Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ASEM VÀ VAI TRÒ CỦA TIẾN TRÌNH ASEM TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MỐI QUAN HỆ Á - ÂU
4
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ KHU VỰC HOÁ VÀ LIÊN KẾT KINH
4
TẾ KHU VỰC TẠI CHÂU Á-CHÂU ÂU I. Những vấn đề cơ bản về khu vực hoá
4
1. Khu vực hoá là gì?
4
2. Những hình thức biểu hiện của khu vực hoá từ trước đến nay
6
2.1. Thoả thuận tự do thương mại
7
2.2. Đồng minh thuế quan
8
2.3. Thoả ước đầu tư
9
3. Mặt tích cực và tiêu cực của khu vực hoá
10
3.1. Mặt tích cực của khu vực hoá
10
3.1.1. Thúc đẩy thương mại
11
3.1.2. Thiết lập các khối kinh tế chuẩn bị liên kết đa phương
11
3.1.3. Tăng cường hợp tác và an ninh
12
3.2. Mặt tiêu cực của khu vực hoá
14
3.2.1. Chệch hướng thương mại
14
3.2.2. Sự liên kết đang phái gia tăng
15
3.2.3. Hậu quả liên quan đến toàn cầu hoá
16
3.2.4. Đe doạ của các ngoại lệ
16
3.2.5. Chi phí giao dịch
17
4. Mối quan hệ giữa khu vực hoá và toàn cầu hoá
17
II. Một số các liên kết kinh tế khu vực chủ yếu ở khu vực Á-Âu
19
1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á-ASEAN
19
2. Liên minh châu Âu-EU
25
3. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương-APEC
28
5
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
CHƯƠNG II: ASEM VÀ VAI TRÒ CỦA TIẾN TRÌNH ASEM TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MỐI QUAN HỆ Á-ÂU
33
I. ASEM
33
1. Hoàn cảnh ra đời
33
2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM
34
2.1. Mục tiêu
34
2.2. Nguyên tắc hoạt động
35
2.3. Cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM
36
3. Những cơ hội và thách thức của ASEM trong thời gian tới
45
3.1. Những cơ hội
45
3.2. Những thách thức
45
II. Tiến trình ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu
46
1. Vai trò của ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu
46
2. Hợp tác kinh tế ASEM
48
48
2.1. Mục tiêu và nguyên tắc hợp tác 2.1.1. Mục tiêu
48
2.1.3. Nguyên tắc
49
2.2. Lĩnh vực hợp tác
49
2.2.1. Thuận lợi hoá thương mại
50
2.2.2. Chương trình hành động xúc tiến đầu tư
54
2.2.3. Xúc tiến hợp tác tương hỗ giữa các doanh nghiệp
56
2.2.4. Viễn cảnh ASEM
57
2.2.5. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác
58
60
CHƯƠNG III: VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH ASEM
I. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
60
1. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
60
1.1. Tính tất yếu của việc hội nhập
60
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hội nhập kinh tế
62
quốc tế
2. Vài nét về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
66
6
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
71
3. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
3.1. Những cơ hội đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
71
74
3.2. Những thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
II. Việt Nam trong tiến trình ASEM
76
76
1. Hoàn cảnh tham gia và vị thế của Việt Nam trong tiến trình ASEM
2. Những hoạt động chủ yếu của Việt Nam trong ASEM
77
3. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong tiến trình ASEM
80
3.1. Những cơ hội
80
3.2. Những thách thức
81
III. Các giải pháp thúc đẩy Việt Nam trong tiến trình ASEM
82
1. Về nhận thức, tư tưởng
82
2. Về xây dựng nội dung tiến trình ASEM
84
3. Xây dựng và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước
85
87
4. Về phương hướng và giải pháp điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong tiến trình ASEM
90
92
5. Về công tác xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia trong tiến trình ASEM KIẾN NGHỊ-ĐỀ XUÂT KẾT LUẬN
PHỤ LỤC Phụ lục 1: Các rào cản thương mại trong ASEM Phụ lục 2: Danh mục các dự án hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ Phụ lục 3: Các biện pháp đầu tư hiệu quả nhằm thu hút đầu tư nước ngoài Phụ lục 4: Viễn cảnh ASEM
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
7
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ KHU VỰC HOÁ VÀ
LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC TẠI CHÂU Á-CHÂU ÂU
I. Những vấn đề cơ bản về khu vực hoá
1. Khu vực hoá là gì ?
Ngay những năm đầu của thập niên 70, các học giả đã bắt đầu trăn trở về những
sự kiện kinh tế diễn ra trên thế giới. Và không cần chờ đến đầu thập niên 80 hay
90 của thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu về vấn đề khu vực hoá ngày càng
trở nên rõ nét khi các liên kết kinh tế khu vực được hình thành ngày một nhiều
như Khu vực tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Liên minh EU…
Theo kinh tế học cổ điển về lợi thể so sánh, hầu hết các quốc gia đều có thể có lợi khi trao đổi buôn bán với các nước khác1. Thực tế cũng chứng minh rằng tự
do hoá thương mại giúp cho các quốc gia phát triển và từ đó giúp cho nền kinh
tế của quốc gia đó tăng trưởng. Chính vì vậy, các quốc gia theo dòng chảy này
tự nguyện tham gia vào cơ chế tự do hoá thương mại quốc tế dưới sự bảo trợ của
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO). Mục đích cuối cùng của cơ chế này là giảm rào cản thương
mại trên cơ sở các bên cùng có lợi.
Khu vực hoá cũng được hình thành trên nguyên lý tương tự. Sự khác biệt đầu
tiên của khu vực hoá so với toàn cầu hoá chính là nhằm giảm rào cản thương
mại giữa các nước trong cùng một khu vực. Hình thức khu vực hoá có thể dề
thấy nhất là các Khu vực mậu dịch (Regional Trade Area-RTA). Trong khu vực
8
mậu dịch tự do các nước có thể được hưởng những ưu đãi thương mại do các 1 David Ricardo, Nguyên lý về Kinh tế chính trị và Thuế (1987)
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
nước trong cùng khu vực tự thoả thuận. Điều này thường xảy ra là do các nước
trong cùng một khu vực thường có sự gần gũi về mặt địa lý và do đó thường
buôn bán với nhau một khối lượng lớn hàng hoá. Vì vậy các nước nằm ngoài
khu vực sẽ không được hưởng những ưu đãi như các nước trong một khu vực.
Vì vậy khu vực mậu dịch là một trong những ngoại lệ trong các nguyên lý cơ
bản dễ thấy nhất của WTO, cho phép các quốc gia thành viên được hưởng đãi
ngộ quốc gia (Most Favored Nations - MFN). Theo MFN, tất cả các quốc gia
thành viên trong WTO được đối xử như nhau hay không có sự phân biệt đối xử
giữa các quốc gia. Tuy nhiên, trong khu vực mậu dịch nguyên tắc này có sự thay
đổi. Chẳng hạn, giả sử Mexico đánh thuế hoa hồng ở mức 10%. Theo MFN,
Mexico phải đánh mức thuế hoa hồng như nhau đối với tất cả các thành viên của
WTO. Tuy nhiên, do Mexico ký Hiệp định Tự do hoá thương mại Bắc Mỹ
(North American Free Trade Agreement-NAFTA) với Canada và Hoa Kỳ,
Mexico có thể đánh một mức thuế hoa hồng thấp hơn 10% cho Canada và Hoa
Kỳ.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý một điều rằng một khi khu vực mậu dịch được thiết
lập thì tổng luồng thương mại được hưởng ưu đãi bên trong khu vực mậu dịch
không phải lúc nào cũng lớn như trong ví dụ trên. Thứ nhất, nhiều mức thuế đã
được ấn định trong khung của MFN tại mức zero. Thứ hai, bởi vì người ta
thường có khuynh hướng loại bỏ các phần tử nhạy cảm trong khu vực mậu dịch
chẳng hạn như nông nghiệp, điều này có thể làm giảm tới mức tối thiểu mức ưu
đãi có thể đạt được. Một vài nước thậm chí đã chọn hướng loại bỏ thoả thuận tự
do thương mại vì mức thuế trong MFN còn thấp hơn so với chi phí để có thể
trang trải các gánh nặng về thủ tục và luật lệ hành chính của nước sở tại. Hơn
nữa, hầu hết các khu vực mậu dịch đều có thời kỳ chuyển đổi khoảng 10 năm để
cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm mang tính nhạy cảm hơn và trì hoãn
9
bất kì ảnh hưởng thực tế nào đối trong một khoảng thời gian đáng kể.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Nhìn chung, khu vực hoá còn được ưa chuộng hơn toàn cầu hoá nếu xét về
chính trị.
2. Các hình thức biểu hiện của khu vực hoá từ trước đến nay
Tháng 3 năm 2002, có tới 168 khu vực mậu dịch đã được hình thành và đi vào
hoạt động trên toàn thế giới. Xét về mặt lịch sử, khu vực hoá lần đầu tiên xuất
hiện vào những năm 1950 và được khuấy động bởi sự hình thành của Cộng đồng
chung châu Âu (EU) vào năm 1957. Tuy nhiên vào lúc đó, liên kết kinh tế khu
vực không vượt khỏi lãnh địa châu Âu. Trên thực tế, khu vực hoá “thực sự” mới
được hình thành cách đây trong vòng 10 năm trở lại đây. Chẳng hạn, WTO được
thành lập vào tháng 1 năm 1995, 125 khu vực được công bố có trong danh sách
của WTO với mức công bố trung bình hàng năm là 15. Cũng chính tại thời điểm
WTO được thành lập, khu vực hoá càng ngày càng phát triển. Đây cũng là điểm đối lập cơ bản khi so sánh khu vực hoá khi WTO ra đời với tiền thân GATT2
vào giai đoạn trước năm 1955. Các hình thức khu vực hoá ngày càng đa dạng,
thậm chí có những nước là thành viên của một vài liên kết kinh tế khu vực. Vì
thế, có thể nói khu vực hoá đã và đang trở thành một nhân tố kết nối toàn cẩu.
Vể mặt địa lý và lịch sử, khu vực hoá bắt nguồn từ châu Âu, gần 60% liên kết
khu vực do WTO công bố vào cuối năm 2000 là các nước châu Âu.
Những liên kết khu vực ngày nay được biết đến nhiều nhất là: EU, Hiệp hội Tự
do thương mại châu Âu (the European Free Trade Association-EFTA), Hiệp
định tự do thương mại Bắc Mỹ (the North American Free Trade Agreement-
NAFTA), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of South East Asian
Nations - ASEAN), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade
2 http://www.wto.org
10
Area-AFTA) và nhiều tổ chức khác.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Một điểm quan trọng nữa cần lưu ý là các liên kết kinh tế khu vực không chỉ là
một hiện tượng giới hạn đối với các nước phát triển mà còn lan rộng tới các
nước đang phát triển. Trên thực tế, các nước đang phát triển chiếm tới 30-40%
tổng số các liên kết kinh tế khu vực hiện đang hoạt động. Trong các vòng đàm
phán, các nước đang phát triển tìm cách nới rộng hợp tác với nhau. Tuy nhiên,
trong các cuộc thương lượng gần đây, các khu vực mậu dịch tự do được hình
thành giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Đây thực sự là một
khuynh hướng mới. Chẳng hạn như sự liên kết giữa Jordan với Hoa Kỳ, Mexico
và EU… là những ví dụ điển hình.
Thậm chí giữa các nước đang phát triển, khu vực hoá cũng có sự khác biệt đáng
kể. Khu vực hoá ở các nước Tây Á, Đông Nam Á, Mỹ Latin cũng có sự khác
biệt lớn nếu đem so sánh với khu vực hoá ở Châu Phi. Các nước châu Phi khi
tạo nên liên kết khu vực thường chú trọng vào các hiệp định chung về thuế quan
và các thị trường chung, và thời gian để diễn ra liên kết khu vực thường từ 20-30
năm. Thường thì châu Phi không có các liên kết kinh tế khu vực dựa trên các
mối quan hệ song phương. Ngược lại, các nước Tây Á và Đông Nam Á ngày
nay quan tâm hơn tới mục tiêu thành lập các khu vực mậu dịch tự do.
Khoảng cách địa lý cũng đóng một vai trò quan trọng đối với khối lượng thương
mại giao dịch cũng như việc hình thành nên các liên kết khu vực. Chẳng hạn
như trường hợp của châu Phi và Nam á, 95% xuất khẩu của các khu vực này là
từ khu vực bên ngoài. ở bán cầu phía Tây, thương mại của hầu hết các nước Mỹ
Latinh cũng khá đa dạng. Nếu không tính đến Mêhicô, khoảng 55% xuất khẩu
của Mỹ Latinh được xuất khẩu sang nửa còn lại của bán cầu. Điều này chứng tỏ
những ưu tiên do thương mại đem lại có thể vượt ra khỏi giới hạn địa lý. Một vài
ví dụ có thể là: Mêhicô-Israel, Canađa-Chilê, Hàn Quốc-Chilê.
11
2.1. Thoả thuận Tự do Thương mại (Free Trade Agreement-FTA)
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Thoả thuận tự do thương mại theo WTO/GATT đặc biệt được hiểu là một khu
vực trong đó bao gồm ít nhất 2 lãnh thổ hải quan trở lên được hình thành khi thuế và các quy định ngặt nghèo về thương mại được loại bỏ một cách đáng kể3.
Tháng 3/2002, hình thức phổ biến nhất của khu vực mậu dịch là các Thoả thuận
tự do thương mại- chiếm tới 70% . Trong số này, khoảng hơn nửa số Thoả thuận
tự do thương mại này là các thoả thuận song phương giữa 2 nước. Chính vì vậy,
Thoả thuận tự do thương mại đại diện cho giai đoạn đầu của khu vực hoá so với
Hiệp định chung về thuế quan.
Hình thức khu vực mậu dịch tự do với mục đích đạt được các thoả thuận về tự
do hoá thương mại không có những đòi hỏi mang tính rườm rà trong quá trình
hội nhập nên được hình thành một cách dễ dàng hơn và ngày càng trở nên phổ
biến. Khu vực mậu dịch tự do vì thế tạo động lực cho khu vực hoá phát triển như
một khối thống nhất kể từ khi WTO được thành lập vào năm 1995. Nhìm chung,
các chuyên gia cho rằng khu vực mậu dịch tự do vẫn phổ biến nhất ở châu Âu
trong khoàng 5 năm tới. Hiện nay, cũng cần lưu ý một điều rằng khu vực mậu
dịch tự do chủ yếu được hình thành giữa các nước phát triển và đang phát triển
dựa trên theo hướng Bắc-Nam hơn là theo hướng cổ điển Bắc-Bắc, Nam-Nam.
Có thể thấy một trong những khu vực mậu dịch tự do Bắc-Nam thành công nhất
điển hình là NAFTA.
Khu vực mậu dịch tự do cũng thường có các quá trình hoà giải. Vì vậy, quy trình
hoà giải tiến tới hình thành khu vực hoá thường hoặc là bản sao của quy trình
hoà giải của WTO hay nếu đã được hoà giải sớm thì nó có thể làm dịu bớt
những gánh nặng hành chính do WTO đem lại. Một vấn đề khác cần chú trọng
là các cơ quan hoà giải được thành lập dưới khu vực mậu dịch thường bị chia
theo số thành viên của các quốc gia, do đó, cơ hội hoà giải bị hạn chế.
12
2.2. Đồng minh thuế quan (Custom Union) 3 Điều XXIV, Đoạn 8(b), GATT 1994
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Trong khu vực mậu dịch, Đồng minh thuế quan tiến một buớc xa hơn so với
Khu vực mậu dịch tự do. Đồng minh thuế quan không chỉ đòi hỏi việc cắt giảm
một cách đáng kể mức thuế bên trong các quốc gia thành viên mà còn tạo ra một
mức thuế riêng làm hài hoà chính sách thương mại đối với các quốc gia không phải là thành viên4 . Một trong những ví dụ điển hình về Đồng minh thuế quan
ngày nay vẫn còn tồn tại là Liên minh châu Âu EU. Trong điều kiện các mức
thuế đều do GATT quy định, đồng minh thuế quan đòi hỏi một mức thuế chung
bên ngoài để đảm bảo rằng mức thuế này giảm xuống mức thấp nhất và là mức
thuế ưu đãi nhất khi có đồng minh thuế quan. Từ đó, các quốc gia thành viên sẽ
có thể tự do hoá cơ chế thương mại một cách đáng kể để có thể đạt đến một mức
thuế chung. Có thể lấy một ví dụ cụ thể trong khu vực đồng minh thuế quan như
EU để minh hoạ. Nước hoa được nhập khẩu vào khu vực EU từ các quốc gia
không phải là thành viên của EU cũng sẽ chịu một mức thuế như đối với các
quốc gia thành viên.
Chính vì lí do này, thời gian cần thiết để thương lượng mức thuế chung cho tất
cả các quốc gia sẽ làm cho việc quá trình hình thành các đồng minh thuế quan
thường mất nhiều thời gian hơn để thương lượng. Thông thường đồng minh thuế
quan thường chiếm khoảng 9% trong khu vực mậu dịch. Vì thế, quy trình này
thường được xem như một giai đoạn phát triển hơn của hội nhập kinh tế tiến tới
tự do hoá thương mại dựa trên các quan hệ đa phương. Từ cơ sở nghiên cứu này
nhiều người cho rằng để toàn cầu hoá cần hạn chế các khu vực mậu dịch tự do
một cách tối đa đồng thời khuyến khích hơn nữa các Đồng minh thuế quan.
2.3. Thoả ước đầu tư
Một hình thức khác của khu vực hoá là các Thoả ước đầu tư. Dưói hình thức
này, đầu tư của các quốc gia và các công ty từ một quốc gia thành viên sẽ được
13
hưởng một mức đãi ngộ chung theo nguyên tắc NT và MFN. Mức đãi ngộ này 4 Điều XXIV, Đoạn 8 (a), GATT 1994
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
không chỉ được hưởng ở giai đoạn phải thực hiện các nghĩa vụ như nghĩa vụ sử
dụng sản phẩm nội địa hay nghĩa vụ phải xuất khẩu các sản phẩm trong nước. Vì
vậy, thoả ước đầu tư không chỉ được đàm phán dựa trên cơ sở song phương và
đa phương giữa một vài bên tham gia mà còn chủ yếu nhấn mạnh vào đầu tư.
Theo Thoả ước đầu tư. hầu hết các bên tham gia còn đưa ra ưu đãi đối với một
số ngành đối với các quốc gia được hưởng đãi ngộ quốc gia-MFN. Những ưu
đãi đối với một số ngành thường được tạo ra nhằm phục vụ lợi ích chính trị và
làm giảm sự ảnh hưởng của NT và MFN do luật của quốc gia đó mang lại.
Những ưu đãi này thường được dành cho các ngành như hàng không, vận tải
biển, ngân hàng, bảo hiểm, điện.
Thoả ước đầu tư hiển nhiên nhấn mạnh tới các quy tắc đối với nước đầu tư.
Những quy tắc đầu tư của các nước chủ đầu tư tất nhiên phải phù hợp với thông
lệ quốc tế. Nói một cách khác các quy tắc này phải phục vụ cho lợi ích chung
của cộng đồng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử. Nếu vi phạm quy tắc
này, các nước chủ đầu tư sẽ phải bồi thường một khoản tiền tuỳ theo quy định
một cách tức khắc, kịp thời và hiệu quả. Đối với các khoản hồi hương, đầu tư
phải đảm bảo được phép chuyển một cách không hạn chế theo đồng tiền tự do
chuyển đổi. Đối với tranh chấp, các quốc gia và các công ty liên quan tới việc
tranh chấp đầu tư phải được đưa ra trọng tài quốc tế mà không cần xem xét tới
việc xét xử tại các toà án trong nước.
Mặc dù những sụ khác biệt so với Đồng minh thuế quan và Khu vực mậu dịch tự
do nhưng do có sự tương đồng về mục đích Hiệp ước đầu tư thực sự vẫn là hình
thức giúp khu vực hoá phát triển. Các Thoả ước đầu tư mang tính chất song
phương vẫn được xem như chất xúc tác của sự hợp tác chung và nhiều khu vực
mậu dịch tự do song phương.
14
3. Mặt tích cực và tiêu cực của khu vực hoá
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
3.1. Mặt tích cực của khu vực hoá
3.1.1. Thúc đẩy thương mại
Một trong những mặt tích cực của khu vực hoá có thể thấy một cách rõ nét là
hiệu quả của nó trong việc thúc đẩy thương mại. Thương mại của một nước
được thúc đẩy đặc biệt nước đó có lợi thế so sánh về một sản phẩm đặc trưng
nào đó đối với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ Braxin có lợi thế so sánh
về các sản phẩm làm bằng da so với các nước khác cùng khu vực như Chilê và
Argentina thì Chilê và Achentina sẽ phải giảm mức thuế về các sản phẩm làm
bằng da cùng mức với mức thuế đã có sản trong khu vực đó, tức là ngang bằng
với mức thuế của Braxin. Từ đây, có thể nói rằng thương mại đã được thúc đẩy
nhờ khu vực hoá vì Braxin từ đó sẽ có lợi từ việc từ việc xuất khẩu những sản
phẩm làm bằng da mang tính cạnh tranh hơn sang Chilê và Achentina. Với cách
hiểu này, lợi thế so sánh của một nước trong khu vực cũng sẽ thúc đẩy tự do
hoá thương mại. Như vậy, thúc đẩy tự do thương mại có thể được xem là một
trong những mặt tích cực nhất của khu vực hoá, và đặc biệt nó đem lại nhiều lợi
ích cho các quốc gia có lợi thế so sánh.
3.1.2. Thiết lập các khối kinh tế chuẩn bị liên kết đa phương
Theo dòng chảy lịch sử có thể thấy việc đàm phán thương mại đa phương bản
thân nó đã bao gồm những khó khăn và đòi hỏi nhiều thời gian để có thể thực
hiện. Điều này càng khó khi các thành viên của WTO ngày càng nhiều. Kể từ
vòng đàm phán Kennedy năm 1967, gần 100 quốc gia đã trở thành thành viên
của GATT/WTO. Theo cấp số nhân của con số này, số lượng sản phẩm, dịch vụ
và các vấn đề liên quan đến việc đàm phán và những khó khăn thực tế sẽ gặp
phải là không thể đo được. Chính vì lí do này, việc thiết lập các khối kinh tế như
Liên minh châu Âu, châu Mỹ và châu á là rất cần thiết và hiệu quả để có thể đạt
15
tới mục đích cuối cùng là tự do hoá thương mại toàn cầu. Bằng cách này, việc
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
thương lượng để đạt được tự do hoá thương mại sẽ được tiến hành dễ dàng và
nhanh hơn rất nhiều.Chẳng hạn như việc đàm phán ba bên thì hiển nhiên sẽ đơn
giản hơn so với 150 quốc gia cùng nhau ngồi vào bàn đàm phán và mỗi nước
thuộc 150 quốc gia này lại đưa ra những lợi ích và chương trình nghị sự khác
nhau của mình.
Sự nhất trí trong cùng một khu vực được tiến hành trên cơ sở song phương và đa
phương sẽ tạo đà cho cho tự do hoá thương mại. Nhiều người cho rằng những
vấn đề phức tạp mang tính chính sách chẳng hạn như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí
tuệ, chiến lược cạnh tranh, tiêu chuẩn kỹ thuật, nguồn thu của chính phủ…nên
được giải quyết trên cơ sở nhất trí và theo cùng một hướng hơn là theo sở thích
và nguyện vọng khác nhau của nhiều quốc gia. Tại đây, khu vực hoá đóng vai
trò là một nhân tố thức đẩy sự tăng trưởng cũng như cầu cho việc xuất khẩu đối
với các quốc gia thuộc cùng một khối.
Theo một cách hiểu khác, những ưu đãi do khu vực hoá đem lại cũng có thể giúp
cho việc thiết lập một cơ chế bên trong cho hệ thống thương mại đa phương.
Nhiều quốc gia vướng phải những rào cản chính trị trong việc thiết lập tự do hoá
thương mại. Những quốc gia này sẽ cảm thấy dễ dàng hơn trong việc đàm phán
với các nước trong cùng khu vực so với các nước xa cách về mặt địa lý. Điều
này cũng dễ hiểu vì việc đàm phán đối với một quốc gia khác trong cùng một
khu vực thường đạt được sự tương đồng về nhiều mặt trong đó có cả những vấn
đề về chính trị. Một khi những quốc gia này vượt qua những trở ngại về chính trị
thì họ có thể dễ hoà mình mở cửa thúc đẩy quá trình đàm phán đa phương.
Ngoài việc cắt giảm thuế quan, việc tăng cường các hàng rào phi thuế trên toàn
cầu cũng khẳng định cho việc hội nhập khu vực là một trong những con đường
nhiều quốc gia theo đuổi và lựa chọn. Các hàng rào phi thuế khó có thể thương
lượng và vì vậy thông qua hiểu một cách thấu đáo những vấn đề thuế các quốc
gia có thể hội nhập một cách dễ dàng hơn. Những nước trước đây đã từng không 16
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
tán thánh khu vực hoá như Mỹ giờ đây bắt đầu thay đổi quan điểm của mình và
khẳng định rằng những lợi ích tổng thể do khu vực hoá đem lại thông qua việc
thiết lập các khối kinh tế sẽ thúc đẩy tự do hoá thương mại đa phương.
3.1.3. Tăng cường hợp tác và an ninh
Hội nhập kinh tế khu vực thông qua khu vực hoá được coi là một công cụ giúp
cho việc thúc đẩy hợp tác quốc tế. Ví dụ như Liên Xô cũ trước đây, sự sụp đổ về
mặt chính trị dần dần được phục hồi nhờ sự liên kết kinh tế khu vực và liên kết
kinh tế khu vực đóng vai trò như một sợi dây liên kết giúp cho việc duy trì
thương mại và quan hệ của các nền cộng hoà khác nhau. Hiện nay, Nga,
Kazakhanstan, Belarus, Kyrgyzstan và Tạiikistan là các thành viên của Hiệp
định chung về thuế quan có tên là Cộng đồng Kinh tế á-Âu (Eurasian Economic
Community-EURASEC) được ký kết vào năm 2000. Khi các quốc gia càng liên
kết chặt chẽ với nhau bao nhiêu, sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn, nhờ đó, các
quốc gia này sẽ phải cùng nhau giữ gìn hoà bình và tăng cường an ninh. Như
vậy, xét về quan hệ quốc tế, sự bất ổn về chính trị thường bắt nguồn từ những
xung đột khu vực giữa các nước láng giềng với nhau do có sự bất đồng về tôn
giáo, lịch sử và văn hoá. Bằng cách thúc đẩy sự ổn định về chính trị trong khu
vực trước, các quốc gia có cơ sở vững chắc cùng nhau hợp tác để đạt được
những lợi ích về kinh tế. Đây cũng là một trong những bước quan trọng nhất
trong việc hoạch định các chính sách tự do hoá thương mại đa phương.
Một trong những mặt tớch cực của khu vực hoỏ cú thể thấy một cỏch rừ nột là
hiệu quả của nú trong việc thỳc đẩy thương mại. Thương mại của một nước
được thúc đẩy đặc biệt nước đó có lợi thế so sánh về một sản phẩm đặc trưng
nào đó đối với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ Braxin có lợi thế so sánh
về các sản phẩm làm bằng da so với các nước khác cùng khu vực như Chilê và
Argentina thỡ Chilờ và Achentina sẽ phải giảm mức thuế về cỏc sản phẩm làm
bằng da cựng mức với mức thuế đó cú sản trong khu vực đó, tức là ngang bằng 17
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
với mức thuế của Braxin. Từ đây, có thể nói rằng thương mại đó được thúc đẩy
nhờ khu vực hoá vỡ Braxin từ đó sẽ có lợi từ việc từ việc xuất khẩu những sản
phẩm làm bằng da mang tính cạnh tranh hơn sang Chilê và Achentina. Với cách
hiểu này, lợi thế so sánh của một nước trong khu vực cũng sẽ thúc đẩy tự do
hoá thương mại. Như vậy, thúc đẩy tự do thương mại có thể được xem là một
trong những mặt tích cực nhất của khu vực hoá, và đặc biệt nó đem lại nhiều lợi
ích cho các quốc gia có lợi thế so sỏnh.
3.2. Mặt tiêu cực của khu vực hoá.
3.2.1. Chệch hướng thương mại
Đối lập với thúc đẩy thương mại, chệch hướng thương mại lại là một khuynh
hướng được xảy ra đồng thời với quá trình khu vực hoá. Chệch hướng thương
mại sẽ xảy ra khi một quốc gia có lợi thế so sánh nhưng không thể sử dụng được
lợi thế so sánh của mình. Cùng một ví dụ, có thế thấy nếu Braxin có lợi thế so
sánh về các sản phẩm làm bằng da nhưng Chilê và Achentina lại cùng nhau liên
kết và buôn bán thì chệch hướng thương mại sẽ xảy ra với Braxin khi Chilê mua
các sản phẩm làm bằng da của Achentina thay vì Braxin. Điều này hoàn toàn có
thể xảy ra khi các sản phẩm da của Achentina được xuất khẩu sang Chilê không
bị đánh thuế trong khi đó các sản phẩm da của Braxin vẫn đánh một mức thuế
nhất định. Hiển nhiên Braxin cho dù có lợi thế so sánh về sản phẩm da đến đâu
thì trong trường hợp này rất có thể không thể cạnh tranh được với các sản phẩm
da của Achentina.
Hình thức chệch hướng thương mại hoàn toàn đối lập với những nguyên tắc về
tự do hoá thương mại tổng thể. Chệch hướng thương mại bóp méo sự phân bổ
nguồn lực. Các nhà sản xuất kém hiệu quả trong cùng một khu vực lại có thể
được hưởng lợi từ việc các nhà sản xuất kém hiệu quả nằm ngoài sự liên kết đơn
18
lẻ. Như thế, có thể thấy việc so sánh để thấy được lợi ích của khu vực hoá đem
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
lại do thúc đẩy thương mại hay chệch hướng thương mại là một công việc khó
có thể lượng hoá được. Hiển nhiên, lợi ích mà khu vực hoá đem lại cho các quốc
gia chỉ có thể nằm ở việc thúc đẩy thương mại.
Tuy nhiên, lợi ích có được từ liên kết kinh tế khu vực thường thông qua thúc đẩy
thương mại thực sự được cuờng điệu do xét về tổng thể, mức thuế chung đã
được giảm một cách đáng kể. Chẳng hạn như sau Chiến tranh thế giới II, mức
thuế trung bình đã giảm từ 40% xuống còn dưới 4% sau vòng đàm phán
Uruguay năm 1994. Tương tự, triển vọng tăng cường thương mại dường như
cũng không được như mong muốn vì sự tương đồng về tài nguyên thiên nhiên
của các quốc gia mang những nét chung về địa lý trong cùng một khu vực.
3.2.2. Sự liên kết đảng phái gia tăng
Khu vực hoá cũng được coi là một mối đe doạ lớn đối với toàn cầu hoá. Tự do
hoá thương mại thường xảy ra dần dần ở khu vực hoá, tuy nhiên nếu không có
sự nỗ lực của tất cả các quốc gia thành viên thì cũng khó có thể đạt tới đích cuối
cùng. Khó có những liên kết kinh tế khu vực nào mà các quốc gia thành viên tự
nó chịu nhân nhượng để đạt tới thoả hiệp chung mong muốn. Khi một liên kết
khu vực càng lớn bao nhiêu, quyền lợi nó mang lại cho các quốc gia càng nhiều
bấy nhiêu và điều này khó để đạt tới sự nhất trí của các thành viên. Các nước
nằm trong cùng một khu vực sẽ đạt được lợi ích ít hơn khi hội nhập sâu hơn
trong khối. Liên minh châu Âu được coi là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, đây
cũng là một khối ngoại lệ vì các quốc gia thành viên trong khu vực này cùng
chia xẻ một hệ thống duy nhất về quy mô, tài nguyên, lịch sử và chính trị.
Hơn nữa, mặc dù được coi là một sự lựa chọn tốt cho công chúng, tự do thương
mại không tránh khỏi những vấn đề khó giải quyết mang tính bản chất do khu
19
vực hoá đem lại. Những quốc gia buộc phải tham gia vào khu vực mậu dịch tất
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
nhiên sẽ có ít động lực thúc đẩy khu vực đó phát triển. Khi khu vực đó càng
được mở rộng, nó sẽ tìm kiếm sự nhân nhượng từ những thành viên mới.
Một vài nước ở châu Phi và Trung Á cùng một lúc tham gia vào nhiều khu vực
mậu dịch đa phương. Ngoài sự khó khăn để có thể duy trì tư cách hội viên ở các
khối này, các nước này khó có thể giúp góp phần củng cố khu vực vì những
quốc gia này nhiều khi tham gia vào khối đó không đảm bảo được mục tiêu chủ
đạo mà khối đó vươn tới mà chỉ chạy theo mục đích riêng của mình. Tương tự
như vậy, các quốc gia với cùng mục tiêu và chính sách ngoại giao sẽ tìm thấy
những cơ hội từ đối tác của mình. Và như vậy, sẽ có những quốc gia còn lại nằm
ngoài lề, bị gạt ra khỏi cuộc chơi. Từ thực tế này, nhiều bè phái, đảng phái sẽ
xuất hiện nằm ngoài sự mong đợi.
Thậm chí khi các nước phát triển và đang phát triển cùg nhau ký kết cùng tham
gia vào một khối, khối này cũng sẽ bị thống trị bởi các quốc gia có thế lực kinh
tế. Như vậy, nhìn chung có thể nói rằng khu vực hoá chia nhỏ thế giới ra làm
nhiều mảnh và nó làm cho việc thiết lập môi trường hợp tác thương mại đa
phương trở nên khó khăn.
3.2.3. Hậu quả mang lại liên quan tới toàn cầu hoá
Dù có ẩn chứa nhiều điều hứa hẹn, toàn cầu hoá vẫn có những mặt trái và gây ra
không ít khó khăn. Nhiều người tin rằng toàn cầu hoá làm tăng khoảng cách
giữa những nước giàu và nghèo và thậm chí làm tăng khoảng cách trong cùng
một quốc gia. Toàn cầu hoá cho phép cá công ty xuyên quốc gia có thể sử dụng
tính kinh tế theo quy mô của mình để lợi dụng những quốc gia khác yếu hơn. Nó
cũng đem đến nguy cơ về sự phụ thuộc của các quốc gia khác. Chính vì thế,
trong thế giới tổng là hằng số người ta thường nói rằng lợi ích của quốc gia này
20
chính là sự mất mát của quốc gia khác. Từ sự nghiên cứu này có thể thấy khu
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
vực hoá là một nhân tố giúp cho quá trình toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng hơn
và khuyếch đại những điểm yếu của toàn cầu hoá.
3.2.4. Đe doạ của các ngoại lệ
Các thoả hiệp ưu đãi thương mại là một sự lựa chọn thứ hai cần xem xét đến.
Mục đích cuối cùng của các quốc gia vẫn là tự do hoá thương mại cho các quốc
gia trên cơ sở toàn cầu hoá. Tuy nhiên, các khu vực mậu dịch có thể thấy vẫn là
ngoại lệ quan trọng duy nhất của quy tắc MFN của WTO. Nếu như tự do hoá
thương mại đa phương là mục đích cuối cùng thì những bước tiến mang tính
chất khu vực không còn nghi ngờ là cách thức làm chậm tiến độ toàn cầu hoá.
Theo cách này khu vực hoá sẽ dẫn tới những chi phí không cần thiết do những
nỗ lực về nguồn lực cho đàm phán và duy trì việc thực hiện những thương lượng
đã được thoả hiệp ở mức khu vực hoá sẽ là không cần thiết vì nó hiển nhiên sẽ
được đề cập trong các vòng đàm phán mang tính quốc tế toàn cầu.
Tương tự, nếu xem xét một cách kĩ lưỡng và tỉ mỉ thì có thể thấy WTO đã đề
cập tới các vấn đề đáng được tranh cãi như an ninh, môi trường, y tế, bảo tổn,
nông nghiệp. Khu vực mậu dịch đưa ra ngoại lệ sâu hơn từ MFN đối với các sản
phẩm và dịch vụ cho các nước thành viên tham gia. Như thế, khu vực hoá chỉ
đưa thêm vào ngoại lệ mang tính chất mang tính rộng hơn đối với các nguyên
tắc chung của WTO, do đó làm giảm mức tiến triển và quyến lực của WTO cũng
như những hứa hẹn về việc giải quyết các vấn đề đa phương.
3.2.5. Chi phí giao dịch
Thoả hiệp ưu đãi thương mại thương mại thường gây ra những chi phí giao dịch
không cần thiết. Trước hết, do các công ty thường tìm cách để đáp ứng đủ các
điều kiện đặt ra cho các quốc gia thuộc chung một khu vực để được hưởng
21
những ưu đãi khá phức tạp này. Những đảm bảo để có thể được hưởng những
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
điều kiện này thường đòi hỏi một thời gian dài, phức tạp và thông thường dẫn
tới các lãng phí các chi phí thương mại.
4. Mối quan hệ giữa khu vực hoá và toàn cầu hoá
Trong quan hệ với toàn cầu hoá, khu vực hoá được xem là bước chuẩn bị để tiến
tới toàn cầu hoá. Mặt khác, xu thế toàn cầu hoá hiện nay nó phản ánh một thực
trạng co cụm nhằm bảo vệ những lợi ích tương đồng giữa một vài nước trước
những nguy cơ, những tác động tiêu cực do toàn cầu hoá đặt ra. Như vậy, xét về
ngắn hạn dường như khu vực hoá đối nghịch với toàn cầu hoá, nhưng xét về dài
hạn thì chính khu vực hoá là bước chuẩn bị để thực hiện toàn cầu hoá.
Động lực gia tăng xu thế khu vực hoá trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ mục
đích phát huy những lợi thế so sánh, những nét tương đồng của các quốc gia
trong mỗi nhóm khu vực. Đồng thời, xu thế khu vực hoá còn được đẩy mạnh bởi
chính xu thế toàn cầu hoá gia tăng mạnh mẽ vượt trước cả việc hoàn thiện những
định chế toàn cầu để quản lý quá trình này. Toàn cầu hoá kinh tế về bản chất là
đi đến tự do hoá các yếu tố sản xuất trên phạm vi toàn cầu nhằm phục vụ lợi ích
của các dân tộc. Tuy vậy do những khác biệt về trình độ phát triển, về nguồn lực
sản xuất đã đưa đến những lợi ích khác nhau khi tham gia vào quá trình này. Để
khắc phục điều đó các quốc gia có những điểm tương đồng tìm đến nhau để tạo
lập các tổ chức kinh tế, tạo cho nhau những điều kiện thuận lợi hơn các quy định
quốc tế hiện hành. Như vậy về trình độ hợp tác hoá khu vực hiện nay cao hơn so
với toàn cầu hoá kinh tế.
Việc nâng cao trình độ hợp tác khu vực xét về tương lai chính là cơ sở cho việc
thực hiện toàn cầu hoá kinh tế và cũng vì vậy chừng nào còn tồn tại các tổ chức
kinh tế khu vực thì chưa có thể toàn cầu hoá, tự do hoá hoàn toàn. Sửa đổi hàng
loạt của các tổ chức khu vực và sự phát triển quy mô địa lý của các tổ chức khu
22
vực trên cơ sở bổ sung các thành viên hay hợp nhất các tổ chức khu vực chính là
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
bước tiến ngày càng gần hơn đến tự do hoá trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, có
thể nói khu vực hoá chỉ là tạm thời, nó ra đời trên cơ sở một trình độ phát triển
nhất định của toàn cầu hoá, là bước tất yếu trên đường đi tới toàn cầu hoá. Hợp
tác kinh tế khu vực càng phát triển sẽ là điều kiện và động lực cho toàn cầu hoá
kinh tế.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đều những xu hướng tất yếu, nó xuất hiện và gia
tăng gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là khoa học công
nghệ. Điều này cũng có nghĩa là tự do hoá thương mại quốc tế và khu vực cũng
là yêu cầu của phát triển. Vấn đề đặt ra là tự do hoá thương mại ra sao? Tiến
trình và cách thức tiến hành như thế nào để tận dụng được những mặt tích cực,
hạn chế tác động tiêu cực của những xu thế trên.
II. Một số các liên kết kinh tế khu vực chủ yếu ở khu vực Á-Âu
1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á-ASEAN
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời trong bối cảnh có nhiều
biến động đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, bao gồm cả những thay
đổi từ bên ngoài tác động vào khu vực cũng như những vấn đề nảy sinh từ bên
trong mỗi nước. (Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam- Đông Dương diễn ra ác
liệt, lôi kéo một số nước Đông Nam Á vào trận chiến. Anh rút khỏi phía Đông
Kênh Xuy-ê. Tổng thống Pháp De Gaulle sang Phnôm Pênh đưa khẩu hiệu
“trung lập hoá Đông Nam Á”, ở Trung Quốc “cách mạng văn hoá” phát triển tới
đỉnh cao và ảnh hưởng cả đến các nước Đông Nam Á có cộng đồng người Hoa
23
đông đảo. Liên Xô đang vận động hình thành một hệ thống “an ninh tập thể
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Châu Á”. Nội bộ các nước ASEAN còn phức tạp, mâu thuẫn, tranh chấp nhau,
nhất là giữa Phi-lip-pin-Malaysia, Singapore-Malaysia, Malaysia -TháiLan..).
Để đối phó với các thách thức này, xu hướng co cụm lại trong một tổ chức khu
vực với một hình thức nào đó để tăng cường sức mạnh bản thân đã xuất hiện và
phát triển trong các nước thành viên tương lai của ASEAN.
ASEAN được thành lập bởi Tuyên bố Bangkok-Thái Lan. Khi mới thành lập
ASEAN bao gồm 5 nước là Inđônêxia, Malaysia, Philipine, Singapore và Thái
Lan. Năm 1984, Brunêi gia nhập và trở thành thành viên thứ 6 của ASEAN.
Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội này. Ngày
23/7/1997 kết nạp Lào và Mianmar. Ngày 30/4/1999 kết nạp thêm Campuchia,
hoàn thiện ASEAN 10.
Bản tuyên bố Bangkok thể hiện ba mục tiêu lớn của Hiệp hội là:
Hợp tác kinh tế và xã hội giữa các quốc gia thành viên với niềm tin tưởng
rằng sự tăng cường về kinh tế là nguồn gốc của tiến bộ xã hội và văn hoá.
Hợp tác vì hoà bình và ổn định khu vực bằng việc triệt để tôn trọng công
bằng và ưu tiên luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và
nghiêm chỉnh tuân theo các nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc.
Hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực khác
Các nước ASEAN (trừ Thái Lan) đều trải qua giai đoạn lịch sử là thuộc địa của
các nước phương Tây và giành được độc lập dân tộc vào các thời điểm khác
nhau sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Mặc dù ở trong cùng một khu vực địa
lý, song các nước ASEAN rất khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và
văn hoá, tạo nên một sự đa dạng cho Hiệp hội.
Khu vực ASEAN là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với các khu
24
vực khác trên thế giới, nếu tính trước khủng hoảng năm 1997 thì ASEAN được
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
coi là tổ chức khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
mức phát triển kinh tế giữa các quốc gia Đông Nam á vẫn chưa đồng đều và vẫn
chưa thoát khỏi những khó khăn do cuộc khủng hoảng năm 1997 cũng như sự
kiện 11/9 mang lại.
Kể từ khi thành lập, ASEAN đã có những dấu mốc quan trọng đánh dấu
những sự kiện lớn:
Tuyên bố Kuala Lumpur (11/1997): là tuyên bố đầu tiên về thiết lập Khu
vực hoà bình, Tự do và Trung lập ở Đông Nam á.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ nhất (2/1976)
Tại Hội nghị này, các vị đứng đầu chính phủ ASEAN đã ký hai văn kiện
quan trọng:
Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (Hiệp ước Bali) khẳng
định 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.
Tuyên bố về sự hoà nhập ASEAN: cam kết cùng phối hợp để đảm bảo
sự ổn định của khu vực cũng như tăng cường sự hợp tác kinh tế, văn
hoá, giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước thành viên ASEAN.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ hai (8/1977)
Hội nghị đạt được hai kết quả quan trọng là chính thức thành lập cơ chế
đối thoại giữa ASEAN với các nước công nghiệp phát triển. Lần đầu tiên
những người đứng đầu chính phủ của ba nước Nhật Bản, Austraylia, New
Zealand đã tham gia đối thoại với ASEAN sau Hội nghị chính thức.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ ba (12/1987)
Hội nghị đã thông qua và ký kết nhiều văn bản quan trọng như:
25
Tuyên bố Manila 1987
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Nghị định thư Manila sửa đổi
Hiệp ước khuyến khích và đảm bảo đầu tư ASEAN
Nghị định thư về mở rộng danh mục thuế ưu đãi theo thoả thuận ưu đãi
thương mại ASEAN
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ tư (1/1992)
Hội nghị nhấn mạnh trọng tâm vào tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác
kinh tế ASEAN. Hội nghị đã thông qua những văn kiện và quyết định
quan trọng sau:
Thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào năm 2006
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN
Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
Hội nghị cấp cao lần thứ năm (12/1995)
Hội nghị đã có những quyết định và văn bản quan trọng sau:
Nâng cao hợp tác chuyên ngành lên tầm cao mới, ngang với hợp tác
chính trị-an ninh và kinh tế thông qua phát triển con người, đoàn kết xã
hội để đạt được sự thịnh vượng chung cho toàn khu vực.
Rút ngắn thời gian hiệu lực AFTA từ 15 năm xuống còn 10 năm, thậm
chí có thể hoàn thành trước thời hạn 2003 và mở rộng hợp tác ASEAN
sang lĩnh vực mới như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, lập khu vực đầu tư
ASEAN…
Ký kết Hiệp ước về một khu vực Đông Nam á phi vũ khí hạt nhân, là
một văn kiện quan trọng tiến tới xây dựng Đông Nam á thành một khu
26
vực hoà bình ổn định.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Thoả thuận họp Hội nghị Cấp cao chính thức 3 năm một lần và 2 Hội
nghị Cấp cao không chính thức giữa 2 ký Hội nghị Cấp cao chính thức.
Tiếp đến là Hội nghị cấp cao không chính thức được họp hàng năm tại các
quốc gia ASEAN.
Về cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay là kết quả của một quá trình hoàn thiện
từng bước song song với việc phát triển của tổ chức ASEAN trong gần 30
năm qua. Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay như sau:
Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước/Chính phủ ASEAN (ASEAN
Summit)
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting-AMM)
Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers-AEM)
Hội nghị Bộ trưởng các ngành
Các Hội nghị cấp Bộ trưởng hoặc tương đương
Hội nghị liên tịch các Bộ trưởng (Join Ministerial Meeting-JMM)
Tổng thư ký ASEAN
Uỷ ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee-ASC)
Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting-SOM)
Cuộc họp các quan chức cao cấp khác
Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consulative Meeting-JCM)
Các cuộc họp của ASEAN với các Bên đối thoại
27
Ban thư ký ASEAN quốc gia
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Uỷ ban ASEAN ở nước thứ ba
Ban thư ký ASEAN
Về nguyên tắc hoạt động chính của ASEAN
Các nguyên tắc nền tảng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên với bên
ngoài:
Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn viẹn lãnh thổ và
bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc;
Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình,
không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân
thiện;
Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;
Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.Các nguyên tắc điều phối hoạt
động của hiệp hội
Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội
Nguyên tắc nhất trí (consensus): một quyết định chỉ được coi là của
ASEAN khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu dài nhưng đảm
bảo được việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên.
Nguyên tắc bình đẳng (equality): thể hiện ở việc không phân biệt quốc
28
gia lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, tất cả đều bình đẳng với nhau trong
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
nghĩa vụ đóng góp cũng như chia xẻ quyền lợi. Ngoài ra, hoạt động của
tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên.
Nguyên tắc 6-X: hai hay một số nước thành viên ASEAN có thể xúc
tiến thực hiện trước các dự án ASEAN nếu một số nước còn lại chưa
sẵn sàng tham gia, không phải đợi tất cả mới cùng thực hiện.
Các nguyên tắc khác
Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số
nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức nhưng mọi người đều
hiểu, tôn trọng và tự giác áp dụng như:
Nguyên tắc “cho và nhận”
Nguyên tắc tế nhị, lịch sự, không gây đối đầu, có thái độ hữu nghị, thân
thiện
Nguyên tắc ngoại giao thầm lặng, cá nhân không tuyên truyền tố cáo
qua báo chí
Nguyên tắc giữ gìn đoàn kết ASEAN
2. Liên minh châu Âu-EU
Kể từ ngày 1/1/1995, EU có 15 nước thành viên bao gồm: Pháp, Đức, Italia, Bỉ,
Hà Lan, Lucxambua, Anh, Ireland, Đan Mạch, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, áo, Thuỵ Điển, Phần Lan. Đến tháng 5/2004, EU sẽ chính thức kết nạp
thêm 10 thành viên mới là Séc, Hungaria, Ba Lan, Sloviakia, Litva, Latvia,
Ostonia, Malta, Sip. Như vậy, số thành viên của tổ chức này trong tương lai
không xa sẽ tăng lên thành 25 nước.
Quá trình hình thành và phát triển EU theo dòng lịch sử gắn liền với các Hiệp
29
ước:
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Hiệp ước Paris (1951): dẫn đến việc thành lập Cộng đồng than thép châu Âu
Hiệp ước Roma (1957): đưa đến việc thành lập Cộng đồng nguyên tử lượng
(euratom) và thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC). Năm 1967 cơ
quan điều hành của các Cộng đồng trên được hợp nhất và gọi là Cộng đồng
châu Âu.
Hiệp ước Liên hiệp châu Âu (Hiệp ước Maastricht -7/2/1992) với mục đích
thành lập liên minh kinh tế và tiền tệ vào cuối thập kỷ 90 với một đồng tiền
chung và một Ngân hàng trung ương độc lập, thành lập một liên minh chính
trị bao gồm việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung để tiến
tới có chính sách phòng thủ chung, tăng cường hợp tác về cảnh sát và luật
pháp. Hiệp ước này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình nhất
thể hoá châu Âu. Cụ thể:
Liên minh chính trị:
Tất cả công dân của các nước thành viên được quyền tự do đi lại và cư
trú trong lãnh thổ của các nước thành viên.
Công dân các nước thuộc EU được quyền bầu cử và ứng cử chính
quyền địa phương và Nghị viện châu Âu tại bất kỳ nước thành viên nào
mà họ đang cư trú.
Thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung trên cơ sở hợp
tác liên chính phủ với nguyên tắc nhất trí để vẫn đảm bảo chủ quyền
quốc gia trên lĩnh vực này.
Tăng cường quyền hạn của Nghị viện châu Âu
Mở rộng quyền của Cộng đồng trong một số lĩnh vực như môi trường,
30
xã hội, nghiên cứu…
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Phối hợp các hoạt động tư pháp, thực hiện chính sách chung về nhập
cư, quyền cư trú và thị thực.
Liên minh kinh tế-tiền tệ: được chia làm 3 giai đoạn
Giai đoạn 1: từ 1/7/1990: xoá bỏ mọi hình thức kiểm soát và hạn chế
việc lưu chuyển vốn trong 12 nước thành viên
Giai đoạn 2: từ 1/1/1994 giải tán Uỷ ban thống đốc Ngân hàng Trung
ương của các nước thành viên, thành lập Viện tiền tệ châu Âu để chuẩn
bị việc thành lập hệ thống Ngân hàng Trung ương
Giai đoạn 3: từ 1/1/1999: giải tán Viện tiền tệ châu Âu, lập Ngân hàng
Trung ương châu Âu ECB.
Kể từ này 1/1/2002 đồng Euro đã chính thức được lưu hành trong 12 quốc
gia thành viên (còn gọi là khu vực đồng Euro) gồm có: Đức, Pháp, áo, Bỉ,
Phần Lan, Ireland, Italia, Luxemburg, Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha. 3 nước đứng ngoài là: Anh, Đan Mạch và Thuỵ Điển.
Hiệp ước Amsterdam (Hiệp ước Maastricht sửa đổi-2/10/1997) đã có một số
sửa đổi và bổ sung trong một số lĩnh vực sau:
Những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử
Tư pháp và đối nội
Chính sách xã hội và việc làm
Chính sách đối ngoại và an ninh chung
Hiệp ước Schengen (19/6/1990):. Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại của
công dân các nước thành viên. Hiện nay 14/15 nước thành viên tham gia khu
31
vực Schengen (trừ Anh).
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Hiệp ước Nice (1-11/12/2000): tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón
nhận các thành viên mới.
Về cơ cấu tổ chức: EU có 4 cơ quan chính là: Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban châu
Âu, Nghị viện châu Âu và Toà án châu Âu.
Hội đồng châu Âu: chị trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của EU
bao gồm các Bộ trưởng đại diện cho các thành viên. Các nước luân phiên làm
Chủ tịch với nhiệm kỳ 6 tháng. Giúp việc cho Hội đồng có Uỷ ban đại diện
thường trực và Ban Tổng thư ký.
Uỷ ban châu Âu: là cơ quan điều hành gồm 20 uỷ viên nhiệm kỳ 5 năm do
các Chính phủ nhất trí cử và chỉ thị bãi miễn với sự nhất trí của Nghị viện
châu Âu. Dưới các Uỷ viên là các Tổng Vụ trưởng chuyên trách từng vấn đề,
từng khu vực.
Nghị viện châu Âu: gồm 626 nghị sĩ, nhiệm kỳ 5 năm, được bầu theo nguyên
tắc phổ thông đầu phiếu. Trong Nghị viện các Nghị sĩ ngồi theo nhóm chính
trị khác nhau, không theo quốc tịch. Chức năng của Nghị viện Châu Âu là
thông qua ngân sách, cùng Hội đồng Châu Âu quyết định trong một số lĩnh
vực, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, có quyền bãi
miễn các chức vụ uỷ viên Uỷ ban châu Âu.
Toà án Châu Âu: do các chính phủ thoả thuận bổ nhiệm, nhiệm kỳ 6 năm.
Toà án có vai trò độc lập, có quyền bác bỏ những quy định của các tổ chức
của Uỷ ban châu  văn phòng chính phủ các nước nếu bị coi là không phù
hợp với luật châu Âu
3. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương-APEC
Từ cuối những năm 1970, đặc biệt là trong những năm 1980, sự tăng trưởng
32
kinh tế liên tục và với nhịp độ cao của châu Á mà nòng cốt là các nền kinh tế
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Đông Á đã thu hút sự chú ý của cả thế giới. Tiếp theo “sự thần kỳ” của Nhật
Bản, các nền kinh tế công nghiệp hoá mới (NIEs), ASEAN và đặc biệt là sự nổi
lên của Trung Quốc đã biến châu Á thành khu vực phát triển kinh tế năng động
bậc nhất giới.
Từ những năm 1980, các nước châu Á luôn dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển
kinh tế trong khi kinh tế thế giới luôn bị suy thoái vào những năm đầu 1990.
Xuất khẩu thực sự là động lực tăng trưởng kinh tế ở châu Á. Tiềm lực lớn về
xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và vốn đầu tư đòi hỏi phải có thị trường ổn định,
rộng mở và hạn chế tới mức tối đa những rào cản ngăn trở sự lưu chuyển của
hàng hoá, dịch vụ, đầu tư trong khu vực. Do đó, hợp tác và liên kết kinh tế khu
vực trở thành nhu cầu cấp thiết để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế cao và ổn
định. Nhờ sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở khu vực
châu Á-Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hoá khu vực nhằm phối hợp chính
sách về các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy tự do hoá và khuyến khích thương mại
hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, tăng cường hợp tác kinh tế, khoa học-công nghệ
giữa các nền kinh tế ở châu Á-Thái Bình Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển bền vững của khu vực châu Á-Thái
Bình Dương khi bước vào thế kỷ XXI.
Mục tiêu
Tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ ba tại Seoul, Hàn Quốc năm 1991, các Bộ
trưởng đã thông qua Tuyên bố Seoul, đặt nền móng cho sự phát triển của APEC
33
như một khuôn khổ hợp tác khu vực với 4 mục tiêu là:
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực vì lợi ích chung của các
dân tộc trong khu vực, và bằng cách đó đóng góp vào sự tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế thế giới
Phát huy các kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế giới do
sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến khích các
luồng hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ.
Phát triển và tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở vì lợi ích
của các nước châu Á-Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác
Cắt giảm những hàng rào cản trở việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư
giữa các thành viên phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO ở những
lĩnh vực thích hợp và không làm tổn hại tới các nền kinh tế khác.
Tuy nhiên, không giống như các tổ chức khu vực khác (đặc biệt là EU), ngay từ
đầu APEC không nhấn mạnh đến mục tiêu tạo lập hệ thống ưu đãi thuế quan,
liên minh thuế quan hay thị trường chung mà nhấn mạnh tới việc tăng cường hệ
thống thương mại đa phương mở. Điều này có thể lý giải bởi hai lý do: Thứ
nhất, APEC là một tập hợp của các nền kinh tế rất đa dạng về trình độ phát triển,
chế độ chính trị-xã hội cũng như điều kiện lịch sử-văn hoá. Vì thế, các nước
đang phát triển như ASEAN, NIEs không muốn thành lập một khu vực tự do
hoá và bị lệ thuộc một cách bất bình đẳng vào các nền kinh tế lớn hơn như Mỹ,
Nhật Bản…Thứ hai, các nền kinh tế APEC, đặc biệt là các nước Đông á phụ
thuộc rất lớn vào môi trường kinh tế thế giới. Sự tăng trưởng của các nền kinh tế
Nhật Bản, NIEs, ASEAN trong các thập kỷ 70, 80 chủ yếu nhờ vào sự thành
công của chiến lược hướng vào xuất khẩu, do vậy họ rất muốn duy trì một hệ
thống thương mại toàn cầu mở và ổn định. Việc thế giới bị chia cắt thành cac
khu vực cat cứ sẽ là điều bất lợi trước hết đối với những thành viên APẽ có nền
34
kinh tế, thương mại phát triển cao.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Nguyên tắc hoạt động của APEC
Nguyên tắc cùng có lợi
Việc duy trì nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi đóng vai trò quyết định đối
với sự phát triển của APEC vì diễn đàn này là tập hợp lực lượng của các nền
kinh tế rất đa dạng về điều kiện địa lý, lịch sử văn hoá, về chế độ chính trị-xã
hội và đặc biệt là có sự chênh lệch rất lớn về trình độ phát triển. Trong điều
kiện APEC bao gồm cả những nền kinh tế lớn và phát triển nhất, cũng như
những nền kinh tế nhỏ và kém phát triển hơn, APEC đã nhấn mạnh tới mối
quan tâm chung, lợi ích chung của các thành viên và tập trung vào các vấn đề
hợp tác kinh tế và phát triển.
Trong khi thừa nhận mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực phải
dựa trên cơ sở cùng có lợi, để phù hợp với tính đa dạng của khu vực, nguyên
tắc này cũng nhấn mạnh tới sự chú ý tới sự khác biệt về trình độ phát triển,
chế độ chính trị-xã hội và yêu cầu của các nền kinh tế đang phát triển. Đây là
điểm quan trọng trong nguyên tắc hoạt động của APEC nhằm giải toả mối lo
ngại của một số thành viên là nước đang phát triển trong APEC rằng sự khác
biệt lớn về trình độ phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ có thể dẫn đến
sự lệ thuộc bất bình đẳng của họ vào các nền kinh tế tiên tiến hơn, làm tăng
mâu thuẫn và phân cực Bắc-Nam ngay trong APEC.
Nguyên tắc đồng thuận (consensus)
Nguyên tắc đồng thuận là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của
hợp tác APEC. Khác với hoạt động trong GATT/WTO, trong đó các nước
phải qua một quá trình thương lượng, đàm phán lâu dài và thường gay gắt để
đạt được những thoả thuận và hiệp định có tính pháp lý quốc tế cao, APEC đi
tới các quyết định thông qua quá trình xây dựng sự đồng thuận. Tất cả các
35
Hội nghị đều mang tính tư vấn, theo nghĩa là các thành viên không tham gia
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
vào những cuộc thương lượng, mặc cả thực sự để đạt tới những quyết định có
tính ràng buộc. Toàn bộ quyết định của các nhà Lãnh đạo cấp cao, các Bộ
trưởng đều được đưa ra trong Tuyên bố chung phản ánh ý chí của tất cả các
thành viên.
Nguyên tắc đồng thuận thể hiện một mô hình hợp tác tương đối thành công
trong khu vực do ASEAN khởi xướng. Do tính chất đa dạng của các nền kinh
tế trong khu vực, nguyên tắc đồng thuận tỏ ra khá hiệu quả. Thông qua
nguyên tắc này, APEC đã xây dựng được những nền tảng mang ý nghĩa quan
trọng và thực tế đẩy mạnh hợp tác, một chương trình làm việc toàn diện và
một thoả thuận lịch sử về tự do hoá thương mại và đầu tư trong khu vực tới
năm 2020.
Nguyên tắc tự nguyện
Xuất phát từ đặc điểm của các nền kinh tế thành viên và các mối quan hệ
kinh tế quốc tế trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, sự hợp tác giữa các
thành viên trong APEC mang tính chất tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện thể
hiện trên hai điểm:
APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế, một cơ chế liên chính phủ nhằm
xúc tiến sự hợp tác, tăng trưởng và phát triển của khu vực. Ngay từ Hội
nghị đầu tiên, các Bộ trưởng APEC đã nhất trí coi APEC như một Diễn
đàn tham khảo ý kiến về các vấn đề kinh tế nhằm tăng cường trao đổi
quan điểm giữa các nước châu Á-Thái Bình Dương.
Thứ hai, do APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế nên nó không đưa ra
những quyết định, nguyên tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành
viên. Mọi hoạt động hợp tác đề dựa trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi
ích của các bên. Điều này phản ánh tính đặc thù của quá trình hội nhập
36
kinh tế trong khu vực.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Con đường phát triển của APEC như vậy phù hợp với đặc điểm đa dạng về
chế độ chính trị-xã hội của khu vực vì nó cho phép trong khi khai thác được
những lợi ích từ sự hợp tác kinh tế, các thành viên vẫn giữ được chủ quyền
kinh tế, bảo đảm không có sự can thiệp từ bên ngoài vào chế độ chính trị-xã
hội của các thành viên.
APEC là diễn đàn mở, hoạt động phù hợp với các nguyên tắc của
GATT/WTO
APEC là một diễn đàn “mở” theo nghĩa APEC ủng hộ chế độ thương mại đa
phương, không tạo ra sự phân biệt đối xử giữa APEC với các nước và nhóm
nước khác trên thế giới, đồng thời APEC mở cửa cho các nền kinh tế không
phải là thành viên APEC trong khu vực tham gia.
Ủng hộ chế độ thương mại đa phương mở không chỉ là một nguyên tắc mà
còn là một trong những mục tiêu của APEC. Ngay từ giai đoạn đầu của
APEC, khi vòng đàm phán Uruguay của GATT bị mất động lực rơi vào bế
tắc, APEC đã đặt việc phấn đấu để kết thúc thành công vòng đàm phán này
thành một trong những mục tiêu chủ yếu của mình. Các thành viên châu Á
của APEC cùng chung mối ngại về xu hướng xuất khẩu của họ. Vì thế, sự
cam kết về một chế độ thương mại đa phương mở-thể hiện trong thuật ngữ
“chủ nghĩa khu vực mở” là một trong những nhân tố quan trọng gắn kết các
thành viên APEC với nhau. APEC đi đầu trong những nỗ lực nhằm tăng
cường hệ thống thương mại đa phương mở.
CHƯƠNG II
37
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
ASEM VÀ VAI TRÒ CỦA TIẾN TRÌNH ASEM TRONG
VIỆC THÚC ĐẨY MỐI QUAN HỆ Á-ÂU
I. ASEM
1. Hoàn cảnh ra đời
Tại Hội nghị kinh tế cấp cao châu Âu-Đông Á lần thứ ba tại Singapore tháng 10
năm 1994, Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong đã đưa ra sáng kiến tổ chức
một Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu nhằm tăng cường sự hiểu biết và thúc đẩy hợp
tác giữa hai châu lục. Sáng kiến này cũng chinh thức được đặt ra với Thủ tướng
Pháp trong chuyến thăm Pháp cuối năm 1994 của Thủ tướng Gok Chok Tong và
ngay lập tức được nhiều nước Á-Âu hưởng ứng. Tháng 3 năm 1996, Hội nghị
các nguyên thủ quốc gia về Hợp tác Á-Âu lần đầu tiên được tổ chức tại
Bangkok, Thái Lan với sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia 15 nước thuộc
Liên minh châu Âu, 10 nước châu á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,
Inđônêxia, Thái Lan, Malaysia, Brunêi, Singapore, Philippines và Việt Nam).
Sau Hội nghị thượng đỉnh này, Hợp tác Á-Âu chính thức ra đời và lấy tên của
Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên (ASEM) làm tên cho chương trình hợp tác này.
Thực chất, hiện nay ASEM là một diễn đàn hợp tác, cơ chế phối hợp thông qua
các nước điều phối viên và chưa có Ban thư ký điều hành. Các nước vẫn tiếp tục
nghiên cứu thảo luận hướng phát triển của ASEM trong thời gian tới và có nhiều
khả năng ASEM sẽ được nâng lên thành một tổ chức kinh tế thương mại để giải
quyết các vấn đề về về tự do hoá thương mại, đầu tư giữa châu Á và châu Âu.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, Hợp
tác Á-Âu có ý nghĩa hết sức to lớn. Các nước châu Âu thành viên ASEM đã trở
thành một trung tâm kinh tế quan trọng với việc hình thành Liên minh tiền tệ
châu Âu (EMU) và việc sử dụng đồng tiền chung EURO vào tháng 1 năm 1999.
38
Liên minh châu Âu cũng đang đẩy nhanh quá trình nhât thể hoá cả về chiều rộng
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
và chiều sâu. Song song với EU, vai trò của châu Á ngày càng được củng cố
trong hệ thống kinh tế và chính trị thế giới với tiềm năng to lớn về cơ hội thương
mại và đầu tư. Sự liên kết giữa hai khối kinh tế này thông qua ASEM sẽ tạo nên
một động lực mới thức đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai châu lục phát
triển, tạo nên một sức mạnh tổng hợp của ba khối kinh tế lín là EU-Nhật Bản-
Các nước châu Á đang phát triển. Ngoài ra trong bối cảnh Mỹ và các nước Bắc
Mỹ đang xây dựng và phát triển mạnh mẽ mối quan hệ kinh tế với các nước
châu Á trong khuôn khổ APEC, châu Âu đã có liên hệ chặt chẽ với Bắc Mỹ qua
quá trình lịch sử và mạng lưới dày đặc của những thể chế xuyên Đại Tây
Dương, ASEM còn có một ý nghĩa mang tính chất chiến lược, đó là cầu nối thắt
chặt hơn châu Âu với châu Á, tạo đối trọng quan hệ giữa các trung tâm kinh tế
lớn là EU-Mỹ-Nhật Bản và các nước châu á đang phát triển.
2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, cấu trúc và tiến trỡnh ASEM
2.1. Mục tiêu
Mục tiêu chủ đạo của Hợp tác Á-Âu hiện nay (được thông qua tại Hội nghị
ASEM I) là Hợp tác để đạt sự tăng trưởng hơn nữa ở cả châu á và châu Âu. Mục
tiêu này đã được cụ thể hoá ở Khuôn khổ hợp tác Á-Âu (AECF) thành các mục
tiêu cơ bản sau:
Thúc đẩy đối thoại chính trị để tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau và
thống nhất quan điểm cuả hai châu lục đối với các vấn đề chính trị và xã hội
của thế giới.
Xây dựng quan hệ đối tác một cách toàn diện và sâu rộng giữa hai châu lục
39
Á, Âu để thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, môi trường, phát
triển nguồn nhân lực… để tạo sự tăng trưởng bền vững ở cả châu Á và châu
Âu.
Các mục tiêu trên đã và đang được thực hiện thông qua một loạt các chương
trình hành động của ASEM như Chương trình thuận lợi hoá thương mại (TFAP),
Chương trình xúc tiến đầu tư (IPAP), Trung tâm công nghệ môi trường Á-Âu,
Quỹ Hợp tác Á-Âu (ASEF), Quỹ tín thác…
Về mặt kinh tế, ASEM đặt ra mục tiêu cụ thể là:
Thúc đẩy giao lưu giữa các doanh nghiệp
Cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy môi trường thương mại đầu
tư
Tạo sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững
Như vậy, trong lĩnh vực kinh tế, tuy ASEM chưa đề ra các mục tiêu về giảm
thuế và các nghĩa vụ mang tính chất bắt buộc như các tổ chức ASEAN, WTO
song ba mục tiêu cụ thể nêu trên đã tạo nền tảng cho việc phát triển quan hệ hợp
tác kinhtế chặt chẽ giữa hai châu lục, góp phần thuận lợi cho giao lưu thương
mại đầu tư và đóng vai trò như một chất xúc tác thúc đẩy thương mại kinh tế
khu vực.
2.2. Nguyên tắc hoạt động
Cũng như tất cả các diễn đàn hoặc tổ chức khu vực, ASEM hoạt dộng vơi những
nguyên tắc riêng của mình. Nguyên tắc cơ bản nhất của ASEM là tính chất tự
nguyện, không ràng buộc và quan hệ bình đẳng giữa các thành viên. Nguyên tắc
này tương đối phổ biến ở các diễn đàn đối thoại khu vực. Đi sâu vào các lĩnh
vực hợp tác, nguyên tắc này được cụ thể hoá hơn nhằm điều chỉnh một cách sát
40
sao quá trình Hợp tác Á-Âu
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Căn cứ vào văn kiện khung của ASEM là AECF, nguyên tắc hoạt động của
ASEM được quy định như sau:
Quan hệ giữa các thành viên trên cơ sở đối tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau
và đôi bên cùng có lợi
ASEM sẽ là một tiến trình mở và liên tục phát triển, việc mở rộng số thành
viên phải được sự đồng thuận của các nguyên thủ quốc gia
Tăng cường thông tin và hiểu biết lẫn nhau thông qua đối thoại, định ra các
lĩnh vực ưu tiên phối hợp hành động
Triển khai hoạt động hợp tác đồng đều ở cả ba lĩnh vực: tăng cường đối
thoại chính trị, củng cố hợp tác kinh tế và xúc tiến hợp tác trong các lĩnh
vực khác.
ASEM sẽ được duy trì như một tiến trình tự nguyện, không thể chế hoá,
hoạt động của ASEM sẽ nhằm hỗ trợ và tạo thuận lợi cho các hoạt động ở
các diễn đàn quốc tế khác.
Xúc tiến đối thoại và hợp tác giữa các doanh nghiệp và cư dân giữa hai khu
vực; khuyến khích hợp tác giữa các học giả, các nhà nghiên cứu giữa hai
khu vực.
2.3. Cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM
Bản chất của ASEM là một diễn đàn đối thoại, hoạt động hỗ trợ cho các tổ chức
hoặc diễn đàn đa phương khác (như xúc tiến đối thoại giữa các thành viên
ASEM về các vấn đề của Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại thế giới, các vấn
đề nổi cộm của kinh tế thương mại toàn cầu và khu vực…nhằm đạt được sự
đồng thuận và quan điểm chung của các thành viên ASEM trong các diễn đàn đa
phương nêu trên). Ngoài ra, hoạt động của ASEM cũng có đặc trưng là hoạt
động đối thoại cấp cao, theo đó mọi vấn đề cơ bản của ASEM cũng sẽ được thảo 41
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
luận và thông qua tại Hội nghị cấp cao (Hội nghị thượng đỉnh). Các hội nghị cấp
thấp hơn sẽ thực hiện hoặc điều phối thực hiện các quyết định mà các nguyên
thủ quốc gia đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh.
Với đặc điểm nêu trên, hoạt động của ASEM hiện nay chưa được thể chế hoá.
Các hoạt động hợp tác được tổ chức thông qua hai nước điều phối viên châu Á
và hai nước điều phôi viên châu Âu với nhiệm kỳ 2 năm. Các nước điều phối
viên nhóm họp khi cần thiết thông qua các nhóm công tác chuyên về từng lĩnh
vực chính trị hoặc kinh tế. Cơ quan điều phối ASEM tại mỗi nước là Bộ Ngoại
Giao. Có thể khi hoạt động đi vào chiều sâu, ASEM sẽ được cơ cấu lại với các
ban và nhóm công tác hoàn chỉnh.
Về cấu trúc và tiến trình, Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu được họp 2 năm một lần.
ASEM 1 lần đầu tiên được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan tháng 3 năm 1996.
Các Hội nghị thượng đỉnh tiếp theo là: ASEM 2 (London, 1998), ASEM 3
(Seoul, 2000) và gần đây nhất là ASEM 4 (Copenhagen, 2002). Có thể thấy 3
vấn đề cơ bản tạo nên cấu trúc của ASEM chính là kinh tế, chính trị và văn hoá-
xã hội. Trong đó, kinh tế vẫn là mảng lớn nhất và rất được chú trọng.
Các Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề Ngoại giao, Kinh tế, Tài chính và Môi
trường cũng được diễn ra trong thời gian 12-18 tháng. Bên cạnh đó là các hoạt
động và chương trình đi kèm cũng đồng thời được diễn ra. Những chương trình
đó bao gồm: Diễn đàn Kinh doanh Á-Âu (Asia-Europe Busines Forum-AEBF),
Kế hoạch Hành động thúc đẩy Thương mại (Trade Facilitation Action Plan-
TFAP), Kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (Investment Promotion Action
Plan-IPAP), Quỹ tín thác ASEM (ASEM Trust Fund), Quỹ tín thác ASEM cho
các nhà lãnh đạo trẻ Á-Âu (Asia-Europe Young Leaders ASEM Trust Fund),
Hội nghị chuyên đề của các nhà lãnh đạo trẻ Á-Âu (Asia-Europe Young Leaders
Symposium), Sức khoẻ trẻ em ASEM (ASEM Children Welfare), Liên kết
42
ASEM (ASEM Connect)…
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Như thế, cụ thể hoá, hiện tại các kênh Hội nghị chính của ASEM bao gồm:
Hội nghị Thượng đỉnh ASEM (ASEM)
Hội nghị cấp Bộ trưởng
Hội nghị quan chức cấp cao ngoại giao (GOM)
Hội nghị quan chức cấp cao thương mại và đầu tư (SOMTI)
Hội nghị Thứ trưởng Tài chính
Hội nghị Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ
Diễn đàn doanh nghiệp Á-Âu
Ngoài các kênh hội nghị chính nêu trên, ASEM còn có các nhóm công tác ở cấp
chuyên viên để giải quyết những vấn đề kỹ thuật cụ thể của các chương trình của
ASEM. Hiện nay, ASEM có các nhóm công tác sau:
Các nhóm công tác hoạt động theo khuôn khổ của TFAP như Nhóm về tiêu
chuẩn chất lượng, thủ tục hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (Intellectual
Property Rights-IPR), SPS, mua sắm của chính phủ…
Nhóm chuyên gia về đầu tư (Investment Expert Group-IEG) hoạt động
trong khuôn khổ IPAP
Một số các cuộc họp trong lĩnh vực văn hoá, xã hội như các diễn đàn về các
nhà lãnh đạo trẻ, bảo tồn di sản văn hoá, phúc lợi trẻ em…
Các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức trong khuôn khổ hợp tác Á-Âu
Dưới đây là một số nét chính về các hội nghị trên:
43
Hội nghị Thượng đỉnh ASEM
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Hội nghị Thượng đỉnh ASEM được tổ chức hai năm một lần để bàn về các vấn
đề chiến lược của ASEM và phê chuẩn các chương trình hợp tác.
Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 1: được tổ chức từ ngày 1/3/1996 đến ngày
2/3/2996 tại Bangkok, Thái Lan. Hội nghị đã chính thức thành lập diễn đàn
ASEM và bước đầu định ra phương hướng, đường lối và một số nguyên tắc
cơ bản điều tiết hoạt động của diễn đàn này.
Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 2: được tổ chức từ ngày 3/4/1998 đến ngày
4/4/1998 tại Luân Đôn, Anh trong bối cảnh nền kinh tế châu Á đang bị
khủng hoảng nghiêm trọng. Ngoài các chủ đề thảo luận sâu rộng về chính
trị, tài chính, Hội nghị đã đặt ra cơ sở cho quan hệ đối tác lâu dài giữa hai
châu lục đi vào thế kỉ XXI với việc thông qua 6 văn kiện quan trọng:
“Khuôn khổ hợp tác Á-Âu là cơ chế khung để điều phối và định huớng các
hoạt động ASEM. Khuôn khổ này bao gồm các mục tiêu, nguyên tắc hoạt
động và các lĩnh vực ưu tiên cảu Hợp tác Á-Âu”. Trong khuôn khổ này, các
nội dung ưu tiên của ASEM được đề ra trên ba lĩnh vực chính trị, kinh tế-tài
chính và văn hoá-xã hội là:
Đối thoại chính trị: tập trung vào các vấn đề như cải tổ Liên hợp quốc,
các vấn đề an ninh thế giới và khu vực, quy tắc ứng xử chung, giải trừ
quân bị
Hợp tác kinh tế và tài chính: tập trung vào các vấn đề như cải thiện môi
trường kinh doanh, đóng góp của ASEM vào việc thực hiện WTO, triển
khai TFAP, IPAP, chống rửa tiền, đối thoại tài chính…
Hợp tác văn hoá xã hội: tập trung vào các lĩnh vực như liên kết trao đổi
44
sinh viên, học sinh, giao lưu văn hoá, hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Hiện nay, ASEM đang hoàn chỉnh bản khuôn khổ này thành: “Khuôn khổ
hợp tác Á-Âu toàn diện” để sử dụng như một công cụ chính thức nhằm điều
phối có hiệu quả các chương trình của ASEM
“Chương trình hành động thuận lợi hoá thương mại” (TFAP)
“Chương trình hành động xúc tiến đầu tư” (IPAP)
Thành lập “Nhóm chuyên gia về đầu tư (IEG)
Thành lập “Nhóm viễn cảnh á-Âu”
Thành lập “Trung tâm công nghệ môi trường á-Âu” tại Thái Lan
Hội nghị cũng thông qua Chương trình công tác ASEM 1998-2000 và một
số sáng kiến hợp tác mới do các nước đưa ra.
Hội nghị ASEM 3:
Hội nghị ASEM 3 thảo luận về tiến trình ASEM trên các lĩnh vực chủ yếu:
Trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề an ninh khu vực và thế giới
Tăng cường hợp tác theo hướng khu vực hóa trên các lĩnh vực thương
mại, kinh tế và bao gồm cả các diễn đàn về vấn đề chính sách xã hội.
Thỏa thuận tăng cường trao đổi giáo dục giữa hai khu vực
Hội nghị ASEM 4
Hội nghị ASEM 4 được tổ chức tại Copenhagen từ ngày 18-19/9/2002. Hội
nghị thông qua các vấn đề về:
Tăng cường hợp tác kinh tế giữa châu Á và châu Âu
WTO
45
Triển vọng kinh tế qua ASEM
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Phát triển kinh tế toàn cầu
Các Hội nghị cấp Bộ trưởng
Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao (FMM) : chịu trách nhiệm xủ lý, theo
dõi các vấn đề về chính trị, xã hội, điều phối công tác chuẩn bị cho Hội nghị
thượng đỉnh ASEM thông qua các Hội nghị quan chức cấp cao (GOM).
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ nhất (FMM1) được tổ chức vào
tháng 2 năm 1997 tại Singapore để thông qua một số vấn đề về hợp tác an
ninh, chính trị và văn hoá của ASEM, chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh
ASEM2.
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ hai (FMM2) được tổ chức vào tháng
3 năm 1999 tại Berlin, Cộng hoà Liên bang Đức thảo luận các vấn đề xoay
quanh cuộc khủng hoảng và thông qua “Chương trình hành động ASEM
đến năm 2000”
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế (EMM) là diễn đàn để thực hiện theo dõi việc
thực hiện hoạt động hợp tác kinh tế á-Âu xem xét và có thể thông qua
những đề xuất hợp tác mới, trực tiếp báo cáo các vấn đề kinh tế lên Hội
nghị Thượng đỉnh ASEM.
Hội nghị Bộ trưởng ASEM lần thứ nhất (EMM1) được tổ chức vào tháng 9
năm 1997 tại Makuhari, Nhật Bản. Hội nghị thông qua 3 văn kiện cơ bản
hợp tác kinh tế ASEM để trình lên Hội nghị cấp cao ASEM 2 là Khuôn khổ
hợp tác á-Âu (AECF).
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM lần thứ hai (EMM2) được tổ chức tại
Berlin, Cộng hoà liên bang Đức vào tháng 10 năm 1999. Nét nổi bật của
Hội nghị này là tập trung vào của ASEM đối với các vấn đề của Hội nghị
46
Bộ trưởng WTO tại Seattle, Mỹ. ASEM đã thảo luận sâu và cố gắng thống
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
nhất quan điểm chung đối với các vấn đề của chương trình nghị sự WTO
như vấn đề trợ cấp nông nghiệp, thương mại và môi trường, thương mại
điện tử, tiêu chuẩn lao động…Điều này lại một lần nữa thể hiện đặc trưng
của diễn đàn ASEM là đối thoại để hỗ trợ, bổ sung cho các diễn đàn đa
phương khác. Thông qua EMM lần này, các nước thành viên phát triển và
đang phát triển của ASEM đã có một cái nhìn xích lại gần nhau hơn, tạo
điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề của WTO được tiến triển nhanh
chóng, thuận lợi hơn.
Ngoài ra một nét định hướng quan trọng của EMM2 là định hướng lại các
hoạt động kinh tế của ASEM theo đúng các mục tiêu chỉ đạo của các
nguyên thủ quốc gia, trong đó có định hướng quan trọng đối với việc thực
hiện TFAP là ưu tiên xác định và giải toả những hàng rào phi thuế trong
thương mại và đầu tư giữa hai khu vực. Hiện nay ASEM đã cơ bản xác định
một cách toàn diện cho các rào cản dưới dạng các quy định về tiêu chuẩn
chất lượng, kiểm dịch động thực vật, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, thủ tục hải quan, kinh tiêu sản phẩm trên thị trường nội địa5 . Các nhóm công tác của
ASEM sẽ tiếp tục bàn thảo các kế hoạch hành động nhằm từng bước giải
toả các rào cản nêu trên.
Hội nghị Bộ trưởng Tài chính: thảo luận các vấn đề về tài chính trong khu
vực, xây dựng các chương trình hợp tác về quản lý tài chính, chống rửa tiền.
Hội nghị Bộ trưởng Tài chính lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 9 năm
1997 tại Bangkok, Thái Lan. Nội dung thảo luận chủ yếu tập trung vào các
vấn đề khủng hoảng tài chính ở châu Á, vai trò tài trợ của IMF, WB, EU
chủ yếu dưới hình thức để củng cố hệ thống tiền tệ thế giới, chống nạn rửa
5 Xem phụ lục 1
47
tiền.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Hội nghị Bộ trưởng lần thứ hai được tổ chức vào tháng 1 năm 1999 tại
Frankfurt, Main, Cộng hoà Liên bang Đức, Hội nghị đã đánh giá tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và việc lưu hành đồng Euro.
Hội nghị Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường (S&TMM): thảo
luận và thông qua các chương trình hợp tác trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ. Hội nghị Khoa học và Công nghệ lần thứ nhất tổ chức tại Bắc Kinh
vào tháng 10 năm 1999 thông qua 11 dự án hợp tác khoa học tập trung vào
bốn lĩnh vực: nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực, nông nghiệp, môi
trường, và nâng cao năng lực cạnh khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp6.
Các Hội nghị quan chức cấp cao
Hội nghị quan chức cấp cao ngoại giao (SOM): nhiệm vụ chính cơ bản của
SOM là bàn luận các vấn đề về đối thoại chính trị, hợp tác văn hoá, xã hội
của ASEM, xây dựng các chương trình hành động trong các lĩnh vực trên để
báo các các Bộ trưởng ngoại giao.
Hội trưởng các quan chức cấp cao thương mại và đầu tư (SOMTI) là nơi
tiếp nhận, xử lý các vấn đề hợp tác kinh tế khác, trên cơ sở đó tổng hợp và
có báo cáo, khuyến nghị lên EMM.
Hội nghị các Tổng cục trưởng hải quan: họp hai năm một lần và bào cáo kết
quả lên SOMTI. Hội nghị này chủ yếu đi sâu về các vấn đề hợp tác hải
quan, đơn giản hoá, hài hoà các thủ tục hải quan và chống buôn lậu, chống
nạn rửa tiền và buôn bán ma tuý.
6 Xem phụ lục 2
48
Hội nghị cấp chuyên viên
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Hội nghị cấp cao ASEM 2 đã nhất trí thành lập Nhóm chuyên gia về đầu tư
(IEG) với chức năng hoạt động như một nhóm công tác nhằm điều phối và
triển khai các hoạt động trong khuôn khổ IADP. Nhiệm kỳ của IEG ban đầu
là hai năm. Tuy nhiên, do hoạt động điều phối có hiệu quả của IEG, Hội
nghị Bộ trưởng kinh tế lần thứ hai họp tại Berlin, Cộng hoà Liên bang Đức
tháng 10 năm 1999 đã quyết định gia hạn thời hạn hoạt động của IEG thêm
hai năm nữa.
Các hoạt động chủ yếu khác
Một số cơ quan hoặc chương trình hoạt động đã được thiết lập theo quyết định
của các nguyên thủ quốc gia nhằm tăng cường hiểu biết, hợp tác và giao lưu
giữa doanh nhân hai khu vực
Quỹ Á-Âu (ASEF): là một quỹ tài trợ phi lợi nhuận đặt tại Singapore nhằm
xúc tiến giao lưu Á-Âu trong các lĩnh vực văn hoá-xã hội. Được thiết lập
năm 1997 từ các nguồn tự nguyện của các nước thành viên ASEM, ASEF
đã tổ chức được một số lượng đáng kể các hội thảo và hội nghị chuyên đề
trong các lĩnh vực này.
Trung tâm Công nghệ-Môi trường Á-Âu (AEETC) được thành lập năm
1999, đặt tại Bangkok, Thái Lan với nhiệm vụ xúc tiến hợp tác Á-Âu trong
một số vấn đề thiết yếu về môi trường. Ngân sách hoạt động của Trung tâm
khoảng 6 triệu USD do các nước thành viên đóng góp.
Quỹ tín thác ASEM (ATF) do WB quản lý nhằm cung cấp tài chính cho các
chương trình trợ giúp kĩ thuật và đào tạo về các lĩnh vực xã hội và tài chính
cho các nước châu Á bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Được thành lập năm 1998 và hoạt động trong 2 năm, Quỹ đã thu hút được
42 triệu EURO vốn đóng góp từ các thành viên. Hiện Việt Nam được tài trợ
49
ba chương trình từ nguồn vốn của Quỹ là “Cải cách và phát triển hệ thống
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
ngân hàng”, “Tạo việc làm và chương trình mạng lưới an toàn xã hội”,
“Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và thương mại hoá các doanh nghiệp quốc
doanh trong ngành vận tải”.
Diễn đàn doanh nghiệp ASEM (AEBF) được tổ chức định kỳ hàng năm để
tập hợp các doanh nghiệp có tầm cỡ trong các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng,
du lịch, xúc tiến thương mại và đầu tư. Mục đích của Diễn đàn là bàn về các
phương hướng xây dựng chiến lược doanh nghiệp trong các lĩnh vực trên và
tổng hợp ý kiến đề xuất lên Hội nghị thượng đỉnh của ASEM. Từ ngày
thành lập, ASEM đã tổ chức bốn diễn đàn doanh nghiệp. Lần thứ nhất vào
tháng 12 năm 1996 tại Pari-Pháp, lần thứ hai vào tháng 11 năm 1997 tại
Bangkok, Thái Lan, lần thứ ba vào tháng 4 năm 1998 tại London, lần thứ tư
vào tháng 9 năm 1999 tại Seoul, Hàn Quốc, và lần thứ 5 vào tháng 9 năm
2000 tại Vienne, áo.
3. Những cơ hội và thách thức của tiến trình ASEM trong thời gian tới
3.1. Những cơ hội
Trong xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế chính trong
quan hệ quốc tế, các thành viên ASEM càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của
tiến trình hợp tác Á-Âu trong nỗ lực chung nhằm củng cố xu thế đó.
Trong mỗi khu vực đang diễn ra nhiều chương trình liên kết kinh tế mạnh
mẽ hơn cả về chiều rộng và chiều sâu. Không gian kinh tế đang mở rộng
này tạo ra những cơ hội mới để khai thác tối đa tiểm năng và cơ hội để xây
dựng quan hệ đối tác kinh tế chặt chẽ hơn giữa hai châu lục.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh trên các lĩnh
vực đột phá về lượng tử, tin học… cùng với kinh tế tri thức trở thành lực
50
lượng sản xuất mở ra những cơ hội hợp tác mới rộng lớn hơn trong ASEM,
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
nhằm phát huy những thế mạnh và khả năng bổ xung giữa các nền kinh tế
Á-Âu.
3.2. Những thách thức
Kể từ Cấp cao ASEM 4 đến nay, tình hình quốc tế và khu vực đã có nhiều
chuyển biến nhanh chóng và khó lường, đặt ra những thách thức mới đối với
ASEM. Có thể thấy, những thách thức lớn đó là:
Sự kiện 11/9, đặc biệt là cuộc chiến tranh Iraq đã tạo ra sự thay đổi sâu sắc
trong quan hệ quốc tế tác động tới sự phát triển của tất cả các quốc gia,
quan hệ giữa các nước cũng như các tổ chức quốc tế và khu vực, trong đó
có ASEM
Kinh tế châu Á tuy phục hồi nhưng chưa vững chắc, kinh tế châu Âu tiếp
tực phát triển chậm
Tác động tích cực của toàn cầu hoá và tự do hoá, chủ nghĩa bảo hộ mậu
dịch gia tăng
Khoảng cách phát triển và kỹ thuật số giữa các quốc gia tăng.
Khuynh hướng hướng nội của EU có thể gia tăng đặc biệt là sau khi EU kết
nạp thêm 10 thành viên mới.
II. Tiến trình ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu
1. Vai trò của ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu
ASEM là diễn đàn ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ
hợp tác Á-Âu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá thông qua sự hiểu biết
lẫn nhau giữa hai khu vực. Vai trò của ASEM có thể thấy rõ thông qua các mục
51
tiêu cụ thể được đề ra tại các Hội nghị thượng đỉnh cấp Bộ trưởng được tổ chức
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
2 năm một lần cũng như hàng loạt các cuộc họp cũng như hoạt động trong
khuôn khổ ASEM ở mức thấp hơn.
Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu 1 diễn ra tại Bangkok tháng 3 năm 1996 đã đề
xướng quan hệ hợp tác Á-Âu, tăng cường mối quan hệ giữa hai khu vực thông
qua các diễn đàn chính trị, kinh tế và kể cả trên các lĩnh vực khác như văn hoá,
xã hội …
ASEM2 được diễn ra tại London vào tháng 4 năm 1998, đẩy nhanh tiến trình
hoạt động của 2 năm trước, đồng thời đi sâu vào việc khắc phục hậu quả của
khủng hoảng tài chính ở châu á năm 1998.
ASEM 3 được tổ chức tại Seoul tháng 10 năm 2000, đã vạch ra hướng đi trong
tương lai của ASEM trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21.
ASEM 4 tổ chức tại Copenhagen từ 22-24/9/2002 với mục đích thảo luận, đưa ra
những phương hướng giải pháp nhằm làm thuận lợi hoá chuẩn bị cho Hội nghị
thượng đỉnh về dịch vụ với bài viết về: “ Sức mạnh của hợp nhất trong đa dạng”.
Ngoài các cuộc họp thượng đỉnh, vai trò của tiến trình ASEM còn được thể hiện
trong hàng loạt các cuộc họp cấp Bộ trưởng và cấp thấp hơn cũng như hàng loạt
các hoạt động đi kèm. Chẳng hạn như các cuộc họp của Bộ trưởng Bộ ngoại
giao, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Kinh tế, Bộ trưởng Môi trường giữa
các nước Á-Âu được tổ chức 2 năm một lần.
Như vậy, có thể thấy vai trò của ASEM ngày càng quan trọng đối với sự phát
triển và thịnh vượng chung của hai khu vực Á-Âu. Điều này có thể thấy rõ trong
những vấn đề và mục tiêu thuộc ASEM:
Về lĩnh vực chính trị: ASEM đưa ra và giải quyết những vấn đề về chống
khủng bố, việc kiểm soát luồng người di cư, nhân quyền, bảo vệ trẻ em và
52
ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Về lĩnh vực kinh tế và tài chính, ASEM giải quyết những vấn đề giảm hàng
rào thuế quan đối với thương mại và đầu tư, đưa ra các chính sách cải cách
về mặt tài chính-xã hội cũng như tăng cường củng cố thêm những vấn đề
thuộc WTO.
Về lĩnh vực văn hoá và quyền sở hữu trí tuệ, ASEM nhấn mạnh vào việc
tăng cường trao đổi và liên lạc mật thiết hơn nữa giữa hai khu vực đồng thời
không ngừng củng cố những di sản và di tích văn hoá của mỗi nước thuộc
ASEM nói riêng và của mỗi khu vực Á-Âu nói chung.
2. Hợp tác kinh tế ASEM
2.1. Mục tiêu và nguyên tắc hợp tác
2.1.1. Mục tiêu
Đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai khu vực và quan hệ giữa các
doanh nghiệp với các chính phủ trong quá trình xây dựng và triển khai các
chương trình hợp tác ASEM
Cải thiện môi trường kinh doanh cho 2 khu vực
Tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên, đẩy mạnh
quan hệ đối tác giữa các doanh nghiệp của hai khu vực, tạo ra sự tăng
trưởng kinh tế ổn định và bền vững thông qua các chương trình hợp tác
công nghiệp, năng lượng và môi trường
2.1.2. Nguyên tắc
Các nước thành viên phải thực hiện cải cách kinh tế và thực hiện nền kinh tế
thị trường
53
Các nền tảng kinh tế được dựa trên các nguyên tắc của WTO
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Tự do hoá thương mại dựa trên cơ sở không phân biệt đối xử, hợp tác trên
cơ sở bình đẳng, có lưu ý đến sự đa dạng về kinh tế trong nội bộ và giữa
châu Á-châu Âu
Thực hiện minh bạch hoá các luật lệ và chính sách hiện hành
Tăng cường sự phối hợp giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế
tư nhân, tạo cơ chế hỗ trợ về tài chính, tiếp cận thị trường , nghiên cứu khoa
học dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là
những nhân tố quan trọng trong sự phát triển năng động của các nền kinh tế.
2.2. Lĩnh vực hợp tỏc
Hiện nay hợp tác kinh tế ASEM đặt ra mục tiêu hàng đầu là tăng cường thương
mại và đầu tư giữa hai khu vực. Một số chương trình cụ thể đã được thông qua
nhằm thúc đẩy giao lưu và hợp tác giữa các doanh nghiệp.
2.2.1. Thuận lợi hoá thương mại
Khuôn khổ chung cho TFAP đã được nguyên thủ các nước thông qua tại ASEM
II. Đây là chương trình trụ cột của hợp tác kinh tế ASEM. Mục tiêu chính của
TFAP là tạo thuận lợi cho việc trao đổi thương mại hàng hoá, dịch vụ giữa hai
khu vực. Để thực hiện mục tiêu này, TFAP được xây dựng như một khuôn khổ
chung để các nước thực hiện minh bạch hoá chính sách quản lý thương mại và
hài hoà, đơn giản háo các thủ tục hành chính liên quan đến thương mại.Ngoài 7
lĩnh vực ưu tiên hành động: tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp, kiểm dịch động
thực vật, thủ tục hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, phân phối
lưu thông và đi lại của doanh nhân. TFAP hiện nay đang tập trung xác định các
rào cản trong thương mại giữa các nước thành viên ASEM để từ đó có cơ chế
54
đối thoại/ hành động nhằm giải toả dần những rào cản này.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Nguyên tắc của TFAP là không phân biệt đối xử, các kết quả của TFAP sẽ được
áp dụng đối với các nước thành viên và cả những nước không phải là thành viên
(tuy nhiên trên thực tế hầu như các nước không phải là thành viên không tiếp
cận được với những thành quả của tiến trình ASEM). Đồng thời, hoạt động của
TFAP phải phù hợp, hỗ trợ và thúc đẩy những hoạt động thuận lợi hoá song
phương và đa phương khác đã và đang được tiến hành, trong đó ưu tiên tập
trung vào các những lĩnh vực chưa được giải quyết thoả đáng trong các diễn đàn
trên theo một cách tiếp cận riêng, hiệu quả nhất. TFAP đặc biệt khuyến khích sự
tham gia của giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, coi
đây là động lực chính của chương trình này.
Một số kết quả cụ thể trong việc triển khai TFAP hiện nay như sau:
Đơn giản hoá và minh bạch hoá các yêu cầu của kiểm dịch động, thực vật
(SPS)
Mục tiêu chính của lĩnh vực này là:
Thực hiện Hiệp định về kiểm dịch động, thực vật của WTO
Biên soạn các thông lệ tất nhất liên quan đến các chính sách và các biện
pháp hướng dẫn thực hiện các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực này.
Tăng cường tính minh bạch trong lĩnh vực cách ly và kiểm dịch động
thực vật trong đó có các thủ tục kiểm tra và xét duyệt, các yêu cầu về
cách ly và thời gian thông thường
Tổ chức các hội thảo về đơn giản hoá và hài hoà các thủ tục cách ly kiểm
dịch động thực vật .
Để triển khai các nội dung hợp tác trên, hội thảo lần thứ nhất và thứ hai về
Thủ tục kiểm dịch và Vệ sinh thực phẩm đã được tổ chức tại Chiêng Mai,
55
Thái Lan vào tháng 2 năm 1999 và tại Trung Quốc tháng 10 năm 1999. Hội
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
thảo đã nhất trí về tầm quan trọng của công tác vệ sinh kiểm dịch trong
buôn bán quốc tế các sản phẩm nông, lâm ngư nghiệp, đồng thời khuyến
khích thành lập kênh thông tin trên mạng Internet để trao đổi thông tin về
những vấn đề liên quan đến SPS. Hội thảo cũng đồng ý khuyến khích hoạt
động hợp tác kỹ thuật như đánh giá dịch hại đồng ruộng giữa các nước
thành viên ASEM để cải thiện cơ sở dữ liệu, đồng thời khuyến khích hợp
tác kỹ thuật khu vực và song phương để rút ra bài học bổ ích về hợp tác
giữa các nước thành viên ASEM.
Đơn giản hoá và hài hòa hoá các thủ tục hải quan
Mục tiêu chính của hợp tác hải quan trong ASEM:
Hài hoà danh bạ thuế theo tiêu chuẩn của WTO
Thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định định giá hải quan
Thực hiện hợp tác và trợ giúp lẫn nhau trong lĩnh vực hải quan
Tăng cường tính minh bạch thông qua việc tiếp cận đối với các cơ sở dữ
liệu của các nước thành viên ASEM như thuế hải quan, danh bạ thuế
quan, hạn ngạch thuế quan, các thủ tục xuất nhập khẩu, quy tắc xuất xứ,
luật hải quan.
Tổ chức các hội thảo ASEM cho các đại diện hải quan và giới doanh
nghiệp về các vấn đề như đánh giá rủi ro, trao đổi các thông tin điện tử,
thương mại phi giấy tờ.
Tăng cường tính dự đoán trước cho giới doanh nghiệp thông qua việc
thông báo các quy định và thủ tục hải quan hiện hành.
Nhằm triển khai các nội dung này, Hội thảo về thủ tục hải quan và cuộc họp
56
Nhóm công tác về thủ tục hải quan được tổ chức tại Manila, Philippine vảo
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
tháng 2 năm 1999. Chủ đề của hội thảo về thủ tục hải quan tập trung vào
việc làm rõ vai trò của hải quan đối với cộng đồng doanh nghiệp, đồng thời
cũng khẳng định là cần thiết phải hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan hải
quan và doanh nghiệp nhằm mục tiêu đơn giản hoá thủ tục hải quan, hài hoà
thủ tục hải quan giữa các nước thành viên ASEM, tạo thuận lọi tối đa cho
hoạt động của thương mại giữa hai khu vực.
Cuộc họp Nhóm công tác về thủ tục hải quan đã đi đến sự nhất trí rằng các
cơ quan hải quan ASEM phải cố gắng thông qua nguyên tắc của công ước
Tokyô sửa đổi ở cấp quốc gia về kỹ thuật thông tin và thương mại điện tử.
Trong xu thế thương mại điện tử, đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, Hải
quan các nước ASEM đang đựoc khuyến nghị giới thiệu hệ thống thông
quan điện tử ở cấp quốc gia phù hợp với môi trường riêng biệt của từng
quốc gia và trên cơ sở hệ thống Các quy tắc của Liên hợp quốc về trao đỏi
thông tin điện tử trong quản lý hành chính, thương mại và vận tải
(UN/EDIFACT).
Tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp
Mục tiêu chính của lĩnh vực hoạt động này là:
Tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về các hệ thống thử nghiệm, chứng
nhận hài hoà của các thành viên
Hài hoà các tiêu chuẩn quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế
Xác định các lĩnh vực hợp tác ưu tiên nhằm đạt được các hiệp định thừa
nhận lẫn nhau
Hợp tác trong việc tăng cường năng lực về xây dựng các tiêu chuẩn kỹ
thuật, việc thực hiện kiểm tra, chứng nhận, trao đổi thông tin và tăng
57
cường các chương trình hợp tác trong lĩnh vực này.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Cho đến nay, ASEM đã tổ chức được ba cuộc hội thảo về tiêu chuẩn và
đánh giá sự phù hợp. Các hội thảo đã tập trung thảo luận bốn chủ đề chính
là: các quy chế xây dựng văn bản pháp quy tốt, phù hợp với các tiêu chuẩn
quốc tế, các Hiệp định về thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) và hợp tác
kỹ thuật. Hội nghị nhấn mạnh sự cần thiết phải đạt được sự hiểu biết sâu sắc
hơn về các hệ thống tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp của mỗi thành viên.
Sau hai Hội nghị này, các thành viên đã thống nhất chọn 5 lĩnh vực ưu tiên
ban đầu để thực hiện hài hòa hoá với các yêu cầu về tương thích điện tử,
máy móc thiết bị, thiết bị viễn thông, bao gồm cả các yêu cầu về tương
thích điện từ, sản phẩm cao su, thiết bị y tế.
Quyền sở hữu trí tuệ
Mục tiêu chính trng lĩnh vực hoạt động này là:
Tăng cường đối thoại các vấn đề về quyến sở hữu trí tuệ nhằm tăng
cường việc áp dụng các quy định về sở hữu công nghiệp, đối với cả khu
vực công cộng lẫn khu vực kinh doanh
Tăng cường thực hiện đầy đủ Hiệp định TRIPS của WTO
Nhằm mục tiêu này, Hội thảo về quyền sở hữu trí tuệ đã được tổ chức tại
Pari, Pháp vào tháng 6 n#m 1999, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng
cường hợp tác trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ như hoạt động hành
chính gồm có hải quan, công an và toà án. Đại diện của giới tư nhân cũng
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyến sở hữu trí tuệ đối với các
chiến lược đầu tư ra nước ngoài của họ. Hội thảo cũng nhấn mạnh rằng cần
có sự hiểu biết lẫn nhau hơn nữa đối với luật và các quy định của các thành
viên ASEM về quyền sở hữu trí tuệ.
58
Mua sắm của chính phủ
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Mục tiêu chính trong lĩnh vực này là:
Trao đổi các thôn tin về các thủ tục mua săm của chính phủ các nước
thành viên và thông tin của về vấn đề này cho giới doanh nghiệp
Xác định các cơ sở dữ liệu về mua sắm chính phủ của các thành viên
ASEM
Tổ chức các hội thảo về mua sắm của chính phủ
Hội thảo lần thứ nhất về mua sắm của chính phủ được tổ chức tại Berlin,
Cộng hoà Liên bang Đức vào tháng 9 năm 1999. Hội thảo đã nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc đổi mới các hình thức công nghệ thông tin và
truyền thông để tăng cường tính minh bạch đối với các thị trường mua
sắm và để tăng cường tính hiệu quả của các công ty được nhận hợp đồng.
Hội thảo cũng thảo luận về các vấn đề liên quan đến việc tăng cường Hiệp
định về mua sắm của chính phủ của WTO và việc chuẩn bị cho Hiệp định
minh bạch hoá riêng biệt trong việc đạt được các hợp đồng mua sắm để
đảm bảo cạnh tranh không bị bóp méo và phân biệt đối xử. Tuy nhiên, các
nước thành viên là các nước phát triển và đang phát triển cũng bất đồng
quan điểm về việc: “các quy tắc minh bạch hoá” thế nào và quy mô của
hiệp định này đến đâu.
2.2.2. Chương trình hành động xúc tiến đầu tư (IPAP)
Mục tiêu của IPAP là xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi để gia tăng dòng
vốn đầu tư hai chiều giữa châu Á và châu Âu, xây dựng các chương trình nhằm
khuyếch trương đầu tư giữa các nước thành viên đồng thời tăng cường cải thiện
cơ chế, chính sách và quy định về đầu tư trong khu vực. IPAP cũng nhằm kết
nối các khu vực kinh tế tư nhân chặt chẽ hơn và giữa khu vực kinh tế tư nhân
59
với chính phủ các nước ASEM nhằm đem lại lợi ích cho hai bên.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
IPAP sẽ được thực hiện trên nguyên tắc đảm bảo đối thoại thường xuyên giữa
khu vực nhà nước và tư nhân, phát triển hợp tác ở tất cả các lĩnh vực có liên
quan đến đầu tư theo hướng kinh tế thị trường, không phân biệt đối xử và thực
hiện minh bạch hoá các chính sách thương mại và đầu tư theo đúng các nguyên
tắc của WTO.
IPAP gồm 2 nội dung chính là:
Xúc tiến đầu tư:
IPAP sẽ bao gồm các hoạt động sau:
Trao đổi thông tin và đáp ứng các nhu cầu thông tin của giới đầu tư
Tổ chức các Hội nghị bàn tròn các nhà hoạch định chính sách đầu tư và
đại diện các doanh nghiệp lớn của hai khu vực để thảo luận và tìm giải
pháp cho các vấn đề về đầu tư thúc đẩy cơ hội đầu tư cho doanh nghiệp
trong hai khu vực.
Chương trình trao đổi giữa các nhà lãnh đạo các doanh nghiệp của
ASEM nhằm tăng cường sự hiểu biết về nền văn hoá giữa các nước.
EMM2 tại Berlin, Cộng hoà Liên bang Đức vừa qua đã thông qua danh mục
không bắt buộc một số mặt hàng bắt buộc một số biện pháp được đánh giá là có hiệu quả7.
Các chính sách và quy định về đầu tư
Hoạt động chính trong phần này là tổ chức của cuộc đối thoại cấp cao để
bàn về các vấn đề then chốt liên quan đến khuôn khổ pháp lý và các chính
7 Xem phụ lục 3
60
sách điều chỉnh môi trường đầu tư.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Những hoạt động cụ thể triển khai trong IPAP có tính đến sự khác biệt về
quy chế đầu tư giữa các nước thành viên, trong đó việc đầu tư vào các dự án
phát triển cơ sở hạ tầng sẽ là vấn đề được ưu tiên.
Cho đến nay, các kết quả đã đạt được trong việc thực hiện IPAP là:
Phát động Hệ thống trao đổi thông tin trên mạng Internet (VIE) để trao
đổi thông tin và tăng cường tính minh bạch của các quy định về đầu tư.
Mục đích của mạng thông tin này là để trao đổi thông tin liên quan đến
đẩu tư của các thành viên ASEM (trong đó có các thông tin cập nhật về
khuôn khổ pháp lý, các chương trình khuyến khích và xúc tiến đầu tư, dữ
liệu và các dòng luân chuyển ra và vào của Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), tổng quan về các hiệp định đầu tư quốc tế mà nước đó là bên tham
gia, hướng dẫn thực tế cho các nhà đầu tư việc kết nối với các mạng liên
quan khác và các dữ liệu kinh tố vi mô và vĩ mô cơ bản).
Danh mục các biện pháp hiệu quả nhất để thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài
EMM2 đã thông qua danh mục các biện phát được đánh giá là có hiệu quả
nhất trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, do đây là các biện
pháp được tập hợp từ ý kiến của nhiều nước nên có những biện pháp phù
hợp với nước này lại không phù hợp với khác. Vì thế, EMM2 đã thống
nhất rằng danh mục này là “không ràng buộc”. Các thành viên ASEM tự
nguyện báo cáo hàng năm cho SOMTI những tiến triển đã làm được trong
việc thực hiện các biện pháp trong danh mục này cũng như các biện pháp
khác để cải thiện môi trường đầu tư.
61
2.2.3. Xúc tiến hợp tác tương hỗ giữa các doanh nghiệp:
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Trong khuôn khổ chương trình này, Diễn đàn doanh nghiệp Á-Âu là hoạt động
định kỳ được tổ chức hàng năm nhằm tăng cường cơ hội cho các doanh nghiệp
gặp gỡ và trao đổi ý kiến. Đồng thời đại diện của các doanh nghiệp cũng được
mời tham gia Hội nghị.
Bộ trưởng Kinh tế họp Hội nghị thượng đỉnh để tăng cường đối thoại kinh tế
giữa các doanh nghiệp và các chính phủ.
Từ ngày thành lập đến nay, ASEM đã tổ chức bốn kỳ Diễn đàn doanh nghiệp và
một Hội nghị doanh nghiệp. Diễn đàn doanh nghiệp đã và đang tập trung vào
các lĩnh vực bức xúc đối với cả hai khu vực, hỗ trợ doanh nghiệp vửa và nhỏ, du
lịch, xúc tiến thương mại, đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng, năng lượng, dịch vụ
tài chính, giao thông-vận tải, bưu chính -viễn thông và nguồn nước tiêu dùng.
Hiện nay, các đại diện doanh nghiệp đã thảo luận, thống kê các vấn đề trở ngại
trong việc kinh doanh và đầu tư vào các lĩnh vực trên và đưa ra các khuyến nghị
cụ thể đệ trình chính phủ các nước.
Diễn đàn doanh nghiệp là hoạt động rất thiết thực trong ASEM, không những
góp phần làm giải toả những rào cản thương mại và đầu tư trong lĩnh vực mà
còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp Á-Âu gặp gỡ, xúc tiến cơ hội kinh doanh
và đầu tư đối với các nước đang phát triển hoặc các nước mới tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế như Việt Nam, Diễn đàn doanh nghiệp còn có ý nghĩa giúp các
doanh nghiệp nắm bắt tốt hơn các thông tin thị trường và xu hướng phát triển
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Cũng nhằm mục tiêu hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp, ASEM đã nhất trí
thành lập mạng thông tin ASEM (ASEM Connect). Trước mắt, mạng này sẽ bao
gồm các trang thông tin của các nước ASEM về các vấn đề sau:
62
Danh bạ doanh nghiệp
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Danh sách các công ty tư vấn kinh doanh
Các thông tin về bộ máy và cơ chế quản lý của chính phủ
Chương trình các sự kiện nổi bật trong năm
Các thông tin kinh tế khác
2.2.4. Viễn cảnh ASEM
Theo quyết định của các nguyên thủ các nước ASEM tại Hội nghị thượng đỉnh
ASEM II diễn ra tại London, Anh tháng 4 năm 1998, Nhóm Viễn cảnh á-Âu đã
được thành lập với nhiệm vụ vạch ra các phương hướng chiến lược cho hợp tác
ASEM trong thế kỷ XXI. Đến nay, Nhóm Viễn cảnh ASEM đã hoàn thành xong
các kết quả nghiên cứu ban đầu, tổng hợp thành báo cáo và gửi đến tất cả các nước thành viên ASEM để lấy ý kiến đóng góp của các nước này8. Nhóm Viễn
cảnh này sẽ dựa trên ý kiến đóng góp đó để bổ sung và hoàn chỉnh báo cáo trước
khi chính thức trình lên Hội nghị Thượng đỉnh ASEM III tại Seoul, Hàn Quốc
năm 2000.
Báo cáo này tập trung vào bốn chủ đề lớn sau:
Tăng cường tham vấn và hợp tác trong việc mở cửa thương mại và xúc
tiến đầu tư (bao gồm cả các biện phát đa phương và các biện pháp khác
để tạo thuận lợi và khuyến khích thương mại và đầu tư hai chiều)
Tăng cường đối thoại với doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với
nhau
Hợp tác trong một số ngành công nghiệp ưu tiên
8 Xem phụ lục 4
63
Đối thoại về các vấn đề hợp tác kinh tế quan trọng
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Viễn cảnh này nhằm xây dựng một khu vực ASEM hoà bình và thịnh vượng.
Nhiều ý kiến đề xuất xây dựng ASEM thành một khối hợp nhất, trong đó các tri
thức, của cải di sản văn hoá, tư tưởng chính trị, tư tưởng trí tuệ, công nghệ
mới… sẽ được trao đổi một cách chặt chẽ và sâu sắc hơn, Viễn cảnh ASEM
cũng hướng tới mở cửa thị trường ASEM, biến ASEM thành một khu vực, nơi
mà hàng hoá, dịch vụ có thể được luân chuyển tự do vào năm 2005. Nhìn vào
viễn cảnh nay, có thể thấy ASEM đang tiến theo những bước đi của EU trước
đay, với mức độ hợp tác liên kết ngày càng sâu rộng hơn.
Hiện nay, Viễn cảnh ASEM đang tiếp tục được hoàn thiện, hài hoà các ý kiến
khác nhau của các nước.
2.2.5. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác:
Hợp tác tài chính
Để tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, ASEM đã nhấn mạnh sự cần
thiết phải tăng cường quan hệ hợp tác phối hợp chính sách và đối thoại trong
ASEM. Hội nghị các Bộ trưởng và Thứ trưởng Tài chính trong thời gian vừa
qua cũng đã tập trung phân tích những nguyên nhân, xu hướng diễn biến và các
giải pháp để khắc phục.
Để giúp đỡ các nước thành viên châu Á bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc
khủng hoảng tài chính, Hội nghị thượng đỉnh ASEM II tại London đã quyết định
thành lập Quỹ tín thác (ATF) tại WB. Quỹ này bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày
29 tháng 6 năm 1998 với tổng số vốn góp của 8 nước thành viên châu Âu là 47
triệu đôla. Các hoạt động trợ giúp tập trung vào hai lĩnh vực là tài chính và xã
hội.
ASEM cũng đã thành lập Mạng lưới chuyên gia tài chính châu Âu (EFEX). Đây
64
là sáng kiến của châu Âu đề ra nhằm tạo mối tìm kiếm và hỗ trợ kiến thức của
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
các chuyên gia tài chính của châu Âu và các khu vực khác trong quá trình giúp
châu Á cải cách và khắc phục khủng hoảng.
Ngoài ra, ASEM cũng đang triển khai sáng kiến về các biện pháp chống rửa tiên
trong ASEM và đang xem xét xây dựng mạng thông tin điện tử giữa các nước
ASEM nhằm tạo cơ sở trao đổi và phối hợp thông tin giữa Bộ Tài chính các
nước
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)
ASEM đã thành lập Trung tâm doanh nghiệp vửa và nhỏ tại Thái Lan và Mạng
thông tin ASEM để phục vụ doanh nghiệp vửa và nhỏ. Hội nghị cấp Bộ trưởng
về SMEs đã được tổ chức tại Napoli, Italia vào tháng 5 nưm 1998. Hội nghị đã
tập trung thảo luận các vấn đề như chính sách của Nhà nước đối với SMEs ở các
nước, việc tăng cường đối thoại giữa các nhà hoạch định chính sách và các tổ
chức đại diện SMEs, hình thành các chương trình phát triển nhằm duy trì sự tăng
trưởng của các nước SMEs, hình thành các chương trình nhằm duy trì sự tăng
trưởng của các SMEs tại hai khu vực Á-Âu và thống nhất các khuyến nghị, nội
dung gửi chính phủ các nước thành viên và Hội nghị cấp Bộ trưởng về SMEs
tiếp theo.
CHƯƠNG III
VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH ASEM
I. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1. Tính tất yếu của việc Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
65
1.1. Tính tất yếu của việc hội nhập
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Sau sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực, dưới sự tác động ngày càng mạnh của
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền
kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau hơn, liên
kết chặt chẽ với nhau hơn ở tất cả các cấp độ: song phương, đa phương, tiểu khu
vực, khu vực, liên châu lục và đang hình thành một nền kinh tế thống nhất toàn
cầu trên cơ sở chuyên môn hoá cao độ và phân công lao động quốc tế ngày càng
sâu nhờ những tiến trình mở rộng không ngừng tự do hoá thơng mại, dịch vụ,
đầu tư trên phạm vi toàn thế giới. Xu thế khách quan của nền kinh tế thế giới đặt
ra cho mỗi nước đòi hỏi bức xúc phải tham gia tích cực vào các quá trình kinh tế
- xã hội ở phạm vi khu vực và thế giới, trước hết phải gắn mình vào những cơ
chế hợp tác nhất định nhằm tận dụng các cơ hội và không gian cho phát triển,
đồng thời đối phó với những thách thức do xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá
đưa tới. Hội nhập khu vực và thế giới như một dòng thác cuốn hút tất cả mọi n-
ước và do vậy, tham gia vào các cơ chế hợp tác khu vực và thế giới là một yêu
cầu cấp thiết đối với các nước.
Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia xuất hiện khi lực lượng sản xuất và phân công
lao động đã phát triển đến một trình độ nhất định. Thoạt đầu là những hình thức
đơn giản buôn bán song phương, sau mở rộng ra dưới dạng liên kết sản xuất
kinh doanh. Trong thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất và công nghệ thông tin
đã và đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng chưa từng có. Tình hình đó
vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo khả năng tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn
cầu.
Nhu cầu tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn thế giới trước hết bắt nguồn từ
các nước công nghiệp phát triển, do họ ở thế mạnh nên thường áp đặt các luật
chơi. Các nước đang phát triển vừa có yêu cầu tự bảo vệ, vừa có yêu cầu phát
66
triển nên cũng tham gia để bảo vệ và tranh thủ lợi ích cho mình, nhất là các nước
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
đang tiến hành công nghiệp hoá như Việt Nam. Vì vậy, ngày nay, hầu hết các
nước trên thế giới đều thực hiện chính sách hội nhập (ngay cả Trung Quốc, một
nước có thị trường 1,2 tỷ dân, lớn hơn bất cứ một khu vực mậu dịch tự do nào,
có khả năng tự sản xuất được gần như hầu hết mọi thứ, từ đơn giản đến phức
tạp, nhưng vẫn kiên trì chủ trương hội nhập vào nền kinh tế thế giới).
Đương nhiên, đối với những nước đang phát triển, kinh tế còn yếu kém,
doanh nghiệp nhỏ bé, sức cạnh tranh còn thấp, trình độ quản lý nhà nước và
kinh doanh còn hạn chế, thì hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực không chỉ có
cơ hội mà còn có cả khó khăn, thách thức, thậm chí khó khăn thách thức là
lớn, nhưng nếu cứ đứng ngoài cuộc, khó khăn có thể còn lớn hơn nhiều.
Quyết định đúng đắn là: chủ động hội nhập gắn với chủ động điều chỉnh cơ
cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh, hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cơ chế quản lý, cải cách hành chính... trên cơ sở đó mà phát huy nội lực,
vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội để phát triển đất nước.
Thực tế cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các nớc nâng cao
vị trí và hình ảnh quốc tế, tăng thêm lợi thế và tiếng nói của mình trong đàm
phán đa phương, góp phần hình thành "luật chơi" chung ở khu vực và trên toàn
thế giới, nếu không sẽ bị thua thiệt và cô lập. Là một nước đang phát triển năng
động ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, và là thành viên của một số tổ chức
khu vực và liên khu vực cũng như trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam không
thể đứng ngoài cuộc.
Nhìn lại lịch sử của quá trình hội nhập của Việt Nam chúng ta thấy, ngay từ
những năm 80 nước ta đã hội nhập quốc tế thông qua Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV) do Liên Xô đứng đầu, đồng thời đã mở rộng quan hệ kinh tế với Liên Xô,
Trung Quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa cũng như một số ít nước
ngoài phe xã hội chủ nghĩa. Sự hội nhập này đã mang lại nguồn lực quan trọng
về vật chất và tinh thần trong những năm đầu khôi phục và xây dựng kinh tế sau 67
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
chiến tranh. Tuy nhiên, ở một góc độ khác thì hiệu quả kinh tế-tài chính của hội
nhập kinh tế lúc đó không được như mong muốn do thực hiện cơ chế kế hoạch
hoá tập trung bao cấp.
Bước sang thời kỳ đổi mới, xuất phát từ các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội
với sự lựa chọn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta đã có những chuyển biến cả về chất và lượng theo tinh thần
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
mọi đường lối, chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật được thực thi bằng
bộ máy quyền lực của Nhà nước với các công cụ hành chính và kinh tế, đồng
thời cũng mở rộng quyền dân chủ của nhân dân, nhanh chóng hội nhập có hiệu
quả với nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế
Những bước đi quan trọng của Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đều được sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính
trị. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, với đường lối đổi mới của Đảng ta đã có chủ
trương: “Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới
nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm
hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật đầu tư, cần có các chính sách và
biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta
để hợp tác kinh doanh”. Đây là những nền tảng quan trọng để thúc đẩy quá trình
hội nhập nền kinh tế quốc tế của nước ta. Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục chủ
trương mở rộng hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước, các tổ chức
quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế
giới, tăng cường thu hut nguồn vốn từ nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam chủ trương khai thông quan hệ 68
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
giữa các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)…mở rộng quan hệ với
các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á-Thái Bình Dương. Một trong
những biện pháp quan trọng là “Việt Nam cần tích cực cải thiện hơn nữa môi
trường đầu tư, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động hợp tác, liên doanh với
nước ngoài, có nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi nguồn vốn đầu tư,
chú trọng phát triển các quan hệ hợp tác với các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”9
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, với tầm
nhìn chiến lược, Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “xây dựng một nền kinh
tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết
04 của Ban chấp hành TW khoá VIII đã nêu rõ: “tích cực chủ động thâm nhập
và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm
phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ
thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Tiếp đó trong
Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ quan điểm của Đảng: “Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hợp tác hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc
dân tộc, bảo vệ môi trường”. Đây là một trong những chủ trương lớn trong chính
sách đối ngoại, hội nhập của Việt Nam. Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế
quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là
chủ động mở cửa kinh tế, tham gia sâu vào phân công hợp tác quốc tế, tạo điều
kiện để kết hợp có hiệu quả hơn mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước, mở
rộng không gian và môi trường để phát triển, nâng cao thế lực của nước ta trong
9 Văn kiện Hội nghị Trung ương, trang 18
69
quan hệ kinh tế quốc tế.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng của xu thế toàn cầu hoá
kinh tế. Nói hội nhập là nhấn mạnh đến tính chủ động tham gia vào quá trình
toàn cầu hoá. Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm một số nội dung chủ yếu như:
chủ động tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, đặc biệt là những
lĩnh vực kinh tế mới, chủ động tham gia và mở rộng thương mại quốc tế, chủ
động tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế… Khẳng định tầm quan trọng
của hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết 07-NT/TW của Bộ chính trị, ngày
27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế đã đề ra 5 quan điểm chỉ đạo trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới:
Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là: “Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xác hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập
cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối
tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể, vừa phải đề phòng tư tưởng trì
trệ thụ động, vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ
trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng
70
đước quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, tranh thủ
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế
chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an
ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của
quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những
mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình” đối với
nước ta.
Để cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, thực hiện tốt Nghị quyết trong thực tiễn,
Chính phủ đã thông qua một Chương trình hành động bao gồm các nhiệm vụ cụ
thể được phân công trách nhiệm thực hiện rõ ràng cho các bộ, ban ngành và các
địa phương có liên quan, có sự phối hợp thực hiện với các cơ quan trung ương.
Cụ thể đầu mối nhiệm vụ là: Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hoá-Thông tin với công tác tư tưởng, thông tin,
tuyên truyền, Bộ Tư pháp với nhiệm vụ xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ
chế chính sách kinh tế thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Quốc gia về
hợp tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và nâng cao khả năng cạnh tranh, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế
với nhiệm vụ tổng hợp và hoàn thiện chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế
quốc tế, Bộ Nội vụ chủ trì cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp… với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực,
Bộ Ngoại giao với nhiệm vụ kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế
đối ngoại, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc
phòng. Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ, Bộ Thương mại, Bộ
Tài chính với nhiệm vụ về đàm phán gia nhập WTO, Bộ Thương mại, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với
71
nhiệm vụ mở rộng thị trường xuất khẩu, tranh thủ đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
các nước và các tổ chức quốc tế. Và cuối cùng là công tác kiện toàn tổ chức của
các bộ, cơ quan của Chính phủ.
2. Vài nét về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Với đường lối, chính sách đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn, quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam qua thời gian đã có những biến đổi sâu sắc.
Việt Nam đã từng bước thu được những kết quả quan trọng bước đầu về ổn định
và phát triển kinh tế-xã hội, từng bước xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, mở rộng quan hệ thương
mại với gần 200 nước, là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, kí hiệp định
kinh tế-thương mại, tranh thủ đầu tư trực tiếp của các tập đoàn và các công ty
thuộc 77 nước và vùng lãnh thổ, trong đó đáng chú ý là Hiệp định thương mại
Việt Nam-Hoa Kỳ đã được ký kết ngày 13/7/2000, tranh thủ được viện trợ phát
triển của hơn 45 nước và định chế tài chính quốc tế, tích cực tham gia các tổ
chức kinh tế khu vực và thế giới, đưa hội nhập quốc tế lên một tầm cao mới với
những mốc đánh dấu quan trọng.
Năm 1993, Việt Nam đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế như IMF, WB, ADB đưa hoạt động hợp tác với các định chế này dần
đi vào chiều sâu. IMF, WB đã hỗ trợ Việt Nam thông qua chương trình tín
dụng trung hạn, chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và Chương
trình điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với
các tổ chức này gắn bó mật thiết với những yêu cầu của WTO. Đối với
Chương trình SAC và ESAF lần thứ hai thời kỳ 1999-2000, sau các đợt đàm
phán, hai bên đã đạt được nhiều thoả thuận cơ bản, những vấn đề còn đang
được tiếp tục đàm phán trong thời gian tới.
Như vậy, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đứng đầu về thu
72
hút được nguồn ODA từ các nước phát triển như Nhật, Pháp, Đức, Anh, Đan
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Mạch, Thuỵ Điển. Trong đó, các nhà tài trợ của EU luôn luôn là những nhà
tài trợ lớn, đứng thứ 3 trong nhóm dẫn đầu các nhà tài trợ đa phương, sau
WB và ADB. Tháng 1/2002, Ban giám đốc điều hành ADB đã phê duyệt
Chương trình và chiến lược cho quốc gia Việt nam, dự kiến trợ giúp khoảng
945 triệu USD trong ba năm tiếp theo. ADB sẽ ưu tiên trợ giúp các cải cách
trong lĩnh vực tài chính và nông nghiệp, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và
cải thiện y tế, cải cách hành chính công và tăng cường quản trị, phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ và cung cấp năng lượng với giá cạnh tranh và tiếp
tục các dự án trợ giúp khu vực miền Trung, nơi có nhiều người nghèo sinh
sống. Năm 2002, ADB tài trợ cho Việt Nam với tổng số vốn hơn 240 triệu
USD, năm 2003 dự kiến khoảng 280 triệu USD. Hai bên cũng cam kết tiếp
tục hợp tác chặt chẽ trong những nỗ lực nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã
hội của Việt Nam, đơn giản hoá và hài hoà các thủ tục chính sách để thúc đẩy
việc thực hiện các dự án, trợ giúp Việt Nam trong các dự án ở cấp tiểu khu
vực, đặc biệt là Chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mê Công mở rộng
(GSM).
Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN,
Việt Nam đã tham gia đầy đủ các hoạt động của ASEAN và có những đóng
góp bằng nhiều sáng kiến trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã
hội, các hoạt động hợp tác với các nước, các tổ chức đối thoại của ASEAN,
trong đó có diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), đối thoại ASEAN-EU. Gần 8
năm qua kể từ khi chính thức gia nhập ASEAN, Việt Nam đã có nhiều đóng
góp vào công việc của Hiệp hội như: chủ trì nhiều hội nghị và hội thảo cấp
cao trong ASEAN và giữa ASEAN với các bên đối thoại, tham gia xây dựng
nhiều văn bản quan trọng về chiến lược và các chương trình hành động của
ASEAN, tiêu biểu như: Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân,
73
Tuyên bố Hà Nội, Chương trình hành động Hà Nội , Tầm nhìn ASEAN
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
2020, góp phần tích cực và là động lực chính của ASEAN tại ARF. Việt Nam
đã góp phần tích cực và là động lực chính của ASEAN có một diện mạo mới,
làm cho ASEAN trở thành một khu vực hữu nghị, hợp tác, ngày càng có vai
trò và ảnh hưởng to lớn trên trường quốc tế. Quan điểm và những sáng kiến
của Việt Nam về nhiều vấn đề khu vực thường được hưởng ứng và sự nhất trí
cao trong ASEAN.
Từ 1/1/1996, Việt Nam bắt đầu thực hiện nghĩa vụ và các cam kết trong
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA. Năm
1999, Việt Nam đã đưa 3582 mặt hàng vào thực hiện CEPT/AFTA. Việc
Việt nam tham gia thực hiện CEPT/AFTA sẽ giúp hàng hoá của Việt Nam
xuất khẩu sang các nước ASEAN khác, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu các
thị trường trong khu vực. Ngoài ra, tham gia thực hiện AFTA đã mở ra cho
Việt Nam cơ hội tiếp cận với những vấn đề quan trọng của đời sống kinh tế
và liên kết kinh tế thế giới, tạo ra những khả năng mới để tăng cường hợp tác
đa phương và phát triển quan hệ song phương với các nền kinh tế vốn là
những đối tác thương mại và đầu tư quan trọng của Việt Nam.
Từ tháng 3/1996, Việt Nam đã tham gia ASEM với tư cách là một trong
những nước thành viên sáng lập của ASEM. ASEM được thiết lập từ 10 nước
ở châu Á và 15 nước thành viên EU cùng với sự tham gia của Uỷ ban châu
Âu (EC) trong tiến trình hợp tác Á-Âu này. ASEM đã hình thành nên mối
quan hệ đối tác có tiềm lực hàng đầu thế giới với 44,2% dân số, 54,4%GDP
và 35,4 trao dổi mậu dịch toàn thế giới. Việt Nam đã tham gia và có những
đóng góp tích cực vào những thành công cửa cơ chế này, tham gia chuẩn bị,
soạn thoả các văn kiện quan trọng của ASEM, góp phần xử lý các vấn đề đặt
ra trong hợp tác Á-Âu, trên cơ sở đó góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau của hai châu lục, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học, công
74
nghệ, văn hoá, giáo dục…
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 22/10/1990), quan hệ
kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng được củng cố và phát
triển. Một loạt những Hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại được ký kết,
trong đó có Hiệp định khung về hợp tác Việt Nam-EU được ký kết ngày
17/7/1995 đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để phát triển quan hệ kinh tế giữa
Việt Nam và EU. Ngoài ra, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam-EU
được tăng cường đẩy mạnh với việc EU công nhận Việt Nam là nước có nền
kinh tế thị trường và tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện thông qua cơ chế
hợp tác trong ASEM đã có những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển quan
hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU. Trong những năm gần đây, kim ngạch buôn
bán với EU chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam. Nhìn chung, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và
EU ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong hơn một thập
kỷ qua, nguồn vốn FDI của EU vào Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Ngay
từ cuối năm 1987, không ít các nhà đầu tư nước ngoài EU đã trở thành những
nhà đầu tư nước ngoài tiên phong đầu tư vốn vào Việt Nam. Đến năm 1996,
đầu tư của EU vào Việt Nam đã chiếm khoảng 12% tổng số vốn đầu tư của
EU ở khu vực châu Á, nhiều hơn đầu tư của EU vào các nước khác trong khu
vực. Các nhà đầu tư EU đang vươn lên trở thành các nhà đầu tư lớn nhất của
Việt Nam.
Ngày 18/11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của APEC.
Tham gia APEC, Việt Nam đã xây dựng và tiến hành thực hiện chương trình
hành động quốc gia (IAP) để thực hiện các mục tiêu tự do hoá và thuận lợi
hoá thương mại và đầu tư của APEC. Trong IAP có các cam kết ở 15 lĩnh
vực về thuế, phi thuế, dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ…APEC quyết
định thực hiện hội nhập đầy đủ vào năm 2010 đối với các thành viên phát
75
triển và năm 2020 đối với các thành viên đang phát triển, trong đó có Việt
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia Chương trình hành động tập thể
(CAP) phối hợp với các thành viên khác trên các lĩnh vực thông tin, phát
triển nguồn nhân lực, thủ tục hải quan và tiêu chuẩn, hợp chuẩn để thí điểm
triển khai các hoạt động của APEC. Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm tham
gia Chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH), rất cần cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Sau hơn 4 năm đàm phán, Hiệp định Thương mại song phương Việt-Mỹ đã
được ký kết ngày 12/7/2000 và có hiệu lực ngày 10/12/2001. Trong bối cảnh
có nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn đan xen thì kết quả của việc
thực hiện hiệp định giữa hai nước được xem là đáng khích lệ. Từ năm 2002.
Mỹ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Tháng 12/1994, Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập WTO và từ đó
đến nay đã tiến hành các công việc minh bạch hoá chính sách, chuẩn bị và
tiến hành các vòng đàm phán song phương mở cửa thị trường. Để gia nhập
WTO, Việt Nam phải tiến hành đồng thời vừa đàm phán WTO, vừa đàm
phán tay đôi song song với một số nước có chọn lọc. Hiện nay, Việt Nam đã
vượt qua 6 vòng đàm phán, hoàn thành việc trả lời 1700 câu hỏi từ Ban thư
ký của WTO và các nước thành viên, đang xúc tiến chuẩn bị phiên đàm phán
thứ 7 với quyết tâm phấn đấu gia nhập WTO vào năm 2005, tất nhiên là với
điều kiện chấp nhận được đối với nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, thời
điểm gia nhập còn phụ thuộc vào yêu cầu, đàm phán thực chất của các nước,
tiến triển của vòng đàm phán Doha.
Tóm lại, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được thực hiện trong
một thời gian chưa dài, kinh nghiệm còn hạn chế nhưng đã mang lại những kết
quả ban đầu đáng khích lệ đó là: Đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm
76
vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của đất nước trên chính
trường và thương trường quốc tế, khắc phục được khủng hoảng thị trường do
Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã gây nên, mở rộng và đa dạng hoá
được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được một nguồn vốn lớn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn viện trợ chính thức (ODA), giảm đáng kể nợ
nước ngoài, từng bước tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp
phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh, từng bước đưa hoạt
động của doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, nhờ đó đã
tạo được tư duy kinh doanh mới, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
kết hợp nội lực và ngoại lực hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến
những nền kinh tế to lớn và nhờ vậy giúp ta tiếp tục giữ vững, củng cố độc lập,
tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân
tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan trên, trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam cũng đã bộc lộ những điểm yếu kém cần khắc phục. Đó
là công tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập quốc tế chuyển sang giai đoạn mới
trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp, chưa hình thành được một
kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý
cho việc thực hiện các cam kết quốc tế; Luật pháp, chính sách quản lý kinh tế
thương mại chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập; Các doanh nghiệp Việt Nam
còn yếu cả về sản xuất, trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh; Nguồn nhân lực
phục vụ cho tiến trình hội nhập còn thiếu, trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu
cơ bản; Công tác tổ chức chỉ đạo chưa thích hợp. Ngoài những yếu kém cần
khắc phục trên, Việt Nam còn cần phải khẩn trương xây dựng kế hoạch mang
tính chiến lược dài hạn để đối phó với những thách thức mới do biến động phức
77
tạp của tình hình quốc tế mang lại .
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
3. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
3.1. Những cơ hội đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
3.1.1. Góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, nâng cao vị thế quốc tế của
Việt Nam và tạo thế đứng vững chắc hơn cho Việt Nam trong quan hệ quốc tế..
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là cơ hội để Việt Nam tham gia và thực sự
hoà mình vào quan hệ quốc tế, nắm bắt tốt hơn các xu hướng quốc tế cũng
như sự điều chỉnh chính sách kinh tế thương mại của các nước khác, từ đó
định hướng điều chỉnh vừa phù hợp với tiến trình chung, vừa khai triệt để
những cơ hội lợi nhất cho mình. Nếu không thực sự được hoà mình vào
quan hệ quốc tế, chẳng hạn như Việt Nam không phải là thành viên WTO,
ta sẽ mất đi cơ hội tham gia những cuộc thương thuyết phân chia quyền lợi
và thị trường, không có thông tin, điều này cũng có nghĩa là ta sẽ mất đi
chủ quyền đấu tranh, thương thuyết, phát biểu nếu các vấn đề xảy ra hoặc
các thoả thuận đó gây phương hại đến lợi ích của quốc gia mình.
3.1.2. Khắc phục tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong
thương mại quốc tế.
Việc tham gia các thể chế hợp tác kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội tốt để ta tham gia
vào việc xây dựng những "luật chơi" chung, ngăn ngừa tình trạng bị phân biệt
đối xử, bị chèn ép trong thương mại quốc tế, góp tiếng nói chung đấu tranh bảo
vệ lợi ích của các nước đang phát triển. Đặc biệt, tiến trình này sẽ tạo cơ hội cho
các nước nhỏ, nước chậm phát triển có cơ hội đối thoại chính sách với các nước
phát triển hơn, hoặc phối hợp quan điểm với các nước khác trên các diễn đàn
quốc tế nhằm giải toả các rào cản thương mại, đấu tranh đòi đối xử công bằng
78
trong thương mại.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
3.1.3. Được hưởng những ưu đãi thương mại, mở đường cho thương mại phát
triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cần để chúng ta tranh thủ những ưu đãi về
thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ mỗi tổ chức,
góp phần mở rộng thị trường cho hàng hoá Việt Nam, tạo điều kiện thu hút đầu
tư trong và ngoài nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy
lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam.
Đặc biệt, trong WTO, cũng như đại đa số các tổ chức khu vực khác đều có các
chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển và các nước trong thời kỳ
chuyển đổi, cho phép các nước này được hưởng các miễn trừ, ân hạn trong việc
thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế, phi thuế và các nghĩa vụ khác. Việc mở cửa
hội nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam thâm
nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
3.1.4. Tạo điều kiện cơ cấu lại sản xuất theo hướng có hiệu quả hơn; tăng c-
ường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và chuyển giao kỹ nghệ, công
nghệ từ các nước.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có cơ hội tiếp thu công nghệ, kinh
nghiệm quản lý, kỹ thuật tiên tiến và cọ sát trong cạnh tranh, một số ngành và
doanh nghiệp của ta có thể nâng cao được sức cạnh tranh, một số ngành và mở
rộng thị trường xuất khẩu. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với những
nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hoá như Việt Nam. Hội nhập kinh
tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho các ngành sản xuất có cơ hội chọn lựa nguyên
vật liệu và các yếu tố đầu vào phù hợp, mở rộng hợp tác khoa học, kỹ thuật, thúc
đẩy chuyển giao công nghệ và vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
79
3.1.5. Góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Thông qua Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội
tham gia vào các chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật do các nước thành viên
của một tổ chức khu vực tổ chức. Nhờ đó, Việt Nam có khả năng nâng cao được
trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, xây dựng một đội ngũ các nhà doanh
nghiệp năng động, có kỹ năng quản lý sản xuất, kinh doanh giỏi, biết tổ chức tốt
thị trờng và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, góp phần chiến
thắng trong cạnh tranh.
Trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam có những bước đi đúng đắn
từng bước điều chỉnh hệ thống luật lệ, chính sách thương mại phù hợp với tập
quán quốc tế và các quy tắc chuẩn mực của WTO, bảo đảm hình thành đồng bộ
các yếu tố của thị trường, bình đẳng khuyến khích tự do kinh doanh, cạnh tranh
lành mạnh nhưng vẫn giữ vững vai trò quản lý của Nhà nước, bảo đảm phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia.
3. 2. Những thách thức của Hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh rất nhiều những cơ hội và thuận lợi ở trên, tham gia vào hội nhập kinh
tế quốc tế, Việt Nam cũng gặp không ít thách thức khó khăn do quá trình này
mang lại. Khó khăn lớn nhất của Việt Nam khi bước vào hội nhập là nền kinh tế
đang ở trình độ phát triển thấp, chênh lệch lớn không chỉ so với các nước công
nghiệp mà ngay cả với các nước có trình độ phát triển chưa cao trong khu vực.
3.2.1. Tính cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.
Việc giảm thuế quan và các biện pháp phi thuế, thông thoáng chính sách quản lý
đối với các lĩnh vực đầu tư, dịch vụ sẽ làm phát sinh sức ép lớn, đòi hỏi nền kinh
tế và các doanh nghiệp phải có đầy đủ năng lực cạnh tranh mới có thể trụ vững
80
và khai thác được lợi thế của hội nhập.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Việt Nam mặc dù có nhiều lợi thế về nguồn lao động và một số tài nguyên
nông, lâm, khoáng sản dồi dào, Việt Nam vẫn gặp phải những yếu kém về công
nghệ, trình độ quản lý, cơ sở hạ tầng, độ ổn định về chính sách và hệ thống tài
chính ngân hàng lạc hậu.
Xét về mặt tổng thể, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn tương
đối thấp. Theo danh sách xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới về năng lực
cạnh tranh của các nền kinh tế thế giới, năm 1997, Việt Nam xếp thứ 49/53, năm
1998 xếp thứ 39/53 và năm 1999 xếp thứ 48/53. Sở dĩ năm 1998 vị trí của chúng
ta nhích lên cao vì các nước châu Á đang trải qua khủng hoảng nghiêm trọng,
kinh tế của họ bị đánh tụt trong bảng xếp hạng. Như vậy, có thể thấy để hội nhập
có hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chúng ta cần giải
quyết một loạt các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng, cơ chế chính sách, năng
lực quản lý, hệ thống tài chính ngân hàng.
Xét về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, theo đánh giá của dư luận và các
công trình nghiên cứu gần đây thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam đã xuất hiện trong nhiều ngành sản xuất, nhưng nhìn chung còn tương đối
thấp, thể hiện ở các điểm sau:
Năng suất lao động chưa cao.
Chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm còn thấp.
Trình độ công nghệ và khả năng tiếp cận với công nghệ mới còn hạn chế.
Chi phí đầu vào còn cao và chưa hợp lý, dẫn đến nhiều trường hợp giá cả
hàng hoá cha cạnh tranh được với hàng nhập khẩu.
Thị trường đầu ra cho sản phẩm chưa ổn định và bền vững.
Thực trạng về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay đang đòi hỏi Nhà
81
nước có chính sách bảo hộ hợp lý trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Tuy nhiên, đối chiếu với các cơ chế của các tổ chức khu vực và quốc tế mà
chúng ta là thành viên không cho phép chúng ta bảo hộ vô thời hạn, bảo hộ tràn
lan tất cả các ngành kinh tế.
3.2.2. Các cơ chế của một nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình
thành, hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, yêu
cầu về một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh thực sự là một thách thức lớn đối với
nước ta. Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không chỉ liên quan đến việc giảm
thuế và các hàng rào phi thuế mà còn liên quan đến việc cải cách hệ thống luật
pháp và các chính sách đến thương mại nhằm ngày càng tạo thuận lợi hơn cho
xuất nhập khẩu, đầu tư... Tuy nhiên, cho tới nay, hệ thống chính sách thương
mại và các chính sách vĩ mô có liên quan khác của Việt Nam vẫn còn nhiều bất
cập và không đồng bộ, nhiều biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương
mại mà các tổ chức quốc tế thừa nhận, thì Việt Nam lại chưa có (thí dụ, chế độ
hạn ngạch thuế quan, biện pháp cân bằng thanh toán, quyền tự vệ, quy chế xuất
xứ, chống bán phá giá, chính sách cạnh tranh...). Trong khi đó, ta lại áp dụng
một số biện pháp chính sách không có trong thông lệ kinh doanh quốc tế hoặc
không phù hợp với nguyên tắc của các tổ chức quốc tế.
II. Việt Nam trong tiến trình ASEM
1. Hoàn cảnh tham gia và vị thế của Việt Nam trong tiến trình ASEM
Nhằm xây dựng một thể chế liên kết kinh tế liên lục địa Á-Âu ngày 1-2 tháng 3
năm 1996, Hội nghị cấp cao về Hợp tác Á-Âu (ASEM) lần thứ nhất diễn ra tại
Bangkok-Thái Lan với sự tham gia của 15 nước thuộc Liên minh châu Âu (EU)
cùng 10 nuớc châu Á, trong đó có Việt Nam và 6 nước thành viên ASEAN khác.
82
Sự ra đời của ASEM phản ánh chiều hướng mới trong quan hệ quốc tế khi quá
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
trình toàn cầu hoá đang được thúc đẩy mạnh mẽ, đồng thời mở ra một thời kỳ
hợp tác phát triển mới giữa hai lục địa lơn của thế giới.
Là một trong 25 thành viên sáng lập của ASEM từ năm 1996, Việt Nam nhận
thức rõ được rất rõ tầm quan trọng của Tổ chức này trong việc thúc đẩy kinh tế
liên lục địa. Cùng với việc gia nhập ASEAN và APEC, ASEM cũng chính là
một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Nó
đóng vai trò không nhỏ trong việc đưa Việt Nam tiếp cận với những đối tác kinh
tế, thương mại quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu.
Kể từ sau ASEM 3, Việt Nam trở thành Chủ tịch ASEAN đồng thời là Điều
phối viên Châu Á kể từ năm 2000 cùng với Trung Quốc trong ASEM có vai trò
điều hành và bảo vệ lập trường đa dạng của các nước Châu Á trong Hội nghị
ASEM. Với tư cách là Điều phối viên châu Á, Việt Nam đóng vai trò quan trọng
trong việc:
Góp phần thúc đẩy hợp tác đi theo hướng triển khai đồng đều, thiết thực, có
hiệu quả, đi vào thực chất trên cả ba lĩnh vực hợp tác, phản ánh được yêu
cầu và quan tâm của tất cả các thành viên.
Tích cực xúc tiến việc chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao ASEM 5. Bên cạnh
trao đổi chính thức tại các phiên họp, Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc họp
riêng với các đoàn, đặc biệt là các điều phối viên để tăng cường phối hợp
chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao.
Để tiếp tục góp phần thúc đẩy một cách thiết thực hợp tác ASEM, Việt Nam
tích cực ủng hộ việc thông qua và đồng ý với đề nghị của Trung Quốc về
đồng sáng kiến, tổ chức Hội thảo ASEM về xử lý dịch bệnh bùng phát trong
83
cộng đồng.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Đầu năm tới, năm 2004 Việt Nam sẽ là nước chủ nhà của Hội nghị thượng đỉnh
ASEM 5 tại Hà Nội. Chủ đề tại Hội nghị thượng đỉnh lần này sẽ là những tranh
luận xung quanh vấn đề về chính sách kinh tế và toàn cầu hoá. Việt Nam cùng
với các nước thành viên khác luôn tìm kiếm những cơ hội và giải pháp nhằm
khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá. Ngoài ra trong
Hội nghị thượng đỉnh lần này, dự kiến các vấn đề về phát triển nguồn nhân lực,
xoá đói giảm nghèo, tăng cơ hội việc làm, vấn đề an ninh quốc tế và chống nạn
khủng bố, môi trường cũng như việc thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số cũng sẽ
được thảo luận.
2. Những hoạt động chủ yếu của Việt Nam trong ASEM
Là một trong những nước sáng lập ASEM, Việt Nam tham gia đẩy đủ vào 3
chương trình mang tính thử nghiệm của ASEM là IPAP, TFAP và Hợp tác các
doanh nghiệp Á-Âu.
- Về hợp tác kinh tế :
Việt Nam nhấn mạnh các hoạt động của ASEM trong thời gian tới cần dành ưu
tiên cao cho hợp tác kinh tế, giải quyết tác động của toàn cầu hoá, trong đó ưu
tiên thu hẹp khoảng cách về phát triển, chênh lệch về kỹ thuật số, phát triển
nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo…
- Trong lĩnh vực tài chính :
Việt Nam tranh thủ được Quỹ tín thác ASEM tài trợ kỹ thuật cho 7 dự án trị giá
hơn 5 triệu USD về “Cải cách và phát triển hệ thống ngân hàng”, “Chương trình
phát triển mạng lưói bảo đảm xã hội tạo công ăn việc làm”, “Thúc đẩy cổ phần
hoá các doanh nghiệp nhà nước trong khu vực giao thông vận tải”, “Cải cách các
doanh nghiệp nhà nước Việt Nam”, “Cơ cấu lại khu vực ngân hàng”, “Thành lập
84
cơ quan xử lý nợ tồn đọng và tư vấn pháp lý hỗ trợ cải cách ngân hàng ” và “Trợ
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
giúp đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tài chính của 10 Ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam”
- Về thương mại và đầu tư :
Việt Nam cử các đoàn tham dự Hội nghị Bộ trưởng, Thứ trưởng, các cuộc họp
quan chức cao cấp về thương mại và đầu tư, các Diễn đàn và Hội nghị doanh
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ… Nét nổi bật nhất là tại Hội
nghị Cấp cao ASEM 3, Việt Nam đã tuyên bố đồng ý đảm nhận vai trò điều phối
viên châu á trong ASEM từ sau ASEM 3 đến Hội nghị Cấp cao ASEM 4 tại Đan
Mạch mùa thu năm 2002 và nhận đăng cai Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM
lần thứ 3 tại Hà Nội 10-11/9/2001
Tại ASEM 2-London năm 1998, Việt Nam cũng đã đưa ra sáng kiến hợp tác Á-
Âu trong việc kết hợp y-dược cổ truyền để chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và
cùng với sáng kiến của phát về Bảo vệ và phát huy di sản văn hoá trong các
nước ASEAN. Hai sáng kiến này đã được Hội nghị nhất trí hoan nghênh và ghi
nhận vào tuyên bố của chủ tịch. Cụ thể, Việt Nam đã tổ chức thành công cuộc
họp của các chuyên gia ASEM trong lĩnh vực di sản văn hoá vào tháng 1/1999
và Hội thảo về kết hợp y dược cổ truyển nhằm chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
vào tháng 3/1999 cùng với Hội thảo về kết hợp y-dược cổ truyền để chữa một số
bệnh nan y vào tháng 12/2000.
Tại ASEM 3, Việt Nam đề xuất việc tăng cường các cơ hội kinh doanh trong
ASEM nhằm tập trung hơn nữa vào việc tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai khu
vực. Đây là sự đóng góp mang tính thực tế trong việc đa dạng hoá các mối quan
hệ ASEM. Bên cạnh đó, tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 3 (EMM3), Việt Nam đề
ra những giải pháp nhừm dỡ bỏ những rào cản thương mại như việc đề ra các
tiêu chuẩn chất lượng chung và giúp cho việc đi lại cũng như phân phối sản
85
phẩm trở nên dễ dàng hơn.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Việt Nam cũng đóng góp vào Quỹ Á-Âu trong các thời kỳ 1997-2001 và 2002-
2006 và cùng với Quỹ này cũng như Trụ sở Quan hệ quốc tế của Đan Mạch tổ
chức hội thảo về phát triển an ninh chính trị trong khuôn khổ hợp tác Á-Âu tại
Hà Nội tháng 12/2001.
Việt Nam cũng có những đóng góp không nhỏ cho sự thành công của ASEM 4
trong việc thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác Á-Âu vì hoầ bình và phát
triển bền vững của hai châu lục. Bằng việc tham gia một cách tích cực vào
ASEM 4 Việt Nam có cơ hội tăng sự hiểu biết về các thành viên ASEM từ đó có
thêm được các mối quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại, khoa
học và công nghệ từ các nước phát triển và các nước NICs.
Ngoài ra, Việt Nam cũng xây dựng phương án tham dự Hội nghị các quan chức
cao cấp lần thứ 7, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế lần 3 và tổ chức đoàn doanh
nghiệp tham dự diễn đàn Á-Âu lần thứ 6.
3. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong tiến trình ASEM
3.1. Những cơ hội
Trong quá trình tham gia ASEM những năm vừa qua, Việt Nam cũng đã đạt
được những thành tựu nhất định tạo ra những cơ hội mang tính triển vọng.
Chẳng hạn như Việt Nam đã tranh thủ được Quỹ tín thác Á-Âu triển khai 5 dự
án tại Việt Nam; tham gia tất cả các Hội nghị quan trọng của ASEM, đóng góp
nhiều ý kiến xây dựng vào các văn kiện của ASEM, cử người tham gia Hội đồng
Thống đốc Quỹ Á-Âu (ASEF) cũng như tham gia tích cực các hoạt động khác
của Tổ chức này…
Thông qua những hoạt động tích cực này, nhìn chung Việt Nam trong ASEM đã
86
và đang đạt được những cơ hội mới như:
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Đạt được sự ủng hộ của các nước trong EU đối với việc gia nhập WTO của
Việt Nam đồng thời tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau hơn nữa giữa các
nước ASEAN, từ đó xây dựng và thắt chặt mối quan hệ Á-Âu
Việt Nam trở thành một trong mục tiêu trọng điểm trong chính sách kinh tế
đối ngoại của các nước như Thuỵ Điển, Anh, Pháp, Đức.
Việt Nam học hỏi và đạt được những kinh nghiệm trong quá trình đảm nhận
vai trò là Chủ tịch Ban thường trực ASEAN và Điều phối viên châu Á của
ASEM.
Cụ thể hơn, sau ASEM 4 tại Copenhagen, Đan Mạch, Việt Nam đã ký kết được
4 Hiệp định quan trọng:
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt
Nam với Bộ Kế hoạch và Công nghệ Ireland
Hiệp định khung về hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam với Bộ
Ngoại giao Luxemburg.
Hiệp định hợp tác khoa học công nghẹ giữa Bộ Khoa học Công nghệ Việt
nam và Cao uỷ phục trách Khoa học kỹ thuật Bỉ
Hiệp định khung về hợp tác giữa Văn phòng chính phủ và các vùng Cộng
đồng người Bỉ nói tiếng Pháp.
Đồng thời qua ASEM4, Việt Nam được khẳng định có vị thế mới đối với thế
giới. Đặc biệt, trong các cuộc hội đàm và tiếp xúc song phương giữa Việt Nam
với EU và giữa Việt nam với các nước, các nước không những ủng hộ Việt Nam
gia nhập WTO mà còn coi Việt Nam là đối tác viện trợ ODA và đẩy mạnh hợp
tác huớng vào kinh tế trên cơ sở hai bên cùng có lợi. EU đã quyết định tiếp tục
cho hàng dệt may của Việt Nam nhập khẩu vào EU và kể từ ngày 20/9/2002
87
không kiểm tra mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam nhập khẩu vào EU.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
3.2. Những thách thức
Về mặt kinh tế nói chung hay môi trường và thương mại nói riêng, Việt Nam
gặp phải một số thách thức do các quy định của các khu vực thị trường tạo ra
các rào cản đối với doanh nghiệp Việt Nam. Khó khăn đối vói doanh nghiệp
Việt Nam có thể liệt kê một số vấn đề như:
Hệ thống các quy định đối với tiêu chuẩn môi trường và thương mại Việt
Nam còn thiếu cập nhật không đồng bộ. Có rất nhiều các tiêu chuẩn quốc tế
xây dựng vượt quá khả năng của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư thích đáng đối vói hoạt động
nghiên cứu thị trường, nghiên cứu các quy định, các rào cản kỹ thuật đối với
sản phẩm
Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu có ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng và việc kiểm soát sản phẩm. Điều đó gây khó khăn rất lớn
trong việc đảm bảo các điều kiện tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường tài thị
trường nhập khẩu, đặc biệt là các khu vục phát triển.
Hệ thống nguồn nhân lực của Việt Nam còn rẻ nhưng còn thiếu bất cập,
thíếu công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, ý thức kỷ luật kém
III. Các giải pháp thúc đẩy Việt Nam trong tiến trình ASEM
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan
hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang
thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia,
làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ của khoa
học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã đưa các quốc gia gắn kết lại
gần nhau, dẫn tới sự hình thành những mạng lưới toàn cầu. Tiến trình ASEM là đại diện cho xu thế khu vực hoá, chuẩn bị cho toàn cầu hoá cao độ. Có thể thấy,
88
ASEM là một diễn đàn đàm phán trực tiếp trên các lĩnh vực về kinh tế, chính trị,
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
xã hội là nền tảng pháp lý cho quan hệ kinh tế quốc tế của nhiều nước thành
viên. Đây là một tiến trình được phát triển dựa trên cơ sở vừa hợp tác vừa cạnh
tranh. Do đó, thành viên ASEM nào biết đề ra các biện pháp tận dụng những cơ
hội và biết vượt qua những khó khăn thử thách thì quốc gia đó có thể đứng vững
trên trường quốc tế, khẳng định vị trí của quốc gia đó và tạo nên sức mạnh cho
quốc gia đó phát triển. Việt Nam là một thành viên của ASEM cũng không nằm
trong ngoại lệ. Để thúc đẩy tiến trình ASEM, những giải pháp cần thiết cho Việt
Nam có thể thấy đó là:
1. Về nhận thức, tư tưởng
Để thúc đẩy tiến trình ASEM đối với Việt Nam trong thời gian tới, trước hết
cần quán triệt những quan điểm, nguyên tắc chủ yếu được nêu trong các Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX. Tại Đại hội Đảng lần thứ
VII, Việt Nam chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối
ngoại, đánh dấu bước khởi đầu cho quan hệ kinh tế quốc tế. Tiếp đó, Nghị quyết
Đại hội Đảng VIII đã quyết định “Nhiệm vụ đối ngoại quan trọng trong thời
gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn
nữa để đẩy nhanh quá trình hội nhập khu vực và quốc tế” và Nghị quyết số 07-
NQ/TW, ngày 27-11-2001 của Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Cụ thể là, quán triệt chủ trương được
xác định tại Đại hội IX là : “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Cụ thể hơn, thúc
đẩy tiến trình ASEM là để đáp ứng mục tiêu chung của bản thân Việt Nam trong
quá trình phát triển, nhằm lấy nội lực kết hợp với ngoại lực, đẩy mạnh sự nghiệp
CHN-HĐH theo định hướng XHCN, bảo đảm hiệu quả kinh tế-xã hội và tăng
trưởng bền vững của nền kinh tế quốc dân, hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực
89
của những chao đảo, biến động từ bên ngoài.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Tuy nhiên, thúc đẩy tiến trình ASEM phải dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất đối với
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và thúc đẩy tiến trình ASEM nói
riêng. Tham gia hợp tác Á-Âu phải tuân thủ các nguyên tắc chung là bảo vệ độc
lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ và phát triển
sản xuất, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc
của dân tộc.
Bên cạnh đó, cần quán triệt rằng ASEM là quá trình vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt tuỳ theo đối tượng, vấn đề,
trường hợp, thời điểm cụ thể; phải đề phòng tư tưởng ỉ lại, thụ động vừa phải
chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Hơn nữa, phải biết tận dụng những cơ hội
do tiến trình ASEM đem lại cũng như phải biết sàng lọc những mặt hạn chế và
vượt qua những thách thức trong tiến trình ASEM.
Thúc đẩy tiến trình ASEM không chỉ là công việc riêng của chính phủ mà cần
có sự nhận thức đúng đắn và tham gia đầy đủ của nhiều tầng lớp trong xã hội
chẳng hạn như các doanh nghiệp, sinh viên…Chính vì vâỵ, công tác quảng cáo,
tuyên truyền những tri thức liên quan đến tiến trình ASEM là rất cần thiết.
Thúc đẩy tiến trình ASEM là một phần của hội nhập quốc tế, là một bộ phận
hữu cơ của đường lối đổi mới do Đảng đề ra và để thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế, xã hội ngắn, trung và dài hạn của Đảng và Nhà nước. Do vậy, thúc đẩy tiến
trình ASEM phải phù hợp với chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả
các nước” và “phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng xây dựng hệ thống kinh tế
mở”, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt trong cả nước, gắn với kinh tế và
90
thị trường thế giới.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Cần kết hợp với nhận thức đẩy đủ các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, để từ
đó đề ra kế hoạch, lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ của đất nước, vừa
đáp ứng các qui định chung của ASEM đặt ra cho các nước thành viên, từ đó
Việt Nam đang tham gia và tranh thủ những ưu đãi do ASEM mang lại.
2. Về xây dựng tiến trình ASEM
Xây dựng tiến trình ASEM là một trong những trọng tâm của chiến lược hội
nhập. Để thích ứng với yêu cầu của hội nhập, đáp ứng các cam kết của nước ta
về mở cửa thương mại, đầu tư, dịch vụ, về thuế và phi thuế, việc xây dựng tiến
trình cần dựa vững chắc trên các nguyên tắc và nguyên lý căn bản sau:
Giữ vững nguyên tắc độc lập và chủ quyền quốc gia, bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa của sự phát triển trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia lên trên
hết, kiên trì, bền bỉ điều chỉnh lại hệ thống cơ chế chính sách cho phù hợp
với những quy tắc và chuẩn mực của ASEM. Coi việc điều chỉnh cơ chế
chính sách trong tiến trình ASEM là tạo ra động lực bên trong để thúc đẩy
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế.
Tiến trình ASEM được xây dựng theo hướng bậc thang và hợp lý, được xác
định trên cơ sở (1) các cam kết, quy định của ASEM đề ra với các nước
thành viên nói chung và Việt Nam nói riêng (2) thực trạng hiện tại và dự
báo phát triển trong tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Một tiến trình “quá
nóng” về mức độ và thời hạn mở cửa thị trường vượt quá khả năng chịu
đựng của nền kinh tế, sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp,
vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường.
Vì vậy, điều cực kì quan trọng là cần xem xét tính toán nghiêm túc điều
91
kiện, khả năng, tiềm lực của Việt Nam trong từng lĩnh vực cụ thể, từng loại
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
doanh nghiệp, có tính đến những quy định chung..., để hoạch định tiến trình
hội nhập hợp lý.
Tiến trình ASEM phải được xây dựng theo nguyên tắc Việt Nam thừa nhận
mục tiêu thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại của ASEM và cam kết thực
hiện mục tiêu này bằng các biện pháp và bước đi thích hợp với trình độ phát
triển của mình, trong đó các cam kết trong khuôn khổ ASEM là các cam kết
có mức độ ưu đãi và cần tập trung thực hiện trong lộ trình của ta. Đồng thời
xuất phát từ đặc điểm hiện tại của đất nước, trong lộ trình hội nhập Việt
Nam cần yêu cầu quyền được hưởng những ưu đãi dành cho các nước có
trình độ phát triển thấp và đang trong quá trình chuyển đổi.
Trên cơ sở xây dựng tiến trình ASEM tổng thể để hội nhập, cần tiếp tục xây
dựng tiến trình chi tiết, rõ ràng trong từng lĩnh vực, từng loại mặt hàng, từng
đối tác đàm phán quốc tế, đồng thời xác định rõ lộ trình, thời gian biểu, cam
kết thực hiện nghĩa vụ của ASEM, đảm bảo kết hợp cân đối giữa cam kết ở
ASEM với các cam kết ở các tổ chức khác.
3. Xây dựng và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước
Trong điều kiện của nền kinh tế chuyển đổi, các cơ quan quản lý Nhà nước ở
nước ta hiện vẫn chưa thực sự sẵn sàng trước tiến trình ASEM cả về cơ cấu tổ
chức và các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương. Chẳng hạn như sự
nhận thức chưa đầy đủ về tiến trình ASEM đôi khi đã dẫn đến những quyết định
lệch lạc, chệch hướng so với chủ đề và mục tiêu của tiến trình ASEM. Những sự
yếu kém này đã và đang che lấp và làm giảm đi những nỗ lực của Việt Nam
trong việc đưa ra các chính sách liên quan. Do vậy, định hướng và giải pháp
nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với tiến trình ASEM không chỉ nhằm
đẩy nhanh tiến trình ASEM mà còn nhằm thúc đẩy sự phát triển và nhận thức
92
đúng đắn về ASEM của người dân ở các mức độ khác nhau. Những giải pháp
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
chủ yếu cho vấn đề xây dựng và nâng cao năng lực của cơ quan quản lý Nhà
nước bao gồm:
Việt Nam cần kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước theo cơ chế
quản lý và những nội dung quản lý đã được xác định. Các cơ quan quản lý
thực hiện đúng chức năng của mình, không thực hiện một cách chồng chéo,
không đúng nghĩa vụ của mình
Nâng cao vai trò và tính chủ động của các ngành và lĩnh vực liên quan trong
công tác quản lý hiện đại.
Đẩy mạnh chương trình cải cách hành chính từ trung ương đến địa phương,
giảm bớt những khâu nấc quản lý rườm ra và những quy định hành chính
không phù hợp với phương thức quản lý hiện đại trong thời đại phát triển của
công nghệ thông tin
Ngoài ra, Nhà nước cần hoạch định xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi,
thường xuyên cung cấp thông tin về tiến trình ASEM, việc ban hành các chính
sách liên quan và công việc tổ chức thực hiện chẳng hạn như hỗ trợ doanh
nghiệp trong việc liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài, triển khai mạnh mẽ
hơn nữa chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kiểm soát chặt chẽ
được hoạt động của doanh nghiệp, hướng doanh nghiệp triển khai các hoạt động
theo đúng luật pháp quy định. Đồng thời cần có biện pháp, chính sách khuyến
khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất, kinh doanh, cạnh
tranh bình đẳng qua đó mà sàng lọc, định hướng phát triển, hình thành các hạt
nhân doanh nghiệp ưu tú có sức cạnh tranh đảm bảo hội nhập đem lại hiệu quả
kinh tế cao.
Trong những năm tới Nhà nước cần hướng vào giải quyết một số vấn đề như :
tạo lập đồng bộ nền kinh tế thị trường trong nước, khuyến khích cạnh tranh và
93
chống độc quyền; gắn bó hữu cơ với hội nhập quốc tế nói chung và tiến trình
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
ASEM nói riêng, với chiến lược kinh tế-xã hội của đất nước, tạo ra các đột phá
chiến lược; tổ chức công tác nghiên cứu khoa học và hệ thống thông tin về thị
trường thế giới; hình thành cơ cấu tổ chức hợp lý về kinh tế đối ngoại, chuẩn bị
nguồn nhân lực cho tương lai. Trong đó vấn đề cấp bách được nhắc đến trong
nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước là vấn đề điều chỉnh cơ cấu kinh tế để
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
4. Về phương hướng và giải pháp điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong tiến trình
ASEM
Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế
vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế trên cơ sở phát huy
những tiềm năng, nội lực của mình để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, như
vậy nhu cầu gắn kết chặt chẽ giữa hội nhập với đổi mới quản lý và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế là một tất yếu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần được định hướng
theo 2 góc độ: thứ nhất, đó là việc tạo dựng một môi trường vĩ mô chung có tính
cạnh tranh cao để thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, nâng cao
hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế và của các ngành, các doanh nghiệp; thứ hai,
điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư dưới góc độ ngành và doanh nghiệp căn cứ
trên cơ sở sức cạnh tranh của từng ngành với lợi thế so sánh trong sản xuất kinh
doanh trong điều kiện Việt Nam sẽ triển khai thực hiện các cam kết hội nhập
quốc tế đối với các tổ chức khu vực như ASEM.
Dưới góc độ quốc gia, tính cạnh tranh thể hiện ở năng lực tạo dựng môi trường
cạnh tranh trong đó vai trò của nhà nước mang tính kiên quyết để đảm bảo cho
nền kinh tế phát huy những lợi thế so sánh, phân bổ các nguồn lực có hiệu quả,
đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Trong bối cảnh Việt Nam chỉ
được đánh giá là nước có môi trường cạnh tranh quốc gia thấp, thì một trong
những nội dung của việc xây dựng chiến lược hội nhập là cần tăng cường tính 94
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
cạnh tranh cấp quốc gia, trong đó các chính sách kinh tế được hoạch định sao
cho thực hiện tốt các yếu tố cơ bản sau đây:
Các chỉ số kinh tế vĩ mô (thâm hụt ngân sách, lạm phát, cán cân thanh
toán, tỷ giá…) ổn định và ở mức cân bằng.
Nền kinh tế tương đối mở (nhất là về thương mại và các luồng FDI)
Cạnh tranh trong nước được khuyến khích
Điều kiện cạnh tranh bình đẳng được đảm bảo và can thiệp của Nhà nước
chủ yếu là trên bình diện vĩ mô (như tạo khung pháp lý, sử dụng các chính sách
kinh tế vĩ mô, đầu tư vào hạ tầng cơ sở…)
Dịch vụ công cộng có chất lượng cao
Hệ thống tài chính, ngân hàng tạo nên trung gian tài chính hiệu quả
Các chủ thể thị trường có thể tiếp cận thông tin và công nghệ
Cở sở hạ tầng được nâng cấp và duy trì
Thị trường lao động linh hoạt trong mối quan hệ thích hợp giữa người sử
dụng lao động và người lao động
Thể chế luật pháp, xã hội vận hành có hiệu lực và minh bạch
Tiếp tục tiến hành cải cách kinh tế mang tính tổng thể và đồng bộ. Đặc
biệt, đó là những cải cách trong các lĩnh vực tài khoá, tài chính tiền tệ, thương
mại và khu vực DNNN. Cải cách kinh tế cũng không thể tách rời cải cách khu
vực hành chính nhằm hạn chế đáng kể nạn tham nhũng, giảm thiểu tệ quan liêu
cũng như các chi phí giao dịch cho các hoạt động kinh doanh.
Dưới góc độ ngành thì phương hướng điều chỉnh cơ cấu ngành được xem xét
95
dựa trên việc nghiên cứu và phân loại các ngành sản xuất và dịch vụ theo 3
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
nhóm: nhóm có khả năng cạnh tranh cao, nhóm có khả năng cạnh tranh có điều
kiện (được bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn và tích cực nâng cao khả năng cạnh tranh)
và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp.
Căn cứ theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho tổng số 40 nhóm sản
phẩm và dịch vụ của Việt Nam thì hiện tại có 11 sản phẩm thuộc loại có khả
năng cạnh tranh cao là: cà phê, điều, lúa gạo, một số loại trái cây, thuỷ sản, may
mặc, giày dép, động cơ đi-ê-zen cỡ nhỏ, sản phẩm của ngành du lịch, dịch vụ
xây dựng; ngoài ra 19 sản phẩm dịch vụ khác thuộc nhóm có khả năng cạnh
tranh có điều kiện gồm: chè, cao su, rau, thực phẩm chế biến, lắp ráp điện tử, cơ
khí, hoá chất, xi măng, đóng tàu, thịt heo, ngân hàng, viễn thông, vận tải biển,
vận tải hàng không, kiểm toán, công nghệ phần mềm, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ
tư vấn pháp luật, dịch vụ y tế và 10 sản phẩm thuộc nhóm có khả năng cạnh
tranh thấp gồm: mía đường, bông, cây có dầu, đỗ tương, ngô, quả có múi, hoa,
sữa bò, thịt gà, thép. Theo cơ sở phân chia này, nhà nước cần đưa ra các chính
sách về thuế nhập khẩu, phân bổ hạn ngạch phi thuế, chế độ phụ thu xuất khẩu,
chính sách thuế trong nước, tín dụng xuất khẩu và cải cách doanh nghiệp phù
hợp…đối với từng nhóm và ngành cụ thể.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, rõ ràng lợi thế so sánh của nền nông nghiệp nhiệt
đới là điểm mạnh của Việt Nam có thể cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài
trên thị trường nội địa, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu. Muốn vậy, cần
nhanh chóng áp dụng các tiến bộ sinh học, hiện đại hoá công nghệ chế biến nâng
cao chất lượng vệ sinh thực phẩm, đóng gói bao bì…
Trong lĩnh vực công nghiệp, việc bố trí đầu tư, xây dựng phải căn cứ theo có sở
phân chia khả năng cạnh tranh trên để chọn thứ tự ưu tiên. Bên cạnh đó cần
phát triển một số ngành công nghiệp nặng, xây dựng các công trình quy mô lớn
96
một có chọn lọc, và dành quan tâm thỏa đáng cho việc phát triển các ngành sử
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
dụng nhiều lao động, có công nghệ tiến tiến để tạo ra sản phẩm có chất lượng
cao, tiêu thụ được trên thị trường cả trong nước và thế giới.
Đối với khu vực dịch vụ, đây là lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt song cũng
rất nhạy cảm trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Chấp nhận cạnh tranh, kể
cả cạnh tranh trong nước lẫn cạnh tranh quốc tế, coi đó là động lực thúc đẩy sự
tiến bộ của các ngành dịch vụ phải đi đôi với việc xem xét các điều kiện, đặc thù
của từng ngành dịch vụ.
Mặc dù về lý thuyết điều chỉnh cơ cấu cần tiến hành theo những phương hướng
như vậy, song khi khoa học và công nghệ không ngừng phát triển, kinh tế thế
giới có nhiều đột biến, thị trường luôn biến động, tính cạnh tranh và lợi thế so
sánh của các nước đều rất linh hoạt thì cần phải có sự điều chỉnh kịp thời bộ
phận này hay bộ phận khác của các định hướng phát triển, nhằm hợp lý hoá cơ
cấu kinh tế, tăng cường hơn nữa năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ,
doanh nghiệp và của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Ngoài vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ, doanh nghiệp và
của nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy tiến trình ASEM trong thời gian tới còn đòi
hỏi việc xây dựng một lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị
trường.
5. Về công tác xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia
trong tiến trình ASEM
Nhân tố con người luôn là nhân tố quan trọng và luôn cần được tính đến. Vấn đề
về đào tạo, sử dụng cán bộ trong tiến trình ASEM là cực kì quan trọng. Cần xây
dựng những tiêu chuẩn bắt buộc với những cán bộ tham gia xây dựng chính sách
và hoạt động trong công tác kinh tế đối ngoại, bao gồm các yêu cầu về phẩm
97
chất đạo đức, về tư tưởng, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ. Trên cơ sở
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
những yêu cầu đó để xây dựng kế hoạch về đào tạo, chọn lọc sử dụng cán bộ
phù hợp với nhu cầu hợp tác quốc tế thời gian tới.
KIẾN NGHỊ-ĐỀ XUẤT
Trước hết, để tham gia vào tiến trình ASEM một cách có hiệu quả cần có sự
cố gắng của Nhà nước trong việc hoàn thiện môi trường pháp lý đối với tiến
trình ASEM. Làm được điều này không chỉ giúp cho việc xác định một 98
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
hướng đi cơ bản và rõ rằng mà còn giúp cho các doanh nghiệp tham gia vào
ASEM một cách chủ động và tích cực. Hơn nữa, sự nỗ lực và hoạt động hỗ
trợ của các bộ ngành liên quan cũng vô cùng quan trọng đối với việc thúc đẩy
tiến trình ASEM.
Việt Nam cần coi trọng quan hệ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn
hoá trong tiến trình ASEM. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh việc tăng cường hơn
nữa lĩnh vực hợp tác có tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến trình ASEM.
Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện Nhóm đặc trách kinh tế ASEM tập trung
xem xét và đưa ra những khuyến nghị cụ thể, thiết thực nhằm tăng cường hơn
nữa sự hợp tác về thương mại, đầu tư và tài chính giữa hai châu lục để có
được những đối tác kinh tế thực chất hơn nhằm phát huy những tiềm năng,
cơ hội của khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó, tiến tới đi sâu
vào thực chất hoá chủ đề chính của Hội nghị Cấp cao ASEM tại Hà Nội vào
tháng 10/2004: “Tiến tới quan hệ đối tác á-Âu sống động và thực chất hơn”.
Để thúc đẩy tiến trình ASEM, Việt Nam là một nước đang phát triển cần chú
trọng hơn nữa vào giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp bách và thiết thực
như xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, thu hẹp khoảng cách
phát triển trong nước nói riêng cũng như so với các nước thành viên ASEM
nói chung.
Các doanh nghiệp Việt Nam phải biết tận dụng những tiềm năng trong tiến
trình ASEM bằng cách học hỏi của các đối tác từ các nước thành viên ASEM
như nên liên doanh với đối tác nước ngoài trên các lĩnh vực cần đầu tư và
bảo vệ chẳng hạn: rừng, chế biến gỗ, bảo vệ môi trường, đóng tàu, xây dựng
cảng, điện tử viễn thông, phân hoá học…
Các doanh nghiệp cần có những chiến lược và biện pháp để có thể thực sự
99
hoà mình vào tiến trình ASEM chung thông qua việc thực hiện những công
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
việc cụ thể như: cần thực hiện các biện pháp nâng cao tay nghề công nhân,
nâng cấp trình độ công nghệ…Đấy cũng chính là cách thức đúng đắn giúp
cho các doanh nghiệp tham gia vào ASEM có hiệu quả hơn.
Nhằm thúc đẩy tiến trình ASEM, trước mắt Việt Nam cần chuẩn bị cho Hội
nghị Cấp cao ASEM 5 diễn ra một cách thành công tại Hà Nội, thông qua
việc tập trung vào một số hướng quan trọng:
Cần suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng và toàn diện nội dung, phù hợp với
chủ đề hội nghị sắp diễn ra
Cần tích cực trong việc triển khai công việc tổ chức, hậu cần, xây dựng
trung tâm hội nghị
Tăng cường công tác tuyên truyền về ASEM trong nước nhằm đề cao vai
trò và hình ảnh tích cực của Việt Nam
Nâng cao mạnh mẽ hơn nữa kinh nghiệm của bộ máy, cán bộ tham gia
phục vụ cho Hội nghị cấp cao. Như vậy, Việt Nam cần tranh thủ và sử
dụng có hiệu quả sự trợ giúp quốc tế dành cho Việt Nam trong tiến trình
chuẩn bị Hội nghị.
Phụ lục 1
Các rào cản thương mại trong ASEM
100
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Từ nhiều nguồn phân tích khác nhau, các thành viên ASEM đã tạm thời xác định
những hình thức thương mại sau đây đã và đang tạo ra những rào cản đáng kể
đối với việc trao đổi thương mại trong khu vực. Hiện nay, ASEM đang xúc tiến
xây dựng chương trình hành động để giải toả những cản trở thương mại
1. Các rào cản chung
Bất ổn định về khung pháp lý, ví dụ như thông báo quá ngắn khi có thay
đổi luật pháp hay luật pháp không rõ ràng, thiếu chính xác hoặc thậm chí
là có những luật lệ không được xuất bản
Trì hoãn quá lâu trong việc trả lời các câu hỏi, kiến nghị
Yêu cầu quá cao về lập tài liệu (ví dụ đối với nhập khẩu)
Tham nhũng
2. Các rào cản trong các lĩnh vực cụ thể
3.3. . Thủ tục hải quan
Tham nhũng
Thiếu minh bạch
Thời gian quá dài để thông quan
Không tuân thủ Công ước Kyoto
Các vấn đề về định giá hải quan, ví dụ khi bị áp dụng tuỳ tiện và thường
bị sửa đổi, cũng như bị phân loại hải quan.
2.2. Tiêu chuẩn chất lượng
Việc đăng kí phức tạp, tốn kém và thướng liên quan đến cả các chi phí
101
thực tế lẫn việc tiết lộ các thông tin mật
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Các thủ tục thử nghiệm, thủ tục đánh giá sự phù hợp và lập hồ sơ phức
tạp, kéo dài hoặc tốn kém. Đôi khi các tiêu chuẩn thay đổi nhanh, khiến
cho tiến trình còn bị kéo dài thêm
Các quy định thiếu minh bạch, ví dụ như không dịch sang tiếng nước
ngoài hoặc không công bố những sửa đổi
Đối xử khác nhau giữa tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, khác biệt trong
việc áp dụng các tiêu chuẩn hoặc không thừa nhận các tiêu chuẩn quốc tế
và tiêu chuẩn châu Âu.
Đối xử khác nhau giữa các sản phẩm trong nước và nước ngoài trong quá
trình áp dụng các quy định và thủ tục
Quy định dán nhãn hạn chế
2.3. Mua sắm của chính phủ
Nhìn chung thiếu sự thông thoáng và minh bạch
Đối xử ưu đãi với các công ty trong nước hoặc các công ty không có quan
hệ/bạn hàng với các công ty địa phương.
Yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá, chuyển giao công nghệ và mậu dịch
đối lưu
Thông báo thầu ngắn hạn
Phá vỡ các quy định thông qua việc chia nhỏ các hợp đồng
Không tuân theo Hiệp định mua sắm chung (GPA)
2.4. Kiểm dịch động thực vật
Thiếu sự minh bạch về các biện pháp, thủ tục triển khai và cơ quan có
102
thẩm quyền.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Các yêu cầu cho nhập động vật, thực vaatj và sản phẩm thực vật quá tốn
kém và kéo dài
Không thống nhất giữa các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế và không hài
hoà
Không thừa nhận quá trình kiểm định hoặc kiểm soát ở nước xuất hàng
Các thủ tục và yêu cầu nhập khẩu còn chưa đuợc đơn giản hoá và chưa
tổng hợp
Yêu cầu kiểm định và kiểm dịch quá cao
Quy định dán nhãn hạn chế
Việc thử nghiệm không chính xác
2.5. Quyền sở hữu trí tuệ
Việc thực thi các luật lệ về IPR trong tất cả các lĩnh vực khác nhau còn
chưa đầy đủ hoặc chưa công bằng
Thiếu các luật lệ về nhãn hiệu thương mại, bản quyền, bằng sáng chế,
thiết kế công nghiệp và chỉ dẫn địa lý.
Vi phạm nhãn hiệu thương mại, bản quyền
Giả mạo
Không thống nhất giữa các quy định quốc gia và quốc tế
2.6. Lĩnh vực phân phối kinh tiêu sản phẩm
Hạn chế quyền sở hữu nước ngàoi đối với thương mại hoặc bán lẻ
Yêu cầu về liên doanh, liên kết trong nước đối với một số hoạt động cụ
103
thể như quảng cáo
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Phân biệt đối xử, chống lại các công ty nước ngoài, ví dụ khi bố trí cơ sở
và trang thiết bị tại cản biển hoặc sân bay hoặc mức giá quảng cáo, thậm
chí có thể thực hiện thông qua các chiến dịch chống lại các sản phẩm
nước ngoài hoặc quảng cáo các sản phẩm nội địa
Hạn chế sở hữu tài sản cố định
Thiếu rõ ràng và không minh bạch
Các điều khoản và yêu cầu giấy phép hạn chế đối với các công ty nước
ngoài
104
Thiếu các luật lệ về cạnh tranh hoặc chưa đủ thực thi đầy đủ các luật này.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Phụ lục 2
Danh mục các dự án hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ
Tên và nước chủ trì
xây dựng dự án
Cộng hoà Liên bang Đức, Trung 1 Khoa học cơ bản Quốc, Nhật Bản
Chuyển giao kiến thức từ các cơ sở 2 Nhật Bản, Pháp, Phần Lan nghiên cứu tới sản xuất công nghiệp
Phát triển nguồn nhân lực tập trung vào
3 Hàn Quốc, áo, Inđônêxia nâng cao nhận thức khoa học của xã hội
và trao đổi các nhà nghiên cứu
4 Lâm nghiệp Phần Lan, Trung Quốc, áo
5 Các vấn đề nước Thái Lan, Bồ Đào Nha, Pháp
Công nghệ nông nghiệp và công nông 6 Singapore, Italia nghiệp
7 Các thành phố phát triển bền vững Pháp, Hy Lạp, Italia, Philippine
8 Công nghệ sản xuất sạch và bền vững áo, Malaysia
9 Phát triển bền vững hệ sinh thái (nước) Italia
10 Di sản văn hoá Việt Nam, Italia, Tây Ban Nha
105
11 Nâng cao năng lực nghiên cứu và kỹ Thuỵ Điển, Trung Quốc, Thái
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
thuật của các doanh nghiệp Lan
Phụ lục 3
Các biện pháp đầu tư hiệu quả nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài
1. Các cơ quan xúc tiến đầu tư với cả hai chức năng xúc tiến và tạo thuận lợi cho đầu tư nước
ngoài. Các cơ quan này không chỉ hỗ trợ các thông tin ban đầu về thị trường mà còn giúp nhà
đầu tư sau khi đã thâm nhập thị trường giải quyết các vấn đề liên quan với các cơ quan chức
năng
2. Thực hiện nhất quán các biện pháp tự do hoá nhằm dỡ bỏ các cản trở dòng vốn và các giao dịch
liên quan tới đầu tư nước ngoài.
3. Không phân biệt đối xử với các nhà đầu tư nước ngoài: mở rộng diện các ngành sản xuất, dịch
vụ được phép đầu tư, kể cả lĩnh vực phân phối.
4. Cởi mở các quy chế đầu tư và dỡ bỏ hoá giảm dần các rào cản hoặc thủ tục phiền hà: loại bỏ
việc không cho phép nước ngoài sở hữu đất đai, loại bỏ yêu cầu bắt buộc về sản phẩm (hàm
lượng nội địa hoá, tỷ lệ xuất khẩu…)
5. Các chính sách khuyến khích đầu tư: miễn thuế, trợ giá, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển các cơ
sở hạ tầng, khai thác các lợi thế tự nhiên đặc biệt để thu hút đầu tư
6. Tăng cường tính minh bạch và dự báo trước của môi trường đầu tư. Công bố rộng rãi các văn
bản pháp lý về đầu tư ký thoả thuận song phương về các vấn đề thuế, xét xử độc lập của hệ
thống toà án và đối xử công bằng, bình đẳng đối với nhà đầu tư.
7. Các thoả thuận song phương, khu vực và đa phương về đầu tư quốc tế.
8. Tăng cường hiệu quả của cơ quan quản lý quốc gia: đơn giản hoá các quy định, hợp tác tốt hơn
giữa các cơ quan chính phủ, đặt thời hạn cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết vụ
106
việc
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
9. Cải thiện đồng thời môi trường kinh tế trong nước và cơ sở hạ tầng. Các yếu tố kinh tế-xã hội
tác động tới đầu tư: đồng tiền ổn định, hệ thống tài chính-ngân hàng quản lý tốt, lao động lành
nghề, không bãi công, thuế khoá thấp… Cải thiện cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực: viễn thông,
vận tải, hệ thống phân phối và các cơ sở hạ tầng mang tính xã hội như giáo dục, bảo vệ sức
khoẻ…
Phụ lục 4
Viễn cảnh ASEM
Viễn cảnh hợp tác á-Âu: từng bước hoà hợp châu và châu Âu thành khu vực hoà
bình và cùng phát triển, một môi trường cùng tồn tại thịnh vượng trong thế kỷ
XXI, trong đó tri thức, của cải, di sản văn hoá, các tư tưởng dân chủ, tài sản giáo
dục, khát vọng trí tuệ và công nghệ mới của hai khu vực cùng hoà quyện gắn bó
và giao lưu, không bị bất kỳ hình thức ngăn trở hoặc ép buộc nào.
Chính sách khuyến nghị:
1. Giáo dục
Tăng cường giao lưu giáo dục để đạt tới sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa hai
châu lục á-Âu
Ra Tuyên ngôn về giáo dục tại ASEM III (Seoul, Hàn Quốc 2000) với tầm
nhìn dài hạn đối với các yêu cầu về đào tạo và đặt mục tiêu nhiều tham vọng
2. Chương trình học bổng ASEM
Trao đổi giữa hai khu vực các học bổng sau đại học cho các sinh viên giỏi và có
triển vọng nhất. Đặt mục tiêu ban đầu hai trăm học bổng ASEM mỗi năm.
107
3. Thống nhất các nguyên tắc về Quản lý nhà nước lành mạnh
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Cùng xác định quản lý nhà nước lành mạnh là nền tảng của sự thịnh vượng
và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân,
Khuyến nghị các nguyên thủ ASEM thống nhất lại các nguyên tắc quản lý
nhà nước lành mạnh tại Họi nghị Thượng đỉnh ASEM III (Seoul, Hàn Quốc)
và thúc đẩy đối thoại về cách thức quản lý nhà nước lành mạnh và nhân
quyền
4. Thực hiện mục tiêu tự do hoá thương mại
Xây dựng khung chiến lược cho việc tự do hoá từng bước thương mại hàng
hoá và dịch vụ xác định rõ ràng thời hạn và mốc thực hiện có tính đến sự
khác biệt về trình độ phát triển của các nước.
5. Phối hợp chặt chẽ hơn các chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách hệ thống tài
chính quốc tế
Kết hợp ứng phó để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá tài chính đang diễn
ra nhanh chóng.
6. Thành lập trung tâm môi trường ASEM
Đẩy mạnh việc hợp tác môi trường dài hạn thông qua việc thành lập một
Trung tâm môi trường ASEM. Định rõ những lĩnh vực và mục tiêu ưu tiên,
tăng cường thể chế và cùng chia xẻ gánh nặng về môi trường.
7. Thành lập Hội đồng cố vấn thương mại Á-Âu (BAC)
Thiết lập diễn đàn để tạo thuận lợi cho đối thoại cao cấp giữa những nhà lãnh
đạo chính phủ quốc gia và giám đốc điều hành các doanh nghiệp tư nhân.
Thảo luận các vấn đề cấp thiết liên quan đến đầu tư, thương mại và thị
108
trường.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
8. Xây dựng khung khổ cho việc cải thiện hạ tầng của ASEM bao gồm tất cả
các lĩnh vực trọng yếu (năng lượng viễn thông, giao thông, nước và môi
trường) nhằm tạo thuận lợi cho thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ
và đi lại của các cá nhân trong lĩnh vực phát triển hạ tầng.
9. Thành lập Hội đồng công nghệ thông tin ASEM để đẩy mạnh việc phát triển
hạ tầng thông tin (các mạng có tốc độ cao, phần mềm dịch thuật điện tử và
truyền hình vệ tinh) tiến tới xây dựng xa lộ thông tin liên khu vực.
Lời nói đầu
Khu vực hoá cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một trong
những xu thế chủ yếu nhất chi phối sự vận động và phát triển của thế giới ngày
nay. Mọi quốc gia trên thế giới ngày càng ý thức sâu sắc được rằng khu vực hoá
và hội nhập kinh tế ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị
- xã hội của toàn bộ cộng đồng quốc tế nói chung và tới từng quốc gia nói riêng.
Chính vì vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng không nằm ngoài quy luật
và ít nhất là thành viên của một tổ chức khu vực nhất định. Đối với các nước
Đông á và Tây Âu điều này cũng không ngoại lệ. Đáng nói hơn, các quốc gia
này lại cùng là thành viên của Hội nghị Cấp cao Á-Âu (ASEM). Tham gia vào
tiến trình ASEM, các quốc gia này không chỉ có cơ hội chia xẻ những hiểu biết
về văn hoá-xã hội của đất nước mình với các nước thành viên khác mà còn giúp
thúc đẩy phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên. Tiến trình ASEM mới đi
vào hoạt động chưa đầy một thập kỷ, chính vì vậy ngoài những cơ hội và tiềm
năng to lớn mà ASEM đem lại cho mỗi quốc gia, tiến trình này vẫn phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức.
Là một quốc gia đang phát triển và là thành viên sáng lập của ASEM, Việt Nam
đã và đang tham gia một cách tích cực vào tiến trình ASEM, góp phần xử lý các
vấn đề đặt ra trong hợp tác á-Âu, trên cơ sở đó góp phần tăng cường sự hiểu 109
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
biết lẫn nhau của hai châu lục, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học, công
nghệ, văn hoá, giáo dục. Việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới nói chung và
tham gia vào ASEM nói riêng là một vấn đề vô cùng bức thiết không chỉ về mặt
thực tiễn mà còn về mặt lý luận, nhận thức. Những giải pháp thúc đẩy tiến trình
ASEM đối với Việt Nam là một câu hỏi làm trăn trở không chỉ các chính trị gia,
các nhà văn hoá mà còn cả các nhà kinh tế học. Chủ động tham gia và thúc đẩy
tiến trình ASEM là cách để Việt Nam thực hiện được các mục tiêu về kinh tế-
văn hoá-xã hội nói riêng và mục tiêu tổng thể về công nghiệp hoá-hiện đại hoá
đất nước của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
Trong thời gian gần đây đã có không ít những nghiên cứu, ý kiến đánh giá về
khu vực hoá, các mô hình khu vực hoá như ASEM và hội nhập kinh tế khu vực
của Việt Nam. Tuy nhiên, đó thường là những nghiên cứu sâu, chi tiết về các
vấn đề riêng lẻ mà ít có những nghiên cứu mang sâu chuỗi, liên kết lôgic về các
vấn đề này. Do đó, để có được một cách nhìn tương đối tổng quát, tác giả chọn
viết Khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “ Vấn đề khu vực hoá-Mối quan hệ hợp tác
Á-Âu (ASEM) và Việt Nam trong tiến trình ASEM”.
Nội dung của khoá luận tốt nghiệp bao gồm 3 chương sau:
– Chương 1. Tổng quan về hội nhập kinh tế khu vực
– Chương 2. ASEM và vai trò của tiến trình ASEM trong việc thúc đẩy mối
quan hệ á-Âu
– Chương 3. Việt Nam trong tiến trình ASEM
Thực hiện nội dung trên, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng hợp và phân tích để làm sáng tỏ
110
những vấn đề nghiên cứu.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân trọng nhất đến các cô các chú, các anh chị ở Bộ
Ngoại Giao, thư viện Quốc Gia, Viện kinh tế Thế Giới, thư viện trường Đại
Học Ngoại Thương- những người đã rất nhiệt tình cung cấp những thông tin, tài
liệu có liên quan đến nội dung của khoá luận.
Đồng thời, tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo
trường Đại Học Ngoại Thương đã trang bị cho những lớp sinh viên những kiến
thức quí giá trong thời gian 4 năm học vừa qua. Đặc biệt, tác giả xin chân thành
cảm ơn thầy giáo- Tô Trọng Nghiệp đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, đóng góp ý
kiến để tác giả có thể hoàn thành bản khoá luận này. Cuối cùng, tác giả xin gửi
tới gia đình, bạn bè đã động viên cả về vật chất và tinh thần để tác giả có thể
111
hoàn thành tốt bản khoá luận này.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
KẾT LUẬN
Khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan của thời đại, được
qui định bởi những qui luật khách quan của xã hội, của lịch sử, mà trực tiếp là từ
tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất trên qui mô quốc gia và quốc tế. Khu
vực hoá vừa đặt ra những cơ hội lại vừa đặt ra những thách thức lớn lao đối với
mỗi quốc gia dân tộc.
Tham gia hội nhập vào trào lưu khu vực hoá mà điển hình như ASEM là một
trong những điều kiện tiên quyết đối với vận mệnh của mỗi quốc gia dân tộc nói
chung và với các nước đang phát triển nói riêng. ASEM ngày càng có vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác quan hệ Á-Âu trên các lĩnh vực chính trị-
kinh tế-văn hoá thông qua sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai châu lục. Tuy nhiên, sự
thành công của tiến trình ASEM đòi hỏi sự tích cực tham gia, sự nỗ lực rất lớn
của các quốc gia thành viên.
Việt Nam với đường lối và chính sách mở cửa, muốn làm bạn với tất cả các
nước cũng đã và đang tích cực tham gia vào hội nhập kinh tế khu vực như
ASEAN, APEC, ASEM…Tuy thời gian ASEM đi vào hoạt động chưa dài,
nhưng thực sự nó đã mang lại những hứa hẹn mới cho Việt Nam. Tuy nhiên, để
có được những cơ hội do ASEM đem lại đòi hỏi Việt Nam phải có được nhận
thức và hướng đi đúng đắn nhằm thúc đẩy tiến trình này, giúp cho sự phát triển
chung của khu vực cũng như sự trưởng thành về mọi mặt riêng của Việt Nam.
Với những nội dung nghiên cứu quá rộng lớn, phức tạp và còn nhiều tranh cãi
nêu trên, tác giả trong quá trình viết chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu
sót, sai lầm. Tác giả chân thành mong được sự đóng góp ý kiến, sửa chữa của
112
thầy cô, bạn bè và những người quan tâm tới vấn đề này.
Khãa luËn tèt nghiÖp
D¬ng H¬ng Giang
113