các nước.

Diễn đàn doanh nghiệp là hoạt động rất thiết thực trong ASEM, không những

góp phần làm giải toả những rào cản thương mại và đầu tư trong lĩnh vực mà

còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp Á-Âu gặp gỡ, xúc tiến cơ hội kinh doanh

và đầu tư đối với các nước đang phát triển hoặc các nước mới tham gia hội nhập

kinh tế quốc tế như Việt Nam, Diễn đàn doanh nghiệp còn có ý nghĩa giúp các

doanh nghiệp nắm bắt tốt hơn các thông tin thị trường và xu hướng phát triển

trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.

Cũng nhằm mục tiêu hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp, ASEM đã nhất trí

thành lập mạng thông tin ASEM (ASEM Connect). Trước mắt, mạng này sẽ bao

gồm các trang thông tin của các nước ASEM về các vấn đề sau:

62

 Danh bạ doanh nghiệp

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Danh sách các công ty tư vấn kinh doanh

 Các thông tin về bộ máy và cơ chế quản lý của chính phủ

 Chương trình các sự kiện nổi bật trong năm

 Các thông tin kinh tế khác

2.2.4. Viễn cảnh ASEM

Theo quyết định của các nguyên thủ các nước ASEM tại Hội nghị thượng đỉnh

ASEM II diễn ra tại London, Anh tháng 4 năm 1998, Nhóm Viễn cảnh á-Âu đã

được thành lập với nhiệm vụ vạch ra các phương hướng chiến lược cho hợp tác

ASEM trong thế kỷ XXI. Đến nay, Nhóm Viễn cảnh ASEM đã hoàn thành xong

các kết quả nghiên cứu ban đầu, tổng hợp thành báo cáo và gửi đến tất cả các nước thành viên ASEM để lấy ý kiến đóng góp của các nước này8. Nhóm Viễn

cảnh này sẽ dựa trên ý kiến đóng góp đó để bổ sung và hoàn chỉnh báo cáo trước

khi chính thức trình lên Hội nghị Thượng đỉnh ASEM III tại Seoul, Hàn Quốc

năm 2000.

Báo cáo này tập trung vào bốn chủ đề lớn sau:

 Tăng cường tham vấn và hợp tác trong việc mở cửa thương mại và xúc

tiến đầu tư (bao gồm cả các biện phát đa phương và các biện pháp khác

để tạo thuận lợi và khuyến khích thương mại và đầu tư hai chiều)

 Tăng cường đối thoại với doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với

nhau

 Hợp tác trong một số ngành công nghiệp ưu tiên

8 Xem phụ lục 4

63

 Đối thoại về các vấn đề hợp tác kinh tế quan trọng

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Viễn cảnh này nhằm xây dựng một khu vực ASEM hoà bình và thịnh vượng.

Nhiều ý kiến đề xuất xây dựng ASEM thành một khối hợp nhất, trong đó các tri

thức, của cải di sản văn hoá, tư tưởng chính trị, tư tưởng trí tuệ, công nghệ

mới… sẽ được trao đổi một cách chặt chẽ và sâu sắc hơn, Viễn cảnh ASEM

cũng hướng tới mở cửa thị trường ASEM, biến ASEM thành một khu vực, nơi

mà hàng hoá, dịch vụ có thể được luân chuyển tự do vào năm 2005. Nhìn vào

viễn cảnh nay, có thể thấy ASEM đang tiến theo những bước đi của EU trước

đay, với mức độ hợp tác liên kết ngày càng sâu rộng hơn.

Hiện nay, Viễn cảnh ASEM đang tiếp tục được hoàn thiện, hài hoà các ý kiến

khác nhau của các nước.

2.2.5. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác:

 Hợp tác tài chính

Để tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, ASEM đã nhấn mạnh sự cần

thiết phải tăng cường quan hệ hợp tác phối hợp chính sách và đối thoại trong

ASEM. Hội nghị các Bộ trưởng và Thứ trưởng Tài chính trong thời gian vừa

qua cũng đã tập trung phân tích những nguyên nhân, xu hướng diễn biến và các

giải pháp để khắc phục.

Để giúp đỡ các nước thành viên châu Á bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc

khủng hoảng tài chính, Hội nghị thượng đỉnh ASEM II tại London đã quyết định

thành lập Quỹ tín thác (ATF) tại WB. Quỹ này bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày

29 tháng 6 năm 1998 với tổng số vốn góp của 8 nước thành viên châu Âu là 47

triệu đôla. Các hoạt động trợ giúp tập trung vào hai lĩnh vực là tài chính và xã

hội.

ASEM cũng đã thành lập Mạng lưới chuyên gia tài chính châu Âu (EFEX). Đây

64

là sáng kiến của châu Âu đề ra nhằm tạo mối tìm kiếm và hỗ trợ kiến thức của

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

các chuyên gia tài chính của châu Âu và các khu vực khác trong quá trình giúp

châu Á cải cách và khắc phục khủng hoảng.

Ngoài ra, ASEM cũng đang triển khai sáng kiến về các biện pháp chống rửa tiên

trong ASEM và đang xem xét xây dựng mạng thông tin điện tử giữa các nước

ASEM nhằm tạo cơ sở trao đổi và phối hợp thông tin giữa Bộ Tài chính các

nước

 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)

ASEM đã thành lập Trung tâm doanh nghiệp vửa và nhỏ tại Thái Lan và Mạng

thông tin ASEM để phục vụ doanh nghiệp vửa và nhỏ. Hội nghị cấp Bộ trưởng

về SMEs đã được tổ chức tại Napoli, Italia vào tháng 5 nưm 1998. Hội nghị đã

tập trung thảo luận các vấn đề như chính sách của Nhà nước đối với SMEs ở các

nước, việc tăng cường đối thoại giữa các nhà hoạch định chính sách và các tổ

chức đại diện SMEs, hình thành các chương trình phát triển nhằm duy trì sự tăng

trưởng của các nước SMEs, hình thành các chương trình nhằm duy trì sự tăng

trưởng của các SMEs tại hai khu vực Á-Âu và thống nhất các khuyến nghị, nội

dung gửi chính phủ các nước thành viên và Hội nghị cấp Bộ trưởng về SMEs

tiếp theo.

CHƯƠNG III

VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH ASEM

I. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

1. Tính tất yếu của việc Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.

65

1.1. Tính tất yếu của việc hội nhập

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Sau sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực, dưới sự tác động ngày càng mạnh của

cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền

kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.

Nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau hơn, liên

kết chặt chẽ với nhau hơn ở tất cả các cấp độ: song phương, đa phương, tiểu khu

vực, khu vực, liên châu lục và đang hình thành một nền kinh tế thống nhất toàn

cầu trên cơ sở chuyên môn hoá cao độ và phân công lao động quốc tế ngày càng

sâu nhờ những tiến trình mở rộng không ngừng tự do hoá thơng mại, dịch vụ,

đầu tư trên phạm vi toàn thế giới. Xu thế khách quan của nền kinh tế thế giới đặt

ra cho mỗi nước đòi hỏi bức xúc phải tham gia tích cực vào các quá trình kinh tế

- xã hội ở phạm vi khu vực và thế giới, trước hết phải gắn mình vào những cơ

chế hợp tác nhất định nhằm tận dụng các cơ hội và không gian cho phát triển,

đồng thời đối phó với những thách thức do xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá

đưa tới. Hội nhập khu vực và thế giới như một dòng thác cuốn hút tất cả mọi n-

ước và do vậy, tham gia vào các cơ chế hợp tác khu vực và thế giới là một yêu

cầu cấp thiết đối với các nước.

Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia xuất hiện khi lực lượng sản xuất và phân công

lao động đã phát triển đến một trình độ nhất định. Thoạt đầu là những hình thức

đơn giản buôn bán song phương, sau mở rộng ra dưới dạng liên kết sản xuất

kinh doanh. Trong thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất và công nghệ thông tin

đã và đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng chưa từng có. Tình hình đó

vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo khả năng tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn

cầu.

Nhu cầu tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn thế giới trước hết bắt nguồn từ

các nước công nghiệp phát triển, do họ ở thế mạnh nên thường áp đặt các luật

chơi. Các nước đang phát triển vừa có yêu cầu tự bảo vệ, vừa có yêu cầu phát

66

triển nên cũng tham gia để bảo vệ và tranh thủ lợi ích cho mình, nhất là các nước

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

đang tiến hành công nghiệp hoá như Việt Nam. Vì vậy, ngày nay, hầu hết các

nước trên thế giới đều thực hiện chính sách hội nhập (ngay cả Trung Quốc, một

nước có thị trường 1,2 tỷ dân, lớn hơn bất cứ một khu vực mậu dịch tự do nào,

có khả năng tự sản xuất được gần như hầu hết mọi thứ, từ đơn giản đến phức

tạp, nhưng vẫn kiên trì chủ trương hội nhập vào nền kinh tế thế giới).

Đương nhiên, đối với những nước đang phát triển, kinh tế còn yếu kém,

doanh nghiệp nhỏ bé, sức cạnh tranh còn thấp, trình độ quản lý nhà nước và

kinh doanh còn hạn chế, thì hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực không chỉ có

cơ hội mà còn có cả khó khăn, thách thức, thậm chí khó khăn thách thức là

lớn, nhưng nếu cứ đứng ngoài cuộc, khó khăn có thể còn lớn hơn nhiều.

Quyết định đúng đắn là: chủ động hội nhập gắn với chủ động điều chỉnh cơ

cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh, hoàn thiện hệ thống pháp

luật, cơ chế quản lý, cải cách hành chính... trên cơ sở đó mà phát huy nội lực,

vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội để phát triển đất nước.

Thực tế cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các nớc nâng cao

vị trí và hình ảnh quốc tế, tăng thêm lợi thế và tiếng nói của mình trong đàm

phán đa phương, góp phần hình thành "luật chơi" chung ở khu vực và trên toàn

thế giới, nếu không sẽ bị thua thiệt và cô lập. Là một nước đang phát triển năng

động ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, và là thành viên của một số tổ chức

khu vực và liên khu vực cũng như trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam không

thể đứng ngoài cuộc.

Nhìn lại lịch sử của quá trình hội nhập của Việt Nam chúng ta thấy, ngay từ

những năm 80 nước ta đã hội nhập quốc tế thông qua Hội đồng tương trợ kinh tế

(SEV) do Liên Xô đứng đầu, đồng thời đã mở rộng quan hệ kinh tế với Liên Xô,

Trung Quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa cũng như một số ít nước

ngoài phe xã hội chủ nghĩa. Sự hội nhập này đã mang lại nguồn lực quan trọng

về vật chất và tinh thần trong những năm đầu khôi phục và xây dựng kinh tế sau 67

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

chiến tranh. Tuy nhiên, ở một góc độ khác thì hiệu quả kinh tế-tài chính của hội

nhập kinh tế lúc đó không được như mong muốn do thực hiện cơ chế kế hoạch

hoá tập trung bao cấp.

Bước sang thời kỳ đổi mới, xuất phát từ các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội

với sự lựa chọn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế của nước ta đã có những chuyển biến cả về chất và lượng theo tinh thần

Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế

giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,

mọi đường lối, chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật được thực thi bằng

bộ máy quyền lực của Nhà nước với các công cụ hành chính và kinh tế, đồng

thời cũng mở rộng quyền dân chủ của nhân dân, nhanh chóng hội nhập có hiệu

quả với nền kinh tế khu vực và thế giới.

1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế

Những bước đi quan trọng của Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

đều được sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính

trị. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, với đường lối đổi mới của Đảng ta đã có chủ

trương: “Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới

nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm

hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật đầu tư, cần có các chính sách và

biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta

để hợp tác kinh doanh”. Đây là những nền tảng quan trọng để thúc đẩy quá trình

hội nhập nền kinh tế quốc tế của nước ta. Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục chủ

trương mở rộng hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước, các tổ chức

quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở các

nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế

giới, tăng cường thu hut nguồn vốn từ nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam chủ trương khai thông quan hệ 68

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

giữa các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân

hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)…mở rộng quan hệ với

các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á-Thái Bình Dương. Một trong

những biện pháp quan trọng là “Việt Nam cần tích cực cải thiện hơn nữa môi

trường đầu tư, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động hợp tác, liên doanh với

nước ngoài, có nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi nguồn vốn đầu tư,

chú trọng phát triển các quan hệ hợp tác với các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”9

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, với tầm

nhìn chiến lược, Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “xây dựng một nền kinh

tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết

04 của Ban chấp hành TW khoá VIII đã nêu rõ: “tích cực chủ động thâm nhập

và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm

phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ

thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Tiếp đó trong

Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ quan điểm của Đảng: “Chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,

nâng cao hợp tác hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định

hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc

dân tộc, bảo vệ môi trường”. Đây là một trong những chủ trương lớn trong chính

sách đối ngoại, hội nhập của Việt Nam. Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế

quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là

chủ động mở cửa kinh tế, tham gia sâu vào phân công hợp tác quốc tế, tạo điều

kiện để kết hợp có hiệu quả hơn mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước, mở

rộng không gian và môi trường để phát triển, nâng cao thế lực của nước ta trong

9 Văn kiện Hội nghị Trung ương, trang 18

69

quan hệ kinh tế quốc tế.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng của xu thế toàn cầu hoá

kinh tế. Nói hội nhập là nhấn mạnh đến tính chủ động tham gia vào quá trình

toàn cầu hoá. Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm một số nội dung chủ yếu như:

chủ động tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, đặc biệt là những

lĩnh vực kinh tế mới, chủ động tham gia và mở rộng thương mại quốc tế, chủ

động tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế… Khẳng định tầm quan trọng

của hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết 07-NT/TW của Bộ chính trị, ngày

27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế đã đề ra 5 quan điểm chỉ đạo trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới:

 Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là: “Chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao

hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xác hội chủ

nghĩa, bảo vệ lợi ích của dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc

văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.

 Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập

cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của

toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

 Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh

tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn

khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối

tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể, vừa phải đề phòng tư tưởng trì

trệ thụ động, vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng.

 Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ

trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng

70

đước quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, tranh thủ

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế

chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.

 Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an

ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của

quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những

mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình” đối với

nước ta.

Để cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, thực hiện tốt Nghị quyết trong thực tiễn,

Chính phủ đã thông qua một Chương trình hành động bao gồm các nhiệm vụ cụ

thể được phân công trách nhiệm thực hiện rõ ràng cho các bộ, ban ngành và các

địa phương có liên quan, có sự phối hợp thực hiện với các cơ quan trung ương.

Cụ thể đầu mối nhiệm vụ là: Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ

Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hoá-Thông tin với công tác tư tưởng, thông tin,

tuyên truyền, Bộ Tư pháp với nhiệm vụ xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ

chế chính sách kinh tế thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Quốc gia về

hợp tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế

và nâng cao khả năng cạnh tranh, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế

với nhiệm vụ tổng hợp và hoàn thiện chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế

quốc tế, Bộ Nội vụ chủ trì cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động-

Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp… với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực,

Bộ Ngoại giao với nhiệm vụ kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế

đối ngoại, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc

phòng. Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ, Bộ Thương mại, Bộ

Tài chính với nhiệm vụ về đàm phán gia nhập WTO, Bộ Thương mại, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với

71

nhiệm vụ mở rộng thị trường xuất khẩu, tranh thủ đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

các nước và các tổ chức quốc tế. Và cuối cùng là công tác kiện toàn tổ chức của

các bộ, cơ quan của Chính phủ.

2. Vài nét về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Với đường lối, chính sách đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn, quá

trình hội nhập quốc tế của Việt Nam qua thời gian đã có những biến đổi sâu sắc.

Việt Nam đã từng bước thu được những kết quả quan trọng bước đầu về ổn định

và phát triển kinh tế-xã hội, từng bước xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, mở rộng quan hệ thương

mại với gần 200 nước, là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, kí hiệp định

kinh tế-thương mại, tranh thủ đầu tư trực tiếp của các tập đoàn và các công ty

thuộc 77 nước và vùng lãnh thổ, trong đó đáng chú ý là Hiệp định thương mại

Việt Nam-Hoa Kỳ đã được ký kết ngày 13/7/2000, tranh thủ được viện trợ phát

triển của hơn 45 nước và định chế tài chính quốc tế, tích cực tham gia các tổ

chức kinh tế khu vực và thế giới, đưa hội nhập quốc tế lên một tầm cao mới với

những mốc đánh dấu quan trọng.

 Năm 1993, Việt Nam đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ

quốc tế như IMF, WB, ADB đưa hoạt động hợp tác với các định chế này dần

đi vào chiều sâu. IMF, WB đã hỗ trợ Việt Nam thông qua chương trình tín

dụng trung hạn, chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và Chương

trình điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với

các tổ chức này gắn bó mật thiết với những yêu cầu của WTO. Đối với

Chương trình SAC và ESAF lần thứ hai thời kỳ 1999-2000, sau các đợt đàm

phán, hai bên đã đạt được nhiều thoả thuận cơ bản, những vấn đề còn đang

được tiếp tục đàm phán trong thời gian tới.

Như vậy, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đứng đầu về thu

72

hút được nguồn ODA từ các nước phát triển như Nhật, Pháp, Đức, Anh, Đan

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Mạch, Thuỵ Điển. Trong đó, các nhà tài trợ của EU luôn luôn là những nhà

tài trợ lớn, đứng thứ 3 trong nhóm dẫn đầu các nhà tài trợ đa phương, sau

WB và ADB. Tháng 1/2002, Ban giám đốc điều hành ADB đã phê duyệt

Chương trình và chiến lược cho quốc gia Việt nam, dự kiến trợ giúp khoảng

945 triệu USD trong ba năm tiếp theo. ADB sẽ ưu tiên trợ giúp các cải cách

trong lĩnh vực tài chính và nông nghiệp, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và

cải thiện y tế, cải cách hành chính công và tăng cường quản trị, phát triển các

doanh nghiệp vừa và nhỏ và cung cấp năng lượng với giá cạnh tranh và tiếp

tục các dự án trợ giúp khu vực miền Trung, nơi có nhiều người nghèo sinh

sống. Năm 2002, ADB tài trợ cho Việt Nam với tổng số vốn hơn 240 triệu

USD, năm 2003 dự kiến khoảng 280 triệu USD. Hai bên cũng cam kết tiếp

tục hợp tác chặt chẽ trong những nỗ lực nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã

hội của Việt Nam, đơn giản hoá và hài hoà các thủ tục chính sách để thúc đẩy

việc thực hiện các dự án, trợ giúp Việt Nam trong các dự án ở cấp tiểu khu

vực, đặc biệt là Chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mê Công mở rộng

(GSM).

 Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN,

Việt Nam đã tham gia đầy đủ các hoạt động của ASEAN và có những đóng

góp bằng nhiều sáng kiến trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã

hội, các hoạt động hợp tác với các nước, các tổ chức đối thoại của ASEAN,

trong đó có diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), đối thoại ASEAN-EU. Gần 8

năm qua kể từ khi chính thức gia nhập ASEAN, Việt Nam đã có nhiều đóng

góp vào công việc của Hiệp hội như: chủ trì nhiều hội nghị và hội thảo cấp

cao trong ASEAN và giữa ASEAN với các bên đối thoại, tham gia xây dựng

nhiều văn bản quan trọng về chiến lược và các chương trình hành động của

ASEAN, tiêu biểu như: Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân,

73

Tuyên bố Hà Nội, Chương trình hành động Hà Nội , Tầm nhìn ASEAN

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

2020, góp phần tích cực và là động lực chính của ASEAN tại ARF. Việt Nam

đã góp phần tích cực và là động lực chính của ASEAN có một diện mạo mới,

làm cho ASEAN trở thành một khu vực hữu nghị, hợp tác, ngày càng có vai

trò và ảnh hưởng to lớn trên trường quốc tế. Quan điểm và những sáng kiến

của Việt Nam về nhiều vấn đề khu vực thường được hưởng ứng và sự nhất trí

cao trong ASEAN.

 Từ 1/1/1996, Việt Nam bắt đầu thực hiện nghĩa vụ và các cam kết trong

Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA. Năm

1999, Việt Nam đã đưa 3582 mặt hàng vào thực hiện CEPT/AFTA. Việc

Việt nam tham gia thực hiện CEPT/AFTA sẽ giúp hàng hoá của Việt Nam

xuất khẩu sang các nước ASEAN khác, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu các

thị trường trong khu vực. Ngoài ra, tham gia thực hiện AFTA đã mở ra cho

Việt Nam cơ hội tiếp cận với những vấn đề quan trọng của đời sống kinh tế

và liên kết kinh tế thế giới, tạo ra những khả năng mới để tăng cường hợp tác

đa phương và phát triển quan hệ song phương với các nền kinh tế vốn là

những đối tác thương mại và đầu tư quan trọng của Việt Nam.

 Từ tháng 3/1996, Việt Nam đã tham gia ASEM với tư cách là một trong

những nước thành viên sáng lập của ASEM. ASEM được thiết lập từ 10 nước

ở châu Á và 15 nước thành viên EU cùng với sự tham gia của Uỷ ban châu

Âu (EC) trong tiến trình hợp tác Á-Âu này. ASEM đã hình thành nên mối

quan hệ đối tác có tiềm lực hàng đầu thế giới với 44,2% dân số, 54,4%GDP

và 35,4 trao dổi mậu dịch toàn thế giới. Việt Nam đã tham gia và có những

đóng góp tích cực vào những thành công cửa cơ chế này, tham gia chuẩn bị,

soạn thoả các văn kiện quan trọng của ASEM, góp phần xử lý các vấn đề đặt

ra trong hợp tác Á-Âu, trên cơ sở đó góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn

nhau của hai châu lục, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học, công

74

nghệ, văn hoá, giáo dục…

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 22/10/1990), quan hệ

kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng được củng cố và phát

triển. Một loạt những Hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại được ký kết,

trong đó có Hiệp định khung về hợp tác Việt Nam-EU được ký kết ngày

17/7/1995 đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để phát triển quan hệ kinh tế giữa

Việt Nam và EU. Ngoài ra, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam-EU

được tăng cường đẩy mạnh với việc EU công nhận Việt Nam là nước có nền

kinh tế thị trường và tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện thông qua cơ chế

hợp tác trong ASEM đã có những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển quan

hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU. Trong những năm gần đây, kim ngạch buôn

bán với EU chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu

của Việt Nam. Nhìn chung, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và

EU ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong hơn một thập

kỷ qua, nguồn vốn FDI của EU vào Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Ngay

từ cuối năm 1987, không ít các nhà đầu tư nước ngoài EU đã trở thành những

nhà đầu tư nước ngoài tiên phong đầu tư vốn vào Việt Nam. Đến năm 1996,

đầu tư của EU vào Việt Nam đã chiếm khoảng 12% tổng số vốn đầu tư của

EU ở khu vực châu Á, nhiều hơn đầu tư của EU vào các nước khác trong khu

vực. Các nhà đầu tư EU đang vươn lên trở thành các nhà đầu tư lớn nhất của

Việt Nam.

 Ngày 18/11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của APEC.

Tham gia APEC, Việt Nam đã xây dựng và tiến hành thực hiện chương trình

hành động quốc gia (IAP) để thực hiện các mục tiêu tự do hoá và thuận lợi

hoá thương mại và đầu tư của APEC. Trong IAP có các cam kết ở 15 lĩnh

vực về thuế, phi thuế, dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ…APEC quyết

định thực hiện hội nhập đầy đủ vào năm 2010 đối với các thành viên phát

75

triển và năm 2020 đối với các thành viên đang phát triển, trong đó có Việt

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia Chương trình hành động tập thể

(CAP) phối hợp với các thành viên khác trên các lĩnh vực thông tin, phát

triển nguồn nhân lực, thủ tục hải quan và tiêu chuẩn, hợp chuẩn để thí điểm

triển khai các hoạt động của APEC. Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm tham

gia Chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH), rất cần cho sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.

 Sau hơn 4 năm đàm phán, Hiệp định Thương mại song phương Việt-Mỹ đã

được ký kết ngày 12/7/2000 và có hiệu lực ngày 10/12/2001. Trong bối cảnh

có nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn đan xen thì kết quả của việc

thực hiện hiệp định giữa hai nước được xem là đáng khích lệ. Từ năm 2002.

Mỹ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

 Tháng 12/1994, Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập WTO và từ đó

đến nay đã tiến hành các công việc minh bạch hoá chính sách, chuẩn bị và

tiến hành các vòng đàm phán song phương mở cửa thị trường. Để gia nhập

WTO, Việt Nam phải tiến hành đồng thời vừa đàm phán WTO, vừa đàm

phán tay đôi song song với một số nước có chọn lọc. Hiện nay, Việt Nam đã

vượt qua 6 vòng đàm phán, hoàn thành việc trả lời 1700 câu hỏi từ Ban thư

ký của WTO và các nước thành viên, đang xúc tiến chuẩn bị phiên đàm phán

thứ 7 với quyết tâm phấn đấu gia nhập WTO vào năm 2005, tất nhiên là với

điều kiện chấp nhận được đối với nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, thời

điểm gia nhập còn phụ thuộc vào yêu cầu, đàm phán thực chất của các nước,

tiến triển của vòng đàm phán Doha.

Tóm lại, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được thực hiện trong

một thời gian chưa dài, kinh nghiệm còn hạn chế nhưng đã mang lại những kết

quả ban đầu đáng khích lệ đó là: Đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm

76

vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của đất nước trên chính

trường và thương trường quốc tế, khắc phục được khủng hoảng thị trường do

Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã gây nên, mở rộng và đa dạng hoá

được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được một nguồn vốn lớn đầu tư trực

tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn viện trợ chính thức (ODA), giảm đáng kể nợ

nước ngoài, từng bước tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp

phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh, từng bước đưa hoạt

động của doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, nhờ đó đã

tạo được tư duy kinh doanh mới, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,

kết hợp nội lực và ngoại lực hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến

những nền kinh tế to lớn và nhờ vậy giúp ta tiếp tục giữ vững, củng cố độc lập,

tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân

tộc.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan trên, trong quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế của Việt Nam cũng đã bộc lộ những điểm yếu kém cần khắc phục. Đó

là công tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập quốc tế chuyển sang giai đoạn mới

trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp, chưa hình thành được một

kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý

cho việc thực hiện các cam kết quốc tế; Luật pháp, chính sách quản lý kinh tế

thương mại chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập; Các doanh nghiệp Việt Nam

còn yếu cả về sản xuất, trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh; Nguồn nhân lực

phục vụ cho tiến trình hội nhập còn thiếu, trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu

cơ bản; Công tác tổ chức chỉ đạo chưa thích hợp. Ngoài những yếu kém cần

khắc phục trên, Việt Nam còn cần phải khẩn trương xây dựng kế hoạch mang

tính chiến lược dài hạn để đối phó với những thách thức mới do biến động phức

77

tạp của tình hình quốc tế mang lại .

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

3. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế.

3.1. Những cơ hội đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.

3.1.1. Góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, nâng cao vị thế quốc tế của

Việt Nam và tạo thế đứng vững chắc hơn cho Việt Nam trong quan hệ quốc tế..

Hội nhập kinh tế quốc tế chính là cơ hội để Việt Nam tham gia và thực sự

hoà mình vào quan hệ quốc tế, nắm bắt tốt hơn các xu hướng quốc tế cũng

như sự điều chỉnh chính sách kinh tế thương mại của các nước khác, từ đó

định hướng điều chỉnh vừa phù hợp với tiến trình chung, vừa khai triệt để

những cơ hội lợi nhất cho mình. Nếu không thực sự được hoà mình vào

quan hệ quốc tế, chẳng hạn như Việt Nam không phải là thành viên WTO,

ta sẽ mất đi cơ hội tham gia những cuộc thương thuyết phân chia quyền lợi

và thị trường, không có thông tin, điều này cũng có nghĩa là ta sẽ mất đi

chủ quyền đấu tranh, thương thuyết, phát biểu nếu các vấn đề xảy ra hoặc

các thoả thuận đó gây phương hại đến lợi ích của quốc gia mình.

3.1.2. Khắc phục tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong

thương mại quốc tế.

Việc tham gia các thể chế hợp tác kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội tốt để ta tham gia

vào việc xây dựng những "luật chơi" chung, ngăn ngừa tình trạng bị phân biệt

đối xử, bị chèn ép trong thương mại quốc tế, góp tiếng nói chung đấu tranh bảo

vệ lợi ích của các nước đang phát triển. Đặc biệt, tiến trình này sẽ tạo cơ hội cho

các nước nhỏ, nước chậm phát triển có cơ hội đối thoại chính sách với các nước

phát triển hơn, hoặc phối hợp quan điểm với các nước khác trên các diễn đàn

quốc tế nhằm giải toả các rào cản thương mại, đấu tranh đòi đối xử công bằng

78

trong thương mại.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

3.1.3. Được hưởng những ưu đãi thương mại, mở đường cho thương mại phát

triển.

Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cần để chúng ta tranh thủ những ưu đãi về

thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ mỗi tổ chức,

góp phần mở rộng thị trường cho hàng hoá Việt Nam, tạo điều kiện thu hút đầu

tư trong và ngoài nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy

lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam.

Đặc biệt, trong WTO, cũng như đại đa số các tổ chức khu vực khác đều có các

chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển và các nước trong thời kỳ

chuyển đổi, cho phép các nước này được hưởng các miễn trừ, ân hạn trong việc

thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế, phi thuế và các nghĩa vụ khác. Việc mở cửa

hội nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam thâm

nhập vào thị trường khu vực và thế giới.

3.1.4. Tạo điều kiện cơ cấu lại sản xuất theo hướng có hiệu quả hơn; tăng c-

ường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và chuyển giao kỹ nghệ, công

nghệ từ các nước.

Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có cơ hội tiếp thu công nghệ, kinh

nghiệm quản lý, kỹ thuật tiên tiến và cọ sát trong cạnh tranh, một số ngành và

doanh nghiệp của ta có thể nâng cao được sức cạnh tranh, một số ngành và mở

rộng thị trường xuất khẩu. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với những

nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hoá như Việt Nam. Hội nhập kinh

tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho các ngành sản xuất có cơ hội chọn lựa nguyên

vật liệu và các yếu tố đầu vào phù hợp, mở rộng hợp tác khoa học, kỹ thuật, thúc

đẩy chuyển giao công nghệ và vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước.

79

3.1.5. Góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Thông qua Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội

tham gia vào các chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật do các nước thành viên

của một tổ chức khu vực tổ chức. Nhờ đó, Việt Nam có khả năng nâng cao được

trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, xây dựng một đội ngũ các nhà doanh

nghiệp năng động, có kỹ năng quản lý sản xuất, kinh doanh giỏi, biết tổ chức tốt

thị trờng và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, góp phần chiến

thắng trong cạnh tranh.

Trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam có những bước đi đúng đắn

từng bước điều chỉnh hệ thống luật lệ, chính sách thương mại phù hợp với tập

quán quốc tế và các quy tắc chuẩn mực của WTO, bảo đảm hình thành đồng bộ

các yếu tố của thị trường, bình đẳng khuyến khích tự do kinh doanh, cạnh tranh

lành mạnh nhưng vẫn giữ vững vai trò quản lý của Nhà nước, bảo đảm phát triển

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy bản sắc

dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia.

3. 2. Những thách thức của Hội nhập kinh tế quốc tế.

Bên cạnh rất nhiều những cơ hội và thuận lợi ở trên, tham gia vào hội nhập kinh

tế quốc tế, Việt Nam cũng gặp không ít thách thức khó khăn do quá trình này

mang lại. Khó khăn lớn nhất của Việt Nam khi bước vào hội nhập là nền kinh tế

đang ở trình độ phát triển thấp, chênh lệch lớn không chỉ so với các nước công

nghiệp mà ngay cả với các nước có trình độ phát triển chưa cao trong khu vực.

3.2.1. Tính cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.

Việc giảm thuế quan và các biện pháp phi thuế, thông thoáng chính sách quản lý

đối với các lĩnh vực đầu tư, dịch vụ sẽ làm phát sinh sức ép lớn, đòi hỏi nền kinh

tế và các doanh nghiệp phải có đầy đủ năng lực cạnh tranh mới có thể trụ vững

80

và khai thác được lợi thế của hội nhập.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Việt Nam mặc dù có nhiều lợi thế về nguồn lao động và một số tài nguyên

nông, lâm, khoáng sản dồi dào, Việt Nam vẫn gặp phải những yếu kém về công

nghệ, trình độ quản lý, cơ sở hạ tầng, độ ổn định về chính sách và hệ thống tài

chính ngân hàng lạc hậu.

Xét về mặt tổng thể, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn tương

đối thấp. Theo danh sách xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới về năng lực

cạnh tranh của các nền kinh tế thế giới, năm 1997, Việt Nam xếp thứ 49/53, năm

1998 xếp thứ 39/53 và năm 1999 xếp thứ 48/53. Sở dĩ năm 1998 vị trí của chúng

ta nhích lên cao vì các nước châu Á đang trải qua khủng hoảng nghiêm trọng,

kinh tế của họ bị đánh tụt trong bảng xếp hạng. Như vậy, có thể thấy để hội nhập

có hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chúng ta cần giải

quyết một loạt các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng, cơ chế chính sách, năng

lực quản lý, hệ thống tài chính ngân hàng.

Xét về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, theo đánh giá của dư luận và các

công trình nghiên cứu gần đây thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt

Nam đã xuất hiện trong nhiều ngành sản xuất, nhưng nhìn chung còn tương đối

thấp, thể hiện ở các điểm sau:

 Năng suất lao động chưa cao.

 Chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm còn thấp.

 Trình độ công nghệ và khả năng tiếp cận với công nghệ mới còn hạn chế.

 Chi phí đầu vào còn cao và chưa hợp lý, dẫn đến nhiều trường hợp giá cả

hàng hoá cha cạnh tranh được với hàng nhập khẩu.

 Thị trường đầu ra cho sản phẩm chưa ổn định và bền vững.

Thực trạng về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay đang đòi hỏi Nhà

81

nước có chính sách bảo hộ hợp lý trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Tuy nhiên, đối chiếu với các cơ chế của các tổ chức khu vực và quốc tế mà

chúng ta là thành viên không cho phép chúng ta bảo hộ vô thời hạn, bảo hộ tràn

lan tất cả các ngành kinh tế.

3.2.2. Các cơ chế của một nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình

thành, hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh.

Trong bối cảnh nền kinh tế nước Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, yêu

cầu về một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh thực sự là một thách thức lớn đối với

nước ta. Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không chỉ liên quan đến việc giảm

thuế và các hàng rào phi thuế mà còn liên quan đến việc cải cách hệ thống luật

pháp và các chính sách đến thương mại nhằm ngày càng tạo thuận lợi hơn cho

xuất nhập khẩu, đầu tư... Tuy nhiên, cho tới nay, hệ thống chính sách thương

mại và các chính sách vĩ mô có liên quan khác của Việt Nam vẫn còn nhiều bất

cập và không đồng bộ, nhiều biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương

mại mà các tổ chức quốc tế thừa nhận, thì Việt Nam lại chưa có (thí dụ, chế độ

hạn ngạch thuế quan, biện pháp cân bằng thanh toán, quyền tự vệ, quy chế xuất

xứ, chống bán phá giá, chính sách cạnh tranh...). Trong khi đó, ta lại áp dụng

một số biện pháp chính sách không có trong thông lệ kinh doanh quốc tế hoặc

không phù hợp với nguyên tắc của các tổ chức quốc tế.

II. Việt Nam trong tiến trình ASEM

1. Hoàn cảnh tham gia và vị thế của Việt Nam trong tiến trình ASEM

Nhằm xây dựng một thể chế liên kết kinh tế liên lục địa Á-Âu ngày 1-2 tháng 3

năm 1996, Hội nghị cấp cao về Hợp tác Á-Âu (ASEM) lần thứ nhất diễn ra tại

Bangkok-Thái Lan với sự tham gia của 15 nước thuộc Liên minh châu Âu (EU)

cùng 10 nuớc châu Á, trong đó có Việt Nam và 6 nước thành viên ASEAN khác.

82

Sự ra đời của ASEM phản ánh chiều hướng mới trong quan hệ quốc tế khi quá

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

trình toàn cầu hoá đang được thúc đẩy mạnh mẽ, đồng thời mở ra một thời kỳ

hợp tác phát triển mới giữa hai lục địa lơn của thế giới.

Là một trong 25 thành viên sáng lập của ASEM từ năm 1996, Việt Nam nhận

thức rõ được rất rõ tầm quan trọng của Tổ chức này trong việc thúc đẩy kinh tế

liên lục địa. Cùng với việc gia nhập ASEAN và APEC, ASEM cũng chính là

một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Nó

đóng vai trò không nhỏ trong việc đưa Việt Nam tiếp cận với những đối tác kinh

tế, thương mại quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu.

Kể từ sau ASEM 3, Việt Nam trở thành Chủ tịch ASEAN đồng thời là Điều

phối viên Châu Á kể từ năm 2000 cùng với Trung Quốc trong ASEM có vai trò

điều hành và bảo vệ lập trường đa dạng của các nước Châu Á trong Hội nghị

ASEM. Với tư cách là Điều phối viên châu Á, Việt Nam đóng vai trò quan trọng

trong việc:

 Góp phần thúc đẩy hợp tác đi theo hướng triển khai đồng đều, thiết thực, có

hiệu quả, đi vào thực chất trên cả ba lĩnh vực hợp tác, phản ánh được yêu

cầu và quan tâm của tất cả các thành viên.

 Tích cực xúc tiến việc chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao ASEM 5. Bên cạnh

trao đổi chính thức tại các phiên họp, Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc họp

riêng với các đoàn, đặc biệt là các điều phối viên để tăng cường phối hợp

chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao.

 Để tiếp tục góp phần thúc đẩy một cách thiết thực hợp tác ASEM, Việt Nam

tích cực ủng hộ việc thông qua và đồng ý với đề nghị của Trung Quốc về

đồng sáng kiến, tổ chức Hội thảo ASEM về xử lý dịch bệnh bùng phát trong

83

cộng đồng.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Đầu năm tới, năm 2004 Việt Nam sẽ là nước chủ nhà của Hội nghị thượng đỉnh

ASEM 5 tại Hà Nội. Chủ đề tại Hội nghị thượng đỉnh lần này sẽ là những tranh

luận xung quanh vấn đề về chính sách kinh tế và toàn cầu hoá. Việt Nam cùng

với các nước thành viên khác luôn tìm kiếm những cơ hội và giải pháp nhằm

khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá. Ngoài ra trong

Hội nghị thượng đỉnh lần này, dự kiến các vấn đề về phát triển nguồn nhân lực,

xoá đói giảm nghèo, tăng cơ hội việc làm, vấn đề an ninh quốc tế và chống nạn

khủng bố, môi trường cũng như việc thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số cũng sẽ

được thảo luận.

2. Những hoạt động chủ yếu của Việt Nam trong ASEM

Là một trong những nước sáng lập ASEM, Việt Nam tham gia đẩy đủ vào 3

chương trình mang tính thử nghiệm của ASEM là IPAP, TFAP và Hợp tác các

doanh nghiệp Á-Âu.

- Về hợp tác kinh tế :

Việt Nam nhấn mạnh các hoạt động của ASEM trong thời gian tới cần dành ưu

tiên cao cho hợp tác kinh tế, giải quyết tác động của toàn cầu hoá, trong đó ưu

tiên thu hẹp khoảng cách về phát triển, chênh lệch về kỹ thuật số, phát triển

nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo…

- Trong lĩnh vực tài chính :

Việt Nam tranh thủ được Quỹ tín thác ASEM tài trợ kỹ thuật cho 7 dự án trị giá

hơn 5 triệu USD về “Cải cách và phát triển hệ thống ngân hàng”, “Chương trình

phát triển mạng lưói bảo đảm xã hội tạo công ăn việc làm”, “Thúc đẩy cổ phần

hoá các doanh nghiệp nhà nước trong khu vực giao thông vận tải”, “Cải cách các

doanh nghiệp nhà nước Việt Nam”, “Cơ cấu lại khu vực ngân hàng”, “Thành lập

84

cơ quan xử lý nợ tồn đọng và tư vấn pháp lý hỗ trợ cải cách ngân hàng ” và “Trợ

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

giúp đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tài chính của 10 Ngân hàng

thương mại cổ phần Việt Nam”

- Về thương mại và đầu tư :

Việt Nam cử các đoàn tham dự Hội nghị Bộ trưởng, Thứ trưởng, các cuộc họp

quan chức cao cấp về thương mại và đầu tư, các Diễn đàn và Hội nghị doanh

nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ… Nét nổi bật nhất là tại Hội

nghị Cấp cao ASEM 3, Việt Nam đã tuyên bố đồng ý đảm nhận vai trò điều phối

viên châu á trong ASEM từ sau ASEM 3 đến Hội nghị Cấp cao ASEM 4 tại Đan

Mạch mùa thu năm 2002 và nhận đăng cai Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM

lần thứ 3 tại Hà Nội 10-11/9/2001

Tại ASEM 2-London năm 1998, Việt Nam cũng đã đưa ra sáng kiến hợp tác Á-

Âu trong việc kết hợp y-dược cổ truyền để chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và

cùng với sáng kiến của phát về Bảo vệ và phát huy di sản văn hoá trong các

nước ASEAN. Hai sáng kiến này đã được Hội nghị nhất trí hoan nghênh và ghi

nhận vào tuyên bố của chủ tịch. Cụ thể, Việt Nam đã tổ chức thành công cuộc

họp của các chuyên gia ASEM trong lĩnh vực di sản văn hoá vào tháng 1/1999

và Hội thảo về kết hợp y dược cổ truyển nhằm chăm sóc sức khoẻ cộng đồng

vào tháng 3/1999 cùng với Hội thảo về kết hợp y-dược cổ truyền để chữa một số

bệnh nan y vào tháng 12/2000.

Tại ASEM 3, Việt Nam đề xuất việc tăng cường các cơ hội kinh doanh trong

ASEM nhằm tập trung hơn nữa vào việc tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai khu

vực. Đây là sự đóng góp mang tính thực tế trong việc đa dạng hoá các mối quan

hệ ASEM. Bên cạnh đó, tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 3 (EMM3), Việt Nam đề

ra những giải pháp nhừm dỡ bỏ những rào cản thương mại như việc đề ra các

tiêu chuẩn chất lượng chung và giúp cho việc đi lại cũng như phân phối sản

85

phẩm trở nên dễ dàng hơn.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Việt Nam cũng đóng góp vào Quỹ Á-Âu trong các thời kỳ 1997-2001 và 2002-

2006 và cùng với Quỹ này cũng như Trụ sở Quan hệ quốc tế của Đan Mạch tổ

chức hội thảo về phát triển an ninh chính trị trong khuôn khổ hợp tác Á-Âu tại

Hà Nội tháng 12/2001.

Việt Nam cũng có những đóng góp không nhỏ cho sự thành công của ASEM 4

trong việc thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác Á-Âu vì hoầ bình và phát

triển bền vững của hai châu lục. Bằng việc tham gia một cách tích cực vào

ASEM 4 Việt Nam có cơ hội tăng sự hiểu biết về các thành viên ASEM từ đó có

thêm được các mối quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại, khoa

học và công nghệ từ các nước phát triển và các nước NICs.

Ngoài ra, Việt Nam cũng xây dựng phương án tham dự Hội nghị các quan chức

cao cấp lần thứ 7, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế lần 3 và tổ chức đoàn doanh

nghiệp tham dự diễn đàn Á-Âu lần thứ 6.

3. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong tiến trình ASEM

3.1. Những cơ hội

Trong quá trình tham gia ASEM những năm vừa qua, Việt Nam cũng đã đạt

được những thành tựu nhất định tạo ra những cơ hội mang tính triển vọng.

Chẳng hạn như Việt Nam đã tranh thủ được Quỹ tín thác Á-Âu triển khai 5 dự

án tại Việt Nam; tham gia tất cả các Hội nghị quan trọng của ASEM, đóng góp

nhiều ý kiến xây dựng vào các văn kiện của ASEM, cử người tham gia Hội đồng

Thống đốc Quỹ Á-Âu (ASEF) cũng như tham gia tích cực các hoạt động khác

của Tổ chức này…

Thông qua những hoạt động tích cực này, nhìn chung Việt Nam trong ASEM đã

86

và đang đạt được những cơ hội mới như:

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Đạt được sự ủng hộ của các nước trong EU đối với việc gia nhập WTO của

Việt Nam đồng thời tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau hơn nữa giữa các

nước ASEAN, từ đó xây dựng và thắt chặt mối quan hệ Á-Âu

 Việt Nam trở thành một trong mục tiêu trọng điểm trong chính sách kinh tế

đối ngoại của các nước như Thuỵ Điển, Anh, Pháp, Đức.

 Việt Nam học hỏi và đạt được những kinh nghiệm trong quá trình đảm nhận

vai trò là Chủ tịch Ban thường trực ASEAN và Điều phối viên châu Á của

ASEM.

Cụ thể hơn, sau ASEM 4 tại Copenhagen, Đan Mạch, Việt Nam đã ký kết được

4 Hiệp định quan trọng:

 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt

Nam với Bộ Kế hoạch và Công nghệ Ireland

 Hiệp định khung về hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam với Bộ

Ngoại giao Luxemburg.

 Hiệp định hợp tác khoa học công nghẹ giữa Bộ Khoa học Công nghệ Việt

nam và Cao uỷ phục trách Khoa học kỹ thuật Bỉ

 Hiệp định khung về hợp tác giữa Văn phòng chính phủ và các vùng Cộng

đồng người Bỉ nói tiếng Pháp.

Đồng thời qua ASEM4, Việt Nam được khẳng định có vị thế mới đối với thế

giới. Đặc biệt, trong các cuộc hội đàm và tiếp xúc song phương giữa Việt Nam

với EU và giữa Việt nam với các nước, các nước không những ủng hộ Việt Nam

gia nhập WTO mà còn coi Việt Nam là đối tác viện trợ ODA và đẩy mạnh hợp

tác huớng vào kinh tế trên cơ sở hai bên cùng có lợi. EU đã quyết định tiếp tục

cho hàng dệt may của Việt Nam nhập khẩu vào EU và kể từ ngày 20/9/2002

87

không kiểm tra mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam nhập khẩu vào EU.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

3.2. Những thách thức

Về mặt kinh tế nói chung hay môi trường và thương mại nói riêng, Việt Nam

gặp phải một số thách thức do các quy định của các khu vực thị trường tạo ra

các rào cản đối với doanh nghiệp Việt Nam. Khó khăn đối vói doanh nghiệp

Việt Nam có thể liệt kê một số vấn đề như:

 Hệ thống các quy định đối với tiêu chuẩn môi trường và thương mại Việt

Nam còn thiếu cập nhật không đồng bộ. Có rất nhiều các tiêu chuẩn quốc tế

xây dựng vượt quá khả năng của doanh nghiệp.

 Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư thích đáng đối vói hoạt động

nghiên cứu thị trường, nghiên cứu các quy định, các rào cản kỹ thuật đối với

sản phẩm

 Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu có ảnh hưởng rất lớn

đến chất lượng và việc kiểm soát sản phẩm. Điều đó gây khó khăn rất lớn

trong việc đảm bảo các điều kiện tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường tài thị

trường nhập khẩu, đặc biệt là các khu vục phát triển.

 Hệ thống nguồn nhân lực của Việt Nam còn rẻ nhưng còn thiếu bất cập,

thíếu công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, ý thức kỷ luật kém

III. Các giải pháp thúc đẩy Việt Nam trong tiến trình ASEM

Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan

hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang

thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia,

làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ của khoa

học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã đưa các quốc gia gắn kết lại

gần nhau, dẫn tới sự hình thành những mạng lưới toàn cầu. Tiến trình ASEM là đại diện cho xu thế khu vực hoá, chuẩn bị cho toàn cầu hoá cao độ. Có thể thấy,

88

ASEM là một diễn đàn đàm phán trực tiếp trên các lĩnh vực về kinh tế, chính trị,

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

xã hội là nền tảng pháp lý cho quan hệ kinh tế quốc tế của nhiều nước thành

viên. Đây là một tiến trình được phát triển dựa trên cơ sở vừa hợp tác vừa cạnh

tranh. Do đó, thành viên ASEM nào biết đề ra các biện pháp tận dụng những cơ

hội và biết vượt qua những khó khăn thử thách thì quốc gia đó có thể đứng vững

trên trường quốc tế, khẳng định vị trí của quốc gia đó và tạo nên sức mạnh cho

quốc gia đó phát triển. Việt Nam là một thành viên của ASEM cũng không nằm

trong ngoại lệ. Để thúc đẩy tiến trình ASEM, những giải pháp cần thiết cho Việt

Nam có thể thấy đó là:

1. Về nhận thức, tư tưởng

Để thúc đẩy tiến trình ASEM đối với Việt Nam trong thời gian tới, trước hết

cần quán triệt những quan điểm, nguyên tắc chủ yếu được nêu trong các Nghị

quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX. Tại Đại hội Đảng lần thứ

VII, Việt Nam chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối

ngoại, đánh dấu bước khởi đầu cho quan hệ kinh tế quốc tế. Tiếp đó, Nghị quyết

Đại hội Đảng VIII đã quyết định “Nhiệm vụ đối ngoại quan trọng trong thời

gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn

nữa để đẩy nhanh quá trình hội nhập khu vực và quốc tế” và Nghị quyết số 07-

NQ/TW, ngày 27-11-2001 của Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khoá IX “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Cụ thể là, quán triệt chủ trương được

xác định tại Đại hội IX là : “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo

tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm

độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh

quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Cụ thể hơn, thúc

đẩy tiến trình ASEM là để đáp ứng mục tiêu chung của bản thân Việt Nam trong

quá trình phát triển, nhằm lấy nội lực kết hợp với ngoại lực, đẩy mạnh sự nghiệp

CHN-HĐH theo định hướng XHCN, bảo đảm hiệu quả kinh tế-xã hội và tăng

trưởng bền vững của nền kinh tế quốc dân, hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực

89

của những chao đảo, biến động từ bên ngoài.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Tuy nhiên, thúc đẩy tiến trình ASEM phải dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập

tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất đối với

tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và thúc đẩy tiến trình ASEM nói

riêng. Tham gia hợp tác Á-Âu phải tuân thủ các nguyên tắc chung là bảo vệ độc

lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ và phát triển

sản xuất, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc

của dân tộc.

Bên cạnh đó, cần quán triệt rằng ASEM là quá trình vừa hợp tác, vừa cạnh

tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn

khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt tuỳ theo đối tượng, vấn đề,

trường hợp, thời điểm cụ thể; phải đề phòng tư tưởng ỉ lại, thụ động vừa phải

chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Hơn nữa, phải biết tận dụng những cơ hội

do tiến trình ASEM đem lại cũng như phải biết sàng lọc những mặt hạn chế và

vượt qua những thách thức trong tiến trình ASEM.

Thúc đẩy tiến trình ASEM không chỉ là công việc riêng của chính phủ mà cần

có sự nhận thức đúng đắn và tham gia đầy đủ của nhiều tầng lớp trong xã hội

chẳng hạn như các doanh nghiệp, sinh viên…Chính vì vâỵ, công tác quảng cáo,

tuyên truyền những tri thức liên quan đến tiến trình ASEM là rất cần thiết.

Thúc đẩy tiến trình ASEM là một phần của hội nhập quốc tế, là một bộ phận

hữu cơ của đường lối đổi mới do Đảng đề ra và để thực hiện các nhiệm vụ kinh

tế, xã hội ngắn, trung và dài hạn của Đảng và Nhà nước. Do vậy, thúc đẩy tiến

trình ASEM phải phù hợp với chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả

các nước” và “phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng xây dựng hệ thống kinh tế

mở”, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt trong cả nước, gắn với kinh tế và

90

thị trường thế giới.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Cần kết hợp với nhận thức đẩy đủ các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, để từ

đó đề ra kế hoạch, lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ của đất nước, vừa

đáp ứng các qui định chung của ASEM đặt ra cho các nước thành viên, từ đó

Việt Nam đang tham gia và tranh thủ những ưu đãi do ASEM mang lại.

2. Về xây dựng tiến trình ASEM

Xây dựng tiến trình ASEM là một trong những trọng tâm của chiến lược hội

nhập. Để thích ứng với yêu cầu của hội nhập, đáp ứng các cam kết của nước ta

về mở cửa thương mại, đầu tư, dịch vụ, về thuế và phi thuế, việc xây dựng tiến

trình cần dựa vững chắc trên các nguyên tắc và nguyên lý căn bản sau:

 Giữ vững nguyên tắc độc lập và chủ quyền quốc gia, bảo đảm định hướng

xã hội chủ nghĩa của sự phát triển trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia lên trên

hết, kiên trì, bền bỉ điều chỉnh lại hệ thống cơ chế chính sách cho phù hợp

với những quy tắc và chuẩn mực của ASEM. Coi việc điều chỉnh cơ chế

chính sách trong tiến trình ASEM là tạo ra động lực bên trong để thúc đẩy

việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm hiệu quả

kinh doanh của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế.

 Tiến trình ASEM được xây dựng theo hướng bậc thang và hợp lý, được xác

định trên cơ sở (1) các cam kết, quy định của ASEM đề ra với các nước

thành viên nói chung và Việt Nam nói riêng (2) thực trạng hiện tại và dự

báo phát triển trong tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Một tiến trình “quá

nóng” về mức độ và thời hạn mở cửa thị trường vượt quá khả năng chịu

đựng của nền kinh tế, sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp,

vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường.

Vì vậy, điều cực kì quan trọng là cần xem xét tính toán nghiêm túc điều

91

kiện, khả năng, tiềm lực của Việt Nam trong từng lĩnh vực cụ thể, từng loại

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

doanh nghiệp, có tính đến những quy định chung..., để hoạch định tiến trình

hội nhập hợp lý.

 Tiến trình ASEM phải được xây dựng theo nguyên tắc Việt Nam thừa nhận

mục tiêu thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại của ASEM và cam kết thực

hiện mục tiêu này bằng các biện pháp và bước đi thích hợp với trình độ phát

triển của mình, trong đó các cam kết trong khuôn khổ ASEM là các cam kết

có mức độ ưu đãi và cần tập trung thực hiện trong lộ trình của ta. Đồng thời

xuất phát từ đặc điểm hiện tại của đất nước, trong lộ trình hội nhập Việt

Nam cần yêu cầu quyền được hưởng những ưu đãi dành cho các nước có

trình độ phát triển thấp và đang trong quá trình chuyển đổi.

 Trên cơ sở xây dựng tiến trình ASEM tổng thể để hội nhập, cần tiếp tục xây

dựng tiến trình chi tiết, rõ ràng trong từng lĩnh vực, từng loại mặt hàng, từng

đối tác đàm phán quốc tế, đồng thời xác định rõ lộ trình, thời gian biểu, cam

kết thực hiện nghĩa vụ của ASEM, đảm bảo kết hợp cân đối giữa cam kết ở

ASEM với các cam kết ở các tổ chức khác.

3. Xây dựng và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước

Trong điều kiện của nền kinh tế chuyển đổi, các cơ quan quản lý Nhà nước ở

nước ta hiện vẫn chưa thực sự sẵn sàng trước tiến trình ASEM cả về cơ cấu tổ

chức và các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương. Chẳng hạn như sự

nhận thức chưa đầy đủ về tiến trình ASEM đôi khi đã dẫn đến những quyết định

lệch lạc, chệch hướng so với chủ đề và mục tiêu của tiến trình ASEM. Những sự

yếu kém này đã và đang che lấp và làm giảm đi những nỗ lực của Việt Nam

trong việc đưa ra các chính sách liên quan. Do vậy, định hướng và giải pháp

nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với tiến trình ASEM không chỉ nhằm

đẩy nhanh tiến trình ASEM mà còn nhằm thúc đẩy sự phát triển và nhận thức

92

đúng đắn về ASEM của người dân ở các mức độ khác nhau. Những giải pháp

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

chủ yếu cho vấn đề xây dựng và nâng cao năng lực của cơ quan quản lý Nhà

nước bao gồm:

 Việt Nam cần kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước theo cơ chế

quản lý và những nội dung quản lý đã được xác định. Các cơ quan quản lý

thực hiện đúng chức năng của mình, không thực hiện một cách chồng chéo,

không đúng nghĩa vụ của mình

 Nâng cao vai trò và tính chủ động của các ngành và lĩnh vực liên quan trong

công tác quản lý hiện đại.

 Đẩy mạnh chương trình cải cách hành chính từ trung ương đến địa phương,

giảm bớt những khâu nấc quản lý rườm ra và những quy định hành chính

không phù hợp với phương thức quản lý hiện đại trong thời đại phát triển của

công nghệ thông tin

Ngoài ra, Nhà nước cần hoạch định xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi,

thường xuyên cung cấp thông tin về tiến trình ASEM, việc ban hành các chính

sách liên quan và công việc tổ chức thực hiện chẳng hạn như hỗ trợ doanh

nghiệp trong việc liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài, triển khai mạnh mẽ

hơn nữa chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kiểm soát chặt chẽ

được hoạt động của doanh nghiệp, hướng doanh nghiệp triển khai các hoạt động

theo đúng luật pháp quy định. Đồng thời cần có biện pháp, chính sách khuyến

khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất, kinh doanh, cạnh

tranh bình đẳng qua đó mà sàng lọc, định hướng phát triển, hình thành các hạt

nhân doanh nghiệp ưu tú có sức cạnh tranh đảm bảo hội nhập đem lại hiệu quả

kinh tế cao.

Trong những năm tới Nhà nước cần hướng vào giải quyết một số vấn đề như :

tạo lập đồng bộ nền kinh tế thị trường trong nước, khuyến khích cạnh tranh và

93

chống độc quyền; gắn bó hữu cơ với hội nhập quốc tế nói chung và tiến trình

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

ASEM nói riêng, với chiến lược kinh tế-xã hội của đất nước, tạo ra các đột phá

chiến lược; tổ chức công tác nghiên cứu khoa học và hệ thống thông tin về thị

trường thế giới; hình thành cơ cấu tổ chức hợp lý về kinh tế đối ngoại, chuẩn bị

nguồn nhân lực cho tương lai. Trong đó vấn đề cấp bách được nhắc đến trong

nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước là vấn đề điều chỉnh cơ cấu kinh tế để

nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh.

4. Về phương hướng và giải pháp điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong tiến trình

ASEM

Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế

vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng

xã hội chủ nghĩa. Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế trên cơ sở phát huy

những tiềm năng, nội lực của mình để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, như

vậy nhu cầu gắn kết chặt chẽ giữa hội nhập với đổi mới quản lý và chuyển dịch

cơ cấu kinh tế là một tất yếu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần được định hướng

theo 2 góc độ: thứ nhất, đó là việc tạo dựng một môi trường vĩ mô chung có tính

cạnh tranh cao để thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, nâng cao

hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế và của các ngành, các doanh nghiệp; thứ hai,

điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư dưới góc độ ngành và doanh nghiệp căn cứ

trên cơ sở sức cạnh tranh của từng ngành với lợi thế so sánh trong sản xuất kinh

doanh trong điều kiện Việt Nam sẽ triển khai thực hiện các cam kết hội nhập

quốc tế đối với các tổ chức khu vực như ASEM.

Dưới góc độ quốc gia, tính cạnh tranh thể hiện ở năng lực tạo dựng môi trường

cạnh tranh trong đó vai trò của nhà nước mang tính kiên quyết để đảm bảo cho

nền kinh tế phát huy những lợi thế so sánh, phân bổ các nguồn lực có hiệu quả,

đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Trong bối cảnh Việt Nam chỉ

được đánh giá là nước có môi trường cạnh tranh quốc gia thấp, thì một trong

những nội dung của việc xây dựng chiến lược hội nhập là cần tăng cường tính 94

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

cạnh tranh cấp quốc gia, trong đó các chính sách kinh tế được hoạch định sao

cho thực hiện tốt các yếu tố cơ bản sau đây:

 Các chỉ số kinh tế vĩ mô (thâm hụt ngân sách, lạm phát, cán cân thanh

toán, tỷ giá…) ổn định và ở mức cân bằng.

 Nền kinh tế tương đối mở (nhất là về thương mại và các luồng FDI)

 Cạnh tranh trong nước được khuyến khích

 Điều kiện cạnh tranh bình đẳng được đảm bảo và can thiệp của Nhà nước

chủ yếu là trên bình diện vĩ mô (như tạo khung pháp lý, sử dụng các chính sách

kinh tế vĩ mô, đầu tư vào hạ tầng cơ sở…)

 Dịch vụ công cộng có chất lượng cao

 Hệ thống tài chính, ngân hàng tạo nên trung gian tài chính hiệu quả

 Các chủ thể thị trường có thể tiếp cận thông tin và công nghệ

 Cở sở hạ tầng được nâng cấp và duy trì

 Thị trường lao động linh hoạt trong mối quan hệ thích hợp giữa người sử

dụng lao động và người lao động

 Thể chế luật pháp, xã hội vận hành có hiệu lực và minh bạch

 Tiếp tục tiến hành cải cách kinh tế mang tính tổng thể và đồng bộ. Đặc

biệt, đó là những cải cách trong các lĩnh vực tài khoá, tài chính tiền tệ, thương

mại và khu vực DNNN. Cải cách kinh tế cũng không thể tách rời cải cách khu

vực hành chính nhằm hạn chế đáng kể nạn tham nhũng, giảm thiểu tệ quan liêu

cũng như các chi phí giao dịch cho các hoạt động kinh doanh.

Dưới góc độ ngành thì phương hướng điều chỉnh cơ cấu ngành được xem xét

95

dựa trên việc nghiên cứu và phân loại các ngành sản xuất và dịch vụ theo 3

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

nhóm: nhóm có khả năng cạnh tranh cao, nhóm có khả năng cạnh tranh có điều

kiện (được bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn và tích cực nâng cao khả năng cạnh tranh)

và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp.

Căn cứ theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho tổng số 40 nhóm sản

phẩm và dịch vụ của Việt Nam thì hiện tại có 11 sản phẩm thuộc loại có khả

năng cạnh tranh cao là: cà phê, điều, lúa gạo, một số loại trái cây, thuỷ sản, may

mặc, giày dép, động cơ đi-ê-zen cỡ nhỏ, sản phẩm của ngành du lịch, dịch vụ

xây dựng; ngoài ra 19 sản phẩm dịch vụ khác thuộc nhóm có khả năng cạnh

tranh có điều kiện gồm: chè, cao su, rau, thực phẩm chế biến, lắp ráp điện tử, cơ

khí, hoá chất, xi măng, đóng tàu, thịt heo, ngân hàng, viễn thông, vận tải biển,

vận tải hàng không, kiểm toán, công nghệ phần mềm, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ

tư vấn pháp luật, dịch vụ y tế và 10 sản phẩm thuộc nhóm có khả năng cạnh

tranh thấp gồm: mía đường, bông, cây có dầu, đỗ tương, ngô, quả có múi, hoa,

sữa bò, thịt gà, thép. Theo cơ sở phân chia này, nhà nước cần đưa ra các chính

sách về thuế nhập khẩu, phân bổ hạn ngạch phi thuế, chế độ phụ thu xuất khẩu,

chính sách thuế trong nước, tín dụng xuất khẩu và cải cách doanh nghiệp phù

hợp…đối với từng nhóm và ngành cụ thể.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, rõ ràng lợi thế so sánh của nền nông nghiệp nhiệt

đới là điểm mạnh của Việt Nam có thể cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài

trên thị trường nội địa, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu. Muốn vậy, cần

nhanh chóng áp dụng các tiến bộ sinh học, hiện đại hoá công nghệ chế biến nâng

cao chất lượng vệ sinh thực phẩm, đóng gói bao bì…

Trong lĩnh vực công nghiệp, việc bố trí đầu tư, xây dựng phải căn cứ theo có sở

phân chia khả năng cạnh tranh trên để chọn thứ tự ưu tiên. Bên cạnh đó cần

phát triển một số ngành công nghiệp nặng, xây dựng các công trình quy mô lớn

96

một có chọn lọc, và dành quan tâm thỏa đáng cho việc phát triển các ngành sử

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

dụng nhiều lao động, có công nghệ tiến tiến để tạo ra sản phẩm có chất lượng

cao, tiêu thụ được trên thị trường cả trong nước và thế giới.

Đối với khu vực dịch vụ, đây là lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt song cũng

rất nhạy cảm trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Chấp nhận cạnh tranh, kể

cả cạnh tranh trong nước lẫn cạnh tranh quốc tế, coi đó là động lực thúc đẩy sự

tiến bộ của các ngành dịch vụ phải đi đôi với việc xem xét các điều kiện, đặc thù

của từng ngành dịch vụ.

Mặc dù về lý thuyết điều chỉnh cơ cấu cần tiến hành theo những phương hướng

như vậy, song khi khoa học và công nghệ không ngừng phát triển, kinh tế thế

giới có nhiều đột biến, thị trường luôn biến động, tính cạnh tranh và lợi thế so

sánh của các nước đều rất linh hoạt thì cần phải có sự điều chỉnh kịp thời bộ

phận này hay bộ phận khác của các định hướng phát triển, nhằm hợp lý hoá cơ

cấu kinh tế, tăng cường hơn nữa năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ,

doanh nghiệp và của nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Ngoài vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ, doanh nghiệp và

của nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy tiến trình ASEM trong thời gian tới còn đòi

hỏi việc xây dựng một lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị

trường.

5. Về công tác xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia

trong tiến trình ASEM

Nhân tố con người luôn là nhân tố quan trọng và luôn cần được tính đến. Vấn đề

về đào tạo, sử dụng cán bộ trong tiến trình ASEM là cực kì quan trọng. Cần xây

dựng những tiêu chuẩn bắt buộc với những cán bộ tham gia xây dựng chính sách

và hoạt động trong công tác kinh tế đối ngoại, bao gồm các yêu cầu về phẩm

97

chất đạo đức, về tư tưởng, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ. Trên cơ sở

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

những yêu cầu đó để xây dựng kế hoạch về đào tạo, chọn lọc sử dụng cán bộ

phù hợp với nhu cầu hợp tác quốc tế thời gian tới.

KIẾN NGHỊ-ĐỀ XUẤT

 Trước hết, để tham gia vào tiến trình ASEM một cách có hiệu quả cần có sự

cố gắng của Nhà nước trong việc hoàn thiện môi trường pháp lý đối với tiến

trình ASEM. Làm được điều này không chỉ giúp cho việc xác định một 98

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

hướng đi cơ bản và rõ rằng mà còn giúp cho các doanh nghiệp tham gia vào

ASEM một cách chủ động và tích cực. Hơn nữa, sự nỗ lực và hoạt động hỗ

trợ của các bộ ngành liên quan cũng vô cùng quan trọng đối với việc thúc đẩy

tiến trình ASEM.

 Việt Nam cần coi trọng quan hệ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn

hoá trong tiến trình ASEM. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh việc tăng cường hơn

nữa lĩnh vực hợp tác có tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến trình ASEM.

Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện Nhóm đặc trách kinh tế ASEM tập trung

xem xét và đưa ra những khuyến nghị cụ thể, thiết thực nhằm tăng cường hơn

nữa sự hợp tác về thương mại, đầu tư và tài chính giữa hai châu lục để có

được những đối tác kinh tế thực chất hơn nhằm phát huy những tiềm năng,

cơ hội của khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó, tiến tới đi sâu

vào thực chất hoá chủ đề chính của Hội nghị Cấp cao ASEM tại Hà Nội vào

tháng 10/2004: “Tiến tới quan hệ đối tác á-Âu sống động và thực chất hơn”.

 Để thúc đẩy tiến trình ASEM, Việt Nam là một nước đang phát triển cần chú

trọng hơn nữa vào giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp bách và thiết thực

như xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, thu hẹp khoảng cách

phát triển trong nước nói riêng cũng như so với các nước thành viên ASEM

nói chung.

 Các doanh nghiệp Việt Nam phải biết tận dụng những tiềm năng trong tiến

trình ASEM bằng cách học hỏi của các đối tác từ các nước thành viên ASEM

như nên liên doanh với đối tác nước ngoài trên các lĩnh vực cần đầu tư và

bảo vệ chẳng hạn: rừng, chế biến gỗ, bảo vệ môi trường, đóng tàu, xây dựng

cảng, điện tử viễn thông, phân hoá học…

 Các doanh nghiệp cần có những chiến lược và biện pháp để có thể thực sự

99

hoà mình vào tiến trình ASEM chung thông qua việc thực hiện những công

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

việc cụ thể như: cần thực hiện các biện pháp nâng cao tay nghề công nhân,

nâng cấp trình độ công nghệ…Đấy cũng chính là cách thức đúng đắn giúp

cho các doanh nghiệp tham gia vào ASEM có hiệu quả hơn.

 Nhằm thúc đẩy tiến trình ASEM, trước mắt Việt Nam cần chuẩn bị cho Hội

nghị Cấp cao ASEM 5 diễn ra một cách thành công tại Hà Nội, thông qua

việc tập trung vào một số hướng quan trọng:

 Cần suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng và toàn diện nội dung, phù hợp với

chủ đề hội nghị sắp diễn ra

 Cần tích cực trong việc triển khai công việc tổ chức, hậu cần, xây dựng

trung tâm hội nghị

 Tăng cường công tác tuyên truyền về ASEM trong nước nhằm đề cao vai

trò và hình ảnh tích cực của Việt Nam

 Nâng cao mạnh mẽ hơn nữa kinh nghiệm của bộ máy, cán bộ tham gia

phục vụ cho Hội nghị cấp cao. Như vậy, Việt Nam cần tranh thủ và sử

dụng có hiệu quả sự trợ giúp quốc tế dành cho Việt Nam trong tiến trình

chuẩn bị Hội nghị.

Phụ lục 1

Các rào cản thương mại trong ASEM

100

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Từ nhiều nguồn phân tích khác nhau, các thành viên ASEM đã tạm thời xác định

những hình thức thương mại sau đây đã và đang tạo ra những rào cản đáng kể

đối với việc trao đổi thương mại trong khu vực. Hiện nay, ASEM đang xúc tiến

xây dựng chương trình hành động để giải toả những cản trở thương mại

1. Các rào cản chung

 Bất ổn định về khung pháp lý, ví dụ như thông báo quá ngắn khi có thay

đổi luật pháp hay luật pháp không rõ ràng, thiếu chính xác hoặc thậm chí

là có những luật lệ không được xuất bản

 Trì hoãn quá lâu trong việc trả lời các câu hỏi, kiến nghị

 Yêu cầu quá cao về lập tài liệu (ví dụ đối với nhập khẩu)

 Tham nhũng

2. Các rào cản trong các lĩnh vực cụ thể

3.3. . Thủ tục hải quan

 Tham nhũng

 Thiếu minh bạch

 Thời gian quá dài để thông quan

 Không tuân thủ Công ước Kyoto

 Các vấn đề về định giá hải quan, ví dụ khi bị áp dụng tuỳ tiện và thường

bị sửa đổi, cũng như bị phân loại hải quan.

2.2. Tiêu chuẩn chất lượng

 Việc đăng kí phức tạp, tốn kém và thướng liên quan đến cả các chi phí

101

thực tế lẫn việc tiết lộ các thông tin mật

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Các thủ tục thử nghiệm, thủ tục đánh giá sự phù hợp và lập hồ sơ phức

tạp, kéo dài hoặc tốn kém. Đôi khi các tiêu chuẩn thay đổi nhanh, khiến

cho tiến trình còn bị kéo dài thêm

 Các quy định thiếu minh bạch, ví dụ như không dịch sang tiếng nước

ngoài hoặc không công bố những sửa đổi

 Đối xử khác nhau giữa tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, khác biệt trong

việc áp dụng các tiêu chuẩn hoặc không thừa nhận các tiêu chuẩn quốc tế

và tiêu chuẩn châu Âu.

 Đối xử khác nhau giữa các sản phẩm trong nước và nước ngoài trong quá

trình áp dụng các quy định và thủ tục

 Quy định dán nhãn hạn chế

2.3. Mua sắm của chính phủ

 Nhìn chung thiếu sự thông thoáng và minh bạch

 Đối xử ưu đãi với các công ty trong nước hoặc các công ty không có quan

hệ/bạn hàng với các công ty địa phương.

 Yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá, chuyển giao công nghệ và mậu dịch

đối lưu

 Thông báo thầu ngắn hạn

 Phá vỡ các quy định thông qua việc chia nhỏ các hợp đồng

 Không tuân theo Hiệp định mua sắm chung (GPA)

2.4. Kiểm dịch động thực vật

 Thiếu sự minh bạch về các biện pháp, thủ tục triển khai và cơ quan có

102

thẩm quyền.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Các yêu cầu cho nhập động vật, thực vaatj và sản phẩm thực vật quá tốn

kém và kéo dài

 Không thống nhất giữa các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế và không hài

hoà

 Không thừa nhận quá trình kiểm định hoặc kiểm soát ở nước xuất hàng

 Các thủ tục và yêu cầu nhập khẩu còn chưa đuợc đơn giản hoá và chưa

tổng hợp

 Yêu cầu kiểm định và kiểm dịch quá cao

 Quy định dán nhãn hạn chế

 Việc thử nghiệm không chính xác

2.5. Quyền sở hữu trí tuệ

 Việc thực thi các luật lệ về IPR trong tất cả các lĩnh vực khác nhau còn

chưa đầy đủ hoặc chưa công bằng

 Thiếu các luật lệ về nhãn hiệu thương mại, bản quyền, bằng sáng chế,

thiết kế công nghiệp và chỉ dẫn địa lý.

 Vi phạm nhãn hiệu thương mại, bản quyền

 Giả mạo

 Không thống nhất giữa các quy định quốc gia và quốc tế

2.6. Lĩnh vực phân phối kinh tiêu sản phẩm

 Hạn chế quyền sở hữu nước ngàoi đối với thương mại hoặc bán lẻ

 Yêu cầu về liên doanh, liên kết trong nước đối với một số hoạt động cụ

103

thể như quảng cáo

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Phân biệt đối xử, chống lại các công ty nước ngoài, ví dụ khi bố trí cơ sở

và trang thiết bị tại cản biển hoặc sân bay hoặc mức giá quảng cáo, thậm

chí có thể thực hiện thông qua các chiến dịch chống lại các sản phẩm

nước ngoài hoặc quảng cáo các sản phẩm nội địa

 Hạn chế sở hữu tài sản cố định

 Thiếu rõ ràng và không minh bạch

 Các điều khoản và yêu cầu giấy phép hạn chế đối với các công ty nước

ngoài

104

 Thiếu các luật lệ về cạnh tranh hoặc chưa đủ thực thi đầy đủ các luật này.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Phụ lục 2

Danh mục các dự án hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ

Tên và nước chủ trì

xây dựng dự án

Cộng hoà Liên bang Đức, Trung 1 Khoa học cơ bản Quốc, Nhật Bản

Chuyển giao kiến thức từ các cơ sở 2 Nhật Bản, Pháp, Phần Lan nghiên cứu tới sản xuất công nghiệp

Phát triển nguồn nhân lực tập trung vào

3 Hàn Quốc, áo, Inđônêxia nâng cao nhận thức khoa học của xã hội

và trao đổi các nhà nghiên cứu

4 Lâm nghiệp Phần Lan, Trung Quốc, áo

5 Các vấn đề nước Thái Lan, Bồ Đào Nha, Pháp

Công nghệ nông nghiệp và công nông 6 Singapore, Italia nghiệp

7 Các thành phố phát triển bền vững Pháp, Hy Lạp, Italia, Philippine

8 Công nghệ sản xuất sạch và bền vững áo, Malaysia

9 Phát triển bền vững hệ sinh thái (nước) Italia

10 Di sản văn hoá Việt Nam, Italia, Tây Ban Nha

105

11 Nâng cao năng lực nghiên cứu và kỹ Thuỵ Điển, Trung Quốc, Thái

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

thuật của các doanh nghiệp Lan

Phụ lục 3

Các biện pháp đầu tư hiệu quả nhằm thu hút đầu tư nước

ngoài

1. Các cơ quan xúc tiến đầu tư với cả hai chức năng xúc tiến và tạo thuận lợi cho đầu tư nước

ngoài. Các cơ quan này không chỉ hỗ trợ các thông tin ban đầu về thị trường mà còn giúp nhà

đầu tư sau khi đã thâm nhập thị trường giải quyết các vấn đề liên quan với các cơ quan chức

năng

2. Thực hiện nhất quán các biện pháp tự do hoá nhằm dỡ bỏ các cản trở dòng vốn và các giao dịch

liên quan tới đầu tư nước ngoài.

3. Không phân biệt đối xử với các nhà đầu tư nước ngoài: mở rộng diện các ngành sản xuất, dịch

vụ được phép đầu tư, kể cả lĩnh vực phân phối.

4. Cởi mở các quy chế đầu tư và dỡ bỏ hoá giảm dần các rào cản hoặc thủ tục phiền hà: loại bỏ

việc không cho phép nước ngoài sở hữu đất đai, loại bỏ yêu cầu bắt buộc về sản phẩm (hàm

lượng nội địa hoá, tỷ lệ xuất khẩu…)

5. Các chính sách khuyến khích đầu tư: miễn thuế, trợ giá, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển các cơ

sở hạ tầng, khai thác các lợi thế tự nhiên đặc biệt để thu hút đầu tư

6. Tăng cường tính minh bạch và dự báo trước của môi trường đầu tư. Công bố rộng rãi các văn

bản pháp lý về đầu tư ký thoả thuận song phương về các vấn đề thuế, xét xử độc lập của hệ

thống toà án và đối xử công bằng, bình đẳng đối với nhà đầu tư.

7. Các thoả thuận song phương, khu vực và đa phương về đầu tư quốc tế.

8. Tăng cường hiệu quả của cơ quan quản lý quốc gia: đơn giản hoá các quy định, hợp tác tốt hơn

giữa các cơ quan chính phủ, đặt thời hạn cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết vụ

106

việc

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

9. Cải thiện đồng thời môi trường kinh tế trong nước và cơ sở hạ tầng. Các yếu tố kinh tế-xã hội

tác động tới đầu tư: đồng tiền ổn định, hệ thống tài chính-ngân hàng quản lý tốt, lao động lành

nghề, không bãi công, thuế khoá thấp… Cải thiện cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực: viễn thông,

vận tải, hệ thống phân phối và các cơ sở hạ tầng mang tính xã hội như giáo dục, bảo vệ sức

khoẻ…

Phụ lục 4

Viễn cảnh ASEM

Viễn cảnh hợp tác á-Âu: từng bước hoà hợp châu và châu Âu thành khu vực hoà

bình và cùng phát triển, một môi trường cùng tồn tại thịnh vượng trong thế kỷ

XXI, trong đó tri thức, của cải, di sản văn hoá, các tư tưởng dân chủ, tài sản giáo

dục, khát vọng trí tuệ và công nghệ mới của hai khu vực cùng hoà quyện gắn bó

và giao lưu, không bị bất kỳ hình thức ngăn trở hoặc ép buộc nào.

Chính sách khuyến nghị:

1. Giáo dục

 Tăng cường giao lưu giáo dục để đạt tới sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa hai

châu lục á-Âu

 Ra Tuyên ngôn về giáo dục tại ASEM III (Seoul, Hàn Quốc 2000) với tầm

nhìn dài hạn đối với các yêu cầu về đào tạo và đặt mục tiêu nhiều tham vọng

2. Chương trình học bổng ASEM

Trao đổi giữa hai khu vực các học bổng sau đại học cho các sinh viên giỏi và có

triển vọng nhất. Đặt mục tiêu ban đầu hai trăm học bổng ASEM mỗi năm.

107

3. Thống nhất các nguyên tắc về Quản lý nhà nước lành mạnh

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

 Cùng xác định quản lý nhà nước lành mạnh là nền tảng của sự thịnh vượng

và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân,

 Khuyến nghị các nguyên thủ ASEM thống nhất lại các nguyên tắc quản lý

nhà nước lành mạnh tại Họi nghị Thượng đỉnh ASEM III (Seoul, Hàn Quốc)

và thúc đẩy đối thoại về cách thức quản lý nhà nước lành mạnh và nhân

quyền

4. Thực hiện mục tiêu tự do hoá thương mại

Xây dựng khung chiến lược cho việc tự do hoá từng bước thương mại hàng

hoá và dịch vụ xác định rõ ràng thời hạn và mốc thực hiện có tính đến sự

khác biệt về trình độ phát triển của các nước.

5. Phối hợp chặt chẽ hơn các chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách hệ thống tài

chính quốc tế

Kết hợp ứng phó để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá tài chính đang diễn

ra nhanh chóng.

6. Thành lập trung tâm môi trường ASEM

Đẩy mạnh việc hợp tác môi trường dài hạn thông qua việc thành lập một

Trung tâm môi trường ASEM. Định rõ những lĩnh vực và mục tiêu ưu tiên,

tăng cường thể chế và cùng chia xẻ gánh nặng về môi trường.

7. Thành lập Hội đồng cố vấn thương mại Á-Âu (BAC)

 Thiết lập diễn đàn để tạo thuận lợi cho đối thoại cao cấp giữa những nhà lãnh

đạo chính phủ quốc gia và giám đốc điều hành các doanh nghiệp tư nhân.

 Thảo luận các vấn đề cấp thiết liên quan đến đầu tư, thương mại và thị

108

trường.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

8. Xây dựng khung khổ cho việc cải thiện hạ tầng của ASEM bao gồm tất cả

các lĩnh vực trọng yếu (năng lượng viễn thông, giao thông, nước và môi

trường) nhằm tạo thuận lợi cho thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ

và đi lại của các cá nhân trong lĩnh vực phát triển hạ tầng.

9. Thành lập Hội đồng công nghệ thông tin ASEM để đẩy mạnh việc phát triển

hạ tầng thông tin (các mạng có tốc độ cao, phần mềm dịch thuật điện tử và

truyền hình vệ tinh) tiến tới xây dựng xa lộ thông tin liên khu vực.

Lời nói đầu

Khu vực hoá cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một trong

những xu thế chủ yếu nhất chi phối sự vận động và phát triển của thế giới ngày

nay. Mọi quốc gia trên thế giới ngày càng ý thức sâu sắc được rằng khu vực hoá

và hội nhập kinh tế ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị

- xã hội của toàn bộ cộng đồng quốc tế nói chung và tới từng quốc gia nói riêng.

Chính vì vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng không nằm ngoài quy luật

và ít nhất là thành viên của một tổ chức khu vực nhất định. Đối với các nước

Đông á và Tây Âu điều này cũng không ngoại lệ. Đáng nói hơn, các quốc gia

này lại cùng là thành viên của Hội nghị Cấp cao Á-Âu (ASEM). Tham gia vào

tiến trình ASEM, các quốc gia này không chỉ có cơ hội chia xẻ những hiểu biết

về văn hoá-xã hội của đất nước mình với các nước thành viên khác mà còn giúp

thúc đẩy phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên. Tiến trình ASEM mới đi

vào hoạt động chưa đầy một thập kỷ, chính vì vậy ngoài những cơ hội và tiềm

năng to lớn mà ASEM đem lại cho mỗi quốc gia, tiến trình này vẫn phải đối mặt

với nhiều khó khăn, thách thức.

Là một quốc gia đang phát triển và là thành viên sáng lập của ASEM, Việt Nam

đã và đang tham gia một cách tích cực vào tiến trình ASEM, góp phần xử lý các

vấn đề đặt ra trong hợp tác á-Âu, trên cơ sở đó góp phần tăng cường sự hiểu 109

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

biết lẫn nhau của hai châu lục, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học, công

nghệ, văn hoá, giáo dục. Việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới nói chung và

tham gia vào ASEM nói riêng là một vấn đề vô cùng bức thiết không chỉ về mặt

thực tiễn mà còn về mặt lý luận, nhận thức. Những giải pháp thúc đẩy tiến trình

ASEM đối với Việt Nam là một câu hỏi làm trăn trở không chỉ các chính trị gia,

các nhà văn hoá mà còn cả các nhà kinh tế học. Chủ động tham gia và thúc đẩy

tiến trình ASEM là cách để Việt Nam thực hiện được các mục tiêu về kinh tế-

văn hoá-xã hội nói riêng và mục tiêu tổng thể về công nghiệp hoá-hiện đại hoá

đất nước của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.

Trong thời gian gần đây đã có không ít những nghiên cứu, ý kiến đánh giá về

khu vực hoá, các mô hình khu vực hoá như ASEM và hội nhập kinh tế khu vực

của Việt Nam. Tuy nhiên, đó thường là những nghiên cứu sâu, chi tiết về các

vấn đề riêng lẻ mà ít có những nghiên cứu mang sâu chuỗi, liên kết lôgic về các

vấn đề này. Do đó, để có được một cách nhìn tương đối tổng quát, tác giả chọn

viết Khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “ Vấn đề khu vực hoá-Mối quan hệ hợp tác

Á-Âu (ASEM) và Việt Nam trong tiến trình ASEM”.

Nội dung của khoá luận tốt nghiệp bao gồm 3 chương sau:

– Chương 1. Tổng quan về hội nhập kinh tế khu vực

– Chương 2. ASEM và vai trò của tiến trình ASEM trong việc thúc đẩy mối

quan hệ á-Âu

– Chương 3. Việt Nam trong tiến trình ASEM

Thực hiện nội dung trên, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy

vật lịch sử, thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng hợp và phân tích để làm sáng tỏ

110

những vấn đề nghiên cứu.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân trọng nhất đến các cô các chú, các anh chị ở Bộ

Ngoại Giao, thư viện Quốc Gia, Viện kinh tế Thế Giới, thư viện trường Đại

Học Ngoại Thương- những người đã rất nhiệt tình cung cấp những thông tin, tài

liệu có liên quan đến nội dung của khoá luận.

Đồng thời, tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo

trường Đại Học Ngoại Thương đã trang bị cho những lớp sinh viên những kiến

thức quí giá trong thời gian 4 năm học vừa qua. Đặc biệt, tác giả xin chân thành

cảm ơn thầy giáo- Tô Trọng Nghiệp đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, đóng góp ý

kiến để tác giả có thể hoàn thành bản khoá luận này. Cuối cùng, tác giả xin gửi

tới gia đình, bạn bè đã động viên cả về vật chất và tinh thần để tác giả có thể

111

hoàn thành tốt bản khoá luận này.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

KẾT LUẬN

Khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan của thời đại, được

qui định bởi những qui luật khách quan của xã hội, của lịch sử, mà trực tiếp là từ

tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất trên qui mô quốc gia và quốc tế. Khu

vực hoá vừa đặt ra những cơ hội lại vừa đặt ra những thách thức lớn lao đối với

mỗi quốc gia dân tộc.

Tham gia hội nhập vào trào lưu khu vực hoá mà điển hình như ASEM là một

trong những điều kiện tiên quyết đối với vận mệnh của mỗi quốc gia dân tộc nói

chung và với các nước đang phát triển nói riêng. ASEM ngày càng có vai trò

quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác quan hệ Á-Âu trên các lĩnh vực chính trị-

kinh tế-văn hoá thông qua sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai châu lục. Tuy nhiên, sự

thành công của tiến trình ASEM đòi hỏi sự tích cực tham gia, sự nỗ lực rất lớn

của các quốc gia thành viên.

Việt Nam với đường lối và chính sách mở cửa, muốn làm bạn với tất cả các

nước cũng đã và đang tích cực tham gia vào hội nhập kinh tế khu vực như

ASEAN, APEC, ASEM…Tuy thời gian ASEM đi vào hoạt động chưa dài,

nhưng thực sự nó đã mang lại những hứa hẹn mới cho Việt Nam. Tuy nhiên, để

có được những cơ hội do ASEM đem lại đòi hỏi Việt Nam phải có được nhận

thức và hướng đi đúng đắn nhằm thúc đẩy tiến trình này, giúp cho sự phát triển

chung của khu vực cũng như sự trưởng thành về mọi mặt riêng của Việt Nam.

Với những nội dung nghiên cứu quá rộng lớn, phức tạp và còn nhiều tranh cãi

nêu trên, tác giả trong quá trình viết chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu

sót, sai lầm. Tác giả chân thành mong được sự đóng góp ý kiến, sửa chữa của

112

thầy cô, bạn bè và những người quan tâm tới vấn đề này.

Khãa luËn tèt nghiÖp

D­¬ng H­¬ng Giang

113