Luận văn đề tài: Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay
lượt xem 18
download
Cùng với sự phát triển chung của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trước mắt phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng trong GDP của dịch vụ là 42- 43%, công nghiệp - xây dựng là 40 - 41% và nông nghiệp là 16-17% [7]. Như vậy ngành kinh tế dịch vụ được coi là một trong những ngành kinh tế có vị trí quan trọng và có tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu nền kinh tế nước...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn đề tài: Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay
- LUẬN VĂN: Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay
- Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển chung của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trước mắt phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng trong GDP của dịch vụ là 42- 43%, công nghiệp - xây dựng là 40 - 41% và nông nghiệp là 16-17% [7]. Như vậy ngành kinh tế dịch vụ được coi là một trong những ngành kinh tế có vị trí quan trọng và có tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu nền kinh tế nước ta đến thời điểm đó. Nếu so sánh với một số địa phương như: Hải Phòng, Nghệ An, Khánh Hòa v.v... thì Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong những tỉnh có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển các ngành dịch vụ như: Dịch vụ dầu khí, dịch vụ vận tải, dịch vụ thủy sản, dịch vụ du lịch, dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ bưu chính viễn thông v.v... Năm 2000 GDP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đạt 41.359 tỷ đồng, tính theo bình quân đầu người là: 40.620.000 đồng/người/năm, cao nhất trong cả nước. Trong cơ cấu kinh tế nếu tính cả dầu khí thì: công nghiệp - xây dựng chiếm 81,5%, nông nghiệp chiếm: 4,06%, và dịch vụ chiếm 14,36%; nếu không kể dầu khí thì: công nghiệp - xây dựng: 47,26%, dịch vụ 41,17%, nông nghiệp 11,62% và là một trong 10 tỉnh đóng góp nguồn ngân sách lớn nhất cho nhà nước 20,01%, đứng thứ hai sau thành phố Hồ Chí Minh (33,05%) [2]. Đây là những thành tựu quan trọng để Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, với những kết quả đạt đựơc nêu trên, trong toàn bộ nền kinh tế thì các hoạt động kinh doanh dịch vụ vẫn chưa tương xứng với những tiềm năng, lợi thế mà ngành dịch vụ có thể khai thác, quá trình đầu tư để khai thác còn nhiều hạn chế trong các lĩnh vực như chính sách quản lý, mô hình phát triển, nguồn nhân lực, vốn, kỹ thuật v.v... Một số lĩnh vực dịch vụ mới chỉ khai thác được một phần rất nhỏ như: Dịch vụ dầu khí, dịch vụ vận tải, du lịch, nông nghiệp … Vì vậy, để phù hợp với mục tiêu kinh tế chung của cả nước đồng thời muốn phát triển ngành kinh tế dịch vụ đạt mức tỷ trọng cao trong cơ cấu của địa
- phương và để khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế phát triển kinh tế dịch vụ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi cần phải có những đánh giá đúng mức về tiềm năng, lợi thế và thực trạng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế mà tỉnh đã đề ra, góp phần xác lập một cơ cấu kinh tế hợp lý của địa phương. Đây là lý do để tác giả chọn đề tài: "Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay". 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay đã có một số luận văn, luận án có liên quan đến đề tài được được bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh như: "Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu", Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần Quốc Nhật, 1995; "Nghiên cứu về đầu tư khai thác dầu khí" của TS. Trần Đức Chính, 2000; "Phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc - tiềm năng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần Ngọc Tư, 2000; "Kinh tế dịch vụ và dịch vụ du lịch tỉnh Ninh Bình", Luận văn thạc sĩ kinh tế của Phạm Xuân Thu, 1995; "Phát triển kinh tế du lịch ở Nghệ An", Luận văn thạc sĩ kinh tế của Hoàng Đức Cường, 1999... và một số bài viết trên các báo, tạp chí nghiên cứu của Trung ương và địa phương. Song các luận văn, luận án, các bài viết nêu trên chỉ nghiên cứu về một ngành cụ thể trong kinh tế dịch vụ ở các địa phương khác, chưa nghiên cứu kinh tế dịch vụ từ góc độ một nhóm ngành trong cơ cấu kinh tế ở địa bàn cấp tỉnh. Đặc biệt là đối với kinh tế dịch vụ của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì chưa có một công trình nào nghiên cứu trung tên với đề tài của luận văn này. 3. Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn của luận văn Mục đích, nhiệm vụ: Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về kinh tế dịch vụ và xác định vai trò, tầm quan trọng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Phân tích thực trạng kinh tế dịch vụ của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong những năm qua để thấy được những thành tựu, những hạn chế, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế dịch vụ tại tỉnh trong những năm đầu thế kỷ XXI. Giới hạn của luận văn: Với một tỉnh có nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh với hàng trăm các hoạt động kinh doanh dịch vụ phục vụ cho các nhu cầu sản xuất, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả không thể nghiên cứu toàn bộ các ngành kinh tế dịch vụ mà chỉ đi sâu nghiên cứu một số ngành dịch vụ chủ yếu trên địa bàn của tỉnh như: Dịch vụ dầu khí, dịch vụ thủy sản, dịch vụ du lịch, dịch vụ vận tải, dịch vụ nông nghiệp để làm rõ vai trò, thực trạng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Về thời gian, luận văn chỉ nghiên cứu kinh tế dịch vụ của địa phương trong khoảng 10 năm từ 1991 - 2000. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Tác giả dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa vào chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tham khảo có chọn lọc các công trình nghiên cứu, các bài viết của nhiều tác giả có liên quan đến đề tài. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu của môn kinh tế chính trị, phương pháp khảo sát thực tế, phân tích, so sánh, tổng hợp các kết quả nghiên cứu, từ đó đánh giá và giải quyết những vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của luận văn. 5. ý nghĩa của luân văn Tuy nghiên cứu trong một phạm vi một địa bàn cấp tỉnh, song luận văn là một công trình nghiên cứu thực tế về phát triển kinh tế dịch vụ ở Bà Rịa - Vũng Tàu; luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các ngành, các cơ quan trong việc hoạch định các mục tiêu và phương hướng cũng như các giải pháp phát triển các ngành kinh tế dịch vụ và cho các đối tượng có liên quan khác.
- 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. MụC LụC Trang 1 Mở đầu 5 Chương 1: Vai trò của kinh tế dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân 1.1. Khái niệm dịch vụ và kinh tế dịch vụ 5 1.2. Sự cần thiết khách quan của việc phát triển kinh tế dịch vụ 19 trong nền kinh tế nước ta 31 Chương 2: Những tiềm năng, lợi thế và thực trạng kinh tế dịch vụ ở Tỉnh BàRịa – Vũng Tàu trong thời kỳ đổi mới 2.1. Những tiềm năng và lợi thế chủ yếu của Bà Rịa – Vũng Tàu 31 trong phát triển kinh tế dịch vụ 2.2. Thực trạng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà 38 Rịa - Vũng Tàu 2.3. Những thuận lợi và khó khăn chủ yếu trong phát triển kinh tế 57 dịch vụ trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
- 64 Chương 3: Mục tiêu, phương hướng và các giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế dịch vụ trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - VũngTàu 3.1. Những định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế dịch vụ của 64 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ nay đến năm 2010 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế dịch vụ trên 70 địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu 87 Kết luận 92 danh mục tài liệu tham khảo
- Chương 1 VAI TRò CủA KINH Tế DịCH Vụ TRONG NềN KINH Tế QUốC DÂN Vấn đề lựa chọn một mô hình, một cơ cấu kinh tế cho hợp lý là một nội dung hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết định quyết định đến sự tồn tại và phát triển của bất kỳ quốc gia nào. Thực tế những quốc gia chậm phát triển thường lựa chọn cho mình mô hình kinh tế theo cơ cấu: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ; nhiều quốc gia đã và đang phát triển lại thường chọn cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp. Đặc biệt mấy chục năm lại đây nhiều nước lại chọn cho mình mô hình kinh tế theo cơ cấu: Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp như Singapo, Hồng Kông, Đài Loan v.v... Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp còn tương đối lạc hậu, đã và đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước chúng ta cần phải lựa chọn cho mình một mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh đất nước, để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới. Mục tiêu phát triển kinh tế mà Đảng ta đề ra trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng ghi rõ: "Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Tỷ trọng GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp: 40 - 41%, dịch vụ: 42- 43%" [11]. Rõ ràng kinh tế dịch vụ từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo sẽ chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế của đất nước và kinh tế dịch vụ sẽ giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. 1.1. KHáI NIệM DịCH Vụ Và KINH Tế DịCH Vụ 1.1.1. Khái niệm a) Dịch vụ Thuật ngữ "Dịch vụ" (Service) lúc đầu người ta dùng để chỉ các hoạt động cung ứng về mặt hậu cần cho quân đội, sau đó dần dần được sử dụng nhiều hơn trong kinh tế và trở thành tên gọi lĩnh vực kinh tế gồm một số ngành. Do những quan niệm khác nhau nên
- việc nhận dạng các hoạt động dịch vụ trong thực tiễn cũng khác nhau; cho đến những năm gần đây dịch vụ được hiểu theo một nghĩa rộng hơn, được coi là một lĩnh vực sản xuất mới, có tính tổng hợp cao. Đặc điểm chủ yếu của dịch vụ là gắn liền sản xuất với các ngành sản xuất và tiêu dùng. Dịch vụ dựa vào sản xuất, nhưng chính nó lại phục vụ đắc lực cho sản xuất phát triển. Một nước có trình độ phát triển càng cao thì ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng càng lớn. C.Mác cho rằng, dịch vụ là con đẻ của sản xuất hàng hóa khi kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi phải có sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, lúc đó ngành dịch vụ sẽ phát triển. Như vậy, bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, C.Mác đã làm rõ nguồn gốc ra đời và động lực phát triển kinh tế dịch vụ. Ông viết: "Trong những trường hợp, mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy một lao động không sản xuất ra tư bản, tức là trao đổi lấy lao động không sản xuất, thì lao động đó được mua với tư cách là một sự phục vụ... Lao động đó cung cấp những sự phục vụ không phải với tư cách một đồ vật mà với tư cách là một sự hoạt động" [19, tr. 576-577]. Trong học thuyết giá trị thặng dư của mình, C. Mác đã nói đến dịch vụ và so sánh dịch vụ ở Anh và ở Nga như sau: "ở nước Anh có rất nhiều người trong các ngành kinh tế phi nông nghiệp, trong ngành chế tạo cơ khí, thương nghiệp, vận tải v.v... chuyên việc chế tạo và cung cấp các yếu tố của ngành sản xuất nông nghiệp, điều mà nước Nga không có" [17, tr. 674]. Theo Mác thì cùng với sự phát triển chung của lực lượng sản xuất, tất yếu phải có một bộ phận lao động dịch vụ cho sản xuất được tách ra và thu hút ngày càng nhiều lao động xã hội, Mác viết: "Một bộ phận lớn của dân số phi nông nghiệp đang làm những lao động phục vụ cho nông nghiệp, cung cấp cho nông nghiệp tư bản bất biến (c) (mà cùng với sự tiến bộ của nông nghiệp, tư bản bất biến này lại tăng lên): tỷ dụ như: phân bón, khoáng chất, hạt giống nhập từ nước ngoài vào, máy móc các loại" [17, tr. 675]. Ngoài lĩnh vực phục vụ cho sản xuất ra còn lại là lĩnh vực phục vụ cho đời sống, phục vụ lưu thông thuần túy, phục vụ cho tiêu dùng của cải... thì lao động dịch vụ đó không phải là lao động sản xuất vật chất, Mác chỉ rõ: "Vấn đề ở đây hoàn toàn không phải là những sự phục vụ. Sự phục vụ chẳng qua chỉ là hiệu quả có ích của một giá trị sử dụng nào đó, dù đó là hàng hóa hay lao động" [18, tr. 360-361]. Hay nói gọn lại, dịch vụ là một lĩnh vực kinh
- tế - kỹ thuật tổng hợp, là cầu nối giữa sản xuất và sản xuất, sản xuất và tiêu dùng v.v... Dịch vụ là một ngành đa dạng, tổng hợp nó gắn liền với nhu cầu đời sống hàng ngày của mọi tầng lớp nhân dân. Nhân dân có thu nhập cao, đời sống văn minh hơn thì đòi hỏi các dịch vụ cao hơn. Vì thế, dịch vụ không chỉ là một ngành kinh tế - kỹ thuật mà còn mang tính mỹ thuật, nghệ thuật nhằm hướng dẫn thẩm mỹ hiện đại, phong cách và lối sống mới, giúp con người đạt tới đỉnh cao của đời sống vật chất và tinh thần. Theo quan điểm của nhà kinh tế học Trung Quốc Lý Đại Văn thì dịch vụ là lấy hình thức lao động sống để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của cuộc sống và sản xuất, thông qua các phương thức nào đó để nâng cao tất cả các hoạt động kinh tế của lao động sản xuất vàứ mức sống của con người, đồng thời cũng là sản phẩm của sức sản xuất và trình độ khoa học - kỹ thuật của loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định [12]. Theo ông thì nội dung của dịch vụ bao gồm ba mặt: Thứ nhất, đối tượng của dịch vụ là các mặt của sản xuất và sinh hoạt; thứ hai, phương thức dịch vụ rất đa dạng căn cứ vào những đối tượng khác nhau, có phương thức dịch vụ mang tính sản xuất như: dịch vụ tiền tệ, vận chuyển, bảo hiểm, sửa chữa, xử lý số liệu dịch vụ ... và dịch vụ mang tính sinh hoạt như: du lịch, khách sạn, nhà hàng, mỹ viện, cắt tóc...; thứ ba, hiệu quả của dịch vụ vừa là để nâng cao tỷ lệ lao động sản xuất vừa để nâng cao mức sống con người. Ông cũng cho rằng, ngành dịch vụ là chỉ tất cả các hoạt động kinh tế khác, độc lập với nông nghiệp, khai thác khoáng sản, và ngành chế tạo. Phạm vi của nó rất rộng, chủ yếu bao gồm các ngành như: ngành giao thông vận tải, ngành thông tin bưu điện, ngành dịch vụ ăn uống, ngành cung cấp, tiêu thụ vật tư và kho tàng, ngành tiền tệ và bảo hiểm, ngành dịch vụ kỹ thuật tổng hợp, ngành dịch vụ thủy lợi, ngành đánh bắt cá và thủy lợi nông nghiệp, ngành bảo dưỡng đường bộ, đường thủy và đường không, ngành tổng điều tra địa chất, ngành phục vụ dân cư, ngành xây dựng các công trình công cộng và nhà ở, ngành vệ sinh môi trường, ngành thể thao và ngành phúc lợi xã hội, các cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước, các đoàn thể xã hội. Theo quan điểm của các chuyên gia kinh tế của nước ta thì dịch vụ nói một cách tổng quát là mọi hoạt động kinh tế trừ nông nghiệp, khai mỏ, công nghiệp, xây dựng và điện - khí - nước theo cách phân loại của bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế các hoạt động
- kinh tế - ISIC (International Standard Industrial Calassification of all Economis). Dịch vụ được chia làm bốn nhóm lớn: Dịch vụ thương mại và tài chính, dịch vụ giao thông vận tải và liên lạc, dịch vụ quản lý công cộng và an ninh quốc phòng và nhóm các dịch vụ khác như: giáo dục, y tế và bảo vệ sức khỏe, các tổ chức tôn giáo và từ thiện, dịch vụ pháp lý, dịch vụ nội trợ sinh hoạt, điện ảnh, khách sạn, nhà hàng tiệm ăn... Cũng có những quan điểm cho rằng, dịch vụ là những hoạt động của những ngành phục vụ, tuy nhiên trong những năm gần đây phần lớn các nhà kinh tế đều nhất trí rằng, dịch vụ là cung ứng lao động khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu về sản xuất, kinh doanh, đời sống vật chất- tinh thần, các hoạt động ngân hàng, tín dụng, cầm đồ, bảo hiểm ... Trong Từ điển tiếng Việt thì định nghĩa: "Dịch vụ là những công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công" [38]. Trong kinh tế học hiện đại thì dịch vụ lại được quan niệm rộng rãi hơn, dịch vụ bao gồm các ngành, các lĩnh vực có tạo ra tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP) từ các ngành sản xuất các sản phẩm vật chất như công nghiệp, nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp). Như vậy những ngành như vận tải bao gồm hàng không, xe lửa, ô tô, thông tin, bưu điện, lưu thông hàng hóa tư liệu sản xuất hoặc vật phẩm tiêu dùng, các lĩnh vực hoạt động như ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm v.v... đều thuộc lĩnh vực dịch vụ. Các chuyên gia kinh tế còn đánh giá sự khác nhau giữa hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ với hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất ở những điểm: - Một là, các ngành sản xuất ra các sản phẩm vật chất thì các sản phẩm này có tính chất là cơ học, lý học, hóa học có các tiêu chuẩn như công xuất, mức tiêu thụ nhiên liệu, điện năng v.v... có thể xác định được, có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Còn hoạt động của dịch vụ mà kết quả có thể quan niệm là "sản phẩm" do nó tạo ra để phục vụ thì khó có thể xác định cụ thể bằng tiêu chuẩn ký thuật, bằng các chất lượng được lượng hóa một cách rõ ràng. người được phục vụ chỉ có thể đánh giá bằng các giác quan như: nếm, ngửi, sờ mó, thích thú v.v... hoặc tốt hay xấu trên cơ sở cảm nhận thông qua thực tế hoặc danh tiếng đã được phục vụ. - Hai là, hoạt động sản xuất chế tạo ra các sản phẩm vật chất. Các sản phẩm vật chất này có thể được cất giữ trong kho, có thể đem bán bằng cách vận chuyển đi các nơi để
- thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng thông qua điều tiết cung - cầu trên thị trường. Hoạt động dịch vụ tạo ra "sản phẩm" tiêu dùng và đồng thời "sản phẩm "dịch vụ không thể cất giữ trong kho, để có thể dự trữ, để thay đổi theo sự thất thường của nhu cầu thị trường như sản phẩm vật chất. Hoạt động dịch vụ thường xuất hiện ở các địa điểm và thời điểm có nhu cầu cần được đáp ứng. - Ba là, hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm vật chất có chất lượng cao tạo ra uy tín cho hãng sản xuất và kinh doanh, khách hàng có thể dựa vào nhãn hiệu, ký hiệu sản phẩm để lựa chọn sản phẩm mà không cần đến chủ của hãng sản xuất. Còn sản phẩm của hoạt động dịch vụ phụ thuộc rất cao vào chất lượng tiếp xúc, sự tương tác qua lại giữa người làm dịch vụ và người được phục vụ.ở đây không loại trừ phương tiện của hoạt động dịch vụ, những điều kiện sản phẩm kèm theo các dịch vụ bổ sung khác, những cái đọng lại làm cho người được phục vụ vẫn là quan hệ giao tiếp. Sự đáp ứng kịp thời những nhu cầu, yêu cầu và lòng mong muốn của khách hàng đối với những dịch vụ và những người làm dịch vụ trực tiếp phục vụ cho khách hàng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế ở các n ước xã hội chủ nghĩa trước đây thì dịch vụ được hiểu một cách xơ cứng, máy móc và có những lệch lạc thậm chí còn sai lầm về bản chất của dịch vụ, quan điểm này coi nhẹ dịch vụ, cho đây là ngành sản xuất phi vật chất, không sáng tạo ra thu nhập quốc dân, lĩnh vực kinh tế này được hiểu một cách bó hẹp lại là dịch vụ cá nhân và dịch vụ xã hội mà quên đi dịch vụ phân phối và đặc biệt là dịch vụ đời sống xã hội. Dịch vụ được đồng nhất với sự phục vụ cho cá nhân, là những công việc phụ trợ ít quan trọng và cho rằng khi nào nền kinh tế đủ mạnh rồi hãy phát triển kinh tế dịch vụ, cứ sản xuất nhiều của cải vật chất tự khắc vấn đề dịch vụ khắc được giải quyết v.v... Như vậy, những quan điểm đó đã không đánh giá đầy đủ dịch vụ với tư cách là một phạm trù kinh tế và không thừa nhận quá trình tái sán xuất xã hội như một thể thống nhất biện chứng giữa giá trị sử dụng cuối cùng mang tính vật chất và phi vật chất. Theo PGS.TS Trần Văn Chử thì: "Dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể nhằm thỏa mãn
- kịp thời, thuận lợi và hiệu quả hơn các nhu cầu trong sản xuất và đời sống con người" [4, tr. 254]. Nhìn chung, cho đến nay khái niệm dịch vụ vẫn chưa được xác định một cách chính xác với đầy đủ cơ sở khoa học, bởi lẽ việc thâu tóm các hoạt động phong phú, đa dạng và rất khác nhau về bản chất của dịch vụ trong sản xuất và đời sống; đây là việc làm hết sức khó khăn, phức tạp. Cuộc tranh luận để đi đến thống nhất về khái niệm dịch vụ của các nhà lý luận, các chuyên gia kinh tế vẫn còn tiếp diễn. Song cho dù cuộc tranh cãi diễn ra thế nào đi chăng nữa thì cũng phải khẳng định một điều rằng dịch vụ không đơn thuần là một ngành phục vụ phụ trợ ít quan trọng v.v... mà đã thực sự trở thành một lĩnh vực kinh tế mũi nhọn có nhiều lợi thế quyết định đến sự phát triển của nhiều nền kinh tế trên thế giới. b) Kinh tế dịch vụ Theo quan điểm của chuyên gia kinh tế Trung Quốc thì kinh tế dịch vụ được coi là phạm trù kinh tế độc lập so với kinh tế nông nghiệp và kinh tế công n ghiệp, nó thường được gọi là khu vực kinh tế thứ III hay sản nghiệp thứ III. Kinh tế dịch vụ có thể phân thành hai loại là hữu hình và vô hình: Hữu hình là chỉ thông qua lao động có tính phi sản xuất nhất định để phục vụ sản xuất và sinh hoạt, tạo nên một giá trị phụ thêm cho sản phẩm, từ đó nâng cao năng xuất lao động sản xuất, cải thiện và nâng cao mức sống con người. Còn vô hình là chỉ hình thức đặc thù nào đó, cung cấp những phương tiện và phương pháp cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng, còn bản thân nó không trực tiếp tạo ra giá trị. Cùng với sự tiến bộ không ngừng của sức sản xuất xã hội và sự không ngừng đi sâu vào mối quan hệ giao lưu quốc tế tỷ trọng kinh tế dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng không ngừng tăng lên, xu thế quốc tế hóa ngày càng được đẩy mạnh. Các nhà lý luận kinh tế của nước ta thì cho rằng: kinh tế dịch vụ bao gồm những hoạt động phục vụ với tư cách là một bộ phận lao động xã hội, những công việc cận thiết cho các giai đoạn của quá trình tái sản xuất (sản xuât, trao đổi, phân phối, tiêu dùng). Dịch vụ là kết quả lao động có ích cho xã hội được thể hiện bằng những giá trị sử dụng nhất định nhắm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Trong đó nhiều dịch vụ có tác dụng trực
- tiếp đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, chất lượng đời sống vật chất và văn hóa của xã hội loài người. Kinh tế dịch vụ là phương tiện hữu hiệu để thực hiện phương châm "vì con người" tạo ra những kỹ năng cho con người phát triển ngày một toàn diện. Mặc dù các nhà kinh tế còn nhiều tranh luận trước khi đi đến thống nhất về khái niệm dịch vụ và kinh tế dịch vụ. Song trên thực tế kinh tế dịch vụ đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia, kinh tế dịch vụ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới. Do đó điều cần thiết là phải xác định được vai trò của kinh tế dịch vụ trong nền kinh tế - xã hội của đất nước để có những chiến lược, phương hướng, biện pháp nhằm phát triển lĩnh vực kinh tế mới mẻ này. Dĩ nhiên sự phát triển kinh tế dịch vụ của từng quốc gia phải dựa trên những ngành kinh tế cơ sở của nước đó và không thể một lúc có thể phát triển kinh tế dịch vụ theo ý muốn của mình được. Đồng thời phải dựa vào các điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, và các lợi thế so sánh khác của quốc gia đó để phát triển kinh tế dịch vụ sao cho hợp lý. Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thế giới, nhiều nước tùy thuộc vào đặc thù tiềm năng của mình đã cố gắng tìm cho mình nhóm kinh tế dịch vụ mũi nhọn khác nhau: những nước có nguồn tài nguyên khan hiếm, nhưng đã biết tận dụng lợi thế vị trí địa lý của mình để phát triển kinh tế dịch vụ thương mại và nhanh chóng trở thành các nước NICs như: Hồng Kông, Singapo; Hồng Kông đã trở thành một trung tâm thương mại, trung tâm "chuyển tải", trung tâm dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ sửa chữa tàu biển đã đem lại cho nước này một nguồn lợi lớn, hàng năm các nước này thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ hoạt động buôn bán của các nước trên thế giới vì một lý do nào đó không buôn bán trực tiếp được với nhau, có thể nói Hồng Kông là một siêu thị lớn nhất thế giới. Cũng như Hồng Kông, Singapo biết phát huy lợi thế của mình nằm ở đầu mối giao thông giữa phương Tây và Viễn đông nên đã trở thành một trung tâm thương mại và dịch vụ ở châu á, trong mấy chục năm qua quốc gia nhỏ bé này trở thành thương cảng lớn thứ hai trên thế giới sau cảng Rotterdam của Hà Lan; cùng với sự phát triển của ngành dịch vụ Singapo trở
- thành một nước có nền kinh tế phát triển nhất trong khu vực. Đối với Thái Lan trong kế hoạch phát triển kinh tế của những năm 1980 - 1990 đã đặt vấn đề ưu tiên phát triển kinh tế dịch vụ lên hàng đầu, nhằm chuyển một nước có nền kinh tế nông nghiệp sang một nước kinh tế dịch vụ, đặc biệt Thái Lan đầu tư phát triển dịch vụ du lịch, do đó dịch vụ du lịch đã thu được nguồn lợi lớn nhất so với tất cả các loại dịch vụ khác, kinh tế dịch vụ đã đem lại thu nhập cao hơn cả ngành sản xuất gạo, được coi là ngành thu được nhiều ngoại tệ nhất trước đó. Ngoài ra, một số nước cũng đi vào phát triển kinh tế dịch vụ du lịch như Ôxtrâylia, Italia... Theo các chuyên gia nghiên cứu kinh tế, trong thập niên 90 của thế kỷ XX, lao động trong lĩnh vực kinh tế dịch vụ ở các nước công nghiệp phát triển chiếm khoảng 75% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế và đóng góp khoảng 60 - 70% GDP cho các quốc gia này. Ví dụ như mức độ đóng góp trong cơ cấu sản phẩm của kinh tế dịch vụ ở Singapo là 64,6%, Hồng Kông là 85,7%; Nhật Bản là 60,4%; Pháp là 60 % [4]. Rõ ràng kinh tế dịch vụ đã thực sự trở thành một nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế của mỗi nước. Có thể mô tả như sau: CN DV > 30% < 30% NN DV > 50% > 60% NN CN
- Như trên đã nói mỗi quốc gia dựa vào những tiềm năng, lợi thế của mình để phát triển kinh tế dịch vụ sao cho hợp lý thì phát triển một ngành nào thì cũng phải tính đến những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến ngành đó. 1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế dịch vụ Có thể nói, để phát triển bất kỳ một ngành kinh tế, một lĩnh vực kinh tế nào đều phải có những yếu tố trực tiếp, hoặc gián tiếp hay nói cách khác phải có những điều kiện cần và đủ thì mới có thể thực hiện được. Theo các nhà kinh tế thì để phát triển kinh tế dịch vụ cần phải kết hợp hài hòa nhiều yếu tố mà trong đó các yếu tố không thể thiếu đó là nguồn lao động, tiếp đó là các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật - vốn, điều kiện về tài nguyên, thiên nhiên, môi trường. Các yếu tố này sẽ tạo ra một hệ thống sản xuất dịch vụ (hệ thống Servuction) có thể mô tả theo biểu đồ 1.2. Tài nguyên thiên nhiên môi trường Điều kiện Con người Dịch cơ sở (khách hàng vụ vật chất và người phục vụ) Kết quả KDDV Biểu đồ 1.2: Các nhân tố ảnh hưởng đến kinh doanh dịch vụ
- - Yếu tố con người: Trong hệ thống sản xuất dịch vụ con người có ảnh hưởng lớn đến chất lượng kinh doanh dịch vụ trong đó sự có mặt của khách hàng là tuyệt đối cần thiết, không có khách hàng thì dịch vụ không thể tồn tại, khách hàng là người tạo ra nhu cầu về dịch vụ, là yếu tố khởi đầu cho quá trình làm dịch vụ của những tổ chức, những xí nghiệp kinh doanh dịch vụ. Không có vật chất cũng sẽ không có cung ứng dịch vụ, sự cung ứng chỉ xảy ra khi có vật chất xuất hiện. Điều này khác hẳn về căn bản so với quá trình sản xuất ra sản phẩm vật chất ở chỗ không có hoặc chưa có nhu cầu người ta vẫn có thể sản xuất ra trước khi có nhu cầu, còn sản phẩm vật chất sản xuất ra nếu không tiêu dùng ở chỗ này thì người ta có thể vận chuyển đi tiêu dùng ở chỗ khác hoặc cất trữ hoặc để giành cho thời gian sau sẽ dùng. Còn hoạt động dịch vụ thì không có nhu cầu thì không có hoạt động dịch vụ và sẽ không thực hiện được giá trị dịch vụ. Vì vậy nếu trong lĩnh vực sản xuất vật chất việc tìm kiếm nhu cầu, thị trường là rất cần thiết để xây dựng chiến lược kinh doanh thì trong kinh doanh dịch vụ việc thực hiện Marketing dịch vụ càng có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều để quá trình dịch vụ được diễn ra và giá trị dịch vụ được thực hiện. Nếu sự có mặt của khách hàng là tuyệt đối cần thiết thì người phục vụ trong kinh doanh dịch vụ cũng vô cùng quan trọng, họ là nhân viên trực tiếp hay gián tiếp tham gia phục vụ các hoạt động trong các xí nghiệp, các tổ chức kinh tế; họ có thể là một người hay nhiều người, công việc của họ thường đòi hỏi phải tiếp xúc với khách hàng. Trong hệ thống làm dịch vụ nhân viên thường tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, và quan hệ với khách hàng, tìm kiếm các nhu cầu của khách hàng hoặc Marketing hỗn hợp giới thiệu, quảng cáo dịch vụ với khách hàng, để rồi sau đó bằng hệ thống cơ sở vật chất, các điều kiện cần thiết của xí nghiệp, đơn vị, sẽ có thể làm thỏa mãn nhu cầu khách hàng với một chất lượng dịch vụ tốt nhất, hoặc lôi kéo khách hàng tham gia vào hoạt động dịch vụ với một sự thỏa mãn nhu cầu nhất định mà có thể đem lại nhiều lợi thế, kinh tế cho đơn vị, xí nghiệp. Như vậy nhân viên tiếp xúc là một yếu tố chiếm vị trí quan trọng mà theo quan điểm kinh tế thì Marketing là tượng trưng cho đơn vị, xí nghiệp đặt ra trước mắt khách hàng. Nhân viên tiếp xúc là yếu tố đầu tiên cũng là yếu tố cuối cùng quyết định chất lượng kinh doanh dịch vụ, là yếu tố quyết định phong cách độc đáo của đơn vị kinh doanh dịch vụ. Do đó việc bố trí, sắp xếp số lượng nhân viên hợp lý, đây là một đòi hỏi hết sức
- nghiêm túc cho sự tồn tại và phát triển của một đơn vị, xí nghiệp. Nó còn có ỹ nghĩa quan trọng trong việc tham gia cạnh tranh khi kinh doanh dịch vụ. - Yếu tố về các điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật - vốn: Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế dịch vụ. Các điều kiện vật chất phục vụ cho kinh doanh dịch vụ bao gồm các điều kiện như: ăn, ở, giao thông vận tải, vận chuyển, các phương tiện phục vụ cho thông tin, liên lạc, các phương tiện quản lý... ở nhiều nước trong khu vực có một hệ thống các điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho kinh doanh dịch vụ rất tốt như: Hà Quốc, Đài Loan, Thái Lan v.v... Với hệ thống nhà hàng, khách sạn sang trọng đạt các tiêu chuẩn cao phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng địa điểm phục vụ, các hệ thống sân bay, cầu cảng, thông tin liên lạc v.v... với hệ thống phương tiện phục vụ cực kỳ hiện đại, thuận tiện, phục vụ nhanh chóng và phục vụ tối đa cho các nhu cầu trong nhiều lĩnh vực với những chi phí cho hoạt động kinh doanh dịch vụ mà người được phục vụ có cảm giác thoải mái. Chính vì vậy mà hiệu quả kinh tế do kinh doanh dịch vụ mang lại trong GDP của các quốc gia kể trên là rất lớn. Ví dụ: Đài Loan: 54,8%, Thái Lan: 54,0%, Hàn Quốc: 65% v.v... [24]. Theo các chuyên gia kinh tế thì điều kiện cơ sở vật chất trong hệ thống dịch vụ vừa là cung cấp thông tin về dịch vụ cho khách hàng (giống nh ư một tủ kính bày dịch vụ chào hàng) vừa là công cụ làm việc tốt (như một nhà máy chế tạo dịch vụ). Do vậy, cơ sở vật chất phải được trang bị tốt, được kết hợp hài hòa giữa tính dân tộc với tính hiện đại, các công cụ, thiết bị phục vụ phải được bố trí hợp lý, không khí thoáng mát, giao thông thuận tiện, môi trường nhân văn sinh động, hài hòa, phải luôn tạo ra cho khách hàng những cảm giác vừa khác lạ vừa quen thuộc, vừa cổ kính nhưng phải tân thời v.v… nhằm đáp ứng cho khách hàng một dịch vụ chất lượng cao, độc đáo, hấp dẫn, làm thỏa mãn, hài lòng khách hàng về mọi phương diện. Nói chung cơ sở vật chất thế nào thì số lượng dịch vụ, giá cả dịch vụ bán được sẽ như thế đó. Vì vậy nếu cơ sở vật chất được đầu tư thỏa đáng, phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng thì số lượng dịch vụ sẽ bán được nhiều hơn và có thể nâng giá cả của mỗi dịch vụ lên đến mức cao nhất. Khách hàng thỏa mãn, hài lòng trước một dịch vụ do nhân viên cung ứng dịch vụ chu đáo, do cơ sở vật chất đã được
- đầu tư thỏa đáng thì giá cả dịch vụ không còn là thách thức lớn với các nhà kinh doanh dịch vụ đặc biệt đối với đối tượng là khách hàng có thu nhập cao. - Yếu tố tài nguyên, thiên nhiên, môi trường: Thực tế cho thấy, tài nguyên - thiên nhiên phong phú đa dạng, môi trường sinh thái có sức hấp dẫn cho khách hàng không chỉ nghỉ ngơi du lịch mà còn tận hưởng các yếu tố cảnh quan thiên nhiên - môi trường. Nguồn tài nguyên phong phú sẽ cho phép phát triển xây dựng các ngành kinh tế công nghiệp như: khai thác khoáng sản sẽ thu hút một lượng các nhà nghiên cứu, kỹ sư, công nhân cùng tham gia hoạt động do đó sẽ phát triển kinh tế dịch vụ hết sức thiết thực. Những quốc gia có nguồn tài nguyên như năng lượng, các loại kim loại quý thì ngành công nghiệp khai thác phát triển tốt sẽ kéo theo ngành kinh tế dịch vụ phát triển tương xứng đem lại nguồn lợi nhuận khá cao, ngoài ra có nguồn tài nguyên như vị trí địa lý, tài nguyên rừng, tài nguyên biển... sẽ phát triển các ngành dịch vụ như dịch vụ du lịch, giao thông vận tải dịch vụ phục vụ, nghiên cứu sinh vật v.v... Tóm lại, trong hoạt động kinh doanh dịch vụ những quốc gia có nguồn tài nguyên - thiên nhiên phong phú, đa dạng, môi trường trong lành cùng với những điều kiện về môi trường xã hội đặc biệt là an ninh trật tự tốt cũng sẽ làm cho kinh tế dịch vụ phát triển một cách nhanh chóng. Văn hóa được coi là một trong những yếu tố quan trọng trong kinh doanh dịch vụ. Nói đến văn hóa có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo nghĩa rộng thì văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người lao động sáng tạo ra trong lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa: "Vì một lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát sinh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là vân hoá" [20, tr. 431]. Theo UNESCO thì văn hóa là một phức thể - tổng thể các đặc trưng – diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, linh cảm... khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng, gia đình, xóm làng, quốc gia; xã hội - văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả lối sống, những quyền con người; những hệ giá trị những truyền thống tín ngưỡng v.v... Về hình thức thì văn hóa có hai phạm trù là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, nó phải được gìn giữ và phát triển; con người phải được giao lưu, hưởng thụ, và được kế thừa. Do đó để
- nâng cao yếu tố văn hóa trong kinh doanh dịch vụ, thì các tổ chức kinh doanh dịch vụ trước hết phải lựa chọn phương hướng kinh doanh có văn hóa, cái gì có lợi cho kinh doanh và văn hóa thì làm, nếu ảnh hưởng xấu đến các giá trị đạo đức văn hóa như thuần phong mỹ tục thì có lợi như thế nào cũng không làm, phát triển và bảo vệ những hàng hóa có bản sắc văn hóa dân tộc, hướng dẫn tiêu dùng, xây dựng tập quán tiêu dùng có văn hóa, giao lưu kinh tế đi đôi với giao lưu văn hóa, giáo dục văn hóa cho những người kinh doanh. Văn hóa nói chung, văn hóa truyền thống nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong kinh doanh. Văn hóa dân tộc là nguồn lực bên trong của kinh doanh nhất là kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh các yếu tố kể trên được coi là các yếu tố bên trong, thì để làm tăng hiệu quả kinh doanh dịch vụ chúng ta cần phải kể đến các yếu tố bên ngoài đó là: Môi trường pháp luật, môi trường đầu tư, hệ thống thông tin trong nước và quốc tế ... Cơ chế quản lý của nhà nước, những định hướng chiến lược phát triển kinh tế dài hạn của đất nước, các yếu tố này có tác động mạnh đến việc nâng cao hiệu quả, lợi nhuận của các doanh nghiệp. Tóm lại, để phát triển kinh doanh dịch vụ đưa kinh tế dịch vụ trở thành một lĩnh vực kinh tế chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nền kinh tế thì các chính phủ, các nhà kinh tế phải xác định rõ những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển lĩnh vực kinh tế này đó là: Các yếu tố về tài nguyên - thiên nhiên - môi trường; điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và các yếu tố xã hội (con người, văn hóa, v.v...). Từ đó có những chính sách, biện pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả các yếu tố này. 1.2 Sự CầN THIếT KHáCH QUAN CủA VIệC PHáT TRIểN KINH Tế DịCH Vụ TRONG NềN KINH Tế NƯớC TA 1.2.1. Vai trò của kinh tế dịch vụ trong nền kinh tế nước ta Đối với nước ta dịch vụ là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế. Nếu coi nền kinh tế quôực dân là một khối thống nhất thì hai bộ phận hợp thành chủ yếu là các ngành sản xuất vật chất và và các ngành sản xuất dịch vụ. Vì vậy, dịch vụ có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Thứ nhất: Sự phát triển kinh tế dịch vụ nó phản ánh trình độ cao của nền sản xuất xã hội, của sự phân công lao động ngày càng sâu sắc về mức sống của dân cư ngày ngày càng được nâng cao. Với tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, dịch vụ đã và đang ngàng càng chiếm vị trí quan trọng trong cả hai chỉ tiêu chung của nền kinh tế là số lượng lao động trong các doanh nghiệp và tỷ trọng thu nhập quốc nội (GDP) hay tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Phát triển kinh tế dịch vụ tạo ra công ăn việc làm, thực hiện phân phối lại thu nhập, đẩy mạnh kinh tế hàng hóa phát triển, đặc biệt nước ta có hàng triệu lao đông dư thừa trung bình mỗi năm chúng ta có khoảng 3 - 4 triệu lao động không có việc làm, do đó phát triển kinh tế dịch vụ sẽ là nơi thu hút một lượng lao động lớn, giải quyết thất nghiệp, giảm những tệ nạn xã hội, tạo ra nguồn thu nhập, cải thiện đời sống của bộ phận không nhỏ dân cư. Nếu năm 1990 cơ cấu lao động việc làm trong ngành dịch vụ chiếm 13,84% thì đến năm 1999 lên tới 20% trong khi trong công nghiệp - xây dựng chỉ tăng từ 13,92% năm 1990 lên 15,5% năm 1999 [2]. Trong chừng mực nhất định phát triển kinh tế dịch vụ còn có vai trò chống lạm phát, vì nó cân đối tiền - hàng cho đất nước. Dịch vụ giúp cho việc phát triển và ổn định thị trường, làm thay đổi căn bản cơ cấu của nền kinh tế. Dịch vụ là lĩnh vực đầu tư kinh doanh có hiệu quả nhanh. So với đầu tư vào kinh doanh ở lĩnh vực sản xuất ra sản phẩm vật chất thì đầu tư vào kinh doanh ở lĩnh vực dịch vụ nhìn chung dịch vụ không cần lượng vốn nhiều, nhưng lại có doanh thu nhanh và hiệu quả kinh doanh cao. Kinh tế dịch vụ là lĩnh vực rất năng động và có quy mô rộng do đối tượng phục vụ, thời gian phục vụ, không gian phục vụ cũng như tính đa dạng nhiều vẻ, phong phú về nhu cầu khách hàng, của các loại dịch vụ cần đáp ứng Thứ hai: Dịch vụ trực tiếp góp phần phát triển sản xuất nhất là trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp - xây dựng. Là một nước có khoảng 75% là sản xuất nông nghiệp, do đó dịch vụ sẽ tham gia cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp cũng như các yếu tố cho các hoạt động kinh doanh khác. Đồng thời dịch vụ còn tham gia vào quá trình tiêu thụ sản phẩm làm cho các ngành sản xuất, các doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn (giải quyết đầu ra). Như vậy dịch vụ được thực hiện trước, trong và sau khi tiêu thụ sản phẩm. Hay nói cách khác dịch vụ là cầu nối giữa các yếu tố "đầu
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn đề tài: Hoạch định chiến lược cạnh tranh cho Công ty bánh kẹo Hải Hà
36 p | 1148 | 368
-
Luận văn đề tài nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh quản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
82 p | 426 | 197
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của hoạt động tín dụng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên
116 p | 510 | 128
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh: Giải pháp marketing dịch vụ thẻ thanh toán tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Đà Nẵng
26 p | 304 | 86
-
Tiểu luận: Vấn đề thất nghiệp việc làm ở Việt Nam
25 p | 415 | 85
-
Luận văn: Đề tài quản trị quan hệ mạng lưới khách hàng
135 p | 315 | 72
-
Luận văn đề tài: NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC TRANG TRẠI Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN
122 p | 227 | 69
-
Luận văn đề tài:" đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Trì”.
53 p | 226 | 69
-
Luận văn thạc sỹ kinh tế: Hoạt động kinh doanh vận tải Feeder của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam và bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp vận tải Feeder Việt Nam
102 p | 154 | 33
-
Luận văn đề tài: Sự phá vỡ cấu trúc và tỷ giá hối đoái thực hiện hiệu lực của Trung Quốc - Phương pháp tiếp cận Natrex
56 p | 148 | 19
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
26 p | 222 | 16
-
Luận văn đề tài: Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH Dịch vụ tư vấn và đại lý thuế Trương Gia
79 p | 51 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế đối ngoại: Hoạt động kinh doanh thẻ - Kinh nghiệm của một số ngân hàng trong khu vực và thực tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
103 p | 37 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chiến lược của Công ty cổ phần Kinh đô đến năm 2011
70 p | 25 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về giao thông đường bộ tỉnh Bình Định
102 p | 5 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn