LUẬN VĂN: Bảo hiểm y tế học sinh sinh viên tại việt nam
lượt xem 89
download
“Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người”. Không một người dân nào lại mong muốn mình bị bệnh tật, ốm đau hay gặp tai nạn, song cũng không ai có thể tránh khỏi điều đó. Vì vậy ở bất kỳ quốc gia nào, công tác chăm sóc sức khoẻ luôn được đặt lên hàng đầu. Với học sinh-sinh viên, thế hệ tương lai của đất nước, việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục sức khoẻ được coi là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp trồng người của Đảng và Nhà nước, là mối quan tâm...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Bảo hiểm y tế học sinh sinh viên tại việt nam
- LUẬN VĂN: Bảo hiểm y tế học sinh - sinh viên tại việt nam
- LờI Mở ĐầU “Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người”. Không một người dân nào lại mong muốn mình bị bệnh tật, ốm đau hay gặp tai nạn, song cũng không ai có thể tránh khỏi điều đó. Vì vậy ở bất kỳ quốc gia nào, công tác chăm sóc sức khoẻ luôn được đặt lên hàng đầu. Với học sinh-sinh viên, thế hệ tương lai của đất nước, việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục sức khoẻ được coi là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp trồng người của Đảng và Nhà nước, là mối quan tâm của mỗi gia đình và toàn xã hội. Một trong những giải pháp để hoàn thành nhiệm vụ nói trên là thực hiện chương trình Bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện cho học sinh-sinh viên, được triển khai ở nước ta từ năm 1994. Sau hơn 10 năm thực hiện, công tác này đã thu được những kết quả nhất định, khẳng định hướng đi đúng và sự cần thiết của BHYT học sinh-sinh viên. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2010, nhằm mở rộng hơn nữa công tác BHYT học sinh-sinh viên, để BHYT học sinh-sinh viên thực sự là người bạn đồng hành của học sinh-sinh viên em đã lựa chọn đề tài: “BHYT học sinh - sinh viên tại việt nam ” Kết cấu đề tài gồm 4 phần: Chương i : lý luận chung về bhyt. Chương ii :thực trạng bhyt cho học sinh – sinh viên tại việt nam. Chương iii:. đề xuất kiến nghị và giải pháp. Chương i: lý luận chung về bhyt. i. cơ sở lý luận về bhyt. 1. Khái niệm và vai trò của BHYT. Khái niệm và giải thích khái niệm.
- Khái niệm: BHYT là hoạt động thu phí bảo hiểm và đảm bảo thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm theo mức độ và phạm vi đã thoả thuận BHYT là một trong những bộ phận quan trọng của chính sách xã hội mỗi quốc gia, ở Việt Nam BHYT đã và đang triển khai áp dụng cho rất nhiều đối tượng tham gia dưới hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Mức phí đóng BHYT không đồng nhất mà tuỳ thuộc vào từng nhóm đối tượng và theo từng khu vực. Tham gia BHYT họ sẽ được cấp phiếu KCB và được hưởng chế độ KCB BHYT mà trước hết là chăm sóc sức khoẻ ban đầu ( như hướng dẫn giữ gìn vệ sinh cá nhân, kiểm tra sức khoẻ, sơ cứu tai nạn, ốm đau đột xuất...), những chi phí này do cơ quan BHXH bảo đảm, người có thẻ BHYT không phải nộp một khoản tiền nào. Nếu người có thẻ BHYT đi KCB thì họ sẽ được thanh toán 80% viện phí, phần còn lại họ phải tự trả. Thực tế, BHYT Việt Nam đã chi trả hàng chục thậm chí hàng trăm triệu đồng cho nhiều trường hợp, lớn hơn rất nhiều so với mức phí người bệnh đóng góp. Đây chính là sự thể hiện rõ nhất nguyên tắc “ số đông bù số ít “, càng có nhiều người tham gia thì rủi ro càng được phân tán, chia sẻ. Xét về bản chất xã hội, BHYT là sự tập hợp có tổ chức của các thành viên xã hội nhằm chống lại những biến cố, rủi ro, bất hạnh của mỗi cá nhân. Nhờ sự hợp sức, đoàn kết trên tinh thần tương trợ này mà những rủi ro, biến cố, khó khăn của các cá nhân sẽ được dàn trải trên phạm vi rộng, giúp họ giảm gánh nặng tài chính, nhanh chóng khắc phục khó khăn. BHYT mang trong mình bản chất xã hội sâu sắc nhưng cũng cần hiểu rõ rằng BHYT không phải là sự ban ơn, sự chiếu cố của xã hội mà đó là trách nhiệm của xã hội đối với thành viên của mình. Điều đó vừa thể hiện trình độ văn minh, tính tổ chức xã hội, vừa thể hiện bản chất nhân văn, tính người của mỗi cá nhân. Về bản chất kinh tế, có thể khẳng định ngay BHYT không nhằm mục đích kinh doanh, lợi nhuận nhưng lại là công cụ thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội. Tuy nhiên sự phân phối nàykhông có nghĩa là lấy của người giàu chia cho người nghèo một cách cực đoan hay mang tính bình quân mà còn dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động, đảm bảo công bằng mà ở đó có người được trợ giúp nhiều , có người được trợ giúp ít. Phần hưởng của người thụ hưởng còn phải được tính toán trên cơ sở đóng góp và mức độ của các rủi ro, biến cố. 1.2. Vai trò của BHYT.
- BHYT ra đời vào cuối thế kỷ XIX đã đáp ứng được nhu cầu của con người và ngày càng tỏ ra là không thể thiếu được trong đời sống nhân dân. Vai trò của BHYT là vô cùng quan trọng. Thứ nhất, giúp những người tham gia BHYT khắc phục khó khăn về kinh tế khi bất ngờ bị ốm đau, bệnh tật vì việc khám, chữa, điều trị chi phí rất tốn kém, ảnh hưởng đến ngân sách gia đình, trong khi thu nhập của họ bị giảm đáng kể, thậm chí mất thu nhập. Từ đó góp phần ổn định cuộc sống của họ và gia đình, vai trò này thể hiện rõ nhất đối với người nghèo trong xã hội có thu nhập thấp. Thứ hai, góp phần giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. Các quốc gia trên thế giới thường có khoản chi từ ngân sách cho hệ thống y tế. Tuy nhiên, ở một số quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển, khoản chi này thường chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển ngành y. ở nhiều nước trên thế giới, Nhà nước chỉ đầu tư khoảng 60% ngân sách y tế, hoặc chỉ đầu tư ban đầu cho việc hình thành bệnh viện. Như vậy, Ngân sách y tế vẫn bị thiếu hụt. Có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề này như sự đóng góp của cộng đồng xã hội, trong đó có biện pháp thu phí của người đến khám, chữa bệnh. Nhưng đôi khi giải pháp này lại vấp phải trở ngại từ mức sống của dân cư. Vì vậy, biện pháp hiệu quả nhất là thực hiện BHYT để giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, hỗ trợ cho Ngân sách y tế, khắc phục sự thiếu hụt về tài chính, đảm bảo đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Thứ ba, góp phần nâng cao chất lượng KCB. Từ sự thiếu hụt Ngân sách y tế dẫn đến nhu cầu KCB không được đáp ứng do số lượng và chất lượng cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế không những không theo kịp nhu cầu KCB của người dân mà còn bị giảm sút, kìm hãm sự phát triển y học. Thông qua việc đóng góp vào quỹ BHYT, vấn đề này sẽ được khắc phục. Thứ tư, góp phần thực hiện công bằng xã hội trong khâu khám, chữa bệnh vì sau khi tham gia BHYT thì mọi người dân bất kể giàu nghèo đều được KCB và chăm sóc sức khoẻ tại các cơ sở y tế, do đó đảm bảo được công bằng xã hội. Thứ năm, nâng cao ý thức cộng đồng đối với tất cả người dân trong xã hội trên tinh thần “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quy luật số lớn. Vì vậy, mọi thành viên trong xã hội gắn bó với nhau hơn, đặc biệt là gắn bó với chế độ xã hội. 2. Phương thức bhyt:
- Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí KCB cho người có thẻ BHYT, BHYT được phân ra: -BHYT trọn gói: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT. -BHYT trọn gói, trừ các đại phẫu thuật: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế huộc phạm vi BHYT cho người được BHYT, trừ các chi phí y tế cho các cuộc đại phẫu thuật (theo quy định của cơ quan y tế). -BHYT thông thường: là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ quan BHYT được giới hạn tương xứng vói trách nhiệm và nghĩa vụ của người được BHYT. Đối với các nước phát triển, mức sống dân cư cao, hoạt động BHYT đã có từ lâu và phát triển, có thể thực hiện BHYT theo cả ba phương thức trên. Đối với các nước nghèo, mới triển khai hoạt động BHYT thường áp dụng phương thức BHYT thông thường. Với phương thức này, có hai hình thức tham gia bảo hiểm, đó là BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện. 3. Những nội dung cơ bản của bhyt: 3.1. Đối tượng bảo hiểm: Hoạt động y tế thường bao gồm: Phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng. Tu ỳ thheo tính chất và phạm vi hoạt động, BHYT ở mỗi quốc gia có tên gọi khác nhau như bảo hiểm sức khoẻ (có thể gồm cả phòng bệnh và chữa bệnh ; chữa bệnh và phục hồi chức năng ; hoặc cả ba) hay BHYT ( thường chỉ gồm hoạt động chữa bệnh). Dù tên gọi khác nhau nh ưn g đối t ượng BHYT đ ều là sức khoẻ của người được bảo hiểm, có nghĩa là nếu người đ ược bảo hiểm gặp rủi ro về sức khoẻ (bị ốm đau, bệnh tật...) thì sẽ đ ược cơ quan BHYT xem xét chi tr ả những chi phí khám chữa bệnh phát sinh. BHYT nói riêng và bảo hiểm sứ c khoẻ nói chung là một dịch vụ bảo hiểm rất phổ biến trên thế giới và đ ược đ ông đảo nhân dân tham gia. Đ ối t ượng tham gia BHYT là mọi người dân có nhu cầu BHYT cho sức khoẻ của mình hoặc cũng có thể là một người đ ại diện cho một tập thể, một đơn vị, một cơ quan...đứng ra ký kết hợp đồng BHYT cho tập thể, đơn vị, cơ quan...đó. Trong trường hợp này, mỗi cá nhân tham gia BHYT tập thể sẽ được cấp một văn bản chứng nhận quyền lợi BHYT của
- riêng mình. Đó là gi ấy chứng nhận bảo hiểm hoặc thẻ bảo hiểm tuỳ theo các h gọi ở mỗi n ước. Trong thời kỳ đầu mới triển khai BHYT, thông th ường các n ước đ ều có hai nhóm đối t ượng tham gia: bắt buộc và tự nguyện. Hình thức bắt buộc áp dụng với công nhân viên ch ức Nhà n ước và một số đối tượng nh ư người về h ưu có hưởng lương hưu...Hình th ức tự nguyện áp dụng cho mọi thành viên khác trong xã hội có nhu cầu và thường giới hạn trong đ ộ tuổi nhất định tuỳ theo từng quốc gia.
- 3.2. Phạm vi bảo hiểm: BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của các cá nhân, tập thể để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm. BHYT hoạt động trên nguyên tắc cân bằng thu chi nên thực tế BHYT không chấp nhận bảo hiểm cho những người mắc bệnh nan y nếu không có thoả thuận gì thêm. Những người đã tham gia BHYT khi gặp rủi ro về sức khoẻ (như ốm đau, bệnh tật) đều được thanh toán chi phí KCB với nhiều mức độ khác nhau tại các cơ quan y tế. Tuy nhiên, nếu KCB trong các trường hợp cố tình tự huỷ hoại bản thân, trong tình trạng say, vi phạm pháp luật hoặc một số trường hợp loại trừ theo quy định của BHYT...thì không được cơ quan BHYT chịu trách nhiệm. Ngoài ra, mỗi quốc gia đều có những chương trình sức khoẻ quốc gia khác nhau, trong đó quy định một số loại bệnh mà người đến KCB đó được Ngân sách của chương trình (hoặc Ngân sách Nhà nước) đài thọ chi phí. Cơ quan BHYT cũng không có trách nhiệm đối với người được BHYT nếu họ khám, chữa những bệnh thuộc chương trình này. Thông thường phạm vi BHYT của nhóm BHYT tự nguyện linh hoạt hơn nhóm BHYT bắt buộc. 3.3. Quỹ BHYT: Quỹ BHYT là một quỹ tài chính độc lập có quy mô phụ thuộc chủ yếu vào số lượng thành viên đóng góp và mức độ đóng góp vào quỹ của các thành viên đó. Quỹ BHYT được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của người tham gia bảo hiểm, gọi là phí bảo hiểm. Nếu người tham gia BHYT là người lao động và người sử dụng lao động thì quỹ BHYT được hình thành từ sự đóng góp của cả hai bên. Thông thường người sử dụng lao động đóng 50-66% mức phí bảo hiểm, người lao động đóng 34-50% mức phí bảo hiểm. Ngoài ra, quỹ BHYT còn được bổ sung bằng một số nguồn khác như: sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước ( thông thường chỉ trong trường hợp quỹ có dấu hiệu mất khả năng chi trả), sự đóng góp và ủng hộ của các tổ chức từ thiện, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi theo quy định của các văn bản pháp luật về BHYT nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Sau khi hình thành, quỹ BHYT được sử dụng như sau: - Chi thanh toán chi phí y tế cho người được BHYT. Đây là khoản chi thường xuyên lớn nhất của quỹ BHYT.
- - Chi dự trữ, dự phòng dao động lớn. - Chi đề phòng, hạn chế tổn thất. - Chi quản lý. Nếu cơ quan BHYT không phải là đơn vị kinh doanh thì không phải nộp thuế cho Nhà nước. Tỷ lệ và quy mô các khoản chi này thường được quy định trước bởi cơ quan BHYT và có thể thay đổ theo từng điều kiện cụ thể. Hoạt động BHYT thường có hai hình thức bắt buộc và tự nguyện, mức phí BHYT cũng khác nhau. Đối với BHYT bắt buộc, mức phí thường quy định thống nhất, còn đối với BHYT tự nguyện thì mức phí thay đổi theo từng hợp đồng BHYT. Việc chi trả cũng không gống nhau. ii. bhyt ở một số nước trên thế giới. 1. bhyt ở Trung Quốc: Hiện nay ở Trung Quốc có khoảng 900 triệu nông dân, chiếm 70% dân số cả nước. Thực tế cho thấy rất nhiều nông dân khi mắc bệnh, do không có khả năng tự trang trải các chi phí, đã phải vay mượn chồng chất, không trả được dẫn đến kết cục đáng tiếc. ở các vùng nông thôn Trung Quốc hiện nay có khoảng 80 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Trong khi đó, 90% nông dân phải tự chi trả hoàn toàn mọi phí tổn y tế. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ Trung Quốc vừa phát động chương trình hành động chưa từng có là thành lập hệ thống BHYT hợp tác kéo dài 8 năm ở các vùng nông thôn nhằm giúp họ giải toả bớt những lo lắng về tài chính, có điều kiện điều trị bệnh kịp thời, giảm bệnh tật và yên tâm làm ăn. Phương thức huy động tiền quỹ hợp tác sẽ từ 3 phía: chính quyền Trung ương, ban quản lý địa phương và từ chính các nông dân. Số tiền đóng góp sẽ phụ thuộc vào đặc điểm địa lý, xã hội của từng vùng khác nhau. Nông dân sẽ được nhận phần tiền trợ cấp y tế theo mức độ bệnh cũng như chế độ viện phí. Chính vì vậy, hiện nay ở Trung Quốc có hai hình thức BHYT chính: BHYT đối với công nhân( do Bộ lao động quản lý) và BHYT vùng nông thôn( do Bộ y tế quản lý). BHYT đối với công nhân đã có tác dụng thiết thực trong việc giảm lãng phí ở bệnh viện, từ đó nâng cao hiệu quả phục vụ bệnh nhân và tăng quỹ bệnh viện. BHYT vùng nông thôn gồm nhiều hình thức rất phong phú và đa dạng:
- -Chăm sóc y tế hợp tác xã: Người tham gia BHYT đóng góp vào quỹ và quỹ chi trả phục vụ các bệnh nhẹ. -BHYT các nguy cơ cao: Bổ sung cho hình thức trên, trong trường hợp chi trả cho các bệnh nặng. -BHYT riêng biệt cho phòng bệnh: Tiêm chủng trẻ em, chăm sóc thai, bảo vệ bà mẹ trẻ em trong thời gian sinh đẻ. -Các bệnh viện do nông thôn trả tiền: Người tham gia sẽ được giảm 20% chi phí y tế về thuốc men. -Hợp đồng về chăm sóc phòng bệnh: Nông dân phải gánh chịu 50% chi phí phòng bệnh hăng năm. -Chăm sóc răng cho học sinh phổ thông: Học sinh sẽ được khám chữa răng 6 tháng một lần do các bác sĩ răng tiến hành. -Trợ cấp chăm sóc y tế: Các quỹ BHYT này do các uỷ ban xã thành lập. Mục đích là trợ cấp cho các bệnh nhân nghèo và trợ cấp cho họ khoảng 20-40% tiiền thuốc men. Mục tiêu của Chính phủ Trung Quốc là đến năm 2010 tất cả nông dân đều được hưởng trợ cấpBHYT. 2. bhyt ở Hàn Quốc: Hệ thống BHYT ở Hàn Quốc tương đối mới mẻ và trẻ trên thế giới. Quỹ BHYT đầu tiên ra đời năm 1963 khi GDP của quốc gia còn thấp, dưới 100 USD. Năm 1977, BHYT cho các doanh nghiệp có trên 500 công nhân được thưc hiện và từ đó đến nay GDP của Hàn Quốc đã đạt mức 15218 USD. Hiện tại, 96% dân số Hàn Quốc đang tham gia BHYT Nhà nước, 4% còn lại nằm trong chương trình BHYT cho người nghèo cũng như người già đang được chăm sóc tại các nhà tế bần của Nhà nước. Luật BHYT ở Hàn Quốc quy định BHYT bắt buộc đối với người làm công ở nơi làm việc. Ngoài ra, họ cũng có thể tham gia bảo hiểm không bắt buộc tại các công ty bảo hiểm do chủ xí nghiệp hoặc một số chủ xí nghiệp, nơi họ làm việc thành lập và được phê chuẩn. Nhưng khi người này rời bỏ công việc( đã đăng ký), thay đổi công việc hoặc trở thành người được bảo vệ y tế... thì sẽ thuộc nhóm đối tượng BHYT tuỳ ý lựa chọn. Tại Hàn Quốc, những người có việc làm phải đóng BHYT hàng tháng cho cơ quan BHYT. Mức đóng 3%( chủ sử dụng lao động và người lao động mỗi bên 1,5%). Giáo viên các trường tư thục chỉ phải đóng 30%, 20% còn lại do Nhà nước bổ sung. Hiện tại
- mức thu là 2,8% đối với người lao động bình thường và 3,4% đối với công chức Nhà nước và giáo viên tư thục, mức thu không có trần tối đa. Mức lương tối thiểu là 280000 Uôn, tương đương với 204 ơ-rô. Người có thu nhập dưới mức lương tối thiểu không phải đóng BHYT. Đối với lao động tự do, mức đóng dựa trên tài sản, xe cộ, thu nhập, tuổi tác và giới tính. Thông thường lao động tự do đóng 74% số phải đóng, phần còn lại do Nhà nước bổ sung. Năm 1997, tại Hàn Quốc có 373 quỹ BHYT Nhà nước. Đây là các quỹ hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính. Mỗi quỹ thường có từ 30000 đến 200000 người tham gia, chi phí quản lý trung bình là 8,5%, đặc biệt có một số quỹ lên đến 15,6%. Cơ sở KCB được thanh toán chi phí theo quy định của cơ quan BHYT.Tiền thanh toán cho cơ sở KCB một phần do cơ quan BHYT thanh toán, một phần do người tham gia BHYT tự trả. Đối với KCB ngoại trú, bệnh nhân tự trả một khoản phí cố định 4USD cho mỗi lần khám. Ngoài ra, bệnh nhân còn phải trả 30% trong tổng chi phí dịch vụ cho một lần khám bệnh ở tuyến cơ sở, 50% cho tuyến ngoại trú tại bệnh viện lớn. Đối với nội trú, bệnh nhân phải đồng chi trả 20%. Nhà nước quy định đối với các kỹ thuật mới và đắt tiền như MRI, siêu âm và một số liệu pháp hoá học điều trị ung thư không được cơ quan BHYT thanh toán. Quỹ BHYT thường được sử dụng để trợ cấp chăm sóc y tế cho người tham gia bảo hiểm( kể cả người phụ thuộc) khi bị ốm, chấn thương, bao gồm: -Chi phí chuẩn đoán. -Cấp thuốc điều trị và tiêu hao vật chất khác để phục vụ cho điều trị. -Điều trị, phẫu thuật và các chăm sóc y tế khác. -Điều trị nội trú với các phương tiện y tế. -Chăm sóc, phục vụ của y tá và hộ lý. -Chi phí vận chuyển và đi lại. -Ngoài ra, còn chi cho hoạt động quản lý của quỹ. Tuy nhiên, trừ bệnh lao, còn các trường hợp khác quỹ BHYT chỉ thanh toán tối đa cho người bệnh trong vòng 180 ngày. Người phụ thuộc ở đây bao gồm vợ (hoặc chồng ) của người tham gia BHYT. Theo luật BHYT hiện hành của Hàn Quốc, cơ quan BHYT chịu sự giám sát của Bộ y tế và phúc lợi xã hội. BHYT chịu trách nhiệm quản lý và thực hiện các vấn đề về BHYT, bao gồm cả vấn đề thẩm định công nghệ mới trong y tế cũng như phát triển các
- thuốc mới trong điều trị. Cơ quan BHYT cũng có thể tự quản lý và điều hành các trung tâm y tế và các trung tâm tăng cường và giáo dục sức khoẻ. 3. Bảo hiểm y tế ở Philippin: Hiện nay Philippin thực hiện BHYT bắt buộc đối với mọi người dân, phân thành 4 nhóm đối tượng tương ứng với các mức đóng: -Đối với người làm công ăn lương: Mức đóng BHYT theo luật định tối đa 3% tiền lương hàng tháng( chủ sử dụng lao động đóng 50% và người lao động đóng 50%) nhưng hiện nay BHYT Philippin quy định mức đóng 2,5% tiền lương hàng tháng. Mức lương làm căn cứ đóng BHYT được chia làm 12 mức cố định, nhưng có khống chế mức lương trần là 15000 pê-sô/tháng. -Đối với người đi lao động nước ngoài: Mức đóng BHYT cố định là 900 pê- sô/năm, chỉ khi nào nộp đủ mới được cấp hộ chiếu. -Đối với người lao động tự do: Mức phí đóng BHYT cố định giống nhau là1200 pê-sô/người/năm, người lao động phải tự đóng 100%, được tổ chức thu theo nhóm ít nhất là 50 người trở lên. Phí BHYT có thể đóng theo quý, 6 tháng, năm. -Đối tượng người nghèo: Mức phí là 1200 pê-sô/hộ gia đình/năm( đối với tỉnh giàu Ngân sách Trung ương đóng 50%, Ngân sách địa phương đóng 50%, đối với tỉnh nghèo Ngân sách Trung ương đóng 90%, Ngân sách địa phương đóng 10%). Nhưng do Ngân sách Nhà nước hạn chế , đến nay mới có 5 triệu hộ nghèo được cấp BHYT. -Những người về hưu không phải đóng phí BHYT mà do quỹ BHYT trước đây đóng thay. Về quyền lợi : Các đối tượng làm công ăn lương, người đi lao động nước ngoài, người lao động tự do đóng BHYT sau 3 tháng mới được hưởng quyền lợi, nếu dừng tham gia BHYT sẽ được hưởng quyền lợi tiếp 3 tháng nữa. Riêng đối với người nghèo, khi đóng BHYT sẽ đựoc hưởng quyền lợi ngay. Tất cả các đối tượng đóng BHYT chỉ được hưởng quyền lợi điều trị nội trú ở bất kỳ cơ sở điều trị nào do phihealth lựa chọn thông qua thẩm định, thời gian điều trị nội trú được BHYT chi trả là 45 ngày/năm với đối tượng chính và 45 ngày/năm với tổng số đối tượng ăn theo (đối tượng ăn theo gồm: vợ hoặc chồng, cha, mẹ, con dưới 21 tuổi ), riêng người nghèo được hưởng thêm quyền lợi ngoại trú tại cơ sở KCB đăng ký ban đầu.
- Phương thức thanh toán: Đối với điều trị nội trú, áp dụng thanh toán theo phương thức thực thanh, thực chi có định xuất và theo tuyến điều trị. Đối với điều trị ngoại trú, áp dụng thanh toán theo kế toán định xuất 300 pê-sô/hộ/năm cho cơ sở đăng ký KCB ban đầu. Về chi phí quản lý, được trích 12% tổng số thu BHYT và 3% số lãi đầu tư để chi phí cho bộ máy của hệ thống BHYT. 4. bhyt ở Singapore: Đối tượng tham gia BHYT ở Singapore bao gồm những người lao động dưới 65 tuổi, trừ những người tàn tật, quân nhân tại ngũ, trẻ em từ 15 ngày tuổi đến 19 tuổi chưa đi làm và người dưới 25 tuổi đang theo học ở các trường. Phạm vi BHYT loại trừ các trường hợp sau: -Nằm viện (không do tai nạn) trong vòng 30 ngày sau khi tham gia BHYT. -Bị tàn tật do tham gia biểu tình, đánh nhau, nổi dậy, chiến tranh. -Bị thương do đi du lịch. -Tự gây thương tích, tự tử dù tỉnh táo hay mất trí. -Bị bệnh tâm thần, nghiện rượu, ma tuý. -Kế hoạch hoá gia đình. -Các công việc về răng, mắt. -Phẫu thuật thẩm mỹ (trừ khi việc này là cần thiết do các vết thương vì tai nạn nằm trong phạm vi BHYT). -Nằm viện để chuẩn đoán, thử phản ứng thuốc, chụp X-quang. -Tàn phế do trượt băng, đua ngựa vượt rào, pôlô, đua môtô, leo núi hoặc các loại đua dùng phương tiện. -Chi phí cho chăm sóc đặc biệt như xe đẩy, máy hô hấp nhân tạo... và các chi phí dịch vụ phi y tế như đài, tivi, điện thoại... BHYT ở Singapore chịu trách nhiệm cả 24 giờ và thanh toán chi phí y tế thực tế trong thời gian nằm viện trong phạm vi bảo hiểm. Ngoài ra, người tham gia BHYT còn được thanh toán các chi phí sau: -Chi phí cho giường bệnh. -Chi phí ăn uống.
- -Các dịch vụ của bệnh viện bao gồm: phòng phẫu thuật, quần áo, các xét nghiệm, điện tâm đồ, vật lý trị liệu... -Trợ cấp phẫu thuật. -Chi phí khám bệnh. Chương ii: Thực trạng bhyt cho học sinh – sinh viên ở Việt Nam I.Sự cần thiết triển khai BHYT HS-SV ở Việt Nam. Những năm qua, công tác chăm sóc sức khoẻ cho bộ phận HS-SV luôn được xó hội coi trọng. Mặc dự trong hoàn cảnh cú nhiều khú khăn về nguồn lực tài chính, có sự phân hoá giàu nghèo trong xó hội nhưng các chương trỡnh mục tiờu trọng điểm nhằm nâng cao thể chất, thể lực cho HS-SV như: nha học đường, mắt học đường, chương trỡnh tiờm chủng mở rộng...đó đạt được những kết quả quan trọng. Thực tế cho thấy sức khoẻ của HS-SV Việt Nam trong những năm gần đây đó được cải thiện rất đáng kể. Đóng góp cho sự thành công đó phải kể đến một trong những giải pháp quan trọng đó là thực hiện chương trỡnh BHYT HS-SV. BHYT HS-SV khụng chỉ đóng góp nguồn tài chính quan trọng cho công tác KCB mà cũn gắn việc tham gia BHYT HS-SV với việc hỡnh thành hệ thống y tế trường học và chăm sóc sức khoẻ cho HS-SV tại trường học cho thấy khả năng thực hiện nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, ở nhiều nơi đó trở thành mụi trường nâng cao sức khoẻ cho HS-SV. Ngoài việc giáo dục sức khoẻ nội khoá, các yêu cầu về vệ sinh môi trường, nâng cao thể lực trí lực cho HS-SV đó thực hiện cho thấy cần cú chớnh sỏch chăm sóc sức khoẻ đối với HS-SV phù hợp nhất là y tế trường học hoạt động ngay tại trường. Để tăng cường nguồn kinh phí chăm sóc sức khoẻ nhân dân, trong đó có HS-SV song song với việc đầu tư hỗ trợ của Nhà nước thỡ cần thực hiện chủ trương xó hội hoỏ thụng qua hỡnh thức BHYT cho HS-SV. Những năm qua bhyt hs-svđó thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc về mặt tài chớnh cho cụng tỏc chăm sóc sức khoẻ cho bộ phận HS- SV. Số HS-SV tham gia BHYT tăng dần qua các năm khẳng định số lượng HS-SV được chăm sóc về y tế tăng lên đáng kể. Ở lứa tuổi HS-SV, thời gian dành cho công việc học tập và vui chơi chiếm phần lớn quỹ thời gian vỡ vậy HS-SV thường hay mắc các bệnh đặc trưng như: bệnh về mắt, bệnh về cột sống, bệnh về răng miệng... hơn nữa phần lớn HS-SV rất hiếu động nên hay
- gặp những tai nạn trong sinh hoạt như khi lao động, tham gia giao thông, luyện tập thể thao...làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ của bản thân do đó ảnh hưởng tới kết quả học tập. Cũng do đặc thù của HS-SV, đặc biệt là học sinh ở các trường chuyên, sinh viên của các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề là phải học tập ở xa nhà, họ ở khắp nơi trong cả nước tập trung về các trung tâm thành phố, thị xó để học tập vỡ vậy họ phải tự lo hoàn toàn cuộc sống sinh hoạt cũng như học tập của mỡnh. Nếu rủi ro xảy ra nú sẽ làm ảnh hưởng tới việc học tập thậm chí nó có thể làm gián đoạn quá trỡnh học tập và rốn luyện của HS-SV, đồng thời làm tăng gánh nặng về tài chính cho gia đỡnh và xó hội. Điều quan trọng hơn nó gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho bản thõn và gia đỡnh đó là phần thiệt hại lớn nhất mà không có thứ vật chất nào có thể bù đắp được. Nhờ có BHYT mà HS-SV được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, KCB, sơ cứu tai nạn, kiểm tra thường xuyên qua các đợt khám sức khoẻ định kỳ nên nhiều HS-SV được phát hiện bệnh kịp thời để điều trị. Như vậy,việc triển khai BHYT HS-SV ở Việt Nam là rất cần thiết phù hợp với nhu cầu của HS-SV, phụ huynh và chính sách chăm sóc sức khoẻ của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân nói chung và HS-SV nói riêng. II.Qui định về BHYT HS-SV ở Việt Nam. 1.Qui định về mức thu. Ngày 07/08/2003 liên Bộ Tài chính-Bộ Ytế đó ra thụng tư 77/2003/TTLB-BTC- BYT hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện. Thông tư này có qui định BHYT HS-SV là một bộ phận của BHYT tự nguyện. BHYT HS-SV nhằm thực hiện chính sách xó hội trong KCB, khụng vỡ mục đích kinh doanh không áp dụng qui định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Quyền lợi và nghĩa vụ của HS-SV tham gia BHYT tự nguyện được thống nhất trong cả nước. Mức phí BHYT HS-SV được xác định trên cơ sở khung giá dịch vụ y tế, điều kiện kinh tế xó hội, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và tỷ lệ HS-SV tham gia BHYT. 1.1.Khung mức đóng phí BHYT HS-SV -Khung mức đóng BHYT HS-SV được xác định theo khu vực: Bao gồm hai khu vực thành thị và nông thôn.
- +Khu vực thành thị: gồm các quận nội thành, các thành phố trực thuộc Trung ương, các phường của thành phố, thị xó thuộc tỉnh. Khung mức đóng BHYT qui định cho một HS-SV trong một năm khu vực thành thị từ 35000đ-70000đ. +Khu vực nụng thụn: bao gồm cỏc khu vực cũn lại thỡ khung mức phớ đóng BHYT qui định cho một HS-SV trong một năm là từ 25000đ-50000đ. 1.2.Phương thức đóng BHYT HS-SV - Phí BHYT HS-SV thu một lần vào thời điểm đầu năm học. - HS-SV tham gia BHYT đăng ký theo lớp, trường. - Đóng phí ít nhất 6 tháng một lần cho đại lý thu tại trường học và kết thúc vào ngày 30/11. 2.Chi trả BHYT HS-SV 2.1.Quản lý và sử dụng quỹ KCB BHYT HS-SV 2.1.1.Quản lý quỹ. -Quỹ KCB BHYT HS-SV được hỡnh thành từ cỏc nguồn chủ yếu sau: +Thu từ phí HS-SV tham gia đóng góp. +Nhà nước hỗ trợ. +Tiền lói do thực hiện cỏc biện phỏp bảo toàn và tăng trưởng quỹ KCB. +Thu từ các nguồn tài trợ, viện trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. +Các khoản thu hợp pháp khác. -Phân bổ quỹ KCB BHYT HS-SV. Quỹ KCB BHYT HS-SV được tập trung tại BHXH Việt Nam và được phân bổ trong năm tài chính như sau: +90% chi cho KCB. +8% chi cho hoa hồng đại lý thu, phát hành thẻ BHYT. +2% chi bổ sung cho công tác tuyên truyền. 2.1.2.Sử dụng quỹ BHYT HS-SV Để duy trỡ và phỏt triển mạng lưới y tế trường học, phục vụ công tác giáo dục thể chất, hướng dẫn phũng chống cỏc bệnh học đường và chăm sóc sức khoẻ cho HS-SV tại trường, đối với các trường có phũng y tế trường học, cán bộ y tế và có số lượng từ trên 600 HS-SV hoặc trên 50% số lượng HS-SV của trường tham gia BHYT, phần kinh phí KCB BHYT HS-SV được phân bổ như sau:
- *20% trích cho y tế trường học để chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho và thực hiện hỗ trợ một số nội dung giáo dục sức khoẻ cho HS-SV theo quy định tại Thông tư số 03/2000/TTLT-BYT-BGD&ĐT ngày 01/03/2000 của liên Bộ Giáo dục-Đào tạo và Bộ Ytế về công tác y tế trường học. *40% chuyển về cho các cơ sở KCB nơi HS-SV có thẻ đăng ký KCB để thanh toán chi phí KCB ngoại trú và thanh toán cho các trường hợp cấp cứu ngoài tuyến. *40% cũn lại do cơ quan BHXH quản lý để thanh toán các chi phí KCB nội trú và thanh toán trực tiếp cho HS-SV bị bệnh theo quy định. Trong trường hợp các trường học chưa có phũng y tế, chưa có cán bộ y tế chuyên trách và tỷ lệ HS-SV tham gia thấp hơn 50% thỡ cơ quan BHXH huyện sẽ phối hợp với trường học để ký hợp đồng với cơ sở y tế thuận lợi cho việc sử dụng 20% kinh phí để chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho HS-SV. 2.2.Mức chi trả BHYT HS-SV. HS-SV tham gia BHYT tự nguyện, sau khi đóng phí BHYT được cấp thẻ BHYT có giá trị sử dụng tương ứng với thời gian đóng. HS-SV có thẻ BHYT được tiếp nhận, KCB và hưởng chế độ như sau: 2.2.1.Chăm sóc sức khoẻ ban đầu. -Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho HS-SV có thẻ BHYT gồm những nội dung sau: +Hướng dẫn giữ gỡn vệ sinh cỏ nhõn, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường và phũng chống bệnh tật. +Kiểm tra sức khỏe và quản lý hồ sơ sức khoẻ cá nhân. +Thực hiện sơ cứu tai nạn, ốm đau đột xuất. -Cơ quan chịu trách nhiệm chăm sóc sức khoẻ ban đầu: +HS-SV được chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại phũng y tế trường học. Trường hợp không có phũng y tế tại trường thỡ cơ quan BHXH có trách nhiệm hợp đồng với cơ sở y tế gần nhất đảm bảo việc chăm sóc thuận tiện và phù hợp. Chi phí cho việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại cơ sở y tế nêu trên do cơ quan BHXH đảm nhận, HS-SV có thẻ BHYT không phải nộp một khoản tiền nào. 2.2.2.Tuyến KCB và phương thức thanh toán chi phí KCB.
- -HS-SV tham gia BHYT được lựa chọn cơ sở KCB tuyến quận, huyện để đăng ký KCB. Khi tỡnh trạng bệnh vượt quá khả năng chuyên môn kỹ thuật của cơ sở KCB, được cơ sở KCB chuyển lên tuyến chuyên môn kỹ thuật cao hơn. -HS-SV có thẻ BHYT nếu KCB theo đúng tuyến quy định ( huyện, tỉnh, TƯ), được quỹ BHYT thanh toán 80% chi phí, HS-SV có thẻ nộp 20%, nhưng khi số tiền nộp vượt quá 1,5 triệu đồng/năm KCB thỡ được cơ quan BHXH thanh toán phần nộp vượt. Trường hợp chi phí cho một lần KCB dưới 20000đ thỡ HS-SV cú thẻ BHYT không phải nộp 20%. -HS-SV có thẻ BHYT khi đi KCB ngoại trú, điều trị nội trú được hưởng các quyền lợi sau: +Khám và làm các xét nghịêm, chiếu chụp X quang, các thăm dũ chức năng phục vụ cho chuẩn đoán và điều trị theo chỉ định của bác sỹ. +Cấp thuốc trong danh mục theo quy định của Bộ Y tế, truyền máu, truyền dịch theo quy định của bác sỹ điều trị, sử dụng các vật tư tiêu hao thông dụng, thiết bị y tế phục vụ KCB . +Làm các thủ thuật và phẫu thuật. +Sử dụng giường bệnh. -Nếu HS-SV có thẻ bhyt kcb không đúng nơi đăng ký trờn thẻ, tự chọn nơi khám, phũng dịch vụ, thầy thuốc, thuốc...thỡ người bệnh tự thanh toán toàn bộ chi phí KCB. Sau đó được cơ quan BHXH xem xét hồ sơ, chứng từ để thanh toán một phần chi phí KCB, nhưng không quá 80% chi phí KCB bỡnh quõn của tuyến chuyờn mụn kỹ thuật phự hợp. -Trường hợp cấp cứu, HS-SV có thẻ BHYT được khám và điều trị tại bất kỳ cơ sở y tế nào của Nhà nước vẫn được hưởng chế độ BHYT. -HS-SV có thời gian tham gia BHYT tự nguyện liên tục từ 24 tháng trở lên, được cơ quan BHXH thanh toán chi phí KCB đối với một số trường hợp đặc biệt với mức sau: +Phẫu thuật tim không quá 10 triệu đồng/người/năm. +Chạy thận nhân tạo không quá 12 triệu đồng/người/năm. +Tiờm phũng uốn vỏn, sỳc vật cắn tối đa không quá 300000 đồng/người/năm. +Trợ cấp tử vong theo mức 1triệu đồng/trường hợp.
- Tuy nhiên, nếu HS-SV KCB trong các trường hợp cố tỡnh tự huỷ hoại bản thân, trong trường hợp say, phẫu thuật thẩm mỹ, vi phạm pháp luật hoặc một số trường hợp loại trừ khác theo quy định thỡ sẽ không được BHYT chịu trách nhiệm thanh toán. 3.Thực trạng triển khai và kết quả đạt được Một trong những ưu điểm nổi bật của BHYT học sinh sinh viên là giành 35% kinh phí để chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho học sinh ngay tại trường học. Vì vậy BHYT cho học sinh sinh viên đã làm “sống lại” y tế trường học. Nếu như năm học 1994-1995 số thu của BHYT là 8,33 tỷ đồng thì cho đến năm học 2003-29004 số thu đã lên đến 170,781 tỷ đồng tăng 20,5 lần tương ứng với mức kinh phí giành cho y tế trường học. Trong năm 1998-1999 là 20,626 tỷ đồng tăng lên 33,8 tỷ năm học 2002-2003. Quỹ BHYT học sinh đã huy động được nguồn tài chính đáng kể giúp các nhà trường khôi phục, xây dựng và phát triển mạng lưới y tế trường học . Vấn đề này đã được Thông tư số 03/2000/TTLB- BHYT-BGDĐ ngày 01/03/2000 khẳng định: nguồn kinh phí hoạt động y tế trường học “chủ yếu là nguồn quỹ BHYT học sinh để lại trường”. Bằng nguồn kinh phí BHYT học sinh để lại trường, công tác y tế trường học đã có thêm điều kiện để thực hiện tốt các việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho học sinh sinh viên ngay tại tr ường học: chi mua thuốc, mua sắm dụng cụ y tế thông thường, chi trả lương phụ cấp cho cán bộ y tế trường học. Bảng 3: Số lượng học sinh sinh viên tham gia BHYT và số thu chi quỹ BHYT qua các năm. Số Số Số tiền Tổn HS - Số Số Số chi để lại y tế g số Năm SV thu KCB KCB KCB trường học người học tham (triệu nội trú ngoại trú (triệu (triệu KCB gia đồng) (Người) (Người) đồng) đồng) (Người) (người) 1998- 3.39 58. 35.3 20.626 232. 1.213. 1.44 1999 6.400 933 60 630 000 5.630 1999- 2.95 61. 36.6 21.365 179. 450.2 629. 2000 5.160 044 26 160 04 364
- 2000- 3.10 66. 39.8 23.218 146. 352.4 499. 2001 1.123 337 02 972 00 372 2001- 4.20 89. 51.9 30.457 195. 525.1 720. 2002 1.514 978 27 097 89 286 2002- 4.91 11 67.8 33.800 236. 892.8 1.12 2003 0.640 4.842 98 546 43 3.389 2003- 5.07 17 67.8 33.800 236. 892.8 1.12 2004 8.730 0.781 98 546 43 3.389 Nguồn: BHYT Việt Nam Quyền lợi của học sinh sinh viên tham gia BHYT về cơ bản được đảm bảo, quỹ BHYT học sinh sinh viên đã thanh toán chi phí KCB ngoại trú trong trường hợp cấp cứu và tai nạn, thanh toán chi phí khám và điều trị nội trú theo quy định. Do nhu cầu của học sinh sinh viên và cha mẹ của học sinh sinh viên, một số địa phương đã thực hiện thí điểm KCB ngoại trú cho học sinh sinh viên. Từ tháng 9 năm 2003 đến nay, thực hiện Thông tư 77/2003/TTLT- BTC-BYT học sinh sinh viên tham gia BHYT được hưởng KCB ngoại trú và điều trị nội trú. Nhiều trường hợp học sinh sinh viên bị bệnh nặng hiểm nghèo có chi phí KCB lớn tới hàng chục triệu, hàng trăm triệu đồng cũng được quỹ BHYT thanh toán. Một số trường hợp học sinh sinh viên KCB theo yêu cầu riêng cũng được quỹ BHYT thanh toán tri phí KCB theo tuyến chuyên môn kỹ thuật phù hợp theo quy định của Bộ y tế. Chất lượng KCB ngày càng được cải thiện, các xét nghiệm phục vụ tiên tiến phục vụ cho chuẩn đoán và điều trị đều được cơ quan BHXH thanh toán theo chỉ định của thầy thuốc. Mặc dù nhiều người thừa nhận BHYT HS- SV mang tính xã hội, có ý nghĩa thiết thực trong công tác chăm sóc, bảo vệ, giáo dục sức khoẻ cho học sinh sinh viên, góp phần thực hiện một nền giáo dục toàn diện trong nhà trường và có ý nghĩa về kinh tế xã hội. Mức đóng còn thấp chỉ bằng 1/7 mức phí bình quân của đối tượng tham gia BHYT bắt buộc, nhưng đến nay số lượng học sinh sinh viên tham gia BHYT cũng chưa cao (mới đạt 25%) so với tổng số học sinh sinh viên cả nước, đặc biệt hiện nay có đến 17/63 tỉnh thành phố số học sinh sinh viên tham gia BHYT đạt tỷ lệ dưới 10% trên tổng số học
- sinh sinh viên của địa phương. Số trường học đạt tỷ lệ cao thường tập trung vào các trường của thành phố, thị xã. Còn các trường thuộc khu vực nông thôn, đặc biệt là các trường thuộc vùng sâu, vùng xa dân tộc ít người thì thì tỷ lệ đạt còn thấp. Thậm chí có những trường chưa có một em học sinh nào tham gia BHYT. Những khó khăn tồn tại trong quá trình tổ chức thực hiện BHYT học sinh sinh viên là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan của ngành giáo dục và đào tạo mà số lượng học sinh sinh viên tham gia BHYT còn thấp. Có thể rút ra một số nguyên nhân chủ yếu sau: Sự yếu kém trong việc đảm bảo quyền lợi KCB BHYT và sự phiền hà trong quá trình thực hiện dịch vụ y tế cho người tham gia BHYT đã hạn chế vào lòng tin vào BHYT. BHXH một số địa phương chưa thực sự tích cực, năng động, chưa quyết tâm vượt qua khó khăn, trở ngại trong triển khai BHYT học sinh sinh viên, chưa tranh thủ được sự chỉ đạo giúp dỡ của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương. Nhiều địa phương chưa có sự thống nhất trong chỉ đạo, lúng túng trong định hướng, sự phối hợp của các ngành BHXH, giáo dục và đào tạo, y tế chưa nhịp nhàng, đồng bộ, thậm chí có nơi không có sự phối hợp. Nhận thức về BHYT học sinh sinh vên, về quyền lợi và trách nhiệm cộng đồng của một bộ phận nhân dân còn hạn chế. Nhiều địa phương, gia đình kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian đầu năm học, học sinh sinh viên phải đóng góp nhiều khoản tiền cùng một lúc dẫn đến không có khả năng tham gia BHYT học sinh sinh viên cho con em họ. Công tác thông tin tuyên truyền còn thiếu cụ thể, thiết thực. Phí thu BHYT học sinh sinh viên thấp so với các tổ chức bảo hiểm khác nên không khuyến khích các đại lý nhiệt tình vận động, mở rộng tham gia BHYT học sinh sinh viên. Cá biệt, có nơi học sinh sinh viên tham gia loại hình bảo hiểm nào lại không do các em hoàn toàn lựa chọn. Hệ thống y tế trường học hoạt động được là nhờ có sự góp phần của nguồn kinh phí từ quỹ BHYT trích lại cho nhà trường. Do đó các trường học sinh sinh viên tham gia BHYT ít hoặc không tham gia BHYT thì y tế trưòng học hoạt động rất khó khăn hoặc không có y tế trường học. Đội ngũ những người làm công tác y tế trường học
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Thực trạng Bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt Nam và các giải pháp hoàn thiện để phát triển
36 p | 1098 | 206
-
Luận văn: THỰC TRẠNG THAM GIA BẢO HIỂM Y TẾ CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN (2006-2008)
78 p | 681 | 131
-
Luận văn tốt nghiệp: Đánh giá thực trạng triển khai bảo hiểm y tế HS - SV tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam
92 p | 364 | 113
-
Luận văn tốt nghiệp: Thực trạng Bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt nam và các giải pháp hoàn thiện để phát triển
43 p | 464 | 106
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt Nam
23 p | 273 | 70
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Kiểm soát chi thanh toán Bảo hiểm y tế tại Bảo hiểm xã hội thị xã AyunPa, tỉnh Gia Lai
27 p | 219 | 21
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Quản lý thu Bảo hiểm y tế trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
26 p | 118 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo hiểm y tế bắt buộc từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Phú Thọ
94 p | 68 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện công tác kiểm soát chi bảo hiểm y tế tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Kon Tum
131 p | 21 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Sở hữu và sử dụng bảo hiểm y tế của người dân thành phố Hà Nội (Nghiên cứu trường hợp phường Kim Giang, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội)
133 p | 33 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng: Quản lý thu Bảo hiểm y tế tại Bảo hiểm xã hội Thành phố Ninh Bình
22 p | 39 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý thu bảo hiểm y tế hộ gia đình tại Bảo hiểm xã hội huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam
136 p | 6 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác quản lý chi bảo hiểm y tế tại Bảo hiểm Xã hội tỉnh Quảng Nam
116 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
97 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác quản lý quỹ Bảo hiểm Y tế tại Bảo hiểm xã hội huyện Đại Lộc
115 p | 1 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Công tác bảo hiểm y tế cho người nghèo tỉnh Bến Tre
108 p | 3 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại địa bàn tỉnh Gia Lai
118 p | 7 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác kiểm soát chi quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại Bảo hiểm Xã hội huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang
101 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn